Luyện Công VÉ SỐ KIẾN THIẾT TRONG NGÀY

Thảo luận trong 'Cà Phê - Trà Đá' bắt đầu bởi số_hên, 6/12/15.

  1. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member

    .
    image.jpg

    Những Điểm Đặc Sắc Của Phật Giáo

    Nếu chúng ta đem so sánh Phật giáo với các tôn giáo khác hiện tồn tại trên thế giới, có thể phát hiện rất rõ ràng giữa Phật giáo và các tôn giáo khác có nhiều chỗ khác nhau. Tôi mạn phép đem vấn đề này quy nạp thành mười điểm để thuyết minh. Cũng chính là nói Phật giáo tối thiểu có mười điểm đặc sắc như thế.
    1/ Phật là người mà không phải là thần
    Nhìn chung các tôn giáo trên thế giới, ngoài Phật giáo ra, giáo chủ của các tôn giáo đều tự cho mình là “thần” cách siêu nhân. Thần ấy có thể hô phong hoán vũ, điểm đá thành vàng. Ngài là chúa tể ban phước giáng họa cho nhân loại. Ngài điều khiển mọi vinh nhục sống chết của vạn vật. Loài người chỉ có phủ phục trước mặt ngài, ca ngợi và xưng tán, đem tất cả thành tựu vinh quang quy về cho thần vạn năng cả. Ai tin tưởng vào tài năng của thần thì được lên Thiên đường, phản đối lại sẽ bị đọa vào địa ngục đời đời.
    Giáo chủ của Phật giáo - Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, câu nói đầu tiên của Ngài lúc đến nhân gian này là: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Chúng ta nên chú ý chữ ngã trong câu duy ngã độc tôn, không phải chỉ riêng bản thân Thích Ca Mâu Ni, mà là chỉ cho toàn thể nhân loại.
    Giải thích chính xác câu ấy là: Người ta ở trong vũ trụ đầu đội trời chân đạp đất, mỗi người đều là chúa tể của chính mình, quyết định vận mạng của chính mình, mà không phải nghe theo mệnh lệnh của ai hoặc vị thần siêu nhân nào khác.
    Đức Thích Ca Mâu Ni nói là sự giác ngộ, và thành tựu của Ngài, hoàn toàn đều do công phu nỗ lực và tài trí của chính mình.
    Đức Thích Ca Mâu Ni cho rằng, điều cát hung họa phước, thành bại vinh nhục của một cá nhân quyết định ở hành vi thiện ác và nỗ lực của chính bản thân họ. Không ai có thể đề bạt ta lên thiên đường, cũng không người nào có thể đem ta đẩy xuống địa ngục. Ca ngợi và tán thán không thể lìa khổ được vui, chỉ có thực hành tu tâm sửa tính mới có thể khiến cho nhân cách của mình tịnh hóa thăng hoa, khiến cho mình hưởng thọ khoái lạc tâm an lý đắc.
    Đức Thích Ca Mâu Ni cũng không có phép chỉ đá hóa vàng được. Ngài chủ trương “Người ta muốn thu hoạch cái gì thì trước phải trồng thứ đó”. Ngài không thể khiến cho cây Liên vụ sinh ra quả Tần bà được. Nếu bạn muốn được quả Tần bà thì trước hết bạn phải gieo hạt giống Tần bà. Đức Thích Ca Mâu Ni chẳng qua chỉ là bảo cho bạn biết trồng như thế nào, để sau này thu được nhiều kết quả. Song công việc vun trồng vẫn phải do chính nơi bàn tay của bạn.
    Đức Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp 49 năm, nói kinh hơn 300 hội, đều vì chúng ta mà chỉ bày “con đường thành Phật” - tự chính mình sáng tạo trí tuệ và nhân cách viên mãn triệt để nhất. Thế nhưng con đường ấy phải nhờ vào nghị lực, trí tuệ, hằng tâm của chính mình mới có thể đạt được. Cho nên Phật nói:
    “Ta chỉ là người chỉ đường, còn đi đến là do các ngươi”.
    Con đường đi đến quả vị Phật cần phải công phu tu hành từng ly từng tí.
    “Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt,
    Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”.
    (Thiền Sư Hoàng Bá Hy Vân)
    2/ Phật là người rất bình đẳng
    Tôi nói Đức Phật là người rất bình đẳng không phải là vô căn cứ. Trước tiên chúng ta hãy lấy bối cảnh xã hội của Ấn Độ đương thời mà quan sát.
    Ai cũng biết xã hội Ấn Độ thời đại Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chia ra làm bốn đẳng cấp lớn là: Bà la môn, quý tộc, bình dân và nô lệ. Điều đáng quý ở chỗ Đức Thích Ca Mâu Ni là thái tử đã nhìn thấy sự bất hợp lý của đẳng cấp xã hội, kiên quyết giương cao ngọn cờ bình đẳng, chủ trương phế trừ giai cấp đối lập, đề xướng chúng sinh bình đẳng.
    Các bạn đồng học thử nhớ lại xem, những cuộc cách mạng trên lịch sử phần lớn là thuộc giai cấp cùng khổ đấu tranh mong muốn được bình đẳng giai cấp và được “đề cao” địa vị, tuyệt đối không có ai giống như Đức Thích Ca Mâu Ni, tự nguyện đem thân phận thái tử thuộc giai cấp quý tộc “giáng xuống” giai cấp bình dân. Cho nên tôi nói Ngài là chân bình đẳng vậy.
    Đồng thời Phật giáo lại chủ trương “Vô duyên đại từ” và “Đồng thể đại bi”, lại đem ý nghĩa của bình đẳng nâng lên một bước nữa.
    Tôi nghĩ ý nghĩa của “Vô duyên đại từ” và “Đồng thể đại bi” sẽ có những bạn chưa hiểu, tôi xin được phép giải thích sơ như sau:
    1/ Vô duyên đại từ: Phật giáo chủ trương không những đối với người có quan hệ với mình, mình phải thương yêu như cha mẹ, thân thuộc, bằng hữu… mà còn đối với người không có quan hệ bạn bè thân thích với mình, mình cũng phải thương yêu nữa. Như tôi đối với các bạn từ trước tới nay chưa từng qua lại, không hề quen biết mà vẫn quan tâm yêu quý như thân thích vậy.
    2/ Đồng thể đại bi: Đồng thể đại bi là một loại tinh thần người đói mình đói, người yếu mình yếu, xem hết thảy chúng sinh trong vũ trụ, ta và người một thể, vui buồn cùng chia sẻ, cốt nhục thâm tình.
    Nhà Nho thì nói: “Người trong bốn biển đều là anh em”, cũng biểu hiện tinh thần “đồng thể đại bi”. Mà lòng từ bi vô bờ bến của đức Địa Tạng Vương Bồ tát “Ta không vào địa ngục thì ai vào?” chính là chỗ tột cùng của đồng thể đại bi vậy.
    Cuối cùng tôi xin nói thêm cái tinh thần “chân bình đẳng” của Phật giáo biểu hiện cao nhất, chính là Phật giáo đem cái quan niệm bình đẳng, không cục hạn nơi con người linh hơn vạn vật. Phật giáo phản đối quan niệm cho rằng tất cả động vật, trừ loài người ra, đều được sáng tạo để cung cấp cho con người ăn. Tất cả động vật lúc chết kêu la thảm thiết, thật là thương xót không nỡ thấy nghe. Phật vì không từ bi khuyên Phật tử không nên vì miếng ăn mà giết hại loài vật.
