LẠC MẤT&TÌM THẤY *** ...Gió chẳng xanh bằng lá Người đi trống một khoảng không Ta rồi cũng phải thua không khí.... Nhớ thì về Thương thì tìm Tơ tình đôi ba sợi Sợi vắn sợi dài Tơ tình chẳng dai hơn tơ nhện Nào buộc được ai..." Vinh ạ, em sai rồi! em thấy mình sai ngay khi em ko còn thấy cái lưng của anh nữa. Không! Là nhận ra mình sai ngay khi chúng ta rời tay nhau. Em đã muốn hét lên rằng:"Anh đứng lại đi! đừng đi! xin anh đấy, đừng đi". Nhưng cổ họng em tắc nghẹn. Nhưng nước mắt em đã ướt nhèm. Nhưng anh đã đi. Vinh ạ, em sai rồi! Em là phụ nữ cung LEO. Rất mạnh mẽ nhưng cũng rất bình thường. Đỏng đảnh như mọi cô gái đang yêu nhưng cũng lại bướng bỉnh hơn bất cứ một đứa trẻ mới lớn nào. Từ ngày đầu tiên em gặp anh, em đã biết cuộc đời mình sẽ gắn kết với anh. Có một niềm tin rất mãnh liệt như thế ở trong em. Lẽ ra em sẽ dùng niềm tin đó để cùng anh xây dựng một tương lai cho hai đứa mình. Nhưng không, em đã dùng niềm tin đó để đặt cược cho những trò chơi ngốc nghếch do em nghĩ ra. Em tự tin vào khả năng giữ người yêu của mình. Em tin vào cảm giác của em: Cảm giác rằng anh sẽ ỡ lại bên em mãi mãi. Em bày ra nhiều trò chơi. Mà trò chơi nào cũng nguy hiểm. Trò chơi nào cũng mang đầy nguy cơ sẽ mất anh. Như chính trò chơi này.... Hải Vinh: Trò chơi của cô nàng LEO Tôi thấy mình thật ngốc. Không ngốc sao được khi nhận lời tham gia một trò chơi đỏng đảnh ấy? Tôi đã từng nghĩ rằng Tiêu Tương khác hẳn với cô bạn gái cũ của tôi - sẽ hiểu tôi và cho tôi cảm giác an toàn. Nhưng có lẽ, tôi đã lầm. Dù cho tôi có còn yêu nàng đến mấy thì chắc tình yêu này cũng chẳng bền lâu được. Chưa khi nào tôi cảm thấy thất vọng và hoang hoải đến thế. Kể cả khi tôi chia tay với bạn gái cũ, tôi cũng ko thất vọng đến thế này. Tôi quen Tiêu Tương được một tuần thì chúng tôi yêu nhau. Nàng bảo nàng đã yêu tôi từ lúc tôi còn đang yêu Mai - bạn gái cũ của tôi. Nàng không phải là bạn của Mai. Nàng chỉ là bạn thân của bạn thân Mai. Nàng bảo nàng nhìn là biết tôi và Mai sẽ chia tay. Thế nên, ngay sau khi bạn thân của Mai thông báo rằng tôi và Mai chia tay nhau rồi thì nàng đã bắt cô ấy ngay lập tức phải sắp xếp 1 cuộc hẹn cho tôi gặp nàng. Và tôi gặp nàng. Ngay hôm đầu tiên ấy, khi ra về, nàng bảo "Một tuần nữa nếu anh ko cưa đổ em thì em sẽ đi tìm một chàng trai khác.". Tôi đã biết mình gặp cao thủ. Tiêu Tương là như thế! Mọi thứ với nàng dường như đều có trong kế hoạch. Nhưng không vì thế mà mọi thứ hết sự bất ngờ. Nàng là mẫu phụ nữ nhiều ý tưởng. Nàng mà đi làm nghệ thuật thì tôi cam đoan rằng nàng sẽ rất thành công. Chẳng hạn như trò chơi này. Sẽ rất ít người có thể nghĩ ra 1 trò chơi như vậy. Nàng là một trong số ít đó. Trò chơi được nàng gọi bằng 1 cái tên khá mĩ miều: Lạc mất và Tìm thấy. Chúng tôi bắt đầu bằng việc cả hai đều để máy điện thoại di động ở nhà. Tôi và nàng cùng đi taxi đến chợ đêm. Sau đó, chúng tôi sẽ đứng giữa chợ đêm. Buông tay nhau ra, hai đứa sẽ đi về 2 phía đầu chợ. Rồi, tôi và nàng sẽ đi tìm nhau. Giữa một biển người như thế, hai chúng tôi sẽ phải tìm ra nhau. Một trò chơi lãng xẹt và mất thời gian. Nhưng cũng ẩn chứa quá nhiều nguy hiểm. Vì trò chơi đó còn có thêm phần phụ lục. Nếu đến 10h30 tối mà chưa tìm thấy nhau thì mạnh ai người nấy về nhà. Chưa hết, sau đó, một tuần sau, vào đúng tối thứ 7, hai đứa sẽ lại đến chợ đêm, lại lặp lại trò chơi này. Trong một tuần ấy, không ai dc liên lạc với ai. Và thứ 7 của tuần kế tiếp cũng sẽ không xác định giờ thống nhất cũng như địa điểm. Trò chơi sẽ chỉ được kết thúc khi 2 đứa tìm thấy nhau vào tối thứ 7 tại chợ đêm. Sẽ không có bất cứ một cuộc liên lạc nào trong suốt thời gian trò chơi đang diễn ra. Tiêu Tương ơi là Tiêu Tương! Em có thật sự yêu anh không hay chỉ muốn có người chơi cùng em một trò chơi quái đản thế này? Tiêu Tương: Nguy hiểm tăng cấp. Về căn bản, em đã phổ biến luật lệ của trò chơi "Lạc mất và Tìm thấy" cho anh nghe rồi. Vì em muốn có một trải nghiệm lạc nhau và tìm thấy. Em vẫn hình dung ra cảnh chúng mình xoay sở thế nào khi ko có nhau và sẽ hân hoan, phấn khích thế nào khi tìm thấy nhau. Nhưng có 1 điều mà anh chưa biết. Đó là trò chơi này còn người thứ 3 nữa. Đây mới chính là mấu chốt của trò chơi. Người thứ 3 tham gia trò chơi này là người anh chưa bao giờ gặp. Người thứ 3 này sẽ mang đến cho trò chơi cảm giác mạnh hơn, nguy hiểm hơn. Em đã bí mật thêm người thứ 3 này vào trò chơi và rất phấn khích khi nghĩ đến việc anh sẽ vượt qua trò chơi này như thế nào? Nhưng em cũng biết, nếu anh không vượt qua được, em sẽ mất anh vĩnh viễn. Vinh ạ, em thật ngốc. Em sai rồi! Nhưng khi đó, Khi nghĩ ra trò chơi này, em vẫn tin rằng em đủ khả năng để giữ được hình ảnh của em trong trái tim anh. Em vẫn tin rằng anh thuộc về em. Chỉ đến khi, rời tay anh ra, em mới choáng váng nhận ra rằng: Em sai rồi! Em cứ tưởng rằng chúng mình đã yêu nhau từ lâu lơ lâu lắc mà quên rằng sự thật chỉ là em đã yêu anh từ lâu. Em đã yêu anh từ khi anh và Mai đến chơi nhà Minh - bạn thân của em và cũng là bạn thân của Mai. Em vẫn nhớ hình ảnh của anh khi ấy: Quần sooc áo pull hồng, đi dép xỏ ngón. Nhìn anh xì tin đến mức em không nhịn nổi cười. Nhưng em nhớ. Nhớ mãi. Em đã phải lòng anh từ những ngày đó. Là em thôi mà. Còn anh, anh mới chỉ bắt đầu yêu em chưa quá 4 tháng. Vậy mà tại sao em đã tự tin cho rằng anh sẽ vượt qua được trò chơi này? Là em tự tin rằng em sẽ giữ được anh nhưng buông anh ra thế này, liệu em có đủ tự tin? Em mất tự tin rồi! Em mất sạch tự tin rồi. Em chỉ còn 1 khoảng trống hun hút khi bóng anh chìm giữa biển người. Và người thứ 3 giờ này chắc cũng đã bắt đầu vào cuộc. Cô ấy sẽ tìm thấy Vinh ngay khi Vinh và em lạc nhau. Thư Hiên: Tôi là một B-Girl Tôi và Tiêu Tương là bạn học hồi cấp 3. Thi thoảng, chúng tôi vẫn hay gặp nhau. Tất cả mọi người ai cũng thấy rằng tôi và Tiêu Tương là 2 người bạn thân. Nhưng thật sự thì không phải như vậy. Sự thật chỉ có một mình tôi biết. Rằng: Tôi là một B-Girl. Tôi rất đố kị với Tiêu Tương. Tôi xinh hơn Tiêu Tương, Tôi học giỏi hơn cô ấy. Vậy mà tôi vẫn không được đánh giá cao hơn Tiêu Tương trong mắt những người bạn chung của chúng tôi. Ai nấy cũng đều yêu quý Tiêu Tương. không có một cuộc đi chơi nào tôi được quan tâm khi có Tiêu Tương. Dường như cô ấy mang những sức hút lạ kỳ. Lũ con trai quan tâm đến tôi để có cơ hội gần Tiêu Tương, biết thêm về Tiêu Tương. Tôi đã giữ những thắc mắc này trong suốt 3 năm trung học. Tôi chơi thân với Tiêu Tương với mong muốn có thể giải mã được lý do tại sao cô ấy có sức hút đến thế. Nhưng suốt 3 năm phổ thông và thêm 4 năm đại học, tôi vẫn chưa nhìn ra bí mật của Tiêu Tương. Sự đố kị trong tôi âm ỉ cháy đến tận bây giờ. Và lần này, thêm 1 cú chọi nữa vào sâu thẳm lòng tự ái của tôi. Tiêu Tương kể cho tôi nghe về Hải Vinh - bạn trai của cô ấy. Tiêu Tương ko thể ngờ được rằng, tôi cũng đã từng mê mệt anh chàng này. Hải Vinh là hotboy của trường đại học của tôi. Tiêu Tương không biết. Chỉ có tôi biết. Rằng đây lại là 1 cú chọi nữa vào tôi. Vẫn là câu hỏi: Tại sao Tiêu Tương luôn may mắn hơn tôi? Nhưng lần này, cơ hội để tôi hạ gục Tiêu Tương. Và cơ hội để chạm được Hải Vinh trong mơ ước suốt 4 năm đại học. Hải Vinh: Một cô gái đi về phía tôi Tôi vừa buông tay Tiêu Tương ra thì gặp em. Thư Hiên. Em đẹp đến choáng váng. Ngày xưa, hồi ở trường đại học, em đã là hoa khôi của trường rồi. Tôi khi đó cũng có đôi lần thích em nhưng vì bản thân đã có bạn gái nên đành chỉ đứng từ xa. Cái đó gọi là "Phải lòng mặt" - Sao hồi ấy anh ko iu em? - Vì hồi ấy anh đã có bạn gái rồi. - Em thật là kém may mắn đấy! Thế còn lần này? Đừng nói là cũng lại có bạn gái đấy nhé! - Anh... - Anh đừng nói gì vội! Em sẽ ko nghe đâu. Câu trả lời nào của anh lúc này cũng sẽ gây bất lợi cho em hết! - Vì sao? - Vì nếu anh bảo anh đã có bạn gái, em sẽ nghĩ rằng em thật là vô duyên. Còn nếu anh bảo anh chưa có bạn gái, em sẽ điên lên mất. - Em điên? - Vâng! Em sẽ sướng điên lên! - Ừ! Xinh thế này mà bị điên thì kể ra cũng phí, em nhỉ? - Hehe, vâng! Thế nên cứ im lặng đi đã, anh nhé! Em muốn đi chơi vs anh tối nay. - Nhưng anh.... - Kệ anh! Em ko cần biết. Em muốn ở bên anh tối nay. - Anh... - Anh không dc từ chối! Cho em thời gian đi, nếu em là kiểu nhạt thịt, em sẽ ra đi. - Nhưng nhỡ khi em.. - Thì tùy anh có muốn giữ em lại hay ko thôi! Vì lúc nào em cũng hình dung ra anh là bạn trai của em hết. Là như vậy. Tôi đã bị Hiên cuốn đi. Cộng với sự bực dọc sẵn có vs Tiêu Tương, tôi gần như quên bẵng Tiêu Tương. Là gần như... Tiêu Tương: Khoảng trống Vinh ạ! Em sai rồi! Em biết mình sai rồi. Biết mình sai ngay khi chúng ta buông tay nhau ra. Nhưng em vẫn tự trấn an mình rằng nếu anh mải mê với Thư Hiên mà quên đi em thì em cũng sẽ chẳng có gì phải nuối tiếc cả. Nhưng...Là em đã đẩy anh ra xa em kia mà? Em đúng là ngốc nghếch. Thư Hiên gọi điện cho em. Cô ấy bảo: "Có lẽ cậu đã nhìn nhầm người. Anh ấy đã không như cậu nghĩ. Tớ sẽ tránh mặt anh ấy hoặc xỉ vả anh ấy để anh ấy quay về với cậu." Em bảo: "Không cần đâu". Nhưng lòng em thì vụn vỡ. Đau thắt lại. Vinh ạ, là em nhận định sai về anh hay em đã sai khi bày ra trò chơi đầy nguy hiểm này? Chỉ mình em, giữa bạt ngàn những gương mặt xa lạ, chợ đêm tối thứ 7, đông vậy mà em côi cút đến lạnh người. Nếu hôm ấy, em đừng bày ra trò chơi này, em đừng buông tay anh ra, có lẽ lúc này đây, em ko như thế này. Nhưng cũng đã xa rồi. Nhưng cũng đã muộn rồi...Thư Hiên - Thua cuộc Tôi không biết mình đang làm gì nữa. Tôi gọi điện cho Tiêu Tương bằng những điều khác với sự thật. Tôi đã từng hình dung ra một cách độc ác rằng Tiêu Tương sẽ đau đớn đến khi nào khi anh chàng của mình, chỉ vỏn vẹn 2 tiếng đồng hồ gặp tôi mà quên bẵng đi cô gái đã bên cạnh anh ta 4 tháng trời. Cảm giác mãn nguyện khi hạ gục dc Tiêu Tương đã ko xảy ra như tôi tưởng tượng. Buông máy xuống, tôi thấy mình tệ đến vô cùng. Tiêu Tương đau, lòng tôi quặn thắt. Lại thêm một lần nữa, tôi ko thể thay thế dc Tiêu Tương. Anh yêu Tiêu Tương. Anh yêu cô ấy nhiều hơn cả anh nghĩ đấy, Vinh ạ! Trong suốt 2 tiếng ở bên tôi, mắt anh gần như chỉ để ngóng ngoài đường. Những điều anh nói, đều chỉ về Tiêu Tương. Dù đó là khi anh đang bực dọc nhất, thì Tiêu Tương vẫn là điều hiển nhiên như thể đã ăn liền vs máu thịt của anh vậy. Tôi biết mình chẳng có cơ hội nào. Tiêu Tương hẳn sẽ nghĩ rằng anh vì bị tôi đá mà quay về với cô ấy. Theo kịch bản sẽ là như thế. Nhưng sao tôi ko thấy vui? ko thấy hả hê như tôi tưởng. Trong trò chơi này, tôi đã là kẻ thua cuộc. thua toàn diện Vậy ai là người chiến thắng...??? S.T
