(Không thể rời xa Đạo dù chỉ trong tíc tắc.) Trung Dung Đây là chuyện tôi nghe: Có thầy nọ sống đời tu hành rất mực thánh thiện. Không kể những lúc bắt buộc phải nhín chút thời gian dành cho các sinh hoạt cần thiết của đời thường, thầy luôn cố gắng thu xếp tối đa thời gian trong ngày để cầu nguyện, tụng kinh, ngồi thiền, v.v… Đầu óc thầy hầu như không còn chỗ nào trống trải cho các tà niệm sái quấy có thể thừa cơ len lỏi vào. Sau nhiều năm dài tu hành tinh nghiêm, cẩn mật như thế, thầy thấy mãn nguyện trước sự tiến bộ tâm linh. Thế rồi khuya hôm nọ, sau khi xong cữ thiền giờ Tý, thầy đi ngủ và mơ thấy mình dự một buổi tiệc lớn gồm toàn những bậc đạo cao đức trọng. Trong lúc chủ tiệc chưa ra tiếp khách, mọi người lần lượt được rước tới bàn ăn rất to và dài. Ai cũng có chỗ ngồi trang trọng theo đúng thứ bậc vì chủ tiệc đã gắn sẵn trên mặt bàn những tấm thẻ nhỏ ghi họ tên từng thực khách. Thầy thấy mình được vinh dự xếp ngồi gần chủ tiệc, nhưng ở vị trí thứ nhì. Vị trí thứ nhất dành cho người bán tạp hóa ở khu phố không xa nơi thầy cư trú. Sáng hôm sau, thầy tìm tới tiệm tạp hóa, lựa một góc và nhẫn nại đứng quan sát rất lâu. Tiệm không lớn lắm nhưng lúc nào cũng có khách hàng vào ra nườm nượp. Chủ tiệm chẳng hở tay bán hàng, thu tiền, thối tiền… vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười, nói năng hòa nhã… Tuyệt nhiên không thấy chủ tiệm có cử chỉ, động tác đặc biệt gì tỏ ra ông đang tĩnh tâm hay cầu nguyện. Nhân một lúc ngớt khách, thầy bước tới chào chủ tiệm và kể lại giấc mơ kỳ lạ. Chủ tiệm ôn tồn nói: “Tôi cần chiết dầu ăn từ cái thùng hai mươi lít ra hai mươi cái chai xếp sẵn ở góc kia. Xin thầy giúp một tay. Đừng để chai nào đầy quá hay vơi quá. Đừng làm sánh dầu ra ngoài chai nhớp nháp. Lát nữa sẽ tiếp tục câu chuyện của thầy.” Thầy chiết dầu vừa xong thì đúng lúc chủ tiệm được ngơi tay bán hàng. Ông ta bước tới hỏi: “Nãy giờ cắm cúi lo chiết dầu ra chai, trong đầu thầy có giây phút nào nhớ nghĩ tới Trời tới Phật không?” Thầy bẽn lẽn: “Tôi làm không quen, ráng tập trung rót dầu vào từng chai theo đúng yêu cầu của ông, mệt toát mồ hôi. Do đó chẳng được phút giây nào rảnh trí mà nhớ nghĩ tới Phật Trời!” Chủ tiệm cười hiền: “Nếu thầy bận bịu buôn bán như tôi cả ngày, lu bu quanh năm suốt tháng, thì tâm thầy ắt xa Trời xa Phật mịt mù luôn! Tôi không có phước lớn để được rảnh rang chuyên lo tu hành như thầy. Tôi chỉ ráng tập thành thói quen cho tâm tôi lúc nào cũng nhớ Trời nhớ Phật. Khi bán hàng cho khách tôi nguyện không để ai phải phiền lòng vì bị cân non đong thiếu. Khi chiều chuộng khách hàng tôi nguyện không để ai mích lòng vì thấy tôi thiên vị. Gặp khách hàng xấu tính, tôi nói cười nhã nhặn, thầm nhắc nhở: Thánh Thần giả dạng thường dân tới thử thách mình đây. Tôi tu như vậy đó, thưa thầy.
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Xuân đợi[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bích Phượng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cả nhà đợi Thiện đã mấy ngày nay. Má tôi vì chẳng biết nó có đem nếp như mọi năm không, mua trước đâm ra dư phí đi. Ba tôi thì đợi để được thông tin về những bà con mà lâu nay công việc làm ăn quay mù chẳng còn thời gian thăm viếng. Các em tôi lại mong được dắt Thiện đi vòng vòng thành phố chơi, thú vị với vẻ hiền lành của anh và để có được niềm kiêu hãnh về một lối sống hiện đại. Tôi lại vì một lẽ khác, gặp Thiện thì như bắt gặp cái gì đó thật gần gũi, thật dịu dàng dễ chịu, bởi tôi là đứa chậm hội nhập với cuộc sống mới nhất trong nhà. Hăm bảy rồi, đã thấy Tết trong những chậu cúc, mai, mãn đình hồng theo xe đò hoặc những ba-ga xe cub vụt qua lại trên đường. Bánh mứt, dưa hấu xếp như núi trong chợ, ngoài các ki-ốt dã chiến. Và cả trong các bước chân hốt hả. Tết đó nhưng hình như chưa đủ, bỗng thấy nhớ những Tết năm xưa dạo nhà còn ở dưới quê. Hầu như nhà nào cũng cùng một thứ công việc. Dọn cỏ quét vôi mồ mã để ông bà cùng về vui tết, về qua hái ít trái khế chua đánh bóng bộ lư đồng, sẵn lau dọn bàn thời, cắt ít vuông giấy đỏ dán lên cặp dưa, bứng vài ba chậu vạn thọ đặt theo những gốc vột dọc hành lang... Trong bếp thì khói um um, chảo mứt tỏa thơm lựng lẫn mùi ngọt hăng xông lên từ đám dưa cải, dưa kiệu trong mấy chiếc khạp nhỏ xếp hàng đằng góc bếp. Dịch ra ngoài chút xíu, nồi bánh đang sôi sùng sục, trẻ con chạy quanh đôi mắt hau háu, cái cười viên mãn. Tôi là con gái đầu nên đây là những ngày bận rộn nhất, suốt ngày lăng xăng trong bếp với má. Ba tôi bận làm ăn trên Sài Gòn, việc đàn ông giành hết cho Thiện. Ấy là thói quen rồi. Nhà Thiện sát nhà tôi. Mẹ Thiện trước có sạp khô mắm ngoài chợ nên cuộc sống cũng đỡ khổ, nhưng sau ngày bà mất, mấy cha con chỉ quây quanh việc làm mướn kiếm sống. Ruộng rẫy làm theo thời vụ nên thu nhập cũng rất bấp bênh. Ba tôi thấy vậy bảo mấy ba con Thiện sang làm “công ruột”, nghĩa là bao hết việc đồng áng, nhận lương ổn định, có thể ăn cơm luôn. Chú Tám đồng ý. Vậy là từ đó chúng tôi cùng làm việc, ăn chung và chơi chung với nhau. Nhà đông vui hẳn lên. Họ thật thà nên ba tôi tin tưởng lắm, và vì hàm ơn mà tự nguyện giúp gia đình tôi đủ việc, những dịp lễ lộc, cúng tế một tay họ lo. Tết cũng vậy, chốc chốc chạy lên xem Thiện “làm mới” nhà trên, nghiêng bên này, ngó bên kia, đạo diễn cho anh, trong bụng không khỏi bảo “thẩm mỹ” lắm! Sáng mồng một tất cả lên đồ xếp hàng đợi lì xì. Những phong bao đỏ cho cả chúng tôi lẫn anh em Thiện. Rồi túa ra với đủ thứ trò, cười nói, la hét, ăn đồ ngọt, xả rác trăm thứ tha hồ không sợ bị mắng. Má bảo Thiện chở tôi lên chùa lạy Phật. Thấy tôi mặt áo dài, Thiện cũng “vô thùng” hẳn hoi. Nhỏ em tôi cười híp mí, y như cô dâu chú rể về nhà má, mắc cở muốn trốn. Mà thật, ăn mặc như vầy thấy mình lớn và khác quá, xưng hô mày tao nói năng như hằng ngày thấy cũng kỳ kỳ. Bắt đầu từ mùng hai nhà lúc nào cũng chật khách. Bà con hàng xóm tới chúc tết cười nói râm ran, hầu như mọi phiền muộn đã trút hết từ chiều ba mươi. Ðông nhất vẫn là bạn bè của ba ở Sài Gòn, ai cũng sang trọng, cao lớn, vui vẻ ồn ào nhưng khó gần. Tôi lớn nhất nên cũng được chú ý. “Con gái khá lắm, mai mốt chú làm mai dân hải quan cho”. “Xời, đừng thèm, để chú giới thiệu cho, trí thức hẳn hoi, bác sĩ, đẹp trai đàng hoàng”. Tôi chỉ biết lí nhí: “Dà, cháu còn nhỏ”. Thiện đứng ngoài hành lan chắc cũng đã nghe. Quê quá! Nhưng rồi chẳng còn được vui một cái tết nhà quê nào nữa. Hôm kia ba tôi về phán: “Cả nhà sắp xếp lên trển ở, con Mỹ được gần trường, hai đứa kia có dịp học thêm ngoại ngữ, mẹ mày lớn tuổi rồi, buôn bán đỡ hơn làm rẫy. Vườn đất thì để cha con chú Tám mướn làm, tiền thu mỗi năm sẽ bàn sau... “Mọi sự sau đó đúng như ba xếp đặt. Từ đó, cứ tết đến, chú Tám lại sai Thiện đạp xe đem quà lên cho chúng tôi. Vậy là cứ đúng một năm tôi mới lại gặp Thiện. Háu hức mong đợi bao nhiêu rồi cũng nói với nhau những câu xã giao, xa lắm là chuyện xóm chuyện làng bởi Thiện sau này lạ lắm, trông buồn buồn và kém hòa đồng. Ðôi khi nhìn anh tôi nghĩ không biết đây có phải “cu Thiện” hay cười, hay nói, cứ chuyền thoăn thoắt qua cành măng “dọi” cho cô Mỹ của ngày xưa nữa không. Chỉ dám nghĩ trong bụng cái điều: Có phải Thiện mặc cảm, rồi bằng cách này cách khác cố biểu hiện cái điều: không nên đâu, Mỹ quí Thiện lắm. Và có phải Thiện cũng chẳng muốn đến đây nữa? Ðã hăm bảy rồi! tôi vẫn nghe ba tôi dọa bán đất, nếu vậy thì có thể lắm chứ. ... Cuối cùng thì anh cũng đến. Vào buổi sáng. Cái giọng ồm ồm đe dọa khách của con lu buộc khách phải chửng lại. Tôi nhìn ra. Thiện dắt xe đạp, người hơi khòng, mặt hốc hác kinh khủng. Trên pa-ga cũng lỉnh kỉnh những dừa, nếp, đậu... và còn thêm một cô gái đôi mắt với tia nhìn “liên tục đổi mục tiêu”, miệng chưa chi đã cười toe quên phứt chiếc răng khuyết, tay chưa chi đã với bứt một nhánh lá tùng. Ồ, Chi xí xọn, đứa con gái hàng xóm mà hồi trước tôi với Thiện đều ghét cay ghét đắng. Nhưng đó là chuyện xưa, còn bây giờ thì đấy là hình ảnh kỷ niệm. Cảm xúc về bạn bè, tuổi thơ, quê hương chợt đầy ắp trong tôi. Tôi ào đến nắm lấy tay nó. Nó cũng mừng rỡ. Duy chỉ có Thiện vẫn giữ vẻ nghiêm lạnh. Thiện bảo phải về gấp nên cần gặp má tôi ngay. Câu chuyện của hai người lọt qua những khe cửa ngăn nhà ngoài. - Năm nay trời không lạnh, trái cây thất mùa, thím à. Còn lúa thì “ông tí” phá quá, cúng kiến hay giăng bẫy đều không ăn thua, đành chịu đứt vốn. Con nói để chú thím thương mà cho nợ lại một nửa tiền... - Chà khổ hà! Thời tiết ngặt quá. Ông này ổng cũng tính kêu người bán đất. Ðất bây giờ là vàng đa. Lại nghe tiếng thở dài không biết của ai. Tôi bỗng ái ngại vì câu nói thiếu cảm thông của má. Nhỏ Chi tha thẩn chỗ mấy bồn kiểng. Tôi bất giác ngắm nó. Chiếc áo hồng với những đường viền đăng ten chạy quanh cổ tay cho thấy một cố gắng làm mới. Chiếc nơ trắng to tướng đặt trên guộn tóc dày. Cũng làm nó xinh đó chứ! Giá nó đừng khuyết một cái răng cửa. Tôi bất giác liếc nhìn mình trong chiếc gương lớn trên tủ, cười một nụ đủ cho thấy những chiếc răng hạt bắp rồi quay sang nó. Hình như nhìn thấy trong đó vẻ thiện cảm, nó cũng mỉm cười, môi trên chum chúm để giấu chỗ răng khuyết, tay ngoắc ngoắc tôi: - Chị Mỹ, mai mốt chỉ tôi một chỗ may áo dài đẹp đẹp nha. Tôi sắp lấy chồng. - Sẵn sàng thôi. Mà ai vậy? - Anh Thiện chớ ai. Anh nghèo, tôi cũng nghèo, rồi thương. Thấy tôi không được đi đó đi đây, bữa nay ảnh cho theo đặng cho tôi biết Sài Gòn đó. Nó nói rồi cứ đứng trân, hai tay thỏng xuống, cái miệng cười hoài không khép, nhìn lâu càng có vẻ rộng ra thêm. Tôi nghĩ nó không được bình thường vì bộ dạng đó cộng với câu nói kia nữa. Thiện thương nó là sao? Thiện chúa ghét tính thài lai của nó mà! Tôi nhìn lại nó một lượt nữa nhưng không dám nhìn lâu rồi bước gấp vô nhà. Thiện đứng chỗ cửa ngan. Anh cũng cười cái cười méo mó để lộ những chiếc răng ám khói. Hồi trước, tôi nói ghét khói thuốc, anh gật, bảo sẽ không bao giờ hút thuốc mà. Cũng với cái dáng khòng khòng, khuôn mặt sạm nắng, nó là chi tiết đắt giá góp phần hoàn chỉnh bức chân dung về một nông dân mà những thất bại mùa màng làm cho khắc khổ, cằn cỗi đi. Rồi anh sẽ lấy vợ, sinh con và nuôi con, vất vả ruộng sớm đồng trưa nhưng chẳng bao giờ tìm thấy hạnh phúc bởi vợ anh là người phụ nữ mà chưa bao giờ anh yêu. Không hiểu sao cái cười của anh lại khiến tôi tin cái điều nhỏ Chi nói. Ngẫm nghĩ tôi thương cho Thiện quá, nhưng lại cũng oán anh. Những muốn không thèm đếm xỉa nhưng cuối cùng tôi cũng đứng chặn anh lại: - Thiện tệ lắm, không dè chẳng ra gì! - Tôi xin lỗi... – Anh cất giọng rầu rầu. Ôi, tôi chỉ muốn khóc thật to lên cho thoả. Trí tưởng tượng của tôi bỗng hóa Thiện thành cha anh, già nua xương xẩu, cố giơ cao cái cuốc cắm phập một nhát tóe bụi vào đất. Nhưng đó không phải mảnh đất của nhà mình. Ông làm thuê cả đời mà. Kinh khủng quá. - Cái gì kinh khủng? Ðộng đất hay bị gả ép? Lâu lắm tôi mới thấy chị ngủ trưa vậy. Tôi thức dậy vì câu nói ấy của nhỏ em. Ngơ ngác và rồi rất mừng vì mọi sự là chiêm bao, một giấc chiêm bao buồn và quái gở. Không biết tôi có gọi tên ai ra không? Tôi sợ nhỏ em tôi là đứa nguy hiểm, chuyên đi guốc trong bụng người khác. Nhưng nó đi rồi. Tôi choàng dậy, bóc một tờ lịch, nhìn xuống đường. Buổi sáng hăm tám vẫn như mọi buổi sáng khác. Vẫn ồn ào, người người, xe xe nhắc rằng: đây mới là thực. Sự thay đổi của Thiện, điều nhỏ Chi nói, cả quyết định bán vườn của má tôi đều là chiêm bao hết. Nhưng còn chuyện thất mùa. Lâu rồi không về quê nhưng tôi cũng đã trông thấy ở đây hàng đống xác rầy nâu bu theo đèn mà chết. Lại thêm đông vừa rồi không lạnh, người thành phố chỉ mất đi cơ hội diện những chiếc áo ấm mốt nhất, nhưng với người nông dân thì, có thể sẽ mất đứt một vụ trái cây. Có thể không? Nhưng, nay mới chỉ hăm tám, vẫn còn một ngày để chờ Thiện mà![/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Xuân nữ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dạ Ngân[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thường thường, trước khi cột dây xuồng vô chạt cây bình bát ở góc bến của chị, tôi phải nhóng xem hồi lâu. Hoặc cắm dầm ngóng nghe hoặc sẽ kêu lớn để đánh động: “Chị Xuân ơi, em lên chơi nè, được không?” Tôi thích cả hai trường hợp. Chị đang một mình thì chị em sẽ được riêng tư thỏa thuê còn như có ông nào trong nhà, tôi sẽ được ngắm cái ông may mắn sở hữu chị. Dám chắc tôi không phải kẻ tò mò duy nhất. Những người chưa quen biết sẽ cho xuồng từ từ trôi qua mong nhìn thấy một lần người đàn bà nguy hiểm; cánh đàn ông không xa lạ thì dần dừ dầm chèo hy vọng được mời mọc để bước lên và ngồi lâu. Đàn bà con gái ư, đa số xì xào sau lưng những lời muôn thuở của đàn bà, riêng tôi, tôi được trọng thị như một người bạn vong niên trong trẻo. Người đẹp nào cũng cảm nhận được quyền lực của mình nhưng không phải ai cũng tận dụng nó để làm ra lợi. Chị cảm động vì tôi và chính vì chị bình thản tự tại nên chị rất đặc biệt, tôi tin là vậy. Gần bốn mươi năm đã trôi qua kể từ khi tôi biết chị lần đầu. Không cứ mọi ký ức chiến tranh đều đau buồn, u ám. Thời gian quá xa để những cơn ác mộng trong đêm thưa dần, để những con rắn con đỉa không khiến mình hét lên trước khi choàng tỉnh. Nhưng những gì tốt đẹp nhất thỉnh thoảng vẫn lóe lên, như những viên ngọc sắc nét trong bóng tối. Bữa cơm rụt rè đầu tiên ở nhà người đánh dấu chặng đời thoát ly; tiếng hát ai đó vút lên trong một buổi hoàng hôn dào dạt những đoàn xuồng, một câu thơ của Thâm Tâm gửi thầm theo chàng trai vừa khiến mình xao động… Và chị, chị là một phụ nữ thường dân khiến tôi day dứt tới tận hôm nay bởi ấn tượng khi chị xuất hiện, cái cách chị chấp nhận chiến tranh và cuối cùng là sự mất hút để phải rất nhiều tin đồn vương vãi như thể người ta đã tìm thấy xiêm áo, giày dép bên bờ sông trong câu chuyện về những thiếu phụ cả gan làm cho người đời phải nhắc đến. Tôi thích vẻ chín muồi của chị ở quãng sau này hơn mặc dù lúc đó chị đã bị xoi mói nhiều hơn. Nhưng hãy nói về ấn tượng ban đầu trước đã. Một gương mặt có cạnh hàm hơi vuông nếu nhìn nghiêng. Không trái xoan không mũi dọc dừa không mày cong mi rậm môi hồng nhưng toàn bộ gương mặt đẹp vẻ đẹp đằm thắm, sáng rỡ. Gì nữa? Thêm làn da ngà ngà tươi, thêm chiếc cổ vươn cao trên chiếc áo bà ba khoét trễ, chị như một món quà giữa khung cảnh hoang tàn và bị dồn đuổi sau Tết Mậu Thân. Tôi tinh khôi mười tám tuổi, lần đầu tiên tôi thấy những người đàn ông trong nhóm của mình bất động như bị điểm huyệt trước một người đàn bà. Quá đẹp để nghẹn thở nghĩ về sự tàn khốc của chiến tranh đang có mặt ở quanh chị, khắp nơi. Đó là một buổi chiều điêu linh, nhóm đi Cứ chúng tôi đang dựng chòi trong biền lá dừa nước, vườn của dân phía trên đã bị thuốc khai hoang làm cho bình địa, biền lá la liệt những tàu lá chết vàng gãy gục. Du kích sống rải rác trong những căn chòi thấp phủ bằng những tàu lá chết, tất cả sự sống phải bị che đậy bằng cái chết của cả một biền lá để qua mắt lũ máy bay các loại quần thảo suốt ngày. Chị hiện ra, ở đường mòn có những bẹ dừa nước thả dài trên đất sình, chị giống một nàng tiên hơn là người thực giữa buổi chiều thê lương đó. Chị nói chị không thể chạy ra ven vì có một bà má mù lòa, chị phải bám trụ cùng với mấy người bà con trong đội du kích. Trong khi những người đàn ông nhóm tôi há hốc không nói nên lời, tôi đoán biết vì sao chị không chạy đi. Tản cư trong cảnh ra vô giữa hai vùng, nhất định chị sẽ không trót lọt được với những gã lính đồn đói khát nhiều thứ trong hàng rào kẽm gai, bằng như phải ra chợ kiếm sống thì chị cũng không thể yên ổn bởi nhan sắc của mình. Dạo ấy chị mới chỉ có một anh bộ đội trên bàn thờ, người chồng nghe đâu quê tận U Minh. Từ chỗ chòi Cứ của mình tôi rải thêm một lớp bẹ dừa nữa để thật khô chân mỗi khi chạy qua chỗ chị. Những đọt dừa non đã bắt đầu le lói màu xanh trên một biển lá vàng. Chúng tôi giống những con còng thập thò trong hang trong lỗ. Những khi được thoát ra, tôi thích ngắm chị xắn cao quần đi từ mép lạch lên với chùm lưới cá trong tay, để lộ đôi đùi non miễn nhiễm với ô rô cóc kèn như thể trong da đã có chất kháng sinh. Tôi thích được múc nước trong cái khạp dội xuống mái tóc dài đen tuyền mỗi khi chị gội đầu bằng nước lắng tro - chúng tôi không có tiền và cũng không mua được xà bông, những lúc ấy cái cổ thanh thanh là tâm điểm của ánh mắt thán phục, không biết mô tả thế nào cho xứng. Càng thích hơn khi nhìn chị nghiêng nghiêng chải tóc trong áng chiều được thả lỏng, thời gian ngơi nghỉ như một cam kết bất thành văn của cả hai bên: lũ giặc trời thôi không tác oai nữa, các họng pháo ở chi khu cũng im miệng cho nguội nòng và quân lính của đối phương trong những cái đồn gần nhất cũng phải ăn uống tắm táp theo kiểu nào đó để tồn tại và dân đi Cứ chúng tôi rất thích la cà với dân bám trụ để thư giãn. Tôi chỉ có một địa chỉ duy nhất là chị, một bà góa phi thường hơn là đáng thương trong cảnh mẹ lòa, phải tự tìm ra con cá lá rau và đêm đêm còn phải lên đồng cuốc đất vãi mạ cấy gặt để có hột gạo lứt mà cầm cự với thời cuộc. Tôi thường hỏi, ở đâu ra nhan sắc này và ở đâu ra sự gan góc dường ấy? Cuộc chiến ngày mỗi khốc liệt ngoài sức tưởng tượng của con người. Trước khi tình cờ gặp lại chị trên một bờ kênh rất xa vịnh nhà của chị, một con kênh thuộc quyền kiểm soát hoàn toàn của bên kháng chiến, đã đến tai tôi tiếng đồn về một Xuân nữ cao có số sát chồng, nguy hiểm còn hơn một tay bắn tỉa. Dung mạo, làn da, vóc dáng chị giống hệt bức ảnh người phụ nữ trên hộp thuốc Xuân nữ cao bổ âm thịnh hành