    Phật giáo còn tiến thêm một bước nữa khẳng định những động vật bị chúng ta tự khoe mình là loài người linh hơn vạn vật, đem giết chúng một cách bừa bãi đó, chúng cũng đều có đầy đủ Phật tính, có tiềm năng thành Phật trong tương lai. Mặc dù giữa người và động vật khác, trên hình thức và trí tuệ có chỗ bất đồng, nhưng trên quyền lợi sinh tồn và Phật tính thì là bình đẳng. (Giống như kẻ khốn cùng ác độc hoặc ngu si vô tri, họ cũng có đầy đủ “nhân tính”, chúng ta phải đem “nhân đạo” để đối xử với họ, dùng “nhân đạo” để giáo dục, cảm hóa họ).
    Người xưa nói: “Trời có cái đức hiếu sinh” lại nói “vạn vật với ta cùng sinh” đều là tư tưởng bình đẳng, xem vạn vật là một thể. Chẳng qua chỉ chưa thấu triệt bằng thuyết của Phật giáo mà thôi.
    3/ Phật không phải là người sinh ra mà biết
    Đức Thích Ca Mâu Ni là một con người bình thường, Ngài họ Kiều Đáp Ma, tên là Tất Đạt Đa, sinh tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch, nơi vườn Lâm Tỳ Ni, thành Ca Tỳ La Vệ.
    Năm 29 tuổi, Ngài xả bỏ vương vị mà mình sẽ kế thừa, xuất gia học đạo, tìm cầu phương pháp giải thoát nhân sinh khỏi khổ não. Trải qua 6 năm, lúc Ngài 35 tuổi, dưới gốc cây Bồ đề bên bờ sông Ni Liên Thiền chứng được Chính giác, giác ngộ một cách chính xác và thấu triệt đạo lý căn bản của nhân sinh vũ trụ.
    Từ đấy người ta mới gọi Thích Ca Mâu Ni là Phật đà, hoặc gọi tắt là Phật. Ý là giác tỉnh chân lý, hoặc gọi là bậc giác ngộ.
    Tôi giới thiệu sơ qua việc tu hành của Đức Phật, mục đích chủ yếu là nói với người đồng học. Đức Thích Ca Mâu Ni với chúng ta đều là người bình thường cả, Ngài nhờ vào việc tu hành mà ngộ đạo, mọi người chúng ta đều có thể cùng nhau noi theo giáo pháp mà Ngài đã chỉ dạy để tu hành và chứng quả.
    Thích Ca Mâu Ni - Ngài chỉ là một người giác trước, biết trước trong vô số người, mà chúng ta là người giác sau biết sau. Sự bất đồng giữa Phật và chúng ta không phải bất đồng ở chỗ nhân cách, địa vị, mà là bất đồng ở một chữ “Giác”. Cũng như Hàn Dũ nói: “Nghe đạo có kẻ trước người sau” vậy.
    4/ Phật giáo không thừa nhận có người tồi tệ không thể giáo hóa
    Cổ nhân có nói “lãng tử hồi đầu vàng không đổi”. Người làm cha mẹ ở đời, luôn luôn mở rộng cõi lòng, ngóng chờ đứa con lưu lạc (lãng tử) có ngày hồi đầu trở lại, dù con cái của họ gây tạo tội lỗi ngập đầu. Xưa nay chưa có cha mẹ nào lại nhẫn tâm hoặc mong muốn con mình vĩnh viễn chịu khổ trong địa ngục nơi âm u tăm tối, nước sôi lửa dữ.
    Phật giáo thừa nhận tính người là thiện lương, chỉ cần buông dao bỏ xuống, có thể tu hành thành Phật. Phật cho rằng hết thảy tội ác đều là do nơi vô tri (Phật giáo gọi là vô minh) dẫn dắt mà sinh ra. Nhân đấy mà hết lòng khuyên bảo, đêm ngày khai đạo chỉ bảo cho chúng sinh thay đổi tâm tính, chính là trách nhiệm của Phật. Đức Phật quan tâm đối với chúng sinh “như mẹ thương con”, không những không nỡ thấy thân chúng sinh chịu khổ nơi địa ngục, mà còn phát thệ nguyện lớn “địa ngục chưa trống, thề không thành Phật, chúng sinh độ hết, mới chứng Bồ đề” (Bồ đề ý là giác ngộ hoặc chính đạo, chứng Bồ đề ý là đắc đạo hoặc thành Phật).
    Ôi, còn lòng từ nào hơn ! Còn bi nguyện nào hơn ! Đó mới là lòng thương chân thật !
    5/ Phật không phải là độc nhất vô nhị, mọi người đều có thể thành Phật
    Ở phần thứ ba đã nêu Phật và chúng sinh chỉ là trước và sau của thời gian giác ngộ mà thôi.
    “Phật” chỉ là tên gọi chung cho những vị đã giác ngộ. Cũng giống như chúng ta gọi “người truyền đạo, truyền nghề” là “giáo sư” vậy. Giáo sư không chỉ có một vị, ai ai cũng có thể làm giáo sư được, nơi nơi đều có thể có giáo sư. Đạo lý cũng vậy, Phật không phải chỉ có một cá nhân Thích Ca Mâu Ni mà người người đều có thể thành Phật, chỗ chỗ đều có thể có Phật. Không chỉ thế giới này có Phật, mà vô số tinh cầu trong vũ trụ đều có thể có Phật (đương nhiên cũng có chúng sinh).
    Điểm này cũng là chỗ bất đồng căn bản giữa Phật giáo và tôn giáo khác. Tôn giáo khác chỉ thừa nhận thần của họ là “độc nhất vô nhị”, và ra sức công kích, phủ định thần của giáo phái khác là “thần giả”.
    Đồng thời về giáo nghĩa của họ chỉ dạy thì loài người dù có nỗ lực phấn đấu đến đâu đi nữa, vĩnh viễn không thể ngang bằng với thần được (mãi mãi vẫn là mối quan hệ chủ nô). Bởi vì thần là đấng tạo vật, mà người chẳng qua chỉ là một trong những “vật” mà thần sáng tạo ra mà thôi.
    6/ Phật giáo không thừa nhận có thần sáng tạo ra vạn vật
    Quan niệm vũ trụ vạn vật do thần vạn năng sáng tạo ra là không hợp lý. Bởi lẽ thần chính là sản vật của tư tưởng con người. Loài người dựa vào quan niệm và hình tượng của mình mà tạo ra thần, nhằm mục đích để giải thích nguồn gốc của nhân sinh vũ trụ, Phật giáo gọi đó là “nguyên nhân đầu tiên”. Nếu cho rằng thần có thể sáng tạo nhân sinh vũ trụ thì vị thần ấy do ai sáng tạo ra? Những người tin tưởng tuyệt đối sẽ cho rằng thần là vạn năng, tồn tại một cách tự nhiên. Thần đã tồn tại một cách tự nhiên, không bị ai sáng tạo ra, tự mình có thể tồn tại được thì quan niệm thần sáng tạo ra nhân sinh vũ trụ còn có ý nghĩa gì nữa (bởi vì cùng một lý ấy nhân sinh vũ trụ cũng có thể tồn tại một cách tự nhiên được vậy).
    Phật giáo vốn phủ định giả thiết “thần sáng tạo ra vạn vật”, vốn không thừa nhận vũ trụ có “bắt đầu”, cái gọi là “bắt đầu” của một sự kiện chỉ là cái “kết thúc” của một sự kiện trước mà thôi. Trong một chuỗi quan hệ nhân quả, sự tiêu tan của một sự vật chính là điều kiện để cấu thành một sự vật khác sinh khởi.
    Tiến sĩ Trương Trừng Cơ viết trong cuốn “Phật pháp là gì?” đối với vấn đề này cũng đã nêu: “Cái quan niệm “bắt đầu” ấy, là do tâm lý “hữu hạn” của loài người không thể hiểu thấu được mối quan hệ nhân quả sum la vạn tượng”.
