[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vàng lửa[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Huy Thiệp[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ông Quách Ngọc Minh, ngụ ở Tu Lý, huyện Đà Bắc viết thư cho tôi: “Tôi đã đọc truyện ngắn Kiếm sắc của ông kể về tổ phụ tôi là Đặng Phú Lân. Riêng chi tiết gặp Nguyễn Du không thích. Nhân vật Người trẻ tuổi trong quán trong trẻo lạ lùng, tâm hồn sạch như nước ở núi ra” không ra gì Bài hát “Tài mệnh tương đô” có ý gán cho Nguyễn Du là khéo mà không khéo vậy. Ông gắng thu xếp lên chơi, tôi sẽ cho ông xem vài tư liệu, biết đâu giúp ông có cách nhìn khác. Con gái tôi là Quách Thị Trình sẽ mời ông món canh cá nấu khế ông thích...” Nhận được thư tôi đã lên thăm gia đình ông Quách Ngọc Minh. Những tư liệu cổ mà ông Quách Ngọc Minh gìn giữ thật độc đáo. Về Hà Nội, tôi viết truyện ngắn này. Khi viết, tôi có tự ý thay đổi một vài chi tiết phụ và sắp xếp, chỉnh lý lại các tư liệu để hợp với việc kể chuyện. Năm 1802, Nguyễn Phúc ánh chiếm Thăng Long, lên ngôi vua, đặt tên hiệu là Gia Long. Bên cạnh nhà vua có vài người châu âu giúp việc. Trong số ấy có một người Pháp tên là Phrăngxoa Pơriê do chính giám mục Pi nhô đờ Bê hen (Bá Đa Lộc) tiến cử. Nhà vua thường gọi y là Phăng. Phăng từ nhỏ đã thích phiêu lưu. Y từng tham gia cách mạng 1789, bạn với Xanh Giuýt. Năm 1794, cách mạng thất bại, Phăng trốn ra nước ngoài. Năm 1797, Phăng theo chân một tàu buôn trôi dạt dến Hội An. Người ta không rõ cuộc gặp gỡ của y với Bá Đa Lộc, chỉ biết Bá Đa Lộc có viết thư giới thiệu Phăng với vua Gia Long. Trong tập bút ký của mình sau này, Phăng viết: “Nhà vua là một khôí cô đơn khổng lồ. Ông đóng trò rất giỏi trong triều đình. Ông đi, đứng, ra, vào, ra các mệnh lệnh, chấp nhận sự tung hô của bọn quần thần. Ông là người cha nghiêm khắc của lũ con ích kỷ, đần độn. Là người chồng đáng kính của các bà vợ tầm thường... Ông biết ông đã già, với bọn cung tần mỹ nữ trẻ đẹp ông bất lực. Ông biết rõ cái triều đình thiển cận do ông dựng lên, biết rõ quốc gia mình nghèo đói. Ông luôn lo sợ bởi quyền lực nắm trong tay, nó lớn ngoài sức chứa một con người...” Trong một chuyến đi săn ở phía Bắc kinh thành Huế, Phăng đi theo vua Gia Long. Phăng kể: Nhà vua cưỡi ngựa, lưng rất thẳng. ở giữa thiên nhiên, trông ông rạng rỡ mất đi vẻ đăm chiêu cau có hàng ngày. Ông vui vẻ vào cuộc săn hào hứng. Buổi tối, nói với tôi, ông bảo: “Khanh biết không, cái lũ chó chết ấy, chúng nó chuẩn bị cả rồi, chỗ nào trẫm đi qua thì chúng thả thú ra”. Tôi ngạc nhiên hỏi vì sao nhà vua (vốn xuất thân là một võ tướng) lại chịu được sự nhục mạ ấy. Ông cười: “Khanh chẳng hiểu gì. Vinh quang nào chẳng xây trên điếm nhục”. Tôi ngồi nghe nhà vua, nhận thấy ông trải đời ghê gớm. Ông hiểu bản chất đời sống cộng sinh. Số phận ngẫu nhiên giao cho ông đứng trên đỉnh cao nhất, ông không dám phá vỡ bất cứ quan hệ nào làm hại đời sống cộng sinh đó, bởi phá vỡ nó, nghĩa là ngai vàng không còn đứng vững. Tôi có hỏi nhà vua về các nhà lư tưởng phương Đông. Tôi nhận thấy ông không quan tâm đến họ. Ông bảo: “Tất cả do cay cú đời sống. Họ là quá khứ. Thời khắc đang sống, là đáng kể”. Nhà vua chăm chú ăn món gân hổ, hơn là tiếp chuyện tôi...”. Phăng được vua Gia Long cho phép đi lại nhiều nơi, Phăng từng gặp Nguyễn Du, bấy giờ đang giữ chức tri huyện. Phăng kể: “Trước mặt tôi là một người bé nhỏ, mặt nhàu nát vì đau khổ. Ông nổi tiếng là một nhà thơ có tài. Tôi thấy ông hoàn toàn không hiểu gì về chính trị. Trước sau, ông là một viên quan tận tụy. Ông hơn những người khác ở nhân cách nhưng nhân cách ấy có giá trị gì khi cuộc đời thực của ông xúi xó, túng kiết. Ông hoàn toàn thiếu tiện nghi. Ông không phù phiếm nhưng sự hào hoa cũng không có nốt. Đời sống tinh thần bóp nghẹt ông. Ông nói chuyện giản dị và hóm hỉnh. Trực giác tuyệt vời. Cũng như vua Gia Long, ông là một khối nguyên liệu to lớn nhưng nhẹ đồng cân hơn, hợp chất tạo thành ít hơn, độ bám của bụi bặm cũng ít hơn. Cả hai đều là những khối nguyên liệu vô giá, những vật quốc bảo”. Phăng được Nguyễn Du dẫn đi thăm một vài nơi trong địa hạt của mình. Phăng viết: “Ông ta (tức Nguyễn Du) có sự thông cảm sâu sắc với nhân dân. Ông yêu nhân dân mình. Ông đại diện cho nhân dân ở phần u uất nhất, trữ tình nhất nhưng cũng đáng thương nhất. Vua Gia Long không đại diện cho ai, ông chỉ chịu trách nhiệm với mình. Đấy là điều vĩ đại nhưng cũng đê tiện khủng khiếp. Nhà vua có cách nhìn thực tiễn với chính từng khắc tồn tại của bản thân mình. Nhà vua biết xót thân. Nguyễn Du thì khác, Nguyễn Du không biết xót thân. Nguyễn Du thông cảm với những đau khổ của các số phận đơn lẻ mà không hiểu nổi nỗi đau khổ lớn của dân tộc. Đặc điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểu. Đây là một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp. Cô gái ấy vừa thích thú, vừa nhục nhã, vừa căm thù nó. Vua Gia Long hiểu điều ấy và đấy là nỗi cay đắng lớn nhất mà ông cùng cộng đồng phải chịu đựng. Nguyễn Du thì khác, ông không hiểu điều ấy. Nguyễn Du là đứa con của cô gái đồng trinh kia, dòng máu chứa đầy điển tích của tên đàn ông khốn nạn đã cưỡng hiếp mẹ mình. Nguyễn Du ngập trong mớ bùng nhùng của đời sống, còn vua Gia Long đứng cao hẳn ngoài đời sống ấy. Người mẹ của Nguyễn Du (tức nền chính trị đuơng thời) giấu giếm con mình sự ê chề và chịu đựng với tinh thần cao cả, kiềm chế. Phải ba trăm năm sau nguời ta mới thấy điều này vô nghĩa. Nguyễn Du sống dân dã, ông hồn nhiên chịu đựng sự nghèo tùng cùng nhân dân. Ông không đứng cao hơn họ, không hưởng thụ cao hơn họ, và như thế, ông hoàn toàn không biết làm chính trị. Tất cả đời sống vật chất của ông do những hoạt động cù lần mang lại, năng suất thấp, chỉ thỏa mãn những nhu cầu tối thiểu. Lòng tốt của ông là thứ lòng tốt nhỏ, không cứu được ai. Vua Gia Long thì khác. Ông khủng khiếp ở khả năng dám bỡn cợt với Tạo hóa, dám mang cả dân tộc mình ra lường gạt phục vụ cho chính bản thân mình. Ông làm cho lịch sử sinh động hẳn lên. Đấy là lòng tốt lớn của nhà chính trị. Lòng tốt lớn của nhà chính trị không chỉ là làm việc thiện với một số phận đơn lẻ mà còn là sức đẩy của ông ta với khối cộng đồng. Từng phần tử trong cộng đồng do luật tự nhiên chi phối sẽ tự tồn tại, định hướng và phát triển. Không có một sức đẩy mạnh, cả cộng đồng sẽ mọc rêu, mủn nát. Cộng đồng Việt là một cộng đồng mặc cảm. Nó nhỏ bé xiết bao bên cạnh nền văn minh Trung Hoa, một nền văn minh vừa vĩ đại, vừa bỉ ổi lại vừa tàn nhẫn... Phăng có kể lại cho vua Gia Long ấn tượng khi gặp Nguyễn Du. Phăng viết: “Nhà vua nghe tôi một cách lơ đãng. Tôi có cảm giác ông bị nặng tai nhưng không phải. Ông không coi Nguyễn Du ra gì, hoặc có thể ông coi Nguyễn Du là con ngựa giống tốt trong cả đàn ngựa, lợn, bò, gà mà ông chăn dắt. Ông bảo: “Trẫm có biết người ấy. Cha nó là Nguyễn Nghiễm. Anh nó là Nguyễn Khản”. Tôi thấy nhà vua hiểu sự bất lực của ông đối với đời sống nghèo khó và những trì trệ của dân tộc ông. Ông không tin học vấn có thể cải tạo giống nòi. Điều ấy có lý. Trước hết là vật chất. Những hoạt động kinh tế cù lần chỉ đủ sức cho một dân tộc sống khắc khoải. Vấn đề ở chỗ phải đứng lên vươn mình thành một cường quốc. Làm điều đó, phải có gan chịu đụng sự va xiết trong quan hệ với cộng đông nhân loại. Thói hủ nho và thủ dâm chính trị sẽ không bao giờ tạo được những quan hệ trong sáng, lành mạnh. Sẽ đến lúc nền chính trị thế giới giống như món nộm suồng sã, khái niệm thanh khiết ở đấy vô nghĩa “. Năm 1814, người ta phát hiện ra một nơi có vàng, Phăng xin vua Gia Long cho một số người châu âu cùng mình đi tìm kiếm. Vua Gia Long đồng ý. Phăng không để lại tư liệu nào kể về chuyến đi tìm vàng này. Tuy nhiên có một người Bồ Đào Nha tham gia đoàn tìm vàng đã viết hồi ký. Người Bồ Đào Nha này kể lại: Đoàn chúng tôi có mười một người gồm bốn người Bồ Đào Nha, một người Hà Lan, năm người Pháp và một người Việt dẫn đường. Chỉ huy chúng tôi là Phơrăngxoa Pơriê. Y là một người tàn bạo được vua Gia Long tin cậy... Chúng tôi đi ngựa, mang theo vũ khí và những dụng cụ đãi vàng như dân tìm vàng hồi thế kỷ trước ở Bắc Mỹ. Ngay Phơrăngxoa Pơriê cũng không lường trước sự việc diễn ra. Điều ấy khiến cho chúng tôi sau này phải trả giá đắt. Đa số chúng tôi tham gia chuyến đi vì sự hiếu kỳ. Chúng tôi chuẩn bị lương thực đủ trong một tháng. Chúng tôi luồn rừng và đến nơi sau một tuần đi đường. Nơi đây là thượng nguồn một con sông lớn nằm kẹp trong thung lũng hoang vắng. Không hề thấy một bóng người qua lại. Quạ bay hàng đàn. Trong bản đồ, Phrăngxoa Pơriê gọi đây là thung lũng Quạ. Chúng tôi cắm lều ngay trên bờ sông. Ngay ngày đầu tiên, người Hà Lan trong đoàn đã lên cơn sốt. Ông ta lên những cơn co giật khủng khiếp, người nóng như than, mặt xám lại Chúng tôi đề nghị để lại một người chăm sóc ông ta nhưng Phơrăngxoa Pơriê không nghe. Y dồn tất cả chúng tôi vào núi đào vàng và lọc quặng. Buổi tôí, khi chúng tôi trở về thì người Hà Lan đã chết. Phơrăngxoa Pơriê sai ném xác người Hà Lan xuống sông. Quạ lập tức bu đen trên thây người chết... Mỏ vàng gần như lộ thiên. Sụ hào hứng khiến chúng tôi quên mệt nhọc. Đến ngày thứ ba, chúng tôi bị thổ dân tấn công. Chúng tôi co cụm lại. Những người thổ dân cầm dao, gậy đứng từ xa chửi rủa và dùng đá ném chúng tôi. Họ có ý muốn đuổi chúng tôi chứ không có ý gì khác. Người Việt dẫn đường đi theo chúng tôi đã biến mất ngay từ khi những người thổ dân xuát hiện. Phơrăngxoa Pơriê nói tiếng Việt rất tồi. Y giơ cao tấm thẻ tín bài của vua Gia Long nhưng vô hiệu. Đáng lẽ chúng tôi phải rút ngay nhưng Phơrăngxoa Pơriê không kìm chế được. Y nổ súng. Một người thổ dân trúng đạn. Số còn lại chạy tán loạn. Chúng tôi đòi Phơrăngxoa Pơriê quay về nhưng y không nghe, y bắt chúng tôi tiếp tục làm việc. Vàng đã làm cho y lóa mắt và mụ mị đi. Buổi chiều khi chúng tôi quay về lều thì thấy đầu lâu của người Việt dẫn đường cắm trên cọc nhọn ngay bên cạnh đấy. Trời nóng như thiêu, chúng tôi thấy rất nhiều quạ bay từ rừng trên, vừa bay vừa kêu những tiếng man rợ. Khoảng nửa đêm, lửa bốc cháy dữ dội xung quanh lều. Những mũi tên lẩm thuốc độc ở đâu bắn đến như mưa. Năm người trong đoàn chúng tôi chết ngay. Phơrăngxoa Pơriê mang theo số vàng đãi được mở con đường máu thoát ra. Lửa nóng quá. Trước mặt, sau lưng, trên trời, dưới đất, đâu đâu cũng thấy lửa cháy rùng rực...” Hồi ký của người Bồ Đào Nha vô danh không viết gì thêm. Tôi, người viết chuyện này đã cất công đi tìm các thư tịch cổ và hỏí han nhiều bậc bô lão. Không có tài liệu gì và cũng không ai biết gì về thung lũng Quạ hoặc chuyện của những người châu âu thời vua Gia Long. Mọi cố gắng của tôi trong nhiều năm nay vô hiệu. Tõi hiến bạn đọc ba đoạn kết cho câu chuyện này để bạn đoc tùy ý lựa chọn. Đoạn Kết I Đoàn tìm vàng còn sót lại ba người. Phăng bảo toàn nguyên vẹn số vàng đào được mang về. Vua Gia Long vui mừng vì đã tìm được mỏ vàng. Nhà vua cho khoanh vùng thung lũng Quạ và cho tiến hành khai thác mỏ. Phăng được cử trông coi việc này. Hai người châu âu sót lại trong đoàn tìm vàng cũng được mời tham gia nhưng họ từ chối. Phăng trông coi việc khai thác mỏ vàng trong hai năm. Vua Gia Long rất tin cẩn y và thường ban cho y những bổng lộc hậu hĩnh. Một hôm, người ta đưa đến cho y món ăn quý do nhà vua ban: món chim hầm bát bảo nấu rất công phu. Phăng an xong thì thấy bụng đau cồn cào dữ dội, mắt trợn ngược, máu ộc ra đầy mồm miệng. Y chết ngay trên bàn ăn. Trong một quyển sổ ghi chép còn sót lại của y, người ta đọc thấy những dòng chữ sau: “Tất cả những cố gắng của con người hướng về điều thiện đều là nhũng cô gắng đau đớn, nhọc lòng. Điều thiện hiếm như vàng và sau đó phải được vàng bảo đảm nữa mới có giá trị thực. Chúng ta sống vô nghĩa, nghèo khó và đau khổ trong những lý thuyết chắp vá đầy ngụy biện; những môí bất hòa kỳ thị dân tộc và đẳng cấp; những kinh nghiệm sống của chúng ta mong manh và vụn vặt xiết bao. Đến bao giờ, hỏi đến bao giờ, trên mặt đất này xuất hiện tiến bộ?” Đoạn Kết II Thoát khỏi biển lửa, đoàn tìm vàng sót lại một mình Phăng. Y mang số vàng tìm đến được dinh quan sở tại. Phăng đưa tấm thẻ tín bài có dấu triện của vua Gia Long xin được che chở. Quan huyện là một vị túc nho già, biết nghề thuốc. Phăng đã dưỡng bệnh ngay tại huyện lỵ hẻo lánh này. Con gái quan huyện là Vũ Thị còn trẻ nhưng góa chồng mang lòng yêu mến y. Sau khi Phăng vể kinh đô, y được vua Gia Long ban thưởng hậu hĩnh. Nhà vua đã cho tiến hành khai thác mỏ vàng. Lúc này ở châu âu , nền Đế chế của Napôlêông Bonapac đã sụp đổ. Châu âu chín chắn hơn. Họ đã bắt đầu hiểu vẻ đẹp và vinh quang một dân tộc không phải do cách mạng hoặc chiến tranh mang lại, cũng không phải do các nhà tư tưởng hoặc các Hoàng đế mang lại, bởi vậy họ sống đỡ căng thẳng hơn, giản dị hơn, hợp tự nhiên hơn. Phăng xin vua Gia Long mang theo Vũ Thị và một số vàng lớn hồi hương. Về Pháp, ông lập một ngân hàng và sống sung sướng đến già. Ông thường kể lại cho con cháu nghe về những kỷ niệm quá khứ, về những biến cố ở xứ An Nam xa xôi. Theo ông, thời kỳ ông ở An Nam mới là sự bắt đầu lịch sử của quốc gia người Việt, khi này biên giới phân định, chữ viết có gốc từ chữ La tinh phổ biến, người Việt dần thoát ra sự cầm tù đáng sợ của nền văn minh Trung Hoa, có những mối giao lưu chung với cộng đồng nhân loại. Đoạn Kết III Tất cả đoàn tìm vàng bị giết chết. Lính triều đình bao vây và tấn công họ chứ chẳng có thổ dân nào cả như trong hồi ký của người Bồ Đào Nha vô danh lầm tưởng. Người ta tìm được vàng giấu trong đồ đạc của những người châu âu, nó lẫn trong quần áo và ở cả trong những sổ sách ghi chép. Vua Gia Long cho xung công và sau đó cử một người trong hoàng tộc đứng ra lo việc khai thác mỏ vàng. Cuối đời, vua Gia long sống trong cung cấm, tìm cách tránh mọi tiếp xúc với bên ngoài. Nhà vua rất ghét những ai nhắc lại mối quan hệ với người này, người nọ khi nhà vua còn hàn vi, dù đấy là người Việt, người Trung Hoa hay người châu âu nào khác. Triều Nguyễn của vua Gia Long lập ra là một triều đại tệ hại. Chỉ xin lưu ý bạn đọc đây là triều đại để lại nhiều lăng. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vấp ngã[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Thanh Bình[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chưa bao giờ tôi mang cảm giác của người ra đi. Không gian quen thuộc gò bó và bực bội đến khó tạ Thế rồi cũng có lúc tôi chìm đắm trong cảm giác ấy. Năm ấy tôi 18 tuổi. Sân ga đông nghịt người. Người đi thì ít mà người đưa tiễn thì nhiều. Người mà tôi không ngờ nhất là chạ Tôi với ông vốn không hợp tính nhau. Nói câu trước câu sau cha không nổi cáu quát ầm lên thì tôi cũng bỏ đi. Chưa bao giờ tôi có được với cha một lời tâm sự Chiều ấy, cha xin nghỉ sớm để tiễn tôi. Cả mẹ và hai cô em gái. Mẹ nói rất nhiều, dặn dò rất nhiều. Những điều mẹ sực nhớ ra trong đêm qua và những điều cũ, me nhắc lại. Sau cùng mẹ lại im lặng. Hai đứa em lần đầu ra gạ Ngơ ngơ ngáo ngáo nhìn. Cười toẹt vào những cảnh chia taỵ Những nụ hôn tạm biệt vội vàng. - Y như trong phim ấy! - Họ không dị nhi? Cười rúc rích, giấu mặt sau lưng mẹ Tiếng cười và cái nhìn của chúng làm người ta khó chịu. Phút riêng tư, không ai muốn bị người khác chõ mồm vào giễu cợt, bình phẩm. Cha đem túi xách lên tàu cho tôi - Nhớ viết thư về ngay. Tôi ngồi vào chỗ của mình, nhìn mọi người qua cửa sộ Mong mau đến giờ tày chạy. Mong nhìn thấy những khung cảnh khác nhau chạy qua ô cửa sô? Nhập trường. Toàn những người lạ May sao lại kiếm được một cô bạn đồng hương học cùng khoa cùng lớp. Mừng hơn trúng số độc đắc. Dắc nhau lên ban quản lý ký túc, kèo nhèo xin cho hai đứa được ở chung phòng. Ông bảo vệ già thấy thương hại sao đó cũng góp lời xin hộ Biếu ông một bao thuốc rẻ tiền mà ông không nhận. - Tao coi chúng mày như con. Còn trẻ mà đã biết tình biết nghĩa thế tao thương. Linh đứng trước tôi với mái tóc cắt ngắn, nham nhở và bụi đời. Mặt vênh vênh thấy ghét, tựa như ta đây có giá lắm. Tôi không có ý kiến gì song không giấu được vẻ bực bội. - Trông thế nào? - Mạnh bạo và bụi đời không ta. - Xinh hơn chự Biện pháp tiết kiệm dầu gội đầu khi túi ít tiền. Công nhận có xinh hơn nhưng tôi thích nhìn Linh với mái tóc dài hơn. Lúc ấy Linh hiền lành và dịu dàng lắm. Chắc Linh đã đọc được ý nghĩa ấy, nhún vai khinh bạc. - Phải vậy thôi. Người biết sống là người thức thời, hòa nhập với hoàn cảnh. Dân thành phố đều vậy ca. - Nhưng mày có phải dân thành phố đâu? - Chưa. Nhưng sẹ Không lẽ ra trường rồi mày quay trở về thị trấn buồn tẻ đó sao? Tôi chịu thua lý lẽ của nọ Mười tám tuổi. Định hướng cho tương lai trong tôi mờ tịt lắm, chưa biết nên thế nào. Mới vào năm đầu mà Linh đã nhìn thấy ngày ra trường. Có lẽ bán trụ thành phố là ước mơ và mục đích lớn nhất của nó hiện thời. - Không khéo mày sẽ hư đấy. Phải cẩn thận mới được. - Đào, mày có phải là mẹ tao đâu. Tao tự lo được tất ca. Tôi quyết định không nói gì thêm. Cả tôi, cả Linh đều còn quá trẹ Vấp ngã là điều khó tránh khỏi. Chỉ sợ ngã đau quá không đứng dậy nổi. Thói hư dễ nhiễm hơn điều tốt. Linh đã không thèm đếm xỉa đến lời khuyên của tôi. Xa gia đình, với nó là sự giải thoát. Nó đã sống và trưởng thành giữa những tiếng cãi cọ, chửi bới và tiếng vỡ của đồ đạc. Cũng như tôi. Cha suốt ngày để mắt vào những việc tôi làm mà xét nét. Lắm lúc tôi phải vào nhà tắm, đóng cửa lại và khóc trong đọ Mong một chuyến đi xạ Hóa ra tôi cũng như Linh, chẳng tốt đẹp hơn bao nhiêu. Ấy vậy mà tôi lại cho Linh lời khuyên mà không biết xấu hộ Có khác chăng là tôi vẫn cố thủ, bo bo giữ mình trong lúc Linh nhanh chóng hòa nhập, thích nghi với cuộc sống mới. Biết đâu một ngày nào đó tôi sẽ cởi tấm áo cũ, khoác lên người manh áo phù hoa và lao vào cuộc sống mới. Giống như con thiêu thân lao vào ngọn đèn dù vẫn biết mình sẽ bị ngọn lửa ấy thiêu cháy. Khuya, Linh vẫn chưa vệ Mấy đứa trong phòng đã đi ngủ cạ Chỉ còn bóng điện nhỏ tít trên trần, thả xuống chùm sáng hiu hắt, mờ ảo. Nhìn không rõ bàn taỵ Giường Linh sực mùi nước hoa, mùi keo xịt tóc và những mùi thị thành khác. 11 giợ Tôi bắt đầu lo cho nọ Cổng ký túc xá đã đóng lâu rồi. Hy vọng nó biết lối vào qua cổng phụ được tạo bởi một thanh sắt gãy. Nó theo lối ấy mà vào. Nhưng mong sao nó đừng ngủ đêm ở bất cứ đâu. Nó đã quen với mọi đường ngang ngõ tắt trong thành phộ Tôi vẫn không dám đi đâu xa sợ lạc đường. Những chàng trai nó quen cũng rất khác. Tôi có hỏi, nó phẩy tay: - Bạn sơ giao ấy mà, thân thiết gì đâu. Và nó quay ngược mũi dùi chỉa vào tôi: - Bọn ấy tao "bơ" lúc nào chả được. Không phải như Kiên của mày. - Sao bây giờ mới vê? - Sinh nhật. Bọn nó giới nghiêm không cho vê. Tôi trải giường cho nọ Muốn nói chuyện, đành để khi khác. Chẳng biết khi khác ấy là lúc nào. Thời gian nó ở phòng ngày một ít đi. Lắm khi vắng mặt trong giờ học. Ban đầu ăn cơm chung cả phòng. Sau đó nó ăn cơm quán. Tôi không can nó, sợ nó cáu lên rồi giận, dọn ra ngoài ợ Tôi sẽ mất nọ Tình bạn đầu tiên của quãng đời đại học. Mất cả những cảm giác êm đềm khi ở bên nọ Có thể nó sẽ sa nga. Dạo này không mấy khi Linh có mặt ở phòng. Ở giảng đường thì bữa đực bữa cái. Không biết nó đi đâu mà khỏe đi. Một ngày tôi phải trải ra cho cả hai. Cho tôi và cho nọ Nó thì cứ dửng dưng thư thể tôi là người lạ Xung quanh nó đã nổi lên những lời xì xào. Tôi đau như thể người ta đang nói về chính tôi. Xấu hổ tựa mình vừa làm một việc xấu xa, khốn nạn. Nó đi làm tiếp viên trong quán bar. - Tao khác mày. Tao không thể nhẫn nhịn, cam chịu hoàn cảnh. Ai cũng có lương tâm và sự hướng thiện cạ Mày tin tao không? Chao ơi, không tin mà tôi lại dõi mắt theo nọ Lo đến quặn thắt lòng ngực khi khuya mà nó chưa vệ Lo cho nó còn hơn lo cho bản thân. Sợ nó rơi vào cạm bẫy. Nó nào đã biết gì vì cuộc sống dưới ánh đèn mà đã vội xông vào mà vồ vập. Giá nó thận trọng hơn, điềm tĩnh hơn. Mà chao ôi, giá nó nghĩ đến tôi một ti. Kiên đến, mang theo gói quà to bao bọc sặc sợ Đi sinh nhật. Tôi ngần ngừ, nghĩ đến cơn say của Linh hôm nào, định không đi. Kiên cáu: - Em buồn cười nhị Lâu lâu mới có một lần. Thằng này là bạn thân của anh. Anh phải cho chúng nó biết người yêu anh hơn người yêu của chúng nọ Sẽ có đứa lắc mắt ghen tỵ Sẽ tôn em lên làm nữ hoàng. Người đẹp như em, ru rú ở xó nhà làm gì cho cũ người ra. Hoá ra tôi đã là người yêu của Kiên rồi cơ đấy. Bao giờ nhỉ, sao tôi không được biết? Kiên vung tay loạn xạ, cố thuyết phục. Tôi xiêu lòng, cũng muốn thử một lần hương vị phù hoa nó ra sao, có sức hấp dẫn gì mà Linh cứ lao đầu vào no. Kiên cười tươi: - Thử một lần đi, rồi em sẽ thích ngay ma. Ly rượu màu mà Kiên nói rượu khai vị, uống cho hồng má đỏ môi làm tôi chếnh choáng saỵ Mí mắt nặng trĩu như muốn rơi xuống. Người nhẹ hẫng. Những ngọn đèn trở nên nhạt nhoà, hư ảo. Kiên choàng tay qua vai tôi. Tôi biết rõ hành động đó, muốn hất ra mà không được, lại ngã đầu vào ngực Kiên. Trên sàn nhảy là ngưỡng người to đùng. À không, hai người: họ dính vào nhau quá sát... Ra vệ Thất thiểu trống vắng. Mất mát. Bây giờ có ai hỏi tôi mặt trời đã mọc chưa, mọc ở hướng nào tôi cũng không biết hoặc có trả lời cũng sai bét. Tôi đã không còn là tôi của hôm quạ Tôi đã là một người khác. Sang một trang mới mà ai đó đã bôi đen hoàn toàn những ước mơ cứng mà lạnh khốc. Tôi xấu hổ với tôi, xấu hổ với Linh. Cao đạo, bo bo cho lắm để cuối cùng nhắm mắt trượt từ đỉnh cao trinh nguyên xuống dốc sâu nhơ bẩn xấu xạ Bố ơi, mẹ Ơi, Linh ơi! Trong phòng chỉ có mình Linh. Tôi hơi ngạc nhiên và im lặng. Kiểu im lặng quen thuộc, nay thêm cả sự chán chường. - Tao lên giảng đường, không thấy mày nên tao vệ Đêm qua mày không vê? Giật mình cười gượng, tưởng tượng Linh đã biết tất cả. Nó đang lột trần tôi ra mà hạch sách, tra khảo chỉ để biết rõ hơn mà thôi. Nó như vị quan tòa nghiêm khắc còn tôi là bị cáo. Ánh mắt nó sục sạo vào mọi ngõ sâu của tâm hồn tôi mà tìm kiếm. "Lần đầu đấy". - Tao ở lại nhà đứa bạn tao. Tôi lấp liếm mà quên mất nó thừa biết tôi có rất ít bạn. Lại không có ai thân đến mức tôi sẵn sàng ngủ lại đêm. Nó im lặng quay đi. Tôi ngàn lần cảm ơn nó về điều ấy. Trời mưa, buồn như không thể buồn hơn. Quê nhà lại hiện vệ Thị trấn nghèo và yên tĩnh. Thế mà có lúc tôi lại muốn chạy trốn khỏi nó, xa cái quen thuộc mà buồn tẹ Rất ít khi ký ức kéo tôi về nơi ấy. Thẳng hoặc tôi có gặp lại tuổi thơ của mình trong giất mơ chật chội, khi tỉnh dậy, mắt đầm đìa nước, người ướt đẫm mồ hôi. Giữa nỗi đau và mất mát, tôi thèm được trở vệ Tôi thương cha, thương mẹ, thương hai đứa em và cả vùng quê nghèo khọ Tôi biết cha không độc đóan, khắc nghiệt đối với đứa con gái vốn có dòng máu lãng tử trong người như tôi, mà do đói nghèo, thiếu hụt luôn vây quanh bẳng gắt khó chịu. Dù sao, là con gái tôi cũng là máu thịt của cha mẹ mà ra. Hẳn cha rất khổ tâm về điều đọ Nhất là khi tôi đi xạ Một khoảng trống vô hình mang tên tôi hiện ra, kèm theo những trống vắng và nhớ thương. Tôi lại là một đứa con gái bướng bỉng. Tối thứ 7. Kiên không đến. Từ buổi tối sinh nhật khốn nạn hôm nào Kiên đã không vác mặt đến. Cũng không một lời nhắn nhủ gì. Kiên là đàn ông. Mà đàn ông vốn mang dòng máu sở khanh trong người. Bởi thế Kiên không có lỗi. Kẻ có lỗi là tôi. Tôi đã không nhận ra điều này sớm hơn. Khi quá muộn màn tôi không còn gì để ân hận. Kiên như cánh bướm trời, phất quýt. Xong thì đập cánh bay đi. Bỏ lại những bông hoa tàn rũ cả phấn hương mà không động lòng thương xót. Linh ở nhạ Độ này nó trầm lắng hơn. Bất cần can đi. Nhiều khi nó ngồi bó gối ở góc giường, lãnh đạm và lạnh lùng. Nó đã quên cả thói quen tâm sự với tôi mọi chuyện. - Sang đây nằm với tao, buồn quá! Nó rụ Tôi cài cửa phòng, sang với nọ Hai đứa nằm im bên nhau. Thấy khó mở miệng. - Mày đã yêu ai chưa. Nó hỏi: Im lặng. Yêu chưa? Chưa. Sao đã vấy ngã rồi? - Tao yêu. Muốn được làm vợ để chăm sóc cho người mình yêu. Để làm mẹ của những đứa trẻ kháu khỉnh dễ thương. Đơn giản vậy thôi mà tao đã không có được. Chó má! Tôi lặng lẽ khóc. Nỗi đau cố gắng chôn vùi tận sâu đáy lòng cứ trồi lên cào xé, hóa thân thành những giọt nước mắt trong veo, mặn chát. Tôi cũng có ước mơ giống nọ Có được một gia đình hạnh phúc. Một người chồng thương yêu vợ và những đứa con giỏi giang, ngoan ngoãn. Ước mơ tưởng trong tầm tay bỗng dưng vỡ vụn thành những mảnh vỡ sắc nhọn, làm chảy máu tay người cầm nọ Cứa sâu vào nỗi đau. - Mày cũng vậy sao? Tại sao như thế hả Tao tưởng mày phải khác đi chự Tao chơi bời, hư hỏng. Còn mày, sao cũng mù quáng thê? Linh khóc, khóc nấc lên như bị đòn oan. Gương mặt đầm đìa nước của nó dụi vào ngực tôi bỏng rát. Nỗi đau cùng hưởng trở nên đắng chát vô ngần kèm theo bất hạnh - Chúng mình đã bị loá mắt vì hào gia. - Trò chơi dại nào cũng phải trả gia. Chua xót nghĩ "Tại sao chúng mình hiểu được điều này khi đã quá muộn. Khi mọi sự đã rồi. Miếng rách, dù có vá bao nhiêu cũng không thể lành lặn như cũ. Có sẹo mất rồi" Chúng tôi thiếp đi bên nhau. Như ngày đầu mới quen, dắt nhau lên ban quản lý ký túc. Giấc ngủ không thanh thản. Hàm răng nghiến chặt. Mặt căng lại giận dữ như nung nấu căm thu. Có tiếng đập cửa thùng thùng và tiếng hét giận dữ: - Mở cửa ra. Chúng mày đã chết cả rồi sao? Trở mình. Chết mà giải thoát thì chẳng còn ai muốn sống.