[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dã nhân[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Võ Thị Hảo[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Sau món yến, mặt bàn cẩm thạch được dọn sạch. Chỉ còn cây giá nến bằng vàng mang thân hình hai thiếu nữ trần truồng đang xoắn vặn như bện thừng. Hai bộ ngực căng đầy ngửa ra sau trong cuồng hoan. Trên môi hai thiếu nữ ngậm hai ngọn nến. Thân nến màu hồng phớt vàng bềnh bệch da người. Ngọn nến nhẩn nha cháy, phả làn hương khen khét, ngầy ngậy, mời gọi như chăn gối. Thoảng mùi hoang đàng của những bữa tiệc cổ La Mã. Cái thời những vương tôn công tử nằm ngả ngớn trong đại tiệc, để những đường cong của thân thể hoan ca bên trân cam mỹ tửu. Người dự tiệc choàng hờ hững ngang thân một tấm vải mềm và xốp nhiều nếp. Những cái đầu tóc giả uốn sóng rắc phấn rung rinh bên má các quý phu nhân cùng gái làng chơi cao cấp. Đàn bà mắt đắm đuối không ra gật đầu không ra chối bỏ, thỉnh thoảng lại diệu vợi vươn cánh tay trần nuột nà tới giữa bàn tiệc, khẽ nhón lấy một chùm nho hoặc một chùm anh đào chín mọng, nhấn nhá dập hờ ướt khóe môi hé mở. Kẻ đối diện bị thôi miên, chỉ còn biết giương đôi mắt ngây dại theo nhất cử nhất động ra chiều ban ân huệ của người đẹp. Hôm nay, những người quanh bàn tiệc này cũng nằm. Lân là một trong những kẻ ăn nằm đó. Có một dự án. Bên A và bên B khao nhau một bữa "nhất dạ đế vương". Một bữa tiệc pha tạp phong cách. Bàn ăn kiểu La Mã. Bàn ăn kiểu Pháp lai Đức lai Nga. Ăn thì đặc sệt những món ngự yến kiểu Tàu. Khung cảnh lộng lẫy mà lờ lợ, mang sắc nhờn nhợt đục. Tiền chảy tràn từ túi khổ chủ. Khổ chủ này có hai con đi du học ở Anh Quốc, có hai ô tô đời mới, hai con chó ngao bụng thon chân cao như ngựa vằn, hai ngôi biệt thự mỗi ngôi cỡ vài ngàn cây vàng, một vợ một nhân tình. Cái gì cũng hai. Dự án cũng vậy, luôn luôn là hai chiếc song song. Lân là bạn của khổ chủ, vừa là người thẩm định, vừa là con thoi đi lại giữa A và B. Cái gì cũng có một. Nhưng cũng có một vợ một nhân tình, đúng mốt. Bức tường màu đỏ đối diện phía trước mặt các thực khách bỗng rùng mình, rồi dời sang một bên như có phép lạ. Bất thần phô bày một hang động bê-tông sơn phết giả đá, giả thạch nhũ được chiếu sáng bằng những chùm đèn màu. Lại một chiếc bàn cẩm thạch đỏ. Nhiều giá nến. Một chiếc lồng lớn phủ lụa vàng rủ tua trước mặt một cô gái mặc cẩm y, đội vương miện, giát trang kim lấp lánh. Chủ nhà hàng phục sức như quan võ trong những bộ phim truyền hình về thời Tần Thủy Hoàng, lịch kịch cung kiếm bước ra cúi chào: - Tiếp theo đây, xin mời các bậc đế vương thưởng thức món trân cam của Từ Hi Thái hậu. Món này không những bồi bổ sự sáng láng cho quý vị, mà còn khiến cho thân thể thêm tráng kiện, xuân tình lai táng. Vĩnh cửu xuân. Mời! Cô gái mặc áo trang kim đang ngồi xếp bằng trên bàn bỗng thét lên một tiếng sắc tạnh, rút soạt kiếm đứng phắt dậy, xiêm y rụng lả tả, trong nháy mắt trên người cho còn một mảnh vải bé bỏng nửa bàn tay. Trong chớp mắt, tấm lụa vàng che lồng đã bị mũi kiếm hất tung tên trời, đứt làm hai mảnh. Thực khách ồ lên. Trên bàn là chiếc lồng sắt có sáu ngăn. Mỗi ngăn nhốt một con khỉ lông vàng. Những con khỉ xinh xắn cụt đuôi mặt đỏ, ngón tay thon dài, móng tay màu đen. Đôi mắt to và sâu nằm sát dưới hốc xương cung mày nhìn nài nỉ và van lơn. Đám khỉ run rẩy quan sát đám thực khách. Những ngọn nến nhảy múa không thương xót trong mắt chúng. Cô gái vẫy tay. Hai gã bồi bàn cầm hai con dao sáng lạnh chạy ra. Con khỉ đầu tiên được bắt ra, trói gô lại, đặt ngồi trên bàn, trước mặt ông "cái gì cũng hai'' - khổ chủ bữa tiệc. - Ngài có vừa lòng món này không ạ? Chỉ cần một cái phẩy tay của ngài, chúng tôi sẽ đổi ngay con khác? Khổ chủ ngắm con khỉ đang ròng ròng nước mắt, xoay ba bốn lần, soi đủ mọi phía, rồi gật gù: - Được. Không kém cạnh bữa trước. Nhưng nhớ phải làm gọn gàng, đẹp. Trong khi các thượng đế đang thưởng thức, chớ quên màn múa bụng. Thế mới ra mẻ bữa tiệc của Từ Hi Thái hậu các thượng đế của tôi ở đây mới hài lòng. Khổ chủ vừa dứt tời, cô gái lập tức vươn tay bấm vào một chiếc nút bí mật được cài sẵn đâu đó bên mép trái bàn. Mặt bàn mở ra. Sáu chiếc cột sắt nhỏ vừa đủ để ghim đứng thân mình sáu con khỉ bỗng nhô vụt lên. Hai gã bồi bàn lẹ làng tóm từng con khỉ nhấc lên, kẹp chặt cổ và vai chúng vào cột bằng những chiếc nẹp sắt. Sáu con khỉ không thể cựa quậy, tiếng kêu tắc nghẹn trong họng, đảo tròng mắt khiếp đảm nhìn thanh kiếm sáng loáng trong tay cô gái: - Đêm nay, quý vị là đế vương, đang ở trong nội điện của Từ Hi Thái hậu... Lưỡi kiếm vung lên. Chỉ còn kịp nhìn thấy một ánh chớp. Hột mảng đầu của con khỉ bị phạt ngang. Máu bắn trên mặt bàn. Khổ chủ khoái trá mời các "thượng đế" của mình thưởng thức món óc khỉ của Từ Hi Thái hậu trong màn múa bụng. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Mệnh nữ treo đằng ngọn Mệnh trai treo đằng gốc Mệnh nữ nặng bởi tóc... Vừa mới trĩu trên ngực này. Hương nồng nàn trong suối tóc còn nén chặt mi mắt này. Trái tim trong lồng ngực còn nhảy như Niên Đại. Thế mà tỉnh giấc, đã chẳng thấy đâu. Quờ sang, giường trống một khoảng lạnh người. Không phải vợ. Chẳng phải người tình. Nàng thường đến vào canh gà gáy. Như một vòi rồng mang vô vàn hạt bụi nâu ánh đỏ. Không một điềm báo trước, nàng đến bên giường của anh. Nở nụ cưới biết lỗi khờ dại. Dịu lại thành một dải lụa màu đồng. Rồi, cũng mềm như lụa, nàng tuồn vào trong chăn, úp mặt gối đầu lên ngực anh. Lân gấp gáp thức giấc. Gấp gáp kiếm tìm đôi môi nàng. Bàn tay gấp gáp dạo trên thân thể nàng. Nhưng đôi môi không thấy. Thân thể không thấy. Bàn tay nóng rực tuột vào chăn đệm. Chỉ thấy đôi môi hình lá và những đường cong lơ lửng trên cao. "Ta bay lượn". Nàng nói. "Còn anh thì đi bộ". Nàng nói. "Ta giữ mãi cho anh một khúc dạo đầu". Nàng nói. "Kìa bình minh đến. Và em phải đi". Nàng nói. Rồi, thoảng hôn lên môi anh. Rồi, dạo lướt trên thân thể anh, dải lụa màu đồng biến thành chiếc vòi rồng dữ dội cuốn xoáy những hạt mưa màu nâu ánh đỏ vụt ra ngoài cửa sổ theo tia sáng đầu tiên của rạng đông, nàng đi. Để lại anh, trên giường, tê cứng trong một niềm hoan lạc đau đớn. Mệnh nữ nặng bởi tóc Nặng bởi vú hai bầu Mệnh nam nặng vì đâu, ông bà hỡi? Văng vẳng tiếng Mo Khuôn. Tại sao lần nào cũng vậy, nàng đến rồi đi trong tiếng Mo Khuôn. Về một mường Trời ngùn ngụt khao khát với những chiếc vòi rồng màu nâu ánh đỏ không thể giam cầm. Lân vật mình trên gối. Cắn chặt hai hàm răng. Vỏ gối lông vũ bị anh xé nát. Những chiếc lông chim hút nước bọt khô khốc trong miệng. Thoảng vị lờ lợ tanh của bữa tiệc Từ Hi. Ta là ai vậy? Một vợ một người tình một dải lụa màu đồng đỏ? Mùi máu khỉ tanh lợm và hương tóc trĩu nặng trên mi mắt? [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Tay Lân quờ phải một vật gì vừa mềm, vừa ấm. Rồi một bàn tay bé xíu với những ngón thon nhỏ, móng nhọn. Lân mở choàng mắt. Những móng tay nhỏ xíu, không thể thon hơn thế, màu đen. Lân mở bàn tay. Cũng đầy những nếp gấp, đường mạch máu, những ngôi sao. Đủ cả đường sinh mạng, đường duyên tình và trí đạo. Đường sinh mạng nối liền cực Nam và cực Bắc của bàn tay. Gốc phía Nam mờ. Hẳn rằng nhiều phen lận đận. Trí đạo nối cực Đông và Tây của bàn tay, sống động và rõ nét. Hẳn cũng có túc mẫn tiệp và điên rồ. Chạy ngang ngạnh từ gốc phía Đông, bất thần rẽ ngoặt lên phía Bắc, chi chít những đường ngang lối tắt, ắt hẳn đây là bàn tay của một kẻ đào hoa có nhiều tiếng sét tình ái. Lân ngắm kỹ bàn tay, bất chợt cười thành tiếng, lật nghiêng sang bên trái. Con dã nhân giật mình rụt tay lại. Đường sinh mạng, trí đạo đường duyên tình cũng biến sau mu bàn tay lẹ làng. Đôi mắt to tròn, nâu thắm thiết, từng trải mở rộng dưới vòng cung xương mày. Con khỉ vàng này từa tựa một người đàn bà lam lũ, âu yếm và từng trải. Lân nghĩ. Đó là con khỉ thứ sáu trong bữa tiệc Nhất dạ đế vương, bữa tiệc của Từ Hi, đêm trước. Bộ óc của nó được dành sẵn cho Lân, sau cái trán có đôi mắt âu yếm này. Lân không chịu đựng nổi, đã nôn thốc tháo. Lưỡi kiếm vung lên đã kịp chưng hửng. Lân vét hết tiền túi, quẳng lên bàn, ôm con khỉ vào ngực, bỏ chạy. Về đến nhà, khi cởi trói cho con khỉ, Lân mới biết rằng đó là một con cái. Anh nhìn chằm chằm vào lòng bàn tay. Lần đầu tiên trong đời, anh biết rằng bàn tay khỉ cũng có đường sinh mệnh, trí đạo và duyên tình. Và ngay lúc đó, Lân nghe vẳng tiếng Mo Khuôn. Bản mo hồn của người Thái. Cái giai điệu da diết, hừng hực đớn đau này, anh đã nghe hoài, nghe hủy, trong những đêm mưa bên bếp lửa rừng Tây Bắc. Ông mo thân gầy săn như gỗ lũa, tay cời than, tay vẩy rượu, vừa đung đưa người cho đỡ lạnh vừa hát kể Mo Khuôn cúng mường cầu phúc thọ. Ngày xưa, Lân không vợ nhạt chỉ cưới vì tiền bạc và nòi giống. Không người tình chỉ vấn vương vì xác thịt và những lời chiều nịnh nhạt như nước ốc. Không nhờn nhợt lờ lợ những bữa Nhất dạ đế vương. Lăn từng úp mặt xuống gối, nước mắt đầm đìa hoan lạc khi nghe người kể Mo Khuôn. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Đi đi, dã nhân! Sáng nay, xuân về. Đủ lạnh để nước mắt ngươi ngừng chảy. Đủ ấm để ngươi vào đến giữa rừng. Đừng đi sang trái, phía ấy có bọn mang thòng lọng và bao tải đi săn trộm chó. Tất nhiên chúng mừng phát điên nếu săn được một con khỉ. Đừng đi sang phải. Phía ấy rực rỡ đèn màu và những nhà hàng Nhất dạ đế vương. Đi đi, dã nhân. Vì bàn tay ngươi cũng có đủ ba đường sinh mệnh, trí đạo, duyên tình. Nước mắt lưng tròng, Lân ngồi xệp ở bìa rừng. Thấp thoáng chiếc đuôi cụt của dã nhân đang lao mình vào rừng thẳm. Lân ngẩng mặt lên trời, đợi chiếc vòi rồng xoáy theo những hạt mưa màu nâu ánh đỏ...[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dã Quỳ [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Xuân Thiệp[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thế là Đài không trở về nữạ Anh đã mất hút sau cánh đồng dã quỳ bên kia suốị Tin từ người nhà của Đài cho biết chiều ngày 25 tháng 2 anh lái xe đến thành phố Wichita, tiểu bang Kansas. Trước khi mất tích, dường như anh có điện về nhà nói anh đang dừng chân ở một quán bên đường lúc chiều đã xuống. Bặt tin tức của Đài trong nhiều ngày, người nhà tìm đến cái quán nọ thì dân địa phương cho biết có một chiếc xe hơi nằm trong ruộng hoa quỳ nhưng không thấy người chủ xe đâụ Vào sâu trong ruộng, thấy quả nhiên như thế, chiếc xe của Đài nằm chơ vơ trong ruộng quỳ vàng. Tôi như người bước đi trên không. Sự ra đi của một người bạn thân, dù là mất tích hay chết, cũng khiến mình bàng hoàng. Sẽ chẳng bao giờ còn gặp Đài nữa ử Thật tình, tôi hoang mang dao động, không biết Đài đi đâụ Đã hơn một tuần trôi qua, người nhà nhờ đến cảnh sát nhưng vô ích. Đài như một cánh bướm biến mất trong màu vàng lộng lẫy của hoa quỳ vào một buổi chiều nắng rực. Hồi tưởng lại, chúng tôi đã từng có mặt bên nhau trong những quãng đời đứt nốị Quen biết nhau hồi mới vào quân trường đầu cạo trọc lóc. Ra trường mỗi người một phương. Tôi ở lính một thời gian rồi được biệt phái về bộ Tư pháp; còn Đài trước đóng đồn miền núi, rồi về quân đoàn làm phóng viên quân đội, đồng thời là corespondent cho một hãng thông tấn ngoại quốc. Chuyện tình của Đài và Ngọc tôi có biết ít nhiều do Đài kể trong những lần đi bãi qua rừng cao su hoặc ở những dịp gặp nhau vội vã tại Sài Gòn. Ngọc là học trò cũ của Đài ở trường LNH bên dòng sông Cửu Long những năm cuối 50. Họ yêu nhau, một thứ tình yêu chín đỏ như trái mận đầu cành. Thời gian Đài đóng đồn ở Kontum, Ngọc có lên thăm một lần giữa mùa hoa quỳ nở. “Ngọc mặc áo lụa trắng, đi giữa rừng hoa quỳ bạt ngàn. Màu hoa quỳ vàng dội trong nắng, Ngọc như cánh chim bay lướt trong trời giêng hai ấm áp. Về phía con sông rừng, một đoàn quân xa lăn bánh trong bụi mù... Hình ảnh ấy ở mãi trong trí mình, như một vết cháy, một ám ảnh vừa đau đớn vừa hoan lạc.” Đài kể với tôi như thế. Họ yêu nhau, như hoa quỳ yêu nắng, như rượu yêu môị Nhưng chiến tranh vào thời kỳ khốc liệt nhất, đã chia cách họ, làm họ bặt tin nhaụ Từ ngày sang Mỹ, tôi và Đài có dịp gặp lại trong những sinh hoạt văn hóạ Đài hiện sống với gia đình và con cái, nhưng dường như không mấy vui bởi đã có nhiều đổi khác trong sinh hoạt của từng ngườị Trong điện thoại gọi cho tôi cách đây mấy tuần, Đài cứ nhắc đi nhắc lại về những cánh đồng dã quỳ ở Kontum ngày nàọ Anh nói: “Thơ của bạn sao nhiều hoa quỳ thế? Một lần cỏ hoa thầm nhắc tên một đóa quỳ điên và Cầm bút viết. đồi hoa quỳ vàng rồi lại Hút với nhau điếu thuốc Giữa buổi chiều hoa quỳ Nói dăm câu từ tạ Mây với người cùng đi Ngày ấy, Ngọc lên thăm mình, đi giữa đồi hoa quỳ vào độ giêng haị Ngày đó, mỗi lần đi làm phóng sự mặt trận ở vùng Kontum mình lại có dịp hái hoa quỳ, ép vài cánh trong sách rồi gởi về cho Ngọc. Hoa quỳ ở những vùng đó đẹp vô cùng, hoang dã nguy ngạ Dã Quỳ. Mùa xuân bắt đầu là nở vàng rộ như một tám thảm nhấp nhô biển sóng dưới ánh mặt trờị Sang Mỹ, mình cũng có dịp nhìn những ruộng dã quỳ quanh thành phố Oklahoma vằ vùng ven con Sông Đỏ. Những lúc đó, tâm trí đầy ắp hình ảnh Ngọc. Quay quắt và đau đớn, như một vết thương bỗng cựa mình, bật máụ Rồi trong những giấc mơ chợt đến vào những đêm chuyển trời, mình thường thấy chìm sâu trong biển hoa quỳ nồng nàn quyến rũ. Và có lúc, mình thấy Ngọc bay lượn trên triền sóng vàng dậỵ Mình đuổi theo, càng đuổi theo thì Ngọc càng bay xa, rồi mất hút. Trời, mình có nghe tin tức về Ngọc, khá mơ hồ và bất định. Dường như Ngọc đang có mặt đâu đây, ở thành phố phía Bắc Oklahomạ Nhưng chắc chuyện đã khác ngày xưa rồị Sông không ngừng trôi và con người cũng phải đổi thay... Tìm lại đóa hoa ngày cũ e chỉ là ảo tưởng, nhưng ảo tưởng đó sao đẹp não nùng đến thế? Có thể nào người ta chết vì một ảo tưởng không?” Đài đi đâu, hay Đài đã chết trên một ngọn đồi nào đó, như ngọn đồi ngày xưa ? Chính sự mơ hồ này làm tâm trí tôi không yên, cứ như vướng mắc vào một mạng lưới trùng điệp. Với những điều biết được, rất là rời rạc và bềnh bồng, tôi có thể tạm dựng lên một kịch bản như saụ Và đã là kịch bản thì chắc không ăn khớp với thực tế một cách toàn vẹn được. Tôi thấy chiều hôm ấy Đài lái xe từ Oklahoma City đi Wichitạ Anh đi tìm aỉ Có thể đó là Ngọc vì anh cũng nói hình như Ngọc hiện có mặt tại thành phố nàỵ Buổi chiều đầu xuân, nắng rự rỡ. Hai bên đường nhấp nhô những ruộng hoa quỳ trong nắng gió. Vàng trong không gian, vàng ngợp như men saỵ Dọc đường, Đài dừng xe ở một lữ quán, có lẽ để giải khát hoặc uống một vài ly rượụ Ngồi trong lữ quán nhìn ra, mắt anh bị màu vàng rỡ của những ruộng quỳ thu hút. Uống xong anh lái xe đi tiếp, nhưng thay vì đi thẳng về hướng Wichita, anh lại rẽ vào một ruộng quỳ, và cứ thế lái xe dẵm nát tấm thảm màu vàng của dã quỳ. Đài đã nhìn thấy gì chăng? Một ảo ảnh? Có thể lúc ấy tâm trí mê thiếp trong hương say của dã quỳ và men rượu, anh đã nhìn thấy Ngọc trên cánh đồng hoa quỳ vàng xộ Và Đài đã đuổi theo, bỏ xe chạy băng qua ruộng quỳ, lội qua suối và rồị.. Không ai biết Đài đi đâu, về đâu. Có thật là Ngọc, người học trò xưa và người yêu thất lạc của anh, ở Wichita không hay một người nào khác cùng tên? Và Đài đi tìm một cái bóng chăng? Có lẽ chỉ có loài hoa dã quỳ mới biết được sự thật mà thôi...[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dài nỗi đợi chờ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trầm Hương[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nếu người Mỹ có thói quen chào nhau "Good morning" mỗi sáng thì chị Sao mỗi ngày, khi đẩy cửa tiệm bước vào nhìn thấy tôi, câu đầu tiên của chị là: "Hôm nay trời nắng vui quá cô há!". Dĩ nhiên, gặp hôm trời ui ui buồn bã, chẳng thể kết luận "nắng vui quá", chị chỉ lặng lờ buông thõng một câu "Chào cô" rồi lủi thủi đi từng bàn, lấy những chai tương ớt ăn phở hay xì dầu đã lưng lửng, lui cui trong một góc quầy, châm cho đầy. Nhung nháy nhó với tôi, Bây giờ bà ấy "tỉnh" lắm rồi đấy. Hồi em mới mướn bả, nhìn bả hệt như người điên. Rồi Nhung chép miệng, chồng có bỏ thì kệ mẹ, ngu gì đau khổ cơ chứ. Thế giới còn chán vạn đàn ông mà nếu không có thằng cha nào thương mình, ở không như vậy chẳng phải khoẻ hơn ha? Tôi không thể đoán ra tuổi của chị mặc dầu chị vẫn giữ thói quen xưng hô chân chất của người dân miền quê, sự nể nang dành cho người họ nghĩ trên giai cấpï bằng cách nhún mình, tự xưng "em" dù kẻ đối diện có nhỏ tuổi hơn chăng nữa. Nụ cười của chị lúc nào cũng méo mó ngay cả khi chị kể lại một câu chuyện chị cho là rất thú vị. Cuộc đời đầy dẫy những cánh cửa mà nếu không lê la đến gõ, chúng ta sẽ chẳng thể hình dung ra những bí ẩn nấp sau nó. Cũng như chúng ta sẽ không thể biết được cuộc sống phong phú ra sao nếu không lăn xả vào cùng sống, phải không? Ngày tôi quyết định bỏ công việc ngồi văn phòng của mình để đi làm waitress, bạn bè thân sơ đều gào lên phản đối. Chị bạn ở Portland la muốn bể ống điện thoại: - Bà điên không? Làm cái gì không làm, chui vô cái nghề hầu bàn! Có hai nghề trên đời tôi thề không bao giờ rớ tới, đó là hầu bàn và làm móng tay. Có tiền thì có tiền, mình phải giữ cái giá trị (?) của mình chớ! Tại sao ông Huấn lại cho bà đi bưng đồ ăn vậy? Chỉ mấy người mới qua, chữ nghĩa không có mới phải hầu thiên hạ! Tôi thà, nếu làm nhà hàng, tôi làm chủ chứ không ngu đi làm đầy tớ như bà. Chị cho một dây lếch-chơ khiến tôi đắng họng, ú ớ nói liều: - Ừa, tui đi làm để có hứng... viết văn. Chị ré to hơn: - Bộ bà tìm thấy văn chương trong những đồng tiền típ thiên hạ thí cho bà hả? Đâu phải nhà văn đều phải là bồi bàn mới vọt ra chữ nghĩa được? Một chị bạn khác cùng thành phố khi tình cờ điện thoại đến, gặp con gái tôi cho biết mẹ con đang làm ở Cafe Han, chị canh giờ tôi tan... sở, tức tốc gọi liền, cho bài học khác: - Hết chuyện dỡn chơi sao mà đổi qua "dóp" thơm vậy má? Tụi nhỏ nó trẻ mới làm việc này. Mình già rồi, chạy lon ton coi chi đặng? Chưa kể cái con Nhung nó ghê lắm đó! Má cứ làm đi rồi má sẽ nghe được cả thành phố này nói về má ra sao. Có lẽ vui nhất với thái độ who cares là lũ con tôi. Đối với Đức, chuyện mẹ làm waitress chẳng khác gì công việc nó đang đứng sau cái Drive- through Window của Mc Donald. Chỉ là một phương tiện cho mục đích mình muốn. Đức cần tiền để mua sắm quần áo, đi chơi cùng bạn bè. Mẹ cần đổi… boss, cần có điều gì đó… vui vui trong quãng thời gian con cái đi học. Mấy đứa nhỏ hơn hí hửng vì trưa nào từ trường về, mẹ cũng có một hộp đồ ăn đầy nhóc thay đổi mỗi ngày của cô Nhung gửi. Riêng tôi, tôi đang thử thay đổi môi trường sống bình thường để tìm điều gì đó khác hơn. Và điều gì đó chính là những cánh cửa mà nếu chúng ta cứ tự giam trong bức tường của thành kiến, chúng ta sẽ không thể biết được cuộc sống đa dạng ra sao. Dạo mới nhận việc, một hôm, tôi chợt giật mình vì tiếng lầm thầm cất lên đâu đó trong tiệm. Mùa đông, cái mầu xám ảm đạm bên ngoài xâm chiếm cả cái nhà hàng rộng chưa kịp bật đèn. Chỉ một ngọn neon nơi bàn nước chỗ tôi loay hoay pha cà phê, đổ nước lạnh vào dẫy ly thủy tinh đang ngay ngắn xếp thành hàng. Ngó quanh quất, tôi nhìn ra cái bóng nhỏ thó của chị Sao đang tự nói tự cười. Tôi gọi lớn: - Chào chị! Chuyện gì vui thế? Kể em nghe với! Chị nhe răng: - Có chi vui đâu cô ơi! Ảnh tệ với em quá nên buồn, nói một mình vậy thôi. Tôi không có đức tính ưa đâm sầm vào đời tư người khác nên diễu dở: -Để em mở bản Nỗi Lòng cho chị nghe nhé! Hơi sức đâu buồn mấy ổng, chị ơi! Đàn ông mà! Cái câu an ủi rất huề vốn đó có lẽ chẳng mang lại chút ép- phê. Giọng hát người ca sĩ não nuột Yêu ai yêu cả một đời còn chị thì ư ử Đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn. Dường như câu hát bình dân của chị thấm hơn cách lựa chọn lãng mạn của tôi thì phải? Rồi chị bất chợt thở dài, la to: - Mình thương người ta mà người ta chẳng thương mình thì thôi, cô ơi! Nghe chị nói, tôi ngỡ như tiếng than của cô gái vừa lớn, mới chớm biết yêu đã biết sầu. Vừa lúc ấy, Nhung bước vào. Nhung nháy mắt với tôi, cười rích rích: - Đấy chị xem! Già chứ mà còn đa tình lắm. Chị Sao nè, em mà như ảnh, em bò về với chị ngay! Ổng có điện thoại gì cho chị không? Chị buồn bã: - Có! Ổng phôn cho con gái, nói, ổng chúc mừng sinh nhật nó! Có lẽ thấy tôi ngây ra không hiểu câu chuyện hai người, Nhung phân bua: - Chị ấy dở hơi lắm cơ! Chồng thì đẹp trai, cao lớn, hiền lành. Cãi nhau cứ việc cãi, lại dại dột ghen tuông đuổi ổng đi! Thế là ổng đi luôn! Bây giờ ngồi tiếc... Chị bẽn lẽn liếc tôi: - Thì lúc nóng lên nói tầm bậy, tưởng chỉ nói chơi ai dè ổng làm thật! Em nhắn gọi ảnh về mấy lần nhưng ảnh không chịu. Em bảo, Mình về với tui đi! Tui hứa không to tiếng với mình nữa đâu! Mình không thương tui thì cũng về, coi nhau như bạn. Còn hai đứa con nữa, mình cũng nên nghĩ tới tụi nó một chút. Thân tôi một chắt, lo sao cho xuể cả ba? Tôi nghe cũng mủi lòng, hỏi: - Ảnh trả lời ra sao hở chị? Chị Sao buồn bã lắc đầu: - Ảnh nói, bao nhiêu lần bà hứa không chửi tui mà khi cơn bà lên, bà quên mẹ hết! Tui là đàn ông chứ tui có phải là con bà đâu mà bà không nể trọng? Em hứa, em sẽ không như vậy nhưng ảnh hết tin em rồi! Thôi thì mình thương người ta mà người ta chẳng thương mình, làm gì được bây giờ? Thôi thì mình thương người ta mà người ta chẳng thương mình, câu nói một lần nữa được lập lại vẫn khiến tôi chẳng thể thoát khỏi nỗi xúc động đến não lòng. Tôi ngó khuôn mặt chị. Những nếp nhăn đã xếp lớp trên trán. Sự mệt mỏi lộ rõ bên đường rãnh hằn sâu từ cánh mũi