    Thí dụ như chúng ta đi xem phim, từ 7 giờ bắt đầu chiếu đến 10 giờ thì kết thúc. Chúng ta thử nhớ lại xem sự bắt đầu của bộ phim tập 3, chính là sự kết thúc của bộ phim tập 2, mà sự kết thúc của tập 3 chẳng phải là bắt đầu của tập 4 hay sao? Cho nên khái niệm “bắt đầu” ấy chỉ có ý nghĩa đối với một sự vật nhất định nào đó mà thôi, còn đối với toàn thể vũ trụ chằng chịt đan quyện nhân quả tương tục với nhau thì không có ý nghĩa gì hết. Thời gian là vận động không ngừng, ai có thể từ trong ấy tìm ra một điểm gọi là “hiện tại” đình chỉ bất động? Về sau lại nói một điểm ấy chính là “bắt đầu” ư?
    Thật ra Phật giáo không hứng thú cho lắm về việc thảo luận vấn đề không có lợi ích đối với nhân sinh như thế (Hình nhi thượng học của triết học). Bởi vì vũ trụ là vô thủy, cũng là vô chung, chúng ta có kiệt lực vắt óc tìm tòi “nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ” chỉ là uổng công phí sức mà thôi. Lúc bạn khổ tâm tìm được nguyên nhân đầu tiên, bạn nhất định sẽ phát giác ra trước nó vẫn có một “nhân” nữa. Như thế tuần hoàn không dừng, xoay vần rồi trở lại ban đầu, bạn vĩnh viễn tìm không ra “nguyên nhân đầu tiên” cố định bất biến.
    Vả lại đời người ngắn ngủi, sinh mạng vô thường, nếu bạn cứ ra công tìm kiếm nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ, e rằng thân bạn sẽ tiêu ma mà đáp án vẫn chưa tìm ra.
    Trong kinh Phật có câu chuyện tỉ dụ rất hay: Có một người bị thương vì mũi tên độc, người thân bèn đem ông ta đến y sĩ để chữa trị. Nếu lúc ấy người đó nói rằng: “Tôi chưa muốn lấy mũi tên ấy ra, tôi muốn biết là ai đã bắn tôi, người ấy là dòng Sát đế lợi? Bà la môn? Hay là Thủ đà la? Tên họ và thị tộc của hắn là gì? Thân hắn cao hay thấp? Da hắn màu đen hay màu vàng? Hắn ta từ làng mạc, thành thị nào đến? Tôi không muốn lấy mũi tên này ra, nếu tôi chưa biết cây cung và dây cung làm bằng gì? Hình dáng mũi tên ấy ra sao, chế tạo bằng gì? v.v…” Người ấy chắc chắn sẽ chết trước khi biết được mọi thứ.
    Cho nên Phật giáo không lãng phí công sức và thời gian tìm hiểu vấn đề “nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ”. Bởi vì tìm cầu cũng chỉ là vô dụng, đồng thời cũng chỉ là vô ích đối với nhân sinh. Những thứ ấy với việc thoát ly thống khổ sinh, lão, bệnh, tử của chúng ta không có liên quan gì. Không thể khiến cho người ta từ chỗ hiểu biết đó mà được an lạc hạnh phúc hay giải thoát.
    Vấn đề đã hơi kéo dài, hiện tại tôi xin bàn lại vấn đề Phật giáo không chấp nhận vũ trụ vạn vật là do thần sáng tạo, mà cho rằng vạn vật đều do “nhân duyên tụ hợp” mà thành.
    Ví như một ngọn núi ở trước mắt ta, nó là sự tích tụ của đất, đá; sông hồ là chỗ trũng chứa nước mà thành; lại xem những cái bàn trong phòng học, là do thợ mộc dùng cây mà đóng nên.
    Nếu đem đất đá phân tán ra thì không thành “núi” nữa; đem nước hồ ao múc cạn hết thì thành đất trũng, bóng dáng của “hồ ao” ở đâu? Lại đem cây ván chia ra từng mảnh một, vậy thì “cái bàn” ở chỗ nào?
    Một vài thứ có thể xem thấy đó chúng ta có thể gọi nó là “sắc”, bởi vì chúng chỉ là “nhân duyên tụ hợp tạm thời” mà thôi, không phải chân thật bất biến. Cho nên chúng ta nói nó là “không”, tức là không có thực thể tồn tại vĩnh hằng bất biến.
    Đó chính là đạo lý đơn giản “sắc tức là không” ở trong kinh Phật đã dạy.
    Tuy nhiên Phật giáo nói “sắc tức là không”, chữ “không” ấy hoàn toàn không phải “không trống rỗng”, không có gì, cũng không phải là “không” đối với có, mà là “chân không diệu hữu”.
    Vậy câu “chân không diệu hữu” ấy là gì? Tôi xin lấy một ví dụ để các bạn rõ.
    Trước mắt chúng ta có một ly nước, sau khi đun sôi nước biến thành hơi cạn hết, không còn thấy bóng dáng của nước nữa. Thế nhưng cũng không thể nói nước tiêu mất thành “không”, đến lúc hơi nước gặp lạnh lại trở thành “nước” như cũ.
    Những vị hiểu về hóa học đều biết, nước là chất hóa hợp của Hydro và Oxy, nói một cách khác “nước” chẳng qua là chất hóa hợp tạm thời của Hydro và Oxy mà thôi. Nước sau khi trải qua điện giải bèn biến thành khí Hydro và khí Oxy. Theo đó mà suy thì vạn sự vạn vật trong vũ trụ không có một thứ gì không phải là nhân duyên tạm thời tụ hội mà thành, không có cái gì là vĩnh hằng bất biến. Nhân duyên hợp thì sinh, nhân duyên tan thì diệt, làm gì ở trong đó có “thần” sáng tạo vạn vật? Làm gì có chuyện “vạn vật” được sáng tạo ra?
    7/ Phật pháp tùy theo căn cơ hoàn cảnh mà giáo hóa
    Phật thuyết pháp cho chúng sinh là nhắm vào căn cơ khác nhau mà giảng giải, tùy theo chỗ khác nhau về thời gian, không gian mà lập giáo.
    Phật vì đối tượng khác nhau mà giáo hóa cho nên mới có những giải thích khác nhau. Ví như đối với người trí tuệ cao, Phật có thể nói thẳng đạo lý để họ minh tâm kiến tánh, giác ngộ tức thời. Đối với người trí tuệ chậm lụt, Phật dạy họ những phương pháp tu hành từng bước để tiến tới quả vị Chính giác.
    Lại đối với người đắm mê danh lợi, Phật bèn nói với họ “danh lợi đều là hư ảo”. Đối với người quan niệm tiêu cực, cho rằng đời sống không có ý nghĩa gì, sinh mạng hoàn toàn là hư vô không ảo, Phật nói với họ “thân người khó được, mạng sống rất quý, người ta có thể nhờ đó mà nỗ lực đạt đến hạnh phúc và an lạc”, để cổ vũ dũng khí và tín tâm của họ.
    Cùng đạo lý ấy, do sự khác nhau của thời gian không gian, Phật bèn nói những thí dụ và thuyết minh khác nhau.
    Ví như: Người Đài Bắc hỏi Phật rằng: “Đài Trung đi hướng nào?”. Lời đáp của Phật là “về hướng Nam”. Nhưng đối với người ở Cao Hùng thì phải nói là “lên hướng Bắc”. Cũng thế, vì địa phương chỗ ở của chúng sinh khác nhau mà Phật nói có khác.
    Phật pháp có ba tạng mười hai bộ với tám vạn bốn ngàn pháp môn (pháp môn là phương pháp tu hành). Những phương pháp tu hành ấy đều vì thích ứng với căn khí của chúng sinh, vì đối trị phiền não của chúng sinh mà chỉ bày.
    Nếu như không có chúng sinh thì cũng không cần có Phật pháp. Phật pháp như “thuốc”, chúng sinh không có “bệnh” phiền não, thuốc cũng không còn cần thiết.
    Phật pháp truyền nơi đời hơn hai ngàn rưởi năm, có thể thích ứng với thời đại khác nhau, đó chính là vì Phật pháp tùy theo căn cơ và hoàn cảnh mà giáo hóa. Phương pháp giáo dục này chính là một trong những điểm đặc sắc của Phật giáo.
    8/ Phật pháp là nhập thế
    Đạo lý mà Phật giáo giảng dạy, tuy mục đích cuối cùng là “xuất thế”, nhưng điều đó với tinh thần “nhập thế” không có gì là mâu thuẫn cả (cái gọi là “xuất thế gian” không phải là thoát ly, trốn tránh thế gian, mà là cải tạo thế gian, xây dựng lại thế giới).
    Lục Tổ Huệ Năng nói: “Phật pháp tại thế gian, không lìa thế gian mà giác ngộ, nếu lìa thế gian mà tìm Bồ đề, cũng như tìm lông rùa sừng thỏ”. Chính là nói tu hành phải ở tại thế gian, giác ngộ cũng ở tại nơi thế gian. Những người có tâm hướng về Đạo, họ không thể chán bỏ thế giới, trốn tránh loài người trên thế giới này mà “độc thiện kỳ thân” tu thành chính quả. Bởi vì một người muốn thành Phật, người ấy ngoài việc có đầy đủ thông minh trí tuệ, vẫn phải có bi tâm thệ nguyện rộng lớn phổ độ chúng sinh. Cần phải có cả “bi” và “trí” song hành, đạt đến chỗ triệt để, viên mãn mới có thể thành Phật. Cho nên Phật giáo lấy tinh thần xuất thế để làm sự nghiệp nhập thế, từ lúc tu hành đến khi thành Phật, đã không có “nhập thế” cũng không có “xuất thế”, mà là thẳng một mạch tiến hành nơi thế gian này.
    9/ Phật giáo không bài xích đạo khác
    Phần lớn các tôn giáo trên thế giới đều chỉ thừa nhận giáo lý mà tôn giáo họ tin mới là chân lý duy nhất và ra sức bài xích giáo lý của tôn giáo khác là tà thuyết. Phật giáo thì cho rằng tất cả tôn giáo chỉ có sự khác nhau về giáo nghĩa sâu hay cạn, rất ít có sự sai biệt về tốt xấu tà chính. Bất kỳ tôn giáo nào đã tồn tại trên đời này 1000 năm trở lên, nhất định có lợi ích không nhiều thì ít, ngược lại thì tôn giáo ấy sẽ bị “trí tuệ” loài người ruồng bỏ, cho đến sẽ bị bão táp thời gian làm tiêu tan mất rồi.
    Vấn đề là ở chỗ một số tôn giáo chỉ có thể đem lại cho người ta niềm an lạc tạm thời và ngắn ngủi, có một số tôn giáo thì đem lại cho người ta niềm hạnh phúc lâu dài và mãi mãi.
    Phật pháp truyền nơi đời đã gần 3.000 năm, Phật giáo vẫn cùng với tôn giáo khác sống hòa bình với nhau. Trên lịch sử truyền giáo thì sự việc Phật giáo xung đột dẫn đến đổ máu với tôn giáo khác, từ xưa tới nay chưa từng có.
    Vấn đề này chúng ta hãy xem qua lịch sử A Dục Vương của Ấn Độ (thế kỷ thứ 3 trước CN), do thấm nhuần tinh thần từ bi quảng đại của Đức Thích Ca Mâu Ni, qua một đoạn văn Di giáo của ông, được ông cho khắc trên bia đá hiện nay vẫn còn nguyên văn như sau: “Không thể chỉ tôn trọng tôn giáo của mình mà chê bai tôn giáo người khác. Phải như lý mà tôn trọng họ. Làm được như thế, không những giúp cho tôn giáo của mình trưởng thành, mà còn làm tròn nghĩa vụ đối với tôn giáo khác. Nếu làm ngược lại, thì không những đem tôn giáo của mình chôn vùi, mà còn làm tổn hại đến tôn giáo khác”.
    “Nhân đó, hài hòa mới là tốt đẹp. Quý vị đều phải nên lưu tâm lắng nghe điều này, và hoan hỷ lắng nghe giáo lý của tôn giáo khác”.
    Từ đoạn văn trên mà xét, tấm lòng khoan dung và thành ý ấy, chính là một di sản rất trân quý trong văn hóa của Phật giáo.
    “Chân lý” đối với Phật giáo là không có giới hạn quốc gia, nó không phải là “nhãn hiệu” của tôn giáo nào cả. Nó cũng không thuộc về một tôn giáo nào, hoặc thuộc về cá nhân nào trong một thời đại nào. Cho nên chân lý mà Đức Phật nói, không phải riêng một cá nhân Ngài có, bởi vì Phật chẳng qua chỉ là một “người phát hiện chân lý” mà thôi. Cũng giống như Newton phát hiện ra “sức hấp dẫn của trái đất” vậy.
    Nhân đó Phật giáo cho rằng hết thảy đạo lý hợp lý, vĩnh hằng bất biến đều là “Phật pháp”.
    Câu “bạn nên yêu thương kẻ thù của bạn” tuy xuất phát từ Thánh kinh, nhưng Phật giáo thừa nhận không một chút nghi ngờ đó là chân lý tốt đẹp đáng trân trọng. (Tương đồng với “vô duyên đại từ” và “đồng thể đại bi” của Phật giáo).
    Phật pháp giống như biển hồ mênh mông, nó có thể dung nạp hết thảy sông ngòi lớn nhỏ trên địa cầu. Cho nên trong kinh có câu “Hết thảy pháp đều là Phật pháp”.
    10/ Phật giáo là dân chủ và tự do
    Trong một số tôn giáo lời nói của giáo chủ là mệnh lệnh không được kháng cự, là chân lý không được phép hoài nghi. Ai không phục tùng hoặc tỏ thái độ hoài nghi thì sẽ bị trời, thần trừng phạt. Trong kinh điển của Phật giáo tuyệt đối không tìm đâu ra sự tức giận của Đức Phật cả, càng không thể có phương pháp xử phạt tàn khốc. Trong 49 năm giáo hóa của Đức Phật, các đệ tử chỉ thấy Ngài lúc nào cũng sắc diện tươi vui, tư cách hòa nhã, từ bi an lành. Ngài đối với người tốt cũng như vậy, đối với người hủy báng cũng như vậy.
    Đức Phật đối với đạo lý mà mình nói ra, dứt khoát không cưỡng bức các đệ tử phải tiếp thụ, Ngài khuyến khích họ nên hoài nghi thưa hỏi. Mãi cho đến 80 tuổi, lúc gần viên tịch nơi giữa hàng cây Sa la, Ngài vẫn giảng dạy và nhắc đi nhắc lại nếu các đệ tử còn thắc mắc nghi ngờ điều gì cứ hỏi.
    Phật nói: “Nghi lớn thì ngộ lớn, nghi nhỏ thì ngộ nhỏ, không nghi thì sẽ không ngộ”.
    Phật giáo cho phép và khuyến khích các tín đồ tự do hoài nghi thưa hỏi những đạo lý mà bản thân giáo chủ nói ra, tiến tới tinh thần nghiên cứu sâu xa hơn nữa. Quả là trên đời này hiếm có một tôn giáo nào lại dân chủ và tự do như thế.
    Các bạn đọc thân mến, chân lý không nên cưỡng bách người khác tiếp thu. Chân lý chỉ có ở tiền đề của dân chủ, tự do, của suy nghĩ chín chắn mới thực sự hiển xuất tinh thần và giá trị của nó.
    Mà trong các tôn giáo trên thế giới chỉ có giáo chủ và kinh điển của Phật giáo cho phép được hoài nghi, thảo luận và nghiên cứu.
    Xin hoan nghinh các bạn học sinh đã có tinh thần nghiên cứu, có nhân cách độc lập, tự chủ, có trí thông minh để nghiên cứu Phật pháp. Cánh cửa rộng lớn của Phật giáo, mãi mãi mở rộng đối với các bạn.
    Thích Chân Tính
    :tea::tea:

     
  2. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member

    .
    image.jpg

    TRẺ NHỎ TÍCH PHƯỚC TỪ ĐÂU?

    Chúng ta cùng nhau xem tại vì sao trẻ nhỏ có thể bồi phước? Bạn không nên nghĩ chúng tuổi nhỏ như vậy thì làm sao có thể bồi được phước. Tục ngữ thường nói: “Phước điền tâm canh”. Ngay khi còn là một đứa bé, từ nhỏ chúng mỗi ý niệm đều vì người khác mà lo nghĩ, đều luôn quan tâm đến người khác. Cái tâm này của chúng đã vì cả đời này của chúng bồi dưỡng ra rất nhiều phước điền. Chúng mà có thái độ như vậy, học được cái gì chúng nhất định sẽ dâng hiến xã hội, vì xã hội tạo phước, tuổi già chắc chắn hưởng phước.

    Trên thực tế, an định của thế giới, xã hội, gia đình không phải là không có biện pháp để đạt được. Then chốt chính ngay ở tâm niệm của mỗi người. Nếu như tự tư thì liền sẽ phát sinh xung đột. Nếu như mỗi lúc chúng ta vì người mà lo nghĩ thì gia đình, xã hội liền sẽ an khang, tròn đầy.

    Chúng ta cũng đã nói đến một đứa bé nếu như từ nhỏ có thể vì người mà lo nghĩ, thì khởi tâm, động niệm của chúng từ nhỏ đã bắt đầu vun bồi phước phần cho chính mình. Cho nên đứa nhỏ liền biết bồi phước, tích phước. Vì giữ được cái tâm này nên chúng biết được: “Đi học là chí ở Thánh Hiền, phải đem đạo đức học vấn đã học cố gắng mà phụng hiến xã hội này”. Cho nên khi chúng bước vào xã hội liền biết vì xã hội tạo phước. Do đó phước phần của chúng liền sẽ càng ngày càng lớn, đến già rồi phước báo liền hiện tiền.

    Cho nên trong “ngũ phước” có một phước gọi là “thiện chung”. Nói cho dễ hiểu một chút chính là “chết được tốt”, không nên chết rất khó khăn. Tục ngữ thường nói: “Chết không được tốt”. Câu nói này dường như là lời nói mắng người. Thế nhưng hiện tại câu nói này không xem là lời mắng người, mà xem là một hiện tượng phổ biến. Chúng ta nhớ lại lúc nhỏ, còn thường hay nghe nói đến một vị trưởng bối nào đó, hôm qua ra đi khi ngủ rất an lành. Hiện tại tình hìnhnày không có nhiều. Vì sao người thời trước họ có thể rất an lành mà rời khỏi cái thế gian này, còn người hiện tại khi chết có thể phải đưa đi cấp cứu, khi chết có thể là không biết gì hết? Đó đều là bởi vì họ không biết cách chăm sóc thân thể. Họ không biết vun bồi phước phần của chính mình. Phước quá mỏng thì không cách gì có thể “thiện chung”. Cho nên người phải có phước phần.

    Căn nguyên vẫn ở một niệm “thiện tâm”. Người thời trước tương đối lương thiện, nơi nơi đều vì người mà lo nghĩ, vì vậy mà chết được rất nhẹ nhàng. Người hiện tại tương đối tự tư, tự lợi, cho nên trước khi chết vẫn sợ được, sợ mất, đều không buông bỏ. Nếu chúng ta muốn tuổi già hưởng phước, thì phải biết giữ tâm thiện, phải biết được mỗi lúc đều có thể buông bỏ, không nên chấp trước. Rất nhiều người đều cảm thấy cả đời của một người dường như là muốn cống hiến thì mới có thể có sự giúp đỡ đối với xã hội, sau khi người già rồi thì sẽ không cách gì dốc hết tâm lực của mình. Cho nên phần nhiều đều cảm thấy dường như 20 tuổi đến 60 tuổi mới là giai đoạn hoàng kim tạo phước cho xã hội. Rất nhiều người quy hoạch đời sống đều nói như vậy. Thật ra, ngay một đứa bé từ nhỏ tiếp nhận giáo huấn của Thánh Hiền thì đời sống của chúng tuyệt đối không phải chỉ có thời gian của 40 năm.