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Về làng [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bùi Hiển[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cách rất thái bình, ba người đàn bà ngồi thành hàng dọc bắt chấy cho nhau. Con Thơi ngồi bên ngạch cửa, bằng những cử động nhỏ và lẹ của ngón tay, vạch mái tóc ả Đỏ, chị dâu nó. Người chị dâu, ngồi chồm hỗm trên một cái ghế đòn, đến lượt mình quào quào trên đầu mẹ chồng. Mụ Chuồng ngồi bệt trên đất, hai chân duỗi bắt chéo, hơi dựa ngửa để vịn cùi tay lên đùi con dâu. Mắt lim dim, mụ mím miệng cắn cắn một cái gì, làm cho thịt má phía trên quai hàm nổi lên. Mỗi khi ai bắt được con chấy, người ấy bèn cặp nó giữa hai đầu ngón tay, vuốt dọc sợi tóc, rồi đặt lên bàn tay người bấy lâu đã cho nó ở cư. Người này nhìn một chút xem con bọ có béo không, trước khi đập bàn tay lên miệng cho nó bật lên lưỡi. Lưỡi lo le vài cái để đặt đúng con chấy giữa hai hàm răng, rồi người ta nghe một tiếng "cốp" nhỏ. Chợt có tiếng ai nói ngoài cổng: "Đây rồi". Mụ Chuồng đứng thẳng dậy nói: - Ai như nhà Đỏ Chuồng ấy. Một người đàn ông trẻ mặc sơ mi và quần Âu đi vào, dắt tay một cô gái áo hồng dài lê thê, quần nhiễu trắng, dép cao gót. Mấy đứa trẻ chạy theo, kháo nhau: "Bà đầm à, bay?". Ba người đàn bà đứng sững mà nhìn. Mụ Chuồng đã nhận ra con trai của mình, nhưng thấy con đi với người lạ ăn mặc sang trọng thì chưa dám nhận. Mụ hỏi: - Nhà Chuồng đó phải không? Người con trai cau mày, đáp: - Chả tôi thì còn ai! Đoạn anh quay lại cô gái tân thời: - Vào đây em, Tuyết, cứ đòi về quê mãi, đã thấy quê chưa? Tuyết sẽ gật đầu chào mụ Chuồng, rồi vừa đi vào vừa hỏi nhỏ: - Bà via đấy phải không? Hai người kia là ai? Em Chương đấy hả? Mụ Chuồng và hai con vẫn đứng nhìn, cách khiếm nhã. Chương bèn bảo: - Thơi, xuống bắc siêu nước, mau. Rồi múc một thau nước lên đây. Quay lại, anh trừng mắt nhìn vợ, ả Đỏ bỏ xuống bếp. Mụ Chuồng không biết làm gì, đuổi mấy đứa con nít ra, đóng cổng rồi cũng đi theo ả. Chương đưa Tuyết vào nhà. Lo lắng dò sự phản ứng của nhân tình, anh hỏi: - Thế nào, có khó chịu lắm không? Tuyết ngửng nhìn quanh: - Dễ coi đấy chứ. Cũng sạch sẽ, ngăn nắp. Chương tỏ vẻ vui sướng. Anh nói: - Thế nhưng không ở được lâu đâu. Tự giam mãi, đây chết buồn mất. Tuyết đi rửa tay. Mụ Chuồng ló mặt sau tấm vải nâu che cửa buồng gọi: - Nhà Chuồng! Vô hỏi. Chương đi vào, đưa mẹ xuống bếp để nhân tình khỏi nghe câu chuyện mình sắp nói. Anh gắt mẹ: - Cái mồm thì cứ bô bô. Chuồng! Chuồng! Là cái quái gì? Cái tên mẹ đặt cho tôi hay ho quý báu lắm đấy mà mẹ tưởng tôi giữ mãi làm của hương hỏa? Mụ Chuồng đáp chậm và dài giọng: - Thì ai có biết! Người con trai gắt nữa: - Không biết thì câm đi. Từ giờ tôi tên là Chương, ai quên tôi cắt miệng. Chương là một đứa đẻ rơi. Mụ mẹ đang cho lợn ăn bỗng thấy quặn đau, ngồi quỵ cạnh chuồng. Thằng bé lọt lòng giữa mùi phân và những tiếng ủn ỉn, người ta đặt ngay cho nó, cách thực là giản dị, cái tên thằng Chuồng. Vả như thế, càng dễ tránh sự dòm ngó không hay của ma quỷ. Mụ mẹ đã đẻ bốn lần không nuôi được, lần này phải đặt cho nó một tên thực xấu, đến ma quỷ cũng lảng xa. Cha Chương làm nghề đánh cá, vừa đủ cung cấp cho sự sống của gia đình nếu mùa lưới được. Lên sáu, Chương phải đi "hôi", nghĩa là khi có thuyền vào bán cá thì bơi ra bám lên ngồi thu lu một xó, rồi trong lúc không ai ngờ, thò tay đánh cắp vài con. Người ta bắt được, xô cho lăn tòm xuống sông: nó lại lóp ngóp bơi vào bám lấy thuyền. Khi cha bị cảm chết, Chương vừa mười tám tuổi và đã cưới vợ được ba năm. Anh bỏ ra Mông Dương làm mỏ. Vừa gặp thời vận, lại khôn ngoan, lanh lợi, anh dấy nghiệp rất mau, từ phu lên cai, rồi nhẩy ra làm thầu khoán, gây được số vốn vài vạn. Tên Chuồng xấu xí không còn ăn nhịp với cái xã hội giàu sang anh vừa bước chân vào. Khéo léo anh đổi sang tên Chương. - Tôi cắt miệng. Chứ đừng có tưởng! - Chương nhắc lại. Mụ mẹ bị cự ngồi yên, miệng bìu bĩu, Chương hơi hối, bắt sang chuyện khác. Anh rút từ túi quần ra một tệp giấy bạc: - Này mẹ cầm lấy đây mươi đồng, bảo con Thơi chạy ra chợ mua cái gì về thổi cơm ăn. Bảo nó nấu cho sạch sẽ ngon lành một chút. Mụ Chuồng nhận tiền, đổi sang vẻ mặt hí hửng. Mụ nhớ lại ý định của mụ khi gọi con vào buồng, ý định mà nãy giờ, bị cự, mụ đã quên đi. Mụ chỉ tay về phía nhà trên, hỏi khẽ: - Chớ ai ngoài ấy? Chương im lặng một giây. Rồi như để đánh tan sự do dự, anh nói bật ra, giọng to gần như khiêu khích: - Vợ tôi đó, chứ ai nữa! Mụ Chuồng hơi sa sầm mặt, tuy đã ngờ tới điều đó ngay từ khi hai người vừa bước chân vào nhà. Chương vội tiếp, dùng kế kim tiền ngừa sự trái ý của mẹ: - Thôi mẹ đi mau lên, đói bụng rồi. Để hôm nào tôi cho mẹ dăm chục. Đoạn anh đi lên nhà trên. Thấy con dâu và con gái ngồi ngoài chỗ vại nước rửa, mụ Chuồng đi ra. Mụ nói: - Thật rồi, bay nạ, hắn lấy vợ đằng ngoài. Cái con ấy là vợ hắn đó. Con Thơi ngửng nhìn chưa tỏ vẻ gì. ả Đỏ thì cúi mặt, lẩn mẩn dùng ngón chân cái bẩy đất lên. ả im lặng, không khóc, mắt chỉ hơi buồn chút thôi. Chồng ả bỏ đi làm ăn biệt tăm thế là đã bảy tám năm: ả vẫn ở vậy, làm đủ bổn phận người con dâu trong gia đình và cam chịu cảnh cô đơn, lâu ngày thành thói quen nhẫn nhục. Mụ Chuồng giao tiền cho con Thơi đi chợ. Mụ dặn mua lòng lợn, miến, cua, những thức ăn sang đối với nhà mụ. Con Thơi đi rồi, mụ hỏi ả Đỏ: - Giừ làm cách nào nạ? Hồi lâu, ả Đỏ mới đáp, giọng hơi chua chát: - Làm cách nào? Anh ấy đi làm có tiền, thì anh ấy lấy vợ đẹp, vợ sang. Tôi thì đáng cái chân xách dép cho người ta thôi. Chợt trên nhà có tiếng Chương gọi: - Thơi ơi! Thơi! Mụ Chuồng gọi vọng lên: - Con Thơi đi chợ rồi. Mụ bảo con dâu: - Nhà mi lên một tí, coi hắn nhủ chi. ả Đỏ đáp xẵng: - Tôi chả. ý chừng sợ bật khóc, ả bỏ vào bếp. Mụ Chuồng đành lên vậy. Mụ hỏi Chương: - Nhủ chi đó? - à, tưởng con Thơi còn ở nhà thì mượn thay cho thau nước. Mụ Chuồng đi thay nước, bưng lên, đoạn đến ngồi bệt trên ngạch cửa cách tự nhiên. Trong khi Chương rửa mặt, Tuyết mở ví ra soi gương điểm trang lại. Mụ Chuồng chăm chăm nhìn cô ta một cách tò mò mê mải. Mụ thấy cô ta tấp tấp nhẹ cái nhúm bông lên mặt, phiết lên đó những vạt phấn trắng. Rồi cô ta thoa đều, nghiêng mặt bên này, bên kia, ngước ngắm thoa cổ, săn sóc đến cả vành tai. Đoạn cô ta làm má hồng, kẻ lông mày, dệch miệng ra mà tô môi son. Mụ nhìn những trò kỳ dị ấy, lòng gần như rợn sợ. Cái người lịch sự, răng trắng nhởn, quần áo xanh đỏ kia muốn xen vào gia đình của mụ? Mụ có hắn làm con dâu? Làng nước sẽ cười mụ thối đầu! "Con dâu như thế để hầu hắn à? Liệu có gánh nước được không? Nấu nồi cơm chưa chắc đã chín!" Mụ nghĩ thầm. Chương thay quần tây đẹp vào, tới gần nhân tình âu yếm hỏi: "Xong chưa?". Tuyết gật. Hai người sửa soạn ra đi. Mụ Chuồng hỏi trống không: - Định đi mô giừ đó? Chương đáp: - Dạo xem làng một chút. Ghé ra chợ, lên chùa rồi về ngay. Mẹ bảo con Thơi làm cơm nhanh nhanh. Mụ Chuồng nghĩ: "Dắt hắn đi nhong nhong giữa làng để bêu xấu tao à?" Bìu bĩu môi mụ nói: - Thôi, đi về mệt, nằm nghỉ một tí rồi mà ăn cơm. Chương nhất quyết ra đi: - Chúng tôi về ngay mà. Chương đem vợ mới về làng do một ý hợm: cho thiên hạ biết cái thằng Chuồng mắt toét đi hôi cá thủa xưa bây giờ giầu sang hơn cả mấy ông trọc phú trong làng đến bực nào. Một ý hợm có chen láo xược: anh kể như không có vợ ở nhà, người vợ quê mùa xấu xí bố mẹ đã cưới cho và đã sống cạnh anh ba năm. Chương và Tuyết đi rồi, mụ Chuồng vẫn ngồi nói một mình: - Chẳng biết hắn cho ăn phải bùa phải bả chi mà đeo đẳng lấy hắn. Vốn nòi nhà quê cần cù, mụ thù ghét bọn tỉnh thành đài các nhởn nhơ. Việc con mụ về làng cặp theo một cô tân thời làm mụ hổ thẹn: hàng xóm sẽ nghĩ như mụ rằng đó chỉ là một con đĩ rông dài, sống để phung phí ăn chơi và để được hầu hạ. ả Đỏ đang cho lợn ăn; ả ngoáy mạnh bàn tay trong chậu, trộn đều cám và bèo, dáng nhanh nhẹn, tháo vát. ả vẫn làm đủ công việc , vẫn chăm chỉ, tuy vẻ buồn có thoáng ở hai môi mím và mí mắt trập. Mụ Chuồng cũng chẳng hề có ý tưởng so sánh ả Đỏ với Tuyết nữa; ả Đỏ trội hẳn lên. Mụ đi ra, đứng cạnh con dâu, tay chống cột chuồng. Mụ càng thương mến ả Đỏ hơn bởi hai người cùng chịu một nỗi đau buồn. Mụ nói vẩn vơ để dắt tới chuyện Chương và Tuyết: - Hai đứa đi ra chợ rồi. Người con dâu không đáp, vẫn cúi nhìn đàn lợn ăn hộc tốc, nhui mõm trong chậu. Mụ tiếp, lời hơi hoa hòe nữa: - Thứ đàn bà ấy thì tốt đẹp chi. Hắn như con bướm liệng vành, chán rồi là bỏ. Giọng mụ đổi sang quả quyết: - Hắn đã bỏ bùa thì ta giã bùa. Thẹn với làng nước lắm. Mi cứ nín lặng, rồi lấy cái yếm vừa mới thay ra ấy... ả Đỏ ngắt lời: - Tôi chả! Mụ Chuồng hơi gắt: - Con ni dở hơi lắm. Thế cứ chịu để hắn cướp mất chồng à? Để tao nhủ con Thơi đi bứt ít lá mùng tơi về hấp cơm rồi đùm trong cái yếm của mi, rồi nấu canh cho nhà Chuồng hắn ăn, là tỉnh mê liền. ả Đỏ coi ý ưng thuận. Nhưng ả vẫn nói nho nhỏ trong miệng "Tôi chả..." như thể ả nghĩ như thế là hạ mình. Vừa lúc Chương và Tuyết về. Chương hỏi: - Sắp có cơm chưa? Mụ Chuồng đáp: - Đang nấu. Em hắn cũng vừa về. - Bảo nó nhanh lên chứ. Mụ Chuồng và ả Đỏ bỏ xuống bếp làm cơm. Chương nói với Tuyết: - à, sáng nay xuống tàu mà quên hỏi nhà ga xem đúng mấy giờ thì tầu tốc hành ra Bắc ngang qua đây. Mụ Chuồng dừng lại hỏi: - Sao? Lại ra liền à? - Sáng mai chúng tôi đi sớm. - ở lại chơi ít ngày đã. Chả mấy khi về. - Ngoài ấy đang bao nhiêu công việc bề bộn, phải ra. Mụ Chuồng không nài thêm. Mụ tất tả chạy xuống bếp báo với con dâu: - Mai hắn ra Bắc rồi. Mau, mau, đi kiếm ít lá mồng tơi về tau làm cho. ả Đỏ nhờ Thơi đi bứt lá. Mụ Chuồng nói: - Hắn đi lật đật quá, thì không kịp coi thuốc đã hiệu nghiệm ra sao. Nhưng hiệu nghiệm thì ra ngoài ấy hắn sẽ bỏ con ni ra. Mi đi thay yếm đi. Nhớ đừng cho ai biết. ả Đỏ vội vàng vào buồng cởi ở mình ra cái yếm bẩn sắp dùng để ấp hơi mồ hôi của ả vào nhúm mồng tơi dành cho chồng ăn giải bùa.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vì tình[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thế Lữ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Anh Trần Văn quả không phải là người đẹp trai. Độc giả hãy tưởng một người trạc hai mươi nhăm, nước da đen, mũi to, nhô đại ra ngoài, cái trán cũng nhô trông như cái bướu, đôi lông mày rất rậm, làm cho cặp mắt cận thị của anh ta có một vẻ dữ tợn đến kỳ khôi. Anh ta ăn mặc quần áo tây nhưng người lùn mà cả ngang, dáng đi láu táu trông rất ngộ nghĩnh. Cả người anh ta cái gì trông cũng buồn cười. Tôi yêu bạn tôi đến đâu cũng phải nhận rằng bạn tôi trông xấu quá! Văn cũng tự biết thế. Có khi anh lại tự chế giễu mình để làm cho bạn hữu vui cười. Nhưng anh ta là một người tính nết thật thà, dễ tin người và có một tấm lòng tử tế hơn ai hết thẩy. Tôi lại phải nói cho độc giả hay rằng con người giản dị thực thà kia lại là người đa tình nữa. Chẳng biết đó có phải là điều "mai mỉa của số mệnh" không? Chỉ biết bạn tôi biết yêu, mà yêu say, yêu đắm, yêu thiết, yêu tha; tình yêu trong huyết mạch người con trai này sôi nổi như sóng bể. Nhưng trong bao nhiêu thiếu nữ mà anh ca tụng nhan sắc, anh ta không được lấy một cô nào để ý đến mình. Cái đó cũng không lấy gì làm lạ. Ấy vậy mà anh Văn cũng có một chuyện tình, hay một chuyện mà anh sẵn lòng gọi là chuyện tình thì đúng hơn. Câu chuyện thực chẳng hay gì cho anh ta, nhưng bạn tôi không muốn quên, mà mỗi khi nhắc tới, lại ra ý cảm động như người âu yếm vuốt ve một điều ký vãng êm ái. Đầu đuôi câu chuyện như thế này: Tháng chạp năm ấy, anh Văn lên Yên Bái, thăm một người bà con. Lúc trở về anh gặp một người thiếu nữ, ăn mặc giản dị, người rất đẹp, và rất có duyên, cùng đi với anh ta một chuyến xe hỏa. Người ấy ngồi ngay ghế trước mặt Văn, khiến cho anh chàng mở một quyển sách ra nhưng không đọc được câu nào hết. Văn là người nhã nhặn lễ phép, nên không dám nhìn lâu, sợ người thiếu nữ ngượng. Anh ta thỉnh thoảng mới sẽ kín đáo trông lên, để cho mắt được hưởng cái nhan sắc kia trong giây lát thôi. Cái lòng yêu mộ của bạn tôi thì thực nồng nàn, song chỉ dám biểu lộ ra đến thế là hết. Vả anh ta biết rằng mong hơn cũng chẳng được nào. Người thiếu nữ thì trắng trẻo thế kia, yêu kiều thế kia, trên khuôn mặt thanh tú ấy không chỗ nào đáng chê, còn mình thì... ôi chao! Bạn tôi chép miệng thở dài một cách rất chua chát. Rồi anh ta nghĩ bụng: "Giá mình được là người quen với con người nhan sắc như thế cũng đủ lắm rồi". Anh ta bèn cố tình đợi dịp làm quen. Thì may sao cái dịp ấy hiện ngay đến sau khi người thiếu nữ ra cửa toa để nhổ quết trầu. Xe hỏa về ngày gần Tết, nên rất đông; lúc cô kia ở cửa toa trở vào thì đã bị hai bác nhà quê chiếm mất chỗ. Người thiếu nữ thấy họ ra chiều không nể gì ai hết nên không nói gì, chỉ cau mày vịn tay lên mép cửa sổ gần đấy đứng nhìn ra cảnh tượng bên ngoài. Văn ngồi bên này tức hộ cô kia, liền mắng cho mấy bác đàn ông vô lễ mấy câu ra phết lắm. Đoạn anh ta đứng dậy, đến bên người thiếu nữ, lúng túng một chút rồi mời cô ngồi xuống chỗ mình. Người thiếu nữ không từ chối. Cô ta vén áo ngồi xuống, lại cám ơn anh Văn bằng một nụ cười. Thế là đủ cho bạn tôi bay ngay lên tận chín tầng mây. Anh Văn đứng bên người thiếu nữ, không giấu được sự vui mừng. Anh ta lấy dáng bộ rất tình tứ, làm như mình chẳng lùn một tý nào hết, và quên bẵng đi rằng mình hiện làm chủ nhân một cái "mũi sư tử", đôi mắt cận thị với cái trán gồ. Nhưng dẫu cho bạn tôi có nhớ đến cái xấu đáng giận của mình cũng không hề gì mấy,- anh ta cũng vẫn sung sướng được, bởi vì người thiếu nữ hình như không trọng bề ngoài lắm, và hình như chỉ cảm riêng vì tấm lòng quý báu của anh Văn tôi. Coi lối ăn mặc nhã nhặn của cô ta, Văn đoán là người nền nếp ở tỉnh nhỏ. Thế thì cô đã không có cái thói đỏng đảnh khinh người như bọn tiểu thư Hà Nội, họ chỉ ưa chuộng những công tử tốt mã bề ngoài. Anh ta lại thấy cô kia đi có một mình nên mới lấy thứ giọng bao dung và rất nhã nhặn mà hỏi: - Thưa cô, cô đi đâu? - Thưa ông, em xuống Hà Nội. - Thưa cô, cô xuống chơi hay có việc? - Thưa ông, em xuống hỏi nợ một người chịu tiền hàng. Rồi cô ta hỏi lại Văn: - Ông cũng về Hà Nội ư? - Thưa cô vâng. Thế rồi câu chuyện của hai người cứ thân thiết hơn, đằm thắm hơn lên, mà con mắt đắm đuối của người thiếu nữ thêm lóng lánh, thêm tình tứ... Anh Văn thì chưa thấy bao giờ mình có duyên đến thế. Anh ta cười bằng miệng cười xinh đẹp nhất, hắng giọng luôn để đỡ cảm động, và cứ chớp hoài đôi mắt cận thị để cho mình biết chắc rằng đây là sự thực, chứ không phải trong giấc mơ. Người bạn tốt của tôi thực không ngờ rằng lại được hưởng những giây phút êm đềm quá đáng ấy. Mà cái hạnh phúc mỗi lúc một tăng lên! Một lần tầu đỗ, hành khách lên ít, xuống nhiều. Người thiếu nữ lại ngồi nhích ra một bên, để cho Văn ta được ngồi cạnh. Lại một lần khác, người thiếu nữ đánh rơi chiếc khăn tay lụa, anh Văn nhặt lên hộ, lúc trả, được chạm đến bàn tay ngà ngọc của mỹ nhân. Rồi lại được mỹ nhân mời ăn trầu. Văn răng trắng, diện tây, nhưng cũng nhận lấy một cách rất lịch sự. Anh ta cứ hết lòng cảm tạ sự tình cờ đã làm cho anh gặp được người thiếu nữ, và trong trí đã thấy trước những chuyện tình duyên êm ái sau này. Có một người nhan sắc để mà yêu, để mà nhớ thương, để mà mong đợi đến cái ngày tốt đẹp kia là ngày được sánh vai người ngọc! ồ, còn gì sung sướng cho đời người hơn! Anh Văn thường ngỏ riêng với tôi rằng: "Tôi xấu thế này, chỉ mong lấy được một người có duyên thôi, thế cũng đủ mãn nguyện". Thế mà người thiếu nữ kia đã có duyên lại đẹp, lại sắc sảo, lại lễ phép, lại con nhà nền nếp, đủ mọi điều hay! Mà lại còn tỏ ra lòng quyến luyến anh Văn nữa kia! Cho nên một lời nói của cô ta, một cử chỉ của cô ta, cùng những ý tứ ở đầu mày cuối mắt cô ta, đã khiến cho trái tim bạn tôi nhiều lần đập mạnh lên dữ dội. Ngồi bên một người đẹp như thế thì đường dài đến đâu cũng là ngắn. Chả mấy chốc, xe lửa đã tới Gia Lâm. Rồi qua cầu. Rồi qua ga Đầu Cầu. Mọi người đều thu xếp để xuống. Người thiếu nữ buộc lại khăn vuông ra đằng sau gáy rồi đến đứng bên một cái va ly là hành lý của cô ta. Anh Văn lại bên hỏi: - Cô có ai ra đón tầu không? - Thưa ông, không ạ! Văn mừng thầm sẽ được dịp xách hộ va ly. Anh ta lại nói: - Từ Hàng Da tới Cửa Nam cũng gần, vậy trước khi ngược Yên Bái, cô ghé qua vào chơi nhà tôi. - Xin vâng. Người thiếu nữ lúc ấy đưa đầu ra ngoài cửa sổ trông về phía ga. Tầu dần dần chạy chậm lại. Văn đang tìm câu gì nói nữa bỗng nhiên cô ta quay lại, tái mặt đi. Văn ân cần hỏi thì cô ta gượng cười đáp: - Em đi tầu không quen, nên vừa đứng dậy đã chóng mặt. - Thế mà tôi tưởng cô phải cảm... Nhưng cô ngồi xuống, không mệt thêm. Người thiếu nữ ngồi xuống, mỉm cười nhìn Văn bằng đôi mắt mệt nhọc, dịu dàng và... âu yếm. Văn sướng quá, đỏ cả má, đỏ cả mũi, lần hết túi ba đờ xuy đến túi áo trong định tìm một vật mà không thấy, rồi phàn nàn: - Buồn quá! Tôi bỏ quên lọ dầu ở nhà ông bạn rồi. Không thì cô lấy một chút xoa cũng đỡ. - Nhưng không hề gì cả! Em cũng chỉ choáng váng một chút thôi. - Tuy thế cô cũng nên ngồi yên đấy để tôi mang hành lý xuống trước đưa cho mấy người nhà đứng đợi ở ga rồi tôi lên đón cô sau. Người thiếu nữ tỏ ý mừng rỡ và cám ơn Văn, nhưng cũng nói: - Như thế phiền ông quá. - Không. Nào, cô có những gì? - Em chỉ có cái va ly đó thôi. Nhưng phiền ông quá! - Không có gì mà phiền. Tôi đi không cũng thế. Lúc ấy tầu vừa đỗ. Cái va ly nặng lắm mà Văn ta làm ra bộ rất khỏe, coi như rất nhẹ, rồi hăng hái xách bước xuống sân ga. Bấy giờ thì anh ta cao lớn lực lưỡng lắm. Người thiếu nữ đứng trông theo Văn, tay bóp thái dương. Anh ta thấy mỏi cánh tay mà chưa dám nghỉ vội. Đi đến gần lối ra hạng ba, anh ta mới dám đặt va ly xuống. Đợi một lúc mà đám người chen chúc trước mặt vẫn không chịu tiến lên, Văn nóng ruột hỏi một người đi cạnh mình: - Sao lại đứng cả lại thế này? Người ấy trả lời: - Họ khám hành lý. Văn quay lại nhìn thì người thiếu nữ chắc đã ngồi xuống, trông qua cửa sổ xe hỏa không thấy nữa... Văn sợ cô ta đợi lâu quá liền cố sức lách lên trước thì bị mấy người đội đoan cản lại, bắt đưa va ly cho họ xem. Một người lính đoan bảo Văn: - Chúng tôi vừa nghe tin báo có người đem thuốc phiện lậu đến Hà Nội nên phải khám hành khách. Văn mỉm cười, đáp: - À, tưởng gì! Vừa nói dứt lời thì cái va ly người thiếu nữ gửi, mở tung ra, trong thấy đầy những hộp bằng đồng, gắn kín và to bằng quyển sách dầy cộp. Một người đội đoan cười gằn, nói tiếng Pháp: - Lần này thì anh không thoát được tay tôi! Văn chưa hiểu ra sao thì đã bị người ta điệu về sở Thương chính. Tuy rằng bạn tôi hết sức phân trần rằng mình là con nhà lương thiện, không bao giờ làm điều trái phép, nhưng không ai tin. Cái va ly thuốc phiện lậu đó là cái cớ buộc tội rất hùng hồn. Anh ta khai rằng anh ta quá tin người, rằng người ta lợi dụng mình; song nhất định không chịu nói rằng đó là một người con gái. Nhờ nhiều người có thế lực che chở nên Văn mới được tại ngoại hậu cứu, sau khi bị giam đến gần nửa tháng - từ hăm ba tháng chạp tới mồng mười tháng giêng. Đến lúc ra tòa, anh ta mạnh thầy cãi, nên chỉ phải phạt có hai tháng tù án treo với bồi thường cho sở Thương chính ba nghìn bạc. Lúc kể chuyện này cho tôi nghe xong, bạn tôi thản nhiên kết luận: "Tuy vậy, tôi cũng được ngồi nói chuyện với người nhan sắc ấy... hơn hai tiếng đồng hồ".