thời đó và biệt danh ấy do ba người đàn ông trong nhóm của chúng tôi loan ra. Nó hơi sến nhưng nó vẫn có ý nghĩa nào đó về mặt tri ân, như một ghi nhận, như một liều thuốc. Phải nói rằng cuộc gặp lại của chị em tôi có không khí của người nhà, ai nói sao về chị, mặc, tôi vẫn say mê chị như ngày nào, thậm chí có phần sùng bái. Cuối cùng chị cũng đã phải bật gốc khỏi biền lá, thay vì chạy theo dân tản cư, chị bị cuốn vào bên trong cùng với những người kháng chiến, một thường dân cá biệt và nổi bật. “Nhà” của người bám trụ cũng chỉ là một mái chòi dưới một lùm cây bình bát sống sót, một chiếc bàn bằng cây tạp, một khuôn bếp, một bộ vạt tre cho dân đi Cứ lui tới làm khách và một tấm vách ngăn với chiếc giường của gia chủ bên trong. Bà má của chị trên bàn thờ nhìn tôi, người bộ đội đầu tiên của chị sau chiếc lư hương nhìn tôi và chị nhìn tôi, buồn rầu. Chính vì vậy mà chị mặn mà hơn, không sao cưỡng nổi. Chị bảo con cá lá rau của lung Ngọc Hoàng này không bỏ đói ai cả, chị biết cầm phảng phát đất cấy lúa, cũng qua ngày đoạn bữa như thường. Tôi biết rõ cái nết nhẫn chịu của chị với bom đạn giặc giã, nó không có gì đáng nói trong câu chuyện của chiến tranh, nó quen thuộc như mở mắt ra là cụ bị đồ lề để có thể lát nữa sẽ phải xuống xuồng chui rúc tránh né cuộc càn, nếu chuyện đó không diễn ra thì canh chừng bom pháo cho đến lúc chiều xuống mới ra đồng phát cỏ cấy trồng hay bắt cá lượm ốc hái rau qua ngày. Duy có một điều tôi muốn chính chị liệt kê ra nhưng lại không dám hỏi. Nghe đâu chị đã có tới ba người trong một năm, cả ba đều được ra mắt chính thức với mấy người quen trong Cứ và dĩ nhiên, người đi thì đi luôn, chỉ có giấy báo tử quay về. Là nhà báo, tôi biết mặt họ hết, cả ba đều là sĩ quan cấp tiểu đoàn, một người quê ở Bến Tre, một người quê Rạch Giá còn người kia là dân Bạc Liêu. Khí phách và sự phóng túng của những sĩ quan chủ lực miền thì khỏi phải nói nhưng họ biết mà vẫn lần lượt đâm đầu vào để chết, liệu có nên không? Nhưng mà, khi đã đứng trước chị thì chính tôi cũng muốn bế bổng chị lên để hít hà mặc mọi chuyện ra sao thì ra, mặc hết. Vẫn cái bếp có khuôn cắm bằng cây tạp, chị không chịu ngồi bếp xổm bao giờ. Vẫn cái giàn để hong những cây củi chặt ra bằng ngăn ngắt. Vẫn cái ấm nước gạo rang đặc biệt uống bằng chén, hầu như chúng tôi không có trà bao giờ, nhưng nước gạo rang chỗ chị vàng nhất và cũng thơm nhất. Có lẽ đàn bà đẹp thì cái gì cũng thơm và làm gì cũng thấy có lý. Vẫn cái cách chải tóc cẩn thận sau một ngày lấm láp, dáng đứng không lả lơi nhưng cực kỳ gợi cảm. Tôi đã thấy lại chị, một cái nụ câm trước một bông hoa đã nở tràn nhưng trong tôi đâu chỉ dừng lại ở sự thân thiết giản đơn đó. Tôi thích có chị trong tầm mắt, người ta đàm tiếu bao nhiêu thì tôi càng muốn biết thực sự chị dễ yêu và dễ gắn với đàn ông chiến trận là vì lẽ gì, lực hấp dẫn trai tài gái sắc, hay thuần túy đàn ông đàn bà, hay hàm chứa một sứ mệnh bí ẩn? Chị thường tình gái góa hay chị là một câu đố, một bài toán khó? Một lần, một người đàn ông ngồi trên gờ cây bình bát trước cửa chòi của chị thôi thúc tôi ghé lại. Tôi ngờ ngợ, tôi có biết người này không? Lực lưỡng, tóc xoăn, da ngăm, miệng rộng, nhìn qua cũng biết lại một anh bộ đội chủ lực miền, họ rất khác với cánh cán bộ dân chính hay du kích hay địa phương quân. Tôi đã nhớ ra, anh từng đóng quân trong vườn nhà tôi, thần tượng âm thầm thời thiếu nữ của tôi và thật nực cười, tình cảm ấy bỗng dưng kết thúc khi vợ của anh từ Đầm Dơi đánh đường lên đơn vị thăm anh, một người phụ nữ trẻ không gây được ấn tượng nào ngoài cái sự trẻ. Vợ anh tầm thường đâu phải lỗi của anh nhưng tôi cũng không còn tôn thờ anh nữa. Đã nói đó là tình cảm bốc đồng của tuổi dậy thì mà lại. Sau đó, tên tuổi anh vang dội lên mãi, từ đại đội trưởng rồi tiểu đoàn phó và không chừng, lúc mắc kẹt trên gờ cây bình bát này, anh đã tiểu đoàn trưởng rồi cũng nên. Thiệt là, tôi muốn kêu lên với bà chị của mình, chị không khước từ bất kỳ ai hết, phải không? Anh ta đang giũa một cây lược cài tóc từ một mảnh nhôm máy bay, cánh bộ đội rất tài ở những ngón này: đàn hát, tấu hài, bắt rắn mò tôm và những trò thủ công từ tấm kính cho cây đèn pin, hay khắc bông lên cây kẹp tóc, hay biến một chai cồn thành cây đèn dầu có nắp dùng để bắt muỗi trong mùng… “Anh dân trung đoàn Một từng chà xát ở Long Mỹ, đúng không?” - tôi hỏi gặng để khiến anh ta nhớ tôi là ai. Nhưng hoặc là tôi đã lớn bổng lên không thể nhận ra cô bé hay trèo cây dưới vườn dừa, hoặc Xuân nữ của tôi đã làm mờ mắt anh ta. “Bộ dạng tui có đóng dấu trung đoàn sao? Chị Xuân cô ở trên nhà, cô lên uống nước đi!” Tôi cột xuồng, bước gấp lên, tôi bắt gặp chị sau vách chòi, chỗ chị đang múc nước từ khạp đổ vô ấm. “Chắc chắn ông nầy có vợ rồi chị ơi!” Chị bình tĩnh, khẽ cau mày, chị không từ bà mẹ mù lòa đã ra người thiên cổ kia, chị cũng không phải sản phẩm của sình bùn, chị thuộc về bí ẩn của tạo hóa ở cái cách cau mày nầy. “Có chắc không?” - chị thờ ơ hỏi lại. “Em biết rành, vợ anh nầy dân Đầm Dơi, không xấu không đẹp nhưng mà…” Chị nghiêm trang: “Người ta trận mạc, đừng có khắt khe!” Tôi không chịu lùi: “Còn quân phong quân kỷ, ảnh bỏ ngũ luôn à?” Chị đưa tôi cái ấm để vấn lại mái tóc, hai cánh tay thon dài như đang cử hành một vũ điệu: “Đừng lo, ảnh đã ở mấy ngày nay. Tối nay em ở lại chơi, chị em mình liên hoan tiễn một người trở lại đơn vị, nghen? Có lịnh điều quân lên Châu Thành Cần Thơ rồi, chắc khó về lắm”. Nếu quãng đời làm báo trong chiến tranh có khoảnh khắc nào khiến tôi do dự và dễ đầu hàng nhất thì chính là giây phút này, khi sự khẩn khoản khiến chị đẹp lịm đi. Chị bảo tôi nhóm lửa nấu nước, còn chị thì bước ra và ngồi xuống tình tứ bên mép kênh với người đàn ông sắp đi vào tuyến lửa. Năm đó để giành thế thượng phong ở bàn Hội nghị bốn bên, Hà Nội tin mật vào rằng phải vừa đánh vừa đàm, động viên tổng lực, mọi người dân đều phải được huy động, không chừa một ai. Tôi tìm mọi cách dõi theo người đàn ông thứ năm ấy và không ngạc nhiên khi nghe anh đã nằm xuống trong một trận thư hùng dữ dội ở Phong Điền Cần Thơ. Không ngạc nhiên nhưng càng hình dung càng bứt rứt. Tóc xoăn, ngăm đen, ngang tàng, sức vóc, khéo tay, hoạt khẩu… Đã bị chôn xuống đất đen một con người như vậy, đã kết thúc dễ dàng một cuộc đời như vậy sao? Liệu Xuân nữ đã hay tin này chưa, lần này nhất định tôi phải chứng kiến sự đón nhận khắc nghiệt này. Bốn lần trước tôi chỉ tưởng tượng ra, chị đau khổ kiểu gì với ba cái giấy báo tử trong một năm và chị là người hay sắt đá mà không biết sợ cái tờ giấy ấy? Chị không có nốt ruồi nào trên mặt, nốt ruồi sát phu càng không, còn cái tướng sát phu là tướng gì và nó ra làm sao hở trời? Tôi sẽ lột trần chị ra, nếu được, chị không má bầu không hồng hồng dâm đãng, vậy chị liên tục cần đàn ông để làm gì, chị cần một đứa con ư, sao cứ nhè các chàng sĩ quan ấy để phải ra nông nỗi cho cả hai bên? Chị đón tôi bằng ánh mắt đỏ hoe và quần áo tóc tai vẫn trang trọng như thường. Chị bày trên tấm vạt những kỷ vật, anh Thứ Hai một bức ảnh bán thân từ thời anh là học sinh chợ huyện trước khi về quê đăng lính, anh Thứ Ba một cái gương cầm tay có khắc hai con bồ câu kề mỏ vào nhau sau lớp thủy, anh Thứ Tư một tấm vải dù chị đã thêu tên anh bằng chỉ đỏ vào góc khăn. Chị cầm lên cây lược cài tóc của anh Thứ Năm, dùng cả hai tay từ từ cài nó lên và lặng lẽ nhìn tôi, chị khóc không thành tiếng, nước mắt lã chã đầm đìa, Xuân nữ của tôi, khóc cũng không giống ai, khóc cũng đẹp thì có chết người ta không chứ! Mọi ý định của tôi đều không nỡ, ngay cả câu chất vấn vì sao chị không đưa họ lên bàn thờ cũng không thể nữa, một cách dàn hàng ngang như vậy để làm gì, có ích cho ai? Tôi ra vô với chị thường hơn khi có dịp. Chủ trương vừa đánh vừa đàm của Hà Nội đã khiến cho vùng kháng chiến mở ra, từng tháng một. Lung Ngọc Hoàng nườm nượp người và xuồng ghe. Cũng có nghĩa là đàn ông con trai đi qua cái bến cây bình bát của chị đã dập dìu hơn. Đến người Thứ Sáu thì tôi không chậm chân nữa, tôi phát hiện ra ngay và tôi đã xộc lên chòi, tôi kéo chị ra xa, tôi xoay chị bằng hai bàn tay giận dữ và tôi dồn chị như một quan tòa: “Chị tu đi, chị xuống tóc đi, chị đừng khiến người ta lui tới sập sận nữa! Chết chóc đủ rồi, tai tiếng đủ rồi, chị có biết người ta nói gì sau lưng mình không? Chị đâu còn trẻ nữa, già không bỏ nhỏ không tha là sao? Chị không thấy anh chàng nầy trai tơ ngơ ngác hay sao? Chị từ chối đi, chị làm cứng đi, chị xua đuổi anh ta đi, chị phải để người ta sống mà trở về với ba má người ta, gần kết thúc rồi, gần lắm rồi, không lâu nữa đâu, chị hiểu không?” Chị giang tay tát thẳng vào mặt tôi, trân trối nhìn, nhịp thở dồn dập lên ngực: “Em mà cũng nói cái giọng đó hả? Không chị em gì nữa, kệ chị”. Tôi đã nói những gì vậy hở trời, xét cho cùng chị có lỗi gì đâu. Không biết chàng trai búng ra sữa kia để lại cho chị kỷ vật gì. Mỗi người là một cơn bão chứ không phải là chồng hay người tình nữa. Sau này, khi ký ức đã thành những thớt vỉa trong tôi, mỗi lần bóc chúng lên là mỗi lần tôi nhìn sâu hơn vào thớ quặng của chúng, tôi hiểu chị thấu đáo dần. Trời sinh ra những người đàn bà đẹp để làm gì? Họ là những ánh chớp cho ta thấy cả đất và trời trong một lúc nào đó, không hư vô thường tình chút nào, lúc đó. Rồi mọi thứ sẽ trở lại đều đều, quân bình, nhàm chán, thậm chí tẻ nhạt. Nó, những tia chớp giật ấy là hiểm họa mà cũng là tài năng phải có trong cuộc đời này, không dành riêng cho ai cả. Người Thứ Bảy đang cùng chị hiện ra trước mắt tôi trên một chiếc xuồng. Lúc này chị đã dời lên kênh Long Phụng, giữa lung Ngọc Hoàng, chắc lại là một mái chòi nho nhỏ, có chiếc bàn và ấm nước gạo rang uống bằng chén, có khuôn bếp đứng nấu, có bộ vạt hiếu khách và có căn buồng với những chiếc gối xinh xinh để đêm đêm chị thả người xuống, tung mái tóc dài ra, hai cánh tay thon nuột chờ đợi dịu dàng; tôi hình dung chị sẽ không bốc lửa ma quái mà luôn luôn cao nhã, ân cần, dâng hiến, ngầy ngà. Không khí tháng Tư năm Bảy lăm cấp rấp ở khắp nơi, dào dạt hy vọng ở khắp nơi. Người đàn ông đứng tuổi cầm chèo, chị ngồi mũi và quay mặt về phía ông ta, chiếc xuồng lướt đi hối hả. Tôi hét lên vui mừng, chúng tôi giận nhau và xa cách nhau như thế đủ rồi, đã ngửi thấy mùi chiến thắng rồi, một người đàn ông cuối cùng cho chị, không đáng mừng sao? Chị chờ xuồng tôi chạm vào rồi mới nhỏ nhẻ: “Chị đưa anh Tư ra kinh xáng rồi về. Ra đó nhiều ghe máy ra hướng Ngã Bảy, anh quá giang dễ hơn. Anh rượt theo đơn vị mà, em!” Chị nhìn người đàn ông của mình, âu yếm, buồn thương. Không khí nước rút bao bọc chị, nó khiến chị đằm thắm, từng trải hơn nhưng cũng da diết hơn trong giây phút lặp lại kẻ ở người đi, biết đâu, lại là đi mãi nữa? Tôi biết người Thứ Bảy này nhưng ông ấy lại không biết điều đó. Ông là vị chỉ huy tài ba của tiểu đoàn chủ lực danh tiếng tỉnh nhà, mắc mớ gì đó với tỉnh đội nên có ý định bỏ ngang. Dù sao ông ta cũng đang trở lại chiến trường, nói theo cách nói thời đó, là không viện cớ bất mãn để nằm dài, chờ thời, bảo mạng. Tôi lướt xuồng đi, mấy lần ngoảnh nhìn. Đáp lại nụ cười ma mãnh của tôi, chị vẫn nghiêm trang như trước nay, mặt có tươi lên đôi chút. “Chị đi tu đi, sao chị không xuống tóc đi cho thiên hạ nhờ!” Tôi đã nói những gì, tôi đã nhân danh gì, nhà đạo đức, sự ghen tuông hay lòng đố kỵ? Tôi day dứt mãi, chị đã biến mất ngay khi người đàn ông ấy ngã xuống trong ngày 30 tháng Tư ở cửa ngõ vào Cần Thơ. Không làm sao lần ra được dấu vết của chị. Cho tới tận hôm nay, nhiều lúc bất chợt gặp một cái cằm hơi vuông nhìn nghiêng bên vành khăn sư nữ hay một dáng đi thanh thoát trong nếp áo nâu sồng, tôi vẫn thắt tim hy vọng. Có phải chị đó không, Xuân nữ? Nhưng chắc gì trời đã để chị chọn đường tu, có khi chị đã về với trời xanh và mây trắng, đã xong một sứ mệnh và một đời người, thôi thì cứ nghĩ vậy cho thanh thản. Cuộc sống đã lại đều đều, nhàm chán, thậm chí là tẻ nhạt quá rồi, chị ơi![/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Xương rồng nở hoa[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Thúy Phương[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tình yêu ấy nhẹ như cơn gió thoảng khiến cô không đủ dũng khí để giới thiệu anh với mọi người. Không phải vì anh nghèo mà vì anh chỉ nhỏ hơn bố cô có ba tuổi. Gần 20 năm sống nơi đất khách quê người, anh trở thành người đàn ông thực dụng, ít biểu lộ cảm xúc yêu thương. Suốt thời trai trẻ, anh dành hết thời gian lao vào công việc, cốt sao kiếm được thật nhiều tiền. “Thà chết còn hơn sống không tiền nơi đất Mỹ bon chen”, anh vẫn thường nghĩ thế. Ông trời đã trả thù lao cho anh rất hậu hĩnh. Biệt thự, xe hơi, tiền, danh vọng…cái gì mà anh không có? Anh là người đàn ông thành đạt, hạnh phúc. Gia đình, bạn bè, tất cả mọi người, ai cũng nghĩ như thế. Và anh cũng từng nghĩ như vậy. Nhưng thời gian đã thay đổi tất cả. Hình như khi người ta đã bước qua dốc bên kia của cuộc đời, họ bắt đầu biết sợ. Người sợ già yếu, người sợ chết, còn anh sợ cô đơn. Nhìn lại chặng đường đã qua, anh chợt rùng mình, nỗi sợ xâm chiếm cả vào giấc ngủ. Anh biết mình thiếu một thứ rất quan trọng: tình yêu. Anh chưa bao giờ khao khát một tình yêu mãnh liệt như lúc này. Anh thèm nghe những lời nũng nịu, muốn vuốt ve một làn da mịn màng và khát khao một nụ hôn nồng cháy. Anh thèm nhiều thứ lắm. Nhưng đó là bí mật của riêng anh. Sài Gòn về đêm đẹp tuyệt vời, cứ như một tiểu thư danh giá khoác lên mình bộ áo lộng lẫy. Chín giờ tối, tạm gác lại các kế hoạch còn dở dang, anh lang thang khắp phố phường để tận hưởng âm thanh của cuộc sống nơi quê nhà. Mải nhìn theo các cặp tình nhân dập dìu qua lại trên những chiếc xe, anh đụng phải một người qua đường. Cô gái cúi xuống nhặt lại quyển sách, rồi lia mắt nhìn anh từ đầu cho đến mũi… giày. Anh có cảm giác như có hàng nghìn con sâu đang chạy khắp người anh. “Sao lại có cái nhìn người khác như vậy nhỉ?”, anh khó chịu nhưng cũng cảm thấy ngồ ngộ. Từ trước đến giờ chưa có ai nhìn anh như thế. Đó là một cô gái cao, gầy, nước da ngăm, gương mặt lém lỉnh, đặc biệt là chiếc mũi xẹp rất Á Đông. “Cho anh xin lỗi. Anh không cố ý”. “Em biết, chỉ tại cặp kính đem của anh thôi. Anh cũng có phong cách nhỉ? Mang kính đen vào buổi tối?”, một lời trách nhẹ nhàng khiến anh nhoẻn miệng cười. Thế là quen! Sau một ngày làm việc mệt mỏi, anh chỉ muốn chạy ù về nhà, ôm lấy chiếc máy vi tính. Nó chính là cầu nối cho anh và cô. Anh là người đàn ông rất kiệm thời gian. Vậy mà bây giờ anh có thể dành cả giờ đồng hồ ngồi đợi cô lên mạng. Anh không ngờ chính nét lém lỉnh, trẻ trung, vui tươi của cô lại trở thành làn nước tưới mát tâm hồn tưởng chừng đã khô cằn của anh. Anh chăm sóc bản thân nhiều hơn. Hằng ngày, anh dành thời gian để tập thể dục chỉ vì một câu nói: “Anh đúng là chú heo bụng bự đấy!”. Anh bắt đầu sợ già chỉ vì cô quá trẻ. Một cảm giác lâng lâng chạy dọc khắp cơ thể. Tim anh bỗng trở nên rạo rực như chàng trai mới lớn. Yêu rồi sao? Anh cũng không biết nữa. Anh chỉ biết trong giấc ngủ hình ảnh cô cũng hiện lên thân thương, quen thuộc. Chiếc taxi chạy chầm chậm, cô mải nhìn các cửa hiệu mà không để ý đến ánh mắt trìu mến của anh: “An này, anh có món quà tặng em”. “Gì thế anh? Có ăn được không vậy”, Cô nhìn anh, cười tinh quái. Chăm chú nhìn món quà, rồi cô kề tai anh nói nhỏ:” Anh hôn em đi. Em đếm từ một đến ba nhé, nếu anh không hôn, không còn cơ hội đâu”. Cô luôn khó hiểu. Sao lại bảo anh hôn cô? Chỉ vì một món quà thôi à? Rồi anh nhẹ nhàng đặt nụ hôn hờ lên đôi môi chúm chím của cô. Mở mắt ra nhìn anh, cô nói: “Anh giữ lại món quà đi. Em thích anh tặng em những gì có thể ăn được thôi. Ăn xong thì hết. Những món quà khác em không nhận đâu. Em không muốn nhớ anh chỉ vì những món quà ấy”. Anh hiểu ý. Cô khác hẳn những cô gái anh đã từng gặp. Yêu cô mà anh không can đảm nói. Cả hai không ai dám đối diện với tình yêu đang lớn lên từng ngày. Anh sợ và cô cũng sợ. Gặp được cô, anh thầm cám ơn ông trời. Anh hiểu mình vẫn còn biết yêu. Cuối cùng, xương rồng vẫn có thể nở hoa.