    Chúng ta cùng nhau xem lại, đứa bé này từ nhỏ đã dùng tâm nhân ái, giữ tâm đạo đức. Ngay trong lớp học của chúng tôi, đã từng có một đứa bé, chú mới hơn hai tuổi. Ngày đầu tiên đến lớp, khi học xong về nhà, cha mẹ của chú hỏi: “Hôm nay con học được cái gì?”. Đứa bé này lập tức tinh thần phấn chấn nói ra bốn chữ: “Hiếu thuận cha mẹ”. Cha mẹ của chú cũng rất kinh ngạc. Trẻ nhỏ hơn hai tuổi học được điều vô cùng quý báu, rất là thiết thực. Khi lần thứ hai đi học, ngay lúc thầy giáo giảng, rất nhiều bạn học cùng đến để chia sẻ tuần lễ này đã làm được những việc gì để hiếu thuận với cha mẹ. Bởi vì học vấn quí ở thực hành, cho nên sau khi học rồi, quay về nhà phải cố gắng thực hành. Rất nhiều bạn nhỏ đều đến nói, có chú bé nói giúp cha mẹ bưng nước rửa chân, có chú bé cắt trái cây cho cha mẹ ăn. Những bạn nhỏ hơn hai tuổi này xem thấy rất nhiều anh, nhiều chị lớn đều làm được những việc hiếu hạnh, cho nên các chú bé mong muốn học làm theo.

    Người lớn dạy trẻ nhỏ là một phương pháp, trẻ nhỏ dạy trẻ nhỏ lại là một phương pháp tốt, nên gọi là “tương quan nhi thiện”, chúng sẽ quan tâm lẫn nhau. Cho nên đứa nhỏ này, sau khi học tiết thứ hai xong, lập tức liền tìm lấy tách trà mang nước nóng đến cho cha mẹ uống. Chú mới hơn hai tuổi mà mỗi lúc đều giữ cái tâm như vậy, nên gọi là “phước điền tâm canh”, trẻ nhỏ đang vun bồi phước phần của chính mình. Hành vi của trẻ như vậy là tu thân. Chúng cũng sẽ cảm động cha mẹ của mình. Ngay đến đứa bé hơn hai tuổi đều biết bưng trà để cho cha mẹ uống, đều biết được mọi lúc, mọi nơi phải vì cha mẹ mà lo nghĩ thì chính ta càng phải tích cực làm hiếu đạo. Cho nên đứa bé này đã bắt đầu tề gia. Câu chuyện về chú bé này, tôi cũng đã chia sẻ rất nhiều lần. Thậm chí câu chuyện này còn nổi tiếng ở các nước như Malaysia, Singapore, Indonesia. Bởi vì đứa bé này chân thật là có công phu tu thân nên chúng ta mới có thể đem những câu chuyện này mà biểu dương với mọi người, để thật nhiều người trong khắp thiên hạ đều có thể từ đây mà bắt chước theo.
    :tea::tea:

     
    kimle123 and nha-tan-cua-nat like this.
  3. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member

    .
    image.jpg

    Mỗi khi đau khổ hay buồn phiền, chúng ta niệm Phật thì thấy vơi đi, không phải vị Phật hiển linh khiến cho chúng ta hết đau khổ.

    Cái bình an trong tâm chúng ta đã có sẵn rồi, do chúng ta để tâm mình rối loạn, tưởng rằng ai hành mình nên ra sức tụng niệm, sau đó thấy lòng bình yên lại cho rằng Phật linh hiển.

    Thật ra, do việc niệm Phật mà mà sự xáo trộn trong tâm hồn lắng xuống, tâm hồn được binh yên rồi thấy mình hết khổ.
    Khổ đau sẽ biến mất khi tâm trở về trạng thái bình yên.
    Giá trị của việc niệm Phật chính là chỗ này.

    Bởi tâm chúng ta đang buồn nên khuấy động như mặt nước lao xao, chúng ta niệm Phật cũng tựa như cắt tàu lá chuối đặt lên thì tâm sẽ bình yên.
    Vì vậy, chúng ta hãy siêng năng niệm Phật ạ.

    __/ \__ Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật __/ \__
    :tea::tea:


     
  4. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member


    image.jpg

    TĨNH NGỘ

    Lòng tham giữa chốn Ta Bà
    Ai ai cũng có... đó là đương nhiên
    Càng tham càng lắm luỵ phiền
    Nếu không Tu sửa... khổ liền bám theo...

    Đời người dù giàu hay nghèo
    Chữ Tâm cốt yếu, mang theo suốt đời
    Đừng vì tham vọng nhất thời
    Gây nên thù oán... buông lời thị phi...

    Mai này đến lúc ra đi
    Của cải bỏ hết... còn gì nữa đâu
    Chỉ gieo nhân quả thêm sầu
    Nợ nần truyền kiếp... ngập đầu khổ đau.

    Sám hối Tu sửa cho mau
    Đừng để khổ ải, nối nhau đoạ đày
    Sự đời có trả có vay
    Gieo trồng giống tốt... đắng cay vơi dần !

    __/ \__ Nam Mô A Di Đà Phật __/ \__
    :tea::tea:
     
  5. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member


    image.jpg
    :tea::tea:
     
    Happy1982 and nha-tan-cua-nat like this.
  6. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member


    12 LOẠI NHÂN QUẢ BÁO ỨNG ẢNH HƯỞNG TRỰC TIẾP ĐẾN CUỘC ĐỜI MỖI NGƯỜI

    Dưới đây là 12 đường nhân quả báo ứng có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc đời của mỗi người. Đó là gì, hãy cùng xem nhé!

    1. Người sẵn lòng cho đi sẽ khiến phúc báo càng ngày càng đến nhiều.

    2. Người biết cảm ơn, sẽ khiến thuận lợi càng ngày càng nhiều hơn.

    3. Hay giúp đỡ người khác thì quý nhân sẽ càng ngày càng nhiều.

    4. Người hay phàn nàn sẽ càng ngày càng có nhiều phiền não.

    5. Người biết đủ, biết thỏa mãn sẽ càng ngày càng có nhiều niềm vui, niềm hạnh phúc.

    6. Người chỉ biết trốn tránh thất bại, thử thách, thì thường thất bại càng đến nhiều hơn.

    7. Người biết chia sẻ với người khác, sẽ càng ngày càng có nhiều bạn.

    8. Người hay giận giữ, bực bội, bệnh tật sẽ sinh ra càng ngày càng nhiều.

    9. Ưa thích chiếm tiện nghi sẽ khiến cuộc đời càng ngày càng nghèo khó.

    (Diễn giải chiếm tiện nghi: ý nói đến việc chỉ muốn hưởng lợi trong khi chi phí thì người khác phải chịu)

    10. Người hay dùng tiền tài giúp người khác, phú quý sẽ đến nhiều hơn.

    11. Người chỉ ưa thích được hưởng phúc, thường sẽ bị nhiều khổ đau.

    12. Người chăm chỉ học tập sẽ khiến trí tuệ ngày càng phong phú.
    nhân quả báo ứng

    Và trong cuộc sống đừng để mình “đắm chìm” vào những điều dưới đây. Bởi nó sẽ khiến bạn khó có đường quay đầu trở lại!

    Mê: Đừng mê quá sâu! Nếu mê quá sâu sẽ khó thức tỉnh.

    Lời nói: Đừng nói quá tận, nói đến cùng! Nói tận rồi sẽ không thể linh hoạt khéo léo.

    Việc: Đừng làm quá tuyệt, quá tận! Nếu làm quá tuyệt, quá tận rồi sẽ khó có đường tiến lui.

    Tình: Đừng đắm chìm quá sâu! Đắm chìm sâu rồi sẽ khó kiềm chế, khó thoát ra.