TRẢI LÒNG &&&& Anh bước thẳng vào cuộc sống của tôi trong thời điểm đó. Anh hỏi tôi: “Cuộc sống của em có hạnh phúc không?” Tôi lẩn tránh ánh mắt đó, tôi không dám nhìn thẳng vào anh, lẩn tránh ánh nhìn như thiêu đốt -“Em hạnh phúc.” -“Em nói dối, một người phụ nữ sống trong hạnh phúc vì sao lại có ánh mắt đơn độc và chới với thế kia, đừng tự dối mình nữa em.” Lời nói đó như công kích vào nỗi niềm riêng của tôi,tôi gục vào vai anh, khóc nức nở. Bao nhiêu nỗi niềm chất chứa trong lòng tôi đã bị người đàn ông này xé toang. Tôi đã gói ghém rất kĩ, chôn rất sâu bằng một nụ cười mơ hồ xa xăm, vậy mà anh như đọc được mọi suy nghĩ, tâm tư tình cảm của tôi. Khi nguời ta đang yêu và được yêu màu trời như xanh hơn, nhìn xung quanh mọi sự vật đều đuợc nhuốm một màu xanh hi vọng, màu hồng lãng mạn, màu đỏ của tình yêu. Tôi chao đảo trốn tránh hạnh phúc của đời mình, tôi ghép nhặt những mảnh vỡ trong tâm hồn. Tình yêu trong tôi là những lần ba mẹ cãi nhau, là những lần nhìn thấy mẹ nức nở khóc bên gối, là những lần ba bỏ mẹ con tôi đi theo tiếng gọi của trái tim. Tôi dường như không tin vào tình yêu nữa, có thể bạn sẽ nghĩ tôi quy chụp, đánh đồng moi thứ đều như nhau nhưng trong suốt thời thơ ấu của tôi la vậy, tôi bị ám ảnh bởi hình ảnh của mẹ,hình ảnh người đàn bà đơn độc mắt nhòa lệ, tôi sợ mình sẽ giống mẹ, tôi không còn tin vào tình yêu từ lâu lắm rồi.Tôi lớn lên trong tình yêu thương và vòng tay che chở của mẹ, chỉ mẹ mà thôi. Tôi đã từng có suy nghĩ sẽ chẳng bao giờ lấy chồng, tôi chỉ muốn được ở bên mẹ “mẹ là người đàn bà duy nhất…không bao giờ quay lưng lại dù cho con có bao lầm lỗi”. Ngày ba mẹ ra tòa li dị, tôi học lớp 8, so với chúng bạn đồng trang lứa tôi già dặn hơn rất nhiều, cũng đã đủ lớn để có thể phân biệt được đúng-sai, trái-phải, lúc đó tôi nghĩ chắc mình là đứa con duy nhất mong ba mẹ chia tay. Đơn giản thôi, tôi mong mẹ được bình yên và tôi hận ba, tôi nhớ như in những lần chạy theo ba, xin ba quay về với mẹ, xin ba ở lại với mẹ con tôi. Làm sao tôi có thể quên cái lần túm chặt lấy gấu áo ba, ba quá khỏe cả về thể xác lẫn tâm hôn, lạnh lùng vứt bỏ cả máu mủ của minh, tôi không thể mang ba về cho mẹ cũng như cho tôi. Một thứ ràng buộc vô hình là đứa con cũng quá mong manh, không làm ba quay trở lại. Không đợi tòa hỏi ba có muốn nuôi tôi hay không, ba đã trả lời “Tôi nhường quyền nuôi con cho vợ”. “Nhường” ư??? Nghe có vẻ cao thượng quá, nghe có vẻ như yêu thương quá, chẳng qua là vì ba không muốn vướng bận để có thể tự do vùng vẫy bên người tình của ba thôi. Rất nhiều lần tôi hỏi mẹ sao biết ba vậy mà mẹ không bỏ ba, nhưng lần nào cũng chỉ một câu trả lời “Con còn nhỏ, sau này rồi con sẽ hiểu”. Dù trong lòng hận ba là vậy nhưng tôi cũng vẫn chỉ là một đứa trẻ không hơn không kém, tôi không phủ nhận tôi đã từng rất nhớ ba, tôi đã từng trốn mẹ đi tìm ba, với ý nghĩ non nớt đến cầu xin ba thêm một lần nữa, chỉ một lần này nữa thôi mong ba quay về. Tôi chờ ba bên ngoài chỗ làm, ngày nào cũng vậy trong suốt một tháng, nhưng ba tránh măt tôi, ba phóng xe qua trước mặt tôi, coi như ba không nhìn thấy. Tôi cứ tự trách mình, rằng tôi đã làm gì sai để ba giận tôi đến vậy. Và rồi tôi cũng “bắt” được ba, tôi phải giả vờ bác bảo vệ rằng, tôi đến gặp ba để lấy chìa khóa vì tôi quên, lí do không còn gì để chính đáng hơn, vì dù gì bác bảo vệ đã quen mặt tôi rồi, tôi hay cùng mẹ đến đón ba mà. Ba nhìn thấy tôi nhưng lần này ba không thể làm ngơ quay đi được, ba bảo tôi rằng: - Con đi về đi, đừng tìm ba nữa. Lớn lên con sẽ hiểu. Vẫn y như câu trả lời của mẹ, bao nhiêu dồn nén trong lòng tôi tuôn trào ra, tôi như hét vào mặt ba, tôi nói ba không phải con người, tôi nói ba nhẫn tâm. Nét mặt ba sững lại, ba nhìn thẳng vào mắt tôi, ánh mắt mang đầy vẻ thù hận, như tôi là căn nguyên của mọi tội lỗi. -Con về đi, về hỏi mẹ con ai là người lừa dối, ai mới không phải con người, ba không muốn nhìn thấy con nữa, vể bảo mẹ trả lời cho xem ai là ba của con. Ba quay lưng bỏ đi và tôi cũng bỏ chạy, nước mắt chảy xuống miệng, mặn thật, mặn và chát như sự thật mà tôi đang được biết.Tôi đã hiểu vì sao ba lại vậy, hiểu vì sao mẹ không bỏ ba dù ba đã công khai mối tình vụng trộm, tôi đã hiểu vì sao ba lạnh lùng chối bỏ tôi, vì chỉ nhìn thấy tôi thôi là ba lại hình dung ra cả một quãng thời gian dài bị mẹ lừa dối. Giá như không có cái lần tôi bị ô tô đâm phải đó, tôi mất máu quá nhiều, ba đã làm xét nghiệm máu để truyền máu cho tôi, để mong cứu lấy đứa con bé bỏng của ba. Nhưng sự thật như con dao đâm vào tim ba, đâm từng nhát thật mạnh đau đớn, tôi không phải là con của ba, trái tim người đàn ông không bị rỉ máu nữa rồi mà nó tuôn trào những uất hận, những tháng ngày bị lừa dối, ba lạnh lùng chối bỏ tôi, mà đùng hơn tôi có phải là con của ba đâu mà ba chối bỏ, ba không muốn nhìn thấy tôi cũng là điều dễ hiểu thôi, tôi thương ba, tôi khóc thương nhưng tôi không oán trách mẹ. Tôi biết sự thật vậy là đủ rồi, tôi không muốn đào sâu thêm nỗi đau của mẹ một lần nào nữa, rồi sẽ có ngày mẹ sẽ kể hết với tôi, kể tất cả. Tôi tin như vậy. Tình yêu là thứ gì đó quá xa xỉ đối với cuộc sống của tôi, tôi không còn tin vào tình yêu nữa, tất nhiên ngoại trừ tình mẫu tử, từ ngày ba đi, mẹ trỏ nên lầm lũi, rất ít khi thấy mẹ cười, mẹ thường ôm tôi vào lòng khóc rồi nói xin lỗi tôi. Tôi trở nên cứng rắn hơn, mạnh mẽ hơn, tôi muốn tôi là chỗ dựa vững chắc của mẹ, cũng có những người đàn ông đến với tôi nhưng tôi vô cảm, tôi khép chặt lòng mình lại, tôi không muốn vướng vào hai chữ “tình yêu”. Những năm sau đó, tôi chưa từng một lần gặp ba, ba đã chuyển sang sống ở một thành phố khác, tôi biết được điều đó qua bà nội. Bà nhìn tôi rồi nói: -“Càng lớn càng xinh nhỉ ?Nhưng rồi cũng như mẹ mày thôi, hai mẹ con mày đừng sang đây thăm tao, tao không muốn nhìn thấy mặt mẹ con mày.” Mẹ cúi đầu không nói nhưng chẳng hiểu sao lúc đó tôi lại mỉm cười, tôi đã quá gai góc, đủ sức để chịu đựng những lời nói xé lòng đó. Mọi người bên nội, cho phép tôi được gọi như vậy, đếu xa lánh mẹ con tôi, chỉ cần nhìn thấy mẹ con tôi thôi là tất cả như phải chịu đựng nỗi nhục của người con trai độc tôn duy nhất của cả gia đình bị phản bội. Mẹ cứ chỉ ôm tôi khóc và chỉ biết xin lỗi tôi thôi, trong tôi chất chứa những nỗi đau vừa vô hình vừa hữu hình. Tôi không được ngã gục vì mẹ cần tôi, tôi cũng không muốn biết ba đẻ của mình là ai, không hề muốn nhìn thấy vì tôi hiểu đó là người đàn ông làm mẹ khổ, là người ruồng bỏ mẹ. Mẹ sai lầm, đúng nhưng mẹ cũng là đàn bà, mẹ cũng có những phút yếu lòng, tôi không thể giải thích được vì sao tôi có thể đồng cảm được với nỗi lòng mẹ như vậy dù tôi chưa một lần nếm trải nỗi đau đó nhưng tôi là con của mẹ, tôi đã đau cùng mẹ nhưng tôi không thể đau thay cho mẹ, giá như tôi có thể làm được điều đó thì tôi sẵn sàng để mẹ có thể nở một nụ cười tron vẹn, để lòng mẹ được thanh thản… Càng lớn tôi càng xinh đẹp, tôi giống mẹ lắm, nhất là đôi mắt. Đôi mắt lúc nào cũng mang một vẻ gì đó xa xôi, mất mát xen lẫn những uất hận không muốn tỏ cùng ai, đó là lời nhận xét của anh, người đã mang đến cho tôi một cảm giác an toàn và bình yên. Anh bắt gặp ánh mắt như chỉ chực trào muốn khóc của tôi, anh nhìn tôi thật lâu mà tôi không hề biết. Cho đến khi tôi phát hiện ra thì anh đã chụp xong hình tôi rồi, như bình thường tôi sẽ gay gắt phản kháng nhưng sao hôm đó như ông trời cố tình xe duyên vậy, tôi không làm chủ được mình, sau bao nhiêu lần lẩn tránh tình yêu nhưng hôm đó tôi đã để ánh mắt đó làm gục ngã, chính ánh mắt ấy đã phá hủy bức tường thành tôi đã xây lên tưởng chừng như vững chãi đó. Sau lần tình cờ quen nhau rồi nói chuyện để hiểu nhau, tôi vẫn cố tình lẩn tránh anh, tôi sợ …nhưng anh lì lợm cũng không kém tôi, anh cứ chờ đợi tôi, ngày nào cũng vậy, kể cả những ngày trời mưa như trút nước, lén nhìn xuống đường thấy anh vẫn đứng đó, tôi xót xa vô cùng.Tôi cảm giác anh đợi tôi, như ngày xưa tôi từng đợi bố, suốt một tháng ròng, cảm giác mong ngóng, khắc khoải vì chờ đợi, cứ cố gắng cho dù có thể không được như mong muốn…Tôi vẫn kiên quyết, không xuống gặp anh..nhưng mẹ đã nói với tôi rằng “tình yêu thì nhiều, nhưng tình yêu thật sự thì khó kiếm lắm con ạh, con phải biết trân trọng, đừng lặp lại sai lầm như mẹ, ko biết giữ lấy người mình yêu”. Tôi òa khóc, những giọt nước mắt của hạnh phúc, tôi lao đến bên anh. Lần này lí trí đã không chiến thắng, trái tim tôi đã loạn nhịp, tôi đã đắm chìm trong hạnh phúc đầu đời, tận hưởng dư vị của tình yêu mà vốn lâu nay trong tôi không muốn nó tồn tại. Anh đã thực sự hiểu và chinh phục được đứa con gái mang bản tính lì lợm như tôi. Tình yêu thật kì diệu, nó có thể làm con người ta chết đi, làm cho mọi việc trỏ nên u ám nhưng cũng khiến con người ta sống lại, làm thức tỉnh mọi thứ tưởng chừng như nguội lạnh. Đau đớn vì tình yêu nhưng cũng chính tình yêu đã xoa dịu nỗi đau đó, chính tình yêu đã làm kết thúc những chuỗi ngày buồn tủi để rồi bây giờ đây lại khởi đầu của một sự thăng hoa. Vậy nên bạn hãy cứ yêu và trải nghiệm đi nhé.!... Nguyễn Cẩm Chi
Lời vàng ý ngọc Thiền sư Ajahn Chah dạy về vô thường GNO - Dưới đây là những lời dạy của Thiền sư Ajahn Chah (Thái Lan) về vô thường được in trong cuốn Chẳng có ai cả (NXB Tôn Giáo, 2011). Nếu biết rằng mọi chuyện đều đổi thay thì bạn còn băn khoăn thắc mắc, suy nghĩ mông lung gì nữa! Bất kỳ chuyện gì xảy ra bạn chỉ cần tự nhủ: “À, lại một chuyện nữa!”. Vậy thôi. - Nếu bạn thấy rõ ràng sự đổi thay, thì bạn sẽ thấy được sự không thay đổi. Sự không đổi thay ở đây là: sự vật không thể nào không thay đổi. Nếu hiểu được rằng chỉ có sự đổi thay là không bao giờ thay đổi thì bạn hiểu được Đức Phật, và bạn có thể tôn trọng cúng dường Ngài một cách đúng đắn. - Mọi sự trên thế gian đều đi theo đường lối tự nhiên. Không có khoa học nào có thể cản trở bước đi của chúng. Bạn có thể đến nha sĩ để chăm sóc răng. Nhưng dầu nha sĩ có săn sóc răng bạn kỹ lưỡng thế nào đi nữa, cuối cùng, chúng cũng đi theo đường lối của chúng. Ngay cả nha sĩ cũng bị hư răng. Mọi vật rốt cuộc rồi cũng tan rã cả. - Cái gì chắc chắn bền vững đây? Chẳng có gì ngoài đau khổ. Đau khổ đến và đi. Hạnh phúc lại thay chỗ cho đau khổ. Cứ thế mãi. Ngoài chuyện đó ra chẳng có gì nữa cả. Nhưng chúng ta là những kẻ lạc đường không ngừng chạy theo và nắm bắt dục lạc. Dục lạc không thật đâu, chỉ là sự thay đổi mà thôi.!
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thương quá rau răm[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Ngọc Tư[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ông Tư Mốt chỉ cái dải xanh mù mù trong mưa, bảo cù lao Mút Cà Tha kìa. Văn ờ, nói thấy xa quá chú ha. Ông cười, gạt ngang, xa gì, đây tới đó mấy hồi. Rồi chiếc xuồng máy nhỏ mong manh dập dờn đi trong giông gió. Người thành phố ngồi ngấm cái "mấy hồi" của ông già, mừng tủi thấy màu xanh cây cỏ cù lao đã thẫm trước mắt (mà sau mới biết mình mừng hụt). Mưa dịu lại, hạt nhỏ rức nhưng gió mạnh lên, thổi xà quần, không biết đâu là chiều hướng. Ông Tư quăng cho Văn cái can nhựa còn ít xăng, bảo, tới khúc "mứt" nghen, coi chừng lật xuồng. Mà, có kịp coi gì, Văn thấy mình ngã ập xuống nước, hành lý trôi mất, lên tới bờ anh chỉ còn trụi trơ bộ đồ đang mặc. Ông Tư kè chiếc xuồng vô sau, giậm chân giậm cẳng bứt đầu gãi tóc như thể mình vừa lỡ tay làm nên cơn giông chiều nay. Bởi ông biết rằng, mưa gió kia, sóng nước mênh mông kia và cả màu chiều đang lịm dần kia sẽ làm cho người bác sĩ trẻ này thất vọng. Bác sĩ thứ sáu về làm việc ở trạm xá cù lao. Năm người trước đã ra đi, đi vì không chịu nổi thiếu thốn. Và buồn. Cù lao Mút Cà Tha nằm gần cuối sông Dài, trên nó một chút có một nhánh sông khác rẽ về phía mặt trời, rộn rịp được đoạn đó rồi thôi. Mút Cà Tha nằm hiu hắt, lâu lâu mới thấy bóng dáng một con tàu lớ ngớ chạy vào rồi lại tẽn tò quay ra vì lầm đường, vì không biết đằng sau cù lao, sông cụt. Ngó sông vắng vẻ quá trời buồn, nhìn cảnh cù lao còn buồn hơn. Buồn từ mùi ổi chín phảng phất trong vườn, từ giọng người ới lên một tiếng rồi bặt, dư âm còn thâm u trên các ngọn cây, tiếng cạo cơm cháy xa vẳng trong nắng chiều... Từ mé rừng mắm chống lở đất phía bên này, đi hết vườn cây này gặp được một căn nhà thì lại tiếp đến vườn cây trái khác. Cuối cùng là bãi bồi, dây khoai lang bò xùm xòa phủ kín đất. Bóng người ẩn hiện dọn cỏ dưới các gốc cây. Bên đường thấp thoáng nhiều nấm đất con con của những đứa trẻ kiệt sức vì bị đẹn mà chỉ được rơ miệng bằng cỏ mực, những đứa trẻ bệnh sốt xuất huyết chỉ chữa bằng cạo gió, uống nước mía lau, rễ tranh, những đứa trẻ mắc thương hàn bị thủng ruột vì tự do chạy ra vườn ăn ổi chua, ổi chát... Những gò đất ấy đã cũ mèm rồi, bây giờ người cù lao hiểu biết nhiều, nhưng vẫn còn chuyện rủi may, còn người bị rắn độc cắn, chết trên đường ra bệnh viện huyện. Hôm ấy, trưởng ấp Tư Mốt tuyệt vọng nắm chặt hơi thở cuối của ông bạn láng giềng trong tay, tuyệt vọng thấy nó tan đi, ông về nhà viết lên tường trạm xá "Cương quyết chỉ chết vì già". Nhân viên y tế nào mới về ngó câu khẩu hiệu ấy cũng cười, cũng thương. Nhưng rồi nửa khuya ngồi ăn mì gói, nghe cú kêu lẫn tiếng radio khọt khẹt (để chút âm thanh đấy cho đỡ quạnh), vạch đi vạch lại tờ báo cũ mèm, họ sực nhớ phải về quê lấy vợ, lấy chồng, sực nhớ vợ mình mới sinh, sực nhớ tội nghiệp ba má đã già... Và họ từ giã cù lao. Ông Tư Mốt ờ ờ ra chiều thông cảm, vẻ mặt cố tỏ ra không buồn nhưng hàm râu xuôi xị. Họ ngoắc đò đi rồi ông còn đứng mãi trên bến, nghĩ giận đám trẻ cù lao đã được học hành nhưng chẳng đứa nào chịu quay về. Nên ông bảo với bốn mươi ba nóc gia sống trên