xuống khoé môi, trong ánh mắt đã đục theo thời gian nhưng sao tiếng nói của trái tim chị vẫn còn như hừng hực lửa yêu đương thế nhỉ? Nhung lại cười ré lên: - Đúng là tình đầu ne-vờ đai! Khổ! Thôi, nếu anh ấy về, em hứa sẽ cho chị nghỉ một tuần lễ mà vẫn trả lương đủ cả. Chị ráng dụ ảnh về đi để hưởng tuần trăng mật nhé! Đôi mắt chị bỗng sáng rực lên, chị cười bẽn lẽn và chao ơi, trước mắt tôi, hình như không phải là người đàn bà đã ngoài năm mươi với rất nhiều dấu ấn của sự vất vả chất chồng mà rõ ràng, cái thẹn thùng của cô gái xuân thì khi bị đem ra chọc ghẹo. Chị reo to: - Khỏi cần cô Nhung cho nghỉ có lương. Em sẽ nghỉ luôn, ở nhà chăm sóc cho ảnh. Dường như cả buổi hôm ấy, chị mất hẳn dáng vẻ lù khù chậm chạp. Chị đẩy xe dọn dẹp nhanh nhẹn hơn và đôi lúc vắng khách, tôi lại bắt gặp chị ngân nga như trong vô thức, Đường vào tình yêu có trăm lần vui có vạn lần buồn. Đôi khi lầm lỡ, giết chết ân tình cũ. Tiệm ăn nằm giữa khu trung tâm thương mại toàn là Mỹ trắng. Đa số là dân cổ cồn cà vạt với rất nhiều văn phòng về đủ mọi dịch vụ chung quanh nên khách hàng khá lịch sự và nhã nhặn. Công việc chính của chị Sao là dọn dẹp, chuẩn bị bàn cho khách nhưng vào giờ cao điểm, từ 12 đến 1 giờ trưa, chúng tôi làm việc như một đội ngũ gắn bó, không phân biệt người nào nhất định ở phần vụ nào. Có lẽ cái không khí gia đình ấy đã là lý do giữ chân tôi lại khá lâu với Nhung. Vào những lúc đông khách, chị Sao vui lắm. Tay quơ chén đĩa bỏ vào chậu, mắt chị và cả đôi tai chị tuồng như vẫn lắng nghe tiếng chuông vào cửa. Tôi không hiểu trong tư thế đầy cảnh giác đó, chị có mang nỗi mong ngóng người chồng cũ bỗng đột nhiên xuất hiện không nhỉ? Thoáng có khách là chị buông ngay chiếc xe đẩy, tủm tỉm cười rất trẻ thơ, bước ra đón. Thường khi, chị chỉ nói giản dị một chữ Hi rõ to và sau đó, giơ một, hai hay ba ngón tay kèm theo câu hỏi ngắn gọn one, two hoặc three rồi cầm thực đơn, đưa khách vào bàn. Những hôm tôi bận không kịp lấy order, chị hăng hái ghi order luôn. Có lần, một người khách Mỹ ngồi dựa tuốt trong vách tường của cái ghế dài, hỏi chị cắt nghĩa một món ăn nào đó. Chị quỳ hẳn một chân lên mặt nệm, nhoài thân hình nhỏ thó đến sát tấm thực đơn anh ta cầm trên tay, mái tóc gần như kề vào mặt khách, nói huyên thuyên. Tôi bật cười khi từ bếp bước ra, thấy anh đưa mắt nhìn tôi nháy nhó cầu cứu. Tay phải cầm tờ thực đơn, tay trái anh ta luồn phía dưới, thò ngón tay trỏ, ngoắc ngoắc tôi ra hiệu. Tôi cười nhẹ: - Chị để em lo cho. Ông ấy muốn gì vậy hở chị? Chị nói rất to, cười hỉ hả: - Ổng muốn ăn món cá kho tộ đó. Ổng hỏi em, cá là loại cá gì? Tiệm mình dùng cá bông lau mà tự dưng em quên mất, không nhớ ra tiếng Mỹ cá bông lau gọi chi nữa. Em gọi nó là con fish flower. Thôi, chị nói lại dùm em đi. Chị sống tựa hồ giữa ranh giới của một đứa trẻ con và một cô thiếu nữ. Lần đầu tiên và duy nhất tôi biết được chuyện tình của chị và anh Quang- người chồng đã bỏ chị đi mà Nhung nửa đùa nửa thật gọi đó là "tình đầu ne-vờ đai"- do một sáng chị vào tiệm, mặt mũi bơ phờ với lời than, "Đêm qua, em nhức đầu quá, không ngủ được tới sáng". Rồi chị thẫn thờ buông tiếng thở dài: "Cứ đợi ảnh về mỗi ngày thế này làm răng mà ngủ được, phải không cô? Em qua đây, thân côi cút, chỉ có chồng và hai đứa con, ảnh nỡ bỏ em chi vậy?". Tôi ái ngại, "Thế gia đình chị không có ai ở Mỹ à?". Chị thở dài hơn, "Quê em tuốt tận cái làng có một chắt ở Quảng Trị đó. Cha mẹ em chết khi em còn nhỏ. Em được bà cô mang vô Sài Gòn, nuôi trong nhà như người giúp việc. Hồi đó, ảnh lái xe díp cho cái ông trung tá kế bên. Anh đẹp trai lắm. Tụi em đứa nào cũng mê mà ảnh đâu thèm biết tới em. Rồi ảnh lấy vợ. Lấy ai em cũng không rõ. Năm 75, em chạy theo gia đình bà cô qua trại tị nạn Fo- xáp- fi, gặp lại ảnh trong trại. Tụi em đều mừng cả. Dễ gì gặp lại người quen vào cái thuở ấy đâu cô? Chừng ấy, em mới hay vợ con ảnh đều bị kẹt lại. Em tội quá, chăm sóc ảnh tận tình. Rồi ảnh nói ảnh thương em, muốn chung sống với em. Em... mừng quá, nhận lời liền. Anh hiền và dễ thương lắm cô ơi! Chỉ tại em có cái bệnh nhức đầu nên nóng tính, nhiều khi chuyện không ra gì cũng dễ sanh chửi bậy. Ừ, ảnh mà về với em bây giờ, em sẽ không đi làm nữa, sẽ tu tâm dưỡng tánh để có được ảnh suốt đời. Mà cô đoán, ảnh có về không? Em thắp nhang khẩn cầu Phật Bà mỗi ngày đó". Chao ơi, tôi đâu có tài bói toán để nhìn ra tương lai dùm cho chị? Tôi cũng không thể nói bừa khiến chị thêm hy vọng nên đành ước thật: "Giá chi em gặp được ảnh, em sẽ kể anh nghe những điều chị nói. Nếu em là ảnh, chắc em thể nào cũng phải ù té chạy về cùng chị ngay". Chị cười rạng rỡ, đập cái chát đau điếng vào vai tôi: "Cái cô này, nhớ lời hứa hôm nay đó nghe!". Vào làm được hơn ba tháng thì liên tiếp bốn ngày, tôi không thấy chị. Hỏi Nhung, Nhung nói, "Cái bà ấy dở hơi lắm. Lúc làm lúc nghỉ, chả ra sao cả! Mọi lần còn gọi em xin phép. Lần này, chẳng thấy nói năng gì? Dám chồng về rồi nên lo ở nhà ấp chồng lắm à". Tôi cũng mong như thế. Cứ xin sẽ được. Cứ gõ, cửa sẽ mở. Chẳng phải Chúa đã phán dậy thế sao? Có lẽ những lời cầu khẩn của chị đã theo nhang khói, thấu đến tận Đức Phật Bà Quan Âm chăng? Tôi yên tâm với ý nghĩ này của mình cho đến một sáng cuối đông, mặt đường chỉ còn chút tuyết đọng lại nhưng cái lạnh vẫn còn buốt lắm, tôi bắt gặp người đàn bà Á Đông nhỏ thó trong cái áo nỉ đen bạc mầu dầy cộm quen thuộc, vừa đi vừa quơ chân múa tay, cười nói lầm thầm trên lề đường, ngược chiều với hướng xe tôi chạy. Chị Sao. Chị Sao… Xe vút qua, tôi còn kịp nhận thấy ánh mắt chị vô hồn hơn và nụ cười méo mó của một người dường như không còn trí nhớ... [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dáng Mẹ bên đời[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Võ Nguyên[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Buổi đầu, mẹ vào lớp, nhiều đôi mắt dồn về phía con. Mẹ đẹp dung dị trong chiếc vét mùa thu se lạnh. Cổ khoác voan vàng nhạt, thanh thản đến hồn nhiên. Nhưng sao đôi mắt mẹ luôn phảng phất một nét buồn, nhiều khi u uẩn. Mẹ cố giấu con điều gì ! Hôm mẹ giảng về con cò trong ca dao, cả lớp lặng thinh. Một nỗi xúc động đến nghẹn! Riêng con cứ ám ảnh chờn vờn về cuộc đời tần tảo. Sáng chủ nhật, mẹ đưa con về thăm ngoại. Khi chạy băng qua cánh đồng lúa non chập chờn trong mù sương, mẹ dừng xe: "Con cò kìa". Lần đầu tiên con thấy con cò kiếm ăn trên ruộng . Dáng đi lững thững trông buồn, cô đơn đến tội nghiệp. Mẹ bảo: "Nó hiền. Đáng thương lắm". Trong con bắt đầu vỡ ra một khám phá. Ngày ấy, bố vui như trẻ khi mua cây súng đưa về. Bạn bè lối xóm đến xem. Họ ngắm nghía nói cười, giương súng lên, đặt súng xuống. Từ đó hình thành một hội bắn chim. Chỉ có mẹ lặng lẽ, lặng lẽ một nét buồn. Thỉnh thoảng dăm bảy ngày, hội của bố kéo đi săn. Rồi kéo về rôm rả: nhổ lông, thui nướng, chiên xào, đặt lên bàn những đĩa thịt vàng rụm, thơm lừng. Và những chai rượu vơi dần. Mẹ không tham dự, không nói lời nào. Bố lại tìm được khoái cảm trong những cuộc vui như thế, hình như... chẳng bao giờ thấy bố quan tâm đến những vui buồn của mẹ và con. Xem chừng bố yêu cây súng hơn yêu mẹ, quan tâm đến những con chim trên ruộng trên rừng hơn việc học của con. Con bắt gặp ở mẹ một khoảng trống mơ hồ. Khoảng trống càng rộng, mẹ càng quấn quýt với con. Con cò dưới ruộng sải cánh bay lên, chao vòng rồi khuất trong sương. Mẹ tiếp tục chở con đi. Chủ nhật, đúng ngày rằm , ngoại ở chùa về, mang theo một lồng chim. Nghĩ ngoại đưa chim về làm thịt. Nào ngờ, ngoại bảo: "Hôm nay làm lễ phóng sinh, lấy đức cho con cháu". Ngoại mở lồng, những chú chim dáo dác vỗ cánh bay vút vào không gian. Mẹ nhìn theo, nụ cười rạng rỡ như tan vào trời xa. Chiều về nhà, hội bắn chim của bố đang vui vẻ. Bố khoe: "Sáng nay bắn được hai cò, và hai vịt nước". Mẹ điềm nhiên: "Thế à!". Bố bảo: "Lúc này cò nhát lắm, thoáng bóng người là bay". Mẹ cởi áo khoác: "Bởi nó muốn sống". Bạn bè tỏ ra thán phục tài bắn của bố. Cò đã sải cánh bay lên, bố còn bắn đón. Một chùm lông trắng rụng tả tơi trong không gian, con cò quay vòng rơi xuống. Con mơ hồ nhận ra ranh giới giữa hai tâm hồn. Đêm, bố vào giường ngủ chung với mẹ. Trời cuối đông, cái rét rập rình len vào da thịt mẹ ngồi soạn bài. Con hỏi: "Hai tâm hồn chẳng bao giờ hòa nhập với nhau sao?". Mẹ ngẩng đầu, mở tròn đôi mắt: "Con bảo hai tâm hồn nào?". "Giữa bố và mẹ". Khuôn mặt mẹ chuyển tái, như không tin từ miệng con, cứ nghĩ rằng con vẫn còn ngờ nghệch, rồi quay hẳn người lại: "Ai bảo con thế?". "Tự con cảm nhận". Mẹ lặng im. Con hỏi: "Thế ngày xưa bố mẹ có yêu nhau không?". Ngày ấy ra trường, mẹ về một vùng quê dạy học. Một vùng quê nghèo vắng lặng. Khu tập thể khá buồn. Người thanh niên ấy thường qua lại, chăm sóc, thể hiện tấm lòng chân thành đến vụng về. Mẹ bảo: "Hình như thương hơn là yêu". "Cưới nhau rồi vẫn thế?". Mẹ gật: "Khi đó mới nhận ra!". "Vậy con không phải kết quả của tình yêu?". Nước mắt mẹ bỗng trào và lăn trên gò má. "Bố có biết điều ấy hay không?". Mẹ lắc đầu: "Chẳng rõ!". Cái rét ngoài trời cứ len vào trong nhà, mỗi lúc một lạnh hơn. Bố đẩy cửa, lù lù bước vào. Treo áo mưa lên móc, bố xoa đôi bàn tay, rồi mở phích nước sôi pha trà, móc thuốc châm lửa ngồi hút: "Mai đi ba súng. Rét đậm thế này, chẳng biết chim có về không!". Căn nhà rơi vào im lặng. Đêm ấy, mẹ vào giường với con. Lâu rồi mẹ con mới ngủ với nhau. Lại một mùa thu nữa đi qua, mẹ sinh em bé. Dẫu bố làm ra tiền, nhưng vẫn thú săn chim. Con thương em như thương chính bản thân mình. Ngày mai, khi lớn lên, em có hiểu ra cái điều như con hiểu về bố mẹ hôm nay? Con thương sự chịu đựng của mẹ, nhưng con giận cả hai người. Thời gian đi qua như đường tên. Năm em lên sáu tuổi, con phát hiện ở chính mình đang mơ hồ một tình yêu. Mà chẳng mơ hồ đâu, con đang yêu. Mẹ bảo: "Cuộc đời ngắn lắm! Gắng sống cho ý nghĩa". Con hỏi: "Mẹ thấy đời mình có ý nghĩa không?". Khuôn mặt mẹ trở nên nghiêm trang: "Mẹ rất yêu các con". Con ngước nhìn qua cửa sổ, sương mờ đang mỏng dần. Hình như thấp thoáng trên cánh đồng phía xa kia có người đang săn chim. Mẹ bảo: "Còn mười năm nữa, mẹ đến tuổi nghỉ hưu". Và mẹ ngước mắt nhìn qua cửa sổ. Con thường bắt gặp cái nhìn xa xôi ấy của mẹ, khác nào cái nhìn của con bây giờ, đâu đó chợt hiện về một hình bóng trong vô cùng nỗi nhớ. Và hôm nay con cảm thấy rùng mình, bởi cảm nhận trong đôi mắt mẹ có một bóng hình ai đó, nhưng không phải là bố con. Ngoài kia, sương loãng dần. Lại một mùa thu đang đi qua. Đi qua trong đời mẹ. Đi qua trong đời con. Đi qua ngôi nhà này. Ngôi nhà nửa lạnh nửa ấm, có mấy ai bên ngoài biết được! Với mẹ, thế là một cuộc đời.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dấu hỏi gửi đời[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đoàn Lê[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cuối tuần trước nàng đã đưa đám người tình thứ mười bảy. Vâng, thứ mười bảy trong số hăm ba người xếp theo thứ tự. Ông ta thuộc diện khá được ưu ái, lại cùng sống trong một khu phố với nàng, một đạo diễn điện ảnh hết sức phong nhã. Mở đầu vị nhà thơ số tám ra đi trước tiên, rồi tiếp đến ông họa sỹ độc thân số mười một. Năm ngoái, tới lượt ông trung tướng về hưu số năm. Cả ba người xấu số đều được nàng tặng những bó hồng bạch và tiễn đưa đến tận lúc họ lên xe ô tô. Bao giờ cũng thế, nàng đợi cái quan tài của người tình đặt yên vị trên xe tang, khi ai đó đứng lên nói lời cảm tạ bà con thân bằng cố hữu, nàng mới từ cuối dòng người lặng lẽ đi tới nghiêng người đặt bó hoa hồng bạch trên nắp quan tài, mặc cho những đôi mắt tò mò nhìn nàng. Nàng kiêu hãnh vì được đàng hoàng vĩnh biệt người bạn tình, như thể nàng thách thức cả thế gian này đàm tiếu. Rồi nàng thong thả quay về nhà. “Hãy tha lỗi cho em. Em đã không dám mang khăn sô, mũ mấn, không dám níu quan tài anh để thỏa sức nức nở. Những giọt nước mắt đau đớn em xin gửi vào những cánh hồng. Hãy nhận lấy tình em, anh yêu…” Rằm tháng bẩy theo gợi ý của lão hàng mã, nàng sắm gươm, kiếm và một con ngựa bạch cho ông trung tướng. Dưới cõi âm các quan đi làm việc đều phải đầy đủ lệ bộ như vậy. Với ông thi sỹ, lão hàng mã cho rằng cần cấp một căn nhà, tiền vàng, đô la thật nhiều để ông ta yên tâm làm thơ. Ông họa sỹ ngoài bút vẽ, sơn dầu, phải có dăm chai rượu ngoại. Tốn kém nhưng khi hóa vàng nàng vô cùng thỏa nguyện. Đêm mười sáu nàng mơ thấy cả ba ông đều về, mỗi người một vẻ xúc động… Tất cả những điều này tôi biết được nhờ hai cuốn nhật ký nàng để lại. Hai cuốn nhật ký ấy đến tay tôi bất ngờ như những mảnh thiên thạch rơi xuống từ cơn mưa sao. Trước hết nó làm tôi choáng váng. Không thể tin người đàn bà gù bé nhỏ bán sách báo ngay cùng nhà tôi lại có nét chữ đẹp đến thế. Tưởng chừng mỗi nét nàng đều trân trọng nắn nót. Ông giáo già độc thân khó tính như tôi nhưng nhìn trang giấy với những hàng chữ gọn gàng đều tăm tắp, tự nhiên tôi sinh ra kính trọng nàng. Bằng nét chữ, nàng bỗng thoát xác thành con người khác, một tiểu thư gia giáo, mơ mộng. Người đàn bà gù tội nghiệp thường ngày chỉ là cái vỏ xấu xí của một nàng tiên bị đày đọa. Trong những trang sổ còn phảng phất mùi thơm của những cánh hồng khô, tôi vừa đọc vừa đoán những tên người viết tắt, những ý tứ lấp lửng rất tế nhị. Giữa hăm ba người tình, ông trung tướng có tên là "phờ", Phan, Phúc, Phú đây. Còn "phờ" thêm gờ phía sau như ông đạo diễn chắc mang tên Phong hay Phùng gì đó. Người duy nhất tôi biết cụ thể là diễn viên đóng vai Chí Phèo, mang số mười ba. Anh ta được dán kèm tấm ảnh cắt trong họa báo. Nàng say đắm cũng sớm tuyệt vọng ở mối tình ấy. “Sao anh nhìn em quá thờ ơ như thế? Anh không nhận ra bàn tay em run rẩy khi trao cho anh mấy tấm phong bì ư? Anh cũng không nhận ra chút mẹo vặt để sáng nay em được nấn ná thêm một lát bên anh ư? - Tôi không có tiền lẻ trả lại anh đâu. Tôi cho anh nợ vậy - Để tôi đi đổi - Sáng sớm mai ít người có sẵn tiền lẻ. Thôi anh cứ cầm lấy, tôi biếu anh, lúc nào tiện anh ghé qua mua báo giúp tôi là được - Đừng… chị làm tôi áy náy quá…” Anh cứ lục túi áo mãi. Chợt anh reo khẽ. Trời ơi, lúc đó đôi mắt anh sáng lên niềm vui hồn nhiên biết bao. Anh tìm thấy một tờ năm hào nằm quăn queo ở góc ví. Anh cố vuốt phẳng lại. Em đi vòng ra trước quầy hàng để nhận tờ năm hào bằng cả hai tay. Điều cốt yếu, như thế, em được sát gần anh hơn, được cảm thấy hơi ấm từ thân thể cường tráng của anh lan thấm vào em”. “Anh đi rồi, cái giọng trầm êm với tiếng cười nhẹ nhàng, cứ khiến lòng em đau thắt. Bao giờ em lại được nghe anh nói cùng em lần nữa? Em cầu Trời khi nào về qua đây, anh sẽ ngoái nhìn em mỉm cười, như thể chúng ta có một chuyện riêng tư với nhau đã từ lâu lắm. Sẽ đúng thế phải không anh, dù chỉ một lần thôi…”. Đêm đó cũng như nhiều đêm sau, nàng mơ thấy anh ta, những giấc mơ nồng nàn, ngọt ngào. Song chưa đầy ba tuần sau, nàng bỗng bắt gặp anh ta đi sóng đôi với một cô gái xinh đẹp. Họ cười nói ra chiều lơi lả. Họ đi sát qua quầy sách báo tưởng chừng cố tình trêu ngươi. Anh ta không hề lướt mắt tới cái nhìn ngây dại tuyệt vọng của nàng. Chưa bao giờ nàng bị tổn thương đến thế… Vĩnh biệt mối tình số mười ba ngắn ngủi! Nàng không giận anh, nhưng cố quên anh đi. Xin vong linh nàng tha thứ, tôi không dám kể lại tất cả hăm ba mối tình si mê tội nghiệp của nàng. Nó chỉ là một chuỗi khao khát dày vò. Hoặc nàng tự huyễn hoặc mình để xoa dịu sự dối trá lớn nhất nàng muốn để lại cho thế gian. Dù sao tôi cũng đã đọc cả hai cuốn sổ không bỏ qua một dòng nào, sau khi tìm thấy chúng trong cái hòm sắt nhỏ. Và tôi đã tiếp nhận chuyện hăm ba người tình của nàng hết sức nghiêm túc, thậm chí với niềm thương cảm sâu sắc. Chẳng lẽ chúng ta những kẻ lòng dạ đầy ác độc, không bao giờ tha thứ cho kẻ phản bội, lại chê cười một trái tim chỉ biết yêu thương, yêu thương không đòi hỏi, không thù hận hay sao? Trái tim ấy hồn nhiên khao khát được hiến dâng, bao dung hỉ xả đến mức thánh thiện. Nó đã không bị sự mặc cảm dung tục làm vấy bẩn. Nó khiến cho tôi phải gọi con người mang trái tim đó bằng Nàng, dù nàng xấu xí đến đâu, thậm chí già nua hơn nữa. Chuyện này xảy ra từ buổi trưa nay, khi bỗng dưng tôi tỉnh giấc bởi thứ tiếng ồn ào đâu đó vọng tới. Rồi có tiếng gõ cửa phòng. Lão Đúa xuất hiện với đôi mắt thất thần nhìn tôi. - Ông giáo ơi, cô Huệ chết rồi. Tôi bật dậy. Suốt từ khi chúng tôi làm hàng xóm với nhau, tôi nhớ không lầm, lão Đúa chỉ bước chân vào phòng này buổi chiều mồng một Tết mỗi năm. Thế nên sự xuất hiện đột ngột của lão cộng thêm mấy lời thông báo ngắn ngủi cứ làm tôi ngây ra. Đôi dép như biến mất dưới chân tôi: - Làm sao cô ấy lại chết? - Chiều nay tôi không thấy cô ấy dọn hàng, mà gọi cửa gửi chìa khóa mãi mà không được, tôi sinh nghi gọi bác Tài gái cạy cửa vào… Cô ấy nằm trên giường như ngủ mới lạ ông giáo ạ. Tôi chợt hiểu tiếng xì xào chắc hẳn từ dưới đó. Tôi cùng ba hộ khác sống trên khu nhà chính, lão Đúa với cô Huệ chia thành hai hộ ở cái ga ra phía sân sau. Hàng ngày hai tấm cửa gỗ ga ra đều đóng. Lão Đúa với cái xe đẩy bán tạp hóa rong, chưa ra khỏi ngõ đã nghe tiếng loa điện eo éo: Một người đi với một người, một người lặng lẽ buồn thiu đứng nhìn… Còn nàng, quầy sách báo dọn ngay dưới gốc cây sấu già đầu ngõ. Khu nhà chúng tôi sống hết sức êm đềm, hầu như chưa xảy ra sự cố gì cho tới hôm nay. - Vậy bây giờ phải đi trình báo. Thủ tục rầy rà lắm đây. - Vâng, bác Tài đã đi báo công an phường. Bác Thu gọi điện thoại cho người nhà cô ấy trên Hà Giang về. - Cô ấy có người nhà ở Hà Giang ư? - Vâng. Trong khi chờ đợi chúng tôi muốn mời ông giáo cùng xuống xem xét… Tôi đã mặc xong quần áo, theo chân lão Đúa xuống sân. Trên con đường ngắn ngủi ấy toàn bộ những hiểu biết về người đàn bà gù được tôi tập hợp lại. Ô, hóa ra tôi chẳng biết nhiều nhặn gì ngoài quầy sách có nhiều tiểu thuyết Mỹ cho thuê, cái bóng dáng dị dạng hàng ngày qua lại lặng lẽ, tiếng thưa gửi nhỏ nhẹ như luôn biết thân biết phận, cố gắng để không làm phiền ai, cố gắng để ít ai nhìn ngó đến mình. - Ông nói cô Huệ có người nhà ở Hà Giang, họ là thế nào với cô Huệ vậy? - Hai người anh ruột, ông giáo ạ. Cô ấy nghe đâu con nhà buôn bán khá giả nhất vùng. Sau khi cha mẹ chết anh em ăn ở với nhau không được hòa thuận, cô ấy bỏ lên Hà Nội, không bao giờ về nữa. Mà xem chừng hai ông anh cũng tệ, tôi chưa thấy họ tìm đến đây thăm nom cô ấy một lần nào. Cái ga-ra được ngăn đôi bằng bức tường xây, lúc nào bên trong cũng tối nhờ nhờ. Được cái cả hai bên đều ít đồ đạc nên họ sống khá gọn gàng. Chưa kể cái tủ phấn với tấm gương lớn, cái giường trải đệm hoa rất sạch đã khiến căn phòng của nàng trở nên ấm cúng. Nàng nằm đó, dưới tấm chăn xanh nhạt. Một vệt nắng lướt trên đôi dép nhựa ngay ngắn dưới chân tường… Tôi, lão Đúa cùng dăm người đàn bà trong khu nhà đều bỗng dưng dè dặt trước cảnh bình yên thanh khiết đó. Cuối cùng người ta kết luận nàng bị đột tử do trụy mạch tim. Đến sẩm tối điện từ Hà Giang về cho biết không tìm ra địa chỉ mới của hai người anh, từ khi họ kéo nhau đi Trung Quốc. Dân cư khu nhà chúng tôi thống nhất sẽ đứng lo tang ma đầy đủ cho khỏi tủi vong linh người đã khuất. Xem ra cách ăn ở khiêm nhường của nàng rất được cảm tình xóm giềng. Cái hòm sắt nhỏ được mở khóa dưới con mắt chứng kiến chung. Tài sản có đôi nhẫn vàng, một cuốn sổ tiết kiệm gần ba triệu đồng, vải vóc loại sang trọng, những thứ chúng tôi chưa hề thấy nàng mặc bao giờ. Tiền nong thừa lo đám tang, kể cả việc mua một khu đặt di hài vĩnh viễn sau khi hỏa táng. Một tiểu ban tổ chức được cử ra để lo toan tất cả mọi việc. Riêng hai cuốn sổ nhật ký họ trao cho tôi xem xét. Lỡ có điều gì quan trọng ghi lại trong đó… Đêm ấy tôi cùng lão Đúa, hai lão già độc thân khó ngủ, tự nguyện thức trông coi nàng. Lão Đúa pha một ấm trà ngon, chong đèn sáng choang, mở tung cửa, lúc thắp hương, lúc lại ngồi thừ bó gối nhìn ra mảnh sân chung với cây bàng non xào xạc hai tán lá đầu tiên. Còn tôi, tôi mải mê đọc, chìm vào thế giới đầy huyền hoặc của nàng giữa mùi hương phảng phất. Đêm đêm trong căn phòng này nàng đã mơ những giấc mơ vô cùng ngọt ngào. Những người tình đã tới thủ thỉ bên gối nàng cả ngàn lời âu yếm. Không ai gian dối, không ai thô lậu, vô tình, mọi người đều tìm cách chiều lòng nàng, nhận sự hiến dâng của nàng như nhận một ân phước. Đêm đêm những vòng tay ân ái nâng niu đưa nàng vào giấc ngủ êm đềm… Có một cuộc du lịch nho nhỏ với ông nhà báo, nhưng giữa đêm nàng tỉnh giấc vì cơn mưa phá vỡ. Nàng tiếc vô cùng, không rõ chuyến đi du lịch kết thúc ra sao. Hơn thế nàng thức dậy đúng khi ông ta đang kéo tay nàng dìu vào một vòm cửa tòa lâu đài. Cả người nàng ớn lạnh trong sự chờ đợi đôi môi người tình đặt lên môi nàng cái hôn đầu tiên… Tuy nàng không viết rõ nhưng tôi hiểu trong tất cả những giấc mơ tình yêu ấy nàng thật xinh đẹp, óng ả với những bộ trang phục thanh nhã nhất. Nàng viết: “Ta đi rất chậm. Gió từ lòng hồ làm bay tung hai tà áo vàng nhạt tựa như chút nắng mùa thu vương vất quanh ta. Những cặp mắt tò mò dõi theo. Ta muốn mỉm cười nhưng vờ thờ ơ. Ta đang hồi hộp thắt lòng chờ người ấy đến…” Làm sao có chỗ cho một khuyết tật xuất hiện trong những giấc mơ tuyệt vời đó? Cái thực tế phũ phàng đã được nhốt kín lại. Bởi nếu nó sổ lồng, dù chỉ thấp thoáng, lập tức mọi thứ sẽ tan tành. Để chống lại sự dày vò tâm hồn nàng bằng cái lưng gù, nàng tìm cách thắng ông ta, thắng tuyệt đối bằng những giấc mơ. Ở khía cạnh ấy nàng thật