[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Viên ngọc[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Nhật Ánh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Viên ngọc thần ấy mà, cái viên ngọc mà khi ngậm trong miệng ta có thể nghe được tiếng nói của mọi vật, là có thật đấy các bạn ạ, không phải là chuyện bịa đâu! Cũng giống như các bạn, trước đây tôi cứ tưởng đó là chuyện cổ tích, người ta đặt ra cho vui vậy thôi. Ai dè đâu có một hôm tôi nhặt được nó, cái viên ngọc ấy, ở góc vườn nhà tôi. Không biết cái tay đoảng vị nào lại đánh rơi một thứ của quý như thế. Thoạt đầu tôi nghĩ đó là cục kẹo nên khi ngồi vào bàn đọc sách tôi thuận tay cho nó vào miệng. Dè đâu, ngay khi cục kẹo vừa chạm vào đầu lưỡi, tôi bỗng nghe có tiếng nói: - Nói thật với chú, mặc dù tôi với chú đều là đồ gỗ cả thôi, nhưng tôi sống đã ngần này tuổi rồi, tôi đã ở trong cái nhà này suốt mấy chục năm qua, nghe thấy biết bao là chuyện, đó là chưa kể trong bụng tôi chứa toàn là sách với báo, hẳn tôi phải lịch lãm hơn cái nhà chú chứ! Tiếng nói vang lên sát bên tai, rõ ràng là phát ra từ cái tủ sát cạnh tôi. Tôi chưa kịp hoàn hồn thì lại nghe một tiếng nói khác, lần này phát ra từ ngay chỗ tôi ngồi: - Thì nhà bác nói vậy, tôi có dám cãi đâu. Tôi biết phận tôi là cái anh bàn cục mịch, lại sinh sau đẻ muộn... Sau khi trấn tĩnh, tôi kịp hiểu ra là tủ sách và cái bàn đang trò chuyện và cái vật tôi đang ngậm rõ ràng không phải là cục kẹo. Một cảm giác ngạc nhiên sung sướng tràn ngập cả người tôi. Tất nhiên tôi không dại gì mà không tiếp tục theo dõi câu chuyện. - Còn về cái ông chủ nhà này thật tôi chưa thấy một ngời thứ hai như thế - cái tủ nói - thật hiếm có! Đích thị cái tủ đang nói về tôi, mà lại khen tôi là loại người hiếm có nữa chứ. Tai tôi dỏng lên, tim đập loạn. - Ý bác ra sao tôi chưa rõ! - Cái bàn lên tiếng. - Thì có gì đâu. Đấy là tôi nói về cái tính vô trách nhiệm của ông chủ ấy mà. Ai đời lại có bao nhiêu tiền lương đem tiêu xài hết, mỗi tháng chỉ đưa vợ chút đỉnh gọi là có. Đã vậy, hôm nào ngồi vào mâm cơm cũng chê õng chê ẹo. Tôi trông sao mà xốn con mắt quá! Cái tủ thấy xốn con mắt bao nhiêu thì tôi thấy sôi trong bụng bấy nhiêu. Sao mà cái lão già này lắm điều thế không biết. Phận mình lo bảo quản mấy cuốn sách còn không xong, để cho ba con gián nó bò khắp các ngăn và ị vãi ra tứ tung, vậy mà lại đi chúi mũi vào chuyện người khác, cứ làm như lõi đời lắm đấy. Hừ, hôm nào ta róc xương lão ra nhóm bếp, thử xem lão có còn huênh hoang nữa không! Tôi hầm hè trong bụng và liếc cái tủ với một sự ác cảm không giấu giếm. Cái bàn lại cất giọng phân vân: - Cứ theo như bác nói thì sự sinh hoạt hằng ngày của cái nhà này hẳn phải thiếu thốn lắm, nhưng tôi thì lại thấy... - Ấy, ấy! - Cái tủ ngắt lời - Để tôi bảo cho chú biết. Sở dĩ cái nhà này cơm còn đủ ăn, áo còn đủ mặc ấy là nhờ một tay bà chủ cả thôi. Bà ấy phải giật gấu vá vai, mượn đầu này xoay đầu kia, chạy tới chạy lui cứ như chong chóng vậy. Còn anh chồng thì nào có để ý cho, cứ ẵm tiền lương tếch đi những đâu đâu, vợ khóc cũng chả hay! Chà, chà, cái lão già này tinh ra phết chứ chẳng phải chơi! Có khi lão nói đúng cũng nên! Mình thật đoảng... - Tôi buồn rầu nghĩ đến những nỗi vất vả của vợ. Tháng đó, tôi đưa toàn bộ tiền lương cho vợ, không giữ lại lấy một hào. Và tôi hết sức sung sướng khi đọc trong mắt vợ nỗi ngạc nhiên lạ lẫm, cứ như tôi làm một nghĩa cử gì ghê gớm lắm. Tối đó, sau khi ngồi vào bàn và bỏ viên ngọc vào miệng, tôi cực kỳ hân hoan khi nghe thấy những lời nhận xét tốt đẹp của hai thứ đồ gỗ kia. Nhưng niềm vui của tôi chỉ kéo dài đúng một tuần cho đến cái ngày tôi tình cờ nghe thấy đôi giày của tôi và đôi dép của vợ tôi kháo chuyện với nhau. Cũng giống như tính tôi, đôi giày của tôi hễ gặp phái nữ là bắt đầu ba hoa: - Này, cậu có biết không, ngày hôm nay tớ đi biết bao nhiêu là nơi. Tớ ra xa lộ Biên Hòa này. Tớ tới tận Lái Thiêu nữa đấy. Chao ôi, ở đấy toàn những vườn là vườn, trái cây thì vô khối! Đó là chưa kể tớ còn được đi... Tôi mỉm cười khi nghe đôi giày của mình kể ra một lô một lốc những nơi chốn tôi thường lui tới, vui chơi cùng bè bạn. Nó có tài kể chuyện thêm mắm thêm muối hệt mình! Trước câu chuyện phiêu lưu kỳ thú của bạn, đôi dép của vợ tôi không giấu được nỗi tủi thân, nó than vãn với giọng ấm ức: - Càng nghe chuyện của anh, tôi càng thấy buồn. Anh thì đi đây đi đó, còn tôi suốt ngày cứ thui thủi trong xó bếp, có đi xa lắm thì cũng chỉ ra tới chợ mà thôi. Thật chả bù với hồi trước, tôi được bà chủ cho đi khắp nơi. Khi thì ông chủ dẫn bà chủ đi nghe ca nhạc, lúc thì đi xem phim, lúc thì đi dạo mát, thỉnh thoảng lại ra chơi ngoại ô... ối giời, cái thuở ấy thật là tôi đi bằng thích! Tiếc là mọi sự trôi qua nhanh quá! Bây giờ ông chủ chỉ toàn là đi chơi một mình, chả thèm ngó ngàng gì đến cô vợ. Thật tội cho bà ấy. Còn tôi thì chỉ biết nhìn cuộc sống của anh mà ao ước... Đôi dép nói tới đâu tôi giật mình tới đấy. Chết thật! Chẳng lẽ tôi là một thằng chồng ích kỷ như thế sao? Ngay lập tức, tôi quyết tâm sửa chữa lỗi lầm: - Em ạ! Rạp Thăng Long đang chiếu phim hay lắm. Tối nay, anh và em đi xem nghen! Lần thứ hai trong một tuần, đôi mắt vợ tôi tròn như hai viên bi. Nhưng mọi chuyện không dừng lại ở đây. Lần này tới lượt chiếc giường ngủ làm khổ tôi. Nó nói với chiếc gối: - Này cậu, sao người cậu lúc nào cũng ướt đẫm như thế kia? Tớ chẳng thấy cậu khô lấy một phút. - Khô sao được mà khô! - Chiếc gối thở dài - Tối nào bà chủ cũng khóc, mà phải khóc lớn gì cho cam, cứ dụi mặt vào người tôi mà khóc thầm khóc lén. Cứ cái kiểu này, thân tôi chưa nhão ra là may, chứ đừng nói đến chuyện khô với chả khô! Lại chuyện gì nữa đây? Tôi rùng mình như có ai chích kim vào người. Cả chiếc giường cũng thắc mắc: - Sao lại thế nhỉ? Tớ thấy dạo này ông chủ quan tâm đến bà chủ nhiều lắm cơ mà! Chiếc gối tặc lưỡi: - Thì đã đành là ông chủ có để ý đến vợ mình hơn trước, nhưng không phải là đã quan tâm đến mọi chuyện. Ngay cái chuyện đi ngủ đây này, ông chủ cũng đã làm buồn lòng bà chủ biết bao nhiêu. Hai vợ chồng suốt ngày đâu có ai thấy mặt ai, chỉ có buổi tối trước khi ngủ mới gặp nhau tí tẹo. Thế mà ông chủ sau khi chui vào giường, lót gối dưới đầu xong, lại mở tờ báo ra, chúi mũi đọc, đọc mê đọc mải, chẳng hề để ý đến bà vợ nằm cạnh đang chực chờ trò chuyện với chồng. Đọc kỳ đến mỏi mắt, thò tay bật công tắc đánh tách một cái, thế là ông chủ lăn ra ngáy khò khò. Trong khi đó, bà chủ với bao nhiêu chuyện trong ngày đang muốn bàn bạc, tâm sự với chồng đành phải nằm thao thức một mình. Rốt cuộc chỉ có cái thân tôi lãnh đủ hết. Còn anh chồng vô tư kia thì cứ trơ ra như đá. Trời ơi, nó dám ví tôi với cục đá, cái đồ mất dạy này! Tôi muốn quẳng mẹ cái gối phản chủ này xuống sàn cho rồi, nhưng nghĩ lại, tôi thấy sự ví von láo lếu của nó cũng không xa sự thật là bao. Lẽ dĩ nhiên, ngày hôm đó trước khi đi ngủ, người chồng đáng yêu là tôi nhỏ to trò chuyện với vợ một cách vui vẻ. Vợ tôi tươi tỉnh thì rõ rồi. Điều đáng nói là chính tôi cũng ngạc nhiên khi khám phá ra sự thú vị trong hành động mới mẻ này. Té ra vợ chồng cũng cần nói chuyện với nhau, lần đầu tiên kể từ ngày cưới tôi phát hiện ra điều đó. Sau tủ, bàn, giày, dép, giường, gối lại tới khăn mặt, chổi, đồng hồ, bút máy, hộp quẹt, nồi, chảo... mỗi thứ đều cung cấp cho tôi một số tin tức về cuộc sống nội tâm của vợ tôi. Nhờ vậy mà tôi từng bước một khắc phục được những thiếu sót của mình trong cuộc sống gia đình. Và kết quả hiển nhiên là quan hệ giữa vợ chồng tôi ngày một tốt hơn. Trong lúc tôi định đem viên ngọc của mình tới Viện khoa học quốc gia để nhờ các đồng chí ở đó phân tích, xét nghiệm các hợp chất cấu thành của nó để sau đó có thể sản xuất thêm hàng triệu viên như thế và cấp cho mỗi cặp vợ chồng một viên thì đùng một cái, viên ngọc không còn nữa. Các độc giả có tiếc mà trách thì tôi cũng đành chịu chứ sự thể là như thế này. Tôi đi tắm biển ở Vũng Tàu và mang viên ngọc theo. Khi xuống nước, tôi ngậm nó trong miệng, ý là để nghe thử sóng nước và tôm cá nói nhăng nói cuội những gì. Bất thần một con sóng không biết từ đâu nhảy bổ vào mặt tôi khiến đôi mắt cay xé. Tôi nhắm nghiền mắt lại, còn miệng thì há ra... uống nước. Thế là thứ của quý báu trời cho kia trôi tuột ra khỏi miệng tôi và chuồi đi mất. Thật là tiếc đứt ruột. Về nhà, tôi cứ ngẩn ra như người mất hồn. Xót viên ngọc thì ít mà xót cho mình thì nhiều. Không có nó, từ nay cuộc sống của tôi sẽ khó khăn biết chừng nào. Vợ tôi muốn gì, nghĩ gì, mỗi ngày khóc mấy lần, cười mấy lần, làm sao tôi biết. Cái bàn cái tủ bây giờ thì cứ trơ ra như những vật vô tri, thật chẳng được cái tích sự gì! Chiều đó, đi làm về, thấy vợ đang chuẩn bị thổi cơm, tôi vừa thay đồ vừa cố đoán xem cô ta đang cần gì. Không có viên ngọc thì tự mình phải tìm hiểu thôi. Sau khi suy nghĩ một thoáng, tôi ôm bó củi đi chẻ. Khi tôi bê những thanh củi vụn vào bếp thì vợ tôi nhoẻn miệng cười với tôi một cái, tươi như hoa. Khi cơm chín tới, trong lúc vợ tôi đang múc thức ăn ra bát thì tôi lại phải suy nghĩ xem mình nên làm gì. Và tôi quyết định đi lau bàn, dọn mâm và kê lại ghế ngồi, vừa vặn lúc vợ tôi bưng thức ăn lên và... cười, một lần nữa tươi như hoa nở xong, khi vợ tôi đi rửa chén bát thì tôi lại... nghĩ ngợi. Mất viên ngọc thì đời nó khổ thế đấy! Và cuối cùng tôi cũng nghĩ ra: phải giúp vợ một tay. Thế là tôi mon men xuống bếp và ngồi cạnh vợ, tập rửa bát. Vợ tôi có vẻ rất hài lòng về đức ông chồng của mình, cô ta ríu rít luôn miệng. Cô ta đâu có biết nỗi khổ mất ngọc của tôi. Khi vào giường chuẩn bị đi ngủ, quay sang vợ, tôi bất chợt nhìn thấy chiếc áo của cô ta đã sờn vai, lại lốm đốm vài mụn vá. Tôi sực nhớ ra từ trước tới nay, mỗi khi mua được vải, cô ta chỉ toàn may áo cho tôi. Cô ta bảo: Anh đi lại nhiều, cần ăn mặc đàng hoàng, còn em thì... . Thì như chiếc áo cũ mà tôi đang nhìn thấy lúc này đây. Thật tội! Tôi đằng hắng: - Tuần tới cơ quan anh bán vải. Lần này thì anh nhất quyết phải may áo cho em.Thú thật là từ khi lập gia đình đến nay tôi mới nói với vợ được một câu tử tế như vậy. Ngay lúc đó, vợ tôi ôm chầm lấy tôi và dụi mặt vào ngực tôi một cách âu yếm. Trong nỗi xúc động dạt dào đó, tôi bỗng hiểu ra cuộc sống thật là đáng yêu và vun đắp hạnh phúc gia đình không phải là một việc khó lắm nếu như ta biết quan tâm đến người cùng chung sống hơn là chỉ bo bo nghĩ đến bản thân mình. Và như vậy có nghĩa là viên ngọc kỳ diệu kia, thực sự nó không hề mất đi, nhưng thay vì ở trong miệng thì bây giờ lại nằm trong lồng ngực tôi và đang đập một cách khoan thai. Cái viên ngọc ấy cặp vợ chồng nào cũng có, nó được cấu thành bởi những hợp chất như nhau và đang mách bảo cho chúng ta những điều khôn ngoan trong cuộc sống. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vì sao ta chia tay[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Vũ Anh Thư[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thế là hết, hết tất cả những ngày tươi đẹp đã qua, những giây phút hạnh phúc đã có và tưởng như còn mãi - nhưng không - tất cả đều quá mong manh dễ vỡ. Tôi quen anh cũng bình thường như bao người khác, tình bạn rồi mới đến tình yêu, không rắc rối, không vồn vã, chẳng có gì ghê gớm như tôi hằng tưởng tượng. Đối với tôi, anh là duy nhất và cũng là tất cả. Tôi và anh chưa một lần dừng lại nơi quán kem, hàng nước. Đơn giản vì tôi không thích và anh không muốn ép, chỉ lang thang đạp xe bên nhau loanh quanh trong cái thành phố nhỏ như lòng bàn tay, tôi cũng chẳng đòi anh chở mà làm gì - phí sức. Những chiều mưa trên căn gác trọ, tôi ngồi im nhìn mưa rơi nghe anh hát, giọng trầm ấm xa xôi "Mưa thì thầm là mưa rất xa trời không nắng khi vầng mây qua, em thì thầm là em rất gần... " Tôi và anh gần nhau lắm, không vắng nhau quá ba ngày, đôi khi chỉ im lặng bên nhau không nói điều gì. Có lúc tôi băn khoăn, lo nghĩ một ngày nào đó xa anh tôi sẽ ra sao? Tôi có chịu đựng nổi không? Không có anh tôi sẽ thế nào? Và đem ý nghĩ đó nói với anh: - Mình không gặp nhau thử xem anh! Anh cười vuốt những hạt nước nhỏ li ti bám trên mấy sợi tóc lòa xòa trước trán tôi: - Bao lâu? - Một tuần, được không? Anh đưa ngón tay trỏ ra rồi co lại: - Nếu... anh thắng thì sao? - Muốn gì... được nấy! Tôi ngoéo tay anh, cả hai cùng cười. Một, hai rồi ba ngày trôi qua, tôi nhớ anh lắm, thầm mong anh đến nhưng chẳng thấy bóng dáng anh đâu. Sang ngày thứ tư chẳng chịu đựng hơn được nữa tôi đạp xe ra phố, vẫn những con đường, những hàng cây quen thuộc... Từ xa tôi đã nhận ra anh-nụ cười thật tươi: - Huề nhé, anh hết chịu nỗi rồi! - Em cũng vậy! Hôm đi Đà Lạt về anh mang theo cả cái lạnh trên môi, tôi nhăn mũi: - Bộ suốt ngày anh long rong trên đồi hay sao mà lạnh như nước đá vậy? Ngoài đó... vui hôn? - Vui mà... hổng có hôn!... Ui da, bộ chê quà sao nhéo anh đau dữ vậy? Quà của anh cái gì cũng ăn được chỉ trừ có hai thứ: hai tấm hình, một ở hồ Than Thở - cái cười tươi như hoa "hôm đầu tiên", một ở thung lung Tình Yêu - cái mặt bí xị - "Ngày sắp về, nhớ em", anh vừa giải thích vừa ký tên đưa cho tôi. Món quà thứ hai là một bó hoa... Ồ! Hoa bất tử. Tôi đưa lên mũi, anh cười: - Em thích lắm à? - Thích nhất! - Vì sao? - Vì... nó mang tên anh, nó cũng... như anh - bất tử trong em! Tôi ngước lên, ánh mắt anh xa xăm... Gần đây anh thường như thế, có một điều gì đó đang đến - anh biết nhưng anh không muốn nói hoặc... anh không thể nói với tôi. Bỗng dưng anh không đến, hơn một tuần trôi qua, tôi không biết anh đâu. Bạn bè bảo: Anh về quê! Tôi viết cho anh liền một lúc ba lá thư, ngày nào cũng chờ để chỉ nhận được... cái lắc đầu của người đưa thư. Một, hai, ba rồi sáu tháng, thời gian tăng dần theo một cấp số nhân. Tôi đã sống từng ngày, từng giờ trong niềm mong đợi, quanh tôi lúc nào như cũng có anh nói cười, đi đứng. Những con đường xưa mà tôi và anh cùng qua giờ chỉ còn mình thôi lang thang... Xung quanh tôi vẫn có những người bạn, họ mang đến cho tôi sự cảm thông, chia sẻ, những tình cảm chân thành nhưng không có ai có thể giúp tôi quên được anh, không gì có thể bù đắp vào khoảng trống anh đã để lại trong tâm hồn tôi. Anh xa tôi mà không một lời giải thích, không có cuộc chia tay, không một giọt nước mắt và cũng không một lời ước hẹn. Tôi không tin, tôi vẫn đợi một này nào đó... anh sẽ đến với nụ cười rạng rỡ trên môi... Nhưng không! Chỉ có loài hoa mang tên bất tử, còn anh thì không, nhánh hoa ép khô đổi màu nằm cong queo trong quyển sách, dòng chữ đâp vào mắt tôi: "... Người ta yêu nhau nhưng không thể đến được với nhau...". Tôi thầm thì: "Vì sao...? Vì sao vậy anh?!"... Câu hỏi rơi vào trong im lặng.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vết thương[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Ngọc Tư[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi nhớ hoài bản sơ yếu lý lịch mà Phúc viết năm em mười hai tuổi. Ở dòng nơi sinh em ghi: dưới gốc bàng. Tôi nhớ vẻ mặt trong vắt của em khi phụng phịu: “Thiệt vậy mà, anh Hai quên rồi sao?”. Không, có chết tôi cũng không quên buổi sớm hôm ấy, khi tôi và má nuôi nhìn thấy Phúc ở dưới gốc cây, xung quanh lá khô rơi đầy. Người ta túm em trong bọc vải đẫm sương, người em đã tím, em không khóc nữa nhưng dường như đã khóc rất nhiều, môi em khô rốc, bợt bạt. Khuôn mặt nhòe nhoẹt máu, một bên mắt em đã bị chuột gặm nham nhở. Tôi - bảy - tuổi khóc điếng, hình dung mình cũng đã từng nằm dưới gốc cây nào đó, cùng kiến, chuột và bóng đêm. Hôm má nuôi ôm tôi lên cũng giống như bây giờ, gói em trong tay, bà hơi trùng trình, lảo đảo, nom em nhỏ nhoi như trái bí, trái bầu nhưng mang sức nặng của một sinh linh. Chúng tôi mang em về Sương, về ngôi nhà nhỏ chênh vênh trên khu vườn chôn chi chít những tiểu sành - những hòn máu bị vứt bỏ mà má nuôi tôi nhặt từ bệnh viện. Tôi lẳng lặng xách dao dọn một khoảng cỏ, chuẩn bị tấm vải và cái quách nhỏ. Nhưng thật lạ lùng, em vẫn sống, tiếc là chỉ còn một mắt. Lần đầu tiên má nuôi tôi tin có kỳ tích trên đời. Vẫn những buổi chiều lên, vẫn khu vườn hiu hắt, những giọt máu chưa thành hình không đủ để hóa linh hồn, chỉ vật vờ những ngọn khói mỏng xiêu xiêu. Nhưng từ khi có Phúc, có tiếng cười giòn tan vắt vẻo trên tàng cây, khói cũng bớt khóc than. Để hình dung ra mình đã lớn như thế nào, tôi nhìn Phúc lớn. Nhưng khó hi vọng được nhìn thấy mình, vì Phúc khác biệt tôi. Phúc không thèm nhớ mình là đứa bé bị ruồng bỏ đã đành, vết thương - hốc mắt trống phập phồng trên gương mặt, em cũng chẳng để ý. Phúc hay đòi má nuôi tôi kể lại ngày lượm được em, để lấy làm sung sướng, ra vẻ kinh ngạc, ngỏn ngoẻn: “Vậy mà con sống, ngộ thiệt”. Thời gian đi qua Phúc có vẻ nhẹ nhàng. Tôi thì không. Tôi thường buồn bã, chờ đợi, ham muốn điều gì đó không rõ ràng. Vài bóng người lạ mặt lảng vảng trong vườn khói của má nuôi tôi cũng làm tôi hi vọng và tuyệt vọng. Chẳng có ai tìm mình. Có lần bắt gặp một người phụ nữ ngồi than khóc bên cạnh một ngọn khói nhỏ, tôi ôm mấy gộc củi ra sân, bửa như điên dại. Ước gì mình cũng hóa khói... Nghe vẳng trong nhà tiếng Phúc nói với má: “Anh Hai đang khóc…”. Khi chỉ có hai chúng tôi, Phúc tần ngần hỏi nhỏ: “Có má thương mình không đủ sao anh Hai?”. Với Phúc sống là đủ, có người nuôi cưu mang là đủ, có một con mắt nhìn đời cũng đủ. Đi đường, thấy bất cứ đám tang nào, em cũng bỏ dép ghé vào, thắp mấy cây nhang, lạy ba lạy. Thấy tôi ra vẻ ngạc nhiên, em thầm thì: “Biết đâu họ là cha má mình...”. Em có thể điềm nhiên chơi dưới gốc cây bàng năm cũ, vừa ngó nghiêng vừa nói: “Để em kiếm con chuột hỏi nó coi tha con mắt em đâu?”. Rồi thấy tôi ngồi đằng xa, mướt mồ hôi, mặt cắm xuống đất, em rón rén lại, chìa trái bàng khô ra: - Anh Hai, coi con mắt em rớt ở đây nè, chà, nó cũ mèm rồi. Con mắt còn lại lấp loáng ánh cười. Đó là lần đầu tiên tôi nghĩ ước gì mắt Phúc có cả đôi. Nó sẽ làm cho khuôn mặt em xinh đẹp hơn, cho cái cảm giác chông chênh ở em không còn nữa. Và quan trọng, ở Phúc không còn dấu tích bị bỏ rơi. Của em và của tôi. Ý nghĩ ấy ngày càng vây lấy tôi như con rắn đói điên cuồng quấn mồi. Tôi thôi học theo má nuôi làm công việc quét dọn trong bệnh viện. Đồng lương ít ỏi, tôi bỏ bệnh viện đi làm thợ hồ. Nhiều bữa gạch cắt tay đổ máu, thấy em chắc lưỡi hít hà, tôi cười: - Đứt chút đỉnh nhằm nhò gì. Miễn là có tiền làm mắt giả cho em... Phúc cúi đầu, đang thoăn thoắt quấn vải bó tay tôi bỗng chậm rãi, đắn đo. Tôi lại bỏ việc ở công trường, bởi quần quật bốn tháng trời cũng chưa đủ chi phí cho ca phẫu thuật. Người quen giới thiệu một chỗ bưng bê ở nhà hàng thị xã. Bà chủ tốt bụng hay biểu vào phòng, nhờ đấm bóp, cho thêm tiền. Bắt gặp cái ánh nhìn rất ướt của bà, lòng tôi lạnh ngắt lạnh ngơ. Tôi chợt nhận ra, buột miệng nói “Chết cha…”, mình chỉ nóng bừng khi đứng trước Phúc. Em không còn đơn thuần là đứa em gái nhỏ. Điều đó làm tôi càng nôn nóng. Thật hạnh phúc khi nhìn thẳng vào em, ôm ghì em trong tay mà không bị ám ảnh bởi gốc cây, con chuột... - Anh làm tháng nữa là đủ tiền... Má nuôi tôi rầy: “Cái thằng, lải nhải hoài chỉ chuyện đó”. Phúc không nói gì, ngồi trước thau giặt đồ to tướng, tay vò miết chiếc áo tôi còn vương vất mùi dầu thơm của người chủ nhà hàng. Dường như em lại lặng đi… Tôi không hiểu cái lặng đi đó, không hiểu sao nhắc tới chuyện mắt, Phúc không giấu được buồn. Phúc lẳng lặng bỏ đi, không trở lại. Má nuôi tôi nói chính tôi đã đẩy Phúc đi. Tôi chạy ra ngã ba Sương, vô vọng ngó những con đường chạy hun hút đằng phía chân trời. Những ngọn khói không còn vật vờ than thở nữa, chúng nhận ra làm người cũng chẳng sướng gì khi phải chịu đựng những nỗi đau. Chúng an phận khói… Chúng để mặc tôi rấm rứt với cách trả lời bằng câm lặng của Phúc. Rằng Phúc cũng đau, nhưng em không tránh né bởi quay về hướng nào thì trên mặt em cũng còn vết, nên em tự giẫm bừa lên đó, để chỗ đau chai sạn. Rằng em tuyệt vọng khi cố gắng kiệt sức mà chỉ thấy khiếm khuyết của mình hằn vết sâu nhói trong mắt tôi… Tôi thường đem củi ra bửa đến khuya, đến kiệt sức, vì nhớ Phúc. Thật kỳ lạ, trong cái nhớ quay quắt đó, tôi không mảy may nghĩ về vết thương, trong tôi long lanh nụ cười trong vắt của Phúc, giọng nói giòn tan của Phúc. Và mắt của Phúc không bao giờ lầm lũi cúi nhìn, không nề hà chuyện mình có đủ đôi hay không, mắt em luôn lấp lánh sáng, hay háy nguýt, ứ đầy những hờn giận, thương yêu... [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vết Hạc trong mưa[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Thị Minh Ngọc[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tiếng nói của ông Thiều cũng như khuôn mặt của ông nhòe đi bên tai và trước mặt Phàm. Ông đang nói về lá thư của người một đàn bà nào đó gởi đến trường này để phỉ báng Phàm về tội danh đang tằng tịu với ông Trí, chồng bà, giám đốc một công ty xuất nhập khẩu nào đó kiêm một nhà thơ nghiệp dự Phàm đang hướng mọi tập trung vào bức hình có cặp hồng hạc đang xoãi cánh bay trên cánh đồng lau sậy, được chụp bởi người hiệu trưởng trước là ông Du. Nói gì nữa bây giờ. Người đàn bà đó Phàm không quen. Chồng của bà, Phàm không hề yêu dù ông cứ đi rêu rao với mọi người rằng Phàm là nàng thơ, là mối tình đầu của đời ông. Và điều lớn nhất khiến Phàm không chịu nổi đến độ phải xóa đi mọi thứ chính là vẻ hả hê của ông Thiền. Ông là người đứng đầu ngôi trường này được một năm sau khoảng tám năm nhọc nhằn mưu tính. Với khá nhiều người, ông thường đóng vai người anh hai của Phàm, một người anh xót xa trước đứa em gái mãi sống đời đơn độc, một đồng nghiệp tức tối vì người đồng chí của mình không được trọng dụng, khiến mai một tài năng. Vợ Ông đã từng gặp riêng Phàm, làm ra vẻ tin vào những điều bà nói: - Hãy thông cảm cho anh chị. Anh muốn lắm nhưng không thể đề bạt em làm hiệu phó vì bên ngoài cứ ngờ em và anh Thiền có tình ý với nhau. Đó là lời phỉ báng nặng nề nhất mà Phàm bị nghe vì cô nghĩ rằng chẳng cô gái nào tìm ra một nét nhỏ gợi cảm giác yêu thương nơi khuôn mặt trào vẻ hòa hiếu giả tạo của ông Thiền. Bức hình có cặp hồng hạc là vật duy nhất Phàm thích trong văn phòng hiệu trưởng. Cô không quên được những lần hiếm hoi theo chị Hạc vào đó gặp ông Du và nghe người hiệu trưởng cũ nói về vùng đất huyền thoại đầy sếu đầu đỏ mà ông đã lớn lên. Đó cũng là vật duy nhất ông Thiền cho giữ lại, sau khi đã thay toàn bộ ghế thanh nhã ngày xưa bằng những vật dụng chói chang nhiều sắc màu tạo cảm giác muốn ói nơi Phàm mỗi khi cô được gọi vào. Câu nói gằn mạnh của ông Thiền đưa Phàm trở về thực tại: - Giờ tính sao đây, cô Phàm? Cô đáp khẽ khàng: - Tôi xin nghỉ! ông Thiền đứng phắt dậy: - Không được! Cô không được quyền nói năng vô trách nhiệm như vậy. Cô đã ở trường này từ lúc nó mới lập. Lẽ ra cô còn phải ngồi ở chiếc ghế của tôi. Phàm thở hắt: - Tôi không được