Mút Cà Tha, "Bất cứ người xứ lạ nào đến làm việc ở đất cù lao đều quý, mình phải đối xử cho tử tế, thiệt tử tế". Gặp Văn lần đầu tiên, ông nghĩ ngay, phải giữ thằng nhỏ này ở lại cù lao, thấy cái mặt buồn buồn, ngó bộ đàng hoàng. Ông nghĩ là mình có cách, không có gì sâu nặng bằng tình cảm người với người. Thì ông đã rịt chân mấy thầy cô giáo cho đám trẻ cù lao đấy thôi. Hôm Văn đến, bà con ôm lại cho một đống áo quần, góp gạo đổ vô thùng, câu cá đem rộng. Rồi mấy con cá ốm nhom, trắng dờ con mắt, lội vật vờ tới lui chờ hóa kiếp mà Văn vẫn còn ngợp trong mớ lời mời, hết nhà này đến nhà khác, bữa thì cháo vịt, cháo rắn, bữa khác tôm nướng, lươn um... Mà, trông Văn vẫn buồn, buồn chen giữa hai cái cười, nó tranh thủ cả khi Văn đưa ly rượu lên môi và để ly không xuống (còn lúc uống thì mặt Văn nhăn nhúm lại, vẻ buồn không rõ ràng). Hỏi làm sao buồn thì Văn cười, ủa, cháu có buồn gì đâu. Hỏi nhớ thành phố à, Văn cũng cười, không, thành phố có gì mà nhớ. Hỏi nghĩ sao mà tình nguyện về đất cù lao này, nghe tên Mút Cà Tha bộ không ớn sao, Văn (lại) cười, không, có nghĩ gì đâu, cháu chọn nơi nào hẻo lánh ít người... Nghe cái giọng như đời ta là lục bình, trôi đâu cũng được, càng xa càng tốt. Nhưng trưởng ấp Tư Mốt phải làm cho anh chàng hiểu đời anh có ý nghĩa với đất này như thế nào, thiếu anh người cù lao sống không nổi chớ chơi à. Buổi sáng có người chạy lại than nhức đầu, sổ mũi, buổi chiều thêm chứng chóng mặt, đau mình. Vài ba chị phụ nữ đỏ mặt thập thò ngoài cửa, trong bụng rủa thầm ông già Tư Mốt, đau bụng kinh cũng bắt đi trạm xá, mắc cỡ gần chết. Trưởng ấp tà tà dài theo xóm, thấy ai rảnh rỗi là kêu, đứng đó làm gì, sao hổng lại trạm xá cho bác sĩ người ta khám. Trời đất, bệnh gì mà khám chú Tư. Ông nói tỉnh bơ, khều khều bộ râu, "Có chớ sao không, hễ mày nhậu xỉn là ói, để vậy không tốt, lại kiếm thằng Văn đi". Mới đầu thì Văn không biết, nên thấy có bà cụ chống gậy lại bảo bác sĩ coi bệnh giùm, Văn hỏi bà bị gì, bà cười, tui suy nghĩ chưa ra. Thuốc hết, huyện chưa kịp gửi, Văn áy náy, tần ngần đưa mấy thứ B1, B6 cho con bệnh đau bao tử, uống xong, ông này phởn phơ đứng dậy, tươi rói bảo, trời đất ơi, thuốc chú mày quá chừng hay. Văn đâm ra lạ. Cho tới bữa đám con nít khiêng một thằng bé ở truồng lại, nhao nhác nói chim của thằng Út Chót bị còng kẹp rồi, nó sưng chù vù nè chú bác sĩ ơi. Văn mắc cười quá, hỏi sao tới nông nỗi vầy, thằng Út Chót khọm rọm lấy tay bụm chỗ đau, phều phào nói trong nước mắt, "Tại bác Tư biểu ai cũng phải đi khám cho chú bác sĩ vui, chú không bỏ về thành phố. Con đâu có bịnh, tính bắt còng kẹp chơi...". Văn chỉ kêu được hai tiếng trời ơi. Và anh hiểu tại sao ông già ấy lại quan tâm tới mình. Chiều nào ông cũng lại chỗ Văn, rủ rỉ rù rì. Ông biết giờ đó, bà mụ Năm, nhân viên thứ hai của trạm xá đã về nhà, có thể Văn thấy cô đơn. Ông kêu đám thanh niên lại chỗ Văn đàn hát tẳng tằng tăng, dẫn Văn đi câu cá hay soi ếch trong "mà". Văn tham gia nhiệt tình nhưng không tha thiết như người đi đường thấy vật lạ thì cầm lên, rồi lại bỏ xuống, đi tiếp. Có lần ông Tư hỏi nhà Văn ở khúc nào, Văn bảo ở chỗ ấy chỗ ấy mà trong bụng buồn cười, nghĩ nói cho có chứ chắc gì ông biết, nghe cái giọng như thể thành phố nhỏ bằng cù lao. Không ngờ ông biết thật, nói hồi giải phóng, trung đội ông đánh vô đường đó. Ban quân quản còn cấp cho ông căn nhà đằng trước có khoảng sân ngập tràn bông giấy rụng. Văn hỏi, rồi sao bác lại ra sống ở đây. Ông cười, vì cái đất này cần mình. Nói xong câu này, ông lén dò xét coi thằng nhỏ có bắt được cái ý nghĩa ngầm mà ông gửi gắm không, chỉ thấy Văn ngó lên trời, ngó xa xôi, hỏi nhìn gì, Văn ù ờ, bảo nhìn chim bay, không biết tụi nó bay tới đâu, về tận đâu. Trưởng ấp Tư Mốt thấy bất an, về nhà biểu con gái sớt nửa nồi bí hầm dừa bưng qua trạm xá. Con Nga dạ rồi tong tả đi. Nó thường được ông Tư sai bưng thức ăn đến trạm xá cho Văn. Nhiều nhất, thường nhất là món khoai luộc nóng hổi, thơm bừng. Bưng rổ khoai từ nhà đến chỗ Văn, khói mềm cả ống tay áo Nga. Trời trở chướng, gió ráo hanh nhưng nước lên, sân trước trạm xá ngập lênh láng, con Nga xắn quần quá gối lội qua, thấy Văn, nó thưa thẽ thọt "Ba em gửi anh ít khoai" rồi về. Lần sau, nó xắn quần thấp một chút, bảo ăn khoai đi anh. Sau nữa nó cứ để ống quần bết nước, lọng cọng đứng ngoài cửa, hai gò má rựng lên, gọi "Ăn khoai nè". Lúc đấy thì nói ít, thẹn thò nhưng ở lại lâu, dọn dẹp lăng xăng, quét trên quét dưới, bắc nồi cơm lên bếp, làm cá nấu canh chua trái giác, sung sướng thấy mình bận rộn giống hệt mấy nhỏ bạn mới lấy chồng (tụi con gái thường hay điên vậy, tới khi xà quần chồng con thật, lại than số mình cực như trâu). Rồi sực nhớ bếp ở nhà lạnh tanh, nó chạy về. Ông Tư ngồi trước cửa, giấu sự thắc thỏm (và một chút lưỡng lự, mình tạo điều kiện cho hai đứa gần gũi vầy có sao không ta). Cố tươi tỉnh, ông hỏi ngay, "Con Nga lo cho anh bay xong chưa ? Mắc gì mà mày cười suốt từ ngoài đường vào đây ?". Dạ, con Nga chối bay, con đâu có cười, tại ba má sanh cái miệng con vậy mà. Nói rồi nó chạy vô bếp, bâng khuâng cười thêm một hồi nữa... Chủ nhật, Văn mượn xe đạp chở con Nga đi chơi lòng vòng cù lao. Nga ngồi đằng sau, khép nép, sượng trân, sợ ai đó thấy hai đứa vầy, một hồi lại sợ không ai thấy, nó tiếc nuối chép miệng: - Bữa nay người ta đi đâu hết trơn rồi cà, vắng dễ sợ. Quẹo qua quẹo lại, nói đất nói trời (chỉ thiếu nói lời thương yêu), cuối cùng hai đứa ra bãi đào khoai. Văn hỏi má Nga đâu, nó cười, chết rồi, chết hồi sanh em, chết trên xuồng. Văn về ngó cái khẩu hiệu ông Tư vẽ trên tường. Thấy nó đỏ như một lời thề. Bữa nọ Nga đem mấy cần xé ổi ra chợ huyện cân cho vựa thì gặp đám bạn Văn xốc xếch đứng trên bến. Nga cho quá giang về Mút Cà Tha (mà không hiểu sao trong bụng muốn nhận chìm xuồng cho tụi này bỏ ý định ra cù lao cho rồi). Ngồi dưới xuồng, ba thằng trai cứ khen Nga đẹp, nhìn là muốn ở lại đất cù lao này hoài, hai đứa gái bĩu môi, tủm tỉm cười, nói bữa nay dê thả tùm lum ngoài đường. Nga không để ý, những lời nói ngọt ngào càng không để ý. Xuồng cập bến, Nga xăm xăm đi trước dẫn đường, tong tả xộc vào phòng sau của trạm xá, cằn nhằn cử nhử, sao anh Văn bày tùm lum như vầy (cho tụi kia biết, ta đây đã thân thuộc với anh ấy đến mức nào). Văn từ nhà tắm vào, nước trên tóc còn rỏ tong tong. Năm người họ sà vô ôm, nhảy tưng tưng, nói tui nhớ ông em nhớ anh quá chừng. Văn ngợp thở vì cái mùi thành thị quen thuộc của nước hoa, của son, của phấn, của khói thuốc lá, của những hơi thở gấp, của sự chen chúc, xô đẩy nhau… Và những kỷ niệm ùa về, nhớ quán cà phê chỗ mình ngồi không, bây giờ đổi tên khác rồi. Văn sôi nổi hỏi, vậy con nhỏ phục vụ bốc lửa còn không. Còn, mà chi, tụi con gái ở Phố Xưa còn dữ dội hơn, nhớ bar đó không ? Nhớ không, nhớ không… Đã vầy đã khác. Mà Hương của mày có con rồi, mày đã quên chưa. Không khí chùng xuống. Một đứa bạn cười, kín đáo liếc ra đằng sau, giọng xủng xoảng như ly chén bể, "Sao anh không chịu để em bù vô nhỏ Hương, ra đây trốn tình chi cho cực, em nhớ anh thấy mồ". Đuôi mắt quét tận chỗ Nga, thấy con gái cù lao đứng thừ lừ. Nga nói thôi em về, luộc khoai đem qua anh Văn đãi bạn. Nga qua khoảng sân đầy nước thì có ông con trai chạy theo, lăng xăng nói trời ơi mát khủng khiếp, yên tĩnh tuyệt vời quá, cảnh thiệt là thơ mộng rồi hỏi, ủa, sao không thấy em gái nói gì. Nói gì bây giờ, Nga đi lẹ lẹ đằng trước, nỗi sợ cuộn lên, mong manh, Văn dễ tin lắm, hôm trước con chồn chạy ngang Nga nói con mèo Văn cũng tin, Nga bảo cây cỏ trên cù lao này đều do chim ỉa mà mọc lên Văn tưởng thiệt, bây giờ người ta nói yêu này yêu nọ, không biết Văn của mình có tin không. Nó cố kìm để khỏi kêu lên, trời ơi, sao người ta nói chuyện yêu thương dễ ợt, giòn rụm vậy cà. Bận quay lại trạm xá, Nga còn đi nhanh hơn, đầu nó có một mớ tro lá dừa đậu hồi thổi lửa. Anh chàng nọ rớt lại dọc đường. Bước vô cửa thấy ba bốn người nằm ngủ nghiêng ngủ ngửa, Nga nói ngay, "Ủa, anh kia chưa về hả, cha, ảnh ở đâu ta ? Em hổng có đi chung" (cho anh đừng suy diễn lung tung, rồi hiểu lầm lòng dạ em). Ngó bộ Văn không để ý, Nga nhẹ lòng, thở ra cái phù, hỏi, anh đang làm gì đó, Văn cười, coi nắng cù lao. Trời, nắng có gì mà coi, anh ? Hôm ấy Văn không trả lời, hôm sau không kịp trả lời vì Văn đưa bạn ra về rồi không trở lại. Lặng lẽ, như trốn chạy. Trưởng ấp Tư Mốt đứng ở trạm xá, thấy sau trước trống không, trong lòng nghe đau tiếc như vừa thua một ván bài lớn. Văn không từ giã ông một lời, để nói cháu về vì má cháu đang đau, hoặc cháu ra ngoài trung tâm y tế huyện một tí, rồi lên xe đi luôn cũng được, dù nhìn vào đôi mắt đang cụp xuống kia, biết người ta nói dối, dù trong tâm ông đã vẫy tay để chào xa mãi. Trong một thoáng, ông thấy mình chùng chình, vớ được khúc cây bình bát, ông chống vào đất. Bên ngoài cái đất Mút Cà Tha dường như đã có sự thay đổi lớn. Thí dụ như con cá, lá rau, hạt gạo mến thương của người cù lao không ràng buộc được một con người (như đã từng rịt chân ông lại), thì cái bóng nhỏ nhoi của đứa con gái đang tuyệt vọng đứng ngóng chờ dưới bến không có ý nghĩa gì sao? Tuyệt không đáng gì à?[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tích-tắc![/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trung Trung Đỉnh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi buộc phải nằm bẹp gí trong hang đá, nơi đội công tác cánh Bắc đường chọn làm điểm tập kết đi về. Đó là khoảng giữa của hậu cứ với vùng địch, còn gọi là giáp ranh. Căn bệnh xấu bụng nó hại tôi trước giờ ra trận. Hơn chục ngày đội chúng tôi chuẩn bị địa hình đánh tập kích bê dân vệ trong ấp Đồi Chè trước 29 Tết, tức là trước giờ ngưng bắn tạm thời, cái bụng tôi vẫn lặng im, đến lúc đội trưởng Lâng hô “xuống núi” thì nó trở chứng. Mới đầu nó réo sôi ùng ục, rồi cứ thế phóng ra khiến tôi không cách gì kìm lại nổi! “Cho mày ở nhà, lúc nào đỡ, chịu khó vào rừng bắn, may ra kiếm được con gì cải thiện ba ngày Tết”, anh Lâng xách súng đứng lên, nói. “Vâng”, tôi yếu ớt thanh minh. “Tại lúc trưa em ăn phải con nhái thằng Kiên nướng dối đấy mà”- “Tại cái bụng mày nó phản mày thì có”, thằng Kiên cãi. “Sao bụng tao không việc gì?”. Đúng thế. Bụng nó có ăn nhái sống cũng không việc gì thật! Trời nhập nhoạng tối. Bụng tôi đã êm vì thực ra nó chẳng còn gì bên trong để hại tôi nữa. Nhưng mà mệt muốn lả người. Tôi quyết không để nó đánh gục, bèn mò dậy tìm ống mật ong pha một bát nước thật nóng uống lấy sức. Rồi đội đèn vào rừng. Tôi tính, cố tranh thủ đi săn, mai mốt anh em về có thịt ăn Tết. Hoặc giả nếu không gặp con gì thì sáng mai tôi sẽ ghé vô làng Đê Chơ Rang, một ngôi làng BahNar nhỏ bé nằm chênh vênh trên sườn núi, là hậu cứ của Huyện đội, người nhà của nhóm lính cánh Bắc đường chúng tôi, xin ít lon đậu xanh về nấu chè mật ong. Mật ong rừng lúc nào chúng tôi cũng có sẵn vài ống làm của để dành. Đó là thứ thuốc tiên chữa được bách bệnh, kể cả nhức đầu sổ mũi, xóc chông xóc thò. Bị thương, chỉ cần bôi ba lượt là yên tâm, coi như kháng sinh sát trùng, tuyệt chiêu luôn. Cái bệnh ông Tào Tháo rượt đuổi như tôi thì chỉ cần pha nước nóng uống hai ba lần là sạch bụng. Anh Lâng bảo cấm đứa nào được ăn củ dong riềng chấm mật ong. Ăn món ấy vào, phản ứng hóa học kiểu gì đó diễn ra liền làm bụng ta chướng lên, rồi “bục” hoặc “xèo” một phát, coi như toi đời! Nghe mà khiếp. Ấy vậy nhưng anh lại chúa mê uống rượu cần pha với mật ong. Đội chúng tôi ai cũng phục anh, không phải chỉ ở cái tính tuế tóa, xuề xòa thương lính, mà còn cả vì anh lớn hơn chúng tôi hàng chục tuổi, lại đã từng làm trợ lý tuyên huấn trên Sư bộ thời huấn luyện, không hề thấy anh có gì cách biệt. Mình bị bệnh, tôi nghĩ. Cả đội có hai tổ, còn năm anh em, không cách chi chia đều ra để đi tác chiến cho ấm lưng. Chắc anh Lâng với thằng Kiên một tổ. Đội phó Tùng với thằng Bình, thằng Thiên một tổ. Đánh nhau, đến giờ xuất kích, vạn bất đắc dĩ phải ở lại. Anh em ra trận không vui, mình phải nằm nhà tự mình thấy mình có lỗi. Cánh rừng tập kết của chúng tôi là rừng già hiểm trở, bom pháo địch nã xác xơ, các loài thú lớn bỏ đi hết. Thỉnh thoảng có đàn vượn, khỉ hoặc dộc từ đâu đó ào về đôi ba ngày rồi lại biến mất. Loài thú này rất tài tránh pháo. Pháo bầy nã trúng đàn mà không thấy xác một con, thậm chí cả dấu vết. Anh Lâng bảo bọn ấy “làm chính sách” đấy, chúng đem hết “thương binh”, “tử sĩ” vào rừng, còn lâu mới hy vọng mót được xác một “tên”. Anh Lâng là người hiểu biết nhất đội, điều ấy thì tất nhiên rồi. Không những thế, anh lại nói tiếng BahNar rất giỏi. Thỉnh thoảng chúng tôi có thời gian rảnh, vô làng chơi với du kích, anh hát, anh múa với các ông già, bà cả, với thanh niên nam nữ, với trẻ nít rộn ràng như thể anh là thành viên của cộng đồng vậy. Bà con dân làng gọi chung đội công tác cánh Bắc chúng tôi là “bộ đội Lâng”. Đôi khi nhớ miền Bắc quá, anh Lâng lại rủ tôi và thằng Kiên vào làng mượn khố của mấy anh du kích, ba anh em đóng khố, cởi trần, xách rựa, đeo gùi chuối hoặc bí đỏ ra đường tuyến hóng xem có đơn vị chủ lực nào hành quân qua “kiếm đồng hương” chơi. Chúng tôi đóng giả làm đồng bào du kích. Anh Lâng nói tiếng Kinh lơ lớ theo kiểu mấy anh du kích BahNar nói tiếng Kinh rất tài. Bộ đội chủ lực từ Bắc mới vào không ai nghĩ chúng tôi là đồng hương của họ vì thứ giọng lơ lớ ấy. Một gùi chuối chúng tôi đổi được bộ đồ Tô Châu, thậm chí đổi được mấy trăm viên đạn AK. Một quả bí to có thể đổi được cái hăng-gô Trung Quốc hoặc hẳn một ký muối. “Đồng bào bộ đội đoàn kết đổi chác mà”, anh Lâng nói giọng lơ lớ. “Mình ưng có khẩu AK của mấy đồng chí để bắn nhau với thằng Mỹ quá”. “Không được. Bộ đội không đổi vũ khí đâu, cấp trên kỷ luật đấy”, một chiến sĩ nói với anh thế. Và anh ta chỉ vào ba lô, tiếp: “Bộ đội có ảnh em gái văn công đẹp hung, đồng bào có đổi chác không?” - “Có chớ. Tụi mình cũng ưng cái đẹp con gái Kinh chớ”. Nói rồi một bên đem ảnh mấy cô gái ra, bảo người yêu mình đấy, mình tặng đồng chí. Một bên trao luôn cả gùi bí, cười vui phấn khởi vang rừng! Nhưng lần nào sau chuyện đổi chác kiểu ấy, thế nào anh Lâng cũng chèo kéo thêm được khi thì vài viên tăng lực Polyvitamine, lúc vài chục viên đạn AK, khi bánh lương khô hoặc một cái gì đó... Có tiếng súng nhỏ nổ rộ lên phía dưới ấp. Thỉnh thoảng bọn địch lại bắn như vãi đạn một lúc. Nắm được quy luật ấy chẳng có gì đáng sợ. Bằng không, như cánh tôi hồi mới vô, một đêm ba bốn lần giật mình thót tim. Tôi lần dọc theo con suối cạn leo ngược dốc lên. Trời đã tối hẳn nhưng địa hình quen nên tôi tính tiết kiệm pin, chưa vội bật đèn. Bật đèn không khéo bọn địch phát hiện chỉ có nước chui vào hang tránh pháo bầy sớm. Đội công tác chúng tôi chủ yếu nhận lệnh từ trên huyện chỉ thị xuống ấp Cửu An, Cửu Định móc nối với cơ sở nắm tình hình địch, đồng thời lo tổ chức cho đội du kích làng căn cứ Đê Chơ Rang thỉnh thoảng phối hợp đánh một trận “bụp xẹt” trên các ngả đường quanh vùng gây hoang mang cho địch. Chúng tôi xuống ấp gây cơ sở toàn xuống ban đêm, vậy mà anh Lâng cũng tự “gây” cho mình được mối tình với cô Khách, con gái của một cơ sở loại A vùng sâu trong lòng địch. Chuyện này chỉ có tôi và thằng Kiên biết. Cấp trên mà biết thì anh Lâng bị kỷ luật ngay. Nhiều hôm chẳng có việc gì, chẳng có chỉ thị của trên, anh Lâng cũng bảo với anh em, tối nay tôi và đồng chí Bình, đồng chí Kiên xuống ấp nhận tin đột xuất của cơ sở. Ra đến gò Sim sát ấp anh mới nói thực, chúng mày thương anh thì vào ấp với anh, bằng không thì tùy, anh nhớ cô ấy quá không sao chịu được! Chúng tôi ấm ức trong lòng nhưng buộc phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Tất nhiên vào ấp canh gác cho anh gặp nàng, khi quay về rừng thế nào cũng được “hối lộ” vài ký bánh kẹo, vài gói trà Kim Phát và đặc biệt mỗi đứa được “nàng” dúi cho một cái bánh tráng cuốn đầy rau sống và thịt luộc to bằng cổ tay, ăn no hết một ngày! Đôi mắt một mí của anh Lâng cứ nheo tít lại mỗi khi kể về cô Khách. Cô Khách là thợ may, là cơ sở chuyên trách giác ngộ cánh thanh niên chí nguyện của địch. Anh Lâng bảo bao giờ thống nhất anh ở lại đây làm chồng cô Khách, lấy nghề trồng dâu nuôi tằm của quê anh đem vào, sản xuất thật nhiều tơ để bà con BahNar dệt vải thổ cẩm, bán cho dân thành phố. Chợt tôi phát hiện trên vòm đen ngòm của một cây cao có động, và tôi vội nép mình vào gờ đá, chĩa súng lên. Số mình gặp may rồi, tôi nghĩ. Cái bóng đung đưa, đung đua rồi ép sát vào thân cây. Chắc là vượn, dộc hoặc khỉ? Bọn này là chúa hay ngủ trên những vòm cao. Hình như cây dẻ, tôi đoán. Hình như khỉ độc. Bọn vượn độc hay khỉ độc cũng thế, luôn luôn có thói xấu ăn mảnh một mình, chỉ đến khi cần “gái” nó mới mò về đàn. Đấy là lời anh Lâng. Cái bóng đen trên vòm cao hình như cũng phát hiện có động từ phía dưới khi tôi vô tình làm gãy một cành khô nhỏ. Nó có vẻ như đang nhoài xuống, nhưng rồi yên tĩnh trở lại ngay. Tôi thấy nó lại rướn rướn chồm lên, liền kê súng bình tĩnh ngắm. Không bật đèn, tôi nghĩ. Anh Lâng bảo nòi nhà khỉ không bắt đèn. Mình cứ nhắm theo cảm tính, cũng dễ thôi vì nó ở ngay trên cao kia, lại có cái thân cây bàng bạc trắng, chẳng lẽ trật? Trật thế nào được, tôi nghĩ và nín thở, ngón tay trỏ đặt vào cò súng, chuẩn bị nhấn xong nấc một thì nhoáng một cái, từ trên vòm cao “bụp” một tiếng. Liền ngay sau tiếng “bụp” là một quầng lửa phun ra rồi tắt ngấm. Tôi hoảng hồn ngã bật ngửa, cây súng văng sang một bên. Tiếng lá cây, cành cây cùng xác ong bắt lửa rụng xèo xèo. Tôi chồm dậy vồ cây súng vừa run vừa hỏi “ai đấy?” một cách bản năng. Cái bóng đen tụt rất nhanh cùng với một vật to bằng cái bọc võng rơi ào xuống. Tôi đã hiểu chuyện gì vừa xảy ra, nhưng vẫn run cầm cập. Chỉ cần một tích - tắc nữa thôi, nếu tôi siết cò, chắc chắn tôi đã giết chết anh Rin, đội phó đội du kích, bạn thân nhất của anh Lâng trong làng! Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Anh Rin bảo mình đốt ong lấy mật cho lũ bộ đội bệnh xá chữa vết thương với lại nấu chè tết, anh em thương binh nhiều hung mà. Tôi cố trấn tĩnh vẫn không sao hết run. Anh Rin hình như hiểu ý cứ nói liên hồi, lấp cho tôi cái cảm giác khủng khiếp mà tôi đang lâm vào. Chô cha, anh Rin bảo. Mày mà bắn chắc tui chết quá. “Em... em cứ tưởng con khỉ độc”, tôi nói, và sau đó phải cắn chặt hàm răng vào cái khăn mặt để chế ngự cơn run. “Tui cho bộ đội Lâng một nửa”, anh Rin nói và đè tôi xuống, ôm chặt tôi thêm một lúc nữa. Tôi sẽ không còn gì để kể thêm, nếu trận đánh ấy anh Lâng không bị mất tích. Anh Rin về huyện nghe có người nói anh Lâng đi chiêu hồi, vì uất quá đã lấy dao găm tự đâm vào ngực mình để minh oan cho bạn. Nhưng sự thật vẫn là sự thật! Đội công tác cánh Bắc chúng tôi tan rã. Tôi và thằng Kiên được điều về trinh sát Tỉnh đội. Mấy chục năm nay, đêm đêm tôi vẫn hằng mơ thấy anh Lâng và thằng Kiên. Thằng Kiên trước khi chết còn dặn tôi, đừng nghĩ anh Lâng đi theo địch như nhiều người nghĩ. Chắc anh ấy trúng mảnh pháo, chết khi chạy qua suối Dấu rồi. Mãi tới bây giờ, sau hơn ba chục năm câu chuyện mất tích của anh Lâng vẫn chưa ai xác minh được, vì ngay sau khi anh Lâng mất tích thì có tin cơ sở báo ra, cô Khách cũng mất tích luôn! Tôi vẫn hy vọng anh Lâng của tôi còn sống, và tất nhiên không thể có chuyện anh đi chiêu hồi cùng chị Khách. Nhưng rốt cục thì sự thật lại đúng là như vậy. Tôi tình cờ gặp lại họ chỉ mới cách đây một tháng, khi tôi dẫn đoàn nhà báo về căn cứ cũ quay phim chụp ảnh. Anh Lâng nhận ra tôi liền khi chúng tôi vác máy lên rẫy quay cảnh bà con tuốt lúa. Anh và chị Khách về đây ở với anh Rin, với bà con BahNar ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Anh Rin đôi lần muốn lên xã lên huyện minh oan cho bạn, nhưng anh chị nhất quyết không cho. Họ sống với nhau bằng nghề làm nương phát rẫy và bây giờ là làm ruộng lúa nước chứ không phải trồng dâu nuôi tằm. Anh Lâng đã thành ông lão. Ông lão Lâng bảo với tôi rằng, anh chị về đây chỉ cốt lánh mặt, không muốn gặp bất cứ ai tìm mình. Vậy mà đến khi trông thấy mày thì không hiểu sao anh chị lại... Tôi bảo chúng tôi vẫn không tin chuyện anh chị theo địch, dù đó là sự thật. Ông già Lâng nói, bây giờ chuyện ấy cũng nhạt rồi, già Rin đã chết, bà Khách bị sốt rét dữ quá không sinh đẻ được, hai người chẳng có niềm vui nào hơn là đã thành người Bah Nar. Nếu em thương anh chị thì em cứ viết sự thật ra. Tôi vẫn không làm sao hiểu được sự thật của anh là cái sự thật nào? Chỉ một tích-tắc suýt tôi bắn chết anh Rin. Chỉ một tích-tắc, không lẽ cuộc đời anh và chị Khách có bao nhiêu năm tuổi trẻ đều cống hiến hết cho cách mạng lại đơn giản thế thôi ư? Tôi về nhà cứ thao thức mãi, đành lấy bút viết ra cái truyện này. Viết ra rồi tôi vẫn không tin đó là sự thật. Nhưng mà chị Khách bảo kiếm củi ba năm thiêu một giờ, thực ra anh chị không “thiêu”, không “đốt” cái gì hết trơn hết trọi, mà đơn giản chỉ vì anh lúc ấy bị thương nặng quá, bể hết cả bắp chân, không hiểu sao vẫn đủ sức mò vô ấp tìm được chị. Chị nghe tiếng súng biết các anh gặp nguy nên cứ hóng chờ, nào ngờ... Sau khi chữa khỏi vết thương cho anh cả tháng trời trong hầm bí mật, không cách gì tìm mối cơ sở để ra rừng được, đến lúc tìm được mối thì người ta biểu, có ra thế nào cũng bị “lũ em” tức là cánh tôi nghi ngờ, khổ cả hai bên, vì ngoài rừng đã rộ tin anh chị mất tích, nên đành ở lại, đành phải nhờ người anh họ của chị làm nghề chủ thầu xây dựng, một cơ sở nằm vùng lâu năm, ảnh mới trúng thầu xây hí trường cho bọn sĩ quan Mỹ ngay trong căn cứ An Khê, nên có tiền. Ảnh có quan hệ rộng với cả giới nhà binh lẫn công quyền, nên làm cho anh giấy chứng thương phế binh giả của ngụy quân lẹ như trở bàn tay, rồi chuyển anh chị xuống Quy Nhơn sinh sống cũng dễ như chuyện ta rủ nhau đi tắm suối. Sống ở thành phố anh chị đâu có quen nên giải phóng xong, rẹt cái mò về đây bám rẫy, chuyện xưa chuyện cũ nhắc lại, hiểu với nhau cho vui, hà cớ gì phải minh oan minh ủi. - Mình có oan trái gì đâu phải không em? - Dạ. Tôi thành thật không còn ngõ nào để nói thêm nữa. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tiên ngồi khóc[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quế Hương[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ba đứa không có số ký danh lẽo đẽo theo tôi tự tìm chỗ ngồi. Thằng Sơn cắm cúi làm bài. “Chuyên gia phao” Phong loay hoay phù phép. Hắn lôi trong người cuộn tài liệu môn văn thu nhỏ nhưng giám thị không thấy. Thiệt nhà nông với những móng tay cáu bẩn đọc bên tai tôi câu giáo khoa nhưng tôi không chép. Tôi nộp bài. Cô giám thị nhìn đôi mắt đỏ hoe và đoạn bài hoen ố nước mắt của tôi đưa cho tôi tờ giấy: “Chép lại đi! Còn giờ”. Tôi thầm cám ơn cô vì cô không hỏi tại sao em khóc. Tôi về chỗ nhưng không chép lại, nhả đầy trang giấy cô đưa mẩu tin đóng đinh trong hồn tôi: Cứu bạn, ba học sinh lớp 12 chết đuối... Bốn chứ. Kể cả đứa chết cạn. Còn hơn cả chết bởi không vết thương nào âm ỉ đớn đau hơn sự hối hận! Tôi đã đọc đâu đó câu: Con người là một sinh vật có thể đẩy đồng loại của mình vào chỗ chết trong bất cứ tình huống nào. Tôi không rớt tốt nghiệp nhưng ngày thi đại học tôi đi lang thang. Đầu óc tôi là một mớ bòng bong, thi cũng rớt. Tôi cũng không thể ngồi trong giảng đường khi ba đứa giỏi hơn tôi vì tôi mà học với giun dế! Mẹ cố lôi tôi về với cái thời trước cơn mưa với nhiều món cám dỗ: xế mới, những bộ đồ hiệu đắt tiền... Nhưng mẹ không biết rằng sau cơn mưa tôi không còn là con bé Sim ham chơi nữa. Tôi đã là một bà già có số tuổi bốn lần 18! Con Thạch Thảo triết lý: “Sống chết có số. Tụi nó không chết vì cái kính cận của mi rơi xuống hồ hôm đó thì cũng bị xe tông chết ngày hôm sau. Mi tự dày vò cũng không làm chúng sống lại”; “Nếu tao không xuống hồ rửa chân...”; “Thế thì tại cái chương trình học đằng đẵng 12 năm chẳng có môn dạy bơi phòng khi học trò xuống nước. Tại...”; “Thôi!”- tôi hét. Vườn nội mênh mông trống vắng. Những đứa con lớn từ đó, ra đi... Mùi ổi chín, mít chín chỉ gọi chim về. Tôi thường kể cho chúng bạn nghe về khu vườn ấy và hẹn thi xong sẽ kéo về làm khỉ. Thế mà! Tôi gọi điện về nhà. Giọng mẹ đẫm nước mắt. Còn ba bình tĩnh dặn dò. Cả nhà xao xác hoảng loạn khi tôi bỏ thi không về, giờ yên lòng vì tôi ở bên nội. Tôi đi thi. Dáng xiêu đổ. Mắt sâu hoắm. Tôi không chỉ sống cho đời mình mà còn ba cuộc đời nữa vì tôi mà đứt đoạn ở tuổi 18. Chúng bắt tôi ngồi dậy, bắt tôi đi. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ngày định mệnh nắng vàng như mật. Tôi dừng xe trước nhà Thạch Thảo với một bịch đồ ăn: - Rủ nhóm mình lên thung lũng Tình Yêu học sử. Ở nhà học không vô. - Nhưng thằng Thiệt bận làm rẫy. - Tao rủ là hắn đi!- Tôi nghếch mặt nhớ 18 đóa hồng ngậm sương trên thềm nhà vào sớm tinh mơ sinh nhật thứ 18. Khi tôi và Thạch Thảo đến, Thiệt nhà nông đang quần xà lỏn bón phân. Hắn bẽn lẽn chạy vào thay quần dài. Mãi mãi hắn bỏ vồng cải dở dang cho mẹ hắn... Học không bao nhiêu nhưng ăn và cười thì nhiều lắm. Cười cho đến khi cơn mưa đột ngột trút xuống thung lũng. Chúng tôi ở trong rừng thông không nơi trú ngụ. May mà Thiệt nhà nông lo xa. Hắn lôi trong túi xách áo mưa và ô. Bảy năm học chung, thế mà cái giờ duy nhất chúng tôi đứng sát bên nhau dưới cái ô, trong cơn mưa xối xả ấy, hắn ôn cho tôi năm câu sử! [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi ghé vào quán Dã Quỳ, nơi ba tháng trước thằng Sơn chiêu đãi nhóm trong lần sinh nhật 18. Làm sao nó biết đó là sinh nhật cuối cùng! Hôm ấy lần đầu tiên tôi uống cà phê, tim đập thình thịch vì thứ nước đen sánh, thơm lừng. Lần đầu tiên thằng Phong hút thuốc, sặc sụa vì khói. Lần đầu tiên. Lần cuối cùng. Lúc nào cũng có thể vậy. Quán vắng. Chúng ngồi quanh tôi. Gương mặt thông minh búng ra sữa của thằng Sơn phình to, đôi tay chai sần lam lũ của thằng Thiệt bợt bạt, mái tóc model của thằng Phong lềnh bềnh. Tôi đẩy ly cà phê chảy tong tong như máu ứa từ nỗi buồn đen thẫm chạy ra khỏi quán. Con tàu sầm sập tiến vào sân ga nhưng tôi không đủ can đảm về với tụi nó. Tôi mua vé đi miền Trung. Ngực tôi đang đè nặng bởi những giọt lệ không trào và tôi muốn về òa ra trong vườn nội. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ăn xong, nội nhai trầu đưa võng ru tôi như ngày tôi còn bé. Tôi quên cả khóc, ngủ đẫy giấc trong cái mùi khó tả đẫm hương quê. Khi mở mắt, tôi chạm phải ánh nhìn của một con bé gầy nhom như mèo đói ngồi trên cành vú sữa chìa qua vườn nội. - Té chết! Qua đây! Con bé nhìn tôi như ngạc nhiên về lời mời. Còn tôi ngạc nhiên nhìn bức tường chắn mới mọc. Tôi nhảy xuống võng trèo lên cây khế. Vườn ngăn ranh giới nhưng cây hai vườn vẫn kết nhau. Lá cành chạm nhau, rầm rì tỉ tê trong gió. - Bé tên chi? - Tội. - Tên chi? - Tội - nó lặp lại. - Tên chi tội nghiệp rứa? - tôi phá lên cười. Có tiếng chân nội. Con Tội lật đật trụt xuống. Lập tức nó biến mất sau bức tường. - Khế ơi! - Khế là tên nội đặt cho tôi hồi còn bé bởi tôi rất thích ăn khế ngọt. - Khế trên cành nội ơi! - Con gái mà trèo cây như khỉ. Vô ăn khoai! Tôi bê rá khoai bốc khói ra võng. Đang ăn, tôi chợt thấy ba đứa chìa tay. Những bàn tay bợt bạt, nhăn nhúm. Tôi thả rơi khoai, tối sầm lòng. Rồi cơn mưa nước mắt vỡ òa trong nắng. - Lớn rồi mà khóc! - Lớn mới có chuyện khóc! Trèo cây hoài thế? - Cây Vú Mẹ chơi với em - nó khoe. - Sao không chơi với bạn? - Ngoại chưa xin bạn được. - Xin bạn? - tôi phì cười. Một bầy con nít con chú, con bác, con cô ào vào vườn vây quanh tôi. Chúng dắt tôi về thời thơ ấu với trò chơi trốn tìm. Đang trốn, tôi bắt gặp ánh nhìn nặng trĩu khát khao của con Tội trong vòm lá. - Cho nó chơi với - tôi chui khỏi chỗ nấp. - Cho ai? Tôi chỉ lên cây. - A! Con Xiđa. Xiđa là xa đi, xáp gần tao đánh chết!- một đứa bảo rồi nhặt hòn đá ném lên cây vú sữa. Những đứa khác bắt chước. Tôi la lên nhưng chúng vẫn ném. Con Tội lật đật tụt xuống. Nghe như trái mít rụng. Tôi trèo lên cây nhìn xuống. Con Tội ôm cẳng nhăn nhó dưới đất. - Sao chúng mày ác thế? - Trước sau chi hắn cũng chết! - con Thúy tỉnh bơ đáp. Nó còn dặn tôi: - Đừng chơi với hắn lây xiđa chừ! Tụi nhỏ về, con Tội lại trèo lên cây vú sữa nhìn tôi đau đáu. Tôi nhìn lại, vừa thương vừa sợ. - Sợ gì? Tao có bị xiđa đâu mà tao cũng chết! - thằng Sơn hất mái tóc bám rong rêu nhìn tôi. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nội xách giỏ đi chợ, tôi đi theo. Chợ quê thơm mùi rơm rạ. Gì cũng tươi mới, ít ỏi. Bầu bí mới cắt. Mớ tôm cá mới rớ. Chục trứng tươi hồng nằm khoanh trong rơm... Tôi thấy bà Tám cuối chợ. Rổ khế đầy nằm tư lự bên cạnh. - Khế! - tôi kéo áo nội nhưng nội ngó lơ. - Ăn đồ mụ nớ lây xiđa! - Rứa mụ nớ bán cho ai? - Thường phải chợ làng bên. Hôm ni răng rứa không biết... - Mua hoa quả mắc chi mà... - Con rể, con gái bị xiđa chết hết. Mụ đem đứa cháu mồ côi về nuôi. Hắn cũng bị xiđa rứa mà mụ còn cố xin cho hắn đi học. Hắn vô lớp mô, phụ huynh lớp đó rùng rùng tới lôi con về. Rứa là hết học. Hình ảnh mụ Tám ngồi ở góc chợ với rổ khế ế buồn thiu theo tôi trên đường làng yên ả. Nội dắt tôi đi vòng để khỏi ngang qua nhà con Tội. - Nếu cháu bị xiđa nội cũng rứa hả? - Cái miệng ăn mắm! Bởi rứa... tau mới xây bức tường để xiđa khỏi bay qua. - Xiđa không bay, chỉ lây qua đường máu và khi... quan hệ... Cháu học cháu biết. Nội cho con Tội qua chơi đi nội! - tôi nài nỉ. - Không! - Mai cháu về - tôi dỗi. Sợ tôi về, nội cho chúng tôi chơi cách tường. Con Tội mừng lắm. Nó tọt lên cây Vú Mẹ. Tôi leo lên cây khế, còn nội không an lòng đứng dưới đất canh. Tôi giục: - Nội đi chợ đi! Nội xách giỏ đi còn ngoái dặn: - Nhớ đừng quan hệ nghe! Tôi cười suýt té. Ba đứa trên cây cũng ngoác miệng cười. Làm sao tôi cắt nghĩa cho nội hiểu cái chữ chết tiệt ấy. Con Tội không biết chi cũng góp cười. Chỉ có bà Tám đứng dưới đất là góp khóc. Bà chắp tay lạy tôi khi tôi chơi với đứa cháu côi cút, bất hạnh của bà. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lên tám nhưng sống cô lập con Tội không biết chữ cũng không biết gì về thế giới rộng lớn quanh nó. Thấy con Tội khao khát học, tôi nảy ý định dạy nó. Có dịp là tôi tót lên cây khế qua vườn con Tội. Ở đó đứa học trò đầu đời bé nhỏ của tôi háo hức nuốt lia lịa những con chữ viết bằng cành cây trên mặt đất vào bụng. Nó thuộc nhanh bảng chữ cái làm tôi kinh ngạc. Mẹ rất mừng khi qua điện thoại biết tôi không còn câm lặng hay khóc. Tôi bảo mẹ gửi cấp tốc cho tôi bộ sách lớp 1, truyện tranh, truyện cổ... để tôi làm cô giáo. - Khi nào con về? - Con ở với nội hết mùa hè. Khác với thân xác nhỏ bé chứa đầy mầm chết, tâm hồn con Tội là một tờ giấy trắng tinh khôi. Tôi thận trọng in lên đó những sắc màu tươi đẹp của cuộc sống. Khi phải bay ra khỏi cuộc đời này, thiên thần nhỏ bé ấy sẽ chở trên đôi cánh những gì tốt đẹp của trần gian. Tôi thường kể chuyện cổ tích cho nó nghe. Nỗi khắc khoải mơ hồ về thân phận mình khiến con bé luôn đặt câu hỏi. - Đời chừ có tiên không? - Có. - Tiên cứu giúp ai? - Những kẻ tốt bụng, khốn cùng. - Răng tiên không cứu em? Ai cũng bảo em sắp chết. Chết là đi mãi không về mà em thì muốn về kẻo ngoại buồn. Khi tôi đọc chuyện Cái bình nứt con Tội cũng thắc mắc: - Có người nứt không? - Người nứt là người không hoàn hảo, bị khiếm khuyết. - Thế em là người nứt - nó ngẫm nghĩ rồi tuyên bố. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mùa hè ấy qua nhanh. Con Tội biết đọc, biết viết. Còn tôi, vết thương buồn kín miệng. Nỗi đau ở tuổi 18 lấy của tôi sự hồn nhiên và biến tôi thành một con người khác. Tôi thắng con quỉ buồn rầu đeo bám, quyết định học lại thi vào trường y để có cơ hội chuộc lỗi. Con Tội rất thích tôi làm bác sĩ. Nó tin tôi sẽ chữa lành bệnh cho nó đi học. Nó giăng ước mơ khắp cành Vú Mẹ, vẽ lên cả trời xanh. Tôi chưa thấy đứa bé nào nhạy cảm và thông minh như con bé ấy. Dường như khi giam mình trong bệnh hoạn, cô đơn, tâm hồn nó lớn thay cho thể xác. Đêm cuối cùng ở quê, tôi không ngủ được. Vườn nội ngời ngợi trăng. Chỉ có trăng quê mới hào phóng lai láng thế. Ba bạn tôi đứng ở sân, múc từng gáo trăng dội lên nhau cười khanh khách. Lần đầu tiên tôi thấy chúng không hiện lên với bộ mặt đau khổ, oán hờn. Cây Vú Mẹ lá cành rung động. Tôi nghe tiếng đập muỗi lép bép. Thì ra con Tội đang ngồi trong bóng tối nhìn qua. Nó biết ngày mai tôi đi... [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi thi đỗ vào trường y nhưng quên phắt con Tội. Khi tôi về thăm nội, con bé láng giềng tội nghiệp đã đi xa. Bà Tám lập cập trao cho tôi tờ giấy nhàu nhò bò lổm ngổm một hàng chữ to đùng sai chính tả: em gặp tiêng rồi tiêng đeo gươn trèo cây như khỉ tiêng trèo lên cây khế ngồi khóc. Trên cành Vú Mẹ, bốn đứa hái hoa nắng ném nhau. Năm chứ! Cả con Sim 18 hồn nhiên, lắm tội. Chúng chơi trong im lặng. Không tiếng. Không hình. Không màu. Nhưng tôi vẫn thấy bởi chúng trong lòng tôi đi ra... [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tiếng nổ sau chiến tranh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đinh Đình Chiến[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chơi thân với An nhưng ba tháng sau tôi mới biết cháu không còn bố. Ba An mất khi má có bầu tám tháng. An không biết mặt ba. Bây giờ hai má con ở với nội. Má An làm thợ may. - Chú Thắng - một lần cháu hỏi tôi - nếu má cháu đi lấy chồng, cháu có khổ không hở chú? Tôi ngơ ngác: - Sao cháu lại hỏi thế? - Cháu hỏi cho biết. - Cũng có lúc khổ lúc sướng. Tôi trả lời chung chung. - Nếu má cháu lấy chồng, nội sẽ mất cháu! Tôi sợ hãi: - Tại sao ở cái tuổi ấy cháu đã có những ý nghĩ đau lòng như vậy? Ai nói với cháu như thế? - Cháu nghe bà nội nói với ông như thế. Thực tình những loại chuyện như thế tôi không am tường lắm, không dám giải thích, tôi chỉ động viên cháu chung chung. Ngày hôm sau nữa An ỉu xìu, làm mấy bài toán sai hết. Tôi hỏi, An kể: - Tối qua đang ngủ chợt thức, cháu nghe má cháu khóc. Cháu hỏi, má nói má buồn. Má muốn đi học lớp sư phạm cấp tốc sắp tới. Các bác trên xã biết má học xong tú tài muốn vận động má đi vì hiện nay xã đang thiếu giáo viên. Nhưng bà nói không đồng ý. Bà nói dạy tháng mấy đồng bạc ăn gì... Câu chuyện An kể trở nên nghiêm trọng làm tôi ái ngại. Đáng lẽ ở tuổi cháu nên tránh những chuyện buồn phiền như thế... Mười hai năm nay má An ở vậy thờ chồng nuôi con. Gia đình nhà chồng nghe nói còn nặng đầu óc phong kiến. Ông bà sợ má An đi đây đi đó giao thiệp rộng quen biết nhiều mà "lửa gần rơm lâu ngày cũng bén". Nếu Hiền đi lấy chồng con theo mẹ, ông bà mất cháu... Và những mắc mớ trong gia đình đã lây sang ý nghĩ của thằng bé. Một hôm đang chăn bò, An bị trúng gió, mấy đứa trẻ đưa An vào phòng tôi, lấy dầu đánh gió. Trưa đó An khoẻ. Tôi không cho cháu về. Ngoài sân hai con bò thản nhiên gặm cỏ, ban sáng tôi nhờ mua được mấy bó rau muống, ít măng và dăm khuôn đậu phụ. - Chú Thắng ở một mình có sợ không? Cháu thì cháu sợ lắm. Cháu cũng chưa bao giờ nấu cơm. Nội nói con trai xuống bếp lú lẫn học dốt, phải thế không chú? Thằng bé nói huyên thuyên. Trẻ con ở tuổi mười hai mười ba vậy đó, nhưng ở nhà mấy khi An được cởi mở vậy đâu vì ông bà nội, cả má nữa không hợp với An. Tôi trở thành chỗ tin cậy cho An dốc bầu tâm sự. - Dọn chén bát đi chú bé, lấy tô múc canh, cơm sắp chín rồi đây. Tôi cúi người thổi phù phù vào mấy hòn than cho cơm nhanh chín. Đột ngột An hét tướng lên: - Má, chú Thắng ơi, má cháu đến! Ngước lên, trước mắt tôi người phụ nữ có khuôn mặt đẹp, dễ thương rất giống An. Nhìn chị không thể biết chị đang ở tuổi ba mươi mà trẻ hơn tôi tưởng rất nhiều. Chi chào tôi rồi sẽ sàng ngồi xuống ghế, ôm con vào lòng. - ở nhà nghe mấy đứa nhỏ nói lại, ba má tôi lo cuống lên. Trưa không thấy cháu về lại càng lo.. . Gia đình tôi mang ơn anh - Sao chị lại nói thế? Tôi lúng túng một cách kỳ lạ - Anh nói vậy, ai sống trong hoàn cảnh gia đình tôi mới hiểu được cái ơn cái nghĩa ấy. Chị lặng đi trong nỗi xúc động. Chị quay sang trách con nhưng nửa như để giấu đi sự lúng túng của mình: - Con không về làm nội với má hết cả hồn. - Tại chú Thắng đó mà, chú không cho con về. Chú nói ở lại với chú ăn cơm cho vui. Mà.. . con cũng muốn ở lại. - An cười rất ngây thơ. Rồi chú như nửa muốn giới thiệu nửa như muốn khoe với má làm tôi phì cười. - Má! Đây là chú Thắng, chú Thắng mà con hay kể với má nghe đó. Chị Hiền gõ vào trán con, vẻ ngượng nghịu. - Giờ mời chị ăn cơm với chú cháu tôi. Nói rồi tôi quay sang An: Cháu lấy thêm