đáng khâm phục… Lão Đúa thở dài đánh sượt, dịu giọng hỏi tôi: - Cô ấy viết gì nhiều vậy ông giáo? - À, toàn chuyện loanh quanh nghĩ ngợi thường ngày. - Có cần giữ lại cho người nhà cô ấy không nhỉ? - Không cần. Mai tôi sẽ bỏ vào áo quan cho cô ấy. Những nghĩ ngợi chả liên quan đến ai. Sao lại không liên quan đến ai? Thực lòng tôi muốn thông báo cho tất cả mọi người dù vô tình nhưng đã tới căn phòng này, họ phải mang những bông hồng bạch đến vĩnh biệt một trái tim từng yêu thương họ vô điều kiện, thổn thức vì họ ngày đêm, biến họ thành những trang nam nhi hào hoa lý tưởng, và ai cũng có phần trọn vẹn của người đó trong nàng… Nếu không, tôi xin hứa trước vong linh nàng, sáng sớm mai tôi sẽ mua mười chín bông hồng bạch đặt lên linh cữu thay mặt mười chín gã đàn ông vô tình bội bạc. Là tôi trừ cho bốn ông đã chết. Lão Đúa lại thở dài. - Ông giáo ạ… Lẽ ra sự thể đã không như thế… - Ông muốn nói đến sự thể gì? - Tôi ngạc nhiên hỏi lão. - Vâng, lẽ ra… lẽ ra… cái đêm ấy… Bằng những lời gãy đôi gãy ba, lão Đúa kể cho tôi nghe về một đêm mưa cách đây chín năm. Cơn mưa của chín năm về trước đã kéo dài từ chiều. Đến nửa đêm gió lồng lộng như bão. Đèn đóm cả phố tắt ngấm ngay chập tối. Lão Đúa đi nằm rất sớm. Tuy có chén rượu thuốc thường lệ bữa cơm chiều để dỗ giấc ngủ, nhưng lão cứ bồn chồn thao thức. Lão ngờ những vết thương trong người lại dở chứng. Khi người ta đã xấp xỉ năm mươi, không cần cái thẻ thương binh cũng đủ rệu rã. Huống hồ trong người lão mọi thành phần đều có địch nằm vùng, chỉ rình cơ hội phá hoại. May sao quá nửa đêm lão thiếp đi được. Nhưng lão lại choàng dậy ngay lập tức. Lão thức giấc vì hình như có tiếng động cửa liếp. Ờ, cái cửa vốn xưa nay chẳng muốn chặt chẽ với ai, cứ khẽ động là nó hồ hởi bung ra ngay. Rồi có thêm tiếng quần áo sột soạt. Lão Đúa không sợ ma, càng không sợ trộm. Nhưng dù sao cũng cứ nhồn nhột. Lão cần tìm cái gối gỗ cầm tay, ngồi nhỏm dậy đề phòng. Trong khung cửa bỗng nổi lên ánh sáng âm u của một làn chớp nhẹ. Lão nhận ra cửa đã mở toang và một bóng người đứng sững đó. Lão Đúa nín thở. Có giỏi vào hẳn đây, ông thì phang thật lực! - Ông Đúa ơi, có nến không thế? Lão Đúa hoàn hồn. Lão đã quá quen với cái giọng gượng nhẹ của cô hàng xóm. - Có đấy. Để tôi lấy… Lão lập cập que diêm soi tìm đôi dép. Ánh lửa bừng lên rồi tắt ngấm ngay. Lão quờ quạng chân trên mặt đất ẩm ướt… Bỗng nhiên một thân thể đàn bà ấm nóng, ngào ngạt mùi thơm nước lá gội đầu, cái thân thể ấy áp vào lão, bàn tay lần giữ áo lão không cho đánh diêm. - Đừng… Em không cần ánh sáng… Và mưa ở bên ngoài dữ dội hơn trước. Lão Đúa đã dứt lời. Tim tôi cũng như ngừng đập. Lại còn thế nữa. Nhưng tôi cũng không hề đọc một chữ nào về chuyện lão Đúa kể, thậm chí cái tên lão cũng không một lần xuất hiện trong hai cuốn nhật ký. Tôi cứ chằm chằm nhìn lão nghi ngại. Còn lão không để ý đến phản ứng của tôi, chỉ lơ đãng ngó ra khoảng mông lung ngoài sân. Không, người như lão Đúa không thể bịa ra chuyện tày đình trước vong linh người đang nằm kia. Câu chuyện được tóm tắt quá ngắn gọn với lời kết luận nửa vời của lão Đúa càng chứng tỏ lão không có tính tô vẽ. - Nghĩ cũng tội, con người ta thật là… Một cơn gió lạnh đột ngột ùa vào phòng làm tắt ngọn nến đặt lên bát cơm trứng, như thể còn có người thứ ba vô hình lẩn quất quanh đây. Với vẻ bối rối, lão Đúa đứng dậy thắp lại ngọn nến. Tôi nghe gáy mình hơi ớn lạnh. Biết đâu chẳng có sự hiển linh nào đó… Quả nhiên chưa đầy giây sau một tiếng dép khẽ khàng khua động. Có thể nàng sắp đi vào phòng, cầm lấy hai cuốn sổ nhật ký với vẻ giận dữ. Nhưng người đi vào phòng lại là thím Thu, người Tàu lai, ở ngay sát phòng tôi. Thím bê cho chúng tôi hai bát chè bột sắn trứng gà vừa nấu xong. - Tôi cũng có ngủ được đâu. Nghĩ mà thương cô ấy. Chỉ vì ông trời bắt mang tật, chứ người tốt nết như cô ấy thiên hạ không dễ kiếm đâu các ông ạ. Tôi cũng đã làm mối khối đám nhưng cô ấy không chịu. Tôi liếc nhanh lão Đúa. Thấy chưa, ông đừng tưởng cô ấy dễ dãi. Hãy ngắm thử cái mặt nhăn như trái táo héo xem. Cứ cho rằng chín năm trước ông còn phong độ hơn, nhưng ai đã bằng ai? Thân phận một anh bán tạp hóa rong, gia tài chỉ có cái xe đẩy, ông ngỡ mình báu lắm đấy? Một chút ghen tức ùa vào lòng tôi. Tôi nghĩ đến cái thân thể còn trinh nguyên, cho dù có khuyết tật chăng nữa, với một tâm hồn ý nhị đầy mơ mộng kia làm sao có thể lạc vào vòng tay đen đúa khô cằn ấy được. Thím Thu đã lên nhà. Lão Đúa pha ấm trà mới. Mùi sen bay hương trong chén nước tỏa khói, nó làm dịu đi cái lạnh lẽo trong phòng. Vào những đêm như thế này thiếu một tiếng khóc hờ khóc nỉ non thảm thiết của những người thân thì thật đau đớn cho người ra đi. Tôi chợt nhớ nàng từng ao ước cầu nguyện có một đứa trẻ để ôm ấp. Ơ, giá mà… Tự nhiên tôi sinh độ lượng với lão Đúa. Có thể vì cái cử chỉ cung kính lão nâng hai tay chén trà mời tôi, có thể vì nhớ những dòng tâm sự mủi lòng khi nàng tự ví mình là một quả táo điếc, một người đàn bà bị nguyền rủa vì không được sinh nở… Tôi bỗng nhẹ giọng bảo lão: - Nếu như cô ấy có được đứa trẻ để bồng bế cũng đỡ buồn. Cánh ta đàn ông đã đành, phải không ông? - Vâng, tôi hiểu quá đi chứ. Cái đêm mưa gió đó hẳn là mong mỏi đến thế nào cô ấy mới liều lĩnh vậy. Nhưng… Lão Đúa gằm mặt xuống vẻ đau đớn. Rồi sau vài giây yên lặng lão ngước nhìn tôi, cái nhìn sầu thảm thống thiết. Cả người lão run bắn lên. - Tôi không thể… một mảnh đạn đã khiến tôi không còn ra giống người ông giáo ạ. Tôi âm thầm bỏ làng ra đây, tự coi như đã chết, cũng vì lẽ đó. Tôi không dám nhìn lão nữa. Ôi cuộc sống tưởng chừng bình lặng trong khu nhà tôi, nó chứa đầy những cơn sóng ngầm dữ dội. Tôi thắp thêm một tuần hương cho nàng. Dưới tấm chăn mỏng, hình hài nàng cong lại tựa hồ một dấu hỏi bất động.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dấu lặng trong điệp khúc[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dương Thụy[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Anh đã nhận ra cô ngay khi cô còn chưa bước chân vào nhà hàng qua tấm kính trong . Cô mặc áo dài màu sẫm, tóc đã uốn ngắn lưng lửng nơi vai, trông lớn hơn nhưng cũng đẹp hơn bội phần so với lần gặp cuối cách đây 1 năm. Cô đi với 1 nhóm khách ngoại quốc. Anh nghĩ “Vậy là lại theo truyền thống của khoa ngoại ngữ dành cho con gái có ngoại hình đẹp”, rồi bất giác nhếch mép cười. Và kể từ lúc cô xuất hiện trong nhà hàng, anh cảm thấy mình bất ổn. Anh nói năng không được mạch lạc, làm đổ rượu ra bàn, cầm nhầm dao ăn của khách… Các ông tây ngạc nhiên vì sự bất cẩn của anh, nhưng rồi họ cũng khám phá ra anh đang bị tà áo dài ngồi ở cuối phòng chi phối. -Cô ấy đẹp đó chớ ! -Trông cô ấy cười duyên dáng quá! -Như thế mới làm thông dịch viên với khách nước ngoài được chứ ! Anh chỉ cười khi nghe họ ồn ào nhận xét về cô, tự hứa sẽ không để lộ bất cứ chuyện gì nữa. Nhưng anh lại thấy nhấp nhỏm, anh muốn được chuyện trò với cô. Cuối cùng thái độ ngồi trên lửa của anh làm những người khách cùng bàn bật cười và họ tế nhị xin phép về trước: -Tôi hiểu, cậu còn trẻ lắm. -Cảm ơn đã đi ăn tối với chúng tôi -Cứ thế nhé, chúc thành công với cô ấy! Thở phào nhìn họ rút lui trong trật tự, anh bình tâm ngồi lại ngắm nhìn cô kỹ hơn. “Tưởng rằng đã quên, hoá ra”, anh tự thú nhận “mình vẫn còn …” Ngày đó cả trường đều biết rằng anh và cô phải lòng nhau, họ nói 2 người rất xứng đôi ừa lứa, ít ra là nhìn từ bề ngoài. Bản thân anh cũng nhận thấy như vậy và thầm mơ ước thật sự trở thành tri kỷ với cô. Và chắc rằng, cô cũng mong như vậỵ Nhưng phàm ở đời, không có gì đơn giản và dễ dàng. Anh biết mình khó có thể vượt qua bức tường vô hình ấy, còn cô thì … Cả bàn cô ngồi đã lục đục đứng dậy chuẩn bị ra về Anh hốt hoảng, nếu để vuột cơ hội này, sợ không còn dịp để chuyện trò cùng cô. Lúc cô đi ngang qua, anh lúng túng cất lời: -Ly đi phiên dịch hả ? Cô nhìn anh không vui không buồn, không bất ngờ cũng không hồ hởi. Cô cươì nửa vời: -Thưa thầy! thầy cũng đi với khách ? -Ừ, anh gật đầu, vẫn công việc cũ . Cô quay sang giới thiệu vớI khách của mình anh là một người quen xin tạm biệt họ tại đây. Anh khó chịu “Thật ra chẳng bao giờ cô ta xem mình là thầy cả!” Cô vén tà áo dài rất điệu nghệ, tự tin mỉm cườI ngồi xuống ghế đối diện với anh . -Thầy nghỉ dạy luôn ? Em tiếc cho lứa đàn em sau này. -Ly là người từng chê bai tôi dạy khó hiểu mà – Anh vẫn chưa quên chuyện cũ . -Dạ đúng! Thì em nói tiếc là tiếc cho lứa đàn em không có dịp được thọ giáo một người khó hiểu như thầy ! Lại méo mó. Anh lắc đầu cười. Lâu lắm rồi hình như không có ai nói chuyện theo cái lối dễ chạm tự ái kiểu này với anh. Và hình như trong đời anh, cô là người dám làm chuyện đó. -Tôi dạy khó hiểu thì OK ! Anh lấy lại phong độ và bản lãnh của 1 chàng trai sớm thành đạt – Nhưng tôi thiết nghĩ, để bị cho là người khó hiểu, thì phải nên xét lại. Vì sao những bộ fim đoạt giải Oscar, những quyển sách đoạt giảI Goncour đều được cho là khó hiểu ? Vấn đề là ở chỗ, người đối diện không được thông minh lắm. Cô nhướng mày nhìn anh, cười phô hàm răng ngọc ngà, mắt cô long lanh, khuôn mặt bừng bừng sáng . Anh thấy nhói đau nơi tim: Cô đẹp quá ! Cô không đốp chát lạI anh câu này, chỉ cười, thật lạ ! - Mà không phảI chỉ 1 mình Ly chê tôi khó hiểu - Anh nói tiếp vẻ tự tin và hơi ngạo mạn – Tôi cũng tiếc cho mình: đến nay vẫn chưa có ai kiên nhẫn để tìm hiểu tôi . - Thầy - Cô vẫn còn cười - Thầy có biết không, một viên kim cương còn thô thì người ta có đủ kiên nhẫn để mài dũa nó cho đẹp hơn sáng hơn; chứ 1 viên đá bình thường thì cùng lắm là ngườI ta đủ sức mài mòn cho nó trơn láng, ai đâu đủ kiên nhẫn mà mài gọt nuôi hy vọng sẽ phát hiện 1 viên ngọc trong đá . Đã là đá rồi thì có làm gì, bản chất của nó cũng chỉ là đá thôi.Vô dụng! Lần này thì anh tái mặt. Cái ví dụ của cô mới thật là hỗn xược. Thế mà cô vẫn tỉnh bơ, lại có ý dò xét thái độ của anh. - Tôi tự hỏi – Anh hít hơi - Tại sao tôi và Ly cứ nói chuyện theo kiểu này hoài ? Dù sao tôi cũng là… - Em xin lỗi - Cô lại cười, vẻ mặt chẳng tỏ gì là ngườI biết lỗi – Em chỉ mạo muội thử lòng kiên nhẫn của thầy 1 chút thôi mà ! Như thầy, đã nắm trong tay mình 1 viên kim cương mà còn không đủ kiên nhẫn để… Anh hiểu, cô đang trách móc anh. Anh đã chạy trốn, đã bỏ đi viên ngọc mà nhiều người mơ ước. -Thôi được, Tôi-không-phải-là-người-có-kiên-nhẫn, Anh đều giọng. Nhưng xin mạn phép cho tôi hỏi điều này: Ly đã tìm thấy ai đủ sức mài dũa kim cương chưa ? Lần này, anh nhận thấy đến phiên cô tái mặt. Nhưng cô cũng bản lãnh lắm: - Hứa để mài dũa khi đã sở hữu kim cương thì có rất nhiều người – Cô xuống giọng- Nhưng em còn nghi ngờ tay nghề và con mắt nhìn ngọc của họ . - Tôi và Ly lại sa đà vô cách nói chuyện theo trường phái trừu tượng nữa rồi – Anh thốt lên khi thấy cô bắt đầu không còn giữ được bình tĩnh – Mình nói chuyện khác nhé ? - Lúc thầy đi du học, thầy đã làm đơn nghỉ dạy rồi phải không ? Cô gượng gạo đổi đề tài - Ở bên đó 1 năm thầy có bị các cô đầm bao vây không ? - Không! Mấy cô đó chê tôi – Anh nói xong mới thấy mình lỡ lời vạch áo cho người xem lưng - Ly biết chê gì không ? - Dạ không – Cô thật thà. - Họ chê tôi chỉ có một điểm- Anh mỉm cười, nghĩ mình có thể chuyển hướng câu thú nhận ngu ngốc vừa rồi - Họ chê tôi sao toàn vẹn quá ! - À, cô cũng hơi bị bất ngờ vì tài bẻ lái của anh. Cũng đúng thôi, họ chê thầy là phải. Vì như nhận định từ ngàn xưa “Nhân vô thập toàn”, thầy đã thập toàn thì ắt không còn là nhân nữa . - Ly! – Anh kêu lên- Không thay đổI 1 chút nào hết ! -Thầy cũng vậy - Cô đột nhiên ấm ức- Em ghét thầy ! Thế rồi cả 2 ngỡ ngàng nhìn nhau. Trong ánh mắt của cô anh vẫn dễ dàng nhìn ra hình bóng của mình. Nhưng những gì đã qua… Anh đã chạy trốn cô, trốn viên ngọc sáng giá dù chưa gọt dũa. Anh sợ mình sẽ lu mờ bên cạnh cô. Anh tìm ngươì ít lấp lánh hơn. Anh đã tập quên cô và hình như sắp toại nguyện nếu như đừng có cuộc gặp gỡ này. Anh chợt hiểu, anh sẽ không bao giờ thoả mãn với bất kỳ người con gái nào khác, vì họ sẽ trở nên thô kệch trong mắt anh qua lăng kính con người cô. Còn nhượng bộ ? Anh không có ý định đó với cô. Anh biết mình ích kỷ . - Bao quanh thầy và em ngày ngày là những người khách nước ngoài – Cô lên tiếng trước - Họ đến rồ đi, chẳng cần để ý quan tâm gì. Còn dân mình lại cho công việc của thầy và em là tuyệt diệu. Em hiểu, thâỳ có lý của mình khi quyết định bỏ dạy để đầu tư vô ngành ngoại giao. Và em cũng hiểu vì sao gia đình và bạn bè lạI chân thành khuyên em sau này ra trường đi theo ngành du lịch. Em không cưỡng được sức hút của cuộc sống… Thầy ! Cô chợt gọi anh đầy thảng thốt. Anh thì có thể làm gì. Anh cũng như cô. - Đừng suy nghĩ rắc rối nữa - Anh mỉm cười tỏ vẻ bao dung khích lệ - Cứ sống như mọi người và… tìm cho mình 1 chỗ dựa, không còn quá sớm nữa đâu . Cả anh và cô đều hiểu, 1 khi anh đã nói ra điều này, lý trí vẫn còn làm chủ trái tim, anh vẫn giữ nguyên quyết định của mình . Anh vẫn hoài là người ích kỷ. - Em mệt mỏi lắm - Cô buồn bã gượng cười - Tìm làm gì hở thầy, tìm ra mà người ta không cho mình dựa hoặc ngỡ đã tìm ra đến khi dựa vào mới hay nó mục rỗng thì… thà là cứ đứng 1 mình giữa đời này còn hơn. - Ly bi quan quá - Anh thấy lòng mình chùng xuống hết cỡ - Chúa dạy “cứ đi sẽ đến, cứ tìm sẽ gặp, cứ gõ sẽ mở...” - Thầy! - Cô thốt lên, ánh mắt vụt giễu cợt - Thế nếu bây giờ em gõ vào đây… Cô đưa tay lên và chậm rãi đặt nó lên lồng ngực trái của anh . Anh nghe xây xẩm mặt mày . -… Em gõ vào đây thì thầy hãy dạy dùm em, nó có mở ra không hay bao nhiêu lời dị nghị, đàm tiếu và cả sự khi dễ của người chủ cánh cửa này sẽ vây bọc lấy em !?! Lúc anh choàng tỉnh, mở mắt ra thì cô đã đi đâu mất rồi... [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dấu chân trần của sóng [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đoàn Hồ Lệ Anh [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]1. Sự đổi thay bắt đầu từ cái tên cực kỳ mỹ miều mà cũng vô cùng tang tóc. Cơn bão Linda. Nó vừa quấn vành khăn tang trắng vừa thầm nghĩ, có còn cái tên nào khác mỹ miều hơn nữa không ? Em trai nó như vừa giằng co với Hà Bá xong, mắt trân trối nhìn lên bàn thờ cha. Chỉ có tấm hình cũ kỹ nghi ngút khói hương. Không quan tài. Không nhà mồ. Và không một vòng hoa kính viếng như bao đám tang khác. Mẹ nó ngồi một góc phòng. Im lặng. Nó biết, mẹ nó đang nuốt nỗi thống khổ vào lòng. Hoang mang và bấn loạn. Khổ đau và mất mát. Tất cả đang giằng xé tâm can mẹ nó. Nhà ngoài anh thay mặt gia đình tiếp bà con đến thăm. Không vái trả, dường như anh cũng chỉ bày tỏ nỗi đau đớn của mình qua hai con mắt đỏ hoe, không nói một lời nào. Nó đi bên anh, giữa triền cát mênh mông gió. Biển quê nó hiền lành đến lạ kỳ. - Quê mình cũng có biển, chẳng hiểu sao mọi người kéo tuốt nhau vào trong đó ? - ... - Sao cha em không trở về như anh, như thằng út ? - Lịch sử trong đời đánh cá, chưa bao giờ có nhiều cá như hôm đó - giọng anh khản đặc, không âm sắc. Tàu như lạc vào một dòng chảy cá. Cá bơi thành từng đàn, từng đàn, đen kịt. Khi trong bờ báo ra sắp có bão cả tàu ngước nhìn trời trong veo. Lúc đó đàn cá hấp dẫn hơn bầu trời trong veo không bình thường kia nhiều. - Rồi sao nữa ? Nó gan lỳ, như dồn đẩy anh, bắt anh phải nhớ lại, phải hồi tưởng lại cái khoảnh khắc kinh khủng đó. - Những cột sóng to lừng lững. To bằng cái nhà và to hơn cái nhà. Nó nuốt chửng tất cả trên biển. Bác trai, anh và thằng út níu chung một cái phao. Biển hung dữ và khỏe như một gã đồ tể khát máu. Bác trai chỉ đủ sức thều thào trong tiếng gầm gào của sóng: "Cha già rồi, hai đứa ráng sống... Mẹ và em Thùy... cháu..." Khi tàu cứu hộ của hải quân ra vớt thì anh và thằng út mê man, không còn biết gì nữa. Có lẽ bác... - Khi cha em thả tay ra nhường sự sống cho anh và thằng út, em nghĩ là... - Anh hiểu em định nói gì Thùy à. Nhưng anh xin em, đừng bắt anh phải nhớ lại một cái gì nữa. Nó im lặng và thấy mình vô lý. Nhưng nó không thể và không thể nào chịu được cái đám tang không có cỗ quan tài. Sau tai ương, anh như không còn là anh nữa. Tất cả sụp đổ trong nó. Mọi niềm tự hào và kiêu hãnh đều tan biến như chưa từng có bao giờ. 2. Quay về trường, nó gạt bỏ tấtt cả mọi thứ mà nó hằng yêu quý. Đầu óc nó nung nấu đến bệnh hoạn cái đám tang không quan tài, không xác của cha. Đề thi học phần Môi trường làm nó nghẹn ngào. Kiến thức như chan với nước mắt. Nó bước ra khỏi phòng thi, bỏ lại sau lưng lời trêu đùa của bạn bè: váy dài điểm ngắn mà váy ngắn điểm dài. Đồ mất dạy, nó rủa thầm rồi đi về phía cổng. Bạn bè bảo nó có dáng dấp của Naomi Campell. Chắc tại nước da đen giòn của nó. Cái chất giọng nằng nặng của con gái miền biển khiến nó không được tự tin trong mọi cuộc vui. Nhưng bây giờ thì nó biết, cần phải bóc tách dần, rũ bỏ dần từng thứ một. Nó lấy lại sự tự tin của tuổi trẻ, kiêu hãnh của sắc đẹp và luôn giữ cho mình một nụ cười đến mềm lòng nửa thế giới còn lại. Những bài thi của nó không còn nước mắt chan với kiến thức. Nó bỏ luôn thói quen cau có khi bạn bè đùa trêu những câu vô bổ. Cuộc đời cần phải như vậy, nếu không thì nên nộp đơn thi vào trường dòng - Nó nghĩ. Trước cửa phòng nó bắt đầu nhộn nhịp đủ loại xe, sang có, không sang cũng có. Và chủ sở hữu những chiếc xe đó cũng vậy, đủ kiểu. Nó nhịn cười trước bộ dạng của các chàng công tử. Tất cả dù thế này hay thế khác đều không hề có một chút gì của anh. Cuối cùng thì anh cũng bước ra khỏi đời nó. Đúng hơn là nó đã một mực xô anh ra và bỏ anh đứng lại một mình. Hôm đó biển u uất như trái tim nó. Biển lặng câm. Nó lặng câm và anh cũng lặng câm. Đến khi nó bắt đầu thích thú với cuộc chơi mới thì nó lại nhớ đến anh. Cũng chỉ tại bộ dạng xum xoe của mấy chàng công tử. Thuần, bạn cùng phòng nói nhỏ vào tai nó: - Mi liệu hồn, tao thấy dạo này mày khác trước lắm. - Vẫn như ngày xưa thôi mà. - Ngày-xưa ! Thuần kéo dài giọng. Thế anh chàng đánh cá của mi đâu rồi ? Hay là thích ở lại Hà Nội ? - Không dám - Nó đáp cụt lủn rồi vùi đầu dưới gối. Nó tưởng tượng ra đám công tử đau nhau rú ga nhả khói um lên. Tất cả như một đàn cá, có vẻ ngon ăn. Chính cái đàn cá chết tiệt ấy đã... Nó rùng mình vì hình như nó sắp sửa đụng vào cái đám tang không cỗ quan tài của cha nó. Rồi tụi hắn cũng sẽ xâu xé mình, sẽ nhai rau ráu. Mình sẽ biến mất đi, đến một mẩu xương cũng không còn. Và thế là đám tang mình lại không có cỗ quan tài. Thằng út lại ngồi nhìn trân trối và mẹ nó nghẹn ngào nuốt nỗi thống khổ vào lòng. Anh lại đến tiếp nước bà con bằng đôi mắt đỏ hoe, không nói một lời nào cả ? Bên ngoài Thuần vẫn lên giọng ra rả: Đừng bao giờ thi vị hóa Hà Nội. Hà Nội có hương có hoa thật đấy nhưng cũng không hiếm sâu bọ lắm đâu. Nó vừa tức tối vừa buồn cười. - Có chập mạch không hả Thuần ? Định tập giảng chắc ? - Một vấn đề nữa là phải trung thành. Bạn phải trung thành với nơi đã cưu mang bạn. Yếu tố này xin tham khảo sự trung thành của người dân nước Nhật. Họ... - Thôi đủ rồi, đồ điên ạ. Sắp tới nghỉ một tuần có về quê tao chơi không thì bảo ? - Ngót nghét năm trăm cây số ? Không hả, vậy thì nền kinh tế ở đó còn nhiều điều phải nói. Tao đồng ý về chơi. 3. Thuần rủ ra biển nhưng nó chối từ. Dân làng chài hiền và chân thật, mi cứ mặc sức đi dạo. Nhưng đừng đi quá xa, đất cát đi nặng chân lắm, dứt không đành đâu ! Đêm qua hầu như nó và Thuần không ngủ. Hai đứa rầm rì nói chuyện suốt đêm. Mới về có mấy ngày mà Thuần có vẻ thân quen với tất cả. Con gái Hà Nội có khác, miệng dẻo quẹo. Chẳng bù cho nó, cái gì cũng chỉ biết trân trối mà nhìn. - Tao thấy hắn được đó chứ ? - Thuần gợi chuyện. - ừ. Được. - Sao mi có vẻ lành lạnh ? - Thì chả lẽ tao lại nhảy xổ vào, xoắn quýt ? - Nghĩa là còn yêu ? - Không. Hết rồi. Đã chấm dứt, không còn gì nữa. - Nhưng rõ ràng hắn ăn đứt... - Mọi sự so sánh trên đời đều khập khiễng. Ngủ đi, lấy sức mai còn đi đường. Đi xe mệt gấp mười lần đi tàu và gấp một trăm lẻ lần đi máy bay đó mày ạ. - Chiều qua tao ra biển và gặp hắn. - Thì đã sao ? - Hắn không hiểu cái xoay người đột ngột của mi. Có phải bắt đầu từ cơn bão thế kỷ ? Mi khiến hắn có cảm giác như chính hắn gây ra tất cả. Mi buộc tội hắn à ? Tao nghĩ là... - Thôi đừng dài dòng văn tự. Mi không có khả năng dàn xếp hoà bình thế giới đâu. Mi càng không phải là chị Thanh Tâm. Giảng lại cái bài trung thành nước Nhật tao nghe còn êm tai hơn. - Đồ ích kỷ. Mi không công bằng chút nào cả, ít ra là với hắn. Tao mà biết mi nhẫn tâm cỡ này thì không bao giờ tao chơi với mi. - Mọi sự công bằng đều tương đối. Nhưng mi vẫn giữ ý định quay lại mảnh đất này chứ? Giỏi như mi, chắc sẽ làm nên một cái gì đó Thuần ạ. Không khéo ra đường mi mà về đây coi như tao không có đất kiếm cơm. Lại tha phương cầu thực. Lại... - Dẹp quách cái suy nghĩ lẩn quẩn ấy đi cho tao nhờ. Thích ở lại Hà Nội không, tao đổi cho ? Gió biển mát rượi làm nó khó ngủ. Vậy mà Thuần đã ngủ ngon lành. Ngoài kia biên vẫn trở mình. Nó cố gạt hình ảnh Thuần và anh ngoài biển lúc chiều. Có vẻ Thuần hợp anh hơn nó ? Lại so sánh rồi. Nó trở mình vô vách tường rồi nhắm mắt. 4. Mẹ và anh đưa nó và Thuần ra tận đường một đón xe. Anh cẩn thận và chừng mực như một ông anh trai không hơn không kém. Giọng mẹ lạc hẳn đi: - Ra ngoài đó chị em bảo ban nhau mà học, đừng lo chi cho mẹ cả. ở nhà có thằng Phương với thằng út rồi. Thuần chìa bàn tay nhỏ nhắn ra cho anh: Chúc may mắn. Nếu có lãi nhớ chia đôi cho Thuần với nhen ?! Anh cười. Nó như thấy trăm ngàn con sóng trong nụ cười đó. Không biết có con sóng nào cho nó và con sóng nào cho Thuần. Xe gần chạy anh mới nắm lấy tay nó: Nếu trở trời Thùy nhớ giữ ấm cổ. Bệnh xoan mũi khó chữa lắm. Nó cau có trong lòng. El Nino mà cứ lo xoang mũi. Lo xa khiếp. Sao không lo xa trước cơn bão có cái tên mỹ miều kia ? Chao ơi, nó rủa đến thậm tệ cái đầu óc lắm điều của nó. Quên đi mà sống cho nhẹ nhàng, có phải hơn không ? Bên cạnh nó, Thuần đăm đắm nhìn về phía biển. Tiếc nuối ? Có một điều ngược đời là Thuần viết thư cho anh chứ không phải là nó. Thuần hỏi, mi có nhắn chi không ? Không. Cứ xem như là không có tao đi, cho nó đơn giản. Tao thấy có vẻ vô lý ? ừ, đôi lúc sự vô lý này lại tạo ra vô số sự có lý khác. Nó triết lý. Thuần vẫn cắm cúi viết thư một cách say sưa. Vậy mà trước đây, mỗi khi thấy nó dán tem vào bì thư Thuần lại trêu: thời đại bùng nổ thông tin rồi mà còn ngồi dán từng con tem một. Lại một sự vô lý. 5. Ngày nhận tấm bằng tốt nghiệp, Thuần hỏi nó: Vậy là mi quyết định ở lại Hà Nội ? ừ. Một "con cá" trong "đàn cá" kia giúp tao. Mi vẫn nhớ Hà Nội vừa có nhiều hương hoa mà cũng lắm sâu bọ chứ ? Có nhớ. Nhớ cả lời mi dặn đừng có thi vị hóa Hà Nội nữa kia. Có điều... đứng trên cát trước biển chắc tao ngã mất. Tao rất lấy làm tiếc vì điều đó. Nếu mi kiếm tiếp một câu, đại loại "rất hân hạnh được gặp lại..." thì có thể đàm thoại với tư cách bà chủ rồi đó, Thùy ! Nó về quê, không quên hỏi Thuần gửi chi về cho anh không. Thuần lắc đầu, có mấy cuốn sách về tin học tao gửi bưu điện trước rồi. Gửi biếu mẹ Thùy chiếc áo ấm. Gió biển lạnh lắm phải không. Nó cười, cứ về rồi khắc biết. Lúc một "con cá" bóng mượt từ đầu đến chân chở nó ra ga thì Thuần kéo nó lại: - Bao giờ quay lại ra Hà Nội ? - Đầu tháng tám, họ hẹn vậy. - Đôi lúc tháng tám tao cũng vào trong đó. Hy vọng vẫn gặp nhau. Có gì "phôn" cho tao liền nghe. Về nhà, nó nằm ườn ra nghe nhạc. M.Jackson. M.Jackson và M.Jackson. Thế gíơi đang sôi lên vì bóng đá. Mặc kệ. Nó lang thang ra biển một mình. Dù sao thì biển cũng rất dịu dàng, nó thừa nhận điều đó. Nó lôi trong túi ra chiếc đài nhỏ xíu, vật bất ly thân. Nó tò mò lần hết các làn sóng. Có tìm ra làn sóng nào của biển không nhỉ ? "Qua chương trình "Quà tặng âm nhạc" Phương gửi đến Thuần món quà nhỏ nhân ngày sinh nhật của em". Một trò chơi mới chăng ? Nó thở hắt ra. "... Gió không phải là roi mà vách núi phải mòn. Em không phải là chiều muộn mà nhuộm anh đến tím. Sóng có nghĩa gì đâu nếu chiều nay em chẳng đến. Dù sóng có làm anh nghiêng ngả. Vì em"... Nó cố nén một cái gì đó trong lồng ngực và đi ra bưu điện. Dù sao cũng là ngày sinh nhật của Thuần. Tín hiệu máy tít tít: "Xin chào. Tôi là Thuần. Xin lỗi vì sự vắng mặt. Nếu có thể bạn để số máy lại, tôi sẽ gọi sau". Nó cúp máy. Nắng chiều vàng ruộm cả triền cát. Nó âm thầm nhìn ra hướng biển. Liệu Thuần có nhận được món quà anh gửi tặng không ? Nó vừa lùa chân dưới cát vừa nghĩ. Thuần ! Nó không thể nào nhầm được. Thuần đi bên anh, mang theo dáng vẻ của một chuyến đi đường dài. Thuần đang mô tả điều gì đó, trẻ trung và tự tin đến lạ lùng. 6. Biển chiều. Đã có lần nó cảm nhận biển u uẩn như trái tim nó. Trái tim nó đâu còn vẹn nguyên mà biển cũng như vá víu từ trăm ngàn vết chém. Cát lún sâu dưới chân nó, thế mà nó chẳng thể ngả nghiêng. Gió biển tạo ra trên cát những đường ngoằn ngoèo như sóng. Ngày xưa anh thường bảo với nó rằng, đó là dấu chân của sóng. Những dấu chân trần trên cát cứ kéo dài tưởng chừng vô tận. Biển hững hờ. Biển nhớ thương. Biển dịu dàng chờ đợi cái ngày xưa của nó với anh. Nhưng biển đâu biết rằng chính cái tên Linda mỹ miều kia cộng với cái thói ích kỷ của nó đã xóa tan đi cái ngày xưa ấy. Sóng có nghĩa gì đâu nếu chiều nay em chẳng đến. Dù sóng có làm anh... Anh hát cho Thuần hay biển đang hát cho nó ? Hay chính trái tim nó cũng đang gào thét lên như vậy? Nó đi về nhà. Để lại sau lưng những dấu chân trần của sóng. Và nó biết, trên cát còn có dấu chân của anh, của Thuần, của những người thân yêu quanh nó... [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Di chúc[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Quốc Văn[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thế là sự đã rồi ! Không thể cưỡng nổi giấy trắng mực đen nữa Cô, dì, chú, bác của thằng Bờm, chẳng ai được hưởng nhiều như vậy từ ông nội. Di chúc ghi rõ: "... Nguyễn Văn Bờm được thừa hưởng ba bài văn lớp đệ nhất, lớp đệ nhị, lớp đệ tam của ông nội trong các năm 1930, 1931, 1932. Ngoài ra, Nguyễn Văn Bờm còn được thừa kế tòa biệt thự nằm trên diện tích đất 180 mét-ca-rê, lô 2, thửa sáu, tọa lạc tại số 9, đường Pôn-be cũ, nay gọi là đường... quận..., Thành phố Hồ Chí Minh... Ba bài văn được giao thẳng cho Bờm. Riêng tòa biệt thự, ba Bờm được ủy quyền giữ giùm. Chẳng ai hiểu tại sao ông nội lại làm như vậy ! Có lẽ phải nhờ ông giáo cắt nghĩa giúp. Tôi là thầy giáo của Bờm, được cả nhà kính trọng. Dĩ nhiên tôi được hỏi ý kiến. Về tòa biệt thự, quả thật tôi cũng không biết nói thế nào. Âu cũng là thói thường ở đời: cha truyền con nối? Chỉ có ba bài văn, lạy trời, nhờ từng là học trò, rồi lại làm nghề gõ đầu trẻ, tôi khám phá ra nhiều điều. Xin thứ lỗi "bệnh" tỉ mỉ nghề nghiệp để được ghi ra đây vài điểm chính: - Đây là ba bài văn tả cảnh, "Hãy tả một ngôi biệt thự trên đường Pôn-be". Ba cái đều giống nhau từng chữ. - Cả ba bài viết, trò chép giống nhau từng dấu chấm, dấu phẩy... -ở phần ghi nhận xét và cho điểm, bài viết năm 1930 ghi: "Giỏi - Mười", bài viết năm 1931 để: "Trung bình - Bốn, bài viết năm 1932 ghi: "Rất kém - Không". Nét chữ viết và chữ số mách bảo hậu thế rằng ông thầy này dạy học trò liên tục suốt ba năm tiểu học. Tôi nói với cha con Bờm: - Đây là một bài học. Bờm tròn xoe mắt: - Thưa con không hiểu... Ba Bờm hắng giọng nói khẽ: - Ông cụ dạy rằng... e hèm... ông cụ có ý nói rằng... Tôi khéo léo tiếp lời: - Lúc người ta nhỏ, làm được việc nhỏ là tốt. Khi đã lớn, vẫn làm việc nhỏ ấy là kém, là thụt lùi. - Có lí ! Có lí !... Có lí lắm ! Ba Bờm vỗ vào vai con, nức nở khen thầy. Bờm khép nép: - Thưa thầy còn toà biệt thự? -Aà, cái này... cái này... thầy... Tôi lúng túng và trở nên ấp úng. Bỗng nó reo lên: - A ! Con biết rồi... Ba Bờm nhìn con tỏ vẻ nghi ngờ: - E hèm! Cái gì ! Con biết cái gì nào? - Nó là ước mơ - Mắt Bờm sáng bừng lên - ước mơ của ông nội con... Tôi xoa đầu Bờm, khen "Hay quá!". Ý tưởng của Bờm khiến lời giải của tôi trở nên rành mạch. Đúng rồi! Ông giáo đã gợi cho nội nhiều ước mơ về toà biệt thự... Thành ra, nội đã tưởng tượng được ra nó. Ước mơ trong tâm tưởng hằn sâu đến mức mỗi khi viết hay nói về toà biệt thự , nội đều viết y hệt nhau chăng? ...Chúng tôi đến thăm toà biệt thự. Cả ba ngỡ ngàng khi thấy các chi tiết trong toà biệt thự, cách bố trí vườn cảnh hầu hết đã được mô tả trong bài văn. Dáng dấp toà biệt thự vừa già nua, cổ kính vừa trẻ thơ và hiện đại. Ba Bờm đột ngột bảo: - Điều quan trọng nhất là ông nội đã làm cho ước mơ trở thành sự thật phải không con? Bờm "Dạ ! Dạ !". Bàn tay nóng ấm của em nắm chặt lấy tay tôi. Em ngước nhìn lên bầu trời xanh. Trời vẫn xanh như ngày xưa.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dì ghẻ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hoàng Mộng Hoài[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ba mẹ Dạ Thảo chia tay nhau sau mấy lần lục đục, gấu ó nhau. Ngày đó nó mới mười tuổi. Mẹ nó lấy Việt kiều, còn nó ở với ba. Mà trước giờ nó cũng chỉ gần ba. Ba luôn quan tâm tới tất cả những niềm vui, nỗi buồn của nó. Trong nhà chỉ còn lại hai cha con, nên chi ba Dạ Thảo chiều nó lắm. Ba luôn làm tất cả những gì có thể cho nó, để nó không thua kém bạn bè. Năm học 12 ba mua cho nó chiếc Chaly để đi học. Nó cũng không đòi hỏi gì hơn. Nó thương ba nhiều, rất nhiều. Có một điều, ba Dạ Thảo không thể là một người mẹ. Nhưng mà nó không quan tâm đến điều đó, nó không cần. Nó chỉ cần ba, và cần một mình ba thôi. Có một lần, khi nó đi học thêm về, có một tên con trai cứ lẽo đẽo theo sau. Dạ Thảo về kể cho ba nghe. Ông cười và nói: - Con gái lớn có người để ý là chuyện bình thường. Nhưng con phải lo học; lúc này không nên nghĩ đến chuyện đó, chừng đậu đại học rồi hẳng hay. Sau Tết năm 12, việc học cứ xoắn lấy nó. Sáng đi học ở trường, chiều đi học phụ đạo, chuẩn bị cho ba kỳ thi sắp tới: học kỳ II, tốt nghiệp và đại học. Nó phải làm cả công việc ở nhà, đi chợ và nấu ăn... nữa. Sáng, Dạ Thảo phải dậy thiệt sớm để dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị đồ ăn sáng cho hai cha con, rồi sau đó ba đi làm, nó đi học. Ba nhiều lần muốn giúp nó nhưng vì công việc ở công ty quá bề bộn, về nhà nhiều lúc chỉ phụ nó bê được nồi cơm đặt lên bàn. Và rồi một buổi chiều đi học thêm về, vừa dắt xe vô nhà, Dạ Thảo nghe tiếng ba nó đang nói chuyện với một giọng đàn bà trong phòng khách. Nó bước tới cửa đứng yên nghe. Lúc này là giọng của ba nó: - Anh rất thương nó, nhưng chẳng thể làm gì nhiều để giúp nó. Công việc thì nhiều, mà nó sắp thi cử tới nơi. Vả lại... nó cũng cần tình cảm của người mẹ nữa, Nghiêm ạ! Rồi giọng người đàn bà trầm trầm: - Còn phải hỏi ý kiến Dạ Thảo nữa chứ anh! Thì ra họ đang nói về nó. Họ đang thương hại nó. Nó sợ hãi, lúng túng đứng như trời trồng. Rồi nó quay lại chạy về phòng, nhưng hấp tấp thế nào, cánh cửa phòng khách đánh sập một tiếng “rầm”. Cả hai người nhìn ra. Ba nó bước tới mở cửa: - Thảo về rồi hả con? Vô đây, vô đây ba có chuyện muốn nói. Rồi ba cầm tay dắt nó vô như dắt một đứa con nít lên năm tuổi. Dạ Thảo nhìn nhanh qua người đàn bà đang ngồi đối diện với ba nó. Nó lí nhí: - Cháu chào cô! Rồi cúi xuống để tránh cái mỉm cười và ánh mắt dò xét của bà ta. Nó ghét. Ba nó lại lên tiếng để phá tan cái không khí yên lặng đến lạnh lùng ấy: - Ðây là cô Nghiêm. Con có thể gọi bằng dì. Dì Nghiêm sẽ đến ở với ba con mình. Nếu con cần gì, dì sẽ giúp con. Dì sẽ thay thế mẹ của con. Nó chuyện với dì đi, Dạ Thảo! Dạ Thảo đứng sửng nhìn con người mà từ phút này nó sẽ gọi, sẽ phải gọi bằng dì. Nó cứ đứng nhìn như thế, rồi như sực tỉnh, nó gằn giọng: - Chào dì! Rồi nó quay đi, lầm lũi về phòng mình, đóng cửa lại. Nó khóc vùi. Có lẽ nó tủi thân. “Dì, dì ư? Nó phải gọi một người đàn bà có cái tên dữ dằn ấy là dì sao? Nó chẳng bao giờ mặc cảm vì thiếu mẹ. Ở trường nó là một nữ sinh ngoan, học khá. Còn với bạn bè nó luôn giúp đỡ hết mình. Ai cũng quí mến nó. Và nó còn có ba. Chừng đó đã đủ. Nó chưa bao giờ muốn người thứ ba xen vào cuộc sống êm đềm của ba và nó. Ðêm đó, nó thức nghe nhạc và nghĩ về mọi thứ. Có lẽ ba không còn thương nó nữa? Nó buồn, và lại khóc. Nó khóc thiệt lâu, thiệt nhiều, rồi nó ngủ thiếp đi lúc nào chẳng biết. Sáng hôm sau nó dậy trể hơn mọi ngày. Ba nó đã dậy từ lúc nào. Ông đang ngồi nhâm nhi ly cà phê buổi sáng. Trên bàn đã đặt sẳn hai tôi phở còn bốc khói. Ông đang nghĩ gì nên không để ý thấy nó đi xuống. Rửa mặt xong, Dạ Thảo thay quần áo rồi dắt xe ra cửa: - Thưa ba con đi học! Ba quay lại, vẫn giọng điềm tĩnh: - Ba mua phở rồi, ăn rồi hẳn đi, Thảo! - Còn phần của người ấy đâu ba? – Nó hỏi, giọng lạnh lùng. Nhưng ba nó vẫn từ từ nói, như không hề biết nó đang nghĩ gì: - Cô Nghiêm về từ chiều hôm qua rồi. Thôi, vô ăn đi con! Lúc này nó mới thấy đói. Mà cũng phải thôi, chiều qua tới giờ nó đã ăn gì đâu? Tối hôm qua nó quên mất việc nấu cơm. Không biết ba ăn gì? Chắc cái dì Nghiêm ấy đã làm buổi tối cho ba. Nghĩ vậy nó cũng không hỏi thêm. Nó ngồi xuống ăn một mạch hết tô phở. Rồi nó tới trường. Tiết học cuối cùng cũng đến lúc kết thúc. Buổi học hôm nay sao dài quá. Nó dắt xe ra cổng, lặng lẽ đi, không cười đùa như mọi ngày nữa. Nhỏ Ngọc Chinh, bạn thân nhất của nó hỏi: - Hôm nay mày sao vậy Thảo? Bịnh hả? - Chẳng sao hết. Tao muốn đi một mình. Rồi nó lên xe nổ máy chạy đi. Về tới nhà, cửa vẫn khóa. Ba đi làm chưa về. Nó nghĩ vậy và mở cửa vô. Thay quần áo xong, nó chuẩn bị nấu cơm. Nó thấy là lạ. Nhà cửa sáng nay nó chưa kịp dọn, sao bây giờ lại gọn gàng thế. Lại có cả một mâm cơm ngon lành để sẳn trên bàn. Sao hôm nay ba về sớm vậy kìa? Nó thắc mắc. Ba đi đâu? Chắc bận việc đi rồi. Nó mở lồng bàn ra và ánh mắt dừng lại ở một mảnh giấy gấp tư. Nó mở ra và đọc. Những dòng chữ nhập nhòe trước mắt nó, như muốn trêu chọc nó: “Dạ Thảo! Cô rất hiểu tình cảm lúc này của cháu, một cô bé đầy nghị lực. Cô rất tôn trọng tính ích kỷ trong tình cảm của cháu đấy. Cô muốn giúp cháu một cái gì dù vô cùng nhỏ. Cô sẽ không làm phiền cháu nữa. Cô ở chỉ một mình, có kèm địa chỉ đây. Nếu muốn, cháu hãy đến tìm cô nhé! Chào cháụ Cô Nghiêm”. Dạ Thảo đứng yên một lúc lâu, như đang nghĩ một điều gì. Mà nó có nghĩ được gì đâu. Ðầu óc nó quay cuồng, rối tung lên những dự định, ý kiến chồng chất. Nó bỏ lên nhà. Mùa thi đến, nó vùi đầu vào sách vở chuẩn bị thi học kỳ II, rồi tốt nghiệp. Những buổi đi học về, cơm canh đã làm sẳn, nhà cửa đã gọn gàng nhưng không còn mảnh giấy nào nữa. Nó chẳng nói gì với ba. Ba nó biết, nhưng cũng từ sau đó ba nó không nói gì với nó về chuyện ấy nữa. Nhiều lần trong bữa ăn, nó lén nhìn ba nó, để cố đoán xem ông đang nghĩ gì, nhưng vẻ mặt ông vẫn bình thản như không có chuyện gì để nghĩ, để lo. Lúc này nó thương ba quá. Hay là... nhưng nó lại lắc đầu, và ý nghĩ trong nó cũng lấp lững chỉ có thế. Vậy mà đã qua hai tháng, lúc này là cuối tháng sáu, nó đã thi xong tốt nghiệp, đậu loại khá. Còn một kỳ thi nữa, một bước ngoặc của cuộc đời nó. Nếu được vào đại học, nó sẽ về Sài Gòn, ba sẽ ở một mình. Chiều nay mưa, và nó đã khóc. Lúc này nó cảm thấy cần tình thương yêu của một người mẹ, mà trước đây nó tưởng là không cần thiết. Ba sẽ già, sẽ yếu, nó còn cuộc sống riêng tư, lúc đó ai sẽ săn sóc cho ba? Nó chợt nghĩ đến người đàn bà tên Nghiêm ấy. Ba đi làm rồi. Nó quyết định mặc áo mưa và dắt xe ra đường. Dạ Thảo tìm theo địa chỉ ấy, đến một căn nhà nhỏ khá khang trang nhưng yên tĩnh. Nó rụt rè bấm chuông và hồi hộp chờ đợi. Tiếng dép lẹp xẹp rõ dần, rõ dần và ngưng lại. Cánh cửa mở ra. Cô Nghiêm đứng sửng nhìn nó. Nó nhìn cô, mỉm cười...[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đơn phương[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thu Hà[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Em bước đi với lòng đầy thanh thản. Chẳng còn nghĩ suy, xây đắp những mộng tưởng hão huyền. Tất cả đã trôi đi, chỉ còn kỷ niệm ngọt ngào đọng lại trong trái tim tuổi hai mươi. Em mỉm cười nhìn lại tháng ngày qua. Trong đôi mắt của tuổi mười bảy mộng mơ, anh hiện lên như bảy sắc cầu vòng lộng lẩy. Anh là thiên thần là thần tượng của lòng em. Em luôn nghĩ về anh với những gì đẹp nhất. Anh là kỹ sư mới ra trường, tiếng Anh và vi tính giỏi nhất văn phòng. Nếu chỉ như vậy thôi thì rất nhiều chàng trai như anh. Trái tim em rung động bởi cái khác nữa kia. Bấy giờ em nghĩ lại: Em tôn thờ anh bởi cũng chính sự bảnh trai của anh. Anh đẹp. Ðẹp một cách kỳ lạ. Ðã có lần em tuyên bố với bạn bè: “Quách Phú Thành, Lê Tuấn Anh chưa là gì cả”. Anh đẹp hơn nhiều. Ở đâu có lời bàn tán về anh là em lại lắng nghe, em chỉ nơm nớp lo sợ người ta cướp mất “anh của em”. Ðối diện với anh, em run rẩy trong xúc động. Trái tim em đập, loạn nhịp. Còn anh, anh vẫn nói chuyện với em một cách nghiêm túc đứng đắn. Em lóa mắt. Em đâu biết được điều đó, chỉ thấy sự dịu dàng, thi vị trong từng lời nói của anh. Em nghĩ là anh cũng dành cho em những tình cảm như em hằng mong đợi. Anh cho em mượn sách. Em nâng niu nó như báu vật của mình. Anh nhận biết được điều đó. Anh nói: “Sách anh quý, anh cho mượn để đọc chứ không phải để làm kỷ niệm”. Em cảm thấy mình bị xúc phạm. Nhưng ánh mắt của anh lại đánh gục lòng tự trọng của em. Trái tim em luôn hướng về anh ngay cả trong những phút giây học bài. Thành ra từ một học sinh giỏi, dần dần em học sa sút đi. Nhiều khi em nghĩ cũng buồn, nhưng nghĩ đến anh, em thấy cuộc đời sao đẹp thế! Còn anh, anh chỉ coi em như một người em gái. Ðiều đó làm cho em đau khổ nhất. Ai đó trêu anh, anh chỉ cười và nói: “Em gái nhỏ ấy mà”. Anh biết rằng giờ đây em đã là nữ sinh lớp mười hai, hai kỳ thi đang chờ trước mắt. Anh cứ xa em dần và luôn cầu mong cho em học giỏi, thành đạt. Em nhận thấy sự xa lánh của anh và giật mình... Nếu thi trượt đại học???... Nếu... Trời ơi! Vậy thì... Lúc đó anh... Nghĩ đến đó em rùng mình hốt hoảng. Từ đó em dồn hết sức lực vào học. Ngồi vào bàn học, nghĩ đến ngày báo kết quả thi đại học mà em toát hết mồ hôi, run sợ, lo lắng... Ðược cái bản chất chăm chỉ sẵn có và trí thông minh không đến nỗi tồi nên em học rất vào và tiến bộ cũng rất nhanh. Lúc nào, ở đâu em cũng có thể ghi: “Cố quyết tâm thì nhất định thành công”. Trên bàn học của em lúc nào cũng có một ấm chè đặc quánh - bảo bối chống ngủ gật. Vậy là em say sưa học, em quên anh lúc nào không hay... Những lúc nghĩ đến anh, em tưởng tượng ra cảnh cầm giấy báo điểm đổ đại học đến khoe với anh. Nghĩ đến hai tiếng “Ðại học” mà em sung sướng trong ngất ngây. Em đỗ đại học cũng là lúc nghe tin anh có người yêu. Em sung sướng trong đau khổ tuyệt vọng. Em không có quyền oán trách anh cũng như sự giận hờn. Anh vẫn nghiêm túc đứng đắn - chỉ coi em là người em gái mà thôi! Chỉ có em - một tình yêu đơn phương luôn cháy bỏng... Anh vẫn đẹp đi bên cạnh người yêu mà em cứ ngỡ đó chính là em... Em mỉm cười... Em đã là sinh viên.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đếm[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Võ Việt Hà[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Má tôi "khoán" tiền ăn sáng, tiền gởi xe, tiền tập viết, sách vở... cho tôi và nhỏ Hiền, vậy là tôi quyết định đi bộ, đỡ được phần gởi xe ... Nhỏ Hiền chun mũi : "Anh Hai "kẹo" ghê !", tôi cười : - Bộ mày không biết là tao "chuyên Toán" hả ?... Nó trề môi : - "Tính toán" thì có !... Và tôi chọc nó : - ... Còn mày thì sao, mỗi lần muốn ăn yaourt lại cứ nhèo nhẹo xin tiền má, thế tiền mày đâu ?... Anh em ta một nhà mà !... Nhỏ Hiền quê độ, hứ tôi một cái rồi dông tuốt ! [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] * * *[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Tôi thử đếm "từng bước... từng bước thầm" xem con đường đến trường bao xa, vì ngôi nhà mới này, chúng tôi mới chuyển về nên không rõ cho lắm. Riêng ngôi trường nhỏ này, tôi đã có vào mấy lần vì hồi trước chị Hai Liên con bác Ba học ở đây có nhờ tôi đưa giùm chỉ đến trường. Ngôi trường đã ở trước mặt, cũng đông học trò ghê, hôm nay khai trường mà !... 270 ... và tôi vừa định đếm thêm thì trước tôi khoảng mười bước, một ngôi nhà có cái cổng sắt lớn hé mở và... một con chó to đùng phóng ra, nó quay ngoắt lại nhìn tôi, tôi quên mất tiêu mình đang điếm đến số mấy ... Một tiếng cất lên, không phải của tôi vì tôi đang điếng hồn thì làm sao nhớ để mà la ?!... Và con chó ngoe nguẩy đuôi . Tôi cười, hóa ra nó cũng thân thiện đấy chứ !... Nhưng không phải, nó phóng vô nhà và một nhỏ áo dài trắng ôm cặp bước ra ... Tôi đã nhớ số tôi đã đếm, và tiếp tục đếm... Nhỏ cao thước mấy nhỉ ? Cho cộng luôn 3 phân đế guốc, cỡ khoảng thước năm bảy là cùng ! Tóc dài quá vai : cho là năm tấc đi ! Có con bướm hồng to nằm hờ trên mái tóc... Và tôi xác định điểm của mình sau một giây tính toán : Sáu điểm cho phía lưng ! Mấy đứa bạn trong lớp cũ của tôi thường bảo : "Thằng Quân thuộc loại xạo, bày đặt chấm khắt khe, mấy nhỏ bên lớp Văn ai cũng cho tám, nó cho sáu ... ", tôi chợt mỉm cười ... và tiếp tục đếm... [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] * * *[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Tôi quyết định trừ một điểm phía lưng nhỏ 270 (con số mà tôi "nhớ" nhất !) và cái "tội" không biết quay đầu lại phía sau !... Đã ba hôm rồi mà tôi vẫn chưa nhìn rõ mặt để cho điểm chính xác, ra chơi tôi thử chú ý tìm thì không thấy, còn ra về thì nhỏ về mất tiêu ! Chỉ buổi sáng lúc 6h45 tại bước chân 270, tôi lại thấy cánh cổng đó mở và con chó đó xổ ra, cuối cùng là nhỏ có con bướm hồng sau lưng, hình như nhỏ là người máy chăng ? Tôi chắc một trăm phần trăm là nhỏ biết có người phía sau, cách 10 bước chân thôi, vậy mà nhỏ chỉ "bước đi đầu không ngoảnh lại !". Chuông vừa reng hết giờ, tôi phóng vèo ra trước cổng... đứng đợi . Tôi đếm lầm thầm, mấy đứa học trò đi ngang nhìn tôi "kinh dị" !... và tôi chợt giật mình khi thấy một con bướm hồng to tướng phất phơ bay qua trước mặt... Đúng là thằng hư ! Tôi tự rủa mình, vậy cũng như không, chẳng kịp nhìn mặt ! [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] * * *[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Gió bỗng dưng thổi ào ào, trời sập tối, mây đen kéo ùn ùn, trong chớp mắt đã giăng kín bầu trời, mưa rơi lộp độp và bắt đầu ập xuống như trút nước. Đám học trò ré lên ỏm tỏi, đám con gái nhao nhao vì bị mấy tên con trai hắt nước mưa ... ... Có lẽ vì đói bụng, phần nữa là mệt do học và... giỡn, đám học trò còn sót lại dần dần đội mưa về, lâu lắm tụi nó mới có dịp tắm mưa ! Mưa, rần rần sấm chớp... Tôi có áo mưa nhưng rất ghét mặc (!), cuối cùng thì phải về, đói bụng quá rồi ! - Anh... gì ơi !... Có tiếng con gái nhỏ nhẹ phía sau lưng, tôi quay lại, có lẽ cô bé lạnh, hai tay ôm chặt chiếc cặp trước ngực hy vọng sẽ ấm hơn, nhưng tôi nghĩ đó là vật vô trí vô giác thì làm sao biết tỏa ra hơi ấm ? - ... Anh... cho Nga đi nhờ với ... Có lẽ để tăng thêm tính "thuyết phục" khi thấy tôi chần chừ, cô bé nói tiếp: - ... Nhà Nga ở gần đây thôi ... cỡ... cỡ... một trăm bước à ! Cô bé nhíu mày ước lượng và đưa ra con số, hóa ra cô ta cũng thích đếm bước chân (?!) Tôi cười, cười là vì có sự ngẫu nhiên, cô bé tưởng tôi đồng ý mừng rỡ cám ơn luôn miệng, tôi chọc: - Tôi chỉ cho bạn quá giang... áo mưa đúng 100 bước thôi đó! Cô bé ngượng nghịu gật đầu. Và tôi bảo cả hai cùng đếm, tấm áo mưa không che được cơn mưa dữ tợn, nước quất vào mặt chúng tôi khi vừa bước ra khỏi trường... Mải lo vuốt nước trên mặt là tôi quên đếm: - Tới nhà Nga rồi! Trời đất thánh thần ơi ! Tôi chợt quay đầu liếc sang sau lưng cô bé, con bướm ướt nước run rẩy... và tự nhiên tôi "run" theo! - Anh sao vậy ? - Nhỏ lo lắng - vào nhà Nga lấy dầu cho... Tôi chợt tỉnh, lắc đầu, không nói cho tới khi nhỏ kêu cửa và khuất sau tấm cửa sắt nặng nề. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] * * *[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Nhỏ Hiền cứ hỏi tôi hoài: - Sao anh không rủ chị Nga lại chơi thường với em! Chỉ cho chỉ xem vườn, đẹp lắm! - Mày thích được bao ăn yaourt thì nói đại đi! - Vậy là anh sợ bỏ tiền ra mua hả? Tôi cốc đầu nó la oai oái, vừa lúc Nga sang chơi, nhà hai chúng tôi gần mà, chỉ 280 bước thôi! - Anh Hai ăn hiếp em, cứu em ! Nga cười, và tất nhiên tôi phải để tiền tiết kiệm phần gởi xe ra mua yaourt cho nhỏ... (cả hai nhỏ !). Giờ tôi đã có thể rờ đầu con chó mà vẫn nhớ số đếm là 270 thêm 10 là ngay cổng nhà Nga. Người ngoài nhìn vào thấy một gã con trai sóng bước bên một cô bé áo dài trắng muốt, mái tóc đen óng có con bướm hồng đậu hờ... gã con trai miệng lẩm bẩm... có lẽ hắn đang đọc một bài thơ cho cô bé nghe chăng? Tôi quyết định cho điểm mười, miễn hỏi lý do! Còn tôi đang lẩm bẩm? Đọc thơ chăng? Không!... Tôi đang... Nga không gọi tôi bằng "anh" nữa, vì nhỏ học cùng khối lớp với tôi . Thấy tôi lẩm bẩm, nhỏ thắc mắc: - Quân đang ôn bài hả? - Không phải, tôi ... đang đếm, đã đến một trăm bước chưa? Nhỏ ửng hồng đôi má, khẽ hứ một cái và tất nhiên có "gởi kèm" theo một cái nhéo... Còn một điều nữa, tôi đang đếm, nhưng đếm... nhịp tim của mình... Hình như nó đang lỗi nhịp thì phải...?[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đôi mắt hình cánh Phượng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ngân Hoàng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi đi dạo một vòng quanh trường nội trú mới. Dừng chân bên một góc cây Phượng còn một vài chùm hoa ở góc sân, tôi nhìn lên một lúc thì nghe tiếng nói từ phía sau lưng. Giật mình. - Ðịnh trèo lên hái Phượng à? - Ðâu có... tôi... tôi... - Hay chú muốn tìm ai? - Không... chú... anh... vào trường chơi một chút đó mà. Cô bé nhìn tôi từ đầu đến chân dò xét. Một lúc cô bé nói: - Nhìn anh không phải là người tốt... í, lộn người xấu. À, anh học lớp mấy vậy? - Theo nhỏ thì tôi học lớp mấy? - Lớp 10 là cùng! - Còn nhỏ? – Tôi hỏi lại. - Lớp 9. - Vậy mà tôi cứ tưởng nhỏ học lớp 12 chớ! – Tôi kê tủ đứng lại. - Anh... chú... ông... - Gì vậy nhỏ? Thôi tôi đi nghen. Bye! Tôi rảo bước trở về phòng mình. Ðêm ấy trong giấc mơ tôi thấy ánh mắt giận dữ của cô bé sắc như lá sậy ở quê tôi. Những giây phút lạ trường, lạ lớp, lạ bạn bè, thầy cô ban đầu không còn nữa. Tôi vào học ngay cái lớp giống như “lạc vào Tây Lương nữ quốc”, tỉ số trong lớp gồm 24 nữ và 11 nam. Một hôm, lớp tôi kiểm tra một tiết tập trung toàn khối vào tiết thứ năm nên ra trễ. Vừa đi xuống thang lầu thì gặp cô bé với một xâu chìa khóa trên tay, tôi nói: - Chào nhỏ. Cũng với ánh mắt dò xét như lần đầu, cô bé nói: - Ông anh là ai vậy? - Bộ nhỏ không nhớ tôi hả? - Hông. Ba em nhốt mấy người đi trễ ở ngoài nhiều lắm. Mỗi lần như thế họ đều năn nỉ em mở cửa cho vào. Nhiều người lắm em hổng nhớ đâu. - Tôi chưa hân hạnh được nhỏ mở cửa cho đi vào trường vì tội đi trễ. Nhỏ không nhớ tôi thật sao? - Thật mà – Cô bé khẳng định. - Tôi là cái chú... anh... ông... bữa kia đó. - À, thì ra là vậy. - Trí nhớ của nhỏ kém thật! Tôi nghĩ là cô bé sẽ phản ứng lại trước câu trêu chọc của tôi, nhưng không. Cô bé chậm rãi nói: - Mỗi lần gặp ông anh đều để lại cho em ấn tượng khó quên. - Thật không? - Thật. Lần trước gặp ông anh em vừa giận vừa tức... cười cho một anh chàng ngổ ngáo. - Rồi làm sao hết giận và tức? – Tôi hỏi. - Ăn. Ăn là một biện pháp hữu hiệu nhất để giải tỏa nỗi buồn. - Câu nói hay nhất trong tháng! Chiều nay mời nhỏ đi ăn bún cua nha. - Rất tiếc bây giờ em không buồn. – Cô bé nhún vai – Bây giờ em phải đi khóa tất cả các lớp lại. - Thì ra nhỏ là con chú Sáu bảo vệ à? - Ðúng. - Tôi sẽ giúp nhỏ khóa hết các lớp học. Sau đó chúng ta sẽ đi ăn bún cua. Nhỏ đừng nghĩ là ta buồn nhưng cái bao tử của chúng ta thì hình như đang buồn. - Em chịu thua ông anh luôn. – Cô bé vừa lắc đầu vừa cười. Ðến bây giờ tôi mới biết tôi và cô bé cùng cư ngụ trong “khu vực” của trường. Nhà chú Sáu bảo vệ - ba cô bé - nằm ở một góc sân. Trước cửa một bên là cây Phượng già cỗi, một bên là cái giá treo một cái trống lớn. Cô bé đề nghị tôi để gạo và đồ ăn bên nhà để nấu giùm tôi luôn. Mỗi bữa cơm tôi chỉ qua phụ dọn rồi cùng ăn với cô bé và chú Sáu. Một hành động đẹp, dại gì tôi không chấp nhận (!) Cái tin tôi quen thân với cô bé nhanh chóng lan ra trong lớp. Bọn con trai thường đi trễ nhìn tôi với ánh mắt cảm phục nửa như van lơn. Từ lâu cô bé được mệnh danh là “cô bé tim đá”, bởi vì một lẽ đơn giản bất chấp mọi lời van xin, cô bé không bao giờ mở cổng cho những học sinh đi trễ vào trường. Một buổi chiều, sau khi ăn cơm xong, tôi phụ cô bé rửa chén ở sau nhà. Tôi hỏi: - Nhỏ chấp nhận lời rêu rao và biệt danh là “cô bé tim đá” à? Cô bé im lặng, chỉ có tiếng nước xối mạnh hơn. Tôi hỏi tiếp: - Tại sao nhỏ không trả lời? - Ông anh lúc nào cũng chỉ biết đặt câu hỏi cho người khác. Có những câu hỏi mà ý nghĩa của chúng chính là ở chỗ không có câu trả lời. Ông anh hiểu chứ? - Hơi... hơi hiểu. - Mọi người nghĩ về em thế nào em không ngại. Chỉ sợ... ông anh nghĩ xấu về em thôi. - Không bao giờ. - Em không tin. Tôi đưa tay lên trời định thề một câu để cô bé tin, nhưng cô bé ngăn lại: - Những người hay thề thốt thường giả dối. - Nhưng tôi thì ngược lại. - Em không tin. Ông anh có khi lại gấp đôi những người đó. Nói xong, cô bé ném về cho tôi một nụ cười lém lỉnh. Tôi với tay hái một trái chùm ruột gần đó đưa lên nói: - Nụ cười của nhỏ đẹp như... trái chùm ruột này. - Ðó là trái chùm ruột chua mà. - Mặc kệ, chua mà ngọt chứ đừng ngọt mà chua. Tôi quăng trái chùm ruột lên cao đưa miệng hứng lấy. Thấy vậy, cô bé nhăn mặt. - Chua quá! Khoảng nửa tháng tôi về thăm quê một lần. Thường thì sáng thứ hai vừa lên tới, tôi để đồ trong phòng rồi chạy vội lại nhà cô bé. Căn nhà đóng cửa. Gặp một thầy giám thị đi ngang, tôi hỏi: - Chú Sáu đi đâu mà đóng cửa vậy thầy? - Hình như con chú ấy bệnh tối qua chở vô nhà thương rồi. À tới giờ đánh đổi tiết, để thầy vô đánh trống. - Dạ, cám ơn thầy. Tôi chạy vội qua bệnh viện. Ði vòng vòng tìm một lúc không thấy, tôi định trở về, chợt thấy chú Sáu từ dãy hành lang đằng xa đi ra. Tôi mừng rỡ chạy lại: - Chú Sáu. - Minh hả con. Con nhỏ tối qua bị bệnh... - Nhỏ nằm phòng nào vậy chú? - Kia kìa. Con vô thăm nó đi. Chú ra ngoài xin miếng nước sôi. - Dạ. Cô bé đang ngủ, khuôn mặt cô bé khi ngủ nhìn thánh thiện làm sao. Lúc này tôi mới chú ý, cô bé ốm nhiều và xanh xao thấy rõ. Tôi không dám gây tiếng động mạnh sợ cô bé thức giấc. Một lúc lâu, cô bé trở mình. Giường bên cạnh có tiếng ho lớn làm cô bé thức giấc. Mở mắt ra thấy tôi, cô bé tỏ ra vui mừng: - Em tưởng đâu không còn gặp lại ông anh nữa chớ. - Sao vậy? - Tự dưng em ngất xỉu, tỉnh dậy thấy nằm trong đây. - Bây giờ cảm thấy thế nào rồi? - Em cảm thấy khỏe nhiều rồi. - Vậy thì tốt. Mới đó mà đã ba năm rồi! Một mùa hoa Phượng nữa lại tới. Tôi đang tất bật ôn thi. Cô bé thì dạo này hay trở bệnh lắm. Căn bệnh tim của cô bé nếu chữa trị khỏi phải rất tốn kém. Nhưng với số tiền lương khiêm tốn của cha cô bé, liệu có thể đủ không? Tôi phải tìm cách giúp đỡ cho cô bé. Thế rồi kỳ thi tốt nghiệp, tôi cũng đã thi xong. Tôi chia tay cô bé lên thành phố thi Ðại học. Ðêm ấy, chúng tôi đã ngồi rất lâu dưới gốc cây Phượng trước nhà cô bé. Cả hai đều lặng im bởi có lúc âm thanh là vô nghĩa. Mấy con ve trên cành thi nhau hòa âm những khúc nhạc buồn. Tôi quay qua vuốt tóc cô bé: - Cố gắng giữ sức khỏe nghen nhỏ. - Ông anh cũng vậy nha! - Ừ. Thế rồi cả hai lại im lặng. Ðến khi tôi đứng dậy chuẩn bị về, tôi nắm lấy tay em nói: - Ðợi anh về nha. Anh sẽ chữa khỏi bệnh cho nhỏ. Trong đêm, hai ánh mắt của cô bé như hai vì sao sáng. Hai vì sao ấy đang lung linh. Không, cô bé đang khóc, chẳng biết cô bé khóc vì sao? Vì bệnh của mình hay là vì lời hứa của tôi? Tiếng ve trên cành như ngừng lại trước câu nói của cô bé: - Vâng, em sẽ đợi anh. Chỉ chờ có vậy, mấy con ve trên cành lại tiếp tục làm nhiệm vụ của nó. Ðôi mắt của cô bé lúc này sao giống như hai cánh Phượng vĩ tròn và to. Tôi biết, đôi mắt ấy sẽ chắp cánh cho ước mơ của tôi sớm thành sự thật.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đá xanh cũng khóc[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dương Thị Vành Khuyên[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]1. Cô nhỏ cười, nụ cười hiền lành, ngây thơ, vô số tội, khi lắc lắc cây viết trên tay, nghiêng cái đầu bum-bê trước mặt tôi: - Tối hôm qua tui buồn, tui đi chơi với một củ khoai. Củ khoai này có máu bảy mươi chia hai, cho nên hắn có một bàn tay vờ như lơ đãng, luồn vô trong váy tui... Trái tim tôi thót lại, đập sai đi một nhịp, nhưng cái miệng vẫn điềm nhiên, tự tại: - Thế cô có cho hắn một cái tát tai không? Cây viết dời lên, gõ gõ nơi má: - Nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ đó. Tui lấy tay hắn ra và thốt lên cười. - Cười? Cổ tôi như mắc nghẹn, như con gà nuốt phải sợi dây thun, trong khi cô nhỏ vẫn nhăn hàm răng trắng muốt ra: - Chứ sao! Vô ích mà. Tui đã già tra già chát, đủ để coi khinh cái thói sỗ sàng của bọn phàm phu. Đàn ông, toàn là một lũ như nhau hết. Ông nghĩ, có phải không? Một ngón tay đưa lên, lắc lắc, và thoắt cái, cô nhỏ mở cửa phòng đi ra, như không thèm đếm xỉa đến câu trả lời "Ông nghĩ, có phải không?", bỏ lại tôi một mình, tức tối, nhức nhối. Cô nhỏ làm như tôi không phải là đàn ông. Làm như tôi không hề có lấy chút tự ái của một đấng mày râu. Luôn luôn, cô nhỏ cắng đắng và cay nghiệt. Luôn luôn, cô nhỏ xem đàn ông là một thứ chẳng ra gì. Và tôi là người, tự bấy lâu nay, đã là chỗ cho cô nhỏ trút cuồng điên thịnh nộ, phong ba bão táp lên đầu. Ai oán thay, chính tôi là kẻ xung phong, chịu lãnh đạn, cho nên chưa bao giờ có thể hở môi kêu ca một tiếng. 2. Tôi là trưởng phòng. Cô nhỏ là nhân viên. Cô nhỏ làm việc trong xí nghiệp đã lâu, còn tôi thì mới đổi về. Ngay ngày đầu tiên, khi cô nhỏ gõ cửa bước vào phòng, chưa kịp nói năng gì, thì tôi đã muốn toát mồ hôi trán. Vì em chính là "cô tiểu thư" mà tôi đã khắc ghi hình ảnh trong tim, suốt bao nhiêu năm thời trung học. Nói khác đi, cô nhỏ đã là "đối tượng", bóp nát có lẽ không ít con tim của thằng con trai mới lớn là tôi, khi bất ngờ cô bé chuyển về Sài gòn học, giữa năm lớp mười. - Tôi là Trúc Sơn, trợ lý của Trưởng phòng cũ. Nếu cần gì, Trưởng phòng cứ tùy nghi sai bảo, trong khi chờ thay trợ lý mới. Cô nhỏ nói trong lúc đôi tay bận bịu với mớ hồ sơ trình ký. Khi dứt lời, nhìn tôi, thì đôi mắt mở lớn ra, kinh ngạc: - Thôi chết, ông là... Một bàn tay đưa ngang miệng, ấp úng. - Đúng vậy. Tôi là Lộc, học chung với nhỏ ở Bình Dương. Không ngờ nhỏ vẫn còn nhớ. Đôi mày hơi cau lại, hai con mắt chớp lia, rồi cụp xuống. Tiếng nói thốt ra, yếu xìu, như than với chính mình: - Khó làm việc! - Rồi đột nhiên cao giọng - Tôi muốn nói với ông điều này. Vui lòng đừng gọi tôi là nhỏ. Cũng vui lòng, đừng nói với bất kỳ một ai, là tôi với ông quen nhau. Được không? Một ngón tay út chìa ra. Tôi đưa ngón tay út của mình, định bắt lấy, thì một bàn tay cô nhỏ đã đưa ngang, chặt ở giữa, không cho chạm đến tay mình: - Được rồi. Rất cám ơn ông. Cô nhỏ thật nghiêm trang và đài các, đúng như một cô Ký Điệu. Tôi nghĩ thầm, thời tỉnh lỵ, cô nhỏ có biệt danh là "cô tiểu thư" vì bất cứ ngày nắng hay mưa, học sáng hay học chiều, hay đi sinh hoạt, cô vẫn có người đưa rước, không sót một lần. Bây giờ, sau mấy năm xa cách, cô nhỏ dường như chẳng lớn thêm được chút nào. Vẫn nhỏ nhắn, mỏng manh. Đi đứng nhẹ nhàng, khoan thai. Khác đi một chút, là khi xưa tóc cô nhỏ dài ngang lưng, mượt mà. Còn bây giờ, tóc tém lên sau gáy, làm cho đôi mát như lớn thêm ra, trong suốt. 3. Chừng dăm bữa sau, trong lúc tôi trầm tư nhìn ngắm cô nhỏ đang soạn hồ sơ ở cái tủ trước mặt, thì chợt cô nhỏ quay ngoắt lại, cáu kỉnh: - Sao ông chưa chịu đổi trợ lý? Hú vía! Không phải là cau có, vì bắt gặp tôi nhìn trộm. Tôi đáp vội vàng, nhưng rành rọt: - Cô làm việc này đã lâu, quen rồi. Tôi là người mới, cần cô tiếp tay, nên tôi sẽ không đổi trợ lý. Cánh cửa tủ chưa kịp đóng lại, cô nhỏ đã bỏ ra khỏi phòng. Điều gì làm cô nhỏ có nhiều thay đổi, không còn nói năng dịu dàng, khép nép như xưa? Trước kia, cô hiền lành và nhu mì. Hoàng, trưởng lớp 9, đã có lần kêu lên: "Nhỏ Trúc đúng là hiền như ma-sơ". Còn bây giờ cô lạnh lùng, làm ra vẻ ta đây. Một hôm, khi đưa trả hồ sơ, tôi hỏi cô nhỏ: - Lập gia đình chưa? Tức thì cô nhỏ phùng man trợn mắt: - Không nói chuyện riêng trong giờ làm việc. Cô nhỏ làm tôi cụt hứng. Tôi muốn thân thiện, nhưng cô nhỏ lại cách xa. Tôi cố gắng hòa đồng: - Gặp bạn cũ, không mừng sao? Cô nhỏ vẫn ngang bướng, đốp chát: - Mừng gì? Người ta sẽ nói, thấy người sang bắt quàng làm họ. Tôi cười: - Sang gì, tôi về đây sau Trúc mà. Tôi là hậu sinh, cần thỉnh giáo nhiều điều. Cô nhỏ cong một cánh môi: - Hậu sinh khả... Rồi quảy quả bước ra khỏi phòng, mang chữ cuối cùng đi theo. Nhưng tôi không thể nào lầm được, cô nhỏ muốn nói: Hậu sinh khả ố. Trời đất, tôi chỉ là một tên hậu sinh khả ố trong mắt nhìn ngang ngược của cô nhỏ. 4. Cô nhỏ cứng ngắn, khô khan. Tôi cũng nghiêm trang, lạnh nhạt. Cô cố làm ra vẻ xa cách. Tôi cũng làm mặt cách xa, cho dù mỗi ngày, tôi và cô nhỏ gặp nhau hàng chục bận. Có đâu xa, bàn viết của cô nhỏ án ngữ trước cửa phòng tôi, mở cửa ra là thấy. Với lại nhiệm vụ trợ lý ủa cô là làm việc trực tiếp với trưởng phòng. Trưởng phòng! Cô nhỏ có vẻ cay cú với hai tiếng trưởng phòng. Đôi lúc còn dằn dỗi: Trưởng phòng, thưa ông! Không hiểu sao cô nhỏ lại cáng đáng với tôi, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Làm như tôi với nhỏ là địch thủ, là mặt trời mặt trăng, là lửa với nước. Tôi chưa thấy cô nhỏ cười với tôi, suốt cả mấy tháng dài. Cái mặt lúc nào cũng nghiêm nghị, lạnh lùng. Chẳng lẽ tôi với nhỏ có mối thù nào từ muôn kiếp trước. Há tôi với nhỏ chưa từng học chung nhau từ năm lớp 6 đến năm lớp 10 sao? Tôi đâu có làm điều chi thất lễ với cô nhỏ. Kẻ nội thù. Chắc cô nhỏ xem tôi như là một kẻ nội thù, chỉ vì tôi bây giờ là xếp của nhỏ? Tôi đâu muốn làm xếp của cô nhỏ. Tôi đâu muốn cô nhỏ làm mặt lạ với tôi! Không biết cô nhỏ sẽ còn giữ nét lạnh lùng, kiêu bạc với tôi thêm bao lâu nếu ngày hôm đó, tôi không tình cờ đụng đầu với cô nhỏ trong buổi tiệc sinh nhật một người bạn cũ, ở Bình Dương. Buổi tiệc dễ thương vì được tổ chức ngoài trời, dưới bóng mát của những tàn cây um tùm xanh lá và toàn là bạn bè cũ. Tất cả cười đùa đàn dịch xôn xao, vui vẻ trong vườn cau ăn trái, hệt như những ngày tháng cũ. Chỉ khác là ngày xưa, các cô đi riêng, còn bọn con trai bao giờ chả điệu. Còn bây giờ, tất cả đã lớn, đã vào đờì, có đứa lấy chồng, lấy vợ, hết còn xấu hổ và xa cách. Thoạt tiên, khi nhìn thấy tôi, mặt cô nhỏ xụ xuống, ỉu xìu. Rõ ràng tôi thấy cô nhỏ đang líu lo cười nói, vậy mà khi có mặt tôi, cái miệng chợt ngậm lại, im lìm, vờ như không quen. Hồng Thanh đứng kế bên cô nhỏ, lắc tay: - Nhớ không? An Lộc đó, mấy năm nay đi tuốt miền Tây, giờ mới được đổi về. Tôi cũng tảng lờ, vờ như không phải là xếp của nhỏ, nghiêng đầu chào: - Tiểu Thư! Đây là lần đầu tiên cô nhỏ không gắt gỏng, cau có và sừng sộ với tôi, dù tôi biết, tiếng "Tiểu Thư" có thể làm cô nhỏ nín thở vì tức. Giữa buổi tiệc, Tùng, chủ nhân, lên tiếng: - Năm nay có thêm An Lộc mới về. Năm ngoái thiếu Tiểu Thư. Vậy bây giờ chúng ta sẽ mở đầu chương trình văn nghê cây nhà lá vườn bằng sự xuất hiện của An Lộc và Trúc Sơn. Mời hai bạn lên song ca một bài. 5. Bạn bè ồn ào hưởng ứng. Thật là éo le, nhưng không thể chối từ. Khi tôi cầm cây đàn bước ra, cô nhỏ cũng theo cùng, tươi cươì như là đôi bạn thân tình từ kiếp nào vậy. Cô nhỏ thì thào: - Tôi không thể hát trước đám đông. Ông phải cứu bồ đó! Khi thấy tôi cúi đầu chào thì chào theo và dẫn tôi rút lui, nhớ chưa. Tôi líu ríu tuân theo vì đâu thể nào ngờ, bấy lâu cô nhỏ chanh chua, cay đắng hệt một trái ớt hiểm, giờ lại thân ái, cư xử với tôi tử tế như vậy. Trước đám đông, cô nhỏ cười chào và chững chạc lên tiếng: - Hẳn các bạn đều thích Trúc và Lộc cùng hát một bản nhạc tình. Vậy xin ban nhạc hãy chơi điệu nhạc nhẹ, chúng tôi sẽ hát bài Khơi lòng. Ban nhạc trổi điệu slơ, còn tôi thì ngớ ra vì chưa hề nghe đến tên bài hát, nhưng cũng vội vã để tay lên phím đàn. Tiếng nhạc dặt dìu, khoan thai trong khoảnh khắc thì chợt cô nhỏ đưa tay ra, ngắt ban nhạc, cúi xuống chào: - Xin các bạn cho một tràng pháo tay nếu vừa ý. Bản nhạc chúng tôi vừa hát xong, có tên là Khơi lòng tức là không lời. Xin kính chào! Cô nhỏ đưa tay ra, cúi xuống chào một lần nữa. Tôi cũng vội vã đưa tay ra nắm, cũng cúi chào, dắt cô nhỏ đi lui giữa rầm rộ tiếng cười, tiếng vỗ tay la hét vì bất ngờ và thích thú. Chưa gì cô nhỏ đã cấu tay tôi: - Bỏ tay ra, đồ lợi dụng! Tôi sượng cứng. Thật là oan ôi ông địa. Rõ ràng cô nhỏ bảo tôi dẫn đi, rút lui, bây giờ lại trở mặt. Cô quay đi hòa nhập vào đám bạn, thản nhiên cười nói như chưa hề chửi tôi tiếng nào. Chẳng lẽ trong cô nhỏ có hai con người hoàn toàn trái ngược nhau? Ngồi giữa đám bạn, cô nhỏ hiền lành nhỏ bé, lí lắc dễ thương, hệt như cô tiểu thư thuở đó. Vậy sao cô nhỏ cứ trở mặt với tôi luôn luôn. Hay cô nhỏ đoán biết tôi có tình ý nên phải dằn mặt? Cho tôi co vòi, cho tôi rút lui, cho tôi ê chề mà không dám bước tới? - Lộc, bạn lo học hoài, bây giờ ra làm việc, đã có "đối tượng" chưa? 6. Tiếng Thảnh vang lên, bất ngờ. Thái đấm vào vai khi thấy tôi lắc đầu: - Thôi đi! Nghe nói mi làm trưởng phòng, thiếu chi thư ký dưới quyền, tìm kiếm đâu cho xa, phải không bà con? Cô nhỏ bĩu môi, quay mặt đi nơi khác. Nhưng rồi cũng bất ngờ như tôi, quay ngoắt mặt lại khi Tuyết Đông lên tiếng, tinh nghịch: - Nếu ông Lộc chưa có "đối tượng" thì ở đây có Đá Xanh tiểu thư... Cô nhỏ để hết cả hai bàn tay lên miệng Tuyết Đông, đè xuống. Cả hai té nhào trên cỏ, tiếng cười của Tuyết Đông nghẹn lại, còn cô nhỏ mặt mũi đỏ ửng, đẹp hơn bao giờ. Buổi chiều, khi cô nhỏ một mình hất từng chiếc lá vàng xuống mương nước, tôi đi theo, lên tiếng: - Trúc có biệt hiệu Đá Xanh hồi nào vậy? Cô nhỏ ngậm miệng, im lìm. Tôi không chịu thua, tiếp tục: - Sao Trúc không giữ tóc dài như xưa? Cô nhỏ xì một tiếng, bỏ đi. Đúng là ngang ngược và kiêu kỳ. Tôi đuổi theo: - Sao Trúc không chịu xem tôi như là bạn cũ vậy? Vẫn là một lặng thinh. Lá khô lạo xạo dưới chân. Cô nhỏ làm như lắng nghe tiếng lá, không thèm đếm xỉa đến tôi bên cạnh. Cục tức bay lên đè ngang cổ, tôi đốp chát: - Có phải Trúc tuổi con cua không? - Đúng vậy! Còn nguyên quán của ông là Biên Hoà, phải không? Tôi nói nhỏ tuối con cua, ngang phè phè cho cô nhỏ tức mà lên tiếng. Ngờ đâu cô nhỏ phản ứng thần tốc, tặng cho tôi cái tủ đứng khi bảo tôi từ nhà thương điên Biên Hoà bước ra. Tôi cười: - Thì tôi cũng đâu có quên, Trúc là dân Chợ Quán. Chúng ta cùng một dòng họ mà, đâu có khác xa nhau. 7. Cô nhỏ lặng thinh, lấy chân giày khua lá. Không biết "trận chiến" sẽ kéo dài bao lâu nếu không có Thuận chạy tới gọi tôi về hát, vì "có người yêu cầu". Cô nhỏ bĩu môi, giễu cợt. Tôi vừa quay đi, thì cô nhỏ đã chắn ngang, đưa cái cằm ra, nghinh nghinh, hầm hừ: - Cho ông biết, nếu nói với bất cứ ai, tôi là trợ lý của ông, thì tôi sẽ cắt cổ ông lập tức. Tôi ôm đàn, đứng hát giữa trời. Thật lòng, tôi muốn hát cho cô nhỏ nghe lắm. Những bài hát tôi vẫn thường hát một mình, sau ngày em bỏ trường mà đi, mang theo trái tim tôi mười tám tuổi. Nhỏ đâu biết, tôi mang hình ảnh em cho đến bây giờ, cái vóc dáng nhỏ nhắn đứng tựa bờ tường cao trên lối dốc nhà thờ cạnh trường, chờ người đến đón mỗi buổi tan học, tóc dài xõa tung trong gió với một bàn tay em nhỏ nhoi níu giữ. Cho nên tôi cắm cổ học hoài. Cho nên chưa có ai lung lạc được trái tim tôi, dù dăm ba mối tình thoáng qua, đọng lại. Tôi hát Phượng hồng. Tôi hát Em đẹp như mơ. Tôi đắm chìm trong tiếng nhạc. Tôi muốn nhắn gởi. Tôi muốn moi móc hết trái tim mình, đem dâng tặng cho em. Tôi nhìn cô nhỏ. Cô nhỏ nhìn tôi. Đôi mắt cô nhỏ chừng như có lửa, sáng lên nhưng khuôn mặt xa vắng, u trầm. Chiều tàn. Tiệc tan. Tôi đưa cô nhỏ về vì Tuyết Đông, người bạn cùng đi với cô nhỏ lúc nãy, ở lại Bình Dương. Sau lưng tôi, cô nhỏ lên tiếng: - Tôi không biết là ông hát rất hay. Tôi ma giáo, giả vờ không nghe rõ. Cô nhỏ phải chồm tới trước, nói to hơn. Tôi nghe thân thể mềm ấm của cô đổ trên lưng mình. Tôi cũng hét: - Không ngờ là Trúc biết hát bài Khơi Lòng... Giữa đường, trời đổ mưa. Tôi mừng rơn vì cơ hội nghìn vàng. Tôi đưa cô nhỏ vào quán nước ven đường. Những giọt mưa thấm trên mặt cô nhỏ. Tôi đưa khăn tay ra. Cô nhỏ ngần ngừ, rồi cầm lấy. Từ phút đó, nhỏ có vẻ bớt lạnh nhạt. Nhỏ đã mở miệng vì mặt đối mặt, hết đường tránh né. Bên ly nước chanh, tôi hỏi cô nhỏ: - Sao Trúc có vẻ thù ghét tôi dữ vậy? Nhỏ trầm ngầm, rồi trả lời rành rẽ, dứt khoát: - Tôi thù ghét tất cả đàn ông trên cõi đời này. 8. Hai tai tôi lùng bùng, tưởng như vừa nghe lầm. Chẳng lẽ nào cái khuôn mặt nhỏ nhắn, trong trắng, thánh thiện như nhỏ lại thất tình, lại mang một vết thương tình ái? - Thật sao? Tôi không tin. - Thì thôi! Cô nhỏ buông lửng, lặng yên múc từng muổng nước chanh, đưa lên miệng ngậm. - Vậy sao có biệt danh là Đá Xanh? Lần này thì cô nhỏ quắc mắt, nhìn tôi dữ dội: - Ông quả thật là tò mò. Nhưng nói ra thì ông lại không tin. Cho ông hay, tôi là người ghét dối trá. - Giọng cô nhỏ chợt chùng xuống - Nhưng để tôi trả lời, sẻ lỗi đạo.... Có lần tôi nói với Tuyết Đông: Tôi bây giờ là một cục đá xanh, vì đạp bảy búa chắc không ra một giọt nước mắt. Ông biết, khi xưa tôi mít ướt lắm mà. Tuyết Đông gọi tôi là Đá Xanh tiểu thư. Đâu ngờ lần này nó nói giữa đám đông. Cơn mưa kéo dài. Ông trời quả là thương tôi vì dưới mưa, cô nhỏ bỗng trở lên dịu dàng, nhỏ nhẹ. Tôi nhìn đôi môi em nói, mới thấu hiểu thế nào là "Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt". Tôi nhìn sâu trong mắt em và lặng người. Em đã ngự trị trong tôi từ thuở đó, cho đến tận bây giờ. Sáng ngày thứ hai, rồi thứ ba, cô nhỏ không đi làm. Tôi bâng khuâng. Tôi bứt rứt. Chẳng lẽ nhỏ gan lì bỏ việc vì đã lỡ trút nhiều tâm sự, nên bây giờ hối hận, không muốn thấy cái bản mặt của tôi? Sang ngày thứ tư, Cường kế toán bào phòng: - Con nhỏ trợ lý của ông xin nghỉ một tuần. - Vậy hả? Tôi giả vờ thản nhiên cho Cường tiếp tục: - Con nhỏ đó một cây xanh dờn. Tôi nói thật, ông đừng có đụng tới nó. Nó ghét đàn ông lắm. Tôi hơi giật mình. Chẳng lẽ cô nhỏ lại tâm sự với Cường là cô thù ghét đàn ông? Tôi cười: - Bộ cậu đụng nhỏ rồi sao? - Đâu có, là ông Phó giám đốc. Bữa đó tôi vừa vào tới cửa thì gặp nhỏ chạy ra, nước mắt, nước mũi tùm lum. Ông Phó còn đứng xớ rớ, thì ra con nhỏ đã tặng ổng một cái tát đích đáng. Tôi làm thinh. Cường khai luôn: - Chuyện đó lâu lắm rồi. Hồi đó con nhỏ mới ra trường, còn hiền lắm, tóc dài, yểu điệu thục nữ. Bây giờ con nhỏ nhanh nọc, dữa dằn, đụng đâu húc đó. Cũng may là ông Phó giám đốc đó cuốn gói đi rồi. - Sao cậu biết cô ta ghét đàn ông? Cường cười: - Thì ông không thấy nó đeo nhẫn ở ngón tay ghét con trai đó sao? Cường đi ra khỏi phòng, lại ghé đầu vào: - Ông đừng bao giờ hở môi là ông biết chuyện đó với con nhỏ, nghen. 9. Hết tuần, tôi trông ngóng cô nhỏ đi làm. Gặp tôi, cô nhỏ tảng lờ. Tôi than thầm. Chẳng lẽ nhỏ lại nổi cơn? Buổi chiều hôm đó, trên đường về nhà, sau cơn mưa đường xa, gió lạnh, nhỏ run rẩy núp gió sau lưng tôi. Còn tôi thì run rẩy vì cảm nhận sự gần gũi, ấm áp của cô nhỏ. Có nằm chiêm bao mới tin được là cô nhỏ của một thời thiếu niên mơ ước tưởng mình đã mịt mù, đã mất dấu, giờ lại nghiêng mình, đeo cứng trên lưng tôi. Và tôi thì không biết trời đất thế nào, gió lạnh ra sao, lúc có em bên cạnh. Khi bỏ em xuống trước nhà, tôi nói: "Đừng xem tôi là đàn ông. (Thật ra tôi muốn nói, đừng xem tôi như những hạng đàn ông khác, nhưng sợ cô nhỏ nổi sùng) Hãy xem tôi là bạn. Hãy xem tôi như là trang nhật ký, nơi mà Trúc có thể trút bỏ mọi điều. Tôi tuyệt đối trung thành là trang nhật ký. Nói thật đó. Đừng giữ mãi trong lòng những chuyện buồn..." Đôi mắt cô nhỏ chớp chớp, ngần ngừ, rồi một bàn tay đưa ra: "OK tạm thời". Tôi nắm tay em, muốn giữ mãi bàn tay mềm mại, nhưng vội buông ra vì còn nhát gan, sợ cô nhỏ lại sững cồ, kiếm chuyện. Cô nhỏ mang hồ sơ vào, rồi ra, lặng lẽ, không cả nhìn tôi. Cho đến khi tôi nhịn hết nổi, lên tiếng: - Tuần qua Trúc đi đâu? Cô nhỏ dừng lại, chỉ vào miệng mình, không nói. Đến chiều, cô nhỏ thì thào: - Đừng nói chuyện với tôi, lây bệnh. Sau đó thấy cô nhỏ cứ rầu rầu hoài, tôi hỏi: - Hết bệnh chưa, sao không vui? Cô nhỏ nhìn tôi gượng gạo, bơ thờ: - Vui gì nổi! Tôi nhìn kỹ, quả nhiên cô nhỏ ốm đi và xanh xao: - Nói đi, chuyện gì đã xảy ra? Tôi là trang nhật ký của nhỏ mà. Cô nhỏ hạ giọng; - Việt kiều! Việt Kiều! Bà nội bắt lấy chồng Việt kiều. 10. Tôi muốn đứng bật dậy vì cái tin chấn động kia, nhưng cố gắng kìm giữ, bật tiếng cười khan: - Té ra cả tuần qua cô ở nhà đi chơi với Việt kiều. Vậy mà tôi tưởng cô bệnh, lo giùm cho cô. - Tôi bệnh thật mà. Tại ông bắt tôi há họng bữa đó nhiều quá, gió vào bụng, chịu đâu nổi! Giọng cô nhỏ yếu xìu, làm tôi nao núng, thương cảm rồi tự thương thân, trách phận. Mình vừa định bước tới thì người ta đã sắp sửa vu qui. Mình chậm chân nên bây giờ lỡ chuyến. Thật là cay đắng. Thật là dở dang. Thấy cô nhỏ từ từ đỏ da thắm thịt trở lại, tôi hồi hộp chờ nhỏ báo tin đám cưới, nên thăm dò: - Chừng nào có tin vui? - Tin vui gì? Cô nhỏ cau mày, sững cồ. Tôi hết hồn: - Tin Việt kiều đó. Cô nhỏ bỗng cười hồn nhiên: - Dứt đẹp rồi. Tôi nói với bà nội, là không muốn để má lại một mình. Má cũng khóc. Bà nội đay nghiến hoài, cũng xong. Và tôi thoát nợ. Tôi thở phào, nhẹ nhõm. Từ lúc đó, tôi đã chính thức trở thành "trang nhật ký" của cô nhỏ, cho đến bây giờ. Đôi môi thơm tho, đẹp đẽ kia đã nhả ra đủ điều, đủ chuyện, đủ cả hỉ nộ ái ố lên đời tôi. Tôi sống hòa lẫn trong cô nhỏ, mỗi ngày. Và mỗi ngày càng yêu cô nhỏ thêm một chút, đậm đà, thắm thiết. Tôi càng yêu, càng đuối. Cô nhỏ càng ở vòng ngoài, quấn quanh lấy tôi, thu hút, lôi cuốn. Cô nhỏ là thỏi nâm châm, tôi là từ trường nên cứ đi theo cô nhỏ hoài hủy, quấn quít, không mệt mỏi, cũng không thể lìa xa. Tôi đã thử nhiều lần, tìm cách chui vào trái tim rong chơi bay nhảy của cô nhỏ. Tôi rất muốn cô nhỏ dừng lại với tôi, làm người một đời, vĩnh cửa, bất tuyệt. Một đời chung, mãi mãi. - Tên của tôi và của nhỏ cộng lại, sẽ thành một cái tên hay biết mấy. Nhỏ có biết không? 11. Nhỏ nghiêng đầu nhìn tôi: - Biết rồi. An Lộc Sơn chứ gì! An Lộc Sơn người tình, dâng trái vải lệ chi cho người yêu dấu. Đúng không? Giọng nhỏ kéo dài, cười cợt, thản nhiên, vô tình. Tôi lại cụt hứng, hết dám tiến tới. Bờ sông. Bờ lạch. Vỉa hè. Góc phố. Quán nước. Quán nhạc. Chiều xuống. Trăng lên. Bên ngoài công ty, cô nhỏ thân thiện, ngọt ngào theo tôi đi cùng khắp. Lúc làm việc, cô nhỏ hăm dọa: "Ông mà nói với ai, tôi đi chơi với ông, tôi sẽ cắt cổ ông ra, lập tức". Tôi đưa tay, vờ ôm giữ cổ mình, cười cợt mà chợt nghe đắng chát một nỗi niềm. Lâu rồi, cô nhỏ thật tình xem tôi là bạn. Có phải cô nhỏ đã không xem tôi là một đấng nam nhi, khi cái miệng cứ ngọt sớt tui tui, Lộc Lộc. Tui-nói-cho-ông-nghe. Tui-nói-cho-Lộc-nghe. Đêm nằm, bên tai tôi cứ vang vọng tiếng nói của nhỏ, thỏ thẻ, thủ thỉ. Quả là cô nhỏ đã có một giọng nói êm đềm chết người, khi kể lể: "Tui cắt tóc ngắn từ năm 18 tuổi, sau khi đọc quyển Tình mộng, sách dịch của Hoàng Hải Thủy do má giấu lại sau ngày 30/4. Tui cũng có đọc nguyên tác Roman Holiday rồi. Ông thấy, trên đời này, bây giờ, tìm đâu ra một người đàn ông cau thượng như anh chàng nhà báo Joe Bradley..." Bây giờ thì tôi hiểu cô nhỏ, hiểu thấu suốt, cặn kẽ từ trong ra ngoài. Cô nhỏ có một tâm hồn trong trắng, thánh thiện, luôn luôn ướp đầy thơ nhạc, mộng mơ. Mà đời sống thì ập xuống đời cô những thực tế xấu xa, thô tục. Mười bảy tuổi, biết yêu lần đầu, ba cô nhỏ nói gã con trai đó lưu manh, du đãng, không xứng đáng. Người thứ hai, ba chê cù lần. Người thứ tư... "Đến khi tui bắt đầu xem tình yêu chỉ là trò đùa thì ba chết. Ông biết, ba chết đi, mới hay ba đã có một đứa con gái khác, ngoài tui, mới có mấy tuổi. Tui cam đành mang tiếng bất hiếu mà nói rằng, ba tui đại diện cho những người đàn ông để dạy tui biết, đàn ông có thể dối trá và phản bội đến thế nào, có thể nhẫn tâm và bội bạc đến thế nào, có thể ích kỷ và vô trách nghiệm đến thế nào, khi họ muốn..." Tôi muốn nói với nhỏ, rằng không phải đàn ông nào cũng thế. Nhưng cổ họng tôi dường như mắc nghẹn. Vì cô nhỏ không chỉ mang trong lòng một vết thương dễ chữa, mà là đời sống xấu xa đã làm cô nhỏ nghi ngờ, sợ hãi. Cho nên, từ một con cừu, cô nhỏ đã nhe nanh biến thàn một con chó sói, khi bước xuống thềm đời nhiều lọc lừa, gian trá. Giờ thì tôi biết bên trong cái vỏ hung dữ, luôn luôn gầm gừ, thủ thế đó, là một tâm hồn yếu đuối. Còn nhớ, khi tôi chạy vạy khắp nơi, tìm cho được cuốn phim Tình mộng rất cũ, do Audrey Hepbủn đóng từ năm 53, lúc tôi với nhỏ còn ở đâu đó trong cõi ta bà này, chưa ra đời; cô nhỏ đã mừng đến điếng người, ôm chầm lấy tôi: "Cám ơn Lộc nghe! Cám ơn, cám ơn một ngàn, một triệu lần". Và sáng thứ hai, cô nhỏ đi làm mang kính đen trên mắt. Tôi hỏi: - Sao bữa nay làm Vân Vỹ vậy? 12. Cô nhỏ kéo kính xuống: - Ông nhìn xem, hai con mắt tui sưng vù vù. Tối hôm qua, tui khóc hết biết luôn. Tui xem Roman Holiday cả mấy lần. Tui thương công chúa và anh chàng Joe bradley đó biết mấy... Tôi thật muốn siết chặt cái đầu nhỏ nhắn, trong trắng đó vào cái ngực mình. Tôi muốn nghiến nát cô nhỏ trong tay. Tôi nghe trái tim mình rên rỉ: "Tôi yêu em! Tôi yêu em!" Cô nhỏ đã không giấu tôi bất cứ điều gì: - Ông là người bạn rất tốt. Tui không thích chơi với con gái. Bạn gái chỉ thật là bạn hồi còn đi học. Ra đời, tui không có bạn gái nào khác vì họ toàn là ganh đua, soi mói, bươi móc. Cho nên, cám ơn ông đã làm người bạn chân tình. Chừng nào ông có đối tượng, cứ nói, tui sẽ không còn phiền đến ông. Quả thật cô nhỏ đã hớp hồn tôi, đã khiến tôi lờ đờ, dở chết dở sống mỗi bận em tuyên bố có người theo đuổi, tặng quà, mời uống nước, nghe nhạc. Và tôi như hồi sinh, mỗi lần nghe em nói: "Hết rồi! Thôi hết rồi người đã xa tôi". " Ông biết không, chắc trái tim tui thành đá rồi. Chắc là tui sắp điên. Tui kiếm tìm và tui vô vọng. Làm sao để kiếm được một người vừa là bạn, vừa là người tình, vừa là chồng, vừa là anh, mà còn cả là... cha của tui... hì hì..." Tôi biết cô nhỏ hì hì để che giấu nỗi buồn. Tôi muốn nói với cô nhỏ, đừng đi mãi trên mây. Hãy ngó xuống, nơi này có tôi đứng đợi. Nhưng cổ họng tôi cứ ngắc ngứ, ngần ngừ. Vì cô nhỏ đã quá thân, xem tôi như bạn. Cô nhỏ còn rủ tôi chơi trò ví-dụ-ta-yêu-nhau mỗi khi buồn buồn, kêu là thất tình, không ai để giận hờn, để đưa đi phố. - Ví-dụ-ta-yêu-nhau, khi tui giận, tui giả bộ chảy nước mắt, thì ông sẽ làm gì? - Thì tôi sẽ giả bộ cuống cuồng xin lỗi và lấy khăn ra, lau nước mắt cho nhỏ. - Nếu tui giận, xuống xe, bỏ đi, thì sao? - Thì tui sẽ năn nỉ đến hết nước miếng, chừng nào được, mới thôi. Cô nhỏ phẩy tay, phán một câu xanh dờn: - Tầm thường, như mọi đàn ông khác. - Ví-dụ-ta-yêu-nhau, tui lỡ tát ông một cái, thì sao? - Tôi sẽ đưa thêm má kia cho nhỏ tát. - Không điểm. Ông thật là tệ mà. Ví-dụ-ta-yêu-nhau! Cái trò này làm tôi điên đảo, si mê, và cũng tức tối, bực bội. - Lộc à, vui lòng cho tui mượn cái lưng một chút, tui muốn ngủ. 13. Rồi cô nhỏ áp má vào lưng tôi, im lặng, dịu dàng, như "con mèo ngái ngủ trên lưng anh". Tôi đang tưởng mình bước tới được một chút, chợt cô nhỏ lên tiếng: - Ví dụ đó nha! - Ví-dụ-ta-yêu-nhau. Nếu ông biết được, trước đây tôi có một tá bồ, thì ông nghĩ sao? - Đâu có sao! Ai cũng có thời con gái mà! Cô nhỏ nhỏm dậy sau lưng tôi, chồm cái mặt tới, nhìn: - Thật không? Và cô nhỏ cười. Nụ cười tươi trên đôi môi đẹp. Tôi ngây ngất. Tôi đắm đuối. Tôi nắm đôi vai nhỏ kéo vào mình, thốt lên bằng hết cả cõi lòng: - Tôi yêu nhỏ! Tôi yêu em! Cô nhỏ ngước nhìn tôi, chăm chú. Rồi phá lên cười: - Ví dụ hả? Tôi cứng họng. Tôi mắc nghẹn. Cảm thấy mình giống như một tên hề. Rồi bất động và nghẹn ngào để cô nhỏ cọ cái mũi vào mũi tôi, thầm thì: "Tôi cũng love you", rồi lại cười hồn nhiên y như tôi là một cục đất, không có trái tim rung động. Một lần, tôi hát cho cô nhỏ nghe bài Khi nào, thơ của Mai Trung Tình: "Khi nào em mệt mỏi, xin em hãy nghiêng xuống đời anh. Lòng anh như võng nhung tơ phù phiếm, anh sẽ ru, ru em vài giờ quên..." Cô nhỏ vờ lơ đãng, chống cằm nhìn ra cửa sổ. "Khi nào em tội lỗi, thì xin em hãy cầm dao giết anh. Vì anh như tấm gương soi đối mặt em đó. Vỡ một lần, vỡ một lần cho xong. Khi nào em tuyệt vọng..." Cô nhỏ đã bất thình lình đưa tay, bịt miệng tôi lại: "Tui bị đau bụng". Tôi buông đàn, ao ước được ôm em, ấp ủ. Vì tôi biết, tôi đã thọc đúng vào trái tim em. Trái tim bướng bỉnh, trái tim bất trị, trái tim hoài mãi đi kiếm tìm một ước mơ xa xôi, không chịu đối mặt hiện tại, không chịu ngó nhìn vào tôi: kẻ tự nguyện yêu em, đến chết. 14. Tôi nhận được điên thoại của cô nhỏ: - Tui đang ở bờ sông và rất muốn đi xuống nước. Ông hãy ra đây với tui, nếu có thể. Tôi vơ vội quần áo, chạy xuống đường. Quả thật cô nhỏ đang đứng ở bờ sông, một mình. Thật hú vía. Đêm khuya, cao bồi du đãng thiếu gì trong thời buổi nhiễu nhương của thành phố bây giờ. Tôi thắng xe cái két, thiếu điều muốn đụng, mà cô nhỏ vẫn im lìm, không nhúc nhích. Tôi hét lên: - Hê, bà điên! Lên xe đi! Cô nhỏ vẫn lặng lẽ như pho tượng. Chắc có chuyện bất thường. Tôi tìm chỗ gửi xe. Khi nhìn cô nhỏ, tôi hết hồn thấy nước mắt chảy đầm đìa trên má, trên môi: - Chuyện gì? Chuyện gì vậy nhỏ? Tôi đưa khăn tay, cô nhỏ không cầm lấy mà ngang tay quẹt qua quẹt lại và tức tưởi: - Tui muốn chết! - Được rồi, chuyện gì vậy? Cô nhỏ hít mũi: - Tui sắp lấy chồng. Lâu lắm rồi mới nghe cô nhỏ nhắc lại chuyện này. Lại còn kèm theo nước mắt, chắc là nghiêm trọng. Tôi dỗ dành: - Nín đi! Con gái lớn lên, ai cũng phải có chồng mà. - Nhưng mà, tui thương không nổi. - Thì tập thương lần lần... Tôi tìm cách kéo dài. Bấy lâu, tôi đợi chờ, tôi hy vọng, sẽ chiếm được trái tim em. Tôi muốn, chính miệng em nói ra tình cảm của mình. Tôi không muốn thừa nước đục thả câu. Tôi muốn em tin tưởng, bước tới. Tôi muốn em ngả vào lòng tôi, tự nguyện. 15. Cô nhỏ nở nụ cười méo sệch, thiểu não: - Trời, thương mà còn phải tập nữa sao? Chắc không đủ thời gian để tập đâu. Ông có bao giờ tập thương chưa? - Chưa. Vì tôi thương thật lòng, nên không cần phải tập. Tôi trả lời, nhìn sâu trong mắt cô nhỏ. Đôi mắt ướt, sáng long lanh. Cô nhỏ cũng gan lì nhìn thẳng vào mắt tôi: - Vậy, ông đã có người thương? Tôi gật đầu. Cô nhỏ dằn dỗi, hết còn hít mũi: - Thành ra đây là lần đầu tiên tui khóc mà ông không chịu lau nước mắt cho tui. Đây là lần đầu tiên tui không chịu lên xe, ông cũng không thèm năn nỉ. Vậy mà, ông nói ví dụ... Tôi ngắt ngang lời cô nhỏ: - Tôi yêu thật, nên không cần ví dụ. Chúng tôi đang đi dọc bờ sông. Cô nhỏ bỗng dừng lại: - Bữa nay ông ngon thiệt! - Rồi bấy ngờ đấm cả hai tay vào ngực tôi - Tui ghét ông! Tui ghét ông!... Tôi giữ đôi tay của cô nhỏ trong tay mình: - Và tôi cũng sắp làm đám cưới. Chúng ta sẽ chấm dứt trò chơi ở đây. Dường như tôi nghe cô nhỏ có thoáng kềm giữ khi thở hắt ra: - Được rồi, chúng ta hết nợ nần nhau. Cô nhỏ đã lau khô nước mắt từ lúc nào, bắt đầu cười cợt, lên giọng: - Chỉ còn một đêm nay nữa thôi, mai chúng ta mỗi người một nơi... Nè ông, mai mốt không được kể cho đức lang quân của tui nghe, là tui từng đi chơi với ông, được không? Tôi cũng cười cợt, hòa nhịp theo cô nhỏ: - Tôi hứa. Tôi sẽ không nói cho hắn biết, nhỏ là người đi trên mây, nhỏ dữ như bà chằn lửa, nhỏ có nhiều người tình nhưng rất ghét con trai... Cô nhỏ tiếp lời tôi: - ... Là một người có đủ một ngàn lẻ một thói hư tật xấu, là con gái không kim chỉ... Ôi, cám ơn ông rất nhiều. Hắn đang tưởng tui hiền lành, ngoan ngoãn đó mà... Bắt đầu từ ngày mai, tui sẽ không nói chuyện với ông. Tui sẽ tu tỉnh, sẽ "điều chỉnh" lại con người của mình. - Cô nhỏ thấp giọng, như thể chỉ nói cho một mình mình nghe - Tui sẽ đốt hết, những trang-nhật-ký... Tôi nghe nao lòng, nức tim với những lời nói của nhỏ. Tôi cũng hạ giọng: - Bộ tính lấy chồng thiệt sao? - Bận này bà nội cương quyết lắm. Nội nói tui lớn lắm rồi, lại mồ côi cha, nội phải lo cho xong mới yên tâm nhắm mắt. Ông nhìn xem, phải tui lớn rồi không? Tui sắp già, phải lấy chồng. Tui không muốn lấy chồng! Tui không muốn lấy chồng!... Đôi môi cô nhỏ run lên, nước mắt lại chảy xuống, thành dòng... Tôi lấy khăn lau nước mắt cho cô nhỏ. Lần đầu tiên cô nhỏ khóc trước mặt tôi, không giấu giếm. Cô nhỏ vẫn là một con cừu, dù cố đội lốt chó sói nhưng đã không thể che giấu được bản tính hiền lành, tốt đẹp. Tôi buột miệng: - Ví dụ, người sắp đi hỏi cưới nhỏ, là tôi, thì nhỏ tính sao? Dường như bước chân cô nhỏ hụt đi một nhịp. Cô nhỏ bấu vào vai tôi, nhắm mắt lại, thì thầm: - Đừng ví dụ nữa. Tui giỡn hết nổi rồi. Ông là người độc ác... Tôi xoay mặt cô nhỏ lại đối diện với mình. Tôi nắm đôi vai gầy guộc, bé bỏng của cô nhỏ, bắt nhìn thẳng vào mắt tôi: - Tôi chính là người sẽ đi hỏi cưới em. Nếu không tin, về hỏi bà nội và má xem. Là tôi đó. Hãy ngã vào lòng anh. Khi nào em tuyệt vọng. Là tôi đó, biết chưa, cô nhỏ. Chính là tôi. Đôi mắt cô nhỏ mở to, rồi đôi môi hé ra, thì thào: - Tui không tin! Tui không tin! Ông nói xạo! Ông nói xạo!... Tôi kéo cô nhỏ vào lòng. Cô nhỏ cũng ôm chầm lấy tôi. Tôi cảm nhận, cô nhỏ đã thật sự là của tôi, khi em ngả đầu trên vai tôi, bật khóc. Tôi tiếp tục nói. Chính là tôi. Chính là tôi đấy mà. Đừng khó nữa, Đá Xanh! Là tôi đó. Và em thì lắc đầu. Không tin. Không tin. Cho đến khi, tôi chợt thấy đôi môi tôi đang cắn chặt lấy môi em, từ lúc nào...[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đám cưới[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đậu Hải Nam[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đám cưới chúng tôi ở thành phố, khá đông, phần đa là khách của Mùi. Ông chủ hôn trường đọc một bài diễn văn, nghe quen quen. Cha tôi đại diện hai họ phát biểu, ông không được tự nhiên. Ăn cơm tối xong, tôi pha trà, nằm trên đi văng xem thời sự. Sau khi rửa bát đĩa, Mùi đến ngồi ở chiếc ghế đối diện. - Em có thai - Nàng nói, vẻ không tự tin như ngày thường. - Cái gì cơ!? - Tôi vẫn nằm nguyên tư thế hỏi. - Em có thai - Mùi nói - Bác sĩ bảo được hơn một tháng rồi. Tôi ngồi thẳng dậy, rót trà ra chén, chậm rãi đưa lên miệng nhấp một ngụm. Sau khi nhận thức được vấn đề, tôi nói. - Làm thế nào bây giờ!? Mùi cầm lấy điều khiến tivi. Đám xe tăng của Israen đang tiến vào Gaza, cùng những thanh niên Arập cầm đá ném… biến phụt đi. - Đề từ từ xem nào - Tôi khẽ cau mày nói. Tôi luôn quan tâm đến tình hình Trung Đông, nơi đất đai, chủ quyền, các thang bậc giá trị luôn là đề tài nóng bỏng. - Thôi - Mùi nói - phải bàn cách giải quyết chứ. Tôi châm điếu thuốc khác, nhả khói lên trần nhà. - Mình tổ chức đám cưới anh nhé - Mùi nói. Tôi vẫn nhả khói đều đều. Trước đây, mỗi khi gần gũi Mùi, tôi luôn dùng bao cao su. Về sau, Mùi chuyển sang dùng thuốc tránh thai. - Sao tự dưng lại có chửa - Tôi lẩm bẩm trong đầu. Tuy không thực sự quan tâm đến quá khứ của Mùi, nhưng tôi biết trước đây, cô ấy từng nạo thai không chỉ một lần. Bác sĩ bảo, nếu nạo nữa, màng dạ con sẽ mỏng dính, trứng không bám được vào đâu, cứ thế lăn lông lốc ra ngoài, dẫn đến vô sinh, thậm chí là vĩnh viễn. - Phải cưới thôi - Giọng Mùi có phần gay gắt. Hồi chưa về sống chung với Mùi, tiền kiếm được chưa bao giờ tôi đủ tiêu đến cuối tháng. Cái cảnh nhà thuê, cơm bụi, nợ nần đầm đìa ở quán hàng, cộng với cái danh trí thức khiến cuộc sống của tôi càng thêm chán chường, mệt mỏi… Tuy kém tôi một tuổi, nhưng Mùi đã nhanh chân vào làm ở một công ty cổ phần nhà nước, rồi trở thành thư ký giám đốc. Căn hộ chung cư, đứng tên nàng. Sống với nhau hơn một năm, nhưng tôi chưa một lần bước vào cơ quan Mùi, còn nàng cũng chưa bao giờ đến nơi làm việc của tôi. Sáng sáng, mỗi đứa mỗi nơi, đêm về chung mâm, chung giường… - Ừ! Cưới cũng được - Tôi nói: Mùi chợt hào hứng hẳn. Chúng tôi sống ở thành phố, nhưng hai đứa hai quê, nên ít nhất có 3 địa phương liên quan đến sự kiện này. - Thể nào cũng phải tổ chức ở đây - Mùi lấy lại sự tự tin cố hữu của mình nói - Thứ nhất là quan hệ bạn bè, công việc của em, thứ nữa phải đòi mấy chục cái phong bì. Mình đi đưa cho người ta mãi rồi. - Ừ - Tôi nói. - Ở quê em thì làm tiệc vui, vài mâm, mời giới hạn trong nội tộc. Ta sẽ làm ghép, nhân dịp cha mẹ anh đến xin dâu luôn thể. - Mọi chuyện, hình như đã được sắp xếp trong đầu nàng. - Còn phía bên anh thế nào? - Mùi đột ngột hỏi. - Tôi suy nghĩ một tý, rồi nói. - Để anh gọi điện thoại, hỏi xem thế nào. - Phải chủ động chứ - Mùi nói - Đám cưới của mình, anh còn hỏi ai. - Tôi im lặng, chầm chậm nhìn nàng. - Hay là cưới làm gì nữa. - Một lúc sau, tôi nói - Có khác gì đâu. Em cảm thấy vướng mắc điều gì, thì mình đi đăng ký cho đủ luật. - Í, không được - Mùi nói - Phải cưới. Đời con gái chỉ có một lần. Thấy nàng vẫn thiết tha với chuyện có một ông chồng, tôi chậm rãi đi lại góc phòng, gọi điện thoại về nhà. Khi hiểu chuyện, cha tôi rất mừng. Ông không kịp nghĩ ra điều gì cả. Mẹ tôi nói một lúc lâu nữa, nhưng chưa đâu vào đâu. Đặt ống nghe xuống, tôi nói với Mùi. - Để từ từ rồi bàn cụ thể, nhưng kiểu gì cũng phải tổ chức ở quê. - Thế cũng được - Mùi nói. Sau khi bàn bạc với gia đình hai bên, cha tôi và mấy người trong họ đi ra quê nàng để xin cưới. Mùi đảm đang, tháo vát. Mọi chuyện đều suôn sẻ. - Thế là xong bước thứ nhất - Mùi nói. - Ừ - Tôi nói. Đám cưới chúng tôi ở thành phố, khá đông, phần đa là khách của Mùi. Ông chủ hôn trường đọc một bài diễn văn, nghe quen quen. Cha tôi đại diện hai họ phát biểu, ông không được tự nhiên. Người phục vụ mở sâm banh rót vào tháp cốc hình chóp. Tôi và Mùi đứng sát vào nhau để chụp ảnh. Mọi người vỗ tay tán thưởng, rồi cùng nâng cốc chúc mừng. Ca sĩ hát mấy bài. Tiếng nhạc rất to. Tôi dắt Mùi đi một vòng cười chào mọi người. Chúng tôi đi đến đâu, mọi người đều cầm cốc bia đứng dậy. Tôi nghe họ nói câu được câu mất. Cỗ bàn dọn cũng khá, trị giá 300 nghìn một mâm sáu người. Mỗi mâm có 4 chai bia và 3 lon nước ngọt. Lúc đang rộ tiệc, Mùi đột ngột kéo tôi ra sân để tiễn “sếp” của nàng. Ông ta béo nẫn, da bóng lộn, hỏi trụi một màng như bò liếm mất tóc ở giữa đầu. Ông bắt tay tôi rất chặt. Tôi cảm thấy tay ông mềm mềm, ghê ghê. Tôi không thích cái cách ông ta heo heo mắt nhìn Mùi. Tôi thực sự khó chịu khi ông nắm tay Mùi hơi lâu, lại còn vỗ nhè nhẹ vào vai, bảo nàng yên tâm nghỉ, lo xong mọi chuyện, rồi mới chui vào xe, đóng cửa. Xe chạy một quãng, Mùi vẫn giữ tôi đứng nhìn theo. - Vào thôi - Tôi nói. Nụ cười của Mùi lịm dần, theo chiều xa với chiếc xe bóng lộn. - Anh chẳng hiểu gì cả - Mùi nói. - Khách khứa vãn dần. Một số người có vẻ muốn uống thêm một chút nữa, nhưng cả bia và bạn bia đều không có, nên họ ăn vài miếng, rồi đứng dậy chào về. Chúng tôi cười chào lại họ. Một số người đã bỏ phong bì từ trước, số còn lại đút nhanh vào chiếc hộp bọc giấy đỏ, đặt sát cửa, rồi mới ra bãi để xe… - Thế là trọn vẹn cả - Ông chủ hôn trường nói - Việc của chị với anh xong. Chúng tôi phải dọn dẹp, lo cho một đám khác nữa - Ông ta thở dài, vẻ bận rộn, thỏa mãn - Mùa cưới mà, mệt lắm. - Đêm đến , Mùi ngồi dạng chân trên giường bóc phong bì. Tiền ở trong đó, nàng xếp thành từng loại mệnh giá. Tôi giúp nàng biên tên vào máy vi tính xách tay. - Giám đốc X, một triệu này - Nàng đọc. Tôi gõ máy vi tính nhoay nhoáy. - Con Tuyết “tồ” một trăm này - Nàng đọc. Tôi gõ vi tính. - Lão Trưởng phòng T, có mỗi 200 nghìn - Nàng nói - Hồi cưới con bạn em, con gái ông Z, bóc phong bì mà sướng. Tôi gõ vi tính. - ... Tôi bảo, không cần gõ những người bạn tôi, nhưng rồi vẫn phải gõ hết, vì quan hệ về lâu về dài - Lời của nàng. Tôi gom nhặt đống phong bì rách, nằm ở ngơ ngác dưới nền nhà, đi bỏ vào hố rác. Khi tôi trở vào, Mùi đã đếm xong tiền. - Không lỗ - Nàng nói. Nhìn gương mặt chợt sáng lên của nàng, tôi hiểu đám cưới của chúng tôi còn hơn cả không lỗ. Nhưng liền đó, Mùi cau mày. - Còn cái đám ở quê anh nữa - Nàng nói- Chúng mình chả nói với mọi người, ở quê mới là chính, còn ở đây là phụ còn gì. - Ừ, vậy! - Tôi nói. - Em chỉ xin nghỉ được mấy ngày - Mùi nói - Cần phải làm cho gọn. - Sao không cắt phép, (Tôi thoáng nghĩ đến tuần trăng mật kiểu Tây) cắt hẳn hai cái phép, cho thoải mái - Tôi nói. - Anh dớ dẩn thật - Mùi nói - Cắt phép, phải bàn giao công việc cho người khác. Cưới xong, mất vị trí, lấy gì mà sống. Căn hộ này, em cũng đã trả hết tiền đâu. Anh đừng có thần kinh. Nghĩ đến cảnh tạm biệt ông “sếp” lúc trưa, tôi nói: - Nghe nói, quan hệ của em với “sếp” tốt lắm cơ mà. - Anh chẳng hiểu gì cả - Mùi nói - Thời buổi ngày nay, đến Bộ trưởng, còn tìm được người thay thế, huống hồ cái chân thư ký như em. Lại còn chuyện đẻ đái về sau nữa. - Ừ vậy! - Tôi nói. - Tôi nằm trên giường. Mùi sắp soạn đồ đạc một lúc nữa. Cô ấy xếp đi đếm lại mớ tiền trên hai tay. Sau rồi, Mùi quả quyết ấn tất cả vào sâu dưới túi du lịch. Trước khi tắt công tắc đèn, Mùi hỏi tôi. - Anh đã chốt cửa chắc chắn, tắt điện nhà vệ sinh chưa? - Rồi - Tôi nói. - Ngủ thôi - Mùi nói - Lại còn chuyện về quê nữa. - Trước khi nằm xuống, nàng thắc thỏm hỏi thêm một câu: - Anh bàn bạc kỹ với cha rồi chứ? - Ừ, - tôi nói - em yên tâm đi. Một lát sau, tôi đã nghe tiếng nàng thở nặng nhọc, khò khè. Khi chúng tôi về đến quê, trời hạn lâu ngày, đồng đất vai cày bạc trắng. Núi đồi như cũng nhũn ra dưới nắng. Một chiếc rạp được dựng trùm lên sân trước và một khoảnh vườn. Mấy người anh em, bà con của tôi oang oang đi lại, sắp bàn, xếp ghế. Một đám các bà, các chị đang nạo đu đủ để làm nộm. Phía hồi nhà bếp, mấy chục con chó bị trói quặt chân ra sau, đang rên ư ử, rồi lợn, rồi gà… Sau khi nắm tình hình, Mùi nói: - Nhà quê mình hay nhỉ, Ai lại cưới bằng chó bao giờ. - Tôi biết, nhà Mùi ở thị trấn dẫu sao còn có chút sành điệu, còn quê tôi là nông thôn xịn. Thịt chó là món khá xa xỉ, chỉ có trong các dịp lễ lạt, cưới hỏi (trước đây không có). Nhưng tôi chỉ nói: - Cái tục nó thế. Thịt nào chẳng là thịt. Chó thì thôi bò. - Nhưng em thấy có vẻ hơi nhiều - Mùi nói. Cha tôi cầm con dao trong tay, từ ngoài sân bước vào nhà nói như quát: - Chúng mày bảo ba mươi mâm, nhưng tao quyết làm năm mươi. “Dâu đầu, cháu sớm”, đám cưới nhà mình, phải sang nhất làng. Gương mặt Mùi hơi khác đi. - Cha ạ! - Tôi nói - Cưới vợ chứ có phải mời trả bữa đâu. - Mày thì biết cái gì - Cha tôi nói - Việc ở thành phố mặc kệ chúng mày, đây là chuyện làng, không biết thì đừng có nói. - Vâng! Năm mươi thì năm mươi. Cũng chẳng hết mấy đâu mà - Tôi nói và nhìn sang Mùi. Nàng im lặng. - Chú tôi, ngần ngật hơi men đi vào nói: - Tôi thấy cưới đâu họ Phan, họ Hồ có thắp hương nhà thờ, cúng xưng lầm rầm, cũng hay. Họ mình không có nhà thờ, làm thế nào cho đủ lễ? - Ừ! Làm thế nào!? - Cha tôi ngẩn người ra một tý - Tao cũng không quen - Ông nói. - Cha tôi là người vóc vạc, ngang tàng, lại là thương binh… Tôi nhớ, có lần cha bưng một hòn đá nơi cửa đền về kê chuồng, để khi cho lợn ăn, mẹ khỏi trượt chân. Ông nội tôi không đồng ý. - Đền có còn đâu - Cha tôi nói - Còn bưng hòn đá thì có làm sao. - Lũ chúng mày còn trẻ người non dạ lắm - Ông nội trợn mắt, chỉ vào mặt cha tôi nói - Chưa hiểu được lẽ đời đâu. Để về sau mà xem… Một lần, cha tôi đi rừng chặt gỗ, bị sốt rét thừa sống, thiếu chết, người xanh như ngọn khoai, nằm run khừ khừ trong chăn. Ông nội bảo mẹ chùi rửa hòn đá sạch sẽ, vần lên xe kiên an, đưa trả thần, nhưng cha tôi cấm. Mẹ không biết nghe ai . Suốt đời, mẹ luôn chỉ là cái bóng của những người đàn ông trong gia đình. Cha hơi lừ mắt, mẹ đã len lét lảng đi. Về sau, bệnh cha tôi phát nặng quá, mẹ đành lén nghe lời ông nội. Rồi bệnh của cha tôi khỏi. Cha bảo, chả phải thần thánh gì, đấy là do thuốc trạm xá. Ông định ra vần hòn đá đó về, nhưng sức yếu quá, nên thôi. Cha đi cày nuôi chúng tôi ăn học. Những chuyện ngày xưa, ngày nay, đan xen lẫn lộn, ẩn lấp trùng điệp trong đầu tôi, như núi xa mây bọc, rắn rỏi, buồn buồn. Nhiều vụ giáp hạt, buổi sáng chúng tôi ăn khoai lang, đến gần trưa, bụng đói cồn cào, veo vắt, thi thoảng lại ợ khan, ợ chua, nước dãi chảy dòng dòng nơi cửa miệng. Buổi tối ăn cơm chia, một phần cơm, bốn phần sắn, ngồi bên mâm, nhìn cái nồi sâu như cái hố… Được chút điểm thương binh của cha, cộng thêm điểm khu vực vùng sâu vùng xa, tôi vào Đại học. Còn cha vẫn ở lại làng quê. Cha đã già thật rồi, da dẻ nhăn nheo, tóc ngả hai màu, người khét rình mùi thuốc lào, nhưng tính cách cụ vẫn “quân phiệt” vậy. - Hay mời lão Điền “khàn” đến khấn hộ - Chú tôi nói. - Chú mời bạn rượu của chú thì có - Cha tôi nói. - Thế có khấn không? - Chú tôi hỏi. - Cha nghĩ ngợi một lúc, rồi nhìn hai chúng tôi. Cha nói, giọng hơi run: - Hai đứa ra nghĩa địa, thắp hương cho ông bà. Còn ở trong nhà, tao nói nôm đi cũng được. Hồi tao lấy mẹ mày, Chi đoàn làm cho hết. Chỉ có mỗi nồi chè xanh, gói thuốc lá Tam Đảo với mấy cái kẹo mềm Hoa Quả. Rồi tao vác ba lô vào Miền Nam đánh trận. Thống Nhất xong, mới đẻ mày… - Tôi và Mùi đều muốn xong việc sớm, nên nhất nhất nghe theo lời các cụ. - Ngày cưới, cha tôi ăn mặc chỉnh tề, thắp hương trên bàn thờ xong, ông lấy ra một tờ giấy đọc rất to: - “Con là Cù Quang Trạch, hôm nay xin thông báo với tổ tiên, ông bà. Xin tổ tiên và ông bà cho con cưới con dâu mới, mà là dâu đầu, cho thằng cả nhà con, là thằng Thiệp…”. - Lạy đi, lạy đi, lạy đi - Chú tôi nói nhanh và nhỏ. - Tôi và Mùi nhìn nhau, vụng về cúi lạy ba lạy. - Khoảng 11h giờ trưa thì rộ tiệc. Cha tôi có vẻ hể hả, mắt long lanh, mặt đỏ bừng. Dân quê ăn uống nhồm nhoàm. Mây ông già say nói năng nhịu nhọ, khen cha tôi hỏi được con dâu thành phố. Người bưng thức ăn đi lại tíu tít. Mùi gượng đứng cười một lúc, rôi kêu mệt, vào buồng đóng cửa nằm nghỉ. Không mấy khi gặp dịp tôi uống khá nhiều. Mấy người bạn thuở chăn trâu, chăn bò của tôi, mới đầu còn rụt rè vì cái hố ngăn cách về thời gian, mức sống, trí tuệ, địa bàn cư trú… nhưng rồi, được rượu tăng nhuệ khí, họ hò nhau bảo tôi gọi Mùi ra, để chúc một chén. Tôi hăng lên, vào buồng lôi Mùi dậy nhưng cô ấy không chịu. - Mẹ kéo tôi ra góc nhà, lấm lét nhìn quanh. - Đàn bà nghén, cáu tính lắm - Mẹ thì thào - người làng đang ngồi đầy ở ngoài kia. - Đảo điên hết cả, con chẳng hiểu ra sao - tôi nói, rồi trở ra sân. - “Bản tin chiều” được truyền khắp làng rằng: “Đám cưới con ông Trạch to kinh khủng, có mấy người tham ăn, máu sặc ra cả đằng mũi”. Đêm đến, do rượu, thịt chó, tôi cảm thấy nóng bức, trằn trở không sao ngủ được. Cha tôi ngáy khò khò, chuyển cả ngôi nhà gỗ. Tôi thò tay sang vợ (có thể gọi Mùi như thế được rồi), mồ hôi cô ấy ra nhớp nháp. Mùi chợt tỉnh, nằm dịch sâu hơn vào vách. Tôi ra giếng xối nước ào ào, rồi nằm luôn ở thềm. Đêm rất sạch. Con côn trùng nào đó kêu cành cạch một tràng khô khốc… - Trở lại thành phố, chúng tôi ngủ li bì, để lấy lại sức. - Sáng dậy, tôi và Mùi ra quán quen ăn phở. Có một anh chàng to tiếng với chủ quán, về chuyện tiền chẵn, tiền lẻ. Chủ quán cũng quát lại anh ta. - Mặc kệ họ - Mùi nói. - Tội nhặt thịt trong bát mình, bỏ vào bát Mùi. - Mẹ khỏe, con khỏe - Tôi nói - Anh làm gì thế! - Nàng hơi cao giọng - Nếu cần thì gọi thêm. - Chúng tôi cúi xuống ăn. Được một lát, Mùi chợt ngửng lên nói: - Quê anh chán chết! - Thế vậy! - Tôi nói. - Nhưng cái đoạn lạy lạy, vái vái ấy, em… hơi… cảm động - Nàng nói - sao mình không có nhà thờ họ? - Chưa xây được - Tôi nói cho xong chuyện. - Chúng tôi lấy giấy ăn lau mồm. Tôi rót nước. Uống xong, chúng tôi ra xe nổ máy, Dòng người đông kịt, luồn lượn chảy như sông. Một chiếc ô tô buýt to lớn trờ tới. Mùi khéo léo nhoàng lượn xe máy tránh nó. Bóng của Mùi dần khuất lẫn, mất hẳn. Tôi thở dài, phóng xe đi về hướng ngược lại...[/FONT]
Tản mạn...!!! Tìm một con đường - Tìm một lối đi Cuộc sống chúng ta giống như một con đường. Con đường ấy có thể dài hay ngắn, lúc quanh co lúc thẳng tắp, có khi bằng phẳng, có khi lại gồ ghề, đá sỏi. Vậy con đường ấy sẽ dẫn chúng ta đi tới đâu? Một cuộc sống giản dị, một cuộc sống với tiền tài và danh vọng hay cuộc sống của sự cô lập và nghèo đói? Có những con đường đi tới sự hạnh phúc, chiến thắng, vinh quang nhưng cũng có những con đường mà điểm đến của nó lại là nỗi buồn khổ, sự thất bại… Giống như những con đường khác, con đường - cuộc sống cũng có những khúc cua, có những đoạn đường quanh co, và cả những giao lộ. Có lẽ thời điểm khó khăn, phức tạp nhất mà chúng ta phải đối mặt đó chính là khi đứng trước những giao lộ của cuộc sống. Chúng ta đứng trước nhiều sự lựa chọn, nhiều con đường khác nhau, với sự hiểu biết có hạn, chúng ta không thể phán đoán, hay phân tích con đường nào chúng ta nên đi, vậy đâu sẽ là con đường mà chúng ta lựa chọn để tiếp tục cuộc hành trình của mình? Liệu có một sự bảo đảm nào cho việc chúng ta sẽ lựa chọn con đường đúng cho bản thân. Chúng ta đi tiếp hay ngần ngại và dậm chân tại chỗ? Bạn sẽ không thể biết được con đường này sẽ dẫn bạn tới đâu cho tới khi bạn thực sự đi qua nó. Đó là điều quan trọng nhất mà bạn cần phải nhận thức về cuộc sống. Không một ai nói rằng việc bạn lúc nào cũng lựa chọn đúng con đường của mình sẽ dẫn tới hạnh phúc. Bạn yêu một ai đó chân thành không đồng nghĩa rằng tình cảm của bạn sẽ được đáp trả. Bạn thành công trong công danh, sự nghiệp; bạn có địa vị cao trong xã hội hay bạn đang sở hữu một gia sản kếch xù… những điều ấy cũng không thể khẳng định bạn đang có một cuộc sống hạnh phúc. Có rất nhiều khả năng có thể xảy ra mà chúng ta không thể kiểm soát được. Điều duy nhất bạn có thể làm chủ đó là đưa ra quyết định cho bản thân mình, bạn sẽ hành động và thích nghi thế nào trong những hoàn cảnh khác nhau của cuộc sống. “Sự thay đổi của cuộc sống là điều không thể tránh khỏi - Việc của chúng ta đơn giản là lựa chọn cách để vượt qua nó mà thôi” Cuộc sống luôn là bức tranh muôn màu muôn vẻ. Nó không bao giờ là những khuôn mẫu định sẵn. Không ai trong chúng ta có thể có “tấm vé an toàn” hay một sự chắc chắn về những gì đang đón đợi chúng ta ở phía trước. Do vậy, bạn sẽ không bao giờ có thể biết được quyết định của bạn đúng hay sai cho tới khi bạn thực hiện nó. Vì thế, hãy dám nghĩ, dám quyết định và lựa chọn con đường đi cho chính bản thân bạn. Dù đó là quyết định đúng hay sai nhưng điều đó chắc chắn tốt hơn rất nhiều việc bạn chần chừ, do dự và chờ đợi. Và chỉ có như vậy bạn mới có thể tạo nên những bước ngoặt lớn trong cuộc đời của mình. Kiến thức, niềm tin và sự nhiệt huyết sẽ luôn là những người bạn đồng hành không thể thiếu của mỗi chúng ta trên con đường đời ấy! Xiu tằm Tìm một con đường Tìm một lối đi Ngày qua ngày Đời nhiều vấn nghi Lạc loài niềm tin Sống không ngày mai Sống quen không ai cần ai Cứ vui cho trọn hôm nay Rồi cuộc vui tàn, mọi người bước đi Một mình tôi về, nhiều lần ướt mi Chờ tình yêu đến trong ánh nắng mai...
Rất thích truyện này...có nhiều câu nói rất hay...và cô nhỏ trong câu truyện có tính cách hơi giống giống mình...hihihi...
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đức tin[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lê Xuân Hoa[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mùa thi năm ấy tôi trượt đại học. Gánh hàng khô lỉnh khỉnh của mẹ nghiếm nhiên trở thành cứu cánh duy nhất cho những khoảng thời gian nhàn rỗi mà đôi lúc tưởng chừng như không hề có giới hạn. Nhà tôi ở trong khu tập thể của dân lao động với bốn phía là những dẫy nhà năm tầng thấp lè tè, kín mít. Bậc cầu thang tối om, sâu hun hút, đứng ở bên trong không biết đang là ngày hay đêm. Nghe nói khu tập thể này là niềm tự hào của thành phố vào những năm 60. Đã gần 40 năm trôi qua. “niềm tự hào” chỉ còn lại dáng vẻ nham nhở của những lồng sắt ban công cơi nới thêm gỉ hoen gỉ hoét nhô ra thụt vào, với những ống thoát nước bám đọc thân tường rò gỉ tứ tung và cống thoát nước tấm tắc chỉ chờ mưa tới là duềnh lên cuốn đủ thứ rác rưởi vào tận gầm giường. Về hưu, tận dụng lợi thế ở tầng một bố trổ cửa bầy biện cho mẹ gian hàng nho nhỏ. Thoạt đầu ngồi giữa đống tỏi, hành khô, ớt khô, ớt bột, hạt tiêu…tôi chỉ thấy ngao ngán. Mẹ bầy cho tôi cách đong từ hai trăm dấm, năm trăm nước măm, dăm trăm vừng…Nhìn vẻ mặt não nề vì phải nhớ cùng lúc cả đống mặt hàng với một lô giá cả tủn mủn khác nhau của tôi mẹ an ủi “Buôn thất nghiệp, lãi quan viên. Nó nuôi sống cả gia đình mình đấy cô ạ”. Ngày ngày, tôi ngồi vắt vẻo trên chiếc ghế đẩu kết bạn với truyện chưởng, tâm lý xã hội Sài Gòn. Gian hàng khô của mẹ không phải lúc nào có khách. Thông thường các bà nội trợ chỉ chạy qua nhà tôi khi họ lỡ quên mua một thứ gì đó ngoài chợ như một giải pháp tạm bợ. Bù lại đây lại là nơi thu thập tin tức tuyệt vời. Mọi biến động dù nhỏ nhặt nhất trong khu tập thể đều được đem ra trao đổi, bình luận, khi thì âm thầm, bí mật lúc lại công khai. Dạo này “trạm th phát thông tin” xôn xao bởi người hàng xóm mới. Nghe đâu ông là giáo viên của trường đại học Mỹ Thuật, đã ngoài 60 nhưng lại sống độc thân. Ông dọn đến căn phòng nhỏ trên tầng ba do chú Minh nhượng lại. Có lẽ căn phòng đã quá tải với sức chứa hai vợ chồng và hai thằng con nghịch như quỷ sứ. Sự xuất hiện của một ông họa sĩ già trong khu dân cư lao động nghèo nàn đương nhiên là một hiện tượng lạ. Ông ít khi bước chân xuống đường nhưng lại rất đông khách. Đến thăm ông thôi thì đủ mọi thành phần già có, trẻ có, sang trọng có, tuềnh toàng cũng có nhưng nhiều nhất là sinh viên. Rất nhanh chóng ông trở thành khách hàng thường xuyên của mẹ và lần nào cũng như lần nào luôn là chục trứng vịt và thùng mì tôm, Cái thực đơn ấy làm tôi nởi hứng tò mò, không hiểu sao người ta có thể sống nổi trong thế giới của vịt và mì ăn liền? Cuối tuần tôi thường gặp ông tay cầm bó cúc tìm ngồi lặng yên ngắm nhìn lũ trẻ tinh nghịch chạy nhảy trong sân chơi. Lúc ấy trông ông thật cô độc và lạc lõng. “Cộc…cộc…cộc”. - Xin mời vào. Tôi đưa tay đẩy cửa rụt rè: - Thưa bác, mẹ cháu bảo cầm cái này lên cho bác… - Lam đấy à? Thì cứ vào đây chơi đã cháu. - Ông họa sĩ già đứng quay lưng về phía tôi. Bút vẽ, bảng pha màu vứt ngổn ngang dưới đất. Sách báo, giấy tờ có lẽ cứ tiện đâu là quẳng đấy. Ngược lại những bức tranh được treo rất cẩn thận trên tường. Tĩnh vật, cỏ cây, hoa lá, con người…đủ cả, cảm giác hệt như mình đang lạc vào thế giới của màu sắc. Tôi đứng lại trước giá vẽ. Gam màu của một buổi chiều vàng yên ắng, thiếu nữ tựa cửa, đôi mắt dõi nhìn xa xăm, nét mặt nhạt nhoà sương khói như chờ đợi. - Cháu cũng thích hội họa? - Cháu có biết gì đâu nhưng nó nhắc cháu nhớ đến hai câu thơ. “Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?” Thoáng qua một cái nhíu mày, ông cúi người lục tung đám giấy tờ vương vãi nhặt cho tôi tờ giấy nham nhở xẽ vội từ sổ tay “Lại đây Lam”. Dăm ba nét phát thảo bằng chì đen chỉ là sự mênh mông, kỳ bí của đại dương và chìm lấp giữa sóng biển thấp thoáng cánh chim hải âu. - Dạ…cháu thấy… - Cháu cứ nói đi – ánh mắt ông nhìn tôi hiền từ khích lệ, ánh mắt của một người cha dành cho đứa con bé bỏng. Tôi buột miệng: - Cháu thấy sự hoang mang và hữu hạn giữa cái vô cùng. Tôi hý hửng bưng chồng sách cao chất ngất ông họa sĩ già cho mượn về nhà. Không còn tình cảm ướt át, không còn anh hùng kiếm hiệp đệ nhất thiên hạ. Gian hàng khô của mẹ trở nên quá đỗi tầm thường. Những trang sách mở ra trước mắt tôi chân trời mới lạ. Tôi không thể cứ quẩn giữa đống mộc nhĩ, nấm hương…có biết bao điều đang chờ tôi khám phá. Ông họa sĩ già giảng giải cho tôi về âm nhạc, hội hoạ, thơ ca. Tôi thích thế giới của màu sắc nhưng trở thành vô ích. Tôi xem tranh chỉ vì muốn tìm ra điểm giao lưu giữa hội họa và văn chương. Trong văn học tôi tìm thấy lòng nhân ái và những điều cao cả của thế giới loài người. Tôi tập làm thơ. Mẹ lo lắng mỗi lần thấy tôi tư lự, xấp giấy trắng trải dài trên bàn học “Con ơi, sinh ra làm phận đàn bà đã là một sự thiệt thòi rồi, dính vào văn chương là khốn khổ đấy con. Rồi thơ thẩn làm mày mụ người đi mất thôi”. Mùa thi tiếp theo tôi nhận được giấy báo trúng tuyển của ba trường: Luật, Báo Chí và Tổng Hợp Văn. Đứng giữa ngã ba đường tôi đã chọn văn học. Ông họa sĩ già trầm ngâm “Nghĩ kỹ đi cháu. Theo đuổi nghệ thuật không chỉ có sự tinh tế, sâu sắc là đủ. Cháu phải kiên trì và đam mê thực sự nếu không tất cả sẽ là bi kịch. Người nghệ sĩ phải luôn tìm thấy trong cuộc sống những điều mà người khác không thấy được…”. Tôi lặng im. Tôi còn quá non nớt để có thể hiểu những gì ông nói nhưng trên mỗi trang viết tôi cảm thấy mình được sẻ chia những thứ cảm giác mà không thể thổ lộ. Tôi lờ mờ nhận ra sự lạc lõng và cô độc trong từng bức tranh của ông. “Có phải vì thế mà bác sống một mình?”. “không hẳn là vậy. Thế cháu đã có bạn trai chưa?". Tôi lúng túng lắc đầu. 19 tuổi, tình yêu đối với tôi xa xôi và mơ hồ quá, hệt chuyện hoang đường. Lũ bạn của tôi đến với tình yêu có vẻ đơn giản và dễ dàng hơn. Nhanh chóng yêu nhau và cũng vội vàng chia tay sau vài lần giận hờn với những lý do hết sức vớ vẩn. Mỗi khi ngẫm đến mình tôi lúng túng tự hỏi không biết mình sẽ ứng phó với tình yêu ra sao? Có nên đuổi nhau trong lớp để tranh ăn một cái kem hay cãi nhau ỏm tỏi xem hôm nay đưá nào phải quét lớp như hồi cấp III? "Thế bác đã yêu bao giờ chưa?". "Có chứ, chỉ một lần nhưng đáng để con ngừôi ta suy ngẫm cả cuộc đời". 40 năm trước ông hoạ sĩ già là chàng sinh viên trường Mỹ THuật tre trung và nhiệt huyết. Trong đợt đi thực tập sáng tác tại Huế, giữa cố đô của miếu mạo, đền chùa và giữa cơn mưa Huế bất chợt nhòa trời, ông vô tình quen cô nữ sinh áo tím trường Đồng Khánh. Suốt thời gian thực tập ông không vẽ nổi một mái chùa cong nhưng tập phác thảo thì cứ đầy lên bởi đôi mắt đen, mái tóc xõa ngang lưng - nét đẹp mảnh mai, dịu dàng hệt một bông hoa cúc tím. Trước ngày ra Hà Nội cô dắt ông đi thăm Đại Nội. Đứng trước cổng chùa Thiên Mụ, bên dòng Hương Giang xanh thẳm, mước mắt cô rơi trên vai áo của ông và cô đã hứa chờ ông quay lại. Bài báo cáo "Thiếu nữ Huế" đã giúp ông giành điểm xuất sắc. Bức tranh ấy trải qua bao thăng trầm giợ đã xỉn màu nhưng vẫn được treo tại nơi trang trọng nhất trong phòng khách như một minh chứng hùng hồn nhất cho sự vĩnh hằng của tình yêu. Đấy cũng là bức tranh duy nhất ông vẽ về cô. Mỗi lần đứng trước giá vẽ ông lại thấy mình bất lực khi muốn tái hiện khuôn mặt cô trên toan trắng. Hai tháng sau ông trở lại Huế tìm cô thì nhận được tin cô đã mất trong phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên thành phố "Hát cho đồng bào tôi nghe". Ông bỏ dở chương trình học, xa rời bảng màu xung phong nhập ngũ. Đất nước cần có những người con đứng lên bảo vệ quê hương. Chiến tranh đã đưa ông đi qua khắp mọi miền của tổ quốc và đi qua cả tuổi trẻ của mình. Hoà bình lập lại ông vè trường hoàn thành nốt năm cuối đại học và được giữ lại làm giảng viên. Bàn tay chai sạn quen cầm súng, lựu đạn nay lại mềm mại cầm lên bút vẽ. Duy chỉ có tình yêu không trở về với ông. Trong ông cô mãi là nữ sinh Đồng Khánh 17 tuổi lung linh và huyền ảo. "Sao bác không tìm cho mình một chỗ dựa tuổi già?". "Cũng có lần bác định thế nhưng rồi lại thôi. Bác sợ làm khổ người ta". Tôi cắn môi "Cháu hiểu. Đối với bác chiến tranh thực sự chưa bao giờ đi qua". 23 tuổi sinh viên năm cuối, tình yêu đến với tôi bằng hai hồi chuông phá vỡ giấc ngủ trưa không làm tôi bất ngờ nhưng đủ để làm tôi bối rối. Tình yêu là học trò của ông hoạ sĩ già, có tài nhưng lông bong và ham vui. Con một, bố là kiến trúc sư, mẹ là nghệ sĩ violon, ngay từ nhỏ Quân đã được bố mẹ chăm sóc chu đáo và định hướng phát triển khả năng. Tôi yêu Quân từ những bức tranh mà anh vẽ. Tôi hạnh phúc khi phân tích cho anh nghe một vần thơ hay, một ý tho lạ hay ê ẩm cả người ngồi mẫu hàng tiếng đồng hồ. Mẹ lo lắng "Trèo cao thì ngã đau. Gia đình Quân danh giá đời nào chịu làm sui với nhà mình". Tôi cười trấn an mẹ "Bây giờ sắp sang thế kỷ 21, người ta nghe nhạc tây, uống rượu ngoại, đi nhẩy đầm. Quan niệm môn đăng hộ đối xa lắc rồi mẹ ơi!". Để mặc mọi lời khuyên của mẹ, tôi bay bổng với tình yêu của mình. Tôi tin tình yêu là điều thiêng liêng và cao cả nhất mà cuộc sống ban tặng con người. Tối thứ bảy tình yêu đến "Lam ạ, mình sẽ không thể có kết quả tốt đẹp. Gia đình muốn anh học tiếp mà năm nay tốt nghiệp rồi, không thể cứ chờ anh mãi được. Hơn nữa nghề của anh em cũng biết rồi đấy, khó có thể đảm bảo cho em một tương lai tốt đẹp...' Tai tôi ù đi, sao mà Quân cạn nghĩ thế? Tôi yêu Quân vì chính con người anh với một vài đức tính tốt và đầy rẫy thói xấu chứ tôi không yêu một tương lai an nhàn của đầy đủ tiện nghi vật chất. Người ta thường ví đàn ông mạnh mẽ như mặt trời còn đàn bà dịu ngọt như mặt trăng. Mặt trăng chỉ có thể toả sáng khi hấp thụ hào quang chói lọi của mặt trời. Sự nghiệp của Quân mà không là sự nghiệp của tôi ư?... "Vả lại mẹ bảo hoàn cảnh gia đình của chúng mình khác biệt quá, e rằng khò có thể hoà hợp...". Tôi thắt lòng, ngã quỵ trong nỗi đau. Tôi cần một người cùng tôi chia sẻ thất bại và cùng chinh phục những đỉnh cao mới chứ không cần một người thấy khó khăn là buông xuôi. Bất ngờ với chính bản thân, tôi thản nhiên đề nghị "Nếu vậy chúng ta nên chấm dứt ở đây." Tôi không thể cử níu kéo thứ mà người ta đã muốn vứt bỏ. Tình yêu bảo "Lam là người cứng rắn, rồi mọi chuyện sẽ qua cả thôi". Tình yêu nhầm to. Tôi không phải là chiếc máy computer, chỉ cần bôi đen một vùng ký ức, nhấn lệnh delete là xong. Tôi là một con người. Trái tim của tôi biết yêu, biết ghét với nhũng lý lẽ của riêng nó. Tôi không có lỗi khi được sinh ra trong một gia đình công nhân nghèo. Bằng gánh hàng khô mẹ đã lo lắng cho tôi được ăn học. Tôi đã vươn lên bằng những đồng bạc vụn và tôi tự hào vì điều ấy. Quân cũng không có lỗi, anh chỉ không đủ nghị lực để vượt qua những quan niệm cổ lỗ. Duy chỉ có nước mắt cứ lén trào dâng, khắc khoải trong từng đêm dài. - Tình yêu không có thật, những điều tốt đẹp đều không có thật phải không bác? - Con phải dám chấp nhận đau khổ vì có đau khổ con mới biết thế nào là hạnh phúc. Bác đã đi qua khỏi thời đạn bom máu lửa, đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình trong cánh rừng Trường Sơn chính là vì bà ấy, vì lý tưởng và con đường mà bà ấy đã lựa chọn. - Khác rồi bác ơi. Tình yêu của bác chỉ còn trong chuyện cổ tích thôi. Bây giờ người ta yêu nhau không bằng sự chân thật mà bằng cái đầu tỉnh táo. Thời buổi kinh tế thị trường mà, mọi thứ đều được đem ra tính toán và mặc cả. - Khóc đi con, đừng tự kìm nén mình. Bác sẽ gửi con lên SaPa cho gia đình người bạn thân. Thiên nhiên sẽ giúp con bình tâm và tự tin trở lại nhưng chỉ một tháng thôi đấy, hãy nhớ luận văn tốt nghiệp đang chờ con. Không ngờ đấy là lần cuối cùng tôi gặp bông họa sĩ già. Ngày về nhà với một túi quà SaPa nặng trĩu trên tay mẹ đón tôi ở cửa, oà khóc "Con về muộn quá. Ông ấy đi rồi". Tôi bàng hoàng bước vào căn phòng tầng ba quen thuộc. Căn phòng đã được quét lớp vôi mới. Không còn một dấu ấn bào chứng tỏ ông đã từng ở đây. Mẹ bảo ông mất đột ngột sau lần bị tăng huyết áp, rằng đám ma của ông rất đông. Người ta không mang vòng hoa đến viếng mà chỉ đem tặng ông hoa cúc tím, một biển cúc tím đã đón ông yên nghỉ... Mẹ đưa cho tôi hộp giấy nhỏ bên ngoài đề dòng chữ "Gửi Thảo Lam". "Hôm trước học trò của ông ấy lên dọn nhà tìm thấy cái này, chắc là gửi cho con". Tôi run run xé lớp giấy bọc ngoài. Bức tranh "Thiếu nữ Huế", kỷ vật duy nhất về tình yêu mà ông có được. Tôi lật mặt sau của bức tranh "Con gái, con sẽ đứng vững trước những thử thách khắc nghiệt nhất của cuộc sống khi trong trái tim con thắp sáng một niềm tin". Tôi gục mặt vào tường, nước mắt trào qua mi mặn ấm. Ngân nga đâu đây bài hát của Trịnh Công Sơn "Tôi ơi đừng tuyệt vọng". Và tôi biết, mình sẽ vượt qua.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đàn bồ câu trắng [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trọng Miên[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nhà đạo sĩ đi gần tới bờ sông Linh thì mặt trời sắp lặn nhuộm mặt nước chan hòa sắc máu. Ngẩng nhìn trời xanh, lâm râm đọc bản kinh cầu nguyện ban tối, đạo sĩ chợt thấy một đàn bồ câu trắng bay tấp tới đến trước mặt mình rồi vây quanh. Đạo sĩ dừng chân lại, nhìn thấy một con rắn đốm hoa lớn đang bò lên một cây cao bên đường đầy những tổ chim bồ câu hoang. Lá cây xanh và những chồi non nhắc đạo sĩ nhớ tới mùa xuân, mùa sinh nở của loài chim giang hồ. Những chim mẹ bay quấn quít gần tổ con chưa đủ lông, đủ cánh để thoát khỏi tai họa ghê gớm sắp đến một bên mình. Đạo sĩ huơ gậy vụt vào đầu con rắn chết tươi. Tối đến, đạo sĩ trọ ở túp lều tranh của người đưa thuyền, đợi hừng sáng chuông đổ thì sang sông. Trước khi đi ngủ, đạo sĩ ngồi vọng niệm dâng cao thần trí lên trời. Đêm lạnh lùng thêm giá rét vì gió thổi ở bãi sông đưa lên. Trăng xanh như lời cầu nguyện lọt qua khe cửa soi vào chỗ đạo sĩ tĩnh tọa. Trong khi đạo sĩ ngồi nhắm mắt tâm niệm thì cửa len lén mở, một người đàn bà bước vào, đến ngồi gần bếp lửa của kẻ đưa thuyền đã đốt lên cho khách sưởi. ánh lửa lấp lánh trên khuôn mặt long lanh một nhan sắc rực rỡ, dữ dội. Hai mắt đen huyền chứa chan điện lực, đôi môi đỏ thắm sắc máu, thân hình uốn éo như sương khói trong làn áo đen lốm đốm những hoa như mình rắn - vì người đàn bà ấy là hiện thân của con rắn đến báo thù. Người đàn bà xà tinh chăm chú nhìn vào mặt đạo sĩ như thôi miên. Tự con yêu tinh khởi bốc một mùi hương sắc dục lan tràn như làn sóng điển khí đến bao vây đạo sĩ. Nhưng linh hồn nhà tu hành đắm đuối trong hương thơm huyền diệu của đức tin, không để ý tới ma lực quyến rũ của sắc dục đang kết tinh trong không khí mình thở. Người đàn bà xà tinh chập chờn lại gần đạo sĩ lả lơi hát một khúc ca dâm đãng gợi tình, nhưng đạo sĩ vẫn không hay biết gì hết vì còn mải mê theo điệu nhạc sáng láng của bài kinh. Người đàn bà xà tinh đến trước mặt đạo sĩ nằm nghiêng ngửa. Nhưng đôi mắt đạo sĩ vẫn nhắm nghiền và đang dõi theo hình ảnh rạng ngời hiện ra sau bài kinh. Người đàn bà xà tinh xích lại gần hơn trong một dáng điệu khiêu khích nồng nàn. Nhưng đạo sĩ vẫn thì thầm đọc kinh và đang ngớp lên vì màu sắc phương phi của đạo. Người đàn bà xà tinh liền đưa hai cánh tay trắng tinh ra định quàng lấy vai đạo sĩ, hơi thở sắc dục nóng hổi một bên má người. Nhưng đạo sĩ vẫn ngồi yên đọc kinh và lời kinh huyền diệu khiến người đàn bà xà tinh không dám xúc phạm đến nhà tu hành. Đạo sĩ cứ lạnh lùng thản nhiên, không biết rằng người đàn bà định cám dỗ mình vào vòng tội lỗi là hiện thân con rắn. Lúc ấy đã gần nửa đêm, và người đàn bà xà tinh phải làm xiêu lòng đạo sĩ trước khi chuông nhà thờ đổ. Nó đã nghĩ ra được một cách ghê gớm để trả thù kẻ đã giết mình: nhà đạo sĩ sẽ chết ở trong tay nó và sẽ mất linh hồn. Làm cho mất linh hồn, cái ý tưởng vô cùng sâu độc đã nẩy nở ra trong óc con xà tinh, vì nó không muốn chỉ giết được phần xác của đạo sĩ mà thôi. Người đàn bà xà tinh biến thân xác ra để lôi cuốn nhà đạo sĩ đắm chìm trong sắc dục cho bỏ hết những năm tu hành và rồi sẽ bị nó phun nhả nọc độc vào miệng chết. Nhưng đạo sĩ vẫn đọc kinh và người đàn bà xà tinh không thể xúc phạm gì được trong lúc những lời kinh còn rung động lòng người tu hành. Đến nửa đêm, nhà đạo sĩ đã đọc hết những bài kinh cầu nguyện thuộc lòng, và mệt mỏi sau một ngày đi đường xa, nằm xuống ngủ say, không để ý hay biết gì đến cái tai họa ác liệt sắp xẩy đến cho mình. Người đàn bà xà tinh khoái trá vì sắp sửa được báo thù, và lần này thì đạo sĩ không thể thóat khỏi được nữa. Những lời kinh cũng đã hết thì thầm rung động lòng người tu hành. Nhưng đàn bồ câu trắng đã thấy biết người đàn bà là hiện thân của con rắn đến báo oán. Và chúng cầu nguyện cho ân nhân. Chúng muốn gọi nhà đạo sĩ dậy nhưng không biết làm thế nào, vì chúng chỉ là những con chim bé nhỏ. Thế rồi thình lình chuông bỗng đổ, tiếng chuông thần bí vụt kêu lên giữa lúc nửa đêm. Tiếng chuông vang động, tuôn ra những lớp sóng đồng huyền diệu, vươn cao lên tới trời xanh. Đàn bồ câu trắng đã bay đến cái chuông lớn của giáo đường gần đó. Một con đem hết sức lực bé nhỏ bay liệng mình vào thành chuông rồi rớt xuống chết vì sự động chạm dữ dội. Một con khác, rồi một con khác, bay đánh chuông kêu lên rồi rớt xuống chết. Đàn bồ câu trắng cứ đánh chuông kêu lên cho đến khi người đưa thuyền và đạo sĩ nghe tưởng là trời hừng sáng, dậy qua sông. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đất quê[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bạch Lê Quang[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]1. Chiều nổi gió lớn. Trời đùng đục... Những bụi tre oằn mình như tóc rối, đánh rập rờn, tông tốc những xác diều mắc cạn mà tụi trẻ vô tình làm đứt ở chân đê. Bích chạy vội ra ngõ, rướn mắt về phía cổng làng. Bụi mù mịt, đường hun hút, tịnh không bóng người. Lớ ngớ, Bích nghe tiếng mẹ: Quơ nhanh rồi vào. Giông đó! Bích thở dài đánh thượt trong cổ họng. Khỉ! Người chi mà biền biệt. Không biết người ta mong. Mong lắm... Người chi đây, trong tiếng thở dài của Bích, là Mung. Làng nón gọi là Mung kẹo kéo. Bích nhớ, khi những cánh đồng bắt đầu trơ cuống rạ, người ra đồng đi chân, đạp lên nghe ram ráp, sởn gai, và khi những đứa trẻ đen nhẻm, quần áo rách bươm, hò la, từ chân đê lao xuống ruộng rạ với trái banh quấn bằng giẻ nùi... đó cũng là lúc Mưng xuất hiện. Chiếc xe đạp tróc sơn màu sắt gỉ lúc đầu gắn chuông. Tiếng leng keng như một khúc đồng dao ngô nghê, mời gọi. Anh Mưng, em thích anh kéo kẹo dài. Anh Mưng, em thích ngắn, mập. Anh Mưng... Đứa trẻ khác, quần xệ tới rốn, nước mũi lòng thòng, cầm khẩu súng nhựa ngắm cẩn thận cái lỗ nhỏ. Nếu đạn lọt vào, Mưng phải trổ tài kéo kẹo thưởng. Bích nhớ, nhớ lắm. Hường, bạn thân của Bích bảo: Phải lòng nhau rồi, cái chi nhỏ cũng nhớ. Bích thấy đúng, dù đó là lần đầu Mưng xuất hiện ở làng này. Mùa rạ trơ năm ngoái, Mưng lại về, áo ca-rô kẻ sọc, quần kaki đà. Phía sau xe là chiếc máy hát to đùng. Chú Mân cạnh nhà Bích, gạ mãi, để buổi trưa, Mưng nghỉ nhà chú. Chú mê giọng cô Lệ Thủy dẻo như kẹo kéo, giọng mùi của Minh Vương... Bích lại thở dài, xếp phẳng phiu những chiếc lá. Mẹ bảo: Mai dậy sớm, ủi đống lá. Trưa, xuôi chợ Gianh, mua thêm. Mùa lễ hội, người ta đặt nhiều. Bích dạ nhỏ, mắt vẫn hướng ra ngõ. Ngõ nắng, buồn như làng nón mùa mưa. Người chi mà... năm ngoái, trong nhà chú Mân, Bích còn nghe rõ tiếng Mưng hẹn mùa này về sớm. Thế mà, đống rạ đã gần thối gốc, bàn chân giẫm lên không còn nghe ram rám. Ba ngày trước, Bích băng đồng, qua hói kiệt, ngược chợ Gianh. Chân Bích đạp lên những gốc rạ nhũn mềm bởi những trận mưa giông muộn. Bích thấy dưới chân mình nham nhám nước, lòng cô nao nao. Cô lại bắt gặp những xác diều, trái banh giẻ nùi của tụi trẻ đã chán chường, rã rệu vất long lóc trên đồng. Người chi mà... Mưng ơi! Đêm, Bích nằm trên chõng tre. Những nan tre già, bóng mỡ, mát lạnh. Mưa ngùi ngùi. Bích xô cửa sổ. Làng nón chìm trong mưa. Tiếng ếch nhái vọng đều trên những cánh đồng trơ rạ bây giờ chắc hẳn đã xâm xấp nước. Giông muộån mà dai dẳng lạ, từ chiều đến giờ. Trong mờ đục, mắt Bích hướng ra cái chòi vịt của cậu Rô. Có lần, chiều muộn lắm, Bích và Mưng ngồi trong vườn chú Mân ngó ra. Chòi vịt liu riu đốm lửa đèn. Từ chòi, khói rơm trấu đườm đượm, nồng nồng khóe mũi. Bích biết vợ chồng cậu Rô đêm nay sẽ ở lại canh chòi, bởi mùa vịt bầu đẻ trứng. Cô chỉ cho Mưng cái ánh sáng đó. Họ thầm thì về một hạnh phúc bé nhỏ, mong manh. Càng khuya, mưa càng nhiều. Bích không sao ngủ được. Cô xô mền vùng dậy. Bích mở rương, sục tay vào dưới đống quần áo. Tay Bích chạm vào những tờ giấy mà cô đã vuốt phẳng phiu nhiều lần. Đó là những bài thơ của Mưng. Năm trước, mùa lễ hội, một bác từ tỉnh về bảo mẹ: Khách thích những nón lá có những bài thơ. Mẹ bảo: Thơ gì? Bác bảo: Thơ gì miễn là thơ. Nghe Bích kể, Mưng cười, hiền như đất: Thơ tôi nhiều lắm. Để tôi kiếm tặng Bích. Bích đọc cho Hường nghe: Anh đến tìm hoa, thì hoa đã nở/Anh đến tìm đò, đò đã sang sông. Hường cười cười: Thơ hay thường buồn. Bích cũng không hiểu sao nhưng thấy Hường nói trúng phóc. Mưa đêm rả rích. Tiếng chó sủa khan đêm. Buồn quá, Mưng ơi. 2. Ông Cả Hưởng kéo sợi dây gấc to bằng nửa sợi thừng. Con đò rùng rùng mấy cái rồi xuôi xị, lướt êm trên một khúc sông ngắn cách bờ non bốn sải tay. Thím Dừa vỗ đét lên vai Bích, Bích giật mình. Tiếng thím chen chét như dao liếc trên đá: Đến rồi mày. Dạo này thấy mày oải oải. Thằng Mưng về chưa? Bích cười. Nhưng mắt nhìn xa, buồn buồn. Mưng ơi, cả làng nón biết chuyện mình. Gái ở làng khổ lắm. Da đen, tóc cháy đã đành. Tình hẹp như đò ngang. Yêu ai không thành, râm ran một cõi. Chị Mận ở làng bên đó. Cách một hói sông nước kiệt mùa rạ khô. Mười tám tuổi, yêu một công nhân về Kinh Tàu làm thủy lợi. Bố mẹ lành như sắn khoai, rước vô nhà. Lại lo chỗ ăn, chỗ ngủ. Ngày tỉnh về cắt băng khánh thành, rượu sâm banh nổ đôm đốp. Đêm ấy văn nghệ hát đến khuya. Chị Mận chờ mãi, đèn lu dầu kiệt, không thấy người về. Bây giờ, trên đê Kinh Tàu, hàng phi lao đã lên xanh ngợåp, chị Mận đã thôi khóc, thôi chờ, nhưng trai làng không dám bén mảng tới nhà. Ông bố, từng chiều, xong việc đồng, nhẩn nha trên cái sân gạch, nhổ từng chùm cỏ dại, ngoan cố, lắt lay, vượt lên từ đất. Chị Mận ngồi trong phòng, ngó ra cửa sổ, thở hắt từng hồi. Một đêm chị ra Kinh Tàu. Và không thấy chị về... Nước xuôi tình chị. Chị lại theo nước mà biệt tăm. Thuyền cập bờ. Thím Dừa về cùng Bích. Đến ngang cây sung dại, đáng lẽ Bích sẽ tắt ngang Kinh Tàu, qua đồng rạ, theo đường gần về nhà. Nhưng Bích không theo lối đó. Thím Dừa chửi: Cha mày, lẩn thẩn rồi thành con Mận làng bên. Tao mà như mẹ mày, kiếm đám nào gả quách. Bích cười, thím kiếm giùm con đi. Bích không theo đường gần. Đường này, đối với cô, có đồng chiều đã âng ấc nước, gợi một lời hẹn muộn. Đường kia có xa, nhưng sẽ ngang qua đình làng. Đêm ấy, đình rộn như chợ phiên ngày tết. Tấm băng-rôn màu đỏ, chữ xanh bay phần phật. Bích đọc: Đoàn nghệ thuật cải lương Sao Biển. Hơn năm giờ, Hường đã đến. Nó mặc bộ đồ sa mỏng in hoa. Mặt nó trét một lớp phấn nụ hiệu Con Bướm bán nhiều trong ngày tết. Bích và Hường đến giờ ấy mà đã không còn chỗ. Dãy bàn ghế mượn của Trường Tiểu học Kinh Tàu lô nhô người ngồi. Hường lành nhưng lanh lẹ. Nó dắt bạn nhảy phóc lên bức thành thấp bọc quanh đình. Chỗ ấy, Bích gặp Mưng. Vở Súy Vân giả dại đang đến hồi gay cấn. Súy Vân phải lòng Trần Phương. Vân muốn bỏ chồng là Kim Nhan đang đeo đuổi công danh ở xa, giả điên, Kim Nhan đành phải thuận lòng dứt tình với vợ. Sau đó, Trần Phương cũng bội bạc. Súy Vân tan nát, dở điên dở tỉnh. Nàng lang thang vào dinh phủ xin ăn. Đó là nơi chồng cũ của nàng là Kim Nhan đang làm quan. Cô đào hát đoạn này vừa nức nở vừa tủi nhục xót xa. Hường nghe, mắt long lanh: Đáng kiếp, đàn bà chi mà... Bích không nói gì, giọng ca làm Bích mủi lòng. Bích nghĩ khác, đàn bà khi chồng không ở bên cạnh khổ trăm chiều. Tình yêu lại biết khi nào là dại khi nào là khôn... Sau này, khi quen Mưng, Bích nói lại điều đó. Mưng cười, kéo đầu Bích vào vai: Yêu không dại không khôn. Mà nếu có, chỉ toàn là dại. Bích nhắm mắt, nói trong hơi thở: Dại mới yêu kẻ rày đây mai đó. Mưng lại cười nhưng mắt buồn. Buồn lắm. Mưng quả là một kẻ phiêu bạt. Mưng làm đủ nghề để kiếm sống. Mười tuổi, Mưng theo mẹ vào tận miền Nam. Lớn lên, Mưng thấy cứ sục tay vào bùn nhão, moi lên hạt cơm, hạt gạo khổ như châu chấu, chuồn chuồn. Mưng có hoa tay. Mẹ sắm cho thùng đồ nghề, Mưng tới cổng trường vào dịp mùa hè. Học trò chia tay, thích khắc những dòng chữ lên bút. Nhưng nghề ấy không bền. Học trò càng ngày càng ít dùng bút máy, Mưng lắt lay một thời gian rồi theo bạn đi đào vàng. Mẹ Mưng bảo: Vàng mắt vàng mũi... Cuối cùng, Mưng sắm thùng kẹo kéo, ngược xuôi đầu bãi cuối sông. Về làng nón lần sau, cái máy nhạc to đùng của Mưng lúc đầu kéo theo cả mấy chục đứa trẻ. Người lớn đang làm, nghe máy hát, ngừng tay. Họ ước ao, những đêm mưa nằm nghe Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà, Người phu khiêng kiệu cưới... Bích vào ngõ nhà. Nhà lao xao như có giỗ. Bích biết điều gì đang đến. Và cô mong Mưng cũng bởi điều ấy. Gia đình Tiều muốn dạm hỏi Bích. Tiều học trường huyện hồi cấp ba cùng Bích. Lù khù như cu cườm. Nhà Tiều đông con trai. Mẹ Tiều có người chị hiếm muộn. Thành thử, học cấp ba xong, Tiều lên thành phố ở hẳn với dì. Nhà dì Tiều có hàng bán tạp hóa, Tiều phụ việc chạy hàng. Tiều gọi luôn dì bằng mẹ. Tháng trước mẹ bảo Bích. Bích cúi đầu không nói, nhìn cái nón đang chằm dở. Kim chích vào đầu ngón tay trỏã, đau điếng. Đời con gái một lần, lựa chỗ chắc chắn. Lao xao, mờ ảo, khổ thiệt một đời. Con Mận làng bên... Bích rủ Hường ra sân đình. Mấy ngày nay làng nón đã thôi mưa. Trăng mười hai mỏng mảnh như sừng trâu nghé. Gió lao xao đẩy mượt cỏ cây trên một khoảng sân rộng. Hường lại nhảy phóc lên gờ thành cũ, chỗ mà Bích và Mưng đã gặp nhau. Bích hỏi, giọng như gió thoảng: phải làm sao? Hường nhìn xa: Mưng vẫn biệt tăm ? Bích thở dài. Súy Vân giả dại, còn em, em phải làm sao khi chân rạ đã thối gốc mà anh vẫn chưa về... Mưng ơi! 3. Ông ngoại Bích ở làng bên sắp đi. Bố Bích ngồi uống rượu với mấy người cậu của Bích. Ông đặt chén rượu xuống chiếu, nói như ra lệnh: Phải gả nhanh con Bích. Cần thì cưới chạy tang. Bích hỏi Hường. Cưới chạy tang là chi. Hường nói như khóc: Cưới chạy tang là cưới gấp, hỉ sự trước hậu sự. Nếu không phải đợi hết ba năm. Bích hiểu. Cô thẫn thờ như gà rù giữa buổi đồng vắng, xao xác tiếng nồm quạnh. Gió tông tốc, thổi lay lắt những bụi cỏ gà khô. Buổi chị Mận làng bên tự tử, không hiểu sao nhìn chúng, Bích cứ mường tượng đó là hồn thiêng của chị uất ức mà xuôi gió đi tìm người thương đành đoạn. Nhà vắng. Bố mẹ Bích đã qua hết bên ngoại. Tiều đến. Bích cúi gằm vào cái nón lá chằm dở. Bích chọn hai câu thơ Mưng đưa. Anh đến tìm hoa thì hoa đã nở/Anh đến tìm đò, đò đã sang sông... Tiều bảo: Mẹ tôi biểu cùng Bích sang thăm ông ngoại. Bích ngẩng lên: Ông ngoại của ai ? Tiều lúng túng như ngậm sỏi. Bích không thương cũng không ghét Tiều. Hồi học cùng lớp, tụi bạn đặt cho Tiều biệt danh là Cu Cườm. Lớp học ở trường huyện nghèo như Kinh Tàu không đông nhưng Bích có cảm giác là không có Tiều. Đúng là Tiều có cũng như không? Tiều lành và rụt rè như đất quê. Đất quê gieo gì lên nấy. Cam chịu và biết nghe lời. Một cành đào tận đất Bắc xa xôi, sau khi đã ngắm xong ba ngày Tết, ném vào đất, đất vẫn nhẫn nại nuôi cây. Đào không hoa nhưng bung xòe chồi non, lộc biếc. Vất một hạt xoài cát từ phương Nam, đất quê lại nhẫn nhục vun vén. Trái chua, ừ làm sao ngọt như trái ở đất người, nhưng cứ là trái. Tiều lớn lên từ đất quê. Bích cũng lớn lên cùng đất quê. Mẹ Tiều bảo lấy vợ. Bố Bích bảo lấy chồng. Xoài chua loét nhưng cứ là xoài. Đào không hoa nhưng cứ là cây. Bích hỏi nhưng không đợi câu trả lời của Tiều. Cô đứng dậy, bỏ lại chiếc nón chằm dở, đi cùng Tiều sang ngoại. Dọc đường, Bích lại bắt gặp những bụi cỏ gà khô lăn tông tốc. Cô không dám mường tượng đó là hồn thiêng chị Mận. Những điều ấy như chỉ có trong phim của Hàn Quốc, Bích nghĩ, tự yêu và tự quyết là chuyện trên phim ảnh, nơi những đất nước xa xôi hoặc ở trên thành phố. Đất quê lành nhưng nghiệt lắm. Đời bà, đời mẹ rồi bây giờ là đời Bích, đời Hường. Điện về rồi, trâu không còn ì ạch kéo những vuông gỗ cày trên cánh đồng bùn nhão nhưng đất quê vẫn cứ là đất quê. Đất quê bảo cưới. Ừ thì cưới. Dù không vội nhưng cần thì cưới chạy tang. Đám cưới quê đơn, bạc nhưng vui lắm. Ông Cả Chưởng huy động đám đò dọc, đò ngang đưa đến cho nhà Tiều sáu chiếc. Mui đò kết đèn nháy Trung Quốc, xanh đỏ lập lòe. Đã đến giờ rước dâu. Trước khi xuống đò qua nhà trai, cậu út Mỹ, cơ chừng đã mềm môi, còn cố hát câu cuối cùng: Sao không lấy chồng gần... Tiếng hát khàn đặc thuốc nhưng trong gió quê, buổi chiều, trên những cánh đồng trơ rạ, cuộn vang, dập dờn như sóng. Tụi trẻ con nghe, chúng cất giọng hát đuổi... để con chim đa đa... Bích theo Hường xuống con đò cuối cùng. Con đò chòng chành. Bích nghe. Cô mường tượng đó là một tiếng thở dài. Sông chiều mát rượi. Bích nhìn bờ đá. Nước dập dờn. Chỗ không có dấu chân người, kè đá phủ rêu xanh trơn trợt. Đất quê trong ngày vui lại buồn man mác. Cô nhìn đám trẻ làng nón lao nhao trên bờ. Cô không hề biết chúng đã che khuất tầm nhìn của cô khiến cô không thấy một người. Một người về muộn. Muộn lắm... Sau này, nghe Hường kể, cô không trách bọn trẻ. Đất quê sẽ nuôi chúng lớn lên. Rồi chúng cũng như bà, như mẹ, như cô, như Hường. Vả lại, nhìn thấy cũng không để làm gì. Đò đã xuôi... Đất quê lành lắm. Ném xuống cây gì, quả gì, đất quê cũng nhận. Ngọt nhờ, đắng chịu. [/FONT]