khỏe. Chuyện tôi xin nghỉ không dính gì tới lá thư này. Nếu không cho nghỉ luôn được thì cứ tạm thời cho tôi nghỉ không ăn lương. Và bây giờ cô đang ở trên vùng đất huyền thoại của ông Du ngày xưa. Có vẻ không giống chút nào hết với những gì cô vẫn tưởng tượng. Qua lời ông Du lúc ấy sen súng bát ngát trải mãi tới đường chân trời, chiều chiều chim từng đàn bay rợp, ông thưở 12 tuổi được mấy bà cô trẻ chèo xuồng đưa đi trên một biển ngợp hương sen. Và mãi, không biết đâu là bờ, là bến. Trên xuồng có một nhà sư xống xếnh áo vàng, một người đàn ông áo nâu nhấp nhổm đứng ngồi hối cậu nhỏ chủ xuồng chèo lẹ, một thanh niên quần xanh áo trắng xắn tay ra dáng thanh niên thành thị, mắt sáng lấp lánh sau khung kính trắng. Phàm vừa xuống xuồng, cậu đã xà lại ngồi kề và tíu tít nói như không muốn để phí từng giây sống trôi qua: - Chị Ở thành phố xuống hả, hay ở nước ngoài về? Đi mua đất hay ghé thăm chim? Mà sao chị gan quá, tới xứ lạ đơn thương độc mã. Đơn thương độc mã! Một ngựa một thương à, nhưng mình làm gì có thương, chỉ hai bàn tay trắng sau gần hai mươi năm xông xáo (hay lơ láo?) nhiệt tình tung rải. Phàm tự cười mình. Cậu thanh niên vênh mặt: - Hồi ba em mới tới đây cũng như chị thôi, cũng một mình với hai bàn tay trắng. Nhưng ba em định cư luôn, còn chị thì chắc dễ gì! Ông áo nâu lại bồn chồn: - Nhắm ông Đốc có đi không cậu Hoài, hay để tui chở vợ tui lên? Hoài cười trong một vẻ thư thái ngược lại: - Ai biết được! ổng thấy chuyện cần phải đi là đi ngay, không phải kỳ kèo. Tánh đó ai cũng biết! Rồi thì thào vào tai Phàm, cậu nói: - Ông sư kia xuống đất này một lượt với ba của em. Ông ấy đứng ra mua hàng mẫu ruộng mẫu đất cho chùa rồi thuê dân ở đây làm ruộng. Đất ruộng của chùa đúng là cò bay thẳng cánh, nếu còn có cò. Phàm buột miệng hỏi: - Còn ba cậu? Hoài khoát tay: - Tài sản của ba em chính là tụi em. Xuồng dừng lại ở một trạm gác có xây đài coi chim cho Phàm lên. Hoài đã kịp cho cô nhiều thông tin thú vị về vùng đất này nhưng theo cô lên bờ chỉ gọn lại bốn chữ:"Nếu còn có cò!". Và khi được gặp vợ chồng người bảo vệ nơi chòi canh này, cô hiểu tại sao Hoài đã nói vậy. Chị Sáu bày ra một bó ảnh sếu đầu đỏ cho Phàm coi: - Hạc còn về đâu nữa mà coi! Cô à, nếu thích mang hình về thành phố khoe là đã tới chốn này thì cô cứ lựa đi, một tấm năm ngàn đồng thôi. Của tụi nước ngoài tới đây chụp rồi gởi vợ chồng tui bán, cho vui đó mà, lời lóm gì đâu!. Phàm ngó những chú sếu thất thế lạc thần, chân đeo vòng màu cam có ghi số, đứng lóng cóng trong những chiếc chuồng bằng kẽm thưa mà cảm giác rớt tim như vừa được thấy người yêu mình hôn cô gái khác. Chị sáu thì thào: - Cô ở lại thất công, tôi đem đầu ra cá, hạc bay đi xứ khác hết rồi! Phàm nói như đứt hơi: - Sao dân nói mùa này là mùa tụi nó kéo nhau về, trong đêm khuya, và sẽ hót nếu có hứng. Chị Sáu lắc đầu ngao ngán trước sự bướng bỉnh của Phàm: - Đó là chuyện xưa, cách đây vài năm. Cá một trăm ăn mười tui cũng cá. Hay khuya nay, giao xuồng cho thằng nhỏ chở cô đi mai phục chỗ nào cô thích kẻo cô lại cho vợ chồng tui bày chuyện bán hình. Bỗng mưa, mưa bạc trời bạc đất, tiếng ầm ầm như một nỗi tuyệt vọng không còn lối quay lui. Mặt Phàm tím ngắt tím ngơ khiến chị Sáu ái ngại: - Mưa không ngớt cô cứ ngủ lại đây, vợ chồng tui sẽ nhường cô cái giường tốt nhứt. Phàm lắc đầu: - Nếu thiệt như chị nói thì lúc nào có xuồng khách đi qua, cứ gọi giùm. Còn hình thì thông cảm cho, tôi không thể mua bất cứ tấm nào. Những tấm hình tăm tối được xốc lại, buộc bằng dây thun. Chị Sáu chép miệng, lặp lại ý của Hoài: - Vô trong tui đáng gió cho rồi đi đâu cũng được. Đờn bà con gái, sao lặn lội về xứ đầm lầy ẩm ướt này chỉ có một thân một mình. Khuya, nghe nói xuồng ghé, Phàm cương quyết về. Cũng thằng bé đầu húi gần trọc chèo nhưng trên xuồng chỉ còn mỗi một người đàn ông lạ, đèn ở trạm gác cho thấy tóc đà lấm tấm trắng hai bên màng tang. Phàm xuống xuồng, còn thẩn thờ vì còn mang theo ánh nhìn đau đáu của đàn sếu đầu đỏ bị đáng số trong chuồng. Xuồng đi một khúc, ngang qua những quảng đồng không mông quạnh, lờ mờ đùm bụi đậm nhạt sắc đen, bỗng ở đầu mũi bên kia vang lên tiếng Huế xưa: - Phải Công Tằng Tôn Nữ Tiên Phàm không? Mưa chưa dứt hẳn, còn lớt phớt như sương sa, Phàm nghe nổi gai ốc khắp người như vừa được gọi hồn từ kiếp khác: - Ai rứa? Ai mà biết Tiên Phàm. Bóng người ở đầu xuồng bên kia không chuyển động: - Dự bị 5 hồi xưa con trai đông quá. Phàm ở trong Nam ra học Dự bị 6, không chơi với ai nên chắc cũng chẳng nhớ ai. Bao nhiêu năm rồi, tuổi trẻ của Trứ, Huế của Trứ luôn gắn với hình ảnh Phàm ôm cặp đứng, chờ bọn Hương Nhu, Vĩnh Thủy dưới dàn hoa giấy bên nhà bác sĩ Chương ở cổng trường sau. Phàm quấn thêm khăn ấm, lắc đầu, không nhớ nổi Trứ xưa ra sao. Hình như có một nhóm mấy cậu chơi với nhau tên toàn là vần T: Thức, Tuấn, Tao, Tình, Trương, Tú, Trứ. Con trai Dự bị 5 Phàm chỉ nhớ Kỳ vì Kỳ vẽ mặt Phàm với mái tóc con trai trên túi áo blouse trắng mỗi giờ thực tập làm bọn Nhu, Thủy phải so bì. Và còn gì để nhớ nữa trong hai năm phù du trong một thành phố đầy vết xưa u tịch. Để coi, trận đi cứu lụt ở phá Tam Giang. Bên kia bờ phá, người ta phải luộc xương rồng ăn để đỡ đói; những lá thư không ghi tên người viết cứ được đặt lén dưới chiếc kính hiển vi mà họ biết chắc Phàm sẽ ngồi vào. Trứ cứ miên man nhắc lại những ngày tháng cũ, xen kẽ với những ngày tháng khắc nghiệt sau đó của anh. Trứ ra trường được nhận làm thầy dạy lại ngôi trường vừa học xong đâu độ vài năm thì gặp sự biến phải trôi xuống tận cùng đất nước rồi giạt ngược về khúc đất đầy năng lác và mất dần sen, hạc này. Trứ kể trên chiếc xuồng đưa Trứ lơ ngơ mới xuống, không ai tin anh là bác sĩ. Mãi tới ca mổ đầu, bệnh nhân chính là anh Công An, chồng của người phụ nữ trên xuồng ấy cứ kêu mọi người cảnh giác, cao lắm anh chỉ là một y tá, về đây "nổ văng miểng" để lòe người. Ca mổ thứ nhì cho một bé lên năm, Trứ mở cửa phòng mổ bước ra là bên ngoài mù mịt khói nhang của thân nhân bé khấn nguyện con họ còn sống sau khi giao mạng cho một tay - lang - bạt - tự - xưng - bác - sĩ. Trứ nhắc lại Phàm còn nhớ không bộ sưu tập tim của cá, ếch, rắn, thằn lằn ngâm formol tử tế của bọn 6T gói đẹp làm quà tặng hôm cô vừa 20 tuổi. Nói tới ếch Trứ lại miên man kể những năm đầu không có đèn mổ ở bệnh viện huyện, Trứ phải gắn đèn soi ếch lên đầu để khi mổ xong, cổ gần như không xoay chuyển được. Phàm nhớ không nổi hồi đó mình có yêu ai không trong số những chàng trai trẻ, chỉ nhớ ba đứa Nhu, Thủy, Phàm đã chọn "yêu" ba thầy dạy môn chính chỉ với mưu đồ bắt buộc phải học thật giỏi môn của "thầy yêu". Thủy đã hai con, ly dị. Nhu thì hạnh phúc hơn với con đầu vừa vào đại học, chỉ còn rớt lại mỗi Phàm. Bóng của những cây cầu nơi khu vực ngả tám sông đã thấp thoáng đằng xả Phàm định chuyển xuống vùng giữa xuồng để nghe rõ hơn những mẩu chuyện thú vị thời Trứ mới đến. Dường như biết được ý cô, Trứ ngăn lại: - Phàm ngồi yên đó! Ngó bạn ở góc này không khác dáng hạc ngày xưa. Nếu thật bạn không ở lâu được thì buổi tối trước khi đi bắt buộc phải ghé nhà cho hai đứa con gặp, nhất là con bé Tiên Phương, rất "ái mộ" cô Phàm. Thằng bé chèo xuồng giờ mới nói: - Hồi lượt đi, cô này ngồi chung xuồng với sư Ngọ, ông Bảy và anh Hoài, con của bác sĩ. Rồi nó nói riêng với Phàm: - Anh Hoài học ở Sài Gòn về chơi. Bác sĩ mới đi đỡ đẻ cho vợ Ông Bảy xong, còn sư Ngọ thì đợt này xuống đây để thay mặt nhà chùa xắn lại mấy công ruộng, mẫu đất tặng lại cho xã nghèo nhất huyện này. Buổi tối cuối cùng ở thị trấn, sau buổi cơm chiều với đoàn, còn đến hai tiếng nữa mới tới giờ hẹn với Trứ và các con anh, Phàm đi dọc theo mấy cây cầu vào phố chính. Nhà nhà lần lượt lên đèn. Ở một ngả rẽ có căn phố gắn bảng tên Trứ lau nhau nhiều nam phụ lão ấu áo quần bạc bụi ngồi đứng đợi tới phiên. Cuối phố là bưu điện huyện, nơi có chiếc tháp sắt sơn đỏ trắng ngất cao. Những ông bà cụ cùng đoàn với cô đang đứng xếp hàng ở các cabin để chờ đến lượt mình vào. Có lẽ họ gọi về nhà để đỡ nhớ con, nhớ cháu. Phàm đứng quanh quẩn đó chờ. Khi không còn một ai, vẫn chưa tới giờ hẹn, cô lấy một tờ phiếu, ghi một số điện thoại vẫn nằm chặt tự lúc nào trong tiềm thức, tình cờ truyền xuống tay cộ Khi điện thoại bên kia chưa được nhấc lên, cô hình dung ra người thầy, cũng là người may mắn chụp được đôi hạc như chút gì mong manh còn sót lại trong văn phòng hiệu trưởng. Hẳn là ông vẫn đang ngồi một mình cặm cụi làm việc trong căn phòng rộng thênh thang với những kệ sách màu xám cũ. Từ lúc chị Diệu Phi của Phàm ra đi, ông vẫn chưa chịu lập gia đình dù bao người đẹp, giỏi các lứa tuổi vẫn dìu dập tìm cách tiếp cận ông. Tiếng của ông Du bên kia ấm áp và vẫn hết sức quen thuộc dù đã bao năm Phàm mới được nghe lại: "Alô! Tôi Du đây." Cô nhắm mắt lại, trước mắt cô, một cánh hạc xám bay vút trong mưa bạc rồi như tan nhập vào chân trời bạc xám bão giông. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vẫn chưa thể nào quên[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đinh Minh Hương[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Manu Kohli trở về căn hộ của mình. Anh vừa tụ tập với mấy người bạn, uống kha khá rượu. Chả là Sajid được tăng lương, cậu ấy gọi bọn anh tới. Nếu Ly biết việc này, cô sẽ phàn nàn ngay: "Sajid, anh ấy thật quá đáng, anh ấy chắc chắn đã khuyến khích anh uống". Cô biết chứng đau dạ dày của anh. Nó có thể trừng phạt anh sau mấy ly Peter Scott hoặc Royal Challenge. Anh tháo thắt lưng, uể oải rút sơ-mi ra khỏi quần và ngồi xuống một góc chiếc đi-văng. Anh nhắm mắt lại, mường tượng đến gương mặt Ly hơi gầy gầy. Anh thèm được cảm thấy những ngón tay cô lùa vào mái tóc quăn của anh. Anh thèm được ôm lấy cơ thể cô bé bỏng. Tuần trước, khi anh đang lái xe ngang một cửa hiệu, một cô gái mặc váy ngắn đứng ở vỉa hè xin đi nhờ. Gương mặt cô ta mang những nét từa tựa những nét trên gương mặt Việt Nam của Ly, chứ không phải những nét đặc trưng trên gương mặt của các cô gái Trung Quốc hoặc Nhật Bản. Rốt cuộc thì anh được biết cô ta là một sinh viên Trung Quốc. Mặc dầu vậy, nỗi da diết vẫn xâm chiếm lòng anh, vì rất ngẫu nhiên cô ta tên là Li. Cách phát âm giống nhau, tuy cách viết khác nhau một chút. Anh châm một điếu thuốc và ngẩng nhìn đồng hồ treo tường. Đồng hồ chỉ một rưỡi. Anh từng bảo: “Dubai chậm hơn Hà Nội ba tiếng. Nghĩa là anh luôn luôn phải chạy nhanh hơn ba tiếng để đuổi kịp em”. Bây giờ, Ly đang làm gì? Ừ, dĩ nhiên cô đang ngủ. Giá mà anh có thể bấm điện thoại gọi cho cô. Cô sẽ mắt nhắm mắt mở nhấc máy, sẽ “Alô” một cách mệt mỏi y như cái hôm anh gọi cho cô từ căn hộ của Sajid? Anh nhớ là anh ngồi bệt trên tấm thảm trải sàn, không bật đèn vì không muốn Sajid thức giấc. Anh hỏi khe khẽ sát vào ống nghe: "Em ngủ được không, Lily?”. Cô trả lời: “Không, em không ngủ được. Em cứ trằn trọc suốt”. Cổ họng anh đột ngột nghẹn lại. Anh thương cô phải một mình trong căn hộ xa lạ kia. Giá mà anh và cô không cần chờ cho đêm qua đi. Từ phía ô cửa sổ mở ra ban-công, vẳng lên những tiếng bước chân của một người đi đường. Một lát sau, những âm thanh lạo xạo ấy mất hút. Sự tĩnh mịch quay lại với căn phòng. Anh đứng dậy đi sang ngăn bếp, tự nhủ không biết mình đã cô đơn như thế này bao nhiêu lâu rồi, và mình sẽ còn cô đơn như thế này bao nhiêu lâu nữa. Thực ra, anh là người Ấn Độ. Mười bảy tuổi, anh rời khỏi ngôi nhà của gia đình anh ở Lucknow, thủ phủ bang Uttar Pradesh, vượt 500 ki-lô-mét bằng tàu hỏa để vào Trường Đại học Tổng hợp Delhi. Năm năm sau, anh tiếp tục đi xa hơn, đi tới cái đất nước Hồi giáo này. Ngày ngày, tại ngân hàng, anh làm việc, làm việc, và làm việc. Anh thích được bận rộn tiếp xúc với các con số hay với các khách hàng. Buổi tối trong căn hộ độc thân của mình, anh dễ dàng bị ám ảnh bởi những ý nghĩ về ba người phụ nữ: mẹ anh, chị anh và Ly. Cả ba người ấy đều là tình yêu của anh, nhưng đều không ở bên cạnh anh. Đôi lúc, nỗi ao ước được gặp họ khiến anh chảy nước mắt. Anh hình dung một ngày nào đấy vào mùa xuân, anh sẽ đưa Ly tới ngôi nhà nơi anh đã được sinh ra và lớn lên. Mẹ anh và chị anh sẽ đứng đón cô ở bậc thềm, dưới tán một cây xoài lớn. Cô sẽ ngồi với anh trong gian buồng anh đã sống suốt thời ấu thơ, sẽ đi dạo với anh trong khu vườn nhỏ cũ kỹ. Và, buổi tối, dưới gốc cây xoài, dọc dãy hàng hiên, rải rác theo lối đi từ cổng, những bông hoa dạ hương (tiếng Hindi gọi là raat ki raani - nữ hoàng của đêm) tỏa một mùi thơm ngào ngạt. Cô sẽ ngắt những bông hoa màu trắng ấy cài lên mái tóc, như các thiếu nữ trong vùng. Thái độ của cô khi anh nói tới những hình dung êm ái ấy như thế nào nhỉ? Cô âu yếm chạm mấy đầu ngón tay vào má anh, miệng mỉm cười. Rồi, bất giác, cô thở dài: - Liệu có bao giờ em tới được Lucknow không, Manu? Anh đưa tay lên giữ lấy tay cô: - Này, em nói cái gì thế? - À... Thì vì... Em mong điều đó quá. - Thật đấy chứ, Lily? Cô "Vâng" một cách quả quyết. Đó là lúc anh đang lái xe chở cô ra bãi biển. Con đường ít cây cối. Những công trường xây dựng nối nhau chạy giật lùi lại đằng sau. Kính cửa sổ xe được kéo xuống một chút, để lọt vào những làn gió có vị ẩm ướt. Cô nép người vào vai anh. Giọng cô mơ mơ màng màng: - Bãi biển sẽ không đông chứ? - Ừ, muộn như thế này rồi, chẳng còn ai đâu - Ánh mắt anh dõi về phía trước. Bóng hoàng hôn buông chậm chạp trên con đường - Ừ, có thể chỉ có hai chúng mình... Anh đứng bên cạnh kệ bếp, chờ cho sôi cốc trà, thêm vào một chút chanh, một chút sữa. Anh thổi thổi và hớp lấy những ngụm nhỏ. "Chả ra làm sao". Vừa tự nhủ vừa buồn bã lắc đầu, anh nhận ra đối với việc pha trà anh chưa bao giờ có năng khiếu. Anh cứ đứng trầm ngâm, nhớ lúc buổi chiều muộn, suýt nữa anh đã quyết định không đến chỗ Sajid. Anh đang đi bộ đến chỗ đỗ xe thì Li, cô gái Trung Quốc, xuất hiện. Cô ta có vẻ mừng vì gặp anh. Cô ta lại xin anh cho đi nhờ. Nhưng trên xe, cô ta rụt rè nói cô ta đói. Anh đưa cô ta tới một quán ăn nhanh, gọi khoai tây rán và bánh mì kẹp. Anh ngồi quan sát cô ta. Chiếc áo dài lụa cổ để hở rộng. Gương mặt có vẻ mệt mỏi mặc dầu trang điểm đậm. Anh thầm phỏng đoán cô ta đã nói dối khi cô ta nói cô ta là sinh viên, có lẽ cô ta chỉ là một cô gái lưu lạc tới cái xứ sở này kiếm ăn. Tại sao anh ân cần với cô ta? Tại thói đa cảm kỳ quặc? Cô ta tên là Li... Tất nhiên, cô ta không biết ý nghĩ đó. Hẳn cô ta cho rằng vì gương mặt đẹp, vì những động tác duyên dáng... Kể thì cô ta cũng khiến anh hơi xao xuyến. Ở phòng đệm của tòa chung cư tồi tàn, cô ta chạm những ngón tay dài vào ngực áo anh: - Anh, lên gác nhé? Cặp mắt cô ta giống cặp mắt một con bê, không lẳng lơ, mà hiền hậu. Anh hiểu điều gì sẽ có thể xảy ra tiếp theo. Trong giây lát, anh muốn ôm sát tấm thân mảnh dẻ kia, muốn lãng quên đi sự cô đơn thường trực. Nhưng, rốt cuộc, anh lại rút ví lấy 100 đôla. - Chỗ này sẽ có thể giúp đỡ cô chút ít - Anh nghiêm trang nhìn vào cặp mắt đang nhìn anh - Cô hãy thận trọng. Các cô gái trẻ ngoại quốc không được hoan nghênh ở đây đâu. Anh cúi gục đầu, mân mê trong tay cốc trà đã uống cạn. Hiện lên trong tâm trí anh bãi biển vắng. Những tảng đá nằm rải rác đọng những tia mặt trời cuối cùng. Gió ấm áp đuổi vào bờ những con sóng loang loáng ánh tím. Nước biển rất sạch. Ly kéo anh chạy dọc mép cát. Cô khoát tay bảo: - Anh này, nếu thêm những cây cọ, em sẽ càng hạnh phúc hơn nữa! Anh ngạc nhiên hỏi lại cô: - Những cây cọ à? - Phải, bởi em sẽ có thể tưởng tượng rằng em đang ở Honolulu! Em thích tưởng tượng rằng em đang ở đó với cái anh chàng ngốc nghếch tên là Manu! Rồi cô bật cười, ngửa mặt lên nhìn vào mặt anh, cặp mắt đã sẫm bóng lấp lánh: - Tuy nhiên, nếu em nói thật, em sẽ nói rằng em không quan tâm đến việc em ở đâu. Ở đâu, em cũng sung sướng, chỉ cần em được ở bên cạnh anh. Sôi nổi và vụng về, cô hôn anh. Những sợi tóc mềm bay lòa xòa dính trên hai bờ má nhỏ. Khi anh và cô quay lại thành phố, đã hết nửa buổi tối. Anh đưa cô tới một nhà hàng quen, gọi cơm cà-ri, rau, thịt cừu và cả thịt bò nữa. Anh nói nửa đùa nửa thật: - Dẫu sao, về những phương diện khác, anh vẫn luôn luôn là một người Hindu hết sức chân chính. Xin em đừng nghi ngờ. Anh ngồi ăn bên cạnh cô, chốc chốc lại ngẩng nhìn cô ăn, biết rằng, cả cuộc đời, anh sẽ muốn được hưởng cái cảm giác êm đềm là có người con gái này ở bên cạnh. Anh đưa cô về căn hộ kiểu châu Âu của mình. Cô ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế bành. Anh ngồi trên chiếc gối dày đặt dưới sàn, ngay bên cạnh cô. Buổi tối trôi đi giữa những câu chuyện về gia đình anh, về gia đình cô, về thời tiết ở Hà Nội, về những cuộc dạo chơi của cô với các bạn, về bộ sherwani (1) anh đang may, về hạnh phúc. Mãi rất khuya, anh mới đứng dậy. Anh và cô đã thống nhất là anh sẽ đến chỗ Sajid, còn cô sẽ ở lại căn hộ của anh. Anh đưa cô vào phòng ngủ và phòng tắm, hướng dẫn cô cách sử dụng một số thứ, xong anh đưa cô quay lại phòng khách. Anh yên lặng đứng trước mặt cô. Rồi anh đột ngột kéo cô vào lòng, ghì đôi vai cô thật chặt. Một nỗi xúc động bất chợt xâm chiếm cũng khiến cô bỗng dưng run bắn lên. Không có gì xảy ra mà cô trào nước mắt. - Anh đi bây giờ à? - Ừ, anh đi. Cô nói khe khẽ: - Hay anh cứ ở lại? Em ngủ trên giường, còn anh ngủ trên đi-văng? Anh trả lời sau một chút trầm ngâm: - Không... Anh không dám chắc chắn rằng anh sẽ không... Vì tự anh, anh thiếu tin tưởng vào việc anh sẽ có thể chiến thắng nỗi khát khao về thể xác, nỗi khát khao được chia sẻ một cách đầy đủ nhất với người con gái của anh. Nhưng cũng chính những tình cảm vừa dữ dội vừa dịu dàng khiến anh không muốn, không bao giờ muốn để cô lâm vào một tình huống xấu có thể. Nhưng cũng nấn ná mãi anh mới rời khỏi cô. Cánh cửa ra vào rốt cuộc đã đóng lại hẳn. Dãy hành lang vắng tanh vắng ngắt. Anh đi xuống cầu thang, vừa đi vừa tự thắc mắc với chính bản thân mình. Chỉ sáng ngày mai cô và anh sẽ gặp nhau, tại sao lúc nãy trái tim anh lại nhói đau y như thể cô và anh sẽ chia tay nhau mãi mãi vậy. Ít lâu sau khi cô sang Dubai thăm anh, anh cảm thấy cái nhói đau trong trái tim kia là điềm báo trước sự tan vỡ. Anh nhận được lá thư của cô, viết rằng có thể khoảng cách hơn bốn tiếng bay giữa Dubai và Hà Nội dài quá, có thể hai lần gặp nhau cho ba năm bảy tháng hai mươi ngày yêu nhau ít ỏi quá. Nếu anh và cô chung sống, liệu có những yếu tố quan trọng nào lúc bấy giờ mới bộc lộ để anh và cô phải ân hận không? Liệu cô có hòa hợp được với những thành viên của gia đình anh không, với mảnh đất cô chưa từng đến, với những con người, với những thói quen, những phong tục tập quán, những khung cảnh xa lạ? “Manu, em sẵn sàng bất chấp nỗi lo sợ của em. Tuy nhiên, em không mặc kệ nỗi lo sợ của mẹ em được. Thời gian gần đây, sức khỏe của mẹ em rất sút. Mỗi lần em thử nói tới việc của anh và em, em lại làm mẹ em ốm thêm. Mẹ em đã nuôi em, chẳng có ai ngoài mẹ em, kể từ khi bố em bỏ mẹ em mười mấy năm trước. Thật không công bằng nếu bây giờ em lại bỏ mẹ em ở lại một mình, nhất là ở lại một mình với nỗi lo âu khắc khoải về tương lai của em". Cô xin anh không liên lạc với cô nữa. Nhưng trong mấy ngày liền, ngày nào anh cũng gửi e-mail cho cô, nội dung chỉ là lá thư của cô làm anh lo lắng quá, anh muốn biết điều gì đã xảy ra vậy. Rồi anh hồi hộp bấm điện thoại gọi cho cô, vì cô có vẻ dứt khoát giữ im lặng. Anh hình dung ra những tiếng chuông đổ trong căn phòng tiếp khách buổi tối không hay thắp đèn. Cô sẽ bỏ dở công việc tưới mấy chậu cây ngoài hành lang, chạy vào cầm ống máy... ... Nhưng thậm chí là trên điện thoại, cô cũng nói rất ít. Anh gần như phát điên lên vì cô cứ im lặng. - Rốt cuộc, anh muốn biết tại sao em còn sang Dubai? Hồi ức về khoảng thời gian hạnh phúc ngắn ngủi vừa mới trôi qua đây thôi gây nên trong lòng anh một nỗi đau đớn. - Vâng - Cô trả lời, giọng chậm chạp - Đúng là em đã suy nghĩ về quyết định chia tay anh từ trước. Và do đó mà em cố gắng để được gặp anh... có thể là lần cuối cùng... Cả mẹ cô lẫn người đàn ông cô chuẩn bị lấy làm chồng đều đinh ninh rằng cô đi Nha Trang vài ngày với các bạn. Cô đã vượt lên trên nỗi lo sợ về khả năng họ sẽ phát hiện ra hành động không trung thực của cô. Đó là sự táo bạo cuối cùng cô thực hiện, vì mối tình đầu tiên. Tại sao cô vẫn tha thiết với anh, nhưng vẫn rời khỏi cuộc đời anh như thế chứ? Anh từng đặt cho cô cái tên Lily Jaan. Anh giải thích rằng cái tên ấy nghe rất tự nhiên đối với một cô gái Ấn Độ, còn Jaan xuất phát từ chữ jaaneman, có nghĩa là cuộc đời. Dầu sao, cô cũng đã và sẽ mãi mãi là một phần cuộc đời của anh. Anh đến đứng bên cạnh khung cửa sổ mở về hướng Đông. Đất nước Việt Nam ở phía ấy. Lily Jaan ở phía ấy. Hẳn đôi lúc trên con đường đời, cô không thể nào lại không nhớ tới anh trong phút giây... [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] (1) Bộ áo khoác dài truyền thống của nam giới Ấn Độ[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Về phía không nhau[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Anh Quân[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]"Anh đi nhé!". "Tạm biệt anh và em... của hôm nay!". Anh bước đi. Cô bước đi. Từ góc quán màu rêu xanh, con đường chia hai ngả. Cô bước những bước dài. Cố gắng không quay đầu nhìn lại. Hẹn gặp anh 365 ngày sau. Hẹn gặp nhau ngày bắt đầu cho hạnh phúc. "Anh làm ở Công ty P&... đường... Bận suốt. Còn em?". "Một khởi đầu tốt anh ạ". Chưa bao giờ cô thấy cái phím send giả tạo đến thế. Nó đồng lõa với sự giả dối của cô một cách trâng tráo. Cô ấn vào nó, một giây sau, màn hình nham nhở báo tin "tin nhắn đã được gửi". Cô muốn khóc. Còn anh có lẽ mỉm cười. Cô đọc không sót một mẩu tuyển dụng nào trên báo, gõ cửa không biết bao nhiêu công ty. Ở đâu cô cũng nghe câu hỏi: "Em có bao nhiêu năm kinh nghiệm?". Cô lắc đầu với họ, và họ cũng lắc đầu với cô. Cho đi thế nào thì nhận lại như thế ấy. Đơn giản thế thôi. Cuối cùng thì cô cũng xin được việc ở một công ty quảng cáo, không cần kinh nghiệm, nhưng không đúng chuyên môn. Vẫn phải chấp nhận, trước khi cô bị tống khứ ra khỏi nhà trọ và đói lả ở một xó phố nào đó. Cô đến công ty, ngoan ngoãn và cần mẫn như một con kiến tha mồi. Cô luôn đến sớm và về trễ. Học hỏi, làm quen đồng nghiệp, những cuộc họp mặt ngoài giờ. Khối việc. Dù sao thì cũng là một khởi đầu tốt. Tháng thử việc, cô nhận được một phong bì nhẹ hều kèm theo một thông báo: "Công ty đang giảm biên chế, sẽ nhận em vào làm với vai trò là cộng tác viên". Lương cộng tác viên đủ cho cô thanh toán hai tháng trọ, tiền điện nước, mua thêm thùng mì gói, đổ đầy bình xăng. Hết veo. Buồn. Cô lại lang thang tìm việc. "Bận lắm không anh?". Đầu dây bên kia ồn ã tiếng còi xe trước khi có tiếng nói của anh. "Anh đang công tác ở bên ngoài". Giọng anh ngập ngừng. Cô đoán anh không tiện nói chuyện. Cúp máy. Như thế lại tốt. Nếu còn nghe giọng anh, biết đâu cô sẽ khóc òa. "Chúc anh công tác tốt". Cô ấn phím send. Cũng chẳng còn bao nhiêu lần ấn vào nó thì cái điện thoại này cũng sẽ trở thành một cục sắt vô dụng. Cố để nó sống đến kỳ lương tháng sau. Mà kỳ lương nào, ở đâu? Người đàn bà tóc uốn quăn từng lọn phóng vào cô tia nhìn dò xét. "Làm việc từ 4 giờ chiều đến 12 giờ đêm. Lương tháng một triệu tám. Em làm được không?". Cô nhìn dò xét lại nhà hàng cà phê sang trọng giăng giăng đèn mờ, se sẽ gật đầu. "Yên tâm, ngoài lương căn bản còn có nhiều khoản khác nữa". Bàn tay người đàn bà đặt hờ lên vai cô. Như trấn an. Như hứa hẹn. Như móng vuốt con mèo trêu đùa với con mồi, chưa muốn nuốt chửng. "Tiền khác" là tiền gì? Cô ngờ ngợ. Nhưng cứ thử bước vào. Chỉ là nhân viên phục vụ thôi mà. Có sao đâu! Công ty P&... đường... Cô đứng nhìn tòa nhà sừng sững giữa trung tâm thành phố. Trên những tầng cao ấy, ngày ngày có bước chân anh. Có lẽ anh không nhìn thấy cô. Anh lúc nào cũng bận. Đâu như cô, nhàn nhã, không có gì để bận bịu, kể cả khoảng thời gian từ 4 giờ chiều đến 12 giờ đêm. Thoát ra khỏi cái móng vuốt muốn bấu chặt vào da thịt, cô lại thành kẻ thất nghiệp. Ra trường với biết bao hoài bão, cô không ngờ mình phải lạc vào những công việc ngược ước mơ. Mà đâu đã bình yên! Có ai đó giống anh lướt qua cô. Không thể nào. Cô nhầm lẫn. Cô vẫn thường nhầm lẫn mỗi khi nhìn thấy ai đó mặc áo xanh giống như anh. Nhưng đúng là anh. Anh. Mồ hôi rơi ướt lưng áo, chảy ròng trên khuôn mặt rám nắng. Đèn đỏ. Cô trờ xe đến ngang hàng với anh. Nhìn nhau. Thảng thốt. Tấm thẻ nhân viên tiếp thị trên ngực áo anh mếu máo. Nhìn nhau. Chỉ mới 117 ngày... ... Chiều đắng đót rơi. Nắng làm bỏng rát niềm tin giả tạo. 117 ngày giả dối nụ cười nhau. Để làm gì hở anh? Cô không cần biết chuyện của 365 ngày sau, chỉ biết rằng hiện tại, anh và cô cần tựa vào nhau, nắm chặt tay nhau. Đi tiếp... Đường dài...