chén đũa mời khách nhé. An đi lấy thêm chén, miệng chúm chím cười. Bữa cơm so với xưa nay khá chu đáo. Suốt bữa ăn má An ngồi nhìn chú cháu chúng tôi. - Anh ở đây có một mình? - Chị hỏi. - Vâng, làm việc thì đông nhưng hết giờ họ về nhà riêng hết. Chị à, dùng cơm đi. - Có hai chú cháu sao anh nấu nhiều cơm thế - Tôi thường nấu một bữa ăn hai. Buổi chiều mong cho xong việc chỉ kịp khoá cái ngăn tủ là chạy ra sân banh với mấy chú nhỏ. - Anh mê bóng đá lắm nhỉ? Cháu về lúc nào cũng khoe và kể về anh... Bữa cơm chúng tôi qua nhanh. An xin phép má ở lại chiều chăn bò luôn. Hiền chào tôi ra về phần vì lý do công việc, phần vì ngại ngồi lâu. Sau đó ít ngày, vào buổi trưa tôi vừa dứt cơn sốt đang tìm nước uống thì nghe gọi. - An phải không? Vào đi cháu! - Chú Thắng ơi, nội cháu ra thăm chú. An nhanh nhảu giới thiệu: Đây là chú Thắng nội ạ. Bà cụ một tay xách nải chuối, tay kia xách chiếc túi nhỏ. Đặt các thứ lên bàn cụ vào thẳng chuyện: - Nghe cháu kể nhiều về chú giờ mới ra thăm chú được. Tôi ra để cảm ơn chú về việc hôm trước. - Trời đất, bác tính chi chuyện đó! An với cháu là chỗ thân quen, có An cháu thêm vui đó bác. Trưa nắng thế này mà bác phải ra đây! - Chú ạ, đã có cái ơn cái nghĩa xa mấy tôi cũng ra cho đến nơi. Ông nhà tôi cũng định ra thăm chú mấy lần, nói chú thứ lỗi, thực tình chưa có dịp... Thế bên chú ông bà có khoẻ không? - Dạ cháu chỉ còn mẹ. Mẹ cháu đang ở với anh cháu ngoài Huế. - Chú mấy cháu rồi, cô ở đâu? Tôi cười thành thật: - Cháu chưa có gia đình, bởi cháu đi đây đi đó nhiều nơi, không có điều kiện. Mà lấy vợ khó quá bác ạ. Bà cụ cười: - Nói vậy, người như chú nhiều có mến lắm đó. Mà một lấy hai lấy ba mới khó, một lấy một xưa nay là lẽ thường. Chỉ tại chú kén quá. Nói đoạn cụ thân mật hơn: - Chú thế là muộn, thằng Hải con tôi có vợ năm mười chín có con năm hai mươi. Con Hiền sinh thằng An năm mười tám... Ngồi chơi một lúc bà cụ ra về. Ra đến cửa còn nhắc đi nhắc lại chiều mai đến dự buổi liên hoan cho Hiền đi học - Chú nhớ chiều mai nhé. Tôi thì không muốn cho má thằng An đi, từng đó tuổi còn bon chen làm gì, nhưng ông nhà tôi và mấy chú trên xã động viên riết rồi cũng phải xiêu. Ông nhà tôi còn cho tôi là lạc hậu. Nói có trời, mình thương con thương cháu mình nghĩ vậy thôi... Thôi tôi về, chú nhớ chiều mai nhé. Hôm sau tôi đến nhà theo lời mời. Ngôi nhà khang trang được rào dậu cắt tỉa công phu. Đây là ngôi nhà nề nếp nho giáo, nhưng có vẻ gì đó nghiêm khắc. Ngôi nhà không phù hợp với lối sống của An nhưng có lẽ phù hợp với Hiền hoặc Hiền đã cố ép mình để sống cho phù hợp với khuôn nếp tạo nên của gia đnh. Trong bữa tiệc, Hiền không ngồi vào bàn, chị lo tiếp thức ăn, nhưng đọc trong đôi mắt to đen sâu thẳm của Hiền tôi thấy đôi mắt ấy toả ra tia sáng tràn trề hạnh phúc. Hiền đi học, An xa má nhớ má cậu ta càng gắn bó với tôi, thường ở lại ngoài trạm với tôi nhiều hơn. Ông bà nội cũng thương và rất chiều cháu. Thời gian qua nhanh, Hiền về dạy học ở trường làng sau mười hai tháng học sư phạm cấp tốc. An một buổi đi học, một buổi chăn bò. Nhiều lúc vắng cháu tôi nhớ nôn nao, lâu lâu phải tìm vào nhà An cho đỡ nhớ. Một buổi trưa nằm bên tôi dáng tư lự, An hỏi tôi: - Chú Thắng, rồi chú có chuyển công tác đi nơi khác không? Tôi giật thót người, không hiểu căn cớ gì mà An hỏi tôi câu đó, cái câu hỏi đã âm ỉ mấy năm nay. Tôi băn khoăn nhìn An, cặp mắt chú bé làm tôi hiểu tôi phải trả lời như thế nào. Thực tình tôi chỉ trả lời cho đôi mắt ấy chứ không phải trả lời cho câu hỏi. Tôi lắc đầu mỉm cười đưa tay quàng ngang người cháu - Chú không đi thực chứ? Mắt An sáng lên long lanh: Vây mà má cháu nói thế nào chú cũng chuyển đi. Tôi ngạc nhiên, câu chuyện có liên quan gì đến má An? Tôi tò mò: - Má cháu nói sao? - Hồi hôm, má cháu hỏi cháu nếu chú Thắng đi con có buồn không? Cháu cãi với má là nhất định chú khóng đi. - Tại sao cháu biết chú không đi? An không cười, nét mặt nghiêm trang: - Cháu cũng không biết tại sao nữa nhưng tự nhiên cháu nghĩ chú sẽ không đi... và cháu đã đúng phải không chú? Trầm ngâm một lúc An nói tiếp: - Hồi đêm má cháu còn hỏi con thương chú Thắng nhiều hơn hay thương má nhiều hơn. Cháu nói cháu thương cả hai người, ai cháu cũng thương. Tôi cười trước câu chuyện của An: - May mà cháu trả lời thế. Nếu cháu nói cháu thương chú nhiều hơn chắc má cháu ghét chú lắm. An giãy nảy: Không! Má cháu rất thương chú. Như để chứng minh cho câu nói của mình, An tiếp: Má cháu hay hỏi chuyện về chú lắm. Thế đó, sự vô tình của An làm tôi xúc động.Chẳng hiểu sao lần chuyện trò ấy tôi bắt đầu suy nghĩ nhiều về Hiền... - Chú Thắng, hôm qua cháu nghe bà nội nói với ông: Má thằng An dạo này khác lắm. Ông cười bảo: Bà khó tính quá đó, con Hiển đi dạy nó sửa soan tí chút cũng được chứ sao. Bà cãi ông: Tôi nói khác là khác chuyện khác. Ông cười: Tôi biết bà muốn nói gì rồi, nếu như có đám nào vừa ý nó thì tôi với bà phải đứng ra lo cho nó chứ sao, đáng lý nó phải lấy chồng từ mấy năm trước... - Má cháu định lấy ai? Tôi hỏi giật giọng. Không ngờ từ miệng tôi lại thốt ra câu hỏi lạ lùng đó. Thì ra tình cảm của tôi và Hiền đã đi xa hơn ý nghĩ thường ngày - Cháu cũng đâu có biết, mà cháu cũng không cho má cháu đi lấy chồng đâu. Bà nội cũng không muốn. Bà nói má muốn đi đâu thì đi nhưng phải để cháu ở lại với ông bà. Giọng An như sắp khóc: Cháu không muốn xa má, cũng không muốn xa nội. Tội nghiêp cháu tôi còn ngây thơ, khờ dại. Còn Hiền quá khắt khe với bản thân mình. Ông bà vì quá thương cháu mà đâm ra ích kỷ. An thiếu tình cảm của một người cha. Đến bây giờ tôi mới tự giải thích được trên nét mặt ngây thơ rất đẹp của cháu có những nét buồn bất chợt. Câu chuyện của An là tình huống có vấn đề làm tôi nhiều đêm trằn trọc. Hơn nữa tôi không giấu được lòng mình, tôi đã yêu Hiền. Những ngày cuối cùng của năm học không gian như chững lại. Cái kim dài trên chiếc đồng hồ nài nỉ tích tắc kéo chiếc kim ngắn nhích lên từng chút một, từng chút nột. An bận thi suốt cả tuần nên tôi nhớ nó quá. Bây giờ với tôi An là nỗi nhớ gấp đôi. Bởi có An tôi mới có tin tức của Hiền. Hơn nữa, qua An tôi mới tìm được những nét dễ thương của má nó, tôi cũng khuây khoả chút ít vấn vương. Ăn cơm chiều xong tôi uề oải ngồi nhìn mưa. Dưới hàng hiên những chiếc bong bóng thi nhau trồi lên nổ tí tách. Phía ngoài xa, dưới hồ chứa tiếng ễnh ương đều đều vọng lên buồn bã. Không gian rộng, âm thanh bi đát quá mỏng chơi vơi lơ lửng giữa cánh đồng quạnh quẽ. Tôi càng thấy thấm thía nỗi cô đơn của mình. - Chú Thắng! Thằng An bị thương. Hai đứa nhỏ ướt như chuột lột đến từ lúc nào thi nhau hét vào tai tôi. Tôi giật mình hoảng hốt. Sau một phút bàng hoàng tôi khoác đại chiếc áo lên người băng vào làn mưa. Trời chập choạng tối, tôi đến nhà An, nhà vắng hoe. Thấy tôi bà cụ oà khóc: - Chú ơi... thằng cháu tôi, tôi đã giữ cháu ở nhà. Chiều nay đi thi về còn sớm nó đòi ra thay cho ông về kẻo lạnh. Trời xui đất đẩy An ơi, cũng tại bà cả... - An ở đâu rồi bác? - ở trên trạm xá chú ạ! Tôi an ủi bà cụ rồi vội vã ra đi. Con bò mẹ mất con thoáng thấy bóng tôi rống lên thảm thiết. Tại phòng cấp cứu của trạm xá người rất đông. Không khí căng thẳng. Thằng bé yếu lắm rồi, sợ không qua nổi. Hình như nó đang chờ ai. Nghe câu nói tôi lạnh toát cả người, lấy hết sức cố chen vào trong. Tôi đến gần An. Hiền phờ phạc gục đầu bên con nấc nghẹn. Thấy tôi, đôi mắt Hiền mấp máy những âm thanh tả tơi nát vụn. - An... cháu đang mong anh. - An ơi! Chú đến với cháu đây. Nghe gọi An từ từ mở mắt, đôi mắt đờ đẫn vô định. Khi thấy tôi đôi mắt chợt sáng lên. Bàn tay An chới với nắm tay tôi. - An ơi, chú đây mà. An kéo tay ra hiệu cho tôi cúi xuống. Cặp môi khẽ động đậy, tiếng An đứt quãng: - Chú... thương má cháu với. Cháu không muốn má cháu lấy... chồng... An lịm dần. Bàn tay cháu băng lạnh trong tay tôi. - An ! Cháu đừng chết, An ! Tôi gào lên ôm chặt thân hình lạnh ngắt của An. Chơi vơi trong đớn đau đổ vỡ tôi oà khóc mặc dầu trong tiềm thức tôi vẫn còn một góc tỉnh táo để tôi hiểu rằng bây giờ tôi là chỗ dựa của hai ông bà đau khổ, của một người phu nữ bất hạnh, tôi phải cứng rắn lên. Vẫn biết vậy, nhưng nỗi đau quá bất ngờ đã làm tôi kiệt sức... Ba ngày sau khi mở cửa mả cho An, Hiền ngồi lặng bên mồ con, không khóc. Khuôn mặt Hiền gầy rạc, cặp mắt to khô lạnh đau đáu nhìn đâu đó trong cõi hư vô. Tôi nghiệp Hiền phải chịu hai lần tang tóc của con và của chồng... Một cơn gió lạnh thoáng qua, tôi đến bên Hiền: - Hiền ta về thôi, trời sắp tối rồi. Hiền đứng lên sau mấy lần tôi giục, bước như một cái máy, lặng lẽ vô hồn. Một tia chớp loé lên kéo theo nhưng tiếng sấm rền rĩ ngang lưng trời. Tôi cố dìu Hiền đi nhanh hơn để kịp tránh cơn giông đang sắp sửa kéo đến.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tiếng thở thời gian[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Đình Tú[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Năm đó chúng tôi học lớp 9. “Chúng tôi” tức là tôi, thằng Hoàng và thằng Dương. Trường chúng tôi học là trường dân lập bán trú. So với bạn bè cùng lứa thì ba đứa chúng tôi đã là những "chàng trai " thực sự dù chưa ai bước qua tuổi 15. Chúng tôi đều cao một mét sáu. Đều là con cái của những gia đình khá giả. Đều mê thể thao. Đều thích ca nhạc và hâm mộ những ca sĩ trẻ người miền Nam. Cả ba chúng tôi đều tham gia fan club (Câu lạc bộ những người hâm mộ) một nam ca sĩ rất trẻ đẹp và từng đóng phim. Tất nhiên, phải nói thêm một điều này nữa, cả ba chúng tôi đều đẹp trai. Chúng tôi ý thức được sự đẹp trai của mình bắt đầu từ khi để ý đến mái tóc. Sáng nào tôi cũng gội đầu và vuốt keo bọt lên tóc rồi mới đến trường. Buổi trưa chúng tôi ăn ở trường. Buổi chiều chúng tôi chơi thể thao xong rồi mới về nhà. Ngôi trường đó phù hợp với những cậu thiếu niên, còn chúng tôi, thật không may lại lớn nhanh trước tuổi! Và những phát sinh tình cảm cũng trở nên phức tạp hơn. Chúng tôi thích xem những bộ phim về tình yêu của Hàn Quốc. Dù ít dù nhiều những mối tình kiểu xinê ấy cũng tác động đến những cậu nhóc cao một mét sáu như chúng tôi. Đây chính là điều làm cô giáo Huệ Huệ, chủ nhiệm lớp, phải nhiều phen phiền hà với đám học sinh tuổi mới lớn của mình. Học kỳ một năm ấy thằng Hoàng và thằng Dương thông báo với tôi rằng chúng nó đều yêu em Lan ở lớp 9B. Em Lan hẹn chúng nó buổi chiều, sau giờ học cả hai lên lớp em Lan để quyết định vấn đề em Lan sẽ thuộc về ai. Tôi cũng được mời với tư cách là người làm chứng và nếu có thể thì sẽ là trọng tài phân xử đôi bên. Cả buổi học hôm ấy tôi để ý thấy nét mặt của hai cậu bạn tỏ ra căng thẳng. Hết giờ học chúng tôi lên tầng ba. Em Lan đang ngồi chờ trong phòng học. Chúng tôi khép cửa lại. Em Lan nói luôn: - Hai bạn đều bảo là yêu tớ phải không? Bây giờ tớ muốn xem cách thể hiện tình cảm của các bạn thế nào? Qua cách thể hiện ấy, bạn nào chứng tỏ yêu tớ hơn, tớ sẽ yêu bạn đó. Thằng Hoàng và thằng Dương đều tỏ ra lúng túng. Tôi bỗng cảm thấy hồi hộp. Dẫu sao thì chúng tôi cũng chỉ là những chú nhóc lộc ngộc mà thôi. Cái mà em Lan gọi là “Hai bạn đều bảo yêu tớ” chẳng qua chỉ là những trò diễn trên giấy dưới hình thức những mẩu thư nhét trong góc ngăn bàn. Cũng như việc chúng tôi vẫn thường hý hoáy vẽ hình trái tim có mũi tên xuyên qua vào những giờ học trên lớp nhưng có biết gì về cái gọi là nỗi đau tình ái đâu! Hoặc những câu đại loại như Lạy Chúa! Con biết yêu là có tội, nhưng con xin suốt đời có tội để được yêu! thì trong sổ tay của cô cậu học trò nào mà chẳng có. Nhưng tôi cam đoan chẳng ai biết Chúa là gì và cũng chẳng ai dám nói đến chữ “yêu” trước mặt thầy cô giáo và phụ huynh bao giờ. Bởi chúng tôi vẫn là những đứa trẻ. Ngốc nghếch và sợ sệt đủ điều. Thế mà bây giờ thằng Hoàng và thằng Dương phải biến cái mớ lý thuyết tình yêu chắp vá của chúng nó thành hành động cụ thể. Em Lan đang đứng giữa lớp chờ đợi hành động của chúng nó một cách thách thức. Đã lỡ lên ngựa rồi, không thể không phóng đi. Thằng Hoàng nhìn thằng Dương. Thằng Dương nhìn lại ra điều thách đố. Thằng Hoàng có vẻ như lấy can đảm, tiến đến chỗ em Lan và “thơm” vào bên má trái của “người đẹp”. Sau hành động đó đôi môi của thằng Hoàng mấp máy: “Tớ yêu bạn!”