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Xương rồng [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lâm Chương[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Khuôn viên nhà ông Nguyễn được bao bọc bởi một hàng rào bằng cây xương rồng. Hàng rào bằng tường, kẻ trộm có thể leo. Hàng rào bằng kẽm gai, kẻ trộm có thể cắt. Nhưng hàng rào bằng cây xương rồng với những gai nhọn chi chít thì vô phương vượt qua. Sự phòng thủ chắc chắn như thế đã quá lắm rồi, ông còn nuôi thêm một con chó. Loại chó berger to lớn, hung dữ lạ thường. Nó là khắc tinh của những bóng đen rình mò dòm ngó nhà ông vào những đêm tối trời. Ông Nguyễn tin ở chó, không tin ở người. Bởi lòng người trí trá tinh ma, hành động sói chồn quỷ quyệt. Ông đặt tên chó là Dự Nhượng, cái kiểu đặt tên nghe cũng lạ đời. Có người hỏi, ý nghĩa là gì? Ông nói, xưa ở bên Tàu có thằng Dự Nhượng theo thờ Trí Bá. Triệu Tương Tử giết chết Trí Bá, lấy đầu lâu làm đồ đựng rượu. Dự Nhượng đôi phen liều thân muốn giết Tương Tử, báo thù cho Trí Bá. Chuyện không thành, Dự Nhượng phục gươm tự sát. Trên đời khó tìm được một thằng ngu đến thế. Lại hỏi, đó là người trung thành có nghĩa, sao gọi là ngu? Ông cười, đạo nghĩa là ảo tưởng khôi hài dành cho thằng ngu. Thằng khôn chỉ nói đến cái lợi. Khi nói đến cái lợi thì không nói điều tín nghĩa. Lý luận của ông, nhiều người ghét. Họ bảo, ông thuộc loại người mặt chuột mỏ dơi là thứ gian hùng đĩ miệng bán đứng thiên hạ như chơi. Cũng có người từng chịu ơn ông thì bảo, đấy là cái khôn ngoan sâu sắc của kẻ lịch đời. Ai nói gì thì nói, ông Nguyễn vẫn sống an nhiên. Với gia sản hiện có, ông không cần phải làm gì nữa, ngồi không mà ăn mãn đời cũng không hết. Kho đụn nhỏ hơn lòng tham con người. Kho đầy mà lòng vẫn muốn thêm. Biết đủ là đủ. Gạn lọc những câu nói của người xưa, ông đắc ý nhất câu này. Ông bôn ba nhiều rồi, đã đến lúc dừng lại. Dừng lại và gìn giữ của cải để an hưởng tuổi già. Thế nhưng gìn giữ cũng không là chuyện dễ. Người thiên hạ khốn nạn lắm. Sơ ý là chúng xông vào quơ của. Nhìn mặt thằng nào, ông cũng thấy tiềm ẩn cái nét gian manh xảo trá. Dù chúng có nói những lời đường mật, ông cũng không tin. Kinh nghiệm cuộc đời chó má, dạy ông luôn phải đề cao cảnh giác. Cái gương soi đời bẩn thỉu cho ông nhìn thấy có những bà vợ âm thầm đầu độc chồng để cuỗm trọn gia tài theo trai. Kẻ đầu ấp tay gối mà còn nhẫn tâm đến thế, ông còn dám tin ai? Đàn bà, ông mê bóng sắc của loài mắt xanh mỏ đỏ này, nhưng lại sợ nó còn hơn chằn tinh thú dữ. Vì sợ nên suốt đời ông không chính thức kết hôn với người đàn bà nào. Tiền trao cháo múc sòng phẳng, dứt khoát không vướng mắc tình cảm vào mình. Con nào léo nhéo đòi hỏi trách nhiệm hoặc bêu riếu danh dự ông, ông chỉ cần quăng ra một ít tiền khiến cái đám vô lại bịt mồm khóa họng nó. Ngoài con chó, nhà ông Nguyễn có nuôi một thằng người làm vườn, và một con bé giúp việc. Trong cái cơ ngơi rộng lớn, chỉ chứa ngần ấy con người. Chuyện trong nhà không lọt ra tai hàng xóm. Thằng người làm, ông Nguyễn gọi thế, chứ thật ra là một người đàn ông tuổi cỡ bốn mươi. Tên hắn là Thổ. Không biết tên đã có từ trước hay do ông Nguyễn đặt. Ông nhặt hắn từ một góc chợ tồi tàn nào đó. Ngày ấy, hắn gầy rạc như con bọ ngựa trời, bèo nhèo như miếng giẻ rách. Về tay ông một thời gian, được ăn uống no đủ hắn mau chóng phục hồi sinh lực. Thân hình vạm vỡ, thích hợp với những công việc nặng nề. Hắn thuộc loại tâm trí trì độn, không hề có một sáng kiến nào cả, nhưng biết vâng lời bảo đâu làm đó. Ông Nguyễn chỉ cần có thế. Sáng kiến của hắn chỉ làm hư việc của ông. Con bé giúp việc tên Cam, là người gần gũi với ông Nguyễn nhiều hơn hết. Gọi con bé là do thói quen từ hồi nó mới vào nhà ông. Năm ấy nó mới mười lăm, bây giờ đã mười chín. Nó không đẹp, nhưng được cái đẫy đà trắng trẻo. Lần đầu tiên, ông gọi nó lên phòng tẩm quất cho ông khi trời trở gió. Nó còn rụt rè lắm, không dám chạm mạnh vào người ông. Ông bảo, mạnh tay lên. Nó cật lực nắn bóp từ xương bả vai cho đến gót chân ông. Vừa làm vừa thở, mồ hôi ướt nách. Những lần sau, nó tỏ ra quen việc. Ông bảo, mày phải tắm rửa sạch sẽ trước khi lên đây. Khi nó nắn bóp cho ông, ông sờ mò thân thể nó. Lúc đầu nó ngượng, nhưng rồi cũng chai. Ông bảo nó cởi đồ ra. Nó mắc cỡ. Ông nói, ngày xưa con gái mười ba tuổi được tiến cung vua. Mày mười sáu là chậm mất ba năm rồi đấy. Nói xong, ông đè lên người nó. Nó nhắm mắt, khóc rấm rức. Ông hỏi, mày nhục hả? Nó nói, con không biết nhục là gì. Ông nói, thế thì mày khóc vì đau. Chỉ đau lần này thôi, lần sau không đau nữa. Nó sợ hãi, còn có lần sau nữa sao ông? Khi nó mặc lại áo quần, ngồi co rúm ở một góc giường, ông Nguyễn hỏi, mày biết chuyện cung đình ngày xưa không? Nó nói, con là hạng tôi đòi làm sao biết chuyện thâm cung. Ông nói, bọn vua chúa tuyển gái vào cung, hiếp dâm người ta thì gọi là ban ơn mưa móc. Cùng một hành động mà dân thì bị tội cưỡng bức. Xem thế đủ biết ngôn từ làm điên đảo sự phán đoán của con người. Đầu óc mù mờ xuẩn ngốc không phân biệt đâu là chính danh cao thượng, đâu là dục vọng đê hèn. Luật lệ xưa nay nằm trong tay của bọn quyền thế. Mày có nghĩ điều đó không? Nó nín thinh, giương cặp mắt vô hồn nhìn ông. Ông nói tiếp, mày sẽ không hiểu được điều gì đâu, con ạ. Tất cả đều nhớp nhúa, thối tha, khốn nạn. Nó kẹp hai bàn tay vào đùi, cúi mặt. Cái lần đầu tiên con bé biết mùi đàn ông là năm vừa tròn mười sáu. Từ ấy đến nay, vài đêm ông Nguyễn lại nó gọi nó lên phòng. Nó không còn nhớ đã bao nhiêu lần như thế. Ông Nguyễn có cái lối hành sử rạch ròi tận mặt sự đời. Tuổi đã già, nhưng mắt ông còn tinh lắm. Có người bảo đấy là cái thần khí lưỡng mục trùng đồng của người làm nên việc lớn. Nhìn vào ai, ông như soi thấu cả tim gan người ta. Lại cũng có người căn cứ vào sách tướng, thì cho rằng con mắt láo liên chứng tỏ cái tâm bất chính, cái tính nghi ngờ và bản chất tráo trở. Lời ong tiếng ve đều không lọt khỏi tai ông Nguyễn. Ông chỉ cười. Nụ cười của ông cũng được giải thích theo nhiều nghĩa. Người thì bảo, cái cười nhân hậu giàu lòng khoan thứ. Kẻ lại nói, cái cười nham hiểm của tên thù dai. Chung quanh ông, người ta thêu dệt lắm điều khó phân biệt thực hư. Ông không hề đính chính. Thế mà lại hay. Lâu ngày sự thêu dệt thành huyền thoại. Điều gì thì còn có thể nghi ngờ, nhưng chuyện ông Nguyễn đã từng đi đây đi đó nhiều nơi trên thế giới là điều không thể phủ nhận. Đi nhiều, kiến thức rộng. Nghe ông nói chuyện năm châu bốn biển, kẻ ít đọc sách cũng học được nhiều điều mới lạ. Chẳng hạn, khi ông đem về một cây xương rồng. Giống xương rồng này lạ, không từng thấy mọc ở Việt Nam. Một số người hiếu kỳ bu lại coi. Ông khoe, khổ công lắm mới mang được nó về từ nước ngoài. Thân tua tủa những gai nhọn. Hoa màu đỏ rực, giữa đài hoa có nhụy vàng. Đứng xa xa mà nhìn, màu sắc rất đẹp. Nhưng chớ có lại gần, nét đẹp chỉ nên nhìn bằng mắt, sờ vào dễ bị gai đâm. Trong tuổi hưởng nhàn, người ta hay lấy cái thú nuôi chim cá, hoặc chơi cây kiểng làm vui. Ông Nguyễn không chơi theo kiểu thường tình. Ông chơi cây xương rồng. Từ ngày có xương rồng, ông không thiết những việc khác. Ông bảo, ở Âu Châu người ta trồng xương rồng trong cái chậu nhỏ, đặt nơi bệ cửa sổ làm cảnh cho vui mắt. Trồng như thế, xương rồng không phát triển được vì thiếu đất. Ý người ta cũng chỉ muốn trang trí cho nhà cửa có vài cánh hoa tươi mát, chứ không muốn nó sinh sôi nẩy nở nhiều. Còn ông, ông nghĩ đến điều thực dụng. Trước khi mang giống xương rồng này về, ông cũng đã nghiên cứu qua lý thuyết sách vở, và nhận thấy nó thích hợp với phong thổ Việt Nam. Nó là loài thực vật chịu hạn, vất trên những thế đất cằn khô sỏi đá vẫn sống được. Muốn nó trổ hoa, trước hết phải hãm nước cho khô héo, rồi sau sẽ cho nước vào. Gặp nước nó hồi sinh nhanh chóng, nứt mụt nẩy hoa. Tuy thế, vẫn không cho nước nhiều, chỉ sương sương là đủ. Nước nhiều thúi gốc. Xương rồng không bao giờ mọc được ở những nơi đầm lầy úng thủy. Mới đầu, ông Nguyễn trồng xương rồng trong cái chậu lớn bằng xi măng, dưới đáy có lỗ thoát nước, chăm sóc đúng theo nguyên tắc sách vở. Chậu đặt ngoài sân. Một thời gian sau, xương rồng nhảy con đầy cả chậu. Ông quyết định hạ thổ. Thằng Thổ làm cái công việc sang xương rồng từ cái chậu xi măng xuống hố đất. Dù hết sức cẩn thận, cũng không tránh được gai đâm. Một bữa đi bên ngoài về, ông Nguyễn thấy con Cam đang ôm cánh tay thằng Thổ lể gai. Ông hét lớn: “Buông ra ngay.” Hai đứa ngơ ngác không hiểu vì sao ông Nguyễn giận dữ. Sau đó, ông đưa tiền bảo thằng Thổ đến một bà già chuyên hành nghề lể đẹn cho con nít trong xóm, nhờ lể gai. Ông lại sắm cho Thổ một đôi găng tay bằng da bò. Ông hỏi: “Mày biết găng tay dùng làm gì chứ?” Thổ nói: “Con biết.” “Mày phải biết thêm rằng, thứ nào cho ăn thì ăn, thứ nào để cúng thì cúng. Mày mó tay vào đồ cúng, tao thiến mày đấy.” Thổ ậm ờ, nhưng xem ra không hiểu ý nghĩa của lời bóng gió xa xôi. Xương rồng phát triển theo lối nhân giống. Một thành hai. Hai thành bốn... Ông Nguyễn bảo Thổ đào một cái rãnh trồng xương rồng, chung quanh phần đất của mình. Mười năm, xương rồng mọc kín rãnh, làm thành vòng đai bao bọc cơ ngơi ông Nguyễn. Mùa khô, xương rồng trổ hoa màu đỏ rực. Ông che lều bày tiệc ngoài sân, mời người làng Hạ đến thưởng hoa. Tiệc quy tụ vài mươi người. Dù không nói ra, nhưng ai cũng biết người ta đến vì miếng ăn hơn là nhìn hoa vớ vẩn. Khách nhận xét, bữa tiệc hôm nay lớn hơn bữa giỗ. Thầy giáo Quảng nói: “Vật chất đầy đủ, lại được thưởng thức tinh hoa của đất trời làm tinh thần thêm sung mãn. Thế này thì đời đáng sống thật.” Trùm vạn Hương nói: “Chúng tôi là dân thợ cày, phu làm thuê, thuộc tầng lớp ít học. Xin thầy Quảng đừng dùng những lời cao siêu, chúng tôi không hiểu thấu.” “Ông làm đầu nậu chỉ giỏi cái ma mãnh. Công cấy làm nhiều, ông ghi ít. Đến mùa gặt, chủ ruộng đong lúa trả công, ông đong lại cho công gặt, bao giờ cũng có dư. Trong mánh khóe lường lận, không ai bằng ông. Trong trường chữ nghĩa, ông không bằng ai. Tôi nói đời này đáng sống, có gì mà cao siêu không hiểu?” “Giảng huấn cũng có nhiều loại người. Đem sách vở thánh hiền giải thích theo ý riêng của mình làm nhân tâm điên đảo, là nghề của ông. Nói những lời trăng hoa lừa gạt tình cảm đàn bà, làm suy đồi đạo lý bại hoại gia phong, khó có miệng lưỡi nào ngọt hơn ông. Ông bảo, đời này đáng sống, vậy thì đời nào không đáng sống?” “Cắm đầu lo ăn như loài cầm thú, không biết đến giá trị tinh thần là đời không đáng sống.” “Con dế có no mới gáy, con chim có no mới hót. Vậy tiếng gáy tiếng hót bắt nguồn từ việc được ăn no hay từ tinh thần?” “Xin hỏi lại ông, con cào cào, con châu chấu được ăn no có gáy không? Con bồ cắt, con quạ đen được ăn no có hót không? Lời qua tiếng lại đã đến hồi gay cấn. Ông Nguyễn lên tiếng: “Dân tộc ta không tiến được là vì hay lý thuyết suông. Quá nhiều người có chí lớn muốn làm minh chủ, chẳng ai chịu đầu phục ai. Mầm mống chia rẽ bắt nguồn từ chuyện cãi lý. Mới vào tiệc, các ông đã vãi bùn vào mặt nhau. Không khéo lại xảy ra xô xát vì lời nói xỏ xiên. Xin bỏ qua những tị hiềm cá nhân, để bữa tiệc hôm nay được trọn.” Nể mặt chủ nhà, thực khách hòa thuận làm vui. Thằng Thổ ngồi cùng bàn thực khách. Hắn ăn và không nói gì cả. Có thể hắn không biết gì để nói. Cũng có thể hắn biết ông Nguyễn không thích những cái miệng bép xép. Ông cho thằng Thổ ngồi vào bàn tiệc, nói lên cái quan niệm con người bình đẳng với nhau, điều mà ông Nguyễn hết lòng cổ xúy và kêu gọi mọi người xóa bỏ giai cấp. Ông nói, giai cấp sở dĩ có là do sự phân công xã hội. Bọn chủ nhân quyền thế lợi dụng điều ấy, đặt ra những nấc thang giá trị giai cấp để dễ bề bóc lột. Người nghèo và những kẻ làm thuê, thích ông Nguyễn ở điểm này. Con Cam tới lui tiếp rượu và đồ ăn. Thầy tướng số ghé tai thì thầm với gã thợ bạc: “Tôi coi điệu bộ con Cam đã mất trinh.” Gã thợ bạc: “Làm gì có chuyện đó? Nó ở miết trong nhà. Trai làng chẳng thằng nào léng phéng gần gũi được.” Thầy tướng số quyết đoán: “Thế mới lạ. Cái mông bè ra, cặp vú căng gần đứt nút áo. Hiện tượng đã nếm mùi đàn ông. Tôi coi tướng trăm người không sai một.” “Có thể nó đã qua tay thằng Thổ?” “Ừ. Có thể lắm.” Tiệc tàn. Ông Nguyễn đưa mọi người đi dọc theo hàng rào cây xương rồng, xem hoa. Ai cũng trầm trồ khen hoa đẹp. Khi trở lại bàn uống trà, có người hỏi: “Ăn tiệc trước xem hoa sau, là nghĩa làm sao?” Ông Nguyễn nói: “Bụng đói thì đầu chỉ nghĩ đến miếng ăn. Người đói không thiết đến hoa, coi đó là thứ vô tri của trời đất. Nét đẹp của hoa cỏ chỉ nhìn thấy được khi đã cơm no áo ấm. Mùa xuân, những kẻ nhàn du chắp tay sau đít đi ngắm hoa đào, hoặc ngồi nhắp rượu canh thức đêm khuya để chờ giờ hoa quỳnh nở. Tôi chưa có được cái ngẫu hứng phù phiếm của kẻ rởm đời như thế. Tôi chỉ muốn giới thiệu đến các ông cái thực dụng của giống xương rồng ngoại quốc. Người xưa cho rằng thủy hỏa đạo tặc, là bốn mối nguy lớn trên đời. Trộm cắp được liệt vào mối nguy thứ ba. Nhưng nếu có cái hàng rào xương rồng, ta đỡ được một mối lo. Cơ sự vững vàng thì lòng dạ bình yên. Lúc đó, nhìn hoa xương rồng mới thấy hết ý nghĩa của nó.” Một số người e dè nêu ý kiến, loài thực vật đầy gai góc này sẽ làm tổn hại đến con người. Năm kia, lão Nhự đi uống rượu ban đêm về loạng quạng thế nào lại ngả vào hàng rào, gai đâm nát cả mình mẩy. Gần đây nhất là vụ đứa con của ông ấp trưởng mới tập đi xe đạp, cả người và xe lao vào hàng rào. Ngoài những vết thương trên mình, thằng bé còn bị gai đâm đui mắt. Cũng vì cái hàng rào xương rồng này, ông Nguyễn đã gặp ít nhiều rắc rối. Ông nói: “Ngày xưa, vua Vũ khơi sông Dương Tử đào sông Hoàng Hà làm lợi cho muôn sau, mà dân gom ngói đá ném ông. Ông Tử Sản vỡ đất trồng dâu bảo tồn cho nước Trịnh giàu mạnh, mà người nước Trịnh chê bai hủy báng ông. Hàn Phi Tử vào thời chiến quốc nói, lòng dân như trí trẻ con, chỉ thấy cái khổ nhỏ trước mắt mà không thấy cái lợi lớn về sau. Nay các ông chỉ sợ cái gai đâm vào mình, mà không thấy được cái lợi của rào giậu ngăn ngừa kẻ gian từ bên ngoài xâm nhập vào nhà.” Sau lý luận của ông Nguyễn, những người có mặt hôm đó đều cho rằng ông có con mắt nhìn xa ngoài ngàn dặm. Khi ra về, mỗi người được ông Nguyễn biếu một chậu nhỏ xương rồng. Ông cũng chỉ rõ cách trồng và phương pháp làm thế nào để phát triển nhanh chóng. Ba mươi năm rào giậu, kẻ trộm không viếng nhà người làng Hạ. Xương rồng mọc tràn lan choán cả lối đi. Đến lúc thấy trở ngại, chặt vất ngoài đồng khô, nó vẫn sống và tiếp tục sinh sôi nẩy nở. Bây giờ, muốn diệt không dễ. Xương rồng trở thành cái họa cho người làng Hạ. Một số người bỏ làng đi lập nghiệp nơi khác. Số còn lại, sống trong muôn vàn khổ sở. Ông Nguyễn chết, không có con. Toàn bộ gia sản cũng tan hoang khi ông nằm xuống. Thằng Thổ thừa hưởng một ngôi nhà đổ nát. Hắn trì độn, nhưng nhờ vào hơi hướm người chết nên thiên hạ vẫn gờm hắn. Có người hỏi, trước khi chết ông Nguyễn có trao cho hắn cái bí quyết diệt xương rồng không? Hắn bảo, những ngày cuối đời ông Nguyễn bị loạn tâm. Ông viết di chúc nói rằng sẽ đi gặp những người có cái tên rất lạ. Tìm trong kinh điển của các tôn giáo, không có vị thánh nào tên như thế. Người ta ngờ đó là tên của quỷ. Con Cam không chồng, có con. Trong giấy khai sinh, đứa bé lấy theo họ mẹ. Họ tên người cha được ghi là vô danh. Chỉ con Cam mới biết đích xác ai là cha đứa bé. Nhưng con Cam bị chết bất đắc kỳ tử trước khi ông Nguyễn lìa đời. Phụ truyện: Tôi kể chuyện cây xương rồng làng Hạ cho một nhà truyền giáo nghe. Ông ta cũng kể lại cho tôi nghe một câu chuyện rất thú vị. Nhiều năm trước, ông đọc một cái tin về cân bằng sinh thái thiên nhiên. Ngày xưa, châu Úc không có xương rồng. Dân Úc đi du lịch qua những châu khác, thấy xương rồng cho là cây lạ, mang về trồng chơi. Mãi sau, xương rồng mọc tràn lan đất Úc, đến mức báo động. Chính phủ Úc nhờ ủy ban khoa học Liên Hiệp Quốc nghiên cứu giúp phương cách diệt trừ xương rồng. Công cuộc nghiên cứu chưa đi đến đâu, thì hiện tượng lạ xảy ra. Một loài bọ nhỏ có cánh xuất hiện, và ăn xương rồng. Trong vòng ba năm, xương rồng giảm xuống thấy rõ. Người ta nghĩ, với cái đà này thì xương rồng sẽ bị tiêu diệt hoàn toàn trên châu Úc. Nhưng không, xương rồng giảm đến mức vừa phải thì ngưng, sinh thái thiên nhiên được cân bằng. Hiện nay, châu Úc vẫn còn xương rồng và loài bọ nhỏ có cánh ấy. Theo nhà truyền giáo, làm cân bằng sinh thái thiên nhiên là do bàn tay Thượng Đế. Giống xương rồng ở làng Hạ phát triển bất thường, chắc cũng sẽ không ra khỏi cái quy luật trời đất. [/FONT]
Phụ Nữ Trong Cuộc Sống Sưu tầm "Mới đây, tổ chức đàn ông thế giới đã xuất bản một cuốn sách dày ba mươi tập, nhằm giúp cho các nhà nghiên cứu hiểu rõ hơn về phụ nữ, một phạm trù phức tạp nhất của hành tinh. Chúng tôi xin lần lượt trích đăng một số chương trong đó, để các chàng trai tội nghiệp khỏi bỡ ngỡ và có một số kiến thức cần thiết để sống sót " Chương I: Sự khác nhau giữa phụ nữ và nai. 1. Nai ngơ ngác suốt đời. Phụ nữ chỉ ngơ ngác khi cần ngơ ngác 2. Nai không bao giờ giả nai. Còn phụ nữ thường làm thế. 3. Nai có sừng toàn đầu. Phụ nữ có sừng trong ánh mắt. 4. Nai ăn cỏ. Còn phụ nữ thỉnh thoảng ăn nai. 5. Gặp tai nạn, nai biến thành khô nai. Còn gặp tai nạn, phụ nữ biến thành… mít ướt. 6. Nai chạy theo đàn. Phụ nữ cũng chạy theo đàn, nhưng không phải đàn nai. 7. Nai nhảy tung tăng. Phụ nữ đi tung tăng. Chương II: Sự giống nhau của phụ nữ và cọp. 1. Cọp gầm. Phụ nữ cũng gầm. 2. Cọp uyển chuyển. Phụ nữ mềm mại. 3. Trẻ con đứa nào cũng sợ cọp và đứa nào cũng sợ mẹ mìn, mặc dù cả đời có khi không nhìn thấy. 4. Cọp được gọi là ông ba mươi, Phụ nữ được gọi là sư tử. 5. Cọp nổi tiếng về sự oai vệ. Phụ nữ nổi tiếng về sự quý phái. 6. Cọp vẫn quan tâm tới móng. Phụ nữ cũng vậy. 7. Cọp nổi tiếng về da. Phụ nữ nổi tiếng về áo quần. 8. Cọp đôi lúc chỉ vồ chứ không ăn. Phụ nữ đôi khi chỉ yêu mà không lấy. Chương III: Sự khác nhau giữa phụ nữ và khẩu súng. 1. Súng chỉ nổ khi có người bóp cò. Phụ nữ có thể tự khai hỏa. 2. Súng có thể bắn từng viên. Phụ nữ có thể trở thành súng máy, bắn hàng loạt . 3. Khi nguy hiểm, người ta mang súng bên mình. Khi hạnh phúc, người ta cần phụ nữ bên mình. 4. Súng có thể cướp cò. Phụ nữ có thể nói mà không báo trước. 5. Đầu súng có lưỡi lê. Đầu phụ nữ có cái kim kẹp tóc. 6. Đàn ông có thể ra đi với một khẩu súng, và cũng có thể ra đi với một cô gái. 7. Số đàn ông bị thương vì súng luôn ít hơn số đàn ông bị thương vì phụ nữ. 8. Súng có thể hết đạn. Phụ nữ chả bao giờ. 9. Ta xách súng. Còn phụ nữ xách ta. Chương IV: Sự giống nhau và khác nhau của phụ nữ và một con sông. 1. Sông đôi khi không biết đâu là bờ. Phụ nữ cũng thế. 2. Biết bơi đôi lúc cũng chết. Hiểu phụ nữ đôi lúc còn chết nhanh hơn. 3. Sông êm đềm. Phụ nữ phẳng lặng. 4. Sông cuốn trôi mọi thứ khi ta xuống nước. Phụ nữ cuốn trôi mọi thứ khi ta vẫn ngồi trong nhà. 5. Sông có thác. Phụ nữ có cơn. 6. Sông mát mẻ. Phụ nữ tinh khiết. Nghĩ cũng hơi đúng đúng......