[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Về phía những hạt mưa[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Khuê Việt Trường[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mẫu người đàn bà đẹp đối với tôi là dì Hiên. Có thể cả thời thơ ấu của tôi được sống ở bên ngoại, gần gũi với dì, nên dì đã ảnh hưởng tới cuộc sống của tôi không nhỏ. Mặc dù sống ở quê, công việc chăm sóc vườn tược khiến cho dì Hiên liên tục phải dầm mưa, nhưng lạ kỳ là nước da của dì "trắng như gà bóc", dù dì không hề biết tên và chẳng hề dùng một loại mỹ phẩm nào. Tôi còn nhỏ, dưới ánh mắt của tôi thì dì là một tiên nữ. Bởi vào những đêm trăng, dì vẫn thường rủ tôi ra cầu gỗ bờ sông để “ngắm trăng”. Dì mặc nguyên bộ quần áo mỏnh manh, nhảy xuống dòng sông mà giỡn với những ánh trăng vàng cứ “trôi” trên sóng nước. Dì ôm tôi vào lòng, gội đầu cho tôi bằng thứ xà bông Cô Ba có mùi thơm là lạ. Bộ ngực no tròn con gái của dì tì trên lưng tôi khiến cho tôi có cảm giác đó là bộ ngực đẹp nhất thế gian. Cũng trong đêm trăng mờ ảo đó, dưới mắt một đứa “con nít” như tôi, dì Hiên đã hồn nhiên thay quần áo. Trăng đêm phả lên thân hình thiếu nữ của dì - đó là cảnh đẹp theo tôi cho đến khi tôi khôn lớn. Dì Hiên của tôi rất thích tắm mưa, khi những cơn mưa ùa về rửa sạch những đám bụi đường bám trên cây lá, là dì gọi tôi : “Duy, đi tắm mưa với dì”. Thế là hai dì cháu chạy ra ngoài cơn mưa vùi đất trời kia mà đùa giỡn. Bà ngoại cũng đã có lần la dì: “Con gái tới tuổi lấy chồng rồi mà cứ đùa giỡn như con nít. Lọng ngọng ế bây giờ”. Lúc đó dì Hiên chỉ cười : “Con chỉ lấy một ông tiến sĩ”. Thật ra thì vào thời điểm đó, tôi chỉ hình dung ra ông tiến sĩ là một vị quan. Khi ông tiến sĩ về làng thì có lính cầm cờ đuôi nheo, có lính thổi kèn, có võng khiêng ông. Đó là chuyện cổ tích tôi đọc trong truyện sách. Tôi nói với dì Hiên một cách ngây thơ : “Lớn lên cháu sẽ thi đậu tiến sĩ để đem võng về làng rước dì”. Lúc tôi nói, dì Hiên nắm tay tôi xoay vòng quanh dì, dì cười lộ ra cả hàm răng trắng, mùi thơm từ thân thể dì tỏa ra êm ái. Dì nói trong tiếng cười: “Ờ, cháu đi học đậu tiến sĩ đi, dì đợi.”. Đó là thời thơ ấu của tôi. Thời thơ ấu của bến sông trộn ánh trăng và bóng dáng dì Hiên, dì Hiên đẹp như tiên nữ khi dì khỏa thân trong ánh mờ. Thời thơ ấu của tôi còn là những cơn mưa mù đất mù trời cùng dì đùa giỡn. Thời thơ ấu của tôi còn trộn cả hơi ấm khi được dì Hiên ôm vào lòng và cả mùi hương con gái của dì ở lại trong ký ức trẻ thơ. Rồi tôi cũng phải kết thúc những ngày trẻ con của mình. Ba mẹ tôi đã về quê dắt tôi lên thành phố. Ký ức về dì Hiên cứ thế lạt phai lần theo tuổi lớn của tôi. Tôi vào trường có bạn bè, những trò chơi mới cứ thế cuốn vào. Thỉnh thoảng tôi theo ba mẹ về quê, khi đó ngoại đã già, còn dì Hiên thì đã khác xưa. Tình cảm còn dì cháu vẫn chẳng có gì thay đổi, nhưng tôi và dì chẳng còn thời gian để đùa vui như ngày xưa. Còn ông tiến sĩ của dì Hiên đang ở đâu thì tôi cũng chẳng tiện hỏi. Cuối cùng thì dì Hiên cũng lấy chồng. Dì lấy chồng ở tuổi 29. Tuổi 29 đối với con gái nhà quê đã bị liệt là già. Tuy nhiên, tuổi 29 của dì Hiên vẫn nõn nà giống như những chiếc lá chuối non óng ả màu xanh lạ trong vườn trong nắng sớm. Dì Hiên lấy một ông tiến sĩ thật, nhưng tiến sĩ bây giờ nhìn chẳng khác người thường bao nhiêu. Anh Nguyên, chồng dì chỉ khác hơn những người đàn ông khác ở miền quê tôi là nước da trắng và đôi kính cận gọng vàng luôn đeo trên gương mặt. Nhưng bằng tiến sĩ của anh Nguyên lại là bằng tiến sĩ sử học. Đề tài khảo cứu để bảo vệ luận án tiến sĩ của anh lại nằm ngay trên bờ ruộng nhà tôi: khai quật khu mộ chum đã có cách đây cả ngàn năm trước. Tôi ở thành phố về thì công việc khai quật dù chỉ ở khu ruộng nhà tôi cũng đã xong. Trong suốt thời gian đoàn khảo cổ làm việc, che một lán nhỏ sau vườn nhà tôi để tiện việc hoạt, dì Hiên trở thành bà nội trợ đảm đang. Có thể tình yêu của dì Hiên và anh Nguyên đã nảy nở và kết trái từ những mộ chum rạn vỡ chôn sâu dưới lòng đất cả ngàn năm kia. Trong tình yêu dường như chẳng hề có khái niệm không gian, thời gian và cả sự chênh lệch vị trí trong xã hội. Nó tự đến giống như cơn mưa bất chợt từ một đám mây trôi bởi những cơn gió đẩy về. Mưa, thế là những hạt mầm vùi sâu trong lớp đất khô ran ngoi lên, đâm chồi. Dì Hiên là hạt mầm chôn vùi trong đất. Hạt mầm ấy âm thầm nghe những cơn gió thổi qua lớp võ cứng cáp của mình, đợi một cơn mưa đến để đâm chồi. Anh Nguyên là cơn mưa đó, đến tình cờ như định mệnh. Dì Hiên vẫn đỏ mặt khi kể cho tôi nghe chuyện dì và anh Nguyên quen như thế nào? Không một đoá hoa hồng, chẳng có ánh trăng nghiêng chênh chếch dưới những tàn cây. Đó là cú trợt ngã của anh Nguyên khi nhảy qua một mô đá. Dì Hiên học được nghề xoa nắn, trị bệnh thấp khớp từ ông ngoại tôi. Ông ngoại nói: “Đó là nghề làm phước chứ không phải nghề để kiếm tiền”. Cả xóm tôi ở ai lại không biết đến ông ngoại, mọi bất trắc dường như có thể xảy ra với tất cả mọi người. Bị trặc chân, trặc tay là mọi người tìm đến ông ngoại. Ông ngoại chết, dì Hiên đã trở thành người kế thừa. Điều cũng lạ là đôi bàn tay mềm, nõn nà nhỏ của dì lại có thể dùng một động tác đơn giản để kéo những khớp xương sai lệch của mọi người trở về đúng vị trí của nó. Hôm đó chắc anh Nguyên đau đớn lắm. Một người bạn đồng nghiệp của anh cõng anh thẳng vào nhà tôi. Để anh nằm trên chiếc phản gỗ hương đã lên nước bóng. Dì Hiên vừa đi chợ về, đã vội vàng bỏ chiếc giỏ rau cá ở trước cửa nhà, rửa vội đôi bàn tay, vào nhà sửa lại những khớp xương bị trật cho anh Nguyên. Tình yêu của họ đã đến từ sự va chạm đầu tiên của một “Bà thầy mằn” và ông tiến sĩ khảo cổ học. Đám cưới xong là dì Hiên theo anh Nguyên về thành phố. Đó là lẽ tất yếu của cuộc đời, tình yêu hơn hết thảy mọi điều là một tiếng gọi lạ lùng. Ông tiến sĩ của dì Hiên dĩ nhiên vẫn miệt mài với những chuyến đi, với những cuộc khai quật. Tôi ghé thăm dì Hiên, thấy gương mặt của dì ngời ngời hạnh phúc. Căn nhà của hai người khá xinh, ẩn khuất trong một cư xá. Để giết thời giờ và cũng để có việc làm. Dì Hiên mở một hàng bán cà phê ngay trong vườn nhà, không biết dì học pha cà phê ở đâu? Nhưng những ly cà phê rất ngon. Khi tôi tới thăm dì vào buổi sáng, tôi vẫn được dì pha cho một ly cà phê ngon như thế. Quan sát ngôi nhà và sân vườn, có thể thấy rõ là anh Nguyên yêu dì Hiên đến dường nào. Một góc vườn có một hồ nước rộng, trong hồ anh Nguyên thả hoa súng và bèo hoa dâu, ở một góc hồ là những cây thủy trúc mướt xanh. Điều thú vị hơn nữa chính là một không gian mưa nhân tạo được tạo ra. Nước được hệ thống phun phun lên mái ngói bám rêu, rơi nhẹ nhàng xuống hồ. Ngay ngoài hồ là một lu nước bằng đất nung, gắn lên trên là chiếc gáo dừa. Dì Hiên thích những giọt mưa rơi, dì cũng thích rửa chân tay, mặt mũi bằng nước gáo dừa. Dạo sau này tôi ít gặp dì Hiên. Công việc cứ cuốn hút tôi đến độ không có thì giờ ghé qua nhà dì, dẫu đôi khi tôi có tạt qua thành phố dự một cuộc hội nghị nào đó. Tôi gọi điện, vẫn là giọng nói se sẽ, dịu dàng như sợ làm đau cả không gian: “Cháu ghé nhà dì ăn bữa cơm rau không được sao? Công việc gì mà bận rộn đến thế?". Rồi tôi ghé, vẫn vườn cây tươi tốt, vẫn những giọt nước mưa nhân tạo chảy từ mái ngói rêu bám rơi xuống hồ đầy hoa súng nở. Dì nấu một bữa cơm rau, rồi dì cháu nhìn nhau cười. Theo dì thì anh Nguyên đã được đề bạt lên làm giám đốc bảo tàng, do đó anh ít đi khai quật hơn. Tôi hỏi trong bữa cơm: "Lâu quá rồi sao dì và anh Nguyên không sinh một em bé cho vui nhà?". Dì Hiên giằng lấy chén của tôi, bới vun đầy những hạt trắng, không trả lời câu hỏi, mà nói: “Nồi canh tập tàng nấu cua này dì nấu có ngon như ở quê không?". Tôi ăn bát canh cua dì Hiên nấu cho dì vui. Hình như tôi thấy trên gương mặt dì có một nỗi buồn rất lạ. Tôi không tiện hỏi gì, và tôi càng không thể lý giải được nỗi buồn đó nói lên điều gì. Bởi đơn giản là dì đang sống trong một gia đình hạnh phúc có người chồng yêu dì hết mực, lại lo lắng cho dì từng sở thích như tạo cho dì cả một hồ hoa súng, tạo những giọt mưa cho dì đỡ nhớ những cơn mưa ở quê. Cũng có thể là hàng đêm dì Hiên sẽ tắm dưới những giọt mưa do anh Nguyên tạo ra kia, giống như ngày nào dì từng rủ tôi tắm mưa. Nhưng tôi không biết là dì có khoả thân hay khong. Tôi đang ngồi trên chiếc thuyền trôi trên dòng sông Cổ Chiên trôi đầy những dè lục bình. Hoa lục bình nở tím ngắt cả một dòng sông thì tiếng chuông điện thoại di động bỏ trong túi áo tôi rung lên. Gió thổi lồng lộng khiến cho tôi không nghe rõ tiếng chuông reo. Hảo, chàng sinh viên thực tập đang theo tôi để vào tận Bình Hưng Hòa để khảo sát giống cây trồng tại đây, kêu: “Anh Duy, hình như có điện thoại”. Tiếng chuông điện thoại như réo giục. Tiếng anh Nguyên bên kia đầu máy, giọng nói hình như ở một nơi nào xa xôi: “Dì Hiên đang nằm ở bệnh viện, dì muốn gặp em”. Con đường từ Vĩnh Long về thành phố khá tốt, nhưng có một đoạn đường đang sửa chữa, xe phải bọc qua con đường phụ, băng qua một vườn dừa nước. Con đường xấu, nhỏ mà xe lưu thông lại nhiều, liên tục đợi tránh nhau khiến cho lòng tôi như có lửa cháy. Mắt trái của tôi cứ giựt lia lịa. Dì Hiên đã từng nói với tôi ngay từ thuở nhỏ là khi mắt trái bị giật là dì đang nhắc đến tôi. Tôi sực nhớ tới Đông Nghi, cô bạn học cũ của tôi hiện đã là bác sĩ ở bệnh viện dì Hiên đang nằm. Tôi lật cuốn sổ nhỏ ghi chép số điện thoại nhàu nát của mình, gọi cho Đông Nghi. Tiếng Đông Nghi rõ ràng : “Em sẽ lo cho dì, anh yên tâm đi mà”. Nhưng dù cho chuyến xe của tôi từ Vĩnh Long về thành phố có sớm hơn chăng nữa thì tôi không thể nào giữ dì Hiên ở lại được ở cõi nhân gian này. Điều may mắn là dì vẫn còn kịp nói với tôi đôi câu trước khi dì ra đi vĩnh viễn: “Ráng mà sống tốt Duy nhé! Dì thèm tắm mưa, tắm mưa thật sự chứ không phải là mưa bởi nước phun lên những mái tôn đâu. Có dịp Duy đưa dì về nhà tắm mưa, Duy nhé!". Tôi bóp chặt bàn tay xanh xao của dì. Anh Nguyên đã bước ra khỏi phòng bệnh. Anh khóc ngon. Trời đổ mưa khi chúng tôi đưa dì ra nghĩa trang, mưa như để thỏa lòng mong muốn có một lần trở về quê, tắm trong những giọt mưa đồng nội của dì. Có thể tôi tưởng dì Hiên đã sống trọn vẹn một cuộc đời hạnh phúc, nếu Đông Nghi không kéo tôi ra quán cà phê. Em đưa cho tôi bệnh án của dì Hiên. Tôi không là bác sĩ nên tôi không rành rẽ đó là bệnh nào. Tôi chỉ biết dì Hiên bị ung thư ở thời kỳ cuối. Đông Nhi nói: “Bất ngờ lắm anh Duy à! Đến khi chết dì Hiên của anh vẫn còn là con gái!”. Tôi nhìn mưa nhòa về phía biển. “Đến khi chết dì Hiên vẫn còn là con gái!”.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vợ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Công Hoan [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Anh ba Cốc, từ ngày lấy được vợ, thì đâm lo. Lo ngày, lo đêm. Sao cho chóng trả được món nợ cưới. Không thì rầy rà to chứ chẳng chơi! Đụng vào những chỗ hóc búa, lắm lúc rát cả mặt! Vợ anh là con bác khán thủ làng trên. Anh là phu tuần. Hai người lấy nhau, cả hai làng, ai cũng khen là vợ chồng kén chọn được chỗ xứng đáng. Nhưng thực ra, vợ anh lấy anh cũng vì đôi bên là chỗ "thanh khí", nghĩa đen là bén "tiếng" quen "hơi"nhau trước mãi. Rồi bất đắc dĩ, bác khán sợ anh như những hạng Sở Khanh, mới ép anh phải lấy. Số trời có khác! Trước kia, anh nghĩ đã sinh ra làm con trai, tất nhiên là phải cưới vợ cho hợp lẽ tạo hóa. Nhưng cưới được vợ thì tốn kém quá. Tiền nọ, tiền kia, tiền ăn uống, ít ra mất hàng chục. Nghĩ đến cái hàng chục, anh lại lắc đầu, lè lưỡi, muốn chịu thua, đành vô phép tạo hóa làm trai tơ suốt đời vậy. Vậy mà giá nói cho anh biết ở Hà Nội bây giờ, người ta cưới vợ phải dẫn những kim cương, những vàng ngọc, dùng những áo thêu, giày vá, đi những ô tô, máy bay, tốn kém đến hàng nghìn, thì quyết anh không tin, cho là chuyện hoang đường ở nước nào, đời nào kia đấy! Lấy vợ mà phải lo đến hàng trăm, không đủ méo mặt ra rồi à? Vả vợ cũng là người, nào phải cái quái mà làm hại nhiều như thế? Thế nhưng, trời sinh ra thế, anh ba Cốc nghĩ đến cưới thì sợ, nhưng nghĩ đến vợ thì thích. Bởi vậy, anh mới lân la trò chuyện với chị Ba bây giờ. Trước chuyện to ở đám đông, sau chuyện nhỏ ở chỗ vắng. Rồi sau nói thầm ở một nơi kín. Vì anh chị nói thầm khẽ quá, nên bác khán nghe tiếng, bắt anh phải lo cưới cho được chị về. Bởi vậy, anh Cốc quyết bắt chẹt bố vợ, cố mặc cả. Sau, anh lấy được vợ hạ giá hơn người ta, chỉ có mười lăm đồng bạc. Mười lăm đồng bạc một cô vợ xinh! Mười lăm đồng bạc một cô vợ yêu! Thích nhỉ! Nếu vào địa vị chúng mình thì phải biết là đáng mừng! Nhưng vào anh ba Cốc, một người cày sâu cuốc bẫm quanh năm, làm ăn vất vả, vắt mũi không đủ đút miệng, thì đến mười lăm hào cũng đủ lo méo mặt, chứ nói gì đến mười lăm đồng bạc! Nhưng mười lăm đồng bạc tiêu vào một việc bổn phận làm người, thôi, anh cũng cố vay mượn của các bà con thân thuộc, nói khó với người ta, nên được gần đủ. Ngày hẹn cưới sắp đến. Bác khán thúc mãi anh, anh mới lo được chẵn chục bạc. Anh cứ đánh liều đưa sang bên nhà gái cho xong chuyện. Còn năm đồng, anh xin chịu lại ông nhạc, hẹn đến mùa tới thì trả nốt. Ý anh định rồi sau này, khi đã là bố con, anh có thể lấy cảm tình mà xí xoá món nợ. Nhưng không được. Bố vợ anh láu hơn, bắt anh phải viết văn tự cẩn thận. Phải, thời buổi kinh tế khó khăn, như thế là bác khán đã nhân nhượng lắm rồi. Chứ như người khác, đố anh có đón dâu nổi ngày hôm ấy. Anh thử lên Hà Nội, thửa một thức hàng mà xem. Nếu anh đặt được ít tiền trước, rồi không có đủ để trả nốt, thì anh chớ hòng mang đồ về. Mà vợ cũng là đồ chứ sao? Lấy vợ mà được "biên bông" như anh, là may đấy. Nhưng rồi anh ba Cốc lo lắm. Cưới được lâu ngày bao nhiêu, thì hẹn trả chóng đến bấy nhiêu. Vụ gặt xong, mà anh ỳ xác ra, thì quyết anh chẳng yên được. Anh đã tính chán rồi. Đến ngày mùa, hai vợ chồng làm nai lưng cật lực, chưa chắc đã đủ tiền để trang trải các món nợ ông chủ, huống chi là năm đồng bạc nợ ông nhạc! Anh định nếu rồi không cười trừ được, thì anh cũng đành xin khất lại. Chẳng lẽ ông ấy lại chẻ xác anh ra à? Nếu anh bị chẻ xác, thì con gái ông ấy goá chồng, còn thiệt bằng mười! Nhưng ở đời, tính một đường nó thường đi một nẻo. Vợ anh khuyên anh nên trả cái món năm đồng ấy trước, anh lại chẳng nghe. Khi hẹn đến ngày, bác khán cứ gọi anh đến mà đòi nằng nặc. Trước còn ngọt ngào dỗ dành sau bác biết anh chỉ còn bộ răng nhe ra đấy thôi, bác liền đâm ra nói nặng. Không chịu nổi những điều đau đớn, anh đành lẩn mặt. Bố vợ cho gọi, anh cứ thoái thác cớ nọ cớ kia, không đến nữa. Mấy lần bác khán gọi anh ba Cốc không được, thì tức. Bác mới gọi chị Ba đến. Bác chửi, đánh cho một trận thật đau, bắt phải về đòi chồng cho kỳ được món tiền năm đồng ấy. Chị Ba sợ bố, về đòi chồng nằng nặc. Nhưng vợ đòi nợ chồng thì một cái hôn là đủ xí xoá. Vợ anh bảo: - Nếu mình không giả được, thì ông bắt tôi về. Nghe câu nói dọa vô lý, anh chẳng sợ một tí nào. Dù bố vợ anh có bắt vợ anh về thực, thì chẳng qua như cái lối chủ nợ bắt đồ, cốt để làm oai, khiến anh phải lo cho kịp. Như thế là dại. Đồ vật thì không biết đi, không biết trốn, chứ đồ người nào phải vật vô tri vô tình. Giữ sao nổi? Chẳng lẽ bác khán xỏ chạc vào mũi con gái mà buộc suốt ngày vào chân giường, để nuôi cơm báo cô mãi? Chỉ cho ba hôm, bác xót ruột lại phải thả con ra ngay. Lúc ấy anh cứ chịu khó nghe chửi một trận nữa là trôi việc. Nhưng anh đoán không đúng. Bố vợ anh chưa tịch ký vợ anh, đã áp đảo đến nhà anh mà chửi rủa. Ngày nào tấn kịch ấy cũng diễn ra độ nửa giờ. Mà bao giờ anh cũng đóng một vai tuồng câm. Song, già néo đứt dây. Anh cứ thấy ông bà ông vải ngày nào cũng bị mời lên ăn vật chẳng ngon, thì anh động tâm. Cho nên, đến lúc bác khán bảo nếu anh không trả thì bác bắt con gái về, anh đâm khùng, liền đáp lại: - Thì nó đấy, ông muốn đem nó đi đâu thì đem! Chị ba Cốc thấy bố đẻ và chồng xử với nhau cạn tàu ráo máng, thì chỉ thút thít. Chứ bênh bên nào cũng tội. Hôm sau, đi đâu về, chị ấy nói với anh một chuyện, nghe buồn quá: - Anh ơi, tôi lấy anh chốc đà một năm tròn. Tôi không ngờ đâu chỉ vì có năm đồng anh thiếu mà sinh chuyện. Ông nhất định bắt tôi về. Anh nghĩ thế nào? Anh Ba cau mặt, thở dài: - Ông dọa thế, chứ ông chả nỡ. - Không phải chuyện dọa. Nội nhật ngày mai, nếu anh không giả được, thì ông không đắn đo nữa đâu. - Thì nhà cứ tạm về, tôi sẽ thu xếp sau. - Thu xếp sau thì chậm quá. Nghe như ông đã định liệu công việc cả rồi. - Ông đi kiện tôi à? Lý vậy, nhưng còn tình nữa chứ? Anh ba Cốc tin ở chữ tình, nên bằng chân như vại. Phải, bác khán nghĩ đến tình bố vợ con rể, nên không nỡ kiện thưa. Nhưng bác bắt con gái về, không cho ở với anh ba Cốc nữa. Anh ba Cốc chờ vợ năm hôm, lại mười hôm. Rồi nửa tháng, đến một tháng. Anh nóng ruột, nhớ vợ, long tong chạy ngược chạy xuôi để vay tiền chuộc. Nhưng không ai tin mà cho anh mượn nữa. Anh bèn liều đến nhà ông nhạc, lạy van, khóc lóc. Nhưng bác khán một mực lắc đầu, sai con trai đuổi anh ra khỏi cửa. Rồi từ hôm sau, cấm không cho anh vào nhà. Anh định đâm ì. ì mãi, thì tất cũng có một ngày ông nhạc giữ vợ anh chán, rồi cũng hồi tâm mà nghĩ lại, cho vợ chồng anh ăn ở với nhau. Nhưng trong khi đương thi hành cái chương trình ì, thì anh nghe tin rằng người bạn trăm năm của anh, vì bố ép, nên chỉ trăm năm với anh có một năm, còn chín mươi chín năm nữa, thì trăm năm với cụ lý Bá dưới cuối tổng, làm vợ lẽ thứ bảy, để gán món nợ hai chục bạc mà bác khán đã vay cụ năm trước! [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vợ cũ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đặng Văn Sinh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Sắp đến chương trình phim truyện. Theo thông lệ, Đài truyền hình Việt Nam phát mấy phút quảng cáo. Thằng cháu nội bảy tuổi đang ấm ức vì mục này kéo quá dài, sốt ruột, thì bất ngờ tôi đọc được mấy dòng cáo phó: "Gia đình vô cùng đau đớn báo tin, mẹ chúng tôi là bà Phạm Thị Xuyến, sinh năm 1932, quê quán tại xã... huyện... tỉnh Thái Bình, do mắc bệnh hiểm nghèo đã từ trần...". Chuyện chị Xuyến từ bấy đến nay tôi chưa hề hé răng với vợ. Bây giờ chị ấy đã thành người thiên cổ, bà Ngần dù có đanh nọc đến mấy cũng chẳng còn đối tượng để ghen tuông. Và, biết đâu được, khi hiểu rõ ngọn ngành, ngày mai bà ấy lại cùng với tôi về làng? Vì thế, tôi quyết định kể... Năm năm mươi, tôi đang học tiểu học, gia đình bắt phải cưới vợ. Lúc ấy tôi mới mười hai tuổi, chỉ mải thả diều, bắt ve sầu, cởi truồng tắm sông, biết gì về chuyện vợ chồng. Thấy tôi không hào hứng lắm, ông bố bảo: - Nhà mình mấy đời độc đinh, phải lo vợ cho mày để bố mẹ sớm có cháu bế. Tôi lắc đầu: - Con không lấy vợ đâu. Chúng nó cười chết. - Cười hở mười cái răng. - Mẹ nhả miếng bã trầu, thêm vào. - Thằng Chu con ông Trương Hành kém mày một tuổi ở xóm Trại, người bé như hạt mít thế mà đã lấy cái Nhinh con bà Vạn cuối tháng trước. - Con đã bảo không lấy vợ - Tôi dứt khoát phản đối. - Nếu cứ bắt ép là con bỏ nhà đi đấy. - Thằng này láo, dám cãi lại người lớn. - Ông cụ quát. - Không lấy vợ thì nghỉ học, muốn đi đâu thì đi, tao không cấm. Ông cụ vốn là người có máu gia trưởng, nóng tính lại dữ đòn. Mấy hôm sau, bà mẹ nói mãi vẫn không dỗ được tôi lấy vợ ông liền vơ tất cả sách vở quẳng ra sân rồi dứ dứ chiếc roi mây ra lệnh: - Cá không ăn muối cá ươn. Mày định thi gan với tao phải không? Vào buồng ngay! Cái roi mây của ông cụ thật đáng sợ nhưng sợ hơn cả vẫn là hình phạt bị nhốt vào buồng. Nghe bố quát, các chị tôi xanh mắt, lảng mỗi người một nơi. Tôi lấm lét nhìn quanh tính nước chuồn nhưng không kịp. Ông bố hình như đã đoán được ý nghĩ ấy bèn vung roi thị oai, quất cho ba nhát đau điếng rồi ấn vào buồng khóa cửa lại. Thế là tôi trở thành tù tại gia. Sang ngày thứ hai, không được ăn gì, tôi đói lắm. Nửa đêm chị Ngà đưa bát cơm qua cửa sổ. Vừa thò tay ra đỡ thì nghe đến vút một cái, tay tôi tê dại, bát cơm rơi xuống hè vỡ tan tành. Thì ra ông cụ đã rình sẵn quyết tâm chặn mọi đường tiếp tế để khuất phục tôi. Hôm sau chị Ngà bị trận đòn nhớ đời. Ngày thứ ba, tôi đói quá không đứng vững nữa. Nhìn xung quanh cái gì cũng lốm đốm như hoa cà hoa cải. Người bủn rủn, chốc chốc lại toát mồ hôi. Nghĩ mình sắp chết đói đến nơi, mà chết ở tuổi mười hai thì phí quá, thế là đành phải đầu hàng không điều kiện. Người mà bố mẹ hỏi cho tôi là chị Xuyến con ông Hương Đậu bên làng Vẽ, năm ấy mười tám đẹp có tiếng trong vùng. - Có chuyện như thế thật à? - Bà Ngần hình như bị nghẹt thở hỏi bằng giọng không được bình tĩnh lắm - Vậy mà mấy chục năm qua ông cứ im thin thít như thóc đổ bồ. Ngay cả chị Ngà, chị Ngái cũng không thèm nói với tôi một lời. - Thì mình cứ từ từ để tôi kể, làm gì mà sồn sồn lên thế. Vợ tôi hạ giọng chép miệng: - Chắc là gia cảnh có chuyện éo le bà ấy mới chịu lấy ông, chứ vợ chồng như thế khác gì đôi đũa lệch. - Mình nhận xét đúng đấy. Nhà tôi mấy đời nghèo rớt mồng tơi, quanh năm các cụ đi thiên hạ làm thuê, mỗi lúc về làng không dám ngẩng mặt lên. Đến đời ông cụ sinh ra tôi, bị cánh chức dịch chèn ép quá, không chịu được phải bỏ lên mạn ngược theo nghề sơn tràng. Mấy năm sau, làm ăn phát đạt, cụ về nhà tậu ruộng, mua trâu rồi mua luôn cả cái chức Lý Cựu để có một cái chỗ vai vế trên chiếu đình. Hồi còn ở Lạng Sơn, ông cụ học được môn thuốc chữa rắn độc cắn. Ông này một hôm đi rừng hái thuốc gặp con gấu ngựa ở Khe Hùm. Con gấu to quá mà trong tay ông ta chỉ có cây dao quắm thành ra đánh không lại bị nó tát cho, lăn xuống vực. Cũng may, hôm ấy bố tôi về bản Khuổi mua rượu cho cánh thợ xẻ. Trên đường đi, phát hiện ra, ông cụ tuột xuống vực dìu được ông lên đưa về nhà. Gia đình cảm động lắm, giữ lại chơi mấy ngày. Sau khi lành vết thương, ông già tặng bố tôi một nén vàng và truyền cho cả môn thuốc chữa rắn độc. Dịp ấy hình như vào tháng bảy tháng tám ta, ông Hương Đậu bị rắn cạp nia cắn trong lúc đi ăn khao về. Rắn cạp nia sọc đen sọc trắng chỉ nhỏ bằng ngón tay cái nhưng nọc rất độc, độc hơn cả rắn hổ mang. Bị loài này cắn, sau mấy giờ đồng hồ, nếu không chữa kịp thời thì cái chết cầm chắc trong tay. Lúc đầu ông Hương nghĩ là rắn mòng, thấy buốt cũng chẳng để ý. Về đến nhà, ra cầu ao rửa chân, vết thương ngấm nước sưng tấy lên, ông phải vất vả lắm mới lê được vào giường nằm rên hừ hừ. Cả nhà rối rít chạy tìm thầy. Xế trưa, mấy ông lang quanh vùng được mời đến nhìn thấy vết thương tím bầm, bệnh nhân nằm thiêm thiếp, thở khò khè, vị nào cũng lắc đầu. Tầm chiều, chị Ngái cắt cỏ về bảo với ông cụ: - Con nghe bên làng Vẽ có người bị rắn cạp nia cắn sắp chết. Các thầy thuốc đều chịu cả. Từ trước đến nay thầy ít chữa nên bà con không biết. Hay là thầy sang bên ấy xem sao, may ra cứu được. - Ai thế con? - ông cụ hỏi. - Dạ, hình như ông Hương Đậu. - Nhà ông ấy thì thầy có biết... Thôi được để tao đi kiếm ít lá. Thế là ông cụ vào nhà lấy gói thuốc bột giắt lên vành khăn xếp rồi xắn quần tất tả chạy đi. Ông cụ đến nơi thì ông Hương đã nằm bất tỉnh nhưng mắt vẫn còn phản ứng và tay chưa đến nỗi bắt chuồn chuồn. Môn thuốc gia truyền quả là công hiệu. Chỉ một liều uống và một liều đắp vào chân, đến đêm ông Hương đã tỉnh lại, vết sưng xẹp dần, sang ngày hôm sau thì ngồi dậy được. Chưa đầy nửa tuần trăng, ông Hương đã chống gậy cùng với vợ sang nhà tạ ơn. Đầu tiên ông ấy đặt lễ lên bàn thờ, thắp hương vái các cụ rồi quay ra sụp xuống lạy ông cụ nhà mình ba lạy. Ông cụ vội đỡ ông Hương dậy giọng bối rối: - Ấy chết, sao ông lại làm thế. - Thưa ông, ơn cứu mạng của ông như trời biển không biết lấy gì báo được. Hôm nay, tôi cùng bà nó sang đây là có câu chuyện muốn thưa... - Mời ông bà ngồi xơi nước. Việc trị bệnh cứu người là trách nhiệm của thầy thuốc, ông bà không nên cả nghĩ. - Là thế này ạ - Ông Hương khẽ khàng nói. - Nhà ta có cậu quý tử sắp đỗ xéc phi ca. Vợ chồng tôi chỉ sinh được mình cháu Xuyến là gái, tuy còn vụng về đường ăn nết ở nhưng cũng mạo muội gửi cậu Khóa làm người nâng khăn sửa túi để đền đáp một phần ơn cứu tử của ông bà. Lời nói của vợ chồng ông Hương trúng ý bố tôi. Từ lâu ông cụ đã có ý định chọn vợ cho tôi nhưng chưa tìm được đám nào vừa ý. Ông cụ mừng như vớ được của tuy vẫn làm ra vẻ nhún nhường: - Ông bà có lòng thương chúng tôi xin đa tạ, nhưng cháu nó còn đang học sợ đa mang chuyện thê nhi ảnh hưởng đến sự nghiệp. - Tôi có lời thế này - Ông Hương vẫn từ tốn nói - Việc nào ra việc ấy. Con Xuyến nhà tôi năm nay tròn mười tám, cậu Khóa mười hai, kể về tuổi có chênh lệch tý chút nhưng tôi đã nhờ người xem tử vi, ngày sinh tháng đẻ rất hợp nhau. Hơn nữa cậu Luân sắp đi học trường tỉnh. Cô Ngà, cô Ngái rồi ra cũng xuất giá làm dâu con người ta. ở nhà chỉ còn cô út, ông bà cũng phải có nàng dâu gánh vác việc gia đình phải không ạ? Nghe ông Hương rỉ rả phân tích, bố tôi lọt tai, thích lắm. Thế là ngay chiều hôm ấy hai gia đình ra tuyên bố bắt tôi phải chấp hành "nghị quyết" cưới vợ. Đám cưới được ấn định vào cuối tháng hai âm lịch. Lúc ấy tôi đang chuẩn bị thi bằng tiểu học. Thực tình, đến lúc ấy tôi chẳng có khái niệm gì về chuyện vợ chồng. Làng Báng từ bao đời nay, mười thằng con trai thì có đến năm, sáu thằng lấy vợ trước tuổi mười bốn, thậm chí có đứa còn thò lò mũi xanh, bố mẹ đã rước nàng dâu về. Thỉnh thoảng có cặp vợ cõng chồng, dỗ chồng cứ như là chị cõng em, thế mà vẫn đẻ một đống con, ở với nhau suốt đời. Thôi thì cái lệ làng nó vậy, một mình không chống lại được, đành chấp nhận. Đến hôm cưới tôi mới nhìn rõ mặt chị Xuyến. Người làng nói không ngoa. Chị ấy đẹp lắm, mặt trái xoan, răng đen bóng, môi đỏ như son, da trắng mịn lại thắt đáy lưng ong. Đứng cạnh nhau, tôi chỉ cao đến ngực chị ấy. Lúc sang đón dâu tôi nhác thấy chị Xuyến buồn lắm. Lấy chồng chỉ cách nhà một cánh bãi mà chị ấy làm như là các thiếu nữ ngày xưa phải vượt trùng khơi đi cống rợ Hồ. Chị ấy trải chiếu hoa cạp điều ở gian chính giữa, mời bố mẹ ngồi lên rồi gạt nước mắt, sụp xuống lạy ba lạy. Bà mẹ thương con lắm, mắt đỏ hoe ngậm ngùi bảo: - Con về làm dâu bên ấy nên ăn ở cho phải đạo đừng để bố mẹ chồng chê trách. Mẹ biết lòng con không được thanh thản nhưng đây là cái ơn cái nghĩa, đừng phụ công lao dưỡng dục của cha mẹ. Trên đường về tôi ngẫm nghĩ, thế là chị ấy đã sang sông, coi như bỏ phí một đời thiếu nữ. Cách đấy dăm hôm, tôi nghe mấy người đi chợ Cháy bảo chị Xuyến phải lòng anh Đọc ở xóm Cầu Đá. Anh Đọc làm nghề đâm ba ba ở sông Yên. Ông Hương chê nghèo không gả. Vào hôm tổ chức đám cưới của tôi anh Đọc bỏ làng ra đi. Hãi nhất là ngay tối hôm ấy, khi khách khứa ra về, mọi công việc dọn dẹp đã xong, mẹ ấn tôi với chị Xuyến vào buồng rồi chốt cửa lại. Tôi vừa khóc vừa đấm cửa ầm ầm đòi ra. Gào mãi không ăn thua gì, mệt quá, tôi ngồi bệt xuống đất thiu thiu ngủ. Sáng ra, khi thức dậy tôi thấy mình đang nằm trên giường còn chị ấy trải chiếu ngủ dưới đất, gương mặt mệt mỏi với cặp mắt thâm quầng. Tôi vừa ngồi dậy chị ấy bảo: - Tối qua nhà khóc nhiều quá, ngủ thiếp đi, tôi phải bế lên giường. Thôi ra rửa mặt ăn cơm rồi còn đi học. - Ứ ừ! Chẳng đi học nữa đâu. - Kìa, sao lại thế? Nhà không đi học thầy sẽ đánh đòn. - Đi ra ngoài bọn trẻ nó ê xấu hổ lắm. - Hay là để tôi đưa đi... - Không được! - Tôi quắc mắt. - Chị về nhà chị đi. Chị Xuyến không một chút bối rối, lấy tay vuốt tóc tôi như là vuốt tóc một đứa trẻ con rồi nhẹ nhàng bảo: - Tôi đã phải về làm dâu thầy u. Từ nay trở đi nhà này cũng là nhà của tôi. Đó là cái lẽ ở đời. Nếu sau này, khi đã trưởng thành, nhà nghĩ ra, giữa chúng ta không có duyên phận, lúc ấy nhà đuổi tôi sẽ đi. - Vì sao chị lại ở nhà tôi lâu thế? - Tôi ngớ ngẩn hỏi lại. - Những bốn năm nữa cơ mà? - Lũ chúng tôi, trời sinh ra làm phận gái phải tòng quyền nhà ạ. - Chị ấy dịu dàng nhìn tôi nói bằng giọng trầm trầm thoáng buồn - Ông Lý đã cứu mạng sống thầy tôi cho nên, phận làm con tôi phải thay gia đình đáp nghĩa... - Tôi nghe người làng bảo chị phải lòng anh Đọc cơ mà, sao chị không lấy anh ấy? - Không được nói như thế. Thầy u nghe thấy là rất phiền - Chị Xuyến khẽ bảo - Nhà còn ít tuổi, phải cố gắng học hành để mai đây thành người có trí lực. Lúc ấy nhà đã lớn, hiểu lẽ đời tôi sẽ xin cho về bên kia. Còn chuyện nhân duyên có phải muốn là được đâu. Người ta vẫn chờ đấy nhưng ván đã đóng thuyền chỉ biết ngậm ngùi nhớ nhau trong lòng thôi... Mình nên hiểu rằng vào những năm năm mươi ấy, rất nhiều nơi ở nông thôn miền bắc còn chịu ảnh hưởng nặng nề tàn dư của chế độ thực dân, phong kiến. Chuyện tảo hôn chỉ là một trong những hủ tục ấy thôi. Đến lớp, bạn bè tìm đủ cách chọc ghẹo, may mà tôi học trội hơn hẳn nên chúng còn nể đôi chút. Một lần, trên đường về, bọn làng Thị xúm nhau vào đồng thanh réo: Bồng bồng cõng chồng đi chơi Đi đến chỗ lội thì rơi mất chồng Ai ơi cho Xuyến mượn chiếc gầu sòng Xuyến tát, Xuyến té cho chồng là thằng... Luân ngoi lên. Nghe lần đầu còn cho qua, lần thứ hai là đã ngứa ngáy, lần thứ ba thì không thể chịu được nữa, tôi bèn húc đầu vào bụng thằng Xước Rỗ làm nó ngã ngửa ra đè lên đống phân trâu. Thế là chúng túm lấy tôi đấm túi bụi vào đầu vào mặt rồi ù té chạy. Tôi uất quá vừa thất thểu về nhà vừa khóc. Đến sân, vừa nhìn thấy ông bố, tôi quẳng cặp sách đến bịch một cái xuống đất rồi càu nhàu: - Từ mai tôi đếch thèm đi học nữa... Ông cụ trợn mắt quát: - Lại đánh nhau với đứa nào hả? - Ai bảo bố bắt lấy vợ, đến trường chúng nó xúm vào trêu, nhục lắm. - A, thằng này láo! Mày định cãi lại tao đấy à? - Người lớn gì mà xui trẻ con lấy vợ để cả làng chửi. Ông bố tức lắm, những thớ thịt trên khóe miệng giật giật, đôi môi run run không nói được thành lời. Ông ấy đảo mắt nhìn lên mái nhà, có lẽ là tìm cây roi mây... Chỉ có chị Xuyến là bình tĩnh hơn cả. Trước tiên, chị ấy nhặt cặp sách, sau đó kéo tôi ra giếng múc nước rửa chân tay, xong việc gọi tôi vào buồng hỏi: - Hôm nay những đứa nào trêu nhà? - Bọn thằng Xước, thằng Quai làng Thị. - Được rồi, để tôi nói với thầy mai đến gặp ông đốc trường. - Chị Xuyến an ủi - Chúng nó nói kệ nó, nói mãi mỏi mồm cũng chán. Nhà còn bé không đánh lại được bọn làng Thị đâu. - Thế chị bảo phải làm thế nào? - Tôi vẫn còn ấm ức vì trận đòn, chỉ muốn học vài miếng võ để trị bọn kia cho hả giận. - Nhà hãy nghe tôi - Chị Xuyến lại bảo - Chỉ hơn tháng nữa là đỗ xéc phi ca, nhà sẽ lên học trường tỉnh. ở đấy cách biệt hẳn với lũ học trò trường huyện chẳng ai biết chuyện cả. Hằng tháng tôi sẽ mang gạo và tiền lên, không phải về thường xuyên nữa. Tôi nghe chị. Mọi việc rồi cũng ổn. Tốt nghiệp tiểu học xong, lấy cớ là phải ôn thi vào trung học đệ nhất cấp, tôi bắt bố mẹ phải cho lên tỉnh trọ ở nhà một ông ký nhà băng trước đây có quen biết với gia đình. Cả nhà biết thừa tôi giở quẻ chê vợ nhưng lúc ấy ông cụ, bà cụ đều nghĩ, việc học là trọng, còn vợ chồng đã cưới xin hẳn hoi rồi cứ để khuyên giải, bảo ban dần dần thế nào tôi cũng nghe ra, vì thế, đành phải cho tôi đi sớm hơn dự định. Trước khi ra tỉnh tôi hỏi chị Xuyến: - Chị biết anh Đọc đi đâu không? - Nghe nói anh ấy vào Việt Minh. - Nếu chị biết chỗ tôi sẽ viết cho anh ấy mấy chữ. - Nhà đừng viết - Chị Xuyến xua tay nhếch nụ cười buồn - Anh ấy là dân lực điền có học bao giờ đâu mà đọc được thư. - Ừ nhỉ - Tôi ngẩn người ra một lúc rồi dặn - Lúc nào anh Đọc về chị cho biết để tôi nói với anh ấy một lời... - Đừng. Thầy u mà biết thì lôi thôi. - Tôi chả sợ - Khi ấy tôi đã coi chị Xuyến thân thiết như các chị gái mình nên rất ái ngại cho hoàn cảnh của chị - Vì tôi thương chị. Tôi hận thầy tôi, hận cả ông Hương Đậu nữa... Chị Xuyến lẳng lặng nhìn tôi rất lâu, mắt rưng rưng như là sắp khóc. Từ đấy, cứ đều đặn tháng một lần chị Xuyến mang tiền gạo lên tiếp tế cho tôi. Chị cho mọi thứ vào quang thúng, đi bộ, mùa đông chẳng giày dép gì, gót chân bị nứt ra, rỉ máu, trông tội lắm. Lần nào ra tỉnh chị cũng mua quà. Bà ký nhìn thấy chị chăm sóc tôi chu đáo như thế cứ nghĩ là chị ruột. Hôm ấy vào dịp tháng chín ta, tôi về nhà lấy chứng thực của lý trưởng vào bản sao giấy khai sinh, chị Xuyến bố trí cho tôi gặp anh Đọc ở Cồn Dâu. Tôi hỏi: - Anh tức tôi mà đi Việt Minh à? Anh Đọc cười nhạt bảo: - Cậu đã học đến trung học đệ nhất cấp mà ăn nói hồ đồ. Đánh giặc cứu nước là trách nhiệm của kẻ làm trai, đâu phải vì chuyện thất tình mà đem sinh mệnh ra làm trò đùa với hòn tên mũi đạn. Thấy tôi có vẽ lúng túng anh hỏi: - Cô Xuyến bảo cậu có chuyện muốn gặp tôi? - Chị Xuyến là người tốt, đáng tuổi chị cả tôi, chỉ tại hai gia đình ép gả khiến chị ấy phải khổ, mà tôi cũng bị bạn bè chửi. Tôi nói thật lòng, nếu có thể được, anh đưa chị ấy trốn sang bên kia sông mà sống với nhau. Bên ấy là vùng Việt Minh thầy tôi không làm gì được đâu. - Cảm ơn! - Anh Đọc thở mạnh như người vừa trút được gánh nặng trên vai. - Tôi chỉ muốn biết rõ ý của cậu thôi, còn bây giờ Xuyến chưa thể đi được. Tối hôm ấy tôi lấy cớ là nóng nằm ở tấm phản gian giữa. Bà mẹ vốn sốt ruột vì chưa có cháu bồng lôi vào buồng, giọng khẽ rít lên: - Này, đừng có giở chứng, bố mày mà nóng lên thì đừng trách. Khi cửa buồng đã bị khóa, tiếng chân bà cụ xa dần chị Xuyến mới thì thầm: - Nhà lên giường nằm để tôi rải chiếu xuống dưới này. - Không, chị ở trên ấy. Tôi nằm đất cho mát. Nhưng chị không chịu, tôi đành phải nhượng bộ. Và mình có biết không, suốt từ ngày "cưới" đến những dịp nghỉ hè, năm nào cũng như năm nào, tôi và chị ấy đều thực hiện cái chiến thuật xem ra có vẻ hạ sách ấy mà cả bố lẫn mẹ đều không phát hiện được. - Còn mùa đông? Chẳng hạn những ngày nghỉ Tết Nguyên đán hai người xử sự thế nào? Hay là lúc ấy... nằm chung? - Nếu vậy thì đã chẳng có chuyện tôi kể cho mình nghe hôm nay - Tôi chép miệng bảo - Khổ nỗi chỉ có một cái chăn mà trời lại mưa dầm gió bấc. Hai chị em ngồi thu lu mỗi người một góc giường, răng đánh vào nhau lập cập. Thấy tôi buồn ngủ díp mắt, chị Xuyến dỗ: - Nhà nằm xuống đắp chăn vào. Tôi quấn mấy cái chiếu ngủ tạm cũng được. Tôi thương chị ấy lắm nhưng chẳng biết làm thế nào liền nói dỗi: - Ngủ dưới đất không có chăn ngày mai chị ốm mất. Chị không thương tôi à? - Tôi thương, nhưng bảo nhà phải nghe vì nhà còn phải giữ gìn sức khỏe để đi học. - Có lẽ bọn tôi nói hơi to nên bà cụ ở gian buồng ngoài nghe được. Bà cựa mình giọng ngái ngủ: - Khuya rồi. Vợ chồng ngủ đi, có chuyện gì để mai. Đêm ấy rét lắm. Nằm chăn bông mà còn run cầm cập huống hồ chỉ có hai tấm chiếu. Gần sáng, tôi bật lửa châm vào ngọn đèn nhỏ dưới gầm hòm rồi lấy chiếc áo khoác mỏng rón rén lại gần đắp cho chị ấy. - Tôi dám chắc lúc ấy chị Xuyến chưa ngủ. - Tôi cũng nghĩ như thế - Tôi thở dài bảo vợ - Thật tội nghiệp cho những người phụ nữ nông thôn rơi vào hoàn cảnh như chị Xuyến. Bà Ngần ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi: - Rồi sau thế nào? ý tôi muốn nói là, sau đó anh Đọc có về đón chị Xuyến không? - Chuyện không đơn giản như mình nghĩ đâu. Anh Đọc bấy giờ được điều sang quân chủ lực phải đi chiến đấu xa, ít có dịp về làng. Còn chị Xuyến vẫn không muốn bỏ nhà trốn đi. Chị ấy là người có hiếu với bố mẹ, làm thế thì vợ chồng ông Hương Đậu còn mặt mũi nào nhìn thấy ông cụ bà cụ nhà ta cũng như hàng xóm láng giềng. Lệ làng là một chuyện nhưng cái ơn cứu mạng mới chính là lý do làm chị Xuyến không thể bỏ nhà chồng theo anh Đọc. Chị ấy cứ sống âm thầm, cô đơn và tủi hận như thế cho đến ngày ký Hiệp định Đình chiến tháng bảy năm năm tư. Hòa bình lập lại, chính quyền mới bãi bỏ toàn bộ những đồi phong bại tục cũng như chính sách bất công của chế độ thực dân phong kiến. Trường trung học tạm thời đóng cửa. Tôi về nhà tuyên bố trước toàn thể gia đình: - Từ ngày mai bố mẹ để chị Xuyến về bên nhà. Ông cụ tức điên lên, quen thói gia trưởng, rút ngay chiếc roi mây trên mái nhà xuống hằm hằm quát: - Mày có câm đi không! Tao lấy vợ cho mày có cưới cheo hẳn hoi, thế mà mày lại... - Thầy đánh thì con chịu nhưng con xin nói thật, nhà ta cưới chị Xuyến về làm người ở không công chứ đâu phải con dâu. Từ lâu rồi con coi chị Xuyến như chị gái và đã hứa giải phóng cho chị ấy ngay lúc mới đặt chân đến nhà ta cơ. Bố chắc là uất lắm, mặt nặng như chì, quát đến lạc cả giọng: - Cho mày ăn học tốn bao nhiêu tiền của giờ về cãi tao phải không? Đồ bất mục. Tôi không nhịn được nữa đành phải nói thẳng: - Đất nước độc lập rồi, mọi việc không còn như thời phong kiến đế quốc nữa. Giữa con và chị Xuyến từ bao năm nay chưa bao giờ là vợ chồng. Thày u cứ cố tình ngăn cản là con sẽ đề nghị với chính quyền xã... - Mày... mày dám... Ông cụ nghiến răng trèo trẹo vung roi quất túi bụi vào vai, vào lưng, đau lắm nhưng tôi chẳng thèm tránh đòn. Giữa lúc ấy, chị Xuyến đi làm về, vội chạy đến chắp tay: - Con xin thầy... - Cút mẹ chúng mày đi! Đừng bao giờ bén mảng đến nhà tao nữa. - Vậy là ông cụ chịu chứ? - Vợ tôi hỏi. - Chưa đâu. Phải lằng nhằng đến mấy tháng chị Xuyến mới chính thức được về hẳn bên nhà. Ông cụ ỷ thế họ to gây khó dễ nhưng khi anh Đọc ở đơn vị về thì mọi việc cũng xuôi. Cuối năm năm tư, chị Xuyến lấy anh Đọc. Hai người cưới nhau có đăng ký đàng hoàng. Phải nói chị Xuyến vừa đẹp người vừa có lòng nhân hậu và sự chịu đựng đến mức thánh thiện. Riêng cái đức bao dung của chị ấy làm tôi vô cùng cảm phục... - Mình xử sự thế là phải lắm - Vợ tôi lẳng lặng gật đầu - Thế còn bác Đọc sau khi tổ chức đám cưới thì phục viên hay vẫn tại ngũ? - Vẫn ở quân đội, chỉ thỉnh thoảng mới về thăm nhà. Nhưng mà số chị Xuyến cũng vẫn khổ. Anh Đọc đi B năm sáu mươi nhăm, chẳng có tin tức gì, đến năm bảy hai thì hy sinh ở mặt trận Quảng Trị, lúc ấy mới bốn mươi ba, là chính trị viên tiểu đoàn. Chị Xuyến không đi bước nữa, ở vậy nuôi hai con, vất vả lắm, nhưng sau này đứa nào cũng thành đạt. Thằng lớn hiện là tiến sĩ vật lý đang giảng dạy ở Đại học Bách khoa. Con em thì đâu như làm phóng viên của báo "Tia sáng". - Chuyện hệ trọng thế mà mấy chục năm qua ông không nói với tôi một lời. - Vợ tôi lại trách. - Không phải thế đâu - Tôi ngỏ ý xin lỗi bà Ngần - Quả thật trước đây có những lúc tôi chưa thật hiểu mình, nhắc đến chuyện cũ sợ không thông cảm... - Mình coi thường tôi quá - Vợ tôi tỏ vẻ giận, kéo chăn đến cổ nằm nhích hẳn vào phía trong, ngẫm nghĩ thế nào một lúc lại quay ra bảo - "Trái tim phụ nữ vốn rất nhạy cảm nên mới chứa được cả nỗi đau nhân thế". Mình biết câu nói ấy của ai không? Đố biết đấy! Thôi, cố chợp mắt một lúc để sáng mai ta về quê cho kịp dự tang lễ.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vô cùng xưa cũ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bảo Ninh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ngày ấy, hình như cha luôn có điều cần nói với Tâm, nhưng không nói. Là Tâm đoán thế, chẳng chắc lắm. Cha Tâm vốn kiệm lời. Trong căn phòng chật chội, hai chục thước vuông, không cửa sổ, thừa muỗi và thiếu khí trời, ngày đêm dồn ních cả gia đình lại với nhau, thỉnh thoảng Tâm mới nghe thấy đôi lời của cha, nhưng cũng chỉ là những lời mà tất nhiên ai cũng phải nói mỗi ngày. Mọi sự trong nhà, ông như chẳng can dự. Từ khi về hưu, dường như quanh năm suốt tháng ông chẳng đi đâu, chỉ ngồi. Mình ông một chỗ bên bàn nơi góc phòng, với ấm trà, chẳng nói năng gì, âm thầm tự buông trôi. Đêm, ông trở dậy, bật đèn bàn lên, lặng ngồi, nhiều hôm tận sáng. - Này, lại cha bảo này... - ông nói - Cha muốn... Nhưng mà bao giờ ông cũng chỉ mào đầu được có vậy. Từ hôm Tâm có giấy gọi nhập ngũ đã mấy lần cha anh lại chả “cha bảo này” như thế. Tâm chờ. Mãi không thấy cha cho biết cha muốn gì, Tâm chẳng gặng. Ngày mồng bốn Tết, ngay trước hôm Tâm lên đường, buổi chiều, cha bảo anh đi dạo cùng ông. Thời tiết ẩm thấp dù không mưa. Đúng hơn là mưa bay nên không trông thấy, nhưng mặt đường thì ướt và trơn. Một cuộc đi dạo thẫn thờ. Hai cha con sóng đôi, chẳng nói chẳng rằng, im lìm rời khỏi khu phố nghèo, vá chằng vá đụp của mình để đi vào vùng trung tâm chật chội, khúc khuỷu, sạm màu rêu xế bên bờ Hồ. Tâm có cảm giác như là cha vừa đi vừa lặng đi. Cái áo bạc-đờ-xuy cũ mèm của cha thủng lỗ chỗ. Tâm đỡ khuỷu tay cha, đưa ông sang đường. Hai cha con vào một quán cafe “chui” nằm ẩn trên tầng áp mái một ngôi nhà cũ nát ở kế rạp Chuông Vàng. Cửa quán là chè đậu đen, nhưng vòng ra sân sau, lên cầu thang thì là cafe phin. Một khoang gác ọp ẹp, lẩn khuất. Dăm bộ bàn ghế tồi tàn, thấp tịt. Khách khứa lặng lờ như những cái bóng, nhoà mờ, không ai nhìn rõ ai. Cafe Định Mệnh, ai đó đã gọi cái quán vô danh này như thế, lâu ngày thành tên. - Xưa, Hà Nội là một thành phố giàu nữ tính, nồng nàn, nhạy cảm. Bây giờ... - Như thường vẫn thế, cha Tâm bỏ lửng lời mình. Bàn của hai cha con kê kề một ô cửa sổ hẹp không có khung gỗ, giống như là một lỗ thủng. Trông ra thấy sàn sàn nhấp nhô cả một vùng ướt át những mái nhà phố cũ và những sân thượng, sân sau, những căn gác lửng. Một Hà Nội cũng xưa, tróc lở, nom là lạ, được nhìn thấy từ phía sau lưng. - Quán cafe này có từ xưa lắm rồi. Xưa sang trọng hơn nhưng cafe cũng như bây giờ thôi - cha Tâm nói - Chắc là con không biết. Quán này vốn của ông bà ngoại con... Hôm 19 tháng Chạp, ông bà đã tản cư, mẹ con vẫn còn ở lại. Cha tới đây, ngồi ở chính chỗ này này. Đèn vụt tắt, súng nổ... Thế là cha và mẹ cùng ở lại trong Liên khu 1. Số phận đã định đoạt cho cha mẹ như thế, và cho cả các con nữa... Mẹ đã bao giờ kể với các con chưa: Cha và mẹ vốn là bên lương bên giáo. Cho nên, nếu không có kháng chiến thì đã không có con và các em con. Kháng chiến thành công, bồng con về thì cả hai gia đình nội ngoại đều đã di cư vào Nam... Từ khi biết nghĩ, biết nhớ, Tâm nhớ là chưa lần nào được cha gần gụi. Đối với hai đứa em gái của Tâm, cha luôn lặng lẽ bộc lộ sự thương yêu chiều chuộng. Nhưng tình cảm của ông với quý tử đầu lòng thì như có một bức tường chắn. Càng lớn lên Tâm càng nặng mặc cảm rằng mình đã làm cha thất vọng. Dường như cha đã mong mỏi, cha đã đòi hỏi ở Tâm một điều gì đó mà anh không thể hiểu, có hiểu cũng không cáng nổi. Từ cái năm Tâm không vượt qua được lớp tám, phải lưu ban, luôn luôn là mẹ chứ không bao giờ là cha đi họp phụ huynh hay ký sổ liên lạc cho Tâm. Còn nhớ có lần cha quyết định dành thì giờ dạy tiếng Pháp cho Tâm mỗi tối. Nhưng chỉ được một tối, ông ngừng ngay. Ông lộ một vẻ ngao ngán không giấu giếm. Cha coi mình là đồ bỏ, Tâm thường nghĩ thế. - Năm 54, đã mừng cho tương lai của các con. Ngỡ rằng bao nhiêu nỗi khổ của đất nước, thời cha mẹ đã gánh, các con sẽ lớn lên, vui sống trong hoà bình. Nào ngờ nạn nước chưa dứt. Lại đến lượt thời các con... Sau ngày mai, trận mạc chờ Tâm. Chiều nay, anh rúc vào xó này nhấm nháp những giọt đắng ngắt và nghe nghiền ngẫm ngậm ngùi những chuyện gì đâu. Anh ngồi, lặng thinh, nhìn cái gạt tàn đã được dụi đầy tràn những đầu mẩu thuốc lá, nhìn tách cafe