. Em Lan vẫn đứng yên không nhúc nhích, hai hàm răng trắng vẫn tiếp tục nghiến không mệt mỏi vào miếng kẹo cao su. Thằng Hoàng lùi ra, coi như đã xong phần thể hiện của mình. Tôi thấy mồ hôi rịn ra trên trán thằng Dương. Miệng nó cũng đang nhai kẹo cao su. Rồi nó nhổ kẹo đi và tiến những bước dứt khoát tới trước mặt em Lan. Nó quỳ sụp xuống như kiểu các võ sĩ đạo Nhật Bản quỳ trước sư phụ. Đầu nó từ từ ngẩng lên. Mắt nó nhìn em Lan và miệng nó nói: “Tôi yêu em!”. Rồi nó từ từ đứng dậy và định gắn môi mình vào hàm răng trắng đang nhai kẹo của “người đẹp”. Bỗng cánh cửa bật mở. Cô giáo Huệ Huệ xuất hiện khiến tất cả chúng tôi sợ hết hồn. - Các cô cậu làm gì thế này? - Thưa cô, con... - Thưa cô, con... Chúng tôi đều lúng túng, mắt đảo quanh xem có chỗ nào chạy được thì chạy, chui được thì chui nhưng cửa sổ từ tầng ba không thể nhảy, nền nhà dưới chân cũng không thể nứt. Chúng tôi rúm ró một cách thảm hại. Cả bọn líu ríu theo cô giáo xuống văn phòng. Sau khi nghe tường trình lại đầu đuôi sự việc, cô Huệ trao trả em Lan lại cho cô chủ nhiệm lớp 9B. Còn ba thằng chúng tôi, cô bảo: “Bây giờ cô gọi điện cho phụ huynh của ba con đến đây phản ánh lại sự việc vừa rồi, các con thấy thế nào?”. Thằng Hoàng và thằng Dương cúi gằm mặt xuống không dám nói một câu. Tôi biết là chúng nó rất sợ. Chúng nó sợ thì đúng rồi, còn tôi có làm gì đâu mà cô lại đòi mách bố mẹ tôi? Tôi bảo: - Thưa cô, con chỉ được mời làm chứng thôi, con xin cô đừng báo cho bố mẹ con biết. Con không tham gia vào những vụ như thế này nữa ạ. Cô Huệ hỏi: - Các con có biết năm nay các con bao nhiêu tuổi không? Cả ba chúng tôi cùng đồng thanh: - Dạ biết ạ! - Tuổi ấy mà dám nói chuyện yêu đương được sao? Sang năm các con thi vào cấp ba. Sau đó các con còn vào đại học. Tốt nghiệp đại học lúc ấy mới là người trưởng thành. Việc của các con bây giờ là phải học cho tốt. Bất kỳ điều gì ảnh hưởng đến học tập đều không được phép làm. Tình yêu là chuyện của người lớn, các con không nên nghĩ đến điều ấy mà chỉ nên nghĩ đến tình bạn thôi. Cô nói như thế, các con thấy có đúng không? - Dạ, đúng ạ. - Bây giờ các con về nhà. Cô sẽ giữ chuyện này đến khi nào thích hợp sẽ trao đổi với bố mẹ các con. Nhưng phải hứa với cô là không để chuyện này tái diễn nữa nghe chưa? Chúng tôi thở phào. Nhưng dù sao thì sự việc ấy cũng như một cái án lưu, lúc nào cũng treo lơ lửng trên đầu. Trước đây chúng tôi sợ cô Huệ Huệ một thì bây giờ sợ lên gấp mười. Cô Huệ Huệ 36 tuổi, chưa có chồng. Cô khá đẹp và duyên. Cô là giáo viên dạy giỏi môn toán. Cô còn viết truyện, làm thơ nữa. Cô ở một mình trong khu hộ độc thân phía sau trường. Cô có rất nhiều người đến tìm hiểu nhưng chẳng hiểu sao vẫn chưa lấy chồng. Sau sự kiện em Lan, tôi có dịp gần gũi cô hơn. Cô tặng tôi một quyển truyện do cô viết in ở nhà xuất bản Trẻ. Cô bảo đó là tác phẩm được giải trong cuộc vận động sáng tác văn học tuổi hai mươi, hợp với lứa tuổi mới lớn. Tôi đọc thấy rất thích. Tôi đưa cho cả thằng Hoàng và thằng Dương cùng đọc. Thỉnh thoảng cô còn đọc thơ cho chúng tôi nghe. Em biết không tất cả đã xa rồi, trong tiếng thở của thời gian rất khẽ... Cô hay đọc bài thơ có hai câu mở đầu như thế. Tôi đã yêu bài Chiếc lá đầu tiên của Hoàng Nhuận Cầm chính từ giọng đọc của cô. Dường như cô đã kéo chúng tôi lại gần với văn chương hơn. Nếu thiếu nghệ thuật, những thể xác cao lớn sẽ trở nên lệch lạc, không ít lần cô nói với chúng tôi như thế. Tất nhiên, ngày đó chúng tôi chưa hiểu lắm những lời cô nói. Tôi để ý thấy có một người đàn ông bảnh bao, sạch sẽ thường đến với cô. Cô giới thiệu với chúng tôi đó là bác sĩ Toàn. Bố mẹ tôi bảo chắc lần này cô sẽ lấy chồng. Chồng cô sẽ là người đàn ông tên Toàn đó. Chúng tôi không quan tâm lắm đến việc cô lấy chồng. Đó là việc của người lớn. Và chỉ có những người lớn như phụ huynh chúng tôi mới quan tâm đến điều đó thôi. Chẳng mấy chốc chúng tôi bước vào kỳ ôn thi cuối cấp. Hôm đó bộ ba chúng tôi ra sân chơi bóng ma. Sân trường vẫn còn xâm xấp nước vì trời vừa đổ một cơn mưa rào. Hoa phượng đã bắt đầu nở. Cuối buổi chiều nên học sinh đã ra về hết. Bỗng chúng tôi nhìn thấy một cô bạn cùng khóa đang dắt xe đạp ra phía cổng. Cô bạn mặc áo dài trắng, phía trước giỏ xe có một cành phượng vừa bẻ. Tôi bảo với Hoàng và Dương: “Kìa, hãy chơi bóng ma với cô bé kia đi!”. Thế là chúng tôi đá bóng về phía cô bạn nữ sinh cùng trường. Ba đứa chúng tôi dùng bóng đan thành một vòng tròn nhốt chặt cô bạn ở phía trong. Cô bé sợ hãi, cứ co rúm người lại bên chiếc xe đạp. Nhiều lần bóng tạt qua người cô gái, khiến cô giật mình, hoảng hốt. Chúng tôi cười vang thích thú. Chiếc áo dài trắng đã lấm tấm bẩn. Và quả bóng lại tiếp tục lao về phía cô bé. Lần này thì quả bóng chạm đúng bánh trước của chiếc xe đạp. Cành phượng bị hất tung lên. Cô bé vội đưa tay ra giữ lấy cành phượng và thế là chiếc xe đổ kềnh ra sân trường. Cô bé vừa muốn giữ hoa lại vừa muốn giữ xe, vì thế trở nên luống cuống và bị xe kéo ngã xoài xuống đất. Chúng tôi đã nhận ra giới hạn của trò đùa. Tôi định chạy lại phía cô gái để nâng cô ta dậy nhưng cô Huệ Huệ đã lại xuất hiện rất kịp thời. Cô nhặt cặp sách, dựng xe cho học sinh nữ kia lên rồi nói điều gì đó nhưng cô bé lắc đầu không nghe. Cô khóc rấm rứt rồi tất tả dắt xe ra cổng trường, leo lên đạp thật nhanh. Cô Huệ Huệ bước về phía chúng tôi. Cô bảo ba đứa chúng tôi đứng xếp hàng ngang trước mặt cô. Và cô vung tay lên tát liên tiếp vào những bộ mặt học trò lấm lem đất cát của chúng tôi. Tôi chưa kịp cảm nhận được cái đau từ sự giận dữ của cô thì cô bỗng ôm mặt khóc nấc lên. “Sao các con ác thế? Một cô gái trong tà áo trắng đẹp như thế, những bông hoa phượng đầu mùa đẹp như thế, mà sao các con nỡ nã bóng vào đó? Phỉ báng cái đẹp thì làm người làm gì? Các con có thể không làm ông này, bà nọ, có thể không thành đạt, có thể chỉ là những người bình thường nhưng các con nhất thiết không được tàn nhẫn với cái đẹp. Làm nhà giáo cô chỉ mong điều ấy thôi. Các con làm cô thất vọng quá!”. Tôi cứ nghĩ cô sẽ bắt chúng tôi làm bản kiểm điểm hoặc nặng hơn thì sẽ mời phụ huynh đến gặp. Nhưng cô đã bỏ qua cho chúng tôi chuyện ấy. Hôm sau cô có gặp riêng tôi và bảo: “Hôm qua cô tát các con có đau không? Đừng giận cô nhé. Con nên thay mặt cho cả nhóm đến gặp bạn gái đó xin lỗi, đừng để cô giáo chủ nhiệm bên ấy đưa vấn đề ra Ban giám hiệu sẽ không hay”. Tôi thầm cảm ơn cô và làm đúng như lời cô dặn. Cô bé đó có tên là Phượng. Thảo nào cô ta nâng niu cành phượng thế! Tôi đã làm cho cô ta quên đi trò nghịch ngợm của chúng tôi. Và khi vào cấp ba, cô bé đó còn là bạn thân của tôi nữa. Vào cấp ba, hầu như chúng tôi không còn có dịp gặp lại cô giáo Huệ Huệ. Đã có lúc chúng tôi quên cô. Vào đại học tôi học chuyên ngành khảo cổ. Thằng Hoàng học mỹ thuật ở Nga, còn thằng Dương học quản trị kinh doanh ở Úc. Một hôm thằng Dương e-mal cho tôi, nói rằng: “Vô tình được đọc một cuốn sách của cô Huệ Huệ do một người bạn cùng trường mang từ Việt Nam sang”. Rồi nó bảo tôi nên quay lại trường cũ thăm cô giáo Huệ Huệ. Nghe lời nó tôi tìm đến cô Huệ Huệ. Cô rất mừng mặc dù phải sau một lúc lâu mới nhận ra tôi. Cô gọi tôi là “em” nhưng tôi vẫn xưng “con” với cô một cách lễ phép như thời còn đi học. Tôi thưa với cô rằng cả ba chúng tôi đều chưa có người yêu vì tất cả còn mải học tập. Cô cười khi nghe tôi nhắc lại chuyện thằng Dương và thằng Hoàng đã từng thể hiện “tình yêu” với em Lan như thế nào. Đúng là trẻ con quá! Cô vẫn chưa có chồng. Cô vẫn yêu thơ và lại đọc cho tôi nghe bài Chiếc lá đầu tiên. Từ ấy thỉnh thoảng tôi ghé qua chơi với cô. Tôi và cô nói chuyện với nhau có nhiều điểm tương đồng. Có lần tôi đưa cả Phượng đến chơi. Chúng tôi vẫn là những người bạn tốt của nhau. Một lần tôi hỏi cô về bác sĩ Toàn. Cô bảo: “Người ấy bỏ cô vào cái ngày trời đổ mưa rào và cây phượng sau trường bắt đầu nở những bông đầu tiên. Cô đau khổ quá, chạy ra ngoài nhưng chẳng biết đi đâu, đang lang thang trên sân trường thì nhìn thấy các em đá bóng tới tấp vào người một bạn nữ sinh cùng khóa. Hôm ấy tôi đã tát các em. Đó là cái tát vào những bộ mặt đàn ông đẹp đẽ mà không bao giờ chịu thuộc về cô. Có lẽ đó là những cái tát chất chứa tất cả sức mạnh của cô. Tối hôm ấy về cô thấy đau dại cả cánh tay. Hôm sau nhìn các em cô thấy mình có lỗi. Cũng may là các em còn trẻ quá, chẳng nhận thấy điều gì đằng sau cái tát của cô”. Cô đã bước sang tuổi bốn mươi ba rồi. Cuối cùng thì ông trời cũng đã đền bù cho cô. Một người đàn ông là tiến sĩ về văn hóa dân gian đã đến xin hỏi cưới cô. Cô thông báo cho tôi là có thể cuối năm cô sẽ lên xe hoa. Tôi mừng cho cô nhưng cuối năm trôi qua vẫn không thấy cô gửi thiếp mời. Nhân tiện có thằng Hoàng về nước, tôi rủ nó đến chỗ cô. Hàng xóm bảo cô đi an dưỡng. Chúng tôi vào viện điều dưỡng thăm cô. Cô nằm buồn bã. Thấy chúng tôi, cô bật khóc. Cô bảo: “Các em đẹp quá. Đàn ông đẹp quá. Thế mà chẳng có ai thuộc về cô cả. Đám cưới của cô hủy bỏ rồi...” Chúng tôi ngồi lặng đi, chẳng biết phải nói với cô thế nào? Tự nhiên nước mắt tôi cũng chảy ra. Nếu cô có thể tát vào măt chúng tôi, những khuôn mặt bảnh bao đẹp đẽ của giới mày râu mà tan đi hết được ưu phiền thì chúng tôi sẵn sàng để cô tát hàng trăm cái cũng được. Nhưng cô không tát. Cô chỉ thở dài buồn bã và đọc thơ cho chúng tôi nghe. Em biết không tất cả đã xa rồi, trong tiếng thở của thời gian rất khẽ...[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tim tôi - một cù lao[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đoàn Thạch Biền[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cù lao là gì ? Chắc các bạn quen ở thành phố và ở miền núi không biết. Vậy tôi xin được phép giải thích ngắn gọn như sau : Ðó là một dải đất dài nằm ở giữa lòng một con sông rộng. Trên cù lao có làng mạc và ruộng rẫy phì nhiêu vì thường xuyên được phù sa bồi đắp. Chắc các bạn kêu lên : Vậy biết rồi. Cù lao giống cái lẩu lươn, lẩu cá hú ở nhà hàng chứ gì ? Xin thưa : Ðúng vậy. Nhưng nếu nói "Tim tôi - một cái lẩu", bạn sẽ tưởng tôi bàn chuyện ăn nhậu, trong khi thật lòng tôi muốn kể một (mà hai) chuyện tình của tôi, dĩ nhiên của cả bạn nữa, nếu bạn muốn "ăn theo". Tôi sinh ra và lớn lên ở cù lao Tân Phong nằm giữa dòng sông Tiền. Hàng ngày tôi phải đi ghe máy qua học trường trung học huyện Cái Bè gần bên. Còn khi nào cần làm giấy tờ hành chánh, tôi phải đi tàu máy đến Ủy ban nhân dân huyện Cai Lậy xa lắc. Do đó cả hai huyện đối với tôi đều quan trọng. Chỗ tôi ở đã vậy, chỗ tôi học cũng vậy. Tôi học lớp 12B. Người ngồi ngay trước mặt tôi, tôi không chú ý vì chỉ thấy mái tóc đen dài của cô ta. Còn người ngồi kế bên cô ta là Liễu thì tôi bắt buộc phải chú ý, vì mỗi khi nhìn lên bảng đen, tôi đều thấy một nửa khuôn mặt bên trái của Liễu. Người ngồi ngay sau lưng tôi, tôi không thấy vì tôi không thể quay đầu 360 độ. Nhưng người ngồi kế bên tôi thì tôi thấy rất rõ, vì mỗi lần quay mặt xuống cuối lớp, tôi đều thấy một nửa khuôn mặt bên phải của Ðào. Con gái nếu bạn biết toàn bộ khuôn mặt (hay con người) thì không sao. Nhưng nếu bạn chỉ biết một nửa thì khó chịu lắm. Nó sẽ làm bạn ray rứt ăn học không vô. Vì bạn cứ phải thắc mắc "nửa kia" ra sao ? Nó có giống y chang "nửa này" hay đẹp hơn, hay xấu hơn hay... hay hay ? Tánh tôi vốn không thích ăn thịt nửa nạc nửa mỡ, không thích nói nửa úp nửa mở, không thích đọc Nửa chừng xuân. Do đó tôi phải làm quen cùng một lúc với Liễu và Ðào, để tìm hiểu cái "nửa kia" cho được trọn vẹn. Bạn trai trong lớp thấy vậy khuyên tôi đừng nên "bắt cá hai tay". Tôi chỉ cười ruồi. Tụi nó sinh sống ở phố huyện, chuyên ăn cá mua ở chợ biết chi chuyện bắt cá mà bàn. Còn tôi mỗi chiều đi học về đều phải đi bắt cá ở bãi sình, các đìa đem về cải thiện bữa ăn. Nên chuyện bắt cá tôi quá rành. Bắt cá hai tay (đôi khi cả hai chân nữa) mà còn bị sẩy hoài, huống hồ bắt cá một tay. Liễu cao 1 mét 555, nặng 43 ký 8, Ðào cao 1 mét 554, nặng 43 ký 9. Nếu hai nàng đứng lên bàn cân tạ thì đều nặng ngang nhau. Vì cân Việt Nam xê xích khoảng 100gr là