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Yêu dấu xưa[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lê Thị Nhị [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bốn mươi ngàn, tức là bốn đồng tiền Mỹ, Thúy sẽ được bác phu xe chở đi vòng quanh thành phố Hà Nội trọn ngày và Thúy muốn đi đâu thì tùy ý. Nhất định là Thúy sẽ ngừng lại ở cửa nhà của Toàn rồi. Căn nhà có giàn hoa thiên lý ngào ngạt hương thơm đã ghi dấu một quá khứ ngọc ngà của nàng thời học trò áo trắng. Quá khứ êm đềm, thơ mộng đã bám chặt vào tâm hồn Thúy, chẳng hề nhạt phai theo năm tháng. Sau khi trả giá xong xuôi, Thúy leo lên chiếc xe xích lô cũ kỹ, ngồi dựa lưng về phía sau, đưa mắt ngắm cảnh phố phường Hà Nội sau một thời gian dài xa cách. Khoảng thời gian gần nửa thế kỷ như thu ngắn hẳn lại. Những con đường nhỏ hẹp với những ngôi nhà tường vôi loang lổ mà Thúy đi qua hình như vẫn còn vương vấn những dấu yêu của một thời xa xưa ấy... Phố Hàng Gai, Hàng Ngang, Hàng Đào, vẫn là những phố đông vui, tấp nập. Khi xe đi ngang qua hồ Hoàn Kiếm, trong lòng Thúy bỗng khơi dậy một ký ức xa xăm... Thúy bước xuống tầu điện rồi đi thẳng ra bờ hồ. Mặt nước lăn tăn gợn sóng, loang loáng dưới ánh mặt trời. Một cơn gió thoảng làm bay bay tà áo lụa Hà Đông của Thúy và lay động những cành liễu mơ màng rủ bóng xuống ven hồ. Giữa buổi trưa hè nóng nực, làn gió nhẹ và hơi nước bốc lên từ mặt hồ đã cho Thúy một cảm giác mát mẻ, dễ chịu. Lòng Thúy rạo rực theo từng bước chân. Thỉnh thoảng Thúy nhìn trước nhìn sau, xem có ai quen nhìn thấy mình không? Thúy nhủ thầm: “Hẹn hò với Toàn mà có ai thấy thì xấu hổ chết, mình phải cẩn thận mới được!” Mặc dù điểm hẹn của hai người ở phía sau đền Ngọc Sơn, và vào buổi trưa ít người đi chơi bờ hồ, nhưng Thúy vẫn lo lắng. Có lúc Thúy muốn đi thật nhanh để gặp Toàn. Có lúc nàng lại ngập ngừng không muốn bước để quay về. Nhưng rồi Thúy cũng đi qua cây cầu gỗ, vòng ra phía sau đền. Toàn đang ngồi dưới một gốc cây đọc sách, Thúy rón rén đến bên: - Anh chờ Thúy có lâu không? Toàn vừa trải tấm khăn mùi xoa xuống đất cho Thúy ngồi vừa đáp: - Anh ra đây sớm lắm. Vì ở nhà cứ đi ra đi vào lại sợ cô Loan cô ấy nghi. Cô bé ấy tinh lắm! Thúy tủm tỉm cười: - Đúng là có tật, giật mình. Toàn hỏi: - Vậy Thúy nói dối ở nhà thế nào để ra đây với anh? - Thúy nói với mợ, Thúy đi chợ Đồng Xuân và Hàng Ngang, Hàng Đào, để tìm vải may áo dài. - Thế mà bé Mai không đòi đi theo à? - Không, cô bé sợ đi bộ lắm! Toàn âu yếm nhìn Thúy. Trông nàng thật ngây thơ xinh đẹp. Mái tóc đen dài chải túm phồng phồng ở phía trước và kẹp lơ lửng bằng cái kẹp ba lá phía sau. Đôi mắt bồ câu đen láy, linh động. Mũi cao và thon, ngăn đôi gò má trắng hồng. Miệng nàng tươi như hoa nở. Thấy Toàn nhìn mình đăm đăm, Thúy đỏ au đôi má. Nàng ném một hòn sỏi xuống mặt hồ: - Đố anh đếm được bao nhiêu cái vòng tròn đang lan tỏa trên mặt nước? - Anh chịu thua. Anh cũng đố em đếm được nhịp tim anh đập? Thúy đặt bàn tay búp măng lên ngực Toàn: - Em cũng chịu thua. Thế là chúng mình hòa cả làng nhé! Toàn vẫn còn ngẩn ngơ trước vẻ xinh đẹp của Thúy: - Thúy có biết các bạn anh bảo em giống ai không? - Giống ai hả anh? - Ava Garner. - Anh và các ông ấy cứ cho Thúy đi tầu bay giấy, làm Thúy tưởng thật, tự ngắm mình, vỡ mấy cái gương rồi đấy! Chợt nhớ tới bức thư Thúy gửi cho chàng vài hôm trước, bức thư chỉ vỏn vẹn có một câu: “ Cần gặp anh gấp lúc một giờ trưa ngày mười tháng hai.” Bức thư không ký tên, nét chữ mềm mại và màu mực tím đã làm chàng vui mừng v à lo âu. Vui vì được gặp người yêu, lo vì không biết có chuyện gì quan trọng đến nỗi Thúy phải viết thư hẹn chàng, điều mà từ trước tới nay chưa bao giờ xảy ra. Toàn hỏi Thúy: - Chúng mình chỉ gặp nhau sớm hơn thường lệ hay là có chuyện gì khác vậy em? Thúy đang vui bỗng thoáng buồn. Nàng đăm đăm nhìn một nhành liễu đu đưa soi bóng xuống mặt hồ. Thúy ngập ngừng nói: - Hôm chủ nhật vừa rồi, bà cả Thuấn đến xin cưới em cho Việt. Mợ có vẻ bằng lòng nhưng mợ cho em tự quyết định, thành ra em phải hỏi ý kiến của anh. Toàn choáng váng trước cái tin động trời ấy. Mồ hôi chàng toát ra, lòng vô cùng bối rối. Yêu Thúy, chàng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện hôn nhân. Những cuộc hò hẹn, những buổi cùng nhau đạp xe đi chơi chùa Láng, đền Voi Phục...đã khiến cho đời chàng thêm tươi, thêm ấm áp, sau những giờ phút miệt mài với sách đèn, hoặc căng thẳng với những sinh hoạt bí mật của đoàn thanh niên. Đối với Toàn, Thúy càng ngày càng trở nên cần thiết. Tuy nhiên nếu bảo Toàn phải quyết định việc trăm năm với Thúy lúc này thì quả là khó khăn. Vì chàng còn đang học dở dang, lại còn con đường đầy chông gai mà chàng đang theo đuổi. Nếu chàng bảo Thúy chờ đợi thì nàng sẽ phải chờ đến bao giờ? Liệu chàng có đủ can đảm khuyên Thúy nhận lời lấy Việt không? Cuộc đời chàng sẽ ra sao nếu mất Thúy? Nàng sẽ nghĩ gì về một người yêu vô trách nhiệm như chàng? Nếu Toàn cưới Thúy, liệu chàng có được cấp trên chấp thuận không? Cả trăm câu hỏi nhẩy múa trong đầu chàng. Toàn yên lặng, cầm một nhánh cây khô vẽ chằng chịt trên mặt đất. Thúy nhìn vẻ mặt đăm chiêu, khổ sở hiện rõ trên khuôn mặt Toàn mà lòng ngổn ngang trăm mối. Nàng đã suy nghĩ rất nhiều rồi mới viết thư hẹn Toàn trưa nay. Mặc dù yêu Toàn tha thiết, nhưng nàng là người rất thực tế, nên nhân dịp bà cả Thuấn đến xin hỏi nàng cho Việt, Thúy muốn xem ý Toàn thế nào. Nếu Toàn muốn tiến tới, hoặc muốn nàng chờ đợi thì nàng sẽ từ chối lời cầu hôn của Việt. Nếu Toàn chỉ muốn kéo dài tình trạng yêu đương lãng mạn thì Thúy đành phải xa chàng. Trong thâm tâm, Thúy rất sợ sẽ trở thành một cô gái quá lứa, lỡ thì. Hơn nữa, Việt cũng là người tốt, có công ăn việc làm và hai gia đình đã quen biết nhau từ lâu. Với một tâm hồn đơn giản, Thúy nghĩ, nàng sẽ an phận, hạnh phúc, bên một người chồng tốt, không phải là Toàn. Tuy vậy, niềm mơ ước có Toàn trong cuộc sống, đối với Thúy, cũng rất mạnh mẽ. Mới chỉ nghĩ tới đoạn tuyệt với Toàn thôi, mà mấy ngày hôm nay Thúy đã khóc cạn cả nước mắt rồi. Không biết đến khi sự thật xảy ra thì sẽ khủng khiếp như thế nào? Toàn run run nắm bàn tay mềm mại của người yêu, nói rất nhỏ: - Việc này bất ngờ quá, cho anh vài ngày để suy nghĩ, anh sẽ trả lời em sau nhé. Hình như cả Toàn và Thúy đều mơ hồ nhận thấy có một khoảng cách giữa hai người đang hiện hữu, nên thời gian còn lại của cuộc hẹn hò, hai người nói chuyện với nhau rất gượng gạo, nhạt nhẽo. Hai tuần sau, Thúy nhận được Loan trao cho một quyển tiếu thuyết của Nhất Linh, bên trong có kẹp một phong thư. Toàn đã cho Thúy biết những lý do hai người phải đành xa nhau. Bức thư đó đã xoay chuyển hẳn cuộc đời của Thúy, đã đưa đẩy Thúy vào một cuộc hôn nhân đầy sóng gió. Trước ngày cưới, Thúy còn liều lĩnh đi chơi với Toàn một lần chót. Nàng muốn ôm gọn trong lòng hình ảnh con đường Cổ Ngư lộng gió, hồ Hoàn Kiếm nước trong xanh phẳng lặng, chùa Láng êm đềm thanh tịnh, đền Voi Phục rợp bóng cây cao... Chiếc xe chạy loanh quanh độ hai ba tiếng đồng hồ thì Thúy đã thấy được gần trọn vẹn bộ mặt của thành phố Hà Nội. Cuối cùng thì Thúy muốn bác phu xe chở nàng tới một con đường thân yêu của những ngày xưa cũ. Con đường có ngôi nhà nhỏ với giàn hoa thiên lý ngào ngạt hương thơm. Thúy thắc mắc trong lòng: "Không biết Toàn có còn ở đó không? Toàn có bao giờ nhớ tới lời hứa năm nào là sẽ luôn luôn chăm sóc giàn hoa thiên lý để lấy hoa cài trên mái tóc nàng hay không?”. Tới đầu ngõ nhà Toàn, tim Thúy đập nhanh. Nàng cười thầm cho trái tim trẻ mãi không già của mình. Ngõ hẻm hình như chật chội hơn xưa vì nhà nào cũng lấn ra phía ngoài một mái hiên nho nhỏ để dựng xe đạp hoặc bán hàng quà vặt. Chiếc xe ngừng lại trước cửa ngôi nhà hẹp, dài và cũ kỹ. Giàn hoa lý năm xưa không còn nữa! Thúy dơ tay bấm chuông, một cô gái khoảng ngoài hai mươi tuổi đẩy cánh cửa sắt màu xanh lá cây đậm ra và hỏi: - Bà tìm ai ạ? - Tôi muốn gặp ông Toàn. Ông ấy có còn ở đây không hả cô? Cô gái đưa mắt nhìn Thúy nói: - Mời bà ngồi chờ một chút, cháu ra quán, mời bố cháu về ngay. Thúy còn đang mải ngắm bức ảnh của một người đàn bà trẻ và đẹp bày trên ban thờ thì Toàn và cô gái trở về. Toàn đứng trước mặt Thúy với đôi mắt mệt mỏi, dáng dấp già nua, tiều tụy. Mái tóc của Toàn đã bạc trắng, hình như không còn một sợi nào đen. Có lẽ Toàn cũng đang chiêm ngưỡng cái dung nhan tàn tạ của Thúy với làn da nhăn nheo như một đôi dép da cũ và nụ cười héo hắt trên môi nàng. Thúy thầm nghĩ: “Nếu chúng mình có nhau từ ngày xưa, chắc chúng mình không phải ngỡ ngàng vì sự thay đổi của nhau qua năm tháng. Giá chúng mình có nhau từ ngày xưa, cô gái kia đã là con của mình rồi, và giàn hoa thiên lý chắc vẫn còn thơm ngát trước nhà mỗi độ nở hoa.”. Toàn kinh ngạc reo lên: - Thúy! Em về bao giờ thế? Làm sao em biết anh ở đây? Thúy đáp: - Em chỉ muốn ghé thăm ngôi nhà xưa và giàn thiên lý, không ngờ lại được gặp anh. Toàn giới thiệu Thúy và con gái: - Đây là bác Thúy, bạn của bố từ hồi còn bé và đây là Thủy, con gái duy nhất của anh. Toàn mời Thúy vào ngồi và bảo Thủy pha trà. Cái dáng mảnh mai của Thủy khuất sau tấm mành trúc có hình hai cô gái mặc áo dài, tay cầm nón lá. Toàn ngồi đối diện với Thúy, nhìn nàng với ánh mắt trìu mến, khe khẽ thở dài: - Anh tưởng sẽ chẳng bao giờ được gặp lại em. Thúy liếc nhìn bức ảnh người đàn bà trẻ đẹp trên ban thờ. Toàn giải thích: - Trầm là mẹ cháu Thủy. Trầm mất hồi cháu mới ba tuổi vì bị bom, lúc đó tụi anh ở Bạch Mai. Sau khi các cụ mất, anh mới dọn về đây. Thủy mang hai tách trà nóng, đặt trên bàn: - Mời bác và bố xơi nước ạ! Tiếng nói của Thủy trong và nhẹ, khuôn mặt giống như hệt khuôn mặt của mẹ nàng. Đôi mắt của Thủy đen láy, mơ màng với hai hàng mi dài và rậm khiến Thúy nhớ tới đôi mắt của Toàn năm xưa. Thúy đưa tách trà nóng lên môi, nhấp một ngụm nhỏ. Lâu lắm Thúy mới lại được uống trà ướp hoa sói. Hương trà tỏa ra nhẹ nhàng. Qua làn khói ấm, Thúy như thấy mình đang nắm tay Toàn đi trên lối vào chùa Cầu Bây giữa hai hàng hoa sói thơm lừng. Thúy nói với Thủy: - Cháu giống mẹ cháu quá! Lại giống cả bố nữa. Thủy nhoẻn miệng cười, đáp: - Thưa bác, những bạn cũ của mẹ cháu cũng nói thế. Các bác ấy bảo, gặp cháu ở ngoài đường, không cần ai giới thiệu, cũng biết cháu là con mẹ cháu. Thủy đi chợ mua thức ăn. Toàn và Thúy ở nhà nói chuyện xưa tích cũ. Bốn mươi năm đã qua đi, hai người có biết bao nhiêu chuyện để nói cho nhau nghe. Toàn vắn tắt cho Thúy biết về quãng đời gian truân của chàng: - Em có giận anh không? Thực ra hồi đó, anh đau khổ lắm! Anh bị giằng co giữa tình yêu em và khát vọng của một người trẻ muốn làm một cái gì cho quê hương. Cuối cùng, anh đành chọn xa em. Sau ngày em cưới, anh vào Khu Tư để chính thức nhập cuộc chiến. Anh được kết nạp vào đảng nhờ những thành tích anh đạt được khi còn ở Hà Nội. Anh hăng say, mù quáng. Những việc làm đê tiện, tàn nhẫn nhất của anh hồi đó vẫn làm cho anh hãnh diện vì anh cho rằng mình đang phục vụ cho một lý tưởng cao đẹp. Những gian truân của anh trong chiến tranh chắc em đã biết rồi, anh không cần nói nữa. Nhưng cái đau đớn nhất của anh là anh đã nhận ra rằng mình bị lừa quá sớm. Điều này kéo theo những nỗi khổ đau, dằn vặt cả về tinh thần lẫn vật chất mà anh phải gánh chịu. Một lần anh sắp bị xử bắn vì tội phản động thì Trầm liều lĩnh che chở và giúp anh vượt ngục. Cũng may, Trầm vừa là cán bộ cao cấp vừa có gốc lớn nên họ chỉ thuyên chuyển Trầm đi nơi khác để tránh tiếng của dư luận. Tụi anh lấy nhau được năm năm thì Trầm bị chết trong một trận ném bom của Mỹ ở Bạch Mai. Giọng kể của Toàn đều đều, bình thản. Thúy không tìm thấy một sự xúc động nào trên khuôn mặt già nua ấy. Có lẽ, thời gian và những biến động của đất nước đã làm cho tâm hồn Toàn trở nên chai đá. Toàn cầm tách trà lên uống một ngụm rồi nói: - Từ nãy, anh vô duyên, cứ nói về mình mà quên hỏi về cuộc đời của em. - Cuộc đời của em ư? Chẳng có gì đáng nói. Lấy chồng, đẻ con, sống như cỏ cây gỗ đá. Khi chồng chết trận, sống như gỗ đá, cỏ cây. Hôm nay bỗng vui vì được gặp lại anh. Chỉ tiếc là giàn hoa thiên lý năm xưa không còn nữa. Toàn hứa hẹn: - Lần sau em về, thế nào cũng có giàn hoa thiên lý. Chỉ sợ lần này về, em thất vọng không bao giờ trở lại nữa thôi. Thúy thoáng buồn: - Liệu chúng mình còn đủ thời giờ để trồng giàn hoa thiên lý không anh? Vừa lúc đó, Thủy đi chợ về. Thúy đề nghị: - Bây giờ thì anh và em phụ với Thủy làm cơm, em đói lắm rồi. Toàn hỏi Thúy: - Con có mua rau muống và cà bát dầm tương để thết bác Thúy không đấy? Quay qua Thúy, Toàn giải thích: - Anh nghe người ta đồn là Việt kiều ở Mỹ về, chỉ thích ăn rau muống và cà thôi, phải không em? Toàn Thúy và Thủy cùng đi vào bếp. Cái bếp chật chội với một cái lu sành đựng nước dự trữ, hai cái bếp dầu hôi kê trên một cái bàn ọp ẹp bên cạnh một cái chạn cũ kỹ. Toàn châm bếp, đặt nước luộc gà. Thủy vo gạo thổi cơm. Thúy ngồi xuống một cái ghế gỗ nhỏ, thấp gần sát mặt đất, nhặt rau muống. Thủy có vẻ bối rối về cảnh nghèo nàn của cha con nàng. Toàn thản nhiên, chuyện trò dí dỏm. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu khiến Thúy mỉm cười vu vơ. Thúy chợt nghĩ tới ngày nàng sẽ trở lại Mỹ. Có lẽ, Thúy sẽ không còn đi tìm quá khứ mộng mơ của bốn mươi năm về trước. Thúy sẽ không còn thấy Toàn với đôi mắt mơ màng nắm tay nàng đi trên lối vào chùa Cầu Bây ngào ngạt hương hoa sói hoặc cùng nhau ngồi phía sau đền Ngọc Sơn ngắm mặt nước lăn tăn gợn sóng... Có lẽ, hình ảnh Toàn già nua, tiều tụy với đôi mắt mệt mỏi, mái tóc bạc phơ, vẻ buồn vương vấn của Thủy, căn bếp chật chội cũng như bó rau muống có ngọn nhỏ xanh non sẽ theo Thúy trong suốt những tháng năm còn lại của nàng nơi xứ lạ quê người.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Yêu thực sự[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hoàng Anh Tú[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]"Không phải phép thử nào cũng là một kết quả đúng. Nhưng trong tình yêu nên có những phép thử để biết rằng ta có thể đã sai…" [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Hoàng thích cái cách Nguyên phập phồng cánh mũi nghiêng nghiêng nhìn mình như thế. Lúc đó, trông Nguyên nhóc tì vô cùng. Hoàng cứ chăm chăm nhìn vào hai cánh mũi ấy mà không ngưng lại nổi cái cảm giác vui đến tức ngực của mình. Buổi chiều Chủ Nhật là như thế. Cứ khi Nguyên bước vào căn phòng của Hoàng là những thực tại cuộc sống lại mờ nhoà và biến mất khỏi tâm trí của Hoàng. Có những Chủ Nhật mưa và có cả những Chủ Nhật nắng. Nắng hay mưa không phải là một vấn đề cần phải nghĩ khi có Nguyên ở bên. Nhưng nó lại là chất xúc tác để mỗi ngày chủ nhật trôi qua lại càng thêm ý nghĩa gấp nhiều lần hơn. Ngày nắng, Nguyên nằm co khoanh tròn trong những ô vuông nắng chiếu qua ô cửa sổ. Ngày mưa, Nguyên lại đứng chìa tay ra ngoài song cửa để hứng những giọt ranh. Nguyên có một sở thích là đặt tên cho tất cả những gì đang diễn ra xung quanh mình. Đó cũng là lý do mà cuộc sống của Hoàng có thêm nhiều người bạn đến thế. Từ chiếc tất Ui Chao đến cái áo Va Mũi, từ con cá mang tên Móm đến con sâu róm mang tên Cút Đi. Mỗi con vật, sự vật và cả những buổi chiều chủ nhật như thế này đều có những cái tên. Để chẳng lúc nào quên được Nguyên. Ngay cả khi Hoàng ở bên Zin - bạn gái và là vợ sẽ cưới của Hoàng. "Tụi mình chỉ thế này thôi, nhé Hoàng". Không biết bao nhiêu lần Nguyên nói vậy sau mỗi câu chuyện về chị ý – Zin Mũi Đỏ. Đến cả bạn gái của Hoàng, Nguyên cũng không tha, Nguyên đặt tên, Zin Mũi Đỏ. Cứ thế, cứ thế cả hai đi qua những buổi chiều chủ nhật. Căn phòng trên tầng tư của một khu tập thể cũ kỹ mà Nguyên hay hát: "Anh! Em đã yêu anh từ lâu. Anh! Em đã yêu anh lầu tư" tràn trề nữ tính trong những buổi chiều như thế. Cũng có lúc Cá Ươn – anh ý của Nguyên – cũng ngáp ngắn ngáp dài trong câu chuyện của Nguyên với Hoàng. Bạn trai và cũng là chồng muốn cưới của Nguyên được Nguyên đặt nickname là Cá Ươn. "Bởi anh ý lười kinh khủng. Lười yêu em." Và chốt hạ bằng một câu: "Nếu anh Hoàng không yêu được một người như Nguyên thì anh Hoàng cũng y hệt anh ý." Cái lối tự trào vốn có của Nguyên. Và quả thật, rất rõ ràng, qua cái nhìn của Nguyên, khi ấy mọi sự vật hiện tượng mới căng nhựa sống được. Cứ thế, cứ thế cả hai đi qua những buổi chiều Chủ Nhật. Không một Chủ Nhật nào lặp lại của chủ nhật nào. Miên man. Và khác hẳn. Zin bao giờ cũng thế. Bao giờ cũng muốn mọi sự phải thật rõ ràng, phải thật minh bạch. Trong khi có nhiều điều không thể rõ ràng ra được. Luôn luôn Hoàng có cảm giác như là Zin chất vấn, hỏi cung mình vậy. Cảm giác đó khiến Hoàng khó chịu vô cùng. Nhưng với Nguyên thì không. Nguyên không bao giờ hỏi Hoàng đi đâu, làm gì. Nguyên luôn để Hoàng tự nói ra. Đó phải chăng cũng là lý do khiến Hoàng muốn ở bên Nguyên nhiều hơn là một buổi chiều chủ nhật? Và với Zin thì ít dần đi. Những nụ hôn lười biếng và mang tính chất hội nghị. Có nghĩa là gặp: Hôn chào nhau. Về: Hôn tạm biệt. Đôi lúc: Hôn như lời cảm ơn khách khí, xã giao. Tần số lần gặp nhau cũng ít dần. Hoàng nghĩ về Nguyên nhiều hơn khi ở bên Zin. Nhiều hơn. Bắt đầu từ bao giờ nhỉ? Từ một vài tin nhắn qua lại giữa Nguyên và Hoàng. Về một thứ tình yêu ngoài tình yêu. Bắt đầu bằng một ngày cho một đời. Một ngày yêu nhau. Người yêu một ngày. Hai đứa bồng bềnh đi suốt đêm. Nhắm hờ mắt là thấy Nguyên co ro ngồi sau xe Hoàng. Những con đường mùa đông và những ngọn đèn vàng ấm áp. Từ một ngày cho một đời thành một ngày cho mỗi tuần. Ngày Chủ Nhật. Cả hai đều không lý giải nổi tại sao mình yêu nhau nhiều đến thế và nhanh đến thế. Bên Nguyên, Hoàng cảm thấy thật dễ chịu và thoải mái. Không như bên Zin. Bên Nguyên, Hoàng thấy tràn ngập tình yêu. Trong khi bên Zin thì ngoài tình yêu còn trách nhiệm với gia đình Zin, còn trăm thứ bà dằn có tên và không có tên. Bên Nguyên thì tất cả chỉ là Hoàng và Nguyên. Là Chủ Nhật. Như thế một tuần chỉ có mỗi ngày Chủ Nhật là đáng nói vậy. Như thể mỗi đời chỉ có mỗi Nguyên là con gái vậy. Sòng phẳng mà nói: Hoàng thấy mình yêu Nguyên nhiều hơn yêu Zin. Nhưng vẫn thương Zin. "Mình cứ xô vào nhau như Chí Phèo Thị Nở vậy, Hoàng nhỉ? Em thấy có lỗi với chị ý và cả với Cá Ươn." Hoàng trầm ngâm. Thương Zin. Chủ Nhật ấy bị sứt đi một chút. Nguyên về sớm với Cá Ươn để Hoàng qua gặp Zin. Mẻ một chút ngày Chủ Nhật ấy. Hoàng đèo Zin đi qua một tấm gương. Thấy soi bóng hai người trong đó. Chẳng giống những người đang yêu nhau tẹo nào. Rời rạc. Trong gương, Nguyên ngồi sau xe Cá Ươn. Hai bên nhìn nhau. Im lặng. Zin khẽ thở dài. Hoàng khẽ kéo tay Zin ôm lấy eo mình. Bên trong tấm gương, Nguyên cũng chủ động ôm eo Cá Ươn. Như thầm nhắc nhau rằng tuần không chỉ có ngày Chủ Nhật. "Không phải phép thử nào cũng cho ta một kết quả đúng. Nhưng trong tình yêu nên có những phép thử để biết rằng ta đã sai". Đó là câu chốt hạ của Nguyên. Hoàng chỉ im lặng. Nguyên bảo "Hoàng phải yêu chị ý nhiều hơn để em yêu Cá Ươn nhà em nhiều bằng như thế". Rồi Nguyên liệt kê ra 10 điều mà Zin mong muốn. Hoàng cũng liệt kê lại 10 điều mà Cá Ươn cần. Trao đổi. Đây cũng chẳng phải là lần đầu tiên hai người làm vậy nhưng dường như thời gian và công việc luôn không công bằng với Zin. Hoàng chưa bao giờ làm hết 10 điều Zin mong muốn mà Nguyên đưa ra. Nhưng Cá Ươn thì nhận được hết 10 điều. Hoàng nghĩ mãi. Có lẽ bởi Hoàng lười biếng thật? Hay vì Hoàng ích kỉ và vô tâm? Nguyên bảo: "Cứ dần dần thôi, từng bước từng bước…" Và Hoàng bắt đầu để ý nhiều hơn đến Zin theo hướng dẫn của Nguyên. Như một cuộc chiến đấu để giành giật ý nghĩa cần và đủ cho một tình yêu thực sự. Công bằng mà nói, mọi thứ cũng đã có thể cứu vãn được nếu như Hoàng không yêu Nguyên nhiều hơn yêu Zin, không ham muốn Zin giống như Nguyên. Là chỉ cho chứ không nhận, là chỉ yêu chứ không đòi hỏi trách nhiệm cũng như trăm thứ bà dằn khác trong một tình yêu có những dự định tiến tới hôn nhân. Bắt đầu từ bao giờ nhỉ? Từ khi tình yêu của Hoàng và Zin đi vào ngõ cụt với những cuộc