đã cạn, nhìn những cái bóng ở các bàn bên, nhìn ra trời chiều. Hà Nội xuân sang, ngâm mình trong mưa. Cha Tâm gọi thêm hai ly cafe. Bao Tam Đảo đã hết, ông lấy trong túi ra một bao khác. Tâm điềm nhiên bóc bao thuốc, rút một điếu. Cha xoè diêm châm lửa cho anh. Xưa giờ đừng nói bia rượu, chỉ một ngụm cafe thôi Tâm cũng không được phép, huống hồ thuốc lá. Nghiêm khắc, nhưng cha Tâm hiếm khi nặng lời, càng không khi nào phạt đòn con cái. Chỉ một lần, ông cho Tâm một bạt tai. Ấy là khi ông bắt gặp Tâm và mấy thằng bạn ngồi phì phèo thuốc lá ở quán nước đầu phố. Ông hầu như không hề biết rằng con trai ông đã 16 tuổi, đã 17 tuổi, và thậm chí đã 18. Ông từ chối ký đơn tình nguyện nhập ngũ của Tâm. “Học hành cho xong đi. Muốn trở thành một quân nhân thì trước tiên phải có học thức”, ông nói vậy, không buồn nhìn lá đơn. Ông không biết và không hề muốn biết rằng ở phòng tuyển quân của Khu đội người ta đã gần như nhẵn mặt con trai ông. Hết lần đơn này tới lần đơn khác của Tâm đều bị gạt. Cay đắng, tủi phận, song Tâm vẫn nhẫn nại. Lượng người xung phong vào bộ đội không phải là ít, lắm bữa đông nườm nượp, có cả phụ nữ, hầu hết đều được toại nguyện. Chỉ trừ Tâm. Con trai một, lại đang học dở cấp ba. Đơn tình nguyện không có chữ ký của phụ huynh. Thêm nữa... Một cán bộ ở Ban tuyển quân do phải tiếp Tâm quá nhiều lần đã đành thực tình nói thẳng: “Thực tiễn chiến trường chưa cần phải huy động tới học trò con một”. Ông động viên: “Bù lại cậu có tinh thần cao. Thế là tốt, cứ yên tâm. Chẳng chóng thì chầy. Ngay lập tức thì khó, nhưng gì chứ đi đánh Mỹ thì chẳng lo hết lượt”. Vào lứa tuổi của Tâm, nỗi sầu muộn có thể giúp người ta phát triển dài người ra như là được bón thúc. Chân, tay, tóc tai, cổ và cằm, các đốt xương. Mình mẩy mọc thêm nhiều thứ, thừa thãi, bơ phờ. Và vừa bải hoải. Về đêm thì ngủ mê, nói mớ và rên rỉ, một mình vật vã trên gác xép... Mẹ Tâm mua lá ở hàng thuốc nam, sắc lên, ép anh uống, ngày một bát. Mẹ bảo: - Chịu khó uống. Cho dịu mộng mị, con ạ. Cho khuây đi... Như vậy là chẳng những không ký đơn cho Tâm, cha anh còn giấu biệt không để mẹ biết việc anh xin nhập ngũ. Khiến cho mẹ nghĩ rằng vì Loan. Mẹ đã gán cho Tâm nỗi đau tình ái. Mẹ nghĩ rằng anh tương tư cô gái dưới gầm cầu thang. Gia đình Loan mới chuyển tới phố này được ba năm. Chỉ có mỗi hai cha con, neo đơn, nghèo túng, chỗ ở là một cái hốc thụt sâu vào trong gầm cầu thang, nơi ngày trước chứa than và củi. Cha của Loan, cho tới tận trước hôm ngã bệnh qua đời, vẫn ngày ngày nhẫn nại tha một cái va ly rách nhét đầy những cuốn sách cũ mèm và vô bổ ra bày bán nay chỗ này mai chỗ khác ở những góc vỉa hè. Tuy nhiên, không cần biết rõ quá khứ của ông, thoạt gặp cũng có thể cảm thấy ngay rằng thực ra ông chẳng phải là một người bán sách rong nào cả, và rằng trước kia hai cha con ông đã sống một cuộc sống hoàn toàn khác. Trong sự nghèo khổ của cha con nhà họ rõ ràng có ẩn một cái gì đó không rõ là cái gì, không bình dân, không như người. Cùng lớp, nhưng Tâm và Loan chẳng phải chỗ bạn bè. Loan không được tập thể ưa. Mà tập thể thế nào thì Tâm thế nấy. Chẳng vì một lý do rõ ràng, Loan luôn bị mọi người để ý. Bản thân Loan chắc cũng khổ tâm và đã cố giữ sao cho khỏi lạc khỏi nếp chung, mà không được. Nhìn Loan người ta thấy rằng ở cô có cái gì đó là lạ khang khác không y hệt mọi người. Cách để tóc, cách ăn mặc chẳng khác ai mà vẫn như có hàm một sự diêm dúa thầm lén. Da dẻ trắng trẻo, mềm dịu. Cách nói và dáng đi đều thiếu vẻ mộc mạc. Tâm nhớ là ngay từ bữa đầu vào lớp, Loan đã vấp phải lời xì xào của những bạn cùng bàn rằng đi học mà rẩy nước hoa đầy người như quân tư sản. Cứ bước đi một bước là Loan liền để lại đằng sau mình cả một vệt dài hương thơm. Nhưng cô một mực thề trước lớp là chưa hề bao giờ xoa xức lên mình dù chỉ là một tỵ ty thôi bất kỳ một thứ xa xỉ phẩm nào. “Mà thực tình là tôi không cảm thấy gì cả, - Loan nói, rân rấn nước mắt - Có cảm thấy cũng không biết làm thế nào. Tự như vậy chứ tôi không cố tình...”. Với Loan, Tâm hết sức gìn giữ một dáng vẻ hững hờ và xa cách. Đến nỗi trong suốt bao nhiêu lâu cùng nhà, cùng lớp thế mà hai đứa chưa từng một lần vào chơi nhà nhau. Chạm nhau trong sân, trong bếp, nơi máy nước, nơi cầu thang, thường là Tâm giả tảng chẳng thấy, lờ đi, hoặc không thì cũng chỉ qua quýt nửa vời vài ba lời gì đó trống không. Dửng dưng, lãnh đạm một cách tồi tàn. Hôm đưa đám cha của Loan, cả lớp Tâm góp tiền mua được một vòng hoa. Một cuộc tang ma lèo tèo. Thân quyến người chết mỗi một mình Loan. Người đến viếng thưa thớt. Tâm cũng chỉ nói được lý nhí vài lời gì đó nhạt thếch, đại khái là để chia buồn. Mai táng cha xong, Loan bỏ học. Cũng rời bỏ luôn căn phòng dưới gậm cầu thang. Người ta bảo rằng cô nhập lực lượng thanh niên xung phong. Vào đâu đó trong khu Bốn, hay là bên Lào. Cô đi chẳng gửi lại một lời nào với bạn bè. Nhưng từ ngày Loan đi, bỗng dưng tình bạn chưa bao giờ có với Loan lại khiến Tâm chao đảo. Bỗng dưng anh trở thành đa cảm, và vô cớ mà tâm trí anh chùng hẳn xuống trong uỷ mị. Thậm chí có đêm Tâm nằm mộng thấy Loan. Một làn hương mơ hồ như là hương thơm từ giấc mơ cứ mãi vương vấn trên căn gác xép. Mẹ anh có lẽ đã âm thầm hiểu thấu lòng anh hơn cả bản thân anh. Chính là mẹ đã thuyết phục cha ký vào lá đơn tình nguyện thứ tư. “Đừng nên ngăn nữa mình ạ. Nó mong đi bộ đội cơ mà. Và nó thương nhớ con bé ấy. Yêu nước thì cũng như là yêu nhau, có khác gì đâu mà ngăn. Mà ngăn làm sao được hở mình”. Mặc dù cha mẹ nói chuyện rất khẽ tiếng, nhưng vì nằm ngủ ở gác xép ngay sát bên trên nên vào lúc nửa đêm khi bất chợt thức giấc, Tâm nghe thấy. Cha mẹ cùng ký. Và cả đêm, Tâm nghe tiếng mẹ khóc khe khẽ. Tiếng cha rầu rầu an ủi mẹ. Thỉnh thoảng lại bật ho. Sáng hôm sau cha cùng Tâm tới Khu đội. Dọc đường, ông bảo: “Cha mẹ muốn con học lên, vào đại học, với lại thấy sức vóc con yếu ớt, tâm tính cũng còn non dại, nên dùng dằng không ký đơn cho con. Giờ cha thấy lòng con đã quyết... Vậy cũng là phải thôi con ạ. Làm trai sinh ra gặp thời loạn lạc không thể dửng dưng với vận nước. Nước mất thì nhà tan, ấy là châm ngôn truyền đời... Có điều, con ạ, cha không hoàn toàn an tâm. Cha sẽ chỉ an tâm nếu như biết chắc được rằng con quyết ý ra đi là bởi con thật sự thấy con đường mình chọn là đúng với đời con chứ không phải chỉ vì con muốn thoát khỏi tai tiếng gia đình, muốn chạy khỏi những phiền muộn riêng tư...”. Chiếc đồng hồ treo tường thong thả gõ chuông. Ông chủ quán Định Mệnh bật công tắc đèn. Ngọn đèn đỏ đòng đọc, trông rõ sợi tóc trong bóng. Ngoài trời, màn mưa mờ mỏng như lớp sương vàng nhạt sa phủ trên thành phố, làm nhoà ánh sáng những vệt đèn đường. - Ta về thôi con nhỉ - cha Tâm nói và vẫn ngồi yên. Thế là đã qua mất một ngày... Và vậy là mai con đi. Mai con đi rồi... Cái buổi chiều tối ấy, cái quán cafe ấy và nói chung, tất cả những ngày xưa cũ ấy sống mãi suốt đời Tâm, nhưng chắc chắn là anh sẽ không bao giờ muốn nhớ lại làm gì nếu như không vì muốn có một lần trở về với tình cha con xưa cũ và nhiều đau đớn của một thời. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vợ là "Mẹ" [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Văn Dũng [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Anh bạn tôi có hai thằng con "quỷ sứ", vì vậy anh được vợ khen là ngoan nhất trong ba "thằng". Vợ tôi đẻ được một nữ, một gái, cho nên tôi là người đẹp trai nhất trong nhà và được vợ chiều chuộng như con trai một, chẳng mấy khi phải mó tay vào việc nhà. Tám tiếng ở cơ quan đã đủ mệt. Về nhà, cô ấy hết sức thông cảm và cứ bắt tôi ngả lưng mà nghỉ, hoặc xem tivi, đọc báo... để giữ gìn "ngọc thể". Thời gian đầu cho đến khi chưa có đứa thứ hai, cô ấy luôn ngọt ngào: "Việc trong nhà toàn việc vặt, chuyện nhỏ, anh cứ để mình em lo". Đại loại là chỉ việc bế con, chơi với nó và cơm ǎn ba bữa, áo giặt hằng ngày...! Chẳng phải quá nhời: Vợ tôi đúng là bà mẹ đảm đang? Nhưng lâu ngày chẳng phải động chân, động tay lại ǎn lắm, tôi cứ phát phì và sinh ngại việc nhà. Đúng là không muốn thế, nhưng mà... "con hư tại mẹ"? Gieo gì, được nấy! "Mẹ" làm tôi sinh biếng, đổ đốn tới mức cứ vô tư coi mọi việc trong nhà là của đàn bà. Hư quá rồi thì khó dạy. Nhiều lần cô ấy nhờ tôi các việc vặt không được vì hoặc tôi cứ ỳ ra đấy, hoặc lý sự rằng việc ấy chẳng vĩ đại gì cả, thật tầm thường, không đáng phải động thủ. Nếu cánh đàn ông chúng ta phải làm tất cả các việc ấy thì phải có... "ngày quốc tế đàn ông"? Thú thật, đến khi có đứa thứ hai, nhà trở nên đông dân, túng thiếu, cô ấy đâm ra hay rên rỉ, cằn nhằn, cáu bẳn không chỉ với tôi. Khổ lắm, "đài" nhà tôi bây giờ cứ ra rả và hay xuyên tạc như "đài địch". Tội nghiệp, hai nàng Kiều của tôi nhiều khi bị vạ lây. Có lần, cô ấy mắng oan "Kiều lớn" là lười y như bố. Nó không nhịn được nói lại: "Mẹ chỉ nói điêu...". Cô ấy quát: "Tao nói điêu cái gì?". Con bé trả miếng: "Như chuyện ba con đấy, một tuần đi nhậu hai, ba ngày, nhưng ai đến nhà, mẹ toàn nói xấu ba là một tuần đi nhậu cả mười ngày. Làm gì có một tuần mười ngày?". Hoan hô con gái tôi! Mẹ nó bí, điên lên quay sang tôi té tát: "Còn ông này nữa, bao lần tôi đánh nó, mắng nó là để dạy nó mà ông cứ bênh nên nó bắt đầu cãi lại đấy!". Thấy tình hình cǎng thẳng, tôi ra tay "cứu nhân, độ thế". Tôi tưng tửng với vợ: "Thì tôi với cô có bà con, họ hàng gì đâu. Cô đánh con tôi thì tôi phải bênh nó chứ". Thế là "Kiều lớn" khoái chí và hai mẹ con cùng cười, tắt đài! Biết sai, sửa sai mới là người quân tử!? Tôi cũng cố gắng tu tâm, chỉnh tính ra phết để "đài" hết rít, hết rên. Xin kể ra đây một số món võ bách chiến, bách thắng! Nào là cơm vợ nấu chớ chê dở. Rồi áo bất kỳ vợ mặc vẫn khen "em xinh em mặc áo nào cũng xinh". Đồ đạc vợ thích luôn phải coi là bất động sản. Lương phải đưa tất tật cho vợ là luật bất thành vǎn. Tiền phong bì họp hành, hội thảo, đề tài, nhuận bút, công tác phí,... đã bị lộ là phải nộp cho "quĩ tín dụng nhân dân", dù biết trước đã vào đấy là hết đường ra, nếu không sẽ có "chiến tranh lạnh". Phát ngôn của vợ trong mọi việc đại sự như chọn trường, chọn thầy cho con, chuyện động thổ sửa nhà mua sắm đồ đạc, ... là bất di bất dịch, bất khả kháng. Vợ gây sự là bất tham chiến. Vợ cáu là làm thinh, án binh bất động. Vợ giận là... cấm sờ hiện vật! Toàn võ sợ vợ? Nhưng cô ấy lúc tinh vi, tinh tướng, lúc tinh tế, tinh tường thì tôi có thể không sợ được ư? Thử hỏi, hồi còn bé ta sợ ma, sợ mẹ, lớn lên ta sợ vợ thì có hợp quy luật khách quan?[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Với tay là đến[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Thị Thu Huệ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]1. Càng đi càng xa. Hoá ra. Con đường thân thuộc nhất, gần gũi nhất gắn bó dài tuổi thơ, khi bắt đầu là một bào thai, tấp tểnh tròn co trong bụng mẹ, sấp ngửa lên xuống như sóng biển sáng dâng chiều rút, hay lúc chạy cá ngoài bãi mỗi khi thuyền về. Thế mà bây giờ. Đại Dương - bào thai bé bỏng ngày ấy - không nghe, không biết không trông thấy gì. Vừa đi qua nhà mà cứ như nhà ở hành tinh khác. Bố mẹ ở ngoài biển. Lạc đã dỡ về, phơi chật kín lối vào. Ngóng vu vơ nhà hàng xóm, tịch không có bóng người. Mùa làm ăn, trẻ già lớn bé ra biển tuốt tuột. Cứ ra biển là có tiền. Chiếc xe Honda Accord đời mới lừ lừ trôi trên con đường nhỏ, phẳng. Kính xe đen. Người trong xe nhìn ra thấy tất. Người ngoài chịu. Đại Dương chăm chăm nhìn chợ chiều riu riu trong những tia nắng quái tai ác sau một ngày nung đốt. Chợ chiều. Dương nhớ ngày xưa. Sao bỗng nhiên tất cả lại xếp hàng thẳng trở về trong trí nhớ thế này nhỉ. Hay bị kỷ niệm chi phối, là người uỷ mị, yếu lòng. Hoặc là người gần đất xa trời, hoặc biết mình sắp trắng tay, phá sản. Ngày xưa. Mẹ gánh Dương một bên, gánh tép một bên, đung đưa, đung đưa từ chợ chiều về. Qua khu chợ. Qua rặng phi lao. Là biển. Ngày xưa. Lúc mới biết chạy. Mẹ hay thả Dương bập bõm bước trên cát, gần với mép sóng. Thỉnh thoảng, có một con sóng nhẹ nhàng, cố cố chạy vào liếm chân thằng bé một cái. Lúc đầu. Nó sợ. Sau quen. Cứ mỗi khi mẹ cắp nách ra bãi là cậu tụt xuốt, chạy lao ra biển, lăn lộn như một con cá gặp nước. Không có nước. Nó sẽ chết khô. Đã nghe tiếng biển ì ầm ngoài xa. Nặng nặng một âm thanh muôn thủa, đều đều nhưng quyến rũ, lôi kéo vô cùng. Hàng quán hai bên đường mọc nhanh như cỏ dại sau mưa. Cần thì phục vụ thêm món tự có. Miễn là ra tiền. Nhà nào cũng treo đung đưa trong gió những áo tắm, quần bơi loại rẻ tiền, mạt hạng, mặc một vụ nghỉ là vứt. Vài lốp xe ô tô bơm căng làm phao. Mực khô. Cá khô. Nước mắm. Tôm ghẹ... buộc chặt mắt thao láo, chân đủ tám cái ngọ nguậy chứng tỏ sự sống. Và cạnh đó. Là hàng sống. Những cô gái quê phốp pháp. Ngực to. Bàn tay bàn chân to. Mặt phấn son rẻ tiền không biết trang điểm lem nhem, xanh ra xanh, đỏ ra đỏ. Đánh phấn dày như trát xi măng trứng cá vẫn nghênh ngang ngạo nghễ ngẩng cao đầu... Ngẩn ngơ đần độn ngồi dãi thẻ chả ra bán tôm cua cá mực, nước mắm. Mạnh ai nấy ngồi, mặt ai ngu người ấy chịu. Thấy có chiếc ôtô xịn lừ lừ trôi trên con đường nhỏ, các cô không ai bảo ai, cùng loé lên trong đầu là khách đang đi săn hàng, chạy túa ra vẫy. Chiếc xe như điếc, như câm, chạy lừ lừ rất quen ra trước biển. 2. Hơi thuốc Vinataba nặng xộc thẳng lên óc một tia chói gắt, đắng nghét. Hai sống mũi cay. Trán bỗng nhức nhối. Mắt hoa và cổ họng khô. Hơi thuốc đầu tiên trong đời luôn để lại những ám ảnh nặng nề, dù cho bây giờ, thuốc lá hạng nặng nhất cũng chỉ giúp cậu tan bớt cơn vật trong lúc đói thuốc, thiếu rượu. Thường thì người ta không ý thức những chuyện,chi tiết đầu tiên của một sự việc kéo dài suốt cuộc đời, nhưng thế quái nào nó lại lù lù trong một góc của bộ não, càng ngày càng rõ nét theo thời gian. Hôm cô gái dễ hơn mình đến mười tuổi sà gần mặt, thở phì phò sát tai. Em nhờ anh đứng gần bên em vì em say quá, sắp ngã rồi, mà ngã ra đây thì ngượng lắm. Có cái mùi nước hoa gì mà đến bây giờ, ba năm sau mình vẫn thấy nó quanh quẩn. Hút thuốc phiện không nặng nề như hơi Vinataba đầu tiên. Có lẽ tại có người hướng dẫn, có bàn tay ve vuốt, lại thơm và mát. Nói chung, mình thấy là đàn bà da phải mát. 3. Người dân làng biển muôn đời vẫn thế. Sóng có thể to. Biển có thể động. Những chính biến thể chế quốc gia này, quốc gia kia họ cũng nghe ngóng từ các bản tin của Đài truyền hình. Tin và ham xem truyền hình, nhưng lại không thấy cần phải vận vào cho mình những trông tin thật cần để tránh cạm bẫy hay rút kinh nghiệm. Sáng nay. Bố bảo mẹ: Tôi đi sang xóm Cù mua vài thứ, trưa về, chuẩn bị mai đi tàu lớn. Mẹ vừa xếp mấy quả ổi xanh, miếng mít gọt sạch thơm thơm, vài quả thị vẹo, giọng nhập nhèm: Ông đi dễ đến ba ngày. Năm ngày. Ông đáp rồi cun cút đi. Đơn giản thông tin chỉ có thế. Nhưng đủ. Hai người hai hướng nhưng cuối cùng cũng gặp nhau ở biển. Biển tung bọt trắng ầm ào. Vào đến bờ, bọt vỡ tung, tan biến, trơ ra những lưng là lưng, rốn là rốn. Đúng là người đẹp bao giờ cũng lợi. Lợi nhất khi ở biển. Xấu đẹp thấy ngay, không gì che được. Mẹ ngồi cạnh những dãy hàng rong dọc bãi biển. Ngóng khách quen khách lạ như một phản xạ nhiều khi không phải là vì họ sẽ mua hàng của mình. Đơn giản, ngồi không thì nhìn, cho đỡ chán. Vậy thôi. Bây giờ đã là chiều. Mặt trời lừ đỏ như đốt sóng, như muốn luộc chín lũ người bé tí đang nhảy tưng tưng kia. 4. Chiếc xe đã chọn được chỗ đỗ. Lái xe và Dương cùng đi ra. Tất cả những ai có đủ hai mắt là nhìn. Dương cũng nhìn lại. Không phải Dương thích nhìn họ, mà là anh muốn tìm mẹ. Đông thế kia, lại chia làm hai phe. Phe thỗn thện phơi bụng phơi rốn chắc chắn không có mẹ trong đó, phe quần áo đủ đầy nhưng giống nhau cứ nhuôm nhuôm, mờ mịt khó nhận quá. Có một cái mẹt đựng vài quả thị, mấy quả ổi, gói kẹo văng ra chân mình. Tiếng kêu thất thanh. Một thân người đổ lên làm Dương chao đảo. Mẹ. Mẹ. Đúng mẹ rồi. Con về lâu chưa? Sao biết mẹ ở đây mà tìm? Dương cười, da xanh gầy trắng nhởn dù là chiều xuống đỏ lừ nhuộm đến cây còn thẫm. Mẹ cuống cuồng hỏi con về lâu không, ăn gì chưa, uống gì chưa, bao giờ đi tiếp. Con giai chỉ cười, vẻ điềm đạm chững chạc lạ lùng, hiếm thấy. Dương hỏi bố đâu. Mẹ bảo về nhà bây giờ chắc gặp. Con giai bưng mẹt quả lăn lăn, mời mẹ lên xe con đưa về. Mẹ cười bẽn lẽn bảo mẹ chân đất, trèo lên xe của con cho bẩn hết à, với lại mẹ cả đời không đi bao giờ, say chục ngày chưa chắc tỉnh lại. Con cứ về trước đi, mẹ chạy mua cua, mua mực tươi về cha con uống chén rượu. 5. Dùng dằng mãi rồi cũng rứt ra mà đi. Sao bao lần chia tay con lên thành phố học không như lần chia tay này. Lúc bố mẹ vui vẻ thì con lại bịn rịn. Ra đến đường. Tất cả tối đen. Chỉ có gió là hào phóng, mạnh mẽ mang đủ mùi hương vị không thể lẫn vào đâu. Mùi nước mắm, mùi tanh, mùi mặn nồng ấm áp. Dương tưởng không đi nổi. Đến lúc đi được lại sợ mình không giữ nổi lòng nói ra những điều có thể làm bố hay mẹ đột quỵ. Thế là đi. Như trốn. Như chạy. Như đứa con chẳng ra gì vừa về nhà thấy bố mẹ nghèo bỏ đi. Trong khi bố mẹ thì báo cả xóm đến luộc lạc uống rượu chia vui cho nhà tôi. Con tôi được đi học tận nước ngoài. Con tôi sẽ là anh kỹ sư mai sau về giúp nhiều thì không biết chứ chắc chắn giúp được người vùng mình xây cái nhà máy đông lạnh, bảo quản hải sản, khỏi thiu thối, mất giá. Cả xóm biển rôm rả như sắp có đám lễ. Bố mẹ tần ngần. Vui thế mà con bỏ đi. Con giai nói như nuốt tiếng vào trong, tức ngực quá. Con không thể ở thêm được, bố mẹ cứ coi như con vẫn ở nhà. Lại một vòng ngang biển. Biển đêm. Đùng đục mây xa báo hiệu hôm nay trăng muộn và sáng. Bãi tắm vẫn đông, thấp thoáng những dáng người. Dương mở cửa xe bước xuống, bỏ giày đen bóng mũi dài hợp mốt mượn anh công an chưa vợ trót yêu đơn phương cô diễn viên đang học hát chèo. Chân trần. Giẫm lên cát mát dịu dàng. Gió lồng lộng thốc vào mặt, trùm lên đầu. Một lần về với biển. Để đi. Một lần về với mẹ để rời xa vĩnh viễn. Chui vào trong xe. Chạy chậm, gió thổi thốc tháo. Đại Dương lôi trong chiếc cặp đen mang theo một bơm kim tiêm đầy nước trắng, lấy một tay bóp chặt cánh tay kia, co vào, ruỗi ra cho nổi ven, và cắm phập kim tiêm vào. Ngoài kia. Biển chỉ còn là tiếng sóng ầm ì. Đại Dương ngả người ra xe, mắt nhắm lại. 6. Buổi sáng. Trại cai nghiện thức giấc sớm. Công việc của ngày hôm qua như ngày hôm nay. Ngày mai chắc cũng vậy... Riêng đối với Dương chắc khác. Nằm bệt trên giường, toàn thân như sáp và xương tan biến, còn lại đúng đôi mắt. Dương nhìn ra ngoài những chấn song sắt. Ngoài kia. Trời tháng chín nắng hanh hao vàng rượi. Nắng chạy rất xa làm cảnh vật như trong hơn. Dương ở đây gần một năm, đủ dài bằng cả quãng thời gian sống từ lúc còn trong bụng mẹ nhấp nha nhấp nhô trên đường. Hôm qua. Giám thị báo hôm nay trại đón khách. Nếu không nằm thế này chắc chắn mình sẽ hát ít nhất ba bài trong buổi biểu diễn văn nghệ. Dương thở dài. Không nhìn ra ngoài trời nắng hanh hao ong vàng nữa, lại nhìn lên trần nhà. Dương nhìn thấy biển. Thấy ngày bố mẹ ngậm ngùi thu va hà vén dúi tiền cho con ở bến xe lên tỉnh học đại học. Mẹ còn nhét xuống chân gói cá thu khô, suýt nữa cả can nước mắm nếu anh tài không nhìn thấy bắt mang xuống khỏi xui. Dương thấy hết. Trọn vẹn từng đường gân thớ thịt cảm nhận được hết cuộc đời không phải là dài nhưng có lẽ là đủ với mình. Cảm nhận được sự tan rã thân xác như một con cá còn sống nhưng nhiễm độc chờ chết trương phình giương đôi mắt cá chết nhìn lũ bọ rỉa thịt mình nhấm nháy. 7. Biển hôm nay động. Bãi tắm vắng. Nghe đâu có cơn bão đang về. Bố vẫn ra biển. Mẹ thì sắm nắm đôi quang gánh lấy vài chục cân riu về muối. Bố từ ngày con giai về rồi đi lúc nào cũng cười. Tất tật mọi chuyện từ xa đến giờ có thể làm bố cáu giận muốn hét to hoặc phải đập phá một cái gì thì bây giờ, bố chỉ cười và cho qua. Không ai hiểu điều đó, chỉ mình bố hiểu. đấy là liều thuốc tiên con trai bố hôm nào vừa về tiêm vào người bố. Con trai về chào bố mẹ để đi nước ngoài du học. Trong lúc học con trai sẽ đi làm thêm lấy tiền sau về xây nhà, lấy vợ đẻ con. Con trai bảo dứt khoát sẽ lấy vợ ở quê chứ không dặt dẹo bám lại Hà Nội như bao đứa dặt dẹo khác chết đói chết khát làm thuê làm mướn đủ nghề vẫn không chịu về quê danh giá. Con trai còn bảo lúc con trai về, sẽ giúp huyện xây nhà đông lạnh... Nghe con trai nói, nhìn mắt con trai đầy ánh sáng, ông như được hồi sinh thành người khác. Một thế giới khác không giống thế giới ông đang sống cùng tồn tại và nuôi dưỡng ông. Bà cũng vậy. Từ lúc con trai về rồi đi, bà bỗng có nhu cầu buôn chuyện. Gặp ai cũng chào, cũng hỏi, và nếu ai có thời gian là bà kể về con trai. Ông ngồi trên chiếc tàu lớn đang dong buồm ra khơi. Phía chân trời, mặt trời lên. Một vầng đỏ tròn cháy bừng trên mặt sóng xanh ngăn ngắt như bừng lên nghìn ánh nắng hy vọng sau những ngày mưa, như niềm tin của ông vào một ngày mai, rất gần, con trai ông trở về cùng ông sống trên miền đất mặn. Lúc đó. Trong trại. Đại Dương giương đôi mắt đục như có một màn sương che phủ ra để nhìn ra song cửa sắt. Cố nhấc một cánh tay để kéo tấm màng che đang kéo tối dần tất cả những gì gọi là cuộc sống trước mắt. Nhưng cánh tay cũng như tay ai mất rồi. Tay tan đi đằng tay. Chân biến đằng chân. Vừa nặng vừa nhẹ, mà là không có gì. Bỗng dưng có một luồng ánh sáng chói chang chiếu thẳng vào mặt con trai. Mọi sự bừng lên ánh mặt trời cháy bỏng trên mặt biển xanh. Dương nhìn thấy bố đang dong thuyền về buổi chiều nhuộm nắng. Thấy mẹ cắp chiếc thúng nhỏ chạy ra đựng mực tươi về luộc chấm mắm tôm tươi. Dương thấy hết. Tất cả thật gần. Như thể chỉ cần với tay là đến. Với tay là có. Bố. Mẹ. Tuổi thơ đẹp đẽ, đơn giản trong ngần. Học bổng đi du học. Nhà máy đông lạnh... Chỉ cần. Với tay là đến...