kể như không. Còn nếu hai nàng cùng dự thi "Hoa hậu áo dài nữ sinh huyện Cái Bè", chắc ban giám khảo cũng chịu thua, không biết chấm ai nhất. Trọng lượng hai nàng ngang nhau, sắc đẹp cũng ngang nhau. Vậy tôi biết chọn ai, nếu không chọn cả hai ? May cho tôi là nhà Liễu ở đầu huyện, nhà Ðào ở cuối huyện, nên tôi đến thăm nhà nàng này thì không có cách chi mà nàng kia thấy được. Nhưng chẳng may cho tôi khi tôi có tánh... lười biếng. (Bây giờ tôi mới biết trong tình yêu cũng như trong học tập, lười biếng đều đáng bị số không). Tôi thường viết thư cho hai nàng cùng một mẫu thư. Chỉ khác ở trên tôi để trống. Thương gửi... và ở dưới Hẹn gặp ở... Tối đó tôi hẹn gặp Liễu ở quán cà phê Thy. Quán cà phê có nhạc "xi-té-ri-ô" và bàn ghế bày dưới tàn những cây trứng cá, cây dừa, cây xoài. Tôi chọn ngồi ở bàn dưới cây trứng cá, để lỡ trái có rụng trúng đầu cũng không sao. Ðúng 7 giờ 15 phút. Liễu bước vào. Và lạ lùng chưa, cũng đúng 7 giờ 15 phút 01 giây. Ðào bước vào. Bạn đã bao giờ có hai người yêu cùng đến thăm bạn một lúc chưa ? Nếu có, bạn sẽ dễ dàng đồng ý với tôi thà chẳng có người yêu nào, lại thấy sung sướng hơn ! Tôi ấp úng mời hai nàng cùng ngồi nhưng cả hai đều đứng im. Rồi đặt hai lá thư xuống bàn. Rồi quay lưng đi về. Chèng đéc quỷ thần ơi ! Trong khi mọi người lo "tự cứu mình", thì riêng tôi lại tự hại mình. Thư gửi cho Liễu, tôi lại để tên Ðào. Hẹn gặp Ðào tối mai, tôi lại để lầm ngay tối nay. Nếu ba má tôi không la rầy chắc ngày mai tôi sẽ xin nghỉ học. Nếu thủ tục hành chánh dễ dàng, ngày mai tôi sẽ xin chuyển trường. Nếu còn can đảm yêu lại, ngày mai tôi sẽ không yêu hai cô cùng một lớp. Nếu... nhưng đó là chuyện của ngày mai. Còn đêm nay tôi lững thững đi một mình trên phố huyện... Mọi so sánh đều khập khiễng, tôi cũng đồng ý vậy. Nhưng nếu tôi không so sánh "tim tôi là một cù lao" thì biết đến bao giờ các cô gái mới thông cảm cho tôi, một người có tật "bắt cá hai tay". [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tình ảo[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dương Hải Hà[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]"Chiều chủ nhật buồn, nằm trong căn gác đìu hiu...". Giai điệu quen thuộc ấy cứ lặp đi lặp lại mãi vào chiều chủ nhật. Hình như nó sinh ra là để kết bạn với... cô đơn! Chủ nhật, bạn bè nó đứa về quê, đứa đi mua sắm, đứa đi công viên với người yêu... Chỉ một mình nó nằm lì trên chiếc giường cũ kỹ trong căn gác trọ, nghe nhạc, nhai đậu phộng rang và gặm nhấm nỗi buồn, nỗi cô đơn của mình. Băng nhạc chỉ có duy nhất một bài "Lời thánh buồn" của Trịnh Công Sơn vậy mà nó nghe hoài không biết chán. Bài hát du dương, man mác... thật đúng với tâm trạng nó. Nó trông chờ từng ngày chủ nhật để rồi lại mong cho ngày cô đơn ấy qua mau. Mới chiều chủ nhật, nó u sầu như con mèo mướp mắc mưa. Thế mà sang sáng thứ hai, loáng cái, như có phép mầu, mặt mày nó tươi roi rói hẳn lên. Thứ hai, nó căng tai nghe từng tiếng chân người, tiếng bánh xe lăn lào xào trên con lộ đá lởm chởm dẫn vào căn nhà trọ. Nó nghe ngóng tiếng của chú đưa thư gọi vang ngoài ngõ: "Mai Uyên! Ra nhận thư". Chỉ một lá thư của anh thôi cũng đủ làm cho nó mừng vui khấp khởi. Chỉ cái giọng nói ấm áp "Cô bé! Cô bé" của chú đưa thư cũng đủ làm nó hạnh phúc. Ngày đầu tiên nghe nó gọi bằng "chú", anh chàng đưa thư suýt bật cười, sau đó anh ta làm giọng nghiêm bảo: "Tui chưa tới ba mươi xuân xanh đâu, cô bé kếu bằng "chú" coi chừng tui tổn thọ". Nó lắc lắc hai cái bím tóc, nhìn thẳng vào đôi kính cận của chàng đưa thư: "Ai biểu chú đeo kính làm chi!" rồi cầm lá thư vọt tuốt vô phòng, mặc cho chàng đưa thư ngơ ngác nhìn theo. Phòng trọ có bốn đứa con gái. Hai đứa giàu và đẹp thì có vô số cái "đuôi" bám theo. Chiều thứ bảy nào cũng có vài anh chàng ngấp nghé trước cổng để tình nguyện làm "vệ sĩ" cho hai nhỏ. Hai nhỏ mặt tươi như hoa, người cũng sặc mùi nước hoa xách túi ra ngõ. Hai đứa còn lại tin đưa những-kẻ-tốt-số bằng một tiếng thở dài. "Cuộc sống sinh viên xa nhà thiếu tiền, thiếu gạo, thiếu luôn cả... tình yêu" - nó lẩm bẩm thở than cùng nhỏ bạn. Nhỏ bạn nó cong môi lên ra vẻ bất cần: "Tụi con trai bây giờ đứa nào cũng thực tế quá! Tụi nó chỉ ngắm nghía và bám theo mấy nhỏ nhà giàu. Tao cóc cần mấy thằng chỉ biết yêu bằng mắt đó. Tao sẽ nhờ đăng báo tìm bạn bốn phương. Tha hồ "xóc" lên mà lựa chọn!" Nói là làm. Nhỏ lấy bút ra viết liền cái "thủ tục" kết bạn, gửi cho một tờ tạp chí sinh viên. Chỉ hơn một tháng sau, những-cánh-thư-mang-hình-trái-tim bay đến nhỏ tới tấp. Công việc đọc thư, tuyển lựa và hồi âm đã ngốn hết thời gian của nhỏ, ngốn luôn cả sức khỏe và túi tiền của nhỏ. Cuối học kỳ I, nhỏ chới với: ba môn được vào "vòng bán kết". Nó ghét cái kiểu tìm bạn như vậy. Cái gì nhiều quá thường bị loãng. Bạn một phương thôi cũng quá đủ rồi. Sở thích của nó là đọc báo và sưu tầm thơ. Trong quyển sổ tay của nó đầy những bài thơ mà nó cho là hay. Trong số những tác giả mà nó yêu thích, có một cái tên gây cho nó nhiều ấn tượng: Châu Hải Phong. Thơ của anh chàng thi sĩ này chứa đầy tâm trạng, khiến nó đọc qua dù chỉ một lần cũng không làm sao quên được. Nó đánh bạo viết cho anh ta một lá thư làm quen. Thư gửi đi nhưng niềm hy vọng được hồi âm thì rất mong manh. Thế nhưng chỉ một tuần sau, nó thật sự bất ngờ. Lá thư của Hải Phong rung lên trong tay nó. "Thôi, xin từ giã... cô đơn!". Nó reo lên một tiếng rồi hồi hộp đọc thư. Anh chàng viết thư thật hay. Đúng là thi sĩ có khác! Nhìn những dòng chữ rắn rỏi nhưng mềm mại màu mực tím, nó tưởng tượng anh chàng gầy gầy, bụi bụi, đẹp trai, hào phóng... Hồi học phổ thông, thầy dạy văn nó vẫn thường bảo "nét chữ là nét người" mà. Thư nó viết cho anh, số chữ cứ tăng dần lên theo số lần gửi. Nó kể huyên thuyên đủ chuyện nào học hành, nào bạn bè, nào cách sinh hoạt của nó... Những lá thư hồi âm của anh cũng ngày càng chứa chan những tình cảm ngọt ngào. Ngày...tháng...trôi... Nó ngỏ ý muốn xin anh một tấm ảnh để "khỏi lạc nhau giữa đám đông". Anh bảo sợ nhận được ảnh của anh rồi thì nó sẽ không thèm viết thư cho anh nữa vì anh có họ hàng với chàng Trương Chi. Nó cam đoan với anh là nó không phải người chú trọng hình thức, quan trọng là ở tấm lòng. Nó thầm nghĩ anh ta chỉ đùa thế thôi chứ mấy ông thi sĩ ông nào mà chả đẹp trai (!) lại ra vẻ "bụi bụi". Nó không thích những người chải chuốt quá. Nó yêu những người bụi bụi như thế. Một tuần... Hai tuần... Ba tuần... Nó cuống cả lên vì không nhận được thư anh. Anh ta nghi ngờ? Giận nó? Anh ta đùa? Nỗi thắc mắc cứ rối bời trong nó... Thế rồi một buổi sáng đẹp trời, anh chàng đưa thư nheo đôi mắt cận mỉm cười với nó: "Sướng nhé! Có thư bảo đảm đây cô bé!" Nó chẳng thấy "sướng" tí nào. Thư bảo đảm, chỉ thêm những thủ tục rắc rối. Đưa giấy chứng minh nhân dân cho chàng đưa thư xong, nó cầm lấy lá thư. Một dòng chữ màu tím quen thuộc sau bì thư đập vào mắt nó: "Thư có ảnh, xin đừng gấp". Nó reo lên một tiếng rồi chạy nhanh vào nhà, mặc cho tiếng gọi của anh đưa thư rơi vào khoảng không chơi vơi... Tay nó thoăn thoắt xé vội phong bì, rút tấm ảnh... "Trời!" Nó kêu lên một tiếng. Nỗi thất vọng bủa vây lấy nó. Người trong ảnh là một anh chàng gầy nhom, đen thui, ngồi trên chiếc xe lăn... khác xa chàng trai "bụi bụi" mà nó hằng tưởng tượng. Phía sau tấm ảnh là nét chữ rắn rỏi của anh: Mến tặng Mai Uyên Hải Phong Nó thờ thẫn buông mình xuống ghế chẳng thèm đọc thư xem anh ta viết năng viết cuội những gì. Tấm ảnh rơi xuống thềm nhà, chao đảo... Nó ôm đầu, tâm trí rối bời như một mớ bòng bong. "Thì ra anh ta nói thật". Nó lẩm bẩm, chỉ đáng tội cho nó, chỉ khéo tưởng tượng. "Người trong mộng của mày đó. Hãy nhìn kỹ đi, Uyên ơi!". Những lá thư nó viết cho anh sau đó toàn những lời nhạt thếch. "Em sao vậy? Hình như kể từ khi nhận được thư bảo đảm của anh, em có vẻ thây đổi?", "Sao dạo này thư của em chỉ có mấy hàng?" Thư của anh đầy rẫy những câu hỏi nghi ngờ. "Ô, có sao đâu, dạo này em bận học thi đó mà". Vẫn đều đều thư đi, thư đến... Nó không còn tha thiết muốn viết thư cho anh nữa nhưng vẫn cứ viết, như là một thói quen. Nó không muốn anh cho nó là kẻ gian dối. Nó không muốn để anh phải hụt hẫng... Mỗi tuần một lần, anh chàng đưa thư chào nó bằng một nụ cười dễ ghét! Cầm lá thư, lòng nó chợt xôn xao cả lên... Thì trước đây nó vẫn nôn nao khi nhận thư anh đó thôi. Nhưng bây giờ... có một cái gì khang khác mà nó không sao giải thích được. Bây giờ... nó chỉ thích nhận thư nhưng lại không còn say sưa đọc, say sưa hồi âm. Nó thích nghe tiếng "cô bé" ngọt ngào của anh đưa thư. Nó thích nhìn đôi mắt cận hay nheo nheo như làm duyên của anh. Nó thích... chao ôi! Thật khó mà diễn tả. Không biết tự bao giờ nó chuyển sang gọi chú đưa thư bằng "anh". Đôi kính cận của anh chập chờn trong những giấc mơ của nó. Một buổi sáng thứ hai như thường lệ, nó nghe tiếng xe gắn máy xình xịch trước ngõ rồi có tiếng gọi "Mai Uyên! Nhận thư". Nó hối hả chạy ra, trên môi dọn sẵn nụ cười. Nó chợt sững lại khi thấy trước mặt mình không phải là anh đưa thư đeo kính cận mà là một bác trạc tuổi ba nó. Bác chào nó bằng một nụ cười hiền hậu. "Hôm nay, sao anh Trung..." "ờ, hôm nay cậu Trung bận, bác đưa thế". Nó ngượng ngập cúi xuống như sợ bác đoán được những ý nghĩ của mình. "Đây, thư của cháu". Bác đưa cho nó hai lá thư. Tại sao lại là hai nhỉ? Một lá thư màu tím quen thuộc của anh. Một lá thư lạ... Nó chợt biến sắc mặt khi thấy hai chữ "Thiệp mời" to tướng. Tò mò, nó mở vội ra xem: "Lễ thành hôn... Nguyễn Đức Trung..." Chưa đọc đến dòng cuối cùng, hai tay nó run lên. Tấm thiệp hồng cũng run lên... Tâm trí nó chao đảo, nó lao vào phòng, gục xuống bàn, đôi vai bé nhỏ run lên. Nó cố kìm lại những tiếng nấc... Ngoài sân, rớt lại một tấm thiệp hồng...[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tình ảo [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đoàn Thạch Biền[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi đã đi theo nhà ảo thuật Ali K3 trình diễn ở một số tỉnh miền Nam. Anh không phải là một nhà ảo thuật tài ba nhưng anh nói chuyện rất tài ba. Khi biết tôi rất mê ảo thuật và năn nỉ anh cho theo học nghề, anh nói: Cậu biết phần "ảo" được rồi, biết phần "thuật" cậu sẽ không còn mê ảo thuật nữa. Vả lại, cậu đã rành làm trò ảo thuật với chữ nghĩa rồi, học thêm nghề này làm chi. Tôi không muốn từ bỏ một đam mê đẹp nên đành không học nghề ảo thuật nữa. Truyện này đáng lẽ có tên "Tình yêu ảo thuật" nhưng như thế thì thật dài dòng. Tôi rút gọn là "Tình ảo" cho nó có vẻ hư... ảo. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tình cờ đi ngang qua rạp hát thị xã, tôi thấy tấm bảng quảng cáo vẻ hình một người đàn ông đang cưa một cái hòm, có đầu và hai chân của một cô gái thò ra. Phía trước có dòng chữ: Đệ nhất ảo thuật gia Z.30. Tôi bủn rủn tay chân. Không phải hình vẽ ghê rợn đó, mà vì lâu lắm tôi mới có dịp xem ảo thuật. Tôi vốn mê ảo thuật từ nhỏ. Năm tám tuổi tôi đã trốn nhà đi theo làm đệ tử một ông thầy diễn trò ảo thuật ở Sài Gòn. Học được 4 tháng, ba tôi tìm được, bắt về, đánh tôi một trận bầm mình. Lần đó, nếu ba để tôi tiếp tục theo học, chắc tôi đã trở thành Đệ nhất ảo thuật gia của thị xã này. Bởi lòng đam mê của tôi lúc đó đối với ảo thuật là một đam mê lớn. Làm bất cứ việc gì với đam mê lớn, tôi tin người ta cũng sẽ thành công. Không vĩ đại thì cũng nhỏ bé. Ba tôi bắt tôi học chữ, học đánh máy, học vâng lời cấp trên để trở thành một công chức gương mẫu. Nhưng ngọn lửa đam mê ảo thuật vẫn âm ỉ cháy. Thật đáng tiếc chương trình biểu diễn ảo thuật đã ngày càng hiếm. Khán giả ngày nay tinh khôn hơn ngày xưa nên khó "mà mắt" họ. Trò ảo thuật sẽ chết nếu cái "ảo" bị phanh phui. Riêng tôi vẫn yêu ảo thuật như yêu mối tình đầu ngu ngơ của mình. Buổi chiều, tôi ăn cơm sớm rồi nôn nóng đến rạp mua vé vào xem. Trong rạp nóng bức, khán giả còn vắng. Chỉ có con nít đứng lô nhô ở các lối đi. Tôi chọn một ghế ngồi sát sân khấu. Hơn một giờ sau mới mở màn. Bắt đầu là phần ca nhạc. Một cô ca sĩ mặc một bộ quần áo đỏ, lấp lánh kim tuyến vàng, bước ra nhún nhảy. Cô vừa nhảy vừa gào nghe nhức óc