cãi vã triền miên. Đó là một thời kỳ khủng hoảng thường thấy của tình yêu. Zin trở nên nhiều chuyện và khiến Hoàng thấy mất tự do ghê gớm. Bức bối. Sự nhàm chán luôn khiên người ta bức bối. Nhất là với những người trẻ. Và với Hoàng thì điều ấy đặc biệt đáng sợ hơn. Nếu là bồng bột mà nói thì câu cửa miệng sẽ là: "Mình chia tay". Nhưng cả Zin và Hoàng đều không muốn như thế. Cho tình yêu một cơ hội nữa. Nguyên xuất hiện như thế. Khác hẳn Zin. Không ồn ào, không riết róng, không quá phức tạp để hiểu được. Nguyên là hiện thân của sự không đầu không cuối, tràn đầy nữ tính. Nguyên ghé vào cuộc đời của hoàng và từ từ nhen lửa cho Hoàng. Để yêu Nguyên và yêu Zin gấp nhiều lần hơn. Để hiểu Cá Ươn của Nguyên và để Nguyên có thể yêu Hoàng và yêu Cá Ươn gấp nhiều lần hơn. Nguyên và Hoàng bắt đầu tâm sự về những gì mình nghĩ trong từng hiện tượng, sự việc một. Thời gian ấy đi qua một cách ngọng nghịu vì cả hai còn lạ nhau. Cho đến khi thuộc nhau dần dần rồi thì những câu chuyện có Zin và Cá Ươn cũng ít đi dần. Nguyên cũng hỏi Hoàng nhiều hơn câu "Anh đã yêu chị ý nhiều hơn chưa?" Như thể sợ mất đi mối quan hệ này, Hoàng cũng chần chừ. Nguyên mỗi lúc một nhiều lên trong cuộc sống của Hoàng. Và dần trở nên quan trọng. Zin thì ít dần đi. Hoàng bỗng lo sợ nếu Hoàng yêu Zin nhiều hơn thì sẽ vĩnh viễn mất đi Nguyên. Và Hoàng chỉ im lặng mỗi khi Nguyên hỏi. Trong mắt Nguyên những lúc đó, lại ánh lên những tia buồn. Mong manh đến bật khóc. Zin bật khóc: "Em mệt mỏi quá rồi! Sẽ không thể tiếp tục tình trạng này được nữa. Anh yêu vai diễn Nguyên của em nhiều hơn yêu con người thật của em rồi phải không?" Hoàng thở dài gật đầu xác định. "Anh muốn em luôn là Nguyên. Còn em?" Zin lắc đầu: "Với em thì anh lúc làm Hoàng hay lúc làm Cá Ươn luôn là một. Em đều yêu trọn vẹn và hết mình. Có điều, với mỗi thời điểm, em đều có những cách hành xử khác nhau. Với Cá Ươn, em đối xử như một người mình sẽ lấy làm chồng, còn đối với Hoàng, đó chỉ là một tình yêu không xác định". Hoàng lặng người đi. Liệu có phải Hoàng cũng chưa sẵn sàng để tình yêu đi đến hôn nhân nên Hoàng yêu Nguyên hơn là yêu Zin? Trong Hoàng như vừa đổ vỡ một điều gì đó. Bắt đầu từ tin nhắn của Zin khi tình yêu của cả hai đi vào ngõ cụt: "Em muốn ngày mai mình yêu nhau như hai người mới toanh để cho tình yêu của mình có một cơ hội". Tình yêu một ngày xảy ra như thế. Và đẹp thật. Mới toanh. Hôm ấy, Hoàng tới đón Zin. Cố gắn để tạo ra cảm giác như thể lần đầu tiên hò hẹn vậy. Con đường tới nhà Zin vẫn như mọi khi. Hoàng quen từng cái ổ gà một. Gặp Zin, anh cũng không nhận ra. Zin mặc một bộ váy mới toanh. Một bộ váy mà Hoàng chưa từng thấy bao giờ. Zin xuất hiện. Cái cách xuất hiện cũng khác với Zin thường ngày. Không xưng hô là Zin- tên ở nhà nữa. Mà là tên thật: Hoàng Gia Nguyên. "Nguyên chào anh Hoàng ạ!". Đã từ lâu, Hoàng quen gọi Nguyên bằng cái tên yêu là Zin. Nghe lại tên thật bỗng thấy là lạ. Lạ thật. Phải chăng tình yêu của hai người suốt mấy năm qua cũng thế. Đã quá quen thuộc đến nhàm chán. Và hôm nay, vào vai Nguyên, Zin đang khác mình đi để thử yêu lần nữa. Hôm ấy, không vào lại những quán quen, không đi lại những đường cũ, không nói lại những câu chuyện nhàm tai. Tất cả đều mới toanh. Rất mới. Zin trong vai Nguyên thật lạ. Cuối buổi đi chơi, hai người hôn nhau dưới hiên nhà Nguyên (và cũng là Zin), nụ hôn cũng thật lạ. Đó là Hoàng cảm thấy vậy. Đêm ấy, Hoàng nhắn cho Zin: "Anh Hoàng yêu em Nguyên". Và sau tình yêu một ngày đó là Chủ Nhật mỗi tuần. Nguyên của Zin là một người khác hẳn. Nói như Nguyên đó là: "Một lối chơi khác hẳn khiến cho trận đấu trở nên kịch tính hơn." Mỗi chiều Chủ Nhật, Zin trong cái tên Nguyên lại tới căn phòng của Hoàng. Khác hẳn với Zin ngày thường, Nguyên của ngày Chủ Nhật tràn trề cuốn hút. Lại nhen lửa cho Hoàng. Để thứ Hai, gặp lại nhau, Zin lại trở về là Zin. Thật đến nhàm chán và mệt mỏi. vẫn là Zin với sự rõ ràng và minh bạch. Vẫn là Zin của "anh phải thế này, anh không được thế kia". Cần mẫn đến mức bối rối. Và Hoàng thấy mình là một Cá Ươn suốt một tuần trời. Chỉ có thể là Hoàng vào mỗi ngày Chủ Nhật. Zin cố gắng, cố gắng để Cá Ươn trở thành Hoàng. Còn ngược lại, Hoàng yêu Nguyên nhiều hơn. Với Zin thì ít dần đi. Hoàng chờ đợi ngày Chủ Nhật để được gặp Nguyên. Hoàng ôm vai Zin: "Sao em không giống như Nguyên? Sao em không cứ luôn là em của mỗi ngày Chủ Nhật? Tại sao em cứ phải là Zin một cách khó chịu đến như thế? Anh muốn em hãy là Nguyên, hãy là em của mỗi ngày Chủ Nhật". Zin lắc đầu: "Nguyên có thể rất tuyệt vời nhưng Nguyên là khoảnh khắc em tạo dựng chứ không phải là con người thật của em". Và bắt đầu từ bao giờ nhỉ? Từ cửa sổ tầng tư của khu tập thể cũ kỹ, Zin đi về. Hoàng nhìn theo và bỗng thấy không còn Nguyên nữa từ trong Zin…[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Yêu [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Thị Thanh Bình[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nó lầm lì vào phòng thi, có cảm giác xấu hổ với mọi người trong phòng. Từng là một sinh viên gương mẫu có tiếng, lãnh học bổng loại A mà cũng vào phòng thi lại như ai, thật xấu hổ. Một đứa con gái len lén nhìn nó với ánh mắt ghen tị sao ấy. Khẽ cười khẩy, nó liếc số báo danh của đứa con gái kia, chạy ra bảng danh sách, con nhỏ đó thi lại bốn môn, thế mà mặt cứ vác lên. Đã vào đây thì ai danh giá hơn ai ? Nó vênh mặt nhìn lại, thấy mình việc gì phải mất thì giờ với đứa con gái ấy làm gì. Mà quái lạ, sao con nhỏ ấy cứ nhìn nó chăm chăm vậy nhỉ? Mặt nó dính mực chăng ? Soi mặt trong cái gương bé tí tẹo gắn trên nắp cặp, nó khẳng định : không có . Hay áo tuột cúc ? Không! Nó bực bội nhưng không thể làm gì, không nhẽ lại nhảy xổ đến mà hoạnh họe "Sao mày nhìn tao " à? Rõ là phường chợ búa mới làm thế. Còn nó là sinh viên, một sinh viên gương mẫu kia mà! Về nhà, nó mới mang máng nhớ ra đứa con gái ấy giống cô thiếu nữ trong vài bức tranh treo trong phòng Nguyện. Cũng có một bức cô ta mặc cái áo rộng cổ hồi sáng. Cô ta là người mẫu của Nguyện chăng? Vì thế cô ta mới biết nó - chắc là Nguyện cũng nói điều gì về nó vì thế cô ta mới nhìn nó kinh thế. Nó qua, cô gái kia bị nợ một môn. Nó vác mặt kiêu hãnh đi trên hành lang qua lớp cô ta như muốn nói rằng "Tôi đây mới là người yêu của Nguyện, còn cô, chỉ là một người mẫu mà thôi !" Nhưng từ khi ấy nó chưa gặp lại Nguyện. Nó sợ phải nghe một sự thật. Nguyện đẹp trai, lắm tài, nhưng lại quá hiền lành. Học kinh tế mà Nguyện lại đi làm với cây cọ vẽ. Nhiều lúc nó đến khổ sở với số người quen, người mẫu của Nguyện. Một buổi tối đi chơi, ít ra Nguyện cũng phải rời nó đến bốn, năm lần để nói chuyện, chào người quen, người làm ăn. Nó thấy chán cảnh phải chịu những điều vô lý ấy, đã gợi ý chia tay mấy lần nhưng Nguyện lại tìm đến, đau khổ, buồn rầu. Thế là nó lại mềm lòng, tha thứ để rồi lại nghi ngờ, đau khổ. Nguyện lại quá ngoan ngoãn, nó hỏi chuyện gì, về ai, Nguyện thật thà kể hết ngay, không hề giấu giếm một điều gì. Thà rằng Nguyện cứ giấu nó vài chuyện để nó phải đau khổ với cảm giác được yêu, nó còn cảm thấy dễ chịu. Đằng này Nguyện cứ bắt nó mang cảm giác là mình bị yêu. Mà với cảm giác ấy, không lúc nào nó nghe lòng bình yên, cứ phải lo cuống lên với nỗi lo mơ hồ, hư ảo. Lắm lúc nó hoang mang tự hỏi không biết mình yêu Nguyện vì lẽ gì và Nguyện cần nó như một bà bảo mẫu hay là người yêu ? Xung quanh Nguyện có biết bao cô gái - người mẫu - xinh đẹp. Chưa bao giờ nó được Nguyện mời ngồi làm mẫu để vẽ cả, mà nó cũng đâu xấu xí gì cho cam. Hình như Nguyện chỉ coi nó là một người để bất cứ lúc nào cũng có thể kể chuyện buồn vui và kéo đi chơi lúc nào có hứng. Không biết từ bao giờ nó đã thấy mệt mỏi, chán chường. Nó xem quyển sách bói lũ con gái mới mang vào lớp "Con gái tuổi thìn thường có cá tính, cứng rắn và là chỗ dựa tinh thần vững chắc..." Nó thở hắt ra, ném trả quyển sách, không biết Nguyện đã xem quyển sách nào tương tự như quyển này chưa ? Lại một ông nào đó phán "Yêu mà xét đoán tình yêu của mình thì hết yêu rồi ?" Liệu có phải thật thế không ? "Chị, Liên cần nói chuyện với chị! "cô gái trong phòng thi dạo nọ đến gặp nó, cái áo đầm nền đen, hoa vàng rực chói mắt này đã có trong tranh của Nguyện rồi thì phải. Sinh viên đến trường mà lòe xòe váy áo, lại son son phấn phấn cứ như đi làm mẫu ấy. Nó bỗng có ác cảm với cô gái này nên khẽ nhìn ngang : "Chị muốn nói gì?" Mình kiếm một chỗ nào đó..." Nó gạt đi, chỉ tay vào phòng học vừa tan, vắng học sinh chỉ có chiếc quạt trần uể oải chạy với màu sơn loang lổ cũ kỹ nhàn nhạt. Nghĩ bụng giữa mình và cô ta có chuyện gì để nói đâu. Hay là cô ta đề nghị mình nhường Nguyện, nếu thế nó sẽ ừ ngay "Em tên Liên, còn tên chị em đã nghe anh Nguyện nhắc đến nhiều". Nó gật đầu vẻ kẻ cả, bề trên, thấy cô ta ngọt ngào hơn mình vì đã gọi Nguyện bằng anh. Chưa một lần nó gọi Nguyện bằng anh bởi Nguyện với nó cùng tuổi dại gì nó chịu làm em, thành ra toàn xưng tên, kệ Nguyện xưng "anh - em" một mình. "Nguyện đã nói gì về tôi ?" "Nhiều lắm, anh bảo chị cứng nhắc quá, nguyên tắc và cả một chút gia trưởng..."Nó thoáng tái mặt nhưng vẫn làm ra vẻ thản nhiên, gật đầu kiêu hãnh. "Đúng, đó là tính nết của tôi, còn Nguyện có nói với Liên là Nguyện không thích gì không?" Nó hỏi mà mặt cứ vênh lên, tỏ ra là người trên kẻ trước, nhưng lòng giận Nguyện vô cùng. Nguyện đã cầu xin nó đừng bỏ đi, giờ lại quay ra nói xấu nó thế "Anh ấy muốn chị dịu dàng, hiền ngoan hơn, chị hãy là người để anh ấy cần chứ không phải là người để anh ấy sợ bởi những cái gai nhọn luôn xù lên!" Nó mím môi "Thế này, những cái đó là bản chất của tôi, mà đã là bản chất thì khó thay đổi lắm. Nhưng tôi thấy Liên hợp với Nguyện đấy. Yên tâm về đi, tôi nhường". Nói được một câu cay đắng, nó nghe thỏa mãn, tự ái được ve vuốt nhưng sau đó lại hối hận ngay, áy náy vì mình đã quá nặng lời với Liên, mà Liên có tội tình gì đâu. Đứng nấp sau cột nhà xe, nó tần ngần nhìn theo dáng Liên... Ném sách vở lên giường nó lịm đi trong cảm giác bị bỏ rơi. Nó từ chối luôn cả bữa ăn trưa, thấy nó ngang. Nó căm thù Nguyện, nhưng lại thấy mình mới là người đáng trách. Giá như nó đừng mềm lòng trước Nguyện thì bây giờ nó đã có thể vênh mặt kiêu hãnh chứ đâu phải nằm buồn một số như thế này. Nó vùng dậy lấy giấy bút ra hí hoáy viết. Lạ thật, trong lúc này mà nó còn có thể... bực bội ném giấy bút lên giá, nằm xoài xuống giường, cầu mong quạ quạ, diiều hâu tới cắp mảnh hồn văn chương của nó đi, để nó không biết đau khổ vu vơ trước khoảnh khắc giao mùa. Không khóc được, nó mở mắt trừng trừng nhìn ngọn đèn neon không bao giờ được tắt. nó muốn tắt nguồn sáng ấy đi để căn phòng nhờ nhờ tối. Chỉ ở trong bóng tối, con người ta mới thật lòng với nhau. Không biết sáng mai, khi lên trường nó sẽ phải làm gì, nói gì khi gặp Liên. Tưởng tượng Liên sẽ vênh váo nhìn nó với tư thế của người thắng cuộc làm nó như sôi lên. Nó không chịu được điều ấy, nó sẽ chết vì xấu hổ. Nhớ lại bài luận môn writting, nó ngượng tê người. Nó đã không tiếc lời ca ngợi tình yêu, rằng tình yêu là thần thánh, tình yêu sẽ chắp cánh cho con người bay đến thành công rằng... Nếu có ai biết chuyện của nó, đọc bài luận ấy... Nó không dám nghĩ tiếp ôm gối xoay vào tường cố dỗ giấc ngủ nặng nề. Nó nghỉ học vì không muốn giáp mặt với Liên. Ngọc rủ nó đi chợ, nó từ chối, chẳng thiết gì cả. Bỗng thấy nhớ Nguyện. Thèm được ngồi trong góc phòng âm ẩm tối, sực mùi màu vẽ mà ngắm Nguyện, mà nhìn từng nhát cọ nhẹ ngàng đưa. Chờ Nguyện quay lại cười để cười đáp lại. Những điều ấy sao giờ xa xôi thế không biết. Bây giờ nó không có quyền nghĩ về điều ấy nữa. Nó ngồi dậy, kiếm tờ giấy viết thư, bặm môi ghi ghi chép chép, cẩn thận bỏ vào phong bì dán kín lại. Thay quần áo và đi. Dù sao cũng phải nói lời giã biệt chứ? Liên đang ở trong phòng Nguyện. Nó hơi sững người song vẫn đàng hoàng bước vào. Gì đi nữa, nơi này vẫn chưa thể trở thành nơi lạ ngay được. Lên thảng thốt "Chị cũng nghỉ học à?" Nó nhìn Liên chợt thấy thương cô gái này. Cũng như nó, Liên không dám đến trước, chắc Liên sợ như nó đã sợ. Vậy ra, chắc gì Liên đã thấy hạnh phúc sau buổi nói chuyện hôm qua. Nguyện rót cho nó ly nước "Sao lại rãnh rỗi đến thăm anh vào buổi sáng thế này?" Nó im lặng, Liên đứng dậy "Chị ngồi chơi, em về trước!" Nó giơ tay định ngăn Liên lại nhưng rồi buông thõng tay. Thấy mình cũng cần phải nói với Nguyện vài điều, nhưng lại không biết mở đầu như thế nào. Nguyện cứ chăm chăm nhìn nó. Không biết Liên đã nói gì chưa ? Nó bỗng thấy thương hại Nguyện, con trai mà mềm yếu, ươn hèn đến khó chịu. Nhưng dù sao Nguyện cũng là người đầu tiên - ngoài ba má - nó yêu. Nay thì chẳng còn gì nữa. Nó rút lá thư ra, như đoán biết được điều gì, mặt Nguyện hơi tái đi, thảng thốt. Nó cười nhột nhạt, méo mó, dặn lòng không được quyền xao động nữa. Quá đủ rồi. Nguyện ôm đầu gục xuống bất thần vung tay gạt đám tranh trên bàn xuống đất. tiếng kính vỡ loảng xoảng. Những mảnh vỡ bao giờ cũng nham nhở, xấu xí. Nó bàng hoàng nhận ra trong bức vẽ nào cũng có một chút nó trong đó, lung linh, ẩn hiện "Em nhất định ra đi sao?" Nó gật khẽ . "Nếu em muốn, anh cũng không giữ, nhưng em phải biết anh rất tôn trọng em, gần như là tôn thờ! " Nó lảo đảo đứng dậy. Trong tình yêu làm gì có điều ấy. "Anh hiểu, cái gì ban đầu cũng thường đổ vỡ." Nguyện hiểu gì? Nguyện chẳng hiều gì hết. Nếu không đã không có ngày hôm nay. Trời thu lành lạnh, lá vàng lao xao rơi. Nó chợt nhớ quê, nơi có rừng cao su bạt ngàn mà đến mùa thu, nó sẽ tha hồ được ngắm cơn mưa lá rào rào suốt đêm. Nó nghe lòng bình yên, mọi đổ vỡ rồi cũng sẽ qua đi. Nó bỗng nhớ câu thơ viết vội, lần đầu tiên mà cũng là lần cuối - gửi cho Nguyện. "Em không thể giữ nổi cánh chim câu Khi ngoài kia gió chiều reo rắt vẫy Mối tình đầu thường mong manh dễ gãy Như chiếc cầu dải yếm ngày xưa... ...Gửi về anh - phương ấy - một cơn mưa"[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Yêu nháp[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đoàn Thạch Biền[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hai mươi mốt tuổi mà chưa biết yêu thì đúng là "anh em ruột thịt" với con cù lần. Nhưng con cù lần là con gì há ? Bạn khỏi phải mất công vào sở thú tìm kiếm nó. Bạn cứ nhìn mặt tôi thì rõ. Thật đáng buồn, tôi đã giống y chang con vật lù khù đáng ghét đó. Nếu trong một kỳ thi vấn đáp, giáo sư hỏi tôi: - Yêu là gì? Ðối với một sinh viên khoa Văn năm thứ hai như tôi, câu trả lời dễ dàng như ăn ớt Ðà Lạt. - Dạ thưa thầy, theo thi sĩ Xuân Diệu: "Yêu là chết trong lòng một ít". Còn theo tự điển Tiếng Việt của nhà xuất bản Khoa học Xã hội, trang 893: "Yêu là cảm thấy gắn bó, trìu mến, hài lòng, thích thú, say mê... với người hay vật có sức mạnh thu hút". Trả lời đúng bài bản như thế chắc chắn tôi sẽ được điểm 10. Nhưng nếu giáo sư hỏi tiếp: - Làm thế nào yêu được và được yêu? Tôi sẽ đứng gãi đầu một hồi rồi đành chịu điểm 0. Bởi lý thuyết về tình yêu, tôi đã học thuộc lòng rất nhiều từ sách vở. Nhưng thực hành thì... chưa bao giờ. Bạn đừng hiểu lầm tôi là một kẻ nhát gan, sợ "chết ở trong lòng một ít". Không đâu. Nếu yêu là bắt buộc phải "chết luôn tại chỗ", tôi mới ớn lạnh xương sống và lắc đầu quầy quậy từ chối. Còn chết "một ít" thì có gì đáng sợ. Ai trong chúng ta mỗi ngày không chết "một ít" trong cõi đời 100 năm này? Còn "Cảm thấy gắn bó, trìu mến, hài lòng, thích thú, say mê... với vật có sức mạnh thu hút", thì tôi đã cảm thấy rõ ràng rồi. Tiền luôn luôn là vật có sức mạnh thu hút tôi kỳ lạ. Như vậy tôi đã hội đủ những điều kiện "ắt có và đủ" để yêu. Vậy mà đến bây giờ tôi vẫn chưa được biết hương vị của tình yêu. Thế là thế nào? Tại trời đất quá bất công với tôi hay tại tất cả những cô gái đã đối xử quá bất công với tôi? Sau bao nhiêu ngày tự gãi đầu để suy nghĩ đễn nỗi rụng cả một mảng tóc, tôi vẫn không sao giải đáp nổi những thắc mắc trên. May thay tôi chợt nhớ ra câu ông bà đã dạy : "Học thầy không tày học bạn". Tôi vội đi đến "gãi đầu" Cường, một bạn thân học cùng lớp. Cường nổi tiếng "đắt đào" ở trường đời nên tôi tin hắn sẽ giúp tôi "gỡ rối tơ lòng" dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và hiệu quả hơn các vị giáo sư vốn nổi tiếng ở trường học. Cường đang ngồi vừa đàn vừa hát ở trong nhà, thấy tôi hớt hải, chạy vào không thèm gõ cửa, hắn bỏ đàn xuống bàn, hỏi: - Có chuyện gì mà nghiêm trọng vậy? Tôi vừa thở vừa nói nhát gừng. - Tối... nghiêm trọng. Tối... nghiêm trọng. Cường rót một ly nước đầy đưa cho tôi. - Uống cho mát cổ họng rồi hãy nói. Tôi uống ực một hơi hết ly nước đầy rồi ngồi xuống ghế, bình tĩnh nói: - Cậu hãy giúp mình giải đáp thắc mắc này. - Ðề thi ở trường à? - Không. Ðề thi ở đờ: Làm thế nào để yêu được và được yêu? Cường nhìn thẳng vào mắt tôi, hỏi: - Cậu định "diễu" mình hả? - Diễu gì ? Mình hỏi thật lòng. Cường nhíu mày suy nghĩ một lúc rồi nói: - Khi làm bài thi ở trường, cậu thường viết thẳng vào giấy thi hay làm bài nháp trước đã. - Thi cử là chuyện quan trọng bậc nhất của đời sinh viên, nên phải làm bài nháp cho chắc ăn rồi mới chép sạch sẽ vào giấy thi. Cường nghiêm mặt nói: - Tình yêu cũng là chuyện quan trọng của một đời người, nên cậu phải tập "yêu nháp" trước khi yêu thật. Tôi trố mắt hỏi: - Cậu định "diễu" mình hả? - Diễu gì. Mình nói thật lòng. - Nhưng cũng phải hiểu biết chút chút mới "nháp" được chớ. - Chẳng có gì khó hiểu cả. Nhà cậu có mở cửa thì nắng gió mới vào được. Trái tim cậu có "mở cửa" thì tình yêu mới len lỏi vào được. Tôi liền cởi hai nút áo để phanh lồng ngực. - Tưởng gì chứ "mở cửa" thì dễ quá rồi. Tôi vui vẻ bắt tay Cường ra về, lòng hí hửng như người ta chụp trúng cái đuôi của chân lý. Sau một thời gian tình nguyện mở cửa trái tim, tôi đã chẳng thấy một người đẹp hay xấu nào bước vào mà chỉ có nắng gió, khói xe và bụi bặm bay vào làm tôi ho muốn bể lồng ngực. Tôi lại phải đến "gãi đầu" Cường. Hắn ôm bụng cười chảy nước mắt rồi nói: - Cậu mở cửa trái tim như người ta mở một cái bẫy chuột. Vậy cô nào dám bước vào. Tôi đỏ mặt cãi lại. - Trái tim tôi đã chụp X quang. Bác sĩ nói cũng bình thường như mọi người. Sao cậu dám nói nó giống cái bẫy chuột? - Cần gì phải chụp X quang. Cứ nhìn cậu đối xử với những cô bạn trong lớp là mình rõ. Cậu còn "tự ái" nhiều quá : Nghĩa là còn tự yêu mình nhiều quá nên chẳng còn chút tình yêu nào dành cho người khác. Mà tình yêu phải luôn luôn hướng đến người khác. Nếu chỉ yêu chính mình thì khác chi con rắn tự cắn đuôi nó, làm sao tiến lên được. Cậu đã bao giờ mời một cô bạn gái đi uống nước, nghe ca nhạc, dự sinh nhật của nàng ? Hay cậu chỉ biết giương mắt nhìn người ta rồi ăn uống một mình? Tôi gật đầu nói: - Cậu có lý. Mình sẽ tập "yêu nháp" lại. Nghe lời Cường, ngay buổi chiều hôm đó, sau khi tan học, tôi đã mời mười cô bạn cùng lớp đi uống nước dừa xiêm. Mười cô đều nói cười, trò chuyện vui vẻ với nhau và tôi cũng vui vẻ lây. Chiều hôm sau, mười cô khác. Rồi chiều hôm sau nữa, mười cô khác. Rồi chiều hôm sau nữa, mười cô khác. Vậy là tôi đã làm nhiệm vụ chiêu đãi nước dừa tất cả các cô bạn trong lớp, không bỏ sót một ai. Xong chầu nước dừa, đến chầu hủ tíu Nam vang. Ði coi đại nhạc hội. Rồi gửi quà tặng sinh nhật của mỗi cô... Tôi đã luôn luôn bù đầu lo "hướng đến người khác", như Cường chỉ bảo. Nhưng sao tôi vẫn chưa cảm thấy hương vị ngọt ngào của tình yêu ? Trái lại tôi chỉ cảm thấy xây xẩm mặt mày khi nhìn vào sổ chi tiêu cho đợt tập yêu này, tốn hết 242.150 đồng (chưa kể tiền gửi xe gắn máy). Trời đất ! yêu người khác mà tốn kém dữ như vậy, chắc tôi đành tự yêu tôi cho đỡ tốn hơn. Một hôm thấy mặt mũi tôi ỉu xìu như cái dầu cháo quảy nhúng vô tô nước lèo nguội ngắt, Cường vỗ vai tôi hỏi : - Cậu đã yêu được cô nào chưa? Tôi lắc đầu ngao ngán thở dài. - Yêu mất... nhiều quá. - Cậu sợ mất thì giờ hay mất tự do? - Không. Mất tiền nhiều quá. Mình đã phải bán cái máy cassette nghe nhạc để chi tiêu cho việc "yêu nháp". Tôi móc túi lấy sổ chi