[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vòng tròn oan nghiệt[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mai Thị Thu Trang [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lại một buổi chiều sắp sửa trôi. Nó không muốn đếm thêm một chiều nữa, mặc dù nó thừa sức thuộc lòng. Nằm ngửa, hơi nghiêng đầu về phía cánh cửa sổ duy nhất nằm xeo xéo trong phòng, nó ngóng nhìn mưa rơi. Mưa mù trời, mù đất, ảm đạm kinh khủng. Cây cối chuyển sang một màu sậm khó chịu. Mây xám bàng bạc vần vũ. Vài chiếc xe gắn máy vù vù chạy qua như muốn xé rách cả màn mưa, át cả tiếng lộp bộp, đều đặn ở mái hiên sau nhà. Nó đoán và cảm nhận được rõ ràng mọi âm thanh xung quanh, những điều mà trước kia nó không hề biết. Tiếng xe gắn máy của bố nổ to giòn rồi chợt nhẹ tênh khi dừng lại trước cổng. Cái xe đạp của mẹ cứ kêu lên rin rít ngay từ vòng quay đầu tiên. Và bây giờ, thỉnh thoảng nó còn nghe thêm cái tiếng "suỵt" dài khe khẽ của bố hoặc mẹ mỗi khi cu Nha líu ríu cái miệng ngọng nghịu cười hát. Nó hiểu hết những thay đổi nhỏ nhặt đó. Bất giác theo quán tính, nó lại lần tay nhè nhẹ xuống cái chân đau đang bó bột trắng toát, dày cộp nằm cứng đơ. Hắt ngược tiếng thở dài và ngó trân mắt lên trần nhà, cố gắng lắm nó mới ngăn được giọt nước mắt ứa ra từ khóe mắt. Rồi nó đổi hướng nhìn ra ngoài trời đang sướt mướt. Xuyên qua tấm cửa kính xeo xéo, thâu cả màn đục ngầu nước của một chiều mưa ẩm ướt ở Huế, nó nhìn trân trân như muốn lật tung và đảo lộn lên mọi thứ. Mắt chợt căng lên, đau nhức. Rất khẽ, nó nhắm mắt lại. Mọi việc hiện lên rõ mồn một... Cũng vào một buổi chiều như thế này, lùng thùng trong chiếc áo mưa của bố, đạp vòng vèo quanh con đường phượng bay, vừa hát khe khẽ, nó thả hồn theo những giọt nước mát lạnh đang chảy dọc từ đầu mũ áo mưa xuống lòa xòa, nhồn nhột. Đang lâng lâng trong cái trò chơi tinh nghịch trẻ con này, thì bỗng nhiên... nó thấy cả người nhẹ hẫng đi như quả bóng bay đứt dây, rồi chợt nổ tung... và hòa vào những hạt mưa tí tách. Mọi vật xung quanh trở nên xa vời, xa vời... Nó cảm giác như bước vào một thế giới huyền ảo khác... Rồi từ bệnh viện, nó được chuyển về nhà trước cái lắc đầu nhè nhẹ của ông bác sĩ già luôn trễ nặng chiếc kính trên sống mũi cao. Bố ngậm ngùi không nói lời nào, lúi húi sửa lại chiếc áo nó đang bận một cách trễ nải. Trong khi mẹ cứ mấp máy đôi môi như đợi dịp là chực òa lên. Nó nhìn mọi người hờ hững, vô cảm, bất cần tựa như đang nghe kể về chuyện của ai khác mà không dính líu đến mình. Loáng thoáng cái giọng khàn khàn của ông bác sĩ già thoảng nhẹ vào tai nó "Nếu biến chứng, không khéo phải cưa chân thôi. Anh chị nên chuẩn bị tâm lý trước cho cháu...". Biết làm gì khác hơn, nó giấu những giọt nước mắt của mình để rồi vào những đêm chòng chành khó ngủ lại trào tuôn ào ạt. Hưng xộc đến. Người bám đầy mưa bụi lẫn cả hơi thở hồng hộc không kìm nén nổi. ánh mắt bàng hoàng xót xa nhìn sững nó một cách quái gở rồi chụp cánh tay nó giật mạnh, giọng sũng ướt "Bác sĩ bảo sao?". Mấy đứa bạn cùng lớp nãy giờ ngồi cạnh nhấp nháy suỵt khẽ, giật áo, bấm tay thằng bạn vô tình. Nó nghe và thấy hết nhưng vờ im lặng. Song chỉ được một lát rồi không kềm chế được, nó chồm dậy hét toáng lên "Mấy người hãy để cho tôi yên. Tôi chẳng cần sự cảm thông nào cả cho dù có bị ... tàn phế đi nữa". Những tiếng cuối cùng tắt nghẹn lại. Vì phải cố hết sức, nên người nó lả đi. Hình ảnh chập chờn in đậm trong tâm trí nó là đôi mắt ướt sượt, ngập tràn sự thương hại của Hưng. Điều nó hằng sợ nhất bây giờ đã xảy ra. Mưa vẫn không ngớt. Không gian, thời gian bao trùm xung quanh rợn ngợp đến buồn tênh. Tiếng đồng hồ tích tắc cứ đều đặn gõ nhẹ trên trên bàn. Đã quá 5 giờ - nghĩa là một buổi chiều nữa lại lùi vào quá khứ. Ngày cũ chấm dứt. Bắt đầu một ngày mới buồn tẻ, vô vị vì phải nghĩ suy, trăn trở và đối diện với chính mình. Thời gian Hưng dành cho nó thưa dần, thưa dần... Đầu tiên là nửa ngày, một ngày... và bây giờ thì đã một tuần trôi qua rồi... Nó thở dài đánh sượt... Âu cũng là số phận ! Đời là một vòng tròn oan nghiệt. Niềm vui của người này là nỗi đau khổ của kẻ khác. Trước kia, nó đã từng điên cuồng chạy theo một ảo ảnh. Anh xa vời như một vì sao mơ ước. Vừa dang tay ra chưa kịp với thì đã vụt tắt. Còn Hưng lúc đó mòn mỏi, điêu đứng trong những trò chơi quái ác của nó. Nó biết Hưng còn thua xa đám bạn luôn tìm cách gần gũi. Và cho đến khi, Hưng vực được nó ra khỏi ảo vọng ngông cuồng để biến thành của " riêng mình" thì bây giờ... Nó đau đớn nhận ra sự thật là mình đã lụy vì Hưng nhiều quá... Tuột mất cả rồi," Ngày xưa ơi..."! Nó lại thở dài, những âm thanh tắt nghẹn được phát ra từ lồng ngực chẳng biết từ bao giờ đã thành bạn đồng hành của nó. Chồm người lấy quyển sách trên bàn. Chệch mắt nhìn sang. Trong óc nó bật lên một trò chơi mới. Vói tay, nó cầm chiếc máy điện thoại bấm " tách, tách, tách,..." Đầu dây kia lặng tờ rồi bỗng đổ dồn một hồi chuông dài. Một, hai hồi rồi ngang hồi thứ ba thì có tiếng lộc cộc: - Alô. Xin lỗi, ai gọi đầu dây? Một giọng trầm trầm của đàn ông còn trẻ "Có thể chưa vợ cũng nên!", nó đoán mò. Rồi áp máy vào tai đến độ có thể cảm nhận được sự chăm chú, chờ đợi lẫn hơi thở nhè nhẹ ở đầu dây kia. Chưa bao giờ nó gặp được người đàm thoại thành tâm và nhiệt tình đến thế. Như sợ sợ điều gì...nên nó vội vàng nói nhanh, nhằm phân bua: - Xin lỗi! Có thể em gọi nhầm... - Tôi là Sang. Em có thể nói bất cứ chuyện gì cũng được, nếu như em rỗi. Tôi luôn sẵn sàng nghe mà... Giọng người đàn ông tên Sang như van nài, năn nỉ. Một sợi dây đồng cảm len nhẹ trong tim. Nó thì thầm: - Em là Nhàn, hiện đang học lớp 13 của trường Đại học Tổng hợp vừa bị một tai nạn nho nhỏ nên phải nằm lì ở nhà suốt ba tuần rồi... Nó vui vẻ "thao thao bất tuyệt". Chợt một sự im lặng tuyệt đối ở đầu dây bên kia, khiến nó cảm nhận không gian bao quanh chùng nặng. Nó buột miệng lo sợ: - Alô!... Anh Sang còn ở đầu dây đấy không...? Một cái rùng mình thật nhẹ. - Vâng ... tôi đây! Sang khó khăn trả lời. Nó trách: - Anh nói gì về mình đi chứ? - Tôi ấy à... đã học xong Đại học và đang thất nghiệp. Do đó phải nằm ... dài dài ở nhà, nó mơ hồ nghe những tiếng cuối cùng kéo dài ra, run run. Anh tiếp:- Cảm nhận cuộc sống là một chuỗi ngày dài vô vọng, chán nản. Bất ngờ lại được gặp em... Hạnh phúc và xúc động quá... Nó vui vui vì lời thú nhận chân thành ấy. Sau đó, nó và Sang kể cho nhau nghe những câu chuyện không đầu - không cuối. Nó cười nhiều thay cho cái thở dài trước kia... Chợt thấy, dù sao cuộc đời cũng chưa đến nỗi tồi tệ như nó hằng tưởng. Đang nói chuyện huyên thuyên, chợt có tiếng rồ máy quen thuộc và giảm ga đột ngột, nhẹ tênh trước cổng: Bố về! Nó thầm thì: - Thôi chào anh nhé ! Bố Nhàn vừa về! Có tiếng gọi giật giọng, cơ hồ thét lên của Sang - Khoan tắt máy đã Nhàn. Cho tôi số điện thoại của em đã chứ... Nó trù trừ rồi nói nhanh - Khỏi lo, chiều mai, đúng vào giờ này, em sẽ gọi... Và gác máy. Riết thành thói quen. Chiều chiều, nó lại gọi điện cho Sang. Khi thì nó nói hai ba câu chuyện vớ vẩn. Lúc thì bàn về các tác phẩm nổi tiếng mà nó đã nghiền ngẫm trong suốt thời gian qua. Hay tâm sự những suy nghĩ thầm kín trong đầu. Có lần nó hỏi: - Anh Sang này, theo anh, Hưng là con người thế nào ?- Im lặng. Nó nghe giọng anh khẽ khàng khác hẳn với mọi lúc. - Cậu ấy còn trẻ và bồng bột quá... Có thể Hưng sẽ nghĩ lại. Khoan trách vội. Mà...em đang buồn đó phải không Nhàn? Nó hoài nghi và vọt miệng: - Cớ gì mà anh chẳng lên án Hưng nhỉ ? Tất cả đàn ông đều mang họ Sở cả, phải không anh Sang? Anh cười: - Định vơ đũa cả nắm hả cô bé ? Anh thì khác chứ...? Nó xấu hổ cúp máy, mặc cho câu nói của anh lơ lửng nữa chừng... Bao giờ cũng vậy. Nó thấy mình trở nên lớn hơn, ngoan hơn và khoan dung hơn sau những lời bảo ban, ân cần của anh. Lần tay xuống nắn bàn chân bó bột, nó hài lòng mỉm cười. Tình hình đã khả quan hơn nhiều sau câu chẩn bệnh chết người của ông bác sĩ già. Ngày mai nó được tháo băng và có thể lắc nhắc đi lại bằng nạng, sau gần hai tháng nằm bẹp dí... Vậy là tuần sau nó có thể đến trường được rồi. Nghĩ đến ánh mắt hối lỗi gần như van xin của Hưng tuần trước, nó cảm thấy buồn cười. Đúng là lòng người thật tráo trở. Một thời gian thưa thớt thăm hỏi để rồi khi nghe bác sĩ tuyên bố "Có khả năng bình phục như thường" thì lại săn đón, chiều chuộng còn hơn cả ngày xưa. Nhưng nó đã "khác xưa rồi". Nó biết Hưng sẽ lại là con số O to tướng như thể nó chưa từng gặp trong đời vậy. Bất giác, nó bỗng đỏ mặt khi chợt nghĩ đến giọng nói trầm trầm, ân cần, âu lo của Sang. Anh thật tốt và đáng yêu biết bao !... "Rồi mình sẽ dành cho anh một bất ngờ lớn". Nó nhủ thầm với lòng. Mà nó thì thừa trí thông minh để thực hiện được những điều mình muốn... - Chị ơi, ngôi nhà có giàn hoa Ti-gôn trước cổng đằng kia... có phải nhà anh Sang không ạ? - Sang nào? Tôi không biết... Chị hàng nước khẽ giật mình nói với nó. Rồi như chợt nhớ ra điều gì, chị lại gục gặt đầu, lắp bắp nói lớn: - ờ, phải...phải, nhà cậu ấy đấy... Lâu lắm rồi cậu ấy cứ ngồi tiệt trong nhà. Tội ghê ! Cô vào thăm cậu ấy hả? Nó dạ nhỏ và hồi hộp, rón rén... dắt xe qua đường. Dướn đôi chân run run còn hơi khập khiễng. Nó bấm chuông "Reng...reng...reng". Âm thanh vang dội sộc thẳng vào tim nó, đập thùm thụp, 1,2,3,4,... lần. Nó sốt ruột nhòm qua khe cửa. Bất ngờ, nó bỗng khựng lại... Mắt hoa lên, chân muốn quỵ... Một thanh niên chừng 24, 25 tuổi vóc người mảnh mai như con gái, nước da trắng xanh đang ngồi trên chiếc xe lăn tự đẩy ra cổng một cách khó nhọc. Nó định thần nhìn kỹ và chợt hoảng hốt. Hai ống quần phớt phơ được quặp lại và kéo lên tận đùi trên. Tay run rẩy nhưng đầu óc nó làm việc nhanh chóng. Nó sực nhớ đến những lời nói ấp úng, xa gần, bóng bẩy của Sang lẫn hàng loạt từ ngữ rối rắm, khó hiểu của chị hàng nước lúc nãy mà vì hấp tấp nóng ruột nên nó chẳng để ý... "Đúng là Sang rồi !". Bất thần, nó quay chiếc xe đạp lại và leo lên yên một cách vội vã... Trời âm u nhưng toàn thân nó lẩy bẩy, hâm hấp nóng như vừa bắt đầu cơn sốt nặng. Lại một buổi chiều mưa vần vũ. Cả bầu trời nhuốm màu ảm đạm, xám xịt. Bó gối, ngồi bên ô cửa sổ. Nó chăm chú ngắm nhìn những hạt mưa vắt chéo qua tấm cửa kính xeo xéo. Bao giờ cũng vậy, trời đang nắng chuyển sang mưa thì cái chân đau của nó lại trở nên nhưng nhức, khó chịu. Nhìn cái điện thoại trăng trắng đặt bên cạnh, nó chợt rùng mình khi chợt nghĩ đến những con số quen thuộc ... Rất lâu rồi, nó không cho phép mình gọi điện đến cho Sang. Mà gọi làm gì nữa... sau khi đã tận mắt chứng kiến được sự thật phũ phàng đó. Vâng, nó cũng đối xử tồi tệ với anh như ngày xưa Hưng đã làm như vậy với nó. Đôi khi nó muốn quên tất cả: Hưng của "thuở ban đầu", chuỗi ngày cùng cực tuyệt vọng khi nằm liệt trên giường, giọng nói trầm trầm của Sang, lẫn hai ống quần trống rỗng phất phơ... Nhưng qui luật tự nhiên của đất trời và qui luật tự nhiên của lòng người thì vẫn cứ phải tuân theo. Hết nắng rồi mưa, mưa rồi nắng, quên rồi nhớ... Cái chân đau cũ lại giật giật. Cúi xuống, nó lấy tay xoa lên nhè nhẹ. Một vài giọt nước mắt âm thầm chảy từ khóe nhưng nó chẳng buồn lau... Nó hiểu ra rằng, kỷ niệm ngày xưa đã vĩnh viễn khắc một vết chàm lên bàn chân tật nguyền này. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vòng vèo thật giả[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ái Duy[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Khi những ngón tay thoăn thoắt đếm tiền của con bé giúp việc ở cửa hàng khựng lại nửa chừng, linh tính chẳng lành khiến tim Thanh thót lên một cái. Chị cố giữ vẻ điềm nhiên nhìn nó rút tờ giấy bạc một trăm ngàn ra khỏi xấp, nhanh nhảu đến hỏi ý cô chủ của mình. Chủ tiệm là người quen biết lâu năm của chị, cô ta cầm lấy nó và chỉ liếc qua rồi cười tươi như hoa, nhỏ nhẹ: "Chị đổi cho em tờ bạc này". "Sao vậy?", Thanh lúng túng thật sự. "Tiền giả", cô ta đáp gọn lỏn, ánh nhìn đầy ngụ ý. "Trời đất !" - Thanh là người biết chế ngự cảm xúc của mình. Tuy nhiên, trong trường hợp cụ thể như thế này thì cần phải tỏ ra cảm thán nhiều hơn nữa. Tiền giả, cô chỉ nghe nói nghe đồn chứ chưa cầm phải bao giờ! Cô sửng sốt đón tờ giấy bạc đó lên săm soi. Nó quả là nhẹ, mỏng hơn bình thường một chút nhưng cái vẻ nhàu nhò dơ bẩn như đã từng truân chuyên lưu lạc qua nhiều đời đã đánh lừa cái cảm giác ban đầu về một sự giả tạo. Rồi Thanh ngượng ngùng đưa nó lên cao soi về hướng sáng theo cái cách mà người ta hay bày - không có cái hình chìm hình nổi nào hiện ra cả, chỉ toàn là những đường lằn và những vết xếp ngang dọc cẩu thả. "Xin lỗi, chị không biết, không nhớ ai đã đưa cho chị tờ này", Thanh lúng túng vét túi, số tiền còn lại không đủ để bù vào chỗ đó. "Chị cứ để hôm khác lấy hàng rồi đưa cho em cũng được", cô chủ hàng lại đon đả, tay chuyển kiện hàng đã đóng gói xong đưa ra cho chị. "Ừ, cho chị thiếu vậy, chị chỉ mang đúng chừng đó tiền để lấy hàng". Thanh chào đi ra, lưng cổ nhột nhạt ngứa ngáy. Chị cố đi chậm rãi, dắt xe thật từ tốn và nhẹ nhàng nổ máy vô số lướt đi. Chắc mấy con bé ấy đang hả hê vì ngăn chặn được một âm mưu phát tán tiền giả. Chắc nó nghĩ đã bắt quả tang được một con mẹ lừa đảo. Chắc nó nghĩ, ai mà ngờ được chỗ quen biết hiền lành như vậy lại đi tráo trở nhau. Thanh khổ sở đưa tay sờ lên mặt mình, may mà nó chỉ nóng lên chứ không tái xanh, nếu không thì trông mình cũng giống thế thật. Đường phố tấp nập xe cộ khiến Thanh tĩnh trí lại ngay. Bao nhiêu là người vèo vèo lướt qua mắt cô. Ai là người trong số đó đã đưa cho cô đồng bạc quái quỷ này nhỉ? Vào lúc nào mà nó lại chui vào cái ngân sách eo hẹp của cô? Thanh chỉ có một sạp hàng bán tạp hóa nhỏ ngoài chợ, một mình cô phải cáng đáng đủ thứ từ việc ngồi bán cho tới chạy hàng giao hàng, thu tiền các đầu mối. Doanh thu mỗi ngày của sạp hàng vào lúc ế ẩm có khi chỉ đôi ba trăm, có nghĩa là tần số xuất hiện của những tờ bạc 100 ngàn như thế là không nhiều. Thanh căng óc suy nghĩ. Nó nằm trong số tiền cô thu được trong năm ngày trở lại đây mà thôi. Khách mua hàng cô đều nhớ mặt, chỉ qua lần thứ hai là thành quen. Chợ nhỏ nên hầu như mọi người đều biết nhau. Hay là của bà Năm Ù chuyên mua rồi bán lại cho người ta trả góp? Bà này thuộc loại có số trong giới võ lâm, chị em bán hàng ít ai mà bán quá giá cho bà được tới 200 đồng lẻ. Chắt bóp ki bo mãi mà bà ta cũng sắm được cho mình một cái nhà hai tầng ngay mặt đường. Mỗi cái đức ông chồng là tậu hoài mà cũng trật vuột. Năm lần bảy lượt bà ta cũng kiếm được người về nâng khăn sửa túi, nhưng chỉ thoáng qua vèo một cái là mất dạng, lại thấy bà lủi thủi nặng nề đi về một mình. Thiên hạ ác miệng, dè bỉu cái thân thể đồ sộ một mét bảy, nặng gần tạ của bà phải được đóng thùng xuất khẩu. Mỗi ngày, bà gom không dưới trăm đầu hụi chết, tiền bạc qua tay rồi phát tán đi lung tung biết đâu mà lần. Cách đây hai hôm, bà ghé hàng Thanh lấy thùng xà bông, trả hơn ba trăm ngàn tiền gối đầu cũ, chắc chắn là phải có loại giấy bạc 100 ngàn trong đó. Nhưng cái cách đếm tiền của bà chắc khó mà qua mặt lắm bởi từng tờ một đều được rút ra thận trọng, lật qua lật lại cả hai mặt và được dí tận mắt xem xét. Trừ đàn ông ra, chứ còn tiền vô tay bà thì làm sao mà nhầm lẫn được nhỉ? Hay là của thằng cha rảnh miệng đi chiếc Attila màu mận? Dám lắm, lần nào ra mua hàng cũng tán tỉnh cọ quẹt từ đầu chợ tới cuối chợ, từ chị bán mắm cà tới bà bán bánh chuối. Hôm đó, hắn hỏi mua lố dao cạo râu, lựa chọn mãi trong cái bóp mới móc ra tờ bạc 100 ngàn đưa cho Thanh, còn đưa đãi là vì anh ghé hàng em đầu tiên lấy hên mau mắn ngọt ngào nên không có tiền lẻ, em thối cho anh đi chợ mua thức ăn, hôm nay bà xã anh đi làm cả ngày bỏ anh bơ vơ... Nhạt phèo! Làm như Thanh không biết bà xã của chả là ai. Quanh năm suốt tháng chị ta tất tả đi đánh ghen, săn tìm hang ổ tình địch. Nhưng tình địch của chị lại được thay đổi xoành xoạch, chưa kịp nhớ mặt thì đã lỗi thời thì làm sao mà tìm ra nơi ẩn náu? Hừm, thứ người lừa tình được thì lừa tiền được. Nhưng sao khi đó mình cũng mê muội mà nhận tờ giấy bạc tội nợ này từ tay chả? Ồ mà chắc không phải đâu, có đời nào mình thèm ngó thẳng vào mặt chả để có thể lơ là quên nhìn tờ giấy bạc? Thôi chết, chắc rơi trúng vào cái ngày chủ nhật toàn thành phố cúp điện, gặp trời mưa dầm cả chợ tối om om. Thế nào kẻ gian cũng nhân cơ hội mà hành sự. Hôm đó, sạp hải sản khô bị rinh mất một rổ mực, sạp áo quần bị tuột mất mấy cái áo pull chỉ còn trơ móc áo, hàng bánh tráng bị mất nguyên một chồng... Mình đã cười mấy bà mấy chị mất cảnh giác. Phải rồi, hôm đó có một con bé trên cả tuyệt vời với đôi chân dài và nửa cái bụng trắng nõn phơi cả rún ra ghé mua hàng mình. Ai cũng trầm trồ khen nó đẹp còn hơn cả người mẫu. Nó độ chừng mười tám đôi mươi là cùng, đôi gò má non tơ mịn màng còn cả lông măng, cả cái giọng nói cũng ngây thơ ngọt lịm len lỏi vào tận tâm can người nghe. Nó hỏi mua chai xịt phòng giá ba mươi hai ngàn, không trả giá, còn nhẹ nhàng khen chị bán rẻ rồi rút ra một cái ví căng phồng lấy tiền đưa cho Thanh. Thanh còn nhớ cái cảm giác thán phục của mình khi đó, người đâu mà vừa trẻ đẹp vừa sang trọng, chắc hẳn Việt kiều về nước. Ấy thế mà khi nó vừa quay lưng đi đã có mấy chị bạn hàng chạy sồng sộc tới, tranh nhau kể. Con đó là ca-ve lừng lẫy, Tây ta xếp hàng dài gục đổ như rạ, nó là ổ “si-đa”, là ma cà rồng hút máu người... Thanh nghe mà cứ như bị ai tạt cho một gáo nước lạnh vào mặt. Cô cứ quen mang trong đầu ấn tượng cổ lỗ sĩ về những người đàn bà làm nghề bán thân phải trầy trụa nhếch nhác và tô trát son phấn với mùi nước hoa rẻ tiền nồng nặc. Hừ, vậy nó cũng là nghi can số một trong cái vụ án tiền giả này. Chứ còn sao nữa? Những người trao tiền vô tay nó đa phần không quang minh chính đại, tội vạ gì mà họ không lập lờ đánh tráo trong cái mối quan hệ như vậy? Nhưng mà, chị hoài công lục lọi những khuôn mặt người như thế để làm gì nhỉ? Giả dụ như biết đích xác ai đã đưa tờ bạc giả thì chị có dám tìm người ta căn vặn để đổi trả khi mà đã qua mấy ngày rồi không? Thanh lùng bùng quá. Cả đời chị thua thiệt cũng vì nhút nhát và rụt rè, ít khi nào dám tra hỏi cặn kẽ ai điều gì đừng nói là lừa người khác. 100 ngàn bỗng chốc hóa tờ giấy lộn, lẽ nào Thanh phải lãnh lấy hậu quả này? Lẽ ra Thanh đã có một buổi chiều cuối tuần vui vẻ với bạn bè trong quán cà phê hay trong một buổi dã ngoại nào đó vừa với mức sinh hoạt phí ít ỏi của mình. Hoặc cô có thể mua cuốn sách mà mình ao ước, một cái áo khoác nhẹ cho mùa đông, một hộp thuốc bổ... chỉ với số tiền đó. Nhưng thôi, không có cũng được. Vấn đề ở chỗ, chẳng lẽ mình là một nạn nhân ngoan ngoãn buông tay quy hàng của trò tráo đổi thật giả này? Biết trách ai đây hở trời? Thanh dừng lại, cô lôi tờ giấy bạc đó ra ngắm nghía, thật ra với thị lực 6/10 như cô thì không thể nhận ra nó khác chỗ nào nếu chỉ cầm lên tay và nhìn lướt qua. Nhưng chắc gì nó là tiền giả như lời con bé ấy nói? May lỡ chỉ là một sự nhầm lẫn chủ quan của nó hay là lỗi kỹ thuật của máy in thì sao? Có thể lắm, ban nãy vì mình bối rối quá nên mới tin lời nó, chứ cái gì cũ mà lại chẳng mòn bớt đi nói gì cái hình in trên giấy? Thôi chắc đúng rồi, cái con bé ấy tệ thật, thế này mà nó dám bảo là tiền giả báo hại mình tiếc của nãy giờ. Trên đường về, Thanh tạt vào sạp báo quen lấy một tạp chí thời trang, giá mười ba ngàn. Tờ giấy bạc 100 ngàn đang bắt đầu cựa quậy trong túi Thanh, cô đã đưa tay chạm vào nó. Có thêm một người khách bước vô mua báo đứng cạnh cô. Chỉ có vậy mà Thanh chột dạ, cô rút tờ 20 ngàn ra trả, quay đi mà lòng tràn ngập thất vọng và tiếc nuối. Sao mình lại không dám chống trả cái sự phi lý mà bỗng dưng rơi trúng vào đầu mình? Không thể ném tờ bạc này vào chỗ người lạ được. Nếu phát hiện ra nó thực sự là thứ giả người ta sẽ lập tức nghi ngờ chị là kẻ gian và lắm điều phiền toái dẫn theo ngay. Họ có thể làm ầm lên, có thể sỉ nhục chị, có thể áp giải chị tới nhà chức trách. Ở chỗ quen thì khác, người ta có thể châm chước vì nhân thân của chị tốt không tiền án tiền sự, chị có thể chống chế và rút lui an toàn mà còn nhận được sự thông cảm của họ. Thanh đi chậm lại trước một nhà thuốc tây, mấy năm trước chị là thân chủ ruột của nó. Người đàn ông chủ tiệm này là một lang băm thứ thiệt mà có lần chị suýt thiệt mạng vì bị sốc với thứ thuốc kháng sinh mà ông ta dứt khoát là cần thiết đối với chứng bệnh của chị. Lần ấy, chị bỏ qua vì nghĩ mình cũng có lỗi, nhưng sau nghe quá nhiều chuyện không hay về tài thăm khám cho thuốc của ông ta thì chị thôi hẳn không ghé lại tiệm thuốc của ông ta nữa. "A, chào người đẹp. Anh cứ tưởng em du lịch xuất cảnh đâu mất rồi, sao lại gặp nhau đây?". Thanh cười gượng "Cho em lọ vitamine E". "Có ngay, E thiên nhiên đây em ạ, đẹp da chống lão hóa. Chỉ có năm mươi hai ngàn uống một tháng". Thanh cắn răng rút tờ 100 ra, "Vâng, em gửi tiền". Gã cười cười vỗ nhẹ lên bàn tay Thanh, "Trông em xanh xao quá, coi chừng mất ngủ thiếu máu, phải lấy thêm thuốc uống bổ sung đó nghe!". Thanh cố mỉm cười, mắt không rời nhìn theo tay gã đang giữ tờ giấy bạc của cô. Gã nhìn nó, rõ ràng là có nhìn nó trong hai giây rồi ném tọt nó vô cái ngăn kéo đầy ắp những tờ giấy bạc đủ loại, nhoay nhoáy đếm tiền thối. Một cảm giác tội lỗi nhói lên trong Thanh nhưng cô kịp thời giữ nó lại. "Cám ơn anh, chào anh ạ!" - Rồi cô thong thả quay đi. Thế là xong, Thanh đã cất được cái gánh nặng chình chịch u ám từ sáng tới giờ. Cô cảm thấy lòng mình trống rỗng không vui không buồn, không ân hận áy náy cũng chẳng hoan hỉ thắng lợi. Tờ bạc phiền toái đó đã đổi chủ. Nếu đúng là giả, người ta sẽ lại phát hiện ra nó, và cũng như Thanh, họ sẽ mau chóng tìm cách tống khứ nó đi càng sớm càng tốt. Chỉ có điều Thanh biết chắc chắn, nó vẫn sẽ lưu hành ngang nhiên với cái giá trị mà nó đang mang trên mình, bất kể mọi sự nghi ngờ giả thật. Trừ phi một kẻ lơ mơ nào đó mang nó đi nộp vào Ngân hàng Nhà nước, khi đó thân phận nó sẽ bị bại lộ, và khổ chủ cuối cùng này mới là người ôm mối hận tiền mà không biết than thở chia sẻ cùng ai. Thanh về nhà. Cô sà vào bếp kể cho mẹ và lũ em nghe là mình vừa bị dính một tờ 100 ngàn tiền giả. Mọi người tròn mắt ngạc nhiên và giận dữ xúm nhau hỏi han, hối thúc cô lấy ra cho họ xem. Thanh thủng thẳng, "Xài lại rồi!". Ai nấy ồ ra cười, xôn xao, tranh nhau bình luận. "Thì phải vậy thôi, chẳng lẽ lại bỏ đi!". "Thôi chết, từ giờ phải cẩn thận hơn mới được". Thanh không nói gì thêm, lẳng lặng bỏ lên phòng mình. Tối hôm sau đi chơi với người yêu Thanh ngại ngần không muốn nói ra, dù từ trước tới nay anh là người duy nhất cô chẳng hề giấu giếm điều gì. Mãi, khi anh gửi cho cô ba tờ giấy bạc một trăm ngàn nhờ mua giùm mấy ký mực khô để gửi về quê làm quà cho gia đình, Thanh mới đắn đo dặn dò anh, từ nay nhận mấy tờ giấy bạc lớn phải lưu ý nhìn cho kỹ để khỏi bị lừa, rằng tiền giả thì giấy mỏng hơn, hình nhòe hơn, không có hình chìm, không có sớ giấy, vân vân và vân vân. Bắt gặp vẻ dò hỏi giễu cợt trong mắt anh, Thanh chữa thẹn bằng cách vờ trịnh trọng cầm ngay mấy tờ bạc anh đưa soi lên bóng đèn. Chứ còn sao nữa, thật giả lẫn lộn sờ sờ bên cạnh ai mà biết được! [/FONT]