    Lợi: Đừng coi quá nặng! Đặt nặng rồi sẽ khó sáng suốt.

    Người: Đừng quá giả! Quá giả rồi sẽ khó thổ lộ tâm tình.

    Đạo lý đơn giản là vậy nhưng người làm được cũng không phải là nhiều. Ai có thể làm được, người ấy có thể sống một cuộc đời thong dong, tự tại, nhẹ nhàng và thoát tục!
    :tea::tea:
     
  7. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member


    BẠN TU HÀNH CÓ CÔNG PHU HAY KHÔNG, MỘT CHIÊU CUỐI CÙNG NÀY LÀ BẠN BIẾT BẠN TU HÀNH THẬT HAY GIẢ?

    Niệm Phật có công phu thật hay không, một chiêu cuối cùng hoàn toàn hiển lộ ra rồi. Bạn sống ở thế gian, bạn dùng đủ thứ phương tiện thiện xảo để che đậy người, lừa gạt người. Người ta gọi bạn là người thiện, bạn có được danh dự tốt, chưa chắc là sự thật, phải xem cách chết của bạn như thế nào. Một chiêu đó là không thể lừa người, công phu đích thực là xem ở chỗ này. Bạn ra đi rất tự tại, đi rất tự nhiên thì bạn là công phu thật. Nếu bạn ra đi có đau khổ, ra đi rất khó chịu thì bạn là đồ giả, bạn không phải thật. Một chiêu này không thể làm giả, không thể lừa người. Cho nên, chúng ta bất luận đối với xuất gia hay tại gia, công phu tu hành của bạn đến một chiêu cuối cùng toàn bộ đều lộ rõ. Cả đời có thể che đậy người, nhưng một chiêu cuối cùng không thể lừa người.
    image.jpg
    :tea::tea:


     
    kimle123, quynh87 and Happy1982 like this.
  8. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member


    image.jpg

    Kinh Thương Yêu
    ...
    Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, lòng từ bi không bị bất cứ một cái gì làm ngăn cách, tâm ta không còn vương vấn một chút hờn oán hoặc căm thù. Bất cứ lúc nào, khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm, miễn là còn thức, ta nguyện duy trì trong ta chánh niệm từ bi. Nếp sống từ bi là nếp sống cao đẹp nhất.

    Không lạc vào tà kiến, loại dần ham muốn, sống nếp sống lành mạnh và đạt thành trí giác, hành giả sẽ chắc chắn vượt khỏi tử sinh.
    Nam Mô A Di Đà Phật.

    :tea::tea:
     
    kimle123, quynh87 and Happy1982 like this.
  9. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member


    image.jpg

    :tea::tea:
     
    kimle123, quynh87 and Happy1982 like this.
  10. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member


    image.jpg

    MẸ CHA LÀ BỒ TÁT

    Sáng ra chợt thấy ở bên
    Quan Âm thị hiện che mền cho con
    Ở đâu nước mắt lăn tròn
    Liệu rằng mai mốt Người còn ở đây

    Trước giờ mãi phụ u thầy
    Không ưng một chút than rầy mẹ cha
    Cả đời toan tính đến già
    Mong con hạnh phúc thì là mẹ vui

    Đôi khi đành phải ngậm ngùi
    Thôi vì con cái chôn vùi nỗi đau
    Hai dòng lệ chảy vào sâu
    Vô tâm con vẫn hiểu đâu nỗi lòng

    Vừa may gặp Pháp sáng trong
    Con nay đã hiểu tấm lòng mẹ cha
    Bao dung hơn cả sơn hà
    Dịu dàng ngời sáng như là Quan Âm

    Con giờ thôi mắc lỗi lầm
    Quay về báo hiếu và ngầm động viên
    Mẹ cha theo Pháp hiện tiền
    Tu hành chăm chỉ hết liền khổ đau.

    - Siddha -
    Nam Mô A Di Đà Phật.
    Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
    :tea::tea:
     
    kimle123 and quynh87 like this.
  11. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member


    Đừng tìm hạnh phúc nơi nào xa quá
    Hãy quay về tìm nó ở trong ta
    Chỉ cần tâm thanh thản sẽ nhận ra
    Vì hạnh phúc là điều đơn giản nhất

    Khi ăn uống biết ngon là hạnh phúc
    Khi tai còn nghe rõ những âm thanh
    Khi mắt còn thấy rõ áng mây lành
    Khi đi đứng nói làm đều tự tại

    Biết giúp ích nhân loại điều thiết thực
    Biết sẻ chia vật chất lẫn tinh thần
    Biết cảm thông mọi rắc rối thế nhân
    Biết trang trải bằng tình thương chân thật

    Người hạnh phúc nhất là người trầm tĩnh
    Trái tim người thật sự vị nhân sinh
    Mọi việc làm có chánh niệm phân minh
    Sự an tịnh tâm hồn luôn có mặt.

    _()_ Nam Mô A Di Đà Phật _()_
    _()_ Nam Mô A Di Đà Phật _()_
    _()_ Nam Mô A Di Đà Phật _()_
    image.jpg
    :tea::tea:
     
    kimle123 and quynh87 like this.
  12. NgocLong538

    NgocLong538 Thần Tài Perennial member

    TyTy SH
    That la hay that la sau sac ,moi Ngay mui vo day mui doc dc nhung trang nay that la Giai toa nhung gi am may lau nay mui mo Ho ,Thiet nghi XH nay kho ma lam dc dieu muon ,muon Thien thi ng ta cho Minh dao Duc Gia ,lam trai nghich dao ly thi cho la Ke ha tien ,mat tin Nguoi ,ko bt lam Sao de UVA long Nguoi
    Mat khac la ng than quyen thuoc thi lai Cang ko,khi co tien chi chi em em,khi Minh kho khan goi dt ko nghe may hay la noi dai loai nhung cau buon long
    TyTy bt ko mui bat man nhieu lam ,mui con mo Ho lam Sao de hoan Thien va dc Chanh phap cho dung ,
    Khi moi Ngay len xem nhung trang ky su cua TyTy mui that thanh than va am long ,mui nhin Vao do ,Dua Vao do ma song tiep ,
    trang nay that la y nghia cho mui phan Dau ,nhin la Minh ma thay doi
    Chan tinh va cam dong nhung kien thuc Giao hoa ma TyTy da Dua Len ,Mong Ngay Cang dc. Tiep thu nhieu hon va dc hieu sau hon
    Chuc TyTy suc khoe va Hanh Phuc
     
    số_hên thích bài này.
  13. NgocLong538

    NgocLong538 Thần Tài Perennial member

    TyTy oi
    TyTy co nhung bai nao ma danh cho Thieu nien ko?do tuoi tu 13 den 17tuoi,tuoi nay la tuoi cua con mui do ,cac con mui 2nam nay that la kho Giao hoa ,luc nao cung dem thoi dai ,Sao hoa ,khao hoc cai lai mui,mui dem Giao ly nha phat de noi ,Bon tre nay ko chap nhan cho mui la vien vong ko thuc te ,mui Dua xem coi bao ung hien thoi cho xem thi noi la lam Phim va nhan vat do do an hoac sinh hoat doi song anh huong nhung yeu to moi truong
    Troi oi TyTy oi mui kho lam ,con trai that kho day Vao tuoi nay
    Giup mui nhe
     
    số_hên thích bài này.
  14. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member



    Nhận diện 8 loại "tiểu nhân" nên tránh xa

    Nhận rõ được những thủ đoạn của "tiểu nhân", bạn mới kịp thời ngăn chặn chúng, không bị mê hoặc và kịp thời có đối sách đề phòng bị mắc lừa và bị hại.

    1. Gây chuyện thị phi

    Dựa vào gây chuyện thị phi, xúi dục, khiêu khích, ly gián mọi người là phương pháp đơn giản nhất, thuận tiện nhất để thực hiện mục đích cá nhân. Trong cuộc sống rất nhiều kẻ tiểu nhân, chỉ vì một chút lợi riêng, một chút ham muốn không đạt được, là ăn không nói có, từ bé xé ra to, biến trắng thành đen, biến tốt thành xấu, khiến những người thân cận phải xa lánh.

    2. Đặt điều

    Bọn tiểu nhân đều hiểu rằng: "Những điều không có thật, lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ biến thành chân lý". Có lúc chỉ dựa vào sức mạnh của bản thân khó thực hiện được ham muốn cá nhân, họ sẽ đặt điều, tạo dư luận huyễn hoặc mọi người. Khi họ đặt điều thường thường giả vờ thẳng thắn, chính trực, khiến người nghe hiểu lầm thực hư, vì thế rất dễ bị lừa, dễ bị mê hoặc.

    3. Cáo mượn oai hổ

    Để thực hiện được ý đồ riêng, bọn tiểu nhân thường thường tranh thủ lãnh đạo, nhìn nét mặt lãnh đạo cấp trên để làm việc, chú ý nắm bắt từng ly, từng tí tâm lý của lãnh đạo cấp trên, cố được lòng lãnh đạo. Sau đó lấy lãnh đạo làm chỗ dựa, mượn "oai hổ" để áp chế người khác, lăng nhục, nói xấu người khác, hãm hại người khác.

    4. Gió chiều nào che chiều ấy

    Từ cổ chí kim, kẻ tiểu nhân đều không bao giờ có ý chí và nhân cách độc lập. Bọn họ chính cống là loại "rồng đổi màu". Chỉ cần lãnh đạo thay đổi là chúng chuyển hướng ngay lập tức, nói cách khác ngay. Bọn họ giỏi quan sát và nắm bắt tâm tư của người khác, luôn luôn để ý đến xu thế phát triển của sự việc, luôn luôn sẵn sàng gió chiều nào che chiều ấy. "Tuyệt chiêu" của họ là mắt nhìn bốn phương, tai nghe tám hướng. Vì lợi ích cá nhân luôn ngả theo cái có lợi.

    5. Qua cầu rút ván

    Kẻ tiểu nhân không bao giờ có bạn bè chân chính. Họ kết bạn chỉ là tạm thời, là giả tạo. Đối với họ, lợi ích bản thân cao hơn tất cả. Chỉ cần nhu cầu, lợi ích bị đụng chạm, họ coi bạn là thù ngay lập tức. Thậm chí họ dám hy sinh cả ân nhân và người thân của mình, lấy đó để đổi lấy cái gọi là "hạnh phúc" cho mình. Trong đầu họ, chỉ có người nào có lợi cho mình, người đó mới được coi là bạn.

    6. Mượn gió bẻ măng

    Một trong những thủ đoạn của kẻ tiểu nhân từ xưa đến nay lợi dụng lúc nguy ngập của người khác để trục lợi. Đối với những kẻ tiểu nhân mà nói, nắm thời cơ vô quan trọng. Vì thời cơ chín muồi, chúng sẽ hành động dễ dàng. Hơn nữa chớp được thời cơ, chúng còn có thể biến hành động không chính đáng thành hành động chính đáng và hành động "quang minh chính đại". Ngược lại, hành vi của bọn tiểu nhân rất bị người ra nhận ra. Nhưng chúng luôn biến hoá. Nếu thấy sức mạnh của đối phương thật quá lớn, thì chúng tạm thời che dấu bộ mặt thật của mình. Nếu thấy đối phương ở vào hoàn cảnh bất lợi chúng thừa cơ tấn công ngay.

    7. Khiêu khích ly gián

    Kẻ tiểu nhân từ xưa đến nay, khi làm việc phần lớn thích vụng trộm, úp úp, mở mở. Bọn chúng hiểu rõ rằng: "Đục nước béo cò ", thì luôn dùng những thủ đoạn đê tiện để ly gián người khác, khơi ra mâu thuẫn giữa mọi người. Chờ đến khi những người ly gián đấu tranh với nhau, chúng sẽ trục lợi. Thủ đoạn này hễ thực hiện được thì cái hại vô cùng lớn không thể lường hết.

    Vì vậy, khi bạn quan hệ với mọi người, nhất định phải thấy rõ, hiểu rõ, không thể chỉ nghe một phía, tin một phía để tránh mắc câu bọn tiểu nhân, gây phiền toái cho công việc và cuộc sống.

    8. Đạo đức giả

    Đây là một trò rất dễ mê hoặc người khác, khiến người ta mắc lừa. Đó là thủ đoạn lúc đầu là lùi sau đó là tiến lùi vừa có thể tự vệ lại vừa có thể khiến người khác lơ là cảnh giác, hễ thời cơ chín muồi, kẻ tiều nhân sẽ bất chấp tất cả tiến hành phản kích, cho đến khi đạt được mục đích. Biểu hiện chủ yếu của thủ đoạn, của bọn tiểu nhân là:

    - Một là, cố ý tỏ ra vẻ nhân từ, rộng lượng, thật thà, thành tâm, công bằng trước mặt người khác. Có khi để đạt được mục đích nào đó, không ngại chịu đau khổ tạm thời, tỏ ra tốt với người khác, để được hài lòng người. Hễ điều kiện đến là trở mặt tấn công.

    - Hai là, trước tiên có đối xử tốt hoặc có chút ân huệ nào đó với đối phương, để được đối phương nếm chút ngọt ngào. Hễ đối phương sa vào tròng, liền trở mặt tấn công thít chặt và giết thịt.

    - Ba là, dùng phương thức kết hợp vừa kéo vừa đánh. Trước tiên là lôi kéo, sau đó là sẽ đánh, hay nói cách khác là vừa đấm vừa xoa, xoa là để đánh cho họ đau hơn. Thủ đoạn này bộc lộ rõ sự giả dối, xảo trá của kẻ tiểu nhân.

    Vậy đối với loại tiểu nhân này, tuyệt đối không được sơ suất, không được mềm lòng mà phải kiên quyết.

    :tea::tea:


     
    kimle123 thích bài này.
  15. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member


    image.jpg
    :tea::tea:


     
    kimle123 thích bài này.
  16. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member


    image.jpg
    :tea::tea:
     
    kimle123 thích bài này.
  17. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member


    image.jpg
    :tea::tea:
     
    kimle123 thích bài này.
  18. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member


    image.jpg
    :tea::tea:
     
    kimle123 thích bài này.
  19. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member


    image.jpg
    :tea::tea:

     
    kimle123 thích bài này.
  20. số_hên

    số_hên Thần Tài Perennial member

    .
    image.jpg
    :tea::tea:
     
    kimle123 thích bài này.