tiêu hàng ngày đưa cho Cường coi. Hắn đọc xong rồi bật cười. - Trời ơi ! Làm gì có chuyện tình yêu tập thể. Cậu hãy chọn lấy một cô trong số ba mươi cô trong lớp. Yêu nhiều người cùng một lúc là kể như chưa yêu ai. Ðấy không phải là tình yêu. Ðấy là tình bạn hay tình... đồng bào. Cậu hãy ráng tập yêu một người. Chỉ một người mà thôi. Nghe lời Cường, tôi mở căng mắt quan sát những cô bạn trong lớp để cố tuyển chọn lấy một cô. "Chỉ một cô mà thôi". Cuối cùng tôi đã tự bỏ phiếu chọn Tuyết Sương. Lý do : Sương học hành cũng làng nhàng như tôi, cao cũng bằng tôi, ốm cũng bằng tôi. Nếu hai người tay cầm tay đi dạo phố thì thật xứng đôi vừa lứa, hệt như một đôi "đũa tre xuất khẩu". Nhưng điều quan trọng là nàng cũng có xe gắn máy như tôi. Như vậy xe ai nấy lái, hồn ai nấy giữ. Nếu rủi ro có bị tai nạn xe cộ, không ai có thể đỗ lỗi cho ai. Sau khi mời Sương đi uống cà phê máy lạnh, tôi mời nàng đi ăn miến cua tô đặc biệt rồi mời nàng đi xem phim "Tình là...". Trong rạp chiếu bóng tôi đã mạnh dạn cầm tay nàng rồi hôn lên cánh tay nàng. Và Chúa ơi, thật sung sướng cho tôi, nàng cũng đã mạnh dạn hôn đáp lại lên... đầu tôi. Dù hằng ngày gặp nhau trong lớp, chúng tôi vẫn viết thư tình gửi cho nhau kẹp trong những cuốn sách giả đò cho nhau mượn, vừa bảo đảm đến tay người nhận vừa đỡ tốn tiền mua tem. Cứ như thế tình yêu của tôi kéo dài được 2 tháng 27 ngày rưỡi. Chiều nay, buổi học cuối năm, tôi đã nhận được thư nàng. Tôi nghĩ chắc nàng mời mùng một Tết năm nay, tôi đến xông đất nhà nàng. Rồi chúng tôi cùng đi đến Lăng Ông xem đá gà, đi hội chợ vui xuân thảy vòng vào đầu vịt, đi xem đại hội tấu hài để suốt năm cùng cười... Buổi tối về nhà, cơm nước xong, tôi vào phòng đóng kín cửa lại, hút một điếu thuốc thơm rồi chậm rãi mở thư nàng ra đọc. Anh Biền thân mến, Cám ơn anh rất nhiều trong ba tháng Sương tập yêu. Nhờ vậy Sương tìm đưọc người yêu đích thực của mình, 28 Tết này, gia đình anh ấy sẽ đến làm lễ dạm ngõ nhà Sương và đến hè sang năm sẽ làm đám hỏi. Vậy Tết này Sương đã là một người khác, không thể đi chơi vui Xuân với anh được. Mong anh thông cảm. Một lần nữa xin thành thật cám ơn anh đã giúp Sương biết tình yêu đích thực là gì ? Sương mong khi đám cưới của Sương sẽ không vắng mặt anh. Thân chào anh SƯƠNG Trời đất ! Không ngờ tôi đã vô tình giúp nàng hoàn tất xuất sắc giai đoạn "yêu nháp". Còn tôi đến bao giờ mới chấm dứt giai đoạn hắc ám đó đây ? Hay suốt đời, tôi chỉ là một kẻ tập yêu? Như vậy mùng một Tết năm nay tôi sẽ đi đâu? Chắc các bạn nghĩ tôi là người cao thượng, tôi sẽ đến nhà Sương chúc mừng hạnh phúc của nàng. Không đâu. Tôi chỉ cao có 1m50. Tôi chẳng dại gì bắt chước người cao 1m80, với đến những gì ở tầm cao trên 2 mét, để rồi té ngã gây chân càng lùn thêm. Mùng một Tết năm nay, tôi sẽ đi... vào sở thú. Tôi sẽ nhờ một người thợ chụp hình màu tôi đang đứng bắt tay chúc mừng năm mới một chú cù lần. Bạn đừng nghĩ bị thất tình rồi tôi đâm ra bi quan. Không đâu. Tôi đang rất lạc quan yêu đời. Không có tình yêu thì tôi cũng có "tình anh em ruột thịt". Tôi đâu đã cô đơn như một số người khác mà bạn phải chia buồn. [/FONT]
Ăn mày cũng cần phải có tri thức (Chuyện đùa như thật) Sưu tầm Tôi xách túi đồ nhãn hiệu Levi's ra khỏi Plaza rồi đứng lại ở cửa chờ bạn. Một tay ăn mày phát hiện ra tôi, sán tới đứng trước mặt. Câu chuyện của tôi chỉ có thế thôi, thế nhưng tay ăn mày đã dạy tôi một bài học kinh tế còn sâu sắc hơn một khoá học tại chức kinh tế ở trường. - Xin anh... cho tôi ít tiền đi! - Tôi đứng đó chả có việc gì nên tiện tay vứt cho hắn đồng tiền xu, rồi bắt chuyện cùng nhau. Ăn mày rất thích kể lể. - Tôi chỉ ăn mày quanh khu mua sắm này thôi, anh biết không? Tôi chỉ liếc một phát là thấy anh ngay. Đi mua Levi's ở Plaza chắc chắn nhiều tiền... - Hả? Ông cũng hiểu đời phết nhỉ! - Tôi ngạc nhiên. - Làm ăn mày, cũng phải ăn mày cho nó có khoa học. - Ông ta bắt đầu mở máy. Tôi ngẫm nghĩ một lát, thấy thú vị bèn hỏi: - Thế nào là ăn mày một cách khoa học? Tôi nhìn kỹ ông ta, đầu tóc rối bù, quần áo rách nát, tay gầy giơ xương, nhưng lại sạch sẽ. Ông ta giảng giải: - Ai chẳng sợ và ghét ăn mày, nhưng tôi tin anh không ghét tôi, tôi đoan chắc điều đó. Đấy là điểm tôi khác biệt với những thằng ăn mày khác. Tôi gật đầu đồng ý, đúng là tôi không ghét ông ta, nên tôi đang nói chuyện với ông ta đấy thôi. - Tôi biết phân tích SWOT, những ưu thế, bất lợi, những cơ hội và nguy cơ. Đối mặt với những thằng ăn mày là đối thủ cạnh tranh của tôi, ưu thế (Strengths) của tôi là tôi không làm người ta phản cảm, lánh sợ. Cơ hội (Opportunities) và nguy cơ (Threats) thì chỉ là những yếu tố điều kiện bên ngoài thuộc về hoàn cảnh, có thể là dân số ở đây đông hay vắng, thành phố có quyết định chỉnh trang đô thị, dẹp hè phố chăng... - ...??? - Tôi đã từng tính toán rất cụ tỉ (cụ thể và tỉ mỉ) rằng, khu vực thương mại này người qua lại đông, mỗi ngày khoảng mười nghìn người, nghèo thì nhiều lắm, nhưng người giàu còn nhiều hơn. Trên phương diện lý luận thì giả như mỗi ngày tôi xin được mỗi người một đồng xu một nghìn đồng, thì mỗi tháng thu nhập của tôi đã được ba trăm triệu đồng. Nhưng thực tế thì đâu phải ai cũng cho ăn mày tiền, mà một ngày làm sao tôi đi xin được mười nghìn lượt người. Vì thế, tôi phải phân tích, ai là khách hàng mục tiêu của tôi, đâu là khách hàng tiềm năng của tôi. Ông ta lấy giọng nói tiếp: - Ở khu Plaza này thì khách hàng mục tiêu của tôi chiếm khoảng 30% số lượng người mua sắm, tỉ lệ thành công khoảng 70%. Lượng khách hàng tiềm năng chiếm khoảng 20%, tỉ lệ thành công trên đối tượng này khoảng 50%. Còn lại 50% số người, tôi chọn cách là bỏ qua họ, bởi tôi không có đủ thời gian để tìm vận may của mình với họ, tức là xin tiền họ. - Thế ông định nghĩa thế nào về khách hàng của ông? - Tôi căn vặn. - Trước tiên, khách hàng mục tiêu nhé. Thì những nam thanh niên trẻ như anh đấy, có thu nhập, nên tiêu tiền không lưỡng lự. Ngoài ra các đôi tình nhân cũng nằm trong đối tượng khách hàng mục tiêu của tôi, họ không thể mất mặt trước bạn khác phái, vì thế đành phải ra tay hào phóng. Rồi tôi chọn các cô gái xinh đẹp đi một mình là khách hàng tiềm năng, bởi họ rất sợ bị lẽo đẽo theo, chắc chắn họ chọn cách bỏ tiền ra cho rảnh nợ. Hai đối tượng này đều thuộc tầm tuổi 20-30. Nếu tuổi khách hàng nhỏ quá, họ không có thu nhập, mà tuổi già hơn, thì họ có thể đã có gia đình, tiền bạc bị vợ cầm hết rồi. Những ông chồng đó biết đâu có khi đang âm thầm tiếc hận rằng không thể ngửa tay ra xin tiền của tôi ấy chứ! - Thế thì mỗi ngày ông xin được bao nhiêu tiền? - Thứ hai đến thứ sáu, sẽ kém một chút, khoảng hai trăm nghìn. Cuối tuần thậm chí có thể 4-500 nghìn. - Hả? Nhiều vậy sao? Thấy tôi nghi ngờ, ông ta tính cho tôi thấy: - Tôi cũng khác gì anh, tôi cũng làm việc tám giờ vàng ngọc. Buổi sáng từ 11h đến tối 7h, cuối tuần vẫn đi làm như thường. Mỗi lần ăn mày một người tôi mất khoảng 5 giây, trừ đi thời gian tôi đi lại, di chuyển giữa các mục tiêu, thường một phút tôi xin được một lần được một đồng xu 1 nghìn, 8 tiếng tôi xin được 480 đồng một nghìn, rồi tính với tỉ lệ thành công 60% [(70%+50%)÷2] thì tôi được khoảng 300 nghìn. Chiến lược ăn mày của tôi là dứt khoát không đeo bám khách chạy dọc phố. Nếu xin mà họ không cho, tôi dứt khoát không bám theo họ. Bởi nếu họ cho tiền thì đã cho ngay rồi, nếu họ cho vì bị đeo bám lâu, thì tỉ lệ thành công cũng nhỏ. Tôi không thể mang thời gian ăn mày có giới hạn của tôi để đi lãng phí trên những người khách này, trong khi tôi có thể xoay ngay sang mục tiêu bên cạnh. Trời, tay ăn mày này có đầu óc quá đi, phân tích như thể giám đốc kinh doanh hoặc giám đốc tiếp thị vậy. - Ông nói tiếp đi! - Tôi hào hứng. - Có người bảo ăn mày có số may hay xui, tôi không nghĩ thế. Lấy ví dụ cho anh nhé, nếu có một thanh niên đẹp trai và một phụ nữ xinh đẹp đứng trước cửa shop đồ lót mỹ phẩm, thì anh sẽ chọn ai để ăn mày? Tôi ngẫm nghĩ rồi bảo, tôi không biết. - Anh nên đi đến xin tiền anh thanh niên kia. Vì đứng bên anh ta là một phụ nữ đẹp, anh ta chẳng lẽ lại không cho ăn mày tiền. Nhưng nếu anh đi xin cô gái đẹp, cô ta sẽ giả vờ là ghê sợ anh rồi lánh xa anh. Thôi cho anh một ví dụ nữa: Hôm nọ đứng ở cửa siêu thị BigC có một cô gái trẻ tay cầm túi đồ vừa mua từ siêu thị, một đôi nam nữ yêu nhau đang đứng ăn kem, và một anh chàng đóng bộ công chức chỉnh tề, tay xách túi đựng máy tính xách tay. Tôi chỉ nhìn họ ba giây, sẽ không ngần ngừ bước thẳng tới mặt cô gái trẻ xin tiền, cô gái cho tôi hẳn hai đồng xu, nhưng ngạc nhiên hỏi tôi tại sao chỉ xin tiền có mỗi cô ta. Tôi trả lời rằng, cái đôi tình nhân kia đang ăn, họ không tiện rút ví ra cho tiền, anh kia trông có vẻ lắm tiền, trông như sếp nhưng vì thế trên người họ thường không có sẵn tiền lẻ. Còn cô vừa mua sắm ở siêu thị ra, cô tất còn ít tiền thừa, tiền lẻ. Chí lý, tôi càng nghe tay ăn mày nói càng tỉnh cả người ra. - Cho nên tôi bảo rồi, tri thức quyết định tất cả! Tôi nghe sếp tôi nói bao lần câu này, nhưng đây là lần đầu tôi nghe một thằng ăn mày nói câu này. - Ăn mày cũng phải mang tri thức ra mà ăn mày. Chứ ngày ngày nằm ệch ra ở xó chợ, cầu thang lên đường vượt giao lộ, xin ai cho được tiền? Những người đi qua giao lộ, chạy qua cổng chợ đều vội vàng hoặc cồng kềnh, ai ra đấy mà chơi bao giờ, ra đấy xin chỉ mệt người. Phải trang bị tri thức cho chính mình, học kiến thức mới làm người ta thông minh lên, những người thông minh sẽ không bao giờ ngừng học hỏi kiến thức mới. Thế kỷ 21 rồi, bây giờ người ta cần gì, có phải là cần nhân tài không? Có lần, có một người cho tôi hẳn 50 nghìn, nhờ tôi đứng dưới cửa sổ gào: "Hồng ơi, anh yêu em", gào 100 lần. Tôi tính ra gọi một tiếng mất 5 giây, thời gian cũng tương tự như tôi đi ăn mày một lần, nhưng lợi nhuận đạt được chỉ 500 đồng, còn kém đi ăn mày, thế là tôi từ chối. Ở đây, nói c hung một tay ăn mày một tháng có thể đi xin được một nghìn hoặc tám trăm lần. Người nào may mắn thì cùng lắm đi xin được khoảng hai nghìn lần. Dân số ở đây khoảng ba triệu, ăn mày độ chục anh, tức là tôi cứ khoảng mười nghìn người dân mới ăn mày một người. Như thế thu nhập của tôi ổn định, về cơ bản là cho dù kinh tế thế giới đi lên hay đi xuống, tình hình xin tiền của tôi vẫn ổn định, không biến động nhiều. Trời, tôi phục tay ăn mày này quá! - Tôi thường nói tôi là một thằng ăn mày vui vẻ. Những thằng ăn mày khác thường vui vì xin được nhiều tiền. Tôi thường bảo chúng nó là, chúng mày nhầm rồi. Vì vui vẻ thì mới xin được nhiều tiền chứ. Quá chuẩn! - Ăn mày là nghề nghiệp của tôi, phải hiểu được niềm vui do công việc của mình mang lại. Lúc trời mưa ít người ra phố, những thằng ăn mày khác đều ủ rũ oán trách hoặc ngủ. Đừng nên như thế, hãy tranh thủ mà cảm nhận vẻ đẹp của thành phố. Tối về tôi dắt vợ và con đi chơi ngắm trời đêm, nhà ba người nói cười vui vẻ, có lúc đi đường gặp đồng nghiệp, tôi có khi cũng vứt cho họ một đồng xu, để thấy họ vui vẻ đi, nhìn họ như nhìn thấy chính mình. - Ối ông cũng có vợ con? - Vợ tôi ở nhà làm bà nội trợ, con tôi đi học. Tôi vay tiền ngân hàng mua một căn nhà nhỏ ở ngoại thành, trả nợ dần trong mười năm, vẫn còn sáu năm nữa mới trả hết. Tôi phải nỗ lực kiếm tiền, con tôi còn phải học lên đại học, tôi sẽ cho nó học Quản trị kinh doanh, Marketing, để con tôi có thể trở thành một thằng ăn mày xuất sắc hơn bố nó. Tôi buột miệng: - Ông ơi, ông có thu nhận tôi làm đệ tử không?
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tình yêu & hai màu Trắng - Đen[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tuyết Tri[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi chỉ là một con bé, không hơn không kém. Ở tuổi mười bảy, sống rất ngây ngô. Tôi lại càng bé nhỏ hơn bên cạnh anh - một sinh viên năm thứ năm đại học Y khoa. Anh là anh họ của nhỏ bạn rất thân với tôi. Qua những lần trò chuyện với anh, càng ngày tôi càng mến anh hơn. Anh là một thanh niên đứng đắn, học giỏi, nói năng khéo léo tính tình lại vui vẻ, vì thế tôi - một con bé ngây ngô - chẳng được anh xem như một người bạn gái. Tôi không hiểu vì tình yêu hay vì hiếu thắng mà lúc đó tôi quyết lòng chinh phục trái tim anh. Chúng tôi vẫn gặp nhau. Thỉnh thoảng anh chỉ hai đứa tôi một bài toán khó, một câu Anh văn hay kể những câu chuyện mới lạ, lắm lúc lại bàn đến chuyện đời. Thời gian đó tôi sống bằng sự ngây thơ, hồn nhiên mà giả dối bằng những sự trùng hợp do tôi tự tạo ra. Có lần anh bảo anh rất thích màu trắng và màu đen, bởi nó rõ ràng không lẫn lộn với màu nào, rất thật. Lúc đó, tôi vờ tròn mắt ngây thơ nói: "Ơ, ai cho anh bắt chước em!" (nhưng màu tôi thích nhất là màu vàng). Rất nhiều, rất nhiều những lần những lúc cùng sự đốc thúc của nhỏ bạn, cuối cùng tôi đạt được kết quả như mong muốn. Năm cuối lớp mười một, tôi đã nghe anh nói điều chờ đợi. Lúc ấy, lòng tôi tràn ngập niềm vui của kẻ chiến thắng! Tình yêu anh dành trọn cho tôi thật đằm thắm, nhưng tôi vẫn sống trong tình anh với sự giả dối . Mỗi lời tôi nói với anh đều suy tính trước. Hết mùa hè, hai đứa tôi ít gặp nhau hơn vì đều lo cho năm cuối . Những dòng thư anh viết vội, vẫn đều đặn gửi đến cho tôi, khuyên tôi cố gắng học, giữ gìn sức khỏẹ... Trong khi đó, tôi vùi đầu vào học, hình như quên mất mọi thứ, quên cả anh, cả chuyện tình đùa cợt của mình. Ngày tôi tốt nghiệp, anh đến tận trường đón tôi nhưng bỗng nhiên anh không nói một lời nào. Hai đứa dắt xe đi bộ dọc theo con đường dài đầy xác phượng đỏ rực. Chợt anh đứng lại nhìn tôi nói nhỏ: "Mình chia tay nhé!". Tôi ngơ ngác như từ cung trăng rớt xuống. Nhìn anh tôi biết anh đang nói rất nghiêm chỉnh. Tôi bỗng thấy hoảng sợ: "Em đã làm gì sai ...?". Anh lắc đầu: "Em không sai nhưng chỉ vì tình yêu không chấp nhận được sự giả dối". Anh bước đi. Tôi đứng lại trông theo bóng anh xa dần và tôi khóc - khóc những giọt nước mắt thật sự cho tình yêu. Sau đó, tôi mới biết được là anh đã vô tình đọc quyển nhật ký của tôi (trao cho nhỏ em anh đọc) trong đó đầy đủ cả các "chiến thuật" nhưng, thiếu một câu mà tôi chưa kịp ghi: "Tôi yêu anh thật sự". Giờ đây, bạn biết không, khi tôi rất thích hai màu trắng - đen thì anh đã mang tình yêu của tôi đi xa, xa vĩnh viễn! Vâng, anh nói đúng, làm sao một tình yêu chân thật có thể chấp nhận được sự giả dối.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hoa cho người sống[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trung Trung Ðỉnh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi là kẻ quét rác, xén cỏ trong công viên. cái nghề ít ai để ý, chỉ có tự tôi hay để ý mình. Người ta gọi đó là mặc cảm, chẳng biết có đúng không? Nơi tôi làm, đã thành nếp, sáng sớm các cụ vô tập thể dục. Khi các cụ về thì khách thập phương tới. Trưa, họ kéo nhau đi ăn và chiều, lại các cụ và các cháu nhỏ. Mãi tới tối thanh niên mới vào! Cái chu kỳ, chỉ bị phá vỡ vào dịp Tết hoặc ngày chủ nhật. Thỉnh thoảng cũng có ngoại lệ, ấy là vào giờ nghĩ trưa, các cặp tình nhân đến đây, hú hí vài giờ, rồi lặng lẽ rút. Ðôi khi có một bố già xấu tính, kiếm đâu được cô bồ nhí, đú đởn trong lùm cây, hoặc có gã choai choai ôm eo mụ nạ dòng mập ú. Những ngoại lệ ấy tôi nhổ nước miếng, bỏ qua. Nhưng có một trường hợp khiến tôi day dứt mãi, đó là bà lão, nhìn vẻ ngoài chẳng có gì đặc biệt. Bà xách cái giỏ nhựa, ngày ngày tới ngồi trên ghế đá lặng lẽ têm trầu với cái vẻ lơ đễnh cuả người vô cảm, không ra buồn cũng chẳng ra nhàn hạ. Dáng bà thanh mảnh, nhưng không phải cái thanh mảnh cuả người thành phố. Nghĩa là hơi thô và cứng. Cái cách bà ngồi đó, không ra người giàu, cũng chẳng thể nói bà nghèo. Ðôi lúc bà cũng đi dạo, nhưng những bước chân tự chúng đưa bà đi đâu đó, chứ quyết không phải bà chủ định tới cái đích nào. Rồi bà ngồi thẩn nhìn vào khoảng không. Tôi đã từng mon men tới gần quét dọn, hy vọng được bà bắt chuyện, nhưng bà lảng sang chỗ khác ngay. Cái ghế đá ấy, cả năm nay, chỉ dành riêng cho bà. Khi bà về, không còn dấu vết gì, kể cả bã trầu. Bẵng đi hàng tháng không thấy bà tới, lòng tôi bồn chồn lo ngạị chỉ sợ bà đau ốm thì khổ lắm. Nhưng bà lại xuất hiện. Sự xuất hiện cuả bà làm tôi mừng rỡ. Mặc dù nom bà có vẻ gầy hơn, xa vắng hơn. Bà vẫn mặc bộ đồ lụa thẫm giản dị với búi tóc bạc, khoác hờ chiếc khăn nhung mỏng màu đen và vẫn xách giỏ nhựa, âm thầm như cái bóng. Một lần. Hai lần... Bà đến rồi đi, tựa hồ có sự phân định nhịp nhàng giống như công việc đơn điệu cuả tôi, tháng tháng lãnh lương, ngày ngày cặm cụi, riết rồi thành quen, thành ra yên phận. Nói là nói thế, những lúc đẩy cái máy xén cỏ rù rì, tôi cũng hay rù rì nghĩ ngợi, rằng chẳng biết thế nào nhỉ? Con người ta có số phận thật. Bà lão ấy ngày ngày ra công viên, chơi một mình, về một mình, chắc hẳn đời sống thanh nhàn lắm? Mà biết đâu chẳng phải thanh nhàn? Tôi từ tấm bé lận đận, ba má mất sớm, học hành bỏ dở, chỉ biết lo kiếm sống, xin được việc làm ở đây, rồi lấy chồng, sanh con, được cái chồng hiền, con ngoan thế là mãn nguyện lắm. Có lẽ vì thế tôi ít ước mơ, ít nghĩ ngợi. Hễ thấy ai nghĩ ngợi là tôi lo, tôi sợ, mặc dù chẳng biết lo cái gì và sợ cái gì. Sự hiện diện cuả bà lão khiến tôi bối rối. Thương chẳng phải thương. Hình như tôi bị ám ảnh. Sáng ra làm việc, đã thấy bà lão ngồi đó nhai trầu. Tôi thầm theo dõi bà. Bà nhai trầu cho có cái để nhai, rồi lẩn thẩn lục lọi trong giỏ, sau đó ngồi im phắc. Trưa, bà lủi thủi xách giỏ về. Chiều bà lại tới, sự lặp đi lặp lại ấy dai dẳng đến nỗi tôi không chịu nổi. Một hôm tôi quyết định theo bà, khi cơn dông chiều ập xuống. Bà lập cập xách giỏ , lập cập bước, lập cập cuối chào ông gác cổng rồi men theo lề đường, tới góc phố có ngôi biệt thự, bà dừng bước, mở khoá lách vô. Tôi chưng hửng quay lại, chợt thấy có tiếng ô tô con, kiếng màu, cũng rẽ vào ngôi biệt thự. Tôi cảm thấy vô duyên cho nổi day dứt bấy nay cuả mình. Ngôi biệt thự ấy ngày nào tôi chả đi qua, bốn bề kín cổng cao tường, hoa ti gôn nở rộ, um tùm. Các cánh cửa sổ trên tầng lầu đóng im ỉm, như thể nó đã đóng từ thời xa lắm rồi. Rõ ràng đây không phải là nhà cũa dân thường! Nhà dân thường chẳng ai, cửa đóng kín thời kinh tế mặt tiền. Thế nhưng, từ hôm phát hiện ra bí mật ấy, không hiểu vì sao chẳng thấy bà lão ra công viên nữa. Ngôi biệt thự vẫn đóng kín, có cả xe ca và xe tải, chiếc nào cũng ngờm ngợp vòng hoa. Từng đoàn người trang trọng nối đuôi vào viếng. Tấm hình bà lão dán trên góc, bảng cáo phó trước cổng ngôi biệt thự, báo tôi biết bà không còn nữa. Tự dưng tôi cảm thấy bơ vơ. Ông già gác cổng đứng nhìn sang đám tang, chép miệng: - Tội nghiệp bà lão, chết không được một tiếng khóc! - Hoa nhiều quá, chắc bả làm gì to lắm? Tôi nói. Ông già nhìn tôi vẻ thương hại: - Con bả làm chức to. Hoa cho người sống đấy cháu ạ! Tôi quay người, lau đi nước mắt...[/FONT]
Gió thoảng...! Ngày lại ngày nối tiếp đi qua... Nhiều lúc ta tự hỏi: Mình đến thế gian này có phải là một trò chơi của tạo hóa? Cho đến trước lúc gặp em, ta vẫn chẳng hiểu tại sao mình lại có mặt trong cuộc đời này... Những buồn vui đan xen nhưng ta chưa hiểu thế nào là tình yêu, và ta chẳng hề tin tình yêu có thật... Ta cứ vô tư rong chơi giữa cuộc đời với những buồn vui thoảng qua như cơn gió. Cuộc sống luôn ồn ã như buổi chợ đông người. Những người đã gặp , từng gặp rồi sẽ quên... Chẳng có quá nhều kí ức. Bạn bè bảo ta là kẻ lãng tử vô tình... Và rồi ta gặp em. Đúng là trò chơi của tạo hóa. Ta đã không hề coi trọng tình cảm bao người giành cho ta, và em lại coi ta như vậy. Ta muốn quên em mà không thể. Cuộc sống của ta đã thay đổi. Ta chẳng thể là cơn gió bay vô tư trên cánh đồng làng hay khắp phố đông. Ta chỉ muốn là đám cỏ xanh non em ngả lưng ngày hè nóng bức hay là ánh bình minh em ngắm mỗi sáng trên biển... Thế nhưng em chưa bao giờ coi ta hiện hữu. Ta chẳng hiểu tại sao nhưng em chưa hề nhìn ta bằng một ánh mắt có cảm xúc, chưa hề trả lời bất cứ câu hỏi nào của ta... Ta nhận ra mình đã yêu và tình yêu là có thật. Và ta đã đau khi biết yêu em..
Truyện Rất Ngắn: Cái bóng Ông luôn phàn nàn về cuộc hôn nhân sắp đặt sẵn mà gia đình dành cho mình. Ông chê bà ít học, chẳng tương xứng với sự lịch lãm của ông. Mọi việc ông thường tự quyết, chẳng coi bà vào đâu. Bà tồn tại bên ông như cái bóng lặng lẽ trong cuộc sống chung có nhiều thăng trầm. Một ngày, bà nhẹ bỏ ông sau một cơn bạo bệnh. Ông ra vào ngẩn ngơ như thể đang kiếm tìm. Nhà thiếu bà, ông mới thấy rõ những khỏang trống. Ông nhận ra sự lịch lãm cũng chẳng tạo nên được một gia đình nếu thiếu đi sự hy sinh.
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hoa bất tử có thật [/FONT]Khôi Vũ Gia đình tôi ở trong số những gia đình phải tha hương, lìa bỏ làng mạc tổ tiên, họ hàng xóm giềng và nếp sống quen thuộc nhiều năm mà đi xa. Riêng cha tôi thì trước khi gặp lại mẹ tôi, đã có một số năm phải bôn ba khắp xứ Đông Dương cũ, rồi lưu lạc qua Trung Quốc, rồi trôi dạt vào đất Nam Bộ, sống chết, no đói trông cậy vào bàn tay và số phần. Mãi tới khi tôi lên sáu, gia đình tôi mới có một mái nhà riêng, cha mẹ tôi mới có một nghề nghiệp ổn định. Đó cũng là năm tôi bắt đầu đi học. Cha mẹ tôi thường kể cho anh em tôi nghe những câu chuyện về làng quê cũ của ông bà. Đó là những câu chuyện rời rạc về đất, về người, về sinh hoạt của một vùng quê xa xôi được kể đi kể lại nhiều lần. Kể trong bữa cơm, Kể vào một đêm trăng, vào một ngày giỗ, Tết hoặc vào một lúc nào đó bất kỳ mà một việc gì, một chuyện gì đột nhiên gợi nhớ. Lâu ngày, những mẩu rời rạc ấy in vào trí nhớ tôi, vừa tự chắp nối lại và không biết tự bao giờ đã hình thành trong tôi một cái làng quê quen thuộc mà tôi chưa từng trông thấy. Đó là một cái làng nhỏ nằm ven sông Luộc, một dòng sông nhánh của sông Hồng, ẩn sau hai con đê trong, ngoài chắn lụt. Ở đó, người ta làm ruộng, trồng cây ăn trái, trỉa bắp, đậu, trồng khoai, nuôi cá trong ao nhà và đặc biệt là trồng đay, mua cói từ một huyện biển cùng tỉnh về dệt chiếu. Khu nhà ở của ông bà nội tôi vốn là một khu ruộng được các bậc tiền bối vượt đất lên thành thổ cư, chung quanh có ao cá và vài chục gốc nhãn lấy giống từ xứ nhãn Hưng Yên nổi tiếng bên kia sông về trồng. Đất đai nhà cửa của ông bà ngoại tôi thì ở sâu hơn tận cuối làng. Giống như bao người làng khác, những người đàn ông, đàn bà, trẻ con có hiểu biết và sức lực đến mức nào đó, đều phải tham gia vào một công đoạn của nghề dệt chiếu truyền thống. Làng tôi nổi tiếng là một làng chiếu từ bao đời, nghe nói ngày xưa đã từng được làm chiếu cho vua chúa. Ngày nay, khắp một vùng châu thổ sông Hồng, chiếu đơn, chiếu đậu của làng tôi vẫn có mặt, tung hoành ngang dọc trên thị trường. Tuy nhiên, chính cái nghề tuuyền thống này lại đã làm cho nhiều người đàn ông không thể nào đạt tới chiều cao trung bình vì từ nhỏ đã phải cực khổ vác cói, vác đay oằn nặng đôi vai. Ở đó cũng có nhiều người, cả đàn ông lẫn đàn bà, tuổi mới ngoài năm mươi mà lưng đã còng, tưởng chừng thân hình có thể gập đôi lại, vì trải qua mấy mươi năm ngồi bên go chiếu. Cả làng thờ ông quan trạng đã truyền dạy nghề chiếu trong một ngôi đình cổ kính. Người ta kể truyền khẩu nhiều chuyện về ông trạng ấy. Chẳng hạn chuyện khi ông đi sứ Trung Quốc lần đầu, đã quan sát được dụng cụ dệt chiếu nhưng còn quên một bộ phận nào đó. Tới lần đi sứ thứ nhì, ông bèn ngỏ ý thèm ăn rau muống, rồi khi gắp, ông cố ý gắp một cọng rau dài để có thể ngửa cổ, bề ngoài là ăn rau một cách dung tục, kỳ thực là để có thể nhìn cái bộ phận dệt chiếu mà chủ nhà treo trên sà nhà để giấu nghề. Những chuyện truyền khẩu khác cũng chẳng thiếu. Như chuyện người đàn bà nọ ở làng bên, mấy lần sinh con trai đều không nuôi được bèn lấy đất sét gắn vào mí mắt xác đứa trẻ sau cùng trước khi chôn, ít lâu sau ở làng này có người sinh được đứa con trai nơi mí mắt có một vết chàm đỏ như đất sét. Người ta gọi đó là chuyện lộn con... Có lần tôi hỏi cha tôi: - Làng quê mình chắc phải đẹp lắm phải không cha? Chắc phải vui lắm phải không cha? Cha tôi đang vui chợt buồn. Giọng ông trầm hẳn đi và cũng chậm rãi hẳn đi như đang cố nén một tình cảm không bình thường: - Không đâu con ạ. Làng quê mình chẳng có gì đẹp đẽ như con tưởng, mà lại có nhiều chuyện buồn hơn chuyện vui nữa kìa... - Thế tại sao mỗi khi kể chuyện làng quê, con thấy cả cha lẫn mẹ đều hào hứng, vui vẻ hẳn lên? Cha tôi mỉm cười, giọng ông vẫn trầm và chậm: - Đó là vì cha mẹ phải sống xa làng quê nên lòng canh cánh nhớ. Sự nhớ nhung làm cho người ta thấy mọi kỷ niệm cũ đều trở thành đẹp đẽ cả. Ngày ấy, tôi chưa hiểu hết ý nghĩa câu trả lời của cha tôi, chưa thể hiểu thế nào là mãnh lực kỳ diệu của tình yêu quê hương, làng xóm... Nhưng từ ngày ấy, tôi bắt đầu để ý hơn đến nơi mình đang sống, một xóm ngoại ô tỉnh lỵ miền Đông. Những hình ảnh nơi đây dần khắc đậm nét trong tâm trí tôi. Đó là con đường xuyên qua xóm tuy là quốc lộ nhưng bề ngang chỉ có tám mét, dài không quá hai cây số mà có đến những hai khúc quanh, cứ như là một con người hiếu động phải cựa mình qua lại mới thỏa lòng. Đó là những ngôi nhà lợp tôn, lợp ngói xây dựng trên nền đất của một khu rừng cao su cũ hoặc trên ruộng lúa được đổ đất núi lên cao bằng mặt đường. Những năm chưa có điện, đêm đêm những ngọn đèn dầu mờ tỏ cùng ánh trăng, ánh sao, tiếng máy thu thanh chạy pin hay bình ắc quy lẫn với tiếng trẻ con nô đùa, tiếng cãi vã; đôi khi là tiếng ếch nhái, tiếng dế rích đêm mưa. Đó là những gánh hàng rong nào bún riêu cua, tàu hũ... mà người bán là những phụ nữ nghèo có tiếng rao lanh lảnh lại đượm buồn. Sáng sáng, người đưa báo dừng xe đạp trước cửa nhà khách mua báo tháng, trao tận tay một hai tờ nhật báo hoặc ném vào sân nhà vắng chủ. Còn ông bán bánh mì thì cong lưng đạp chiếc xe đạp nơi yên sau khoác cái thùng tôn gò hình chữ U ngược đựng bánh mì nóng, xíu mại, giò chả, đồ chua, xì dầu, muối tiêu cùng những mẩu giấy báo rọc nhỏ xíu bằng lòng bàn tay... Và cứ thế, ngày qua ngày, tháng tiếp tháng, năm nối năm, những hình ảnh của cái xóm nhỏ tôi sống và lớn lên dần dần in đậm nét vào trí nhớ tôi. Dẫu sau này tôi từng có dịp đi nhiều nơi khác trên đất nước, thấy mỗi nơi đều có nét đẹp quyến rũ, nhưng cái xóm nhỏ của mình vẫn rất riêng không gì thay thế được. Nó đã trở thành một phần đời tôi. Tuổi già dần chồng chất lên cuộc đời gian khổ của cha mẹ tôi. Nhưng mỗi khi nhắc đến cái làng quê bên dòng sông Luộc với những người dệt chiếu, nhắc đến những đổi thay của cái xóm nhỏ gia đình tôi đã ở mấy mươi năm, tôi vẫn thấy ông bà đầy hào hứng và quyến luyến. Cha tôi không nói với tôi như ngày tôi còn nhỏ mà ông nói cô đọng hơn: - Đó là quê hương! * Gia phả: Viễn An Phủ quân là cháu của Lại Phong hầu ở kinh thành Thăng Long, một hôm gặp Từ Hạnh, cô gái làng chiếu lên kinh thành bán chiếu. Nhan sắc và sự đoan trang của Từ Hạnh làm lòng Viễn An xao xuyến. Chàng nhờ người thư tín mai mối. Từ Hạnh nhắn đáp: "Tôi còn song thân tại quê nhà, lại tha thiết yêu quê cha đất tổ. Nếu chàng có lòng thương, xin mới về bổn quán cùng chung sống, tôi mới dám nhận lời". Viễn An nghe theo tiếng gọi trái tim, trình thưa với Lại Phong hầu và được phép đem lễ vật về làng chiếu cầu hôn. Từ đó, Viễn An trở thành người làng chiếu, giã biệt chốn kinh thành hoa lệ, chẳng màng công danh chức tước, xe ngựa xênh xang. Viễn An sống đạm bạc, làm việc như bao người làng chiếu, lại đem chữ thánh hiền giảng dạy cho lũ trẻ. Bài "Gia huấn" của Viễn An được truyền lại mười mấy đời sau mà những người đàn ông nối dòng đều tiếp nhận như một hành trang cơ bản trước khi vào đời: Trung hiếu một lòng Thanh liêm phải giữ Kinh sử làu thông Phụng thờ tiên tổ Chân thành đôi chữ Chung thủy nhất tâm ... Cha tôi, một trong những người đàn ông đời thứ mười hai, ngoài bài "Gia huấn" hành trang ấy, còn được học hết bậc sơ học thời Pháp thuộc làm lưng vốn vào đời. Cái lưng vốn ấy trong hoàn cảnh một làng quê nghèo nàn xa vắng đã là một gia tài bảo đảm vị trí trên trước so với nhiều người, nhưng nó lại chẳng thấm vào đâu khi chìm trong xã hội đô thị đã tiếp nhận văn minh phương Tây, chỉ vài năm lại có những đổi thay kỳ diệu về khoa học kỹ thuật. Con chim mang chí lớn rời bỏ cái tổ nhỏ của mình, mong ngang dọc đất trời, đã không lường được sức mạnh đôi cánh mình lại quá nhỏ bé, mỏng manh trước khoảng trời nhiều mưa bão. Bi kịch ấy là cuộc đời của cha tôi, dẫu đôi khi ông không giấu sự tự hào là mình vẫn tồn tại hiên ngang, nhưng làm sao chẳng ngậm ngùi và nung nấu ngày phục chí. Ông ngầm rèn luyện cho tôi những gì ông tự thấy một loài chim cần phải có để được gọi là đại bàng. Cha tôi không thể trợ lực cho tôi trong việc học chữ. Biết thế nên ông quan tâm nhiều đến việc giáo dục đạo đức cho tôi. Ở trong trường, tôi cũng như bao đứa học trò nhỏ khác từng thuộc vanh vách, hiểu cặn kẽ từng chữ, từng ý của những câu cách ngôn dạy điều hay lẽ phải. Cha tôi chỉ làm sao cho mớ lý thuyết ấy không còn khô cứng nữa. Ông lấy những diễn biến trong cuộc sống làm cho chúng sống động hẳn như con bướm từ trong trang sách chấp chới cánh bay ra khoảng không, như cánh hoa từ tấm ảnh thoát ra lay động và tỏa hương... Một ngày gần tết năm ấy, tôi xin phép cha mẹ vào rừng chặt mai vàng cùng mấy đứa bạn. Khu rừng không xa nhà tôi lắm, chỉ chừng ba cây số, nên cha tôi không phải lo lắng. Ông chỉ hỏi: - Chừng nào thì con về? Tôi đáp chắc mịch: - Tụi con chỉ đi chừng hai tiếng đồng hồ thôi. Thế nào khoảng mười giờ, mười rưỡi con cũng về tới nhà thôi. Chúng tôi đi. Đường không xa lắm, cũng không đến nỗi khó đi. Bạn bè tôi nhiều đứa đã biết khu vực có mai, cả bọn cứ đạp xe một mạch tới nơi. Thật là cả một rừng mai! Những gốc mai rừng to bằng bắp chân tôi, nhiều gốc bị chặt gần sát đất mà vẫn đâm lên những nhánh mới mập mạnh, tươi xanh. Tất cả đều chi chít những búp nụ. Những cái búp nụ nhòn nhọn, nhỏ như hạt đậu xanh ấy chẳng bao lâu sẽ bung ra mỗi búp dăm nụ mai xanh mởn. Có lẽ vì còn quá sớm nên khu rừng chưa có mặt những người lớn chuyên nghề chặt mai rừng đem về phố bán. Tuy nhiên, nơi một đôi gốc cũng đã có dấu vết của dao rựa hay cưa sắt. Chúng tôi phân vân mãi mới quyết định cứ chặt mỗi đứa ít nhánh, nếu không giữ được tới Tết thì chơi bông mai nở sớm vậy! Sau khi chặt mai xong, cột vào yên sau mấy chiếc xe đạp đàng hoàng rồi, cả bọn đi sâu vào trong rừng chơi. Chúng tôi gặp một con gà rừng lẻ bầy. Cả bọn bảo nhau vây bắt con vật, quyết đem về nấu cháo ăn liên hoan. Con gà trừng bị thương một chân nhưng đôi cánh vẫn giúp nó bay xa, nó làm cho chúng tôi đến mệt nhoài mới vồ bắt được. Nó dãy dụa, kêu quang quác. Người nó nóng như có lửa, da nó đỏ như màu ớt, mắt nó long lanh như có nước mắt. Thời gian qua nhanh khi người ta vui vẻ. Tôi quên hẳn lời hẹn với cha tôi, cứ theo chân bạn bè quanh quẩn trong rừng mãi tới khi mặt trời lên tận đỉnh đầu, đứa nào cũng đói bụng và mệt nhoài mới chịu kéo nhau về. Vừa ra khỏi bìa rừng một quãng, chưa kịp đến quốc lộ, chúng tôi đã trông thấy mấy người lớn với vẻ mặt đầy lo lắng đạp xe trờ tới. Có người kêu lên mừng rỡ. Có người giận dữ la lối con. Có người nóng nảy xông tới và một đứa trong bọn tôi bị ăn bạt tai. Phần tôi, cha tôi chỉ đứng im lặng nhìn tôi, mắt ông như là đang ứa lệ và ông nuốt nước bọt như để tự nén tình cảm không hiểu là mừng vui, trách giận hay bực tức... Về đến nhà, tôi mới biết là không chỉ cha tôi mà cả gia đình tôi đều lo lắng, mong đợi. Mẹ tôi la tôi một chặp. Cha tôi, mãi tới trước khi đi ngủ tối hôm ấy mới nói riêng với tôi: - Từ lần sau, con đã hẹn thì phải nhớ đúng hẹn. Tối hôm ấy tôi đã khóc trên giường ngủ của mình. Sau này, có một chuyện đã xảy ra mà tôi nhớ mãi. Cha tôi cũng chẳng bao giờ quên, mỗi khi có dịp ông lại nhắc. Đó là một buổi chiều tan học, trên đường về, tôi đạp xe ngang sân vận động và thấy trong đó có đá banh. Lúc đó vừa khi người ta "xả cổng" cho những người không mua vé vào xem tự do. Mấy đứa bạn rủ tôi vào xem, nghe nói đây là trận đấu giữa hai đội banh nổi tiếng. Tôi đã rẽ xe vào tới cổng sân vận động thì dừng lại. Tôi nhớ tới buổi sáng vào rừng lấy mai dịp Tết trước và biết rằng gia đình sẽ phải bị một phen lo lắng nữa khi thấy đã quá giờ tan học mà tôi vẫn chưa về. Tôi nói với bạn bè: - Để tao đạp lẹ về xin phép cha mẹ tao đã. Không thèm nghe ý kiến của bạn bè, tôi đạp xe về nhà với tốc độ nhanh nhất. Tôi xin phép và cha tôi cho phép. Tôi lại đạp xe tới sân vận động với tốc độ nhanh nhất. Nhưng... trận đá banh đã kết thúc rồi! Người ta ùn ùn kéo nhau ra cổng sân vận động, trong đó có cả đám bạn tôi. Bọn nó tiếc cho tôi không được xem những phút cuối đầy kịch tính: đội thua đã gỡ hòa vào phút cuối cùng của trận đấu. Tôi cũng lấy làm tiếc lắm nhưng lòng tôi hoàn toàn thanh thản. Nhiều năm đã qua đi, mỗi khi nói đến chuyện giờ giấc, cha tôi thường kể cho những người trong gia đình nghe chuyện tôi không tự tiện đi xem đá banh khi chưa xin phép, như một chuyện làm gương. Chuyện chẳng có gì, lại làm cho tôi thấy ngường ngượng, nhưng thú thật là tự đáy lòng, tôi thầm hãnh diện và sung sướng như thuở được cha mẹ hay thầy cô khen ngợi việc gì đó. Mẹ tôi còn ít chữ hơn cả cha tôi. Bà chỉ biết đọc, biết viết. Mẹ tôi đã trải qua thời con gái sau lũy tre làng, lớn lên theo chồng lưu lạc nhiều nơi nhưng đi đâu cũng chỉ quanh quẩn trong nhà với bao việc vặt vãnh lo cho chồng con. Dường như cuộc đời bà đã sớm chia ra cho người thân và không giữ lại cho mình chút riêng tư nào nữa. Cuộc sống còn lại của mẹ tôi là những kỷ niệm ở cái làng chiếu xa xôi, là chuyện sinh nở anh em tôi, chuyện nuôi nấng hai đứa, chuyện món ăn trong gia đình, chuyện vải vóc, quần áo và đôi khi, chuyện trên những chuyến tàu từ tỉnh này qua tỉnh khác mà gia đình tôi đã trải. Trong việc dạy dỗ con cái, cha tôi thường lấy lời lẽ ôn hòa khuyên bảo, thỉnh thoảng ông có phạt cũng chỉ là bắt con quỳ trước bàn thờ gia tiên một lúc. Mẹ tôi tính nóng nảy hơn. Có chuyện gì anh em tôi làm quấy hoặc không vừa lòng bà, mẹ tôi thường quát mắng giận dữ. Tuy nhiên, sau lúc ấy, mẹ tôi dịu đi rất nhanh cứ như bà sợ con cái buồn và sợ. Khi nghe bà nói một câu tương tự như: "Mặc quần áo đi chợ tỉnh với mẹ" là chúng tôi hiểu ngay rằng mình đã được tha lỗi và chắc chắn trong chuyến đi chợ tỉnh ấy thế nào cũng được ăn phở tô đặc biệt hoặc ăn mì thêm hoành thánh, ăn sâm bổ lượng chi đó. Hơn thế, chúng tôi còn có thể được may sắm quần áo mới, mua đồ chơi... Ngày ấy, trong trí óc non nớt của tôi, có lần lâu quá không được dẫn đi chợ tỉnh, tôi đã cố tình gây ra một lỗi lầm để mẹ tôi la mắng và sau đó đã đạt dược ý muốn! Mùa hè ở miền Nam là mùa mưa. Những buổi chiều hè mà mưa dầm thật đáng chán. Anh em tôi bị cơn mưa cầm chân trong nhà. Em tôi là gái còn có trò chơi cho khuây khỏa, chứ tôi là trai, rộng chân tay đã quen, cảm thấy bực bội lắm. Đã thế, mẹ tôi lại thường bảo: - Nhổ tóc sâu cho mẹ rồi mẹ thưởng tiền! Ồ! Được thưởng tiền thì tôi rất thích. Nhưng làm cái việc nhổ tóc sâu thì tôi chẳng khoái chút nào. Dù sao, tôi vẫn không thể cãi lời. Tôi đi tìm hai hột thóc hoặc hai cái vỏ trấu làm "dụng cụ" nhổ tóc sâu rồi hỏi mẹ: - Nhổ bao nhiêu sợi hả mẹ? Thí dụ mẹ tôi nói: - Năm mươi! Tôi liền kỳ kèo: - Hai mươi đi mẹ! Cuối cùng hai mẹ con thỏa thuận một con số nào đó, chẳng khác chuyện trả giá khi đi chợ. Mẹ tôi ngồi trên ghế dựa, xỏa tóc. Một chân bà co lên ghế, ống quần đen chỗ đầu gối là nơi tôi đặt từng sợi tóc sâu nhổ được lên để đếm. Tôi vén tóc mẹ, xăm xoi tìm những sợi tóc bạc và ngắn, nếu là màu hung râu ngô thì càng tốt, đích thị tóc ngứa. Mỗi lần tìm được một sợi tóc sâu, tôi khẽ lùa một hột thóc xuống phía dưới, kế đó đặt hột thứ nhì lên, kẹp sợi tóc và "Bựt!", tôi nhổ sợi tóc sâu khỏi mái tóc của mẹ. Nơi ống quần đen của mẹ tôi, những sợi tóc sâu nằm ngang dọc trông rõ cả đâu là đầu tóc, đâu là chân tóc chừng một ly, lớn gấp đôi và như vẫn còn sự sống. Mẹ tôi đếm dần theo lời hô của tôi cho tới khi đủ số lượng như đã giao hẹn, rồi bà duỗi chân cho thoải mái và lấy tay phủi số tóc khỏi ống quần. Bà hay nói đùa: "Cho đám sâu bọ xuống đất!". Rồi bà lần trong túi ra những tờ giấy bạc, dúi vào tay tôi: - Cầm lấy đi ông tướng! Một hôm, trong lúc nhổ một sợi tóc sâu hơi dài, tôi làm sợi tóc bị đứt ngang. Tôi đã định bỏ đoạn tóc đứt đi không đếm nhưng rồi lại thử đặt nó lên ống quần mẹ tôi, rụt rè đếm một con số. Mẹ tôi lơ đãng đếm theo. Tôi nhổ nốt phần còn lại của sợi tóc. Lần này, tôi hết sức hồi hộp khi đếm tiếp. Tôi tưởng tượng sau tiếng đếm của tôi, mẹ tôi sẽ quay nhìn tôi, giận dữ quát mắng tôi về cái tội gian dối. Nhưng may quá, mẹ tôi vẫn hờ hững đếm theo. Sau lần ấy, cái lần mà một sự tình cờ đã đưa tôi đến hành động gian lận trót lọt, tôi nảy ra một sự tính toán có lợi cho mình. Tôi tìm những sợi tóc sâu dài, cố ý nhổ đứt làm hai để mau đạt đến số lượng sợi tóc phải nhổ. Tôi yên trí là mẹ tôi không phát hiện. Nào ngờ lần gian lận thứ ba, tôi vừa đếm đến con số cuối cùng thì mẹ tôi thay vì đếm theo, đã đếm lùi đi hai số. Tôi đỏ mặt khi nghe mẹ tôi nói: - Con bắt đầu gian dối từ bao giờ vậy? Cũng may là mẹ tôi không quát mắng ầm ĩ. Nhưng chỉ cần như thế, từ đó trở đi, tôi luôn nhủ lòng mình phải sống chân thật, căm ghét thói gian dối... Năm tháng qua đi, qua đi... Tuổi thơ tôi lùi vào dĩ vãng, ngày một xa hơn. Dòng đời cuốn tôi theo nó với nhịp điệu hối hả, lạnh lùng, không hề nhân nhượng, đôi khi còn là tàn nhẫn. Tôi đã có dịp về quê hương để tận mắt nhìn ngắm nơi đã chôn nhau cắt rốn của cha mẹ mình. Cái làng chiếu theo lời kể quả là nhỏ bé trong thực tế. Con đò ngang đưa tôi từ bến Xuôi qua bờ sông bên kia, đặt chân lên mảnh đất phù sa ruột thịt mà xa lạ, bơ vơ. Lúc ấy trời về chiều và con đường làng mà người lái đò cho tôi biết sẽ dẫn về nơi tôi muốn đến dài và xa tít tắp, len giữa hai bên là ruộng ngô. Tôi nhìn lên bầu trời, bắt gặp một cánh chim nhỏ lẻ loi mà thấy lòng được an ủi. Và tôi nghĩ đến ước mơ của cha tôi, muốn tôi trở thành con đại bàng xoải cánh che bầu trời quê mình một cách hãnh diện. Ước mơ ấy vô cùng đẹp đẽ. Có lẽ tôi mới chỉ là một cánh chim bình thường như cánh chim đang chao lượn kia, nhưng sự hãnh diện của "chim đại bàng" trong lòng tôi thì không thiếu. Tôi biết cha tôi cũng nghĩ thế. Ông cũng tự hào vì dù sao thì tôi cũng đã tự cất mình lên được khỏi mặt đất và bay bằng đôi cánh thật của mình. Người anh họ và tôi lần đầu tiên biết mặt nhau. Anh nhìn sững tôi hồi lâu như muốn tìm từ nơi tôi những hình ảnh nào đó của dĩ vãng. Rồi anh vỗ vai tôi nói: - Cuối cùng, chú đã thay mặt ông trở về quê cũ. Anh đã đưa tôi vào ngôi nhà ngói ba gian cũ kỹ, thấp lè tè của cha ông để lại. Trong ngôi nhà đó, nơi bàn thờ gia tiên có treo bài "Gia huấn" viết bằng chữ quốc ngữ trên giấy điều lồng khung kính. Cũng vẫn là những gì tôi đã học thuộc lòng từ nhỏ: Trung hiếu một lòng Thanh liêm phải giữ Kinh sử làu thông Phụng thờ tiên tổ ... Ngôi nhà đó còn có mấy cây cột tròn bằng gỗ lim bị băm nhiều vết dao chằng chịt. Người anh họ lặng đi một lúc mới kể cho tôi nghe chuyện về những vết thương trên gỗ ấy. Thời đấu tố địa chủ, anh họ tôi vốn là một cán bộ Việt Minh có nhiều thành tích cũng bị khép tội. Ông nội tôi không đủ "điểm" để quy là địa chủ nên một người trong họ đã đứng ra vu khống một điều gì đó để người ta có thể cộng thêm số "điểm"cần thiết. Gia đình anh họ tôi bị đuổi ra khỏi nhà mình, giao chỗ ở của mình cho ba gia đình khác, trong đó có gia đình người bà con đã tố gian. Tới thời sửa sai, anh họ tôi được phục hồi đảng tịch, ba gia đình kia phải trả lại nhà đã tức giận dùng dao chém nát mặt ngoài những cây cột lim tròn trước khi ra đi. Những ngày ở quê, tôi được dẫn đi tất cả những nơi tôi từng nghe cha mẹ tôi kể. Tôi tới đình thờ Quan Trạng, ông tổ nghề dệt chiếu làng tôi và cảm nhận trong cái không khí trang nghiêm tuy hơi u uất và thiêng liêng ấy, có chút gì gần gũi thân thiết. Nhưng sau đó tôi đã lại hoàn toàn nghĩ khác đi, một sự xa lạ lạ lùng cứ chờn vờn quanh quất, khi tôi ngồi dưới gốc nhãn cổ thụ nhớ chuyện ngày xưa. Cha tôi thường kể thời thiếu niên của ông, khi những người anh chia nhau tất cả các gốc nhãn trong số gia tài ông nội tôi để lại, cha tôi là con út không được gì nên đã trả thù bằng cách đợi tới mùa nhãn, ông leo lên hết cây này đến cây khác hái nhãn ăn, mặc kệ những lời nhiếc mắng của các anh. Tôi cứ nghĩ, hành động của cha tôi ngày ấy đúng là một sự trả thù của trẻ con, nhưng việc khi ông lớn lên đã bỏ làng ra đi thì lẽ nào lại có thể bảo là ông nông nổi? Anh họ tôi còn chỉ cho tôi xem một ngôi nhà đúc mái bằng có thể nói là khang trang nhất làng. Rồi anh cho tôi biết đó là cơ ngơi của gia đình người bà con đã tố gian ông nội tôi ngày trước. Anh hỏi tôi: - Chú có tin thuyết ác giả ác báo không? Tôi nuốt nước bọt, nghèn nghẹn nơi cổ. Tôi nhớ chuyện mình gian dối khi nhổ tóc sâu cho mẹ tôi thuở nhỏ và bài học chân thật mình ghi lòng từ ngày ấy. Người lớn rất khác trẻ con. Cuộc đời rất khác với những điều dạy dỗ. Tôi thấy khó mà trả lời nổi câu hỏi của người anh họ. Nhưng anh đã tự trả lời, gịong anh thật thản nhiên như của một ông tiên vừa đắc đạo dửng dưng trước mọi chuyện trần gian: - Anh chẳng tin chút nào cái thuyết an ủi người lành ấy. Cuộc đời chẳng hề nuông chiều cha mẹ tôi, cũng chẳng dành cho tôi chút nào ưu ái. Cha tôi tiếc mình chỉ có đôi cánh chuồn chuồn của tuổi nhỏ lắm ước mơ nên không thể tung mình lên tận trời cao cho thỏa chí. Nhưng dẫu sao đôi cánh chuồn chuồn ấy cũng giúp ông nhìn thấy một khoảng không gian tương đối rộng và cuối đời ông không hề phải ân hận là mình đã bỏ phí những việc có thể làm vì người khác mà sức mình có thể. Tôi bay bằng đôi cánh của mình, bằng hành trang là những kỷ niệm về quê hương, nơi cha mẹ mình đã sinh ra và nơi mình đã sống, đã lớn lên; là bài "Gia huấn" truyền từ đời Viễn An Phủ quân, ông tổ của dòng họ; và bằng hai bài học không thể nào quên từ cha mẹ là luôn cố giữ chữ tín và quý trọng sự thật. Những cơn dông gió bão tố trong đời đã lắm phen làm điêu đứng đôi cánh nhỏ, nhiều lần quăng cánh chim ấy từ trên cao xuống đất toan hủy hoại đi một cuộc sống còn nhiều khát vọng. Nhưng "con đại bàng" trong ước mơ của cha tôi đã gượng lại được, lại vỗ cánh bay lên khoảng trời quê hương mình. Cha mẹ tôi đã lần lượt qua đời. Tôi chọn tấm ảnh chụp hai ông bà đang cười phóng lớn để thờ. Cuộc đời không làm nên những nụ cười thường xuyên trên môi cha mẹ tôi. Nhưng những lúc nào đóa hoa đời ấy nở thì tôi luôn nhìn thấy nơi chúng sự thanh thản hài lòng. Tôi luôn tin rằng nụ cười của người nào sống và đứng vững bằng chính sức mình, bằng những đức tính bất chấp thua thiệt; sống như con chuồn chuồn, con bướm, loài chim bay bằng chính đôi cánh của mình; thì tất cả đều là những đóa hoa đời bất tử.
Câu chuyện về 2 hạt lúa Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khỏe và chắc mẩy. Một hôm, người chủ định đem chúng gieo trên cánh đồng gần đó. Hạt thứ nhất nhủ thầm: “ Dại gì ta phải theo ông chủ ra đồng. Ta không muốn cả thân mình phải nát tan trong đất. Tốt nhất ta hãy giữ lại tất cả chất dinh dưỡng trong lớp vỏ này và tìm một nơi lý tưởng để trú ngụ.” Thế là nó chọn một góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó. Còn hạt lúa thứ hai thì ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất. Nó thật sự sung sướng khi được bắt đầu một cuộc đời mới. Thời gian trôi qua, hạt lúa thứ nhất bị héo khô nơi góc nhà bởi vì nó chẳng nhận được nước và ánh sáng. Lúc này chất dinh dưỡng chẳng giúp ích được gì- nó chết dần chết mòn. Trong khi đó, hạt lúa thứ hai dù nát tan trong đất nhưng từ thân nó lại mọc lên cây lúa vàng óng, trĩu hạt. Nó lại mang đến cho đời những hạt lúa mới... Đừng bao giờ tự khép mình trong lớp vỏ chắc chắn để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của bản thân mà hãy can đảm bước đi, âm thầm chịu nát tan để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ - đó là sự chọn lựa của hạt giống thứ hai. Tôi hy vọng đó cũng sẽ là sự lựa chọn của bạn và tôi khi đứng trước cánh đồng cuộc đời bao la này... Sưu tầm!
Nhận diện cô nàng “đứng núi này trông núi nọ" L à con trai, hẳn nhiên bạn chẳng bao giờ muốn cô nàng người yêu mình cứ mải mê “đứng núi này trông núi nọ”. Vậy làm sao để nhận ra điều đó khi như nàng đóng kịch rất giỏi? Cô ấy quá “hot” Đương nhiên, bạn có thể vênh mặt với cánh chiến hữu khi đem đến một cô người yêu xinh như hoa và quá sức quyến rũ. Nhưng những cảm xúc tự hào đó chỉ tồn tại trong thời gian đầu mới quen nhau, thường thì các chàng trai sẽ đến lúc muốn bạn gái mình bớt hấp dẫn thiên hạ đi, vì kiểu gì thì bạn cũng không thích cô ấy được quá nhiều người chiêm ngưỡng khi mặc những bộ áo quá khiêu khích. Và thật sự một cô gái nếu đã hết lòng với người mình yêu sẽ biết cách làm anh ấy được thoải mái, trừ trường hợp là cô nàng còn đang hãnh diện vì câu kéo được vài fan hâm mộ vây quanh mà thôi. Cô nàng từng có mối quan hệ chồng chéo Trước khi quen nhau, bạn có bao giờ nghe đồn thổi về cô ấy? Có bao giờ lăn tăn chuyện nàng từng có quá nhiều người yêu hay yêu một lúc hai người? Bạn biết không, một cô gái tốt đánh giá tình yêu qua chất lượng chứ không vì số lượng. Do đó, nếu như bạn còn cảm thấy băn khoăn về chuyện cô nàng từng thay người yêu rất nhiều như thế thì hãy tỉnh táo suy nghĩ trước khi bắt đầu một mối quan hệ nhé! Thỉnh thoảng cô nàng lại "lặn mất tăm" Đôi lúc cô nàng lặn mất tăm cả tuần, rồi đột ngột liên lạc trở lại với lí do nào đấy kiểu như bận học bận làm. Một hai lần như thế, rồi sẽ đến lúc bạn cảm thấy mình vô vọng trong việc giữ chân một cô nàng ham đi như thế. Rõ ràng cô ấy không hề tôn trọng hay nghĩ đến những cảm xúc của bạn, và biết đâu chừng, cô ấy vẫn còn dành kha khá thời gian để đi loanh quanh và tìm kiếm thêm một vài người dự bị. Những gì bạn làm không bao giờ đủ Bạn lúc nào cũng nghe cô ấy kể về anh người yêu của nhỏ bạn mình? Bạn ngao ngán vì lãng mạn, quan tâm kiểu gì cũng không bao giờ làm cô ấy thỏa mãn? Và mệt mỏi chạy theo những yêu sách toàn trên mây của người yêu mình? Nghĩ lại xem, cô ấy đang yêu bản thân mình hơn là chính bạn rồi. Vì nếu yêu thương thật lòng một ai đó, chúng ta chẳng ai muốn chất chồng gánh nặng và tạo ra áp lực với người mình yêu, phải không? Nói mãi về những vệ tinh Nếu thỉnh thoảng cô ấy nói với bạn về một cái tin nhắn “đi lạc” của ai đó, bạn có thể mỉm cười tự hào vì mình có một cô bạn gái dễ thương. Nhưng nếu như việc cứ ra rả với bạn về người này người kia theo đuổi, vui vẻ trả lời tin nhắn của những cái đuôi, và nhận tất cả quà cáp từ những người khác phái thì hãy tỉnh táo lại nhé, hoặc là cô nàng bị ám ảnh bởi việc mình quá thu hút, hoặc là vì cô nàng vẫn còn đang… hé cửa cho những vệ tinh tiếp theo. Đủ tỉnh táo để nhận ra đâu là những cô nàng không dành cho mình, bạn nhé!
Những ngày nhảm Nhí Truyện 1.187 của Nguyễn Thu Trân Làm ăn khó khăn, công ty giải tán, vậy là Thương thất nghiệp. Một ngày như mọi ngày, người nhà đi làm hết từ sáng tới chiều. Thương ở nhà chợ búa, nấu ăn, giặt giũ. Được vài ngày, bỗng dưng cô thấy mình như vừa bước vào một đời sống khác bên cạnh đời sống một cô Thương phiên dịch bận tối mắt tối mũi lâu nay. Đời sống với việc vừa nấu ăn vừa được nghe các bài hát mình thích, vừa được thử các món ăn với tài nội trợ chưa bao giờ được biết của chính mình. Đôi khi cho ớt quá liều cay xé miệng, vừa rớt nước mắt vừa nhấm nháp xuýt xoa. Đôi khi nêm nồi canh mặn như kho, lật bật đổ hết, lật bật phóng xe ra chợ mua rau thịt làm lại nồi khác bằng kinh nghiệm thu hoạch được từ nồi trước. Chỉ hai tuần nấu ăn cho cả nhà, đầu giường Thương đã bày la liệt mớ sách khéo tay hay làm mới cáu lôi từ các nhà sách về. Má hớn hở ra mặt, ừ, con gái phải vậy chứ. Ngày thất nghiệp, Thương còn giải quyết bao nhiêu là chuyện loanh quanh. Biết có người ở nhà thường trực, lâu lâu hàng xóm lại nhấn chuông. Một đôi mắt đen tròn xuất hiện sau song cửa sắt: “Cô Thương ơi, cô có điện thoại, gọi xe cấp cứu bà ngoại con giùm”. Tim bà ngoại con bé mồ côi thường xuyên bị lên cơn co thắt, nghe nói hở hai, ba van mà không có tiền mổ. Cô Thương ơi, cái thằng cha người Iraq này muốn “xù” tiền thuê nhà tui mấy tháng nay hay sao ấy mà tui yes, no cách nào chả cũng không chịu hiểu, cô làm ơn qua nói chuyện với chả, bắt chả làm giùm tui cái cam kết. Cô Thương ơi, mở cửa nhanh nhanh cho tui vô với, thằng chồng tui lấy tiền đóng học phí của con uống rượu, tui cằn nhằn nó rượt đánh tui kìa. Thương này, tổ bán báo xa mẹ ở phường mình có mấy thằng nhóc muốn học vài câu tiếng Anh để giao tiếp sơ sơ với mấy ông tây bà đầm ở đường Đồng Khởi, em giúp tụi nó nhé. Sâm Thương ơi, em có tin là anh sắp leo lên tầng mười ba nhảy xuống không, thư anh viết mấy lần bỏ trong giỏ xe mà sao không thấy em hồi âm. Ụa, chung cư này cũng có người để ý mình sao ta, giờ mới biết đó. Biết làm sao được khi nhờ em thất nghiệp ở nhà, anh mới có cơ hội thốt lời vàng ngọc cùng em. Thương hay không thương nói đại một tiếng để anh khỏi phải đợi chờ uổng công. Ông ơi là ông, tui lạy ông luôn, biết ông hàng xóm thiệt nhưng không biết tên gì thì làm sao tui có nghĩa vụ trả lời chuyện yêu đương. Thương giật mình nhớ lại, ừ, hèn gì lâu lâu lại thấy trong giỏ xe mình có mảnh giấy con con, tưởng rác ai đó vứt vương vãi. Tối cà phê cà pháo “tám” chuyện với bạn bè, nhỏ Lan nâng cao cặp kính cận e hèm quan trọng: “Bộ tính không đi làm, tính kéo dài mấy ngày nhảm nhí này hoài sao?”. Thương lừng khừng không “phít bệt” (feedback - phản hồi) bạn. Cô thật sự cảm thấy rối với chuyện trong nhà ngoài phố. Những việc không thể chối từ và cũng rất cần giải quyết ấy đã lấy đi của cô không ít thời gian, cộng chuyện nấu ăn giặt giũ, thật sự suốt tám tháng trời qua, Thương chưa kịp làm một công việc tròn trịa nào cho riêng mình (dịch một cuốn sách chẳng hạn). Má và các anh chị trong nhà không ý kiến ý cò gì, cứ “lơ” chuyện Thương tìm việc làm, thiếu đồng lương của Thương thì kinh tế nhà này vẫn thế. Tuyệt nhất là từ ngày Thương thất nghiệp, buổi chiều cả nhà bao giờ cũng được bữa cơm canh nóng sốt và những câu chuyện hấp dẫn về hàng xóm - mà nếu Thương không ở nhà thì chắc chắn không có thành viên nào trong gia đình được biết, kể cả tên của anh chàng giữ xe đã rị mọ tỏ tình với Thương. Trẻ trung, năng động, biên - phiên dịch gì cũng tốt như Thương thì đâu khó tìm việc nếu cô thật sự muốn tiếp tục đi làm. Thương cũng không hiểu vì sao mình lại không hào hứng lắm trong chuyện tìm việc. Có thể do quá mệt mỏi khi phải cắp cặp theo sếp làm phiên dịch từ năm thứ hai đại học. Có thể do thấy là lạ hay hay trước “làn sóng” tình làng nghĩa xóm vừa mới mẻ vừa dồn dập. Chỉ có ba là nóng ruột muốn Thương có việc làm, làm gì cũng được, miễn có việc làm. Ông không muốn thằng ma cà bông giữ xe trong chung cư tán tỉnh con gái mình bằng cái kiểu cà tưng: “Chào cô em thất nghiệp xinh đẹp”. Cuối cùng, ba cũng tìm được cho Thương một công việc. Cô vào làm ở phòng online một tờ báo. Trang báo điện tử vừa vừa với lượt người truy cập khiêm tốn. Nhưng được gọi là “nhà báo” vừa sang trọng vừa thời thượng, thế là Thương đi làm. Phòng online có bảy người. Một phó chỉ đạo, một biên tập, một tư liệu, hai biên dịch, hai kỹ thuật. Ngày nhận việc đầu tiên, chiều về Thương đi cà phê với Nhơn - người bạn cùng làm trang web tuổi teen nổi đình nổi đám với cô. Nghe kể chuyện nhân sự phòng online, Nhơn cười ngất. Sời, chi nhiều người vậy, trang web mình hoành tráng hơn nhiều mà chỉ có tui với bà vừa làm hoàng hậu vừa làm tì nữ. Thương nói giọng e dè, ừ, tui cũng không hiểu lấy đâu ra, toàn người quen không hà, ba tui cũng là một người quen... Công việc thường xuyên của phòng online chỉ một hoặc hai người làm là đủ. Những người còn lại ngồi đọc báo, lang thang trên mạng, đan áo len, giũa móng tay, lặt rau muống (chuẩn bị sẵn chiều về nấu cho tiện)... Giũa móng tay nhiều hơn dịch bài cho báo, lương thấp, Thương không buồn. Chỉ buồn (như chấu cắn) khi mỗi lần sếp tổng ghé, ai nấy đều phải bật ngồi trước máy giả vờ bận rộn. Một chiều sắp tan tầm, Thương ngồi giũa móng tay như thường lệ thì nhận được cuộc gọi của anh chàng giữ xe. Nghe gì chưa, bà ngoại con bé mắt đen cạnh nhà em chết rồi, bà lên cơn đau tim, vậy mà nó đứng trước nhà nhấn chuông gọi em kêu giùm xe cấp cứu cả nửa tiếng đồng hồ, nó tưởng em vẫn còn thất nghiệp...
Khiếm nhã Truyện 1.177 chữ của Thái Bá Tân Khuya, ông gấp sách đứng dậy. Phòng ngủ của ông cạnh phòng làm việc. Gọn gàng, sạch sẽ và được bài trí theo kiểu người già, dù ông chưa già lắm. Cửa phòng ngủ khép hờ. Một sự lạ vì nó vẫn luôn đóng. Ông đẩy cửa bước vào và thấy vợ đang nằm trên giường. Lại một sự lạ nữa, vì ba chục năm nay kể từ ngày cưới mỗi người ngủ riêng một phòng. Các con ông cũng vậy. Như tây. Nhà ông có điều kiện để sống như tây. Cả hai ông bà cùng học lâu năm ở nước ngoài, cưới nhau ở nước ngoài, cách sinh hoạt, cư xử cũng giống tây. Lịch sự, điềm đạm, trọng hình thức đến mức lạnh nhạt và hơi kiểu cách. Mỗi người một phòng riêng, một thế giới riêng, và như thỏa thuận trước, không ai can thiệp vào thế giới người khác. Các thế giới riêng ấy bây giờ trở nên xa hơn, khép kín hơn khi các con đã lớn và đi xa. Thế mà đêm nay bà tự xuống phòng ông, đang nằm trên giường và chắc đã thiếp đi vì phải chờ lâu. Gần như trần truồng với chiếc áo ngủ vải mềm mỏng tang. Màu hồng hơi sẫm, cái màu ngày mới cưới một lần ông nói “rất đẹp và khêu gợi”. Vậy là hôm nay bà đã phá nó để bước sang thế giới của ông. Hơn thế, còn chủ động khêu gợi. Hơi thiếu tế nhị và gây sốc chút ít với một người suốt đời nghiên cứu Mạnh Tử và các bậc thánh hiền khác như ông. Ông nhíu mày nhìn vợ một lượt từ đầu đến chân rồi lặng lẽ quay lại phòng làm việc. ... Mạnh Tử lấy vợ lúc mười chín tuổi, vừa trở về sau khi theo học thầy Tư Đồ Ngưu ba năm ở nước Lỗ. Một cuộc hôn nhân do bà mẹ sắp đặt trước. Điền thị, vợ ông, là người nết na, hiếu thảo. Một hôm bất chợt bước vào phòng, ông thấy bà đang thay áo, để ngực trần. Theo Nho giáo nghiêm khắc ông lĩnh hội được và đang ra sức thuyết giảng, đấy là một khiếm nhã lớn, một sự xúc phạm đối với chồng. Và ông đã lớn tiếng đuổi bà ra khỏi nhà... Giờ không là lúc người ta dễ dàng đuổi nhau ra khỏi nhà (nếu thực tình muốn đuổi), nhất lại vì những lý do như thế. Hơn hai nghìn năm đã trôi qua kể từ thời Mạnh Tử. Cuộc sống và quan niệm, kể cả quan niệm về đạo đức, đã khác. Thay áo trước mặt chồng là chuyện bình thường. Nằm trần truồng trên giường chờ chồng cũng bình thường. Vậy sao ông cảm thấy khó chịu? Hơn nữa chỉ mấy phút trước đó ông chợt nảy ý định muốn gần vợ, dù chưa nói trước. Ông bà vẫn có lệ “nói trước” chuyện ấy. Thế mà bây giờ cái cơ thể chờ đợi cùng màu áo ông thích kia chẳng làm ông mảy may xúc động. Ngược lại, nó còn khiến ông nguội lạnh. Vì sao? Ông cố tự cắt nghĩa mà không được. Thực ra thì Mạnh Tử đuổi vợ không hẳn vì lý do đạo đức, mà cái chính là vì Điền thị xấu xí, ngay từ đầu ông đã không ưng nhưng không dám trái ý mẹ. Lần này Mạnh mẫu cũng quyết không để người con dâu yêu quý phải nhục nhã ra khỏi nhà. “Thế trước khi vào phòng con có gõ cửa không?” - bà hỏi. “Không”. “Vậy con mới là người khiếm nhã, xúc phạm vợ con!”. Mạnh Tử phải xin lỗi vợ và mời bà ở lại (Tào Nghiêu Đức: Mạnh Tử truyện). Hôm nay ai khiếm nhã, ai xúc phạm ai? Vợ ông, người bỗng dưng đến nằm xuống giường chờ chồng? Hay ông, chồng bà, thấy thế còn bỏ sang phòng làm việc? Cỗ máy trong ông hình như gặp một trục trặc nhỏ. Ông ngồi thừ người, chẳng biết nghĩ thế nào. Giáo lý “nam nữ thụ thụ bất thân” của Khổng được Mạnh nâng lên tới mức vợ vô tình thay áo để lộ ngực trần với chồng cũng là tội lớn. Thế mà theo dã sử, đã có lần ông cùng bạn tới lầu xanh. Đạo đức giả? Hay đàn ông được phép làm điều đó? Phụ nữ ở những nước đạo Hồi nghiêm khắc thậm chí đến nay vẫn không được phép để đàn ông nhìn thấy mặt mình hoặc nhìn mặt họ, trừ chồng, bố và các anh, em trai. Vì sao có sự phi lý ấy? Sao phụ nữ những nơi ấy và phụ nữ thời Mạnh Tử không vùng lên như vợ ông hôm nay? Cuối cùng, khi ông quay lại phòng ngủ thì bà vợ đã không còn trên giường. Sáng hôm sau, mãi đến tám giờ ông mới dậy. Vợ ông đang ngồi chờ chồng xuống ăn sáng bên chiếc bàn đá trong vườn. Trên bàn có chiếc khay nhỏ với ổ bánh mì, hộp bơ, đĩa trứng tráng và hai cốc nước cam rót sẵn. Bà đang đọc báo như thường lệ. Ông lại gần, cúi hôn nhẹ lên má vợ. Nét mặt và điệu bộ bà vẫn bình thường như mọi ngày, như không hề có chuyện đêm trước. Tất nhiên ông cũng tỏ ra như vậy. Bà đưa tờ báo cho ông, trỏ ngón tay vào chỗ bà muốn ông đọc. Đó là tin về một phụ nữ trẻ người Nigeria, một nước châu Phi theo đạo Hồi luôn chìm trong bạo lực và nghèo đói. Người này bị tòa án Hồi giáo kết án tử hình theo luật Sharia về tội trót sinh con ngoài giá thú. Tức là sẽ bị chôn xuống đất chỉ chừa lại cái đầu để người ta ném đá cho đến chết. Cả thế giới xúm vào xin tha cho cô nhưng không được. Trong khi đó, trên đường phố của chính cái thành phố cô ta phạm tội tày đình ấy, ban đêm vẫn nhan nhản gái điếm đứng đợi những người đàn ông mộ đạo, nghiêm khắc đã kết án một trong những người bạn khốn khổ của họ. “Ông thấy có kinh khủng không?” - bà hỏi. “Ừ, kinh khủng thật”. Ông khẽ đáp rồi quên cả ăn, ngớ người nhìn bà. Ông lại nhớ chuyện Mạnh Tử nhẫn tâm đuổi vợ vì tội khiếm nhã. Ông còn nhớ cả chuyện, không hiểu sao mãi đến giờ mới nhớ, rằng (cũng theo Tào Nghiêu Đức) sau khi bị mẹ mắng, Mạnh Tử mới nghĩ đến việc suốt hàng chục năm liền vợ ông phải hi sinh, chịu đựng thế nào để ông lĩnh hội và truyền bá cái đạo lý mà bà trở thành nạn nhân. Nghe nói từ đó Mạnh Tử trở thành người chồng mẫu mực về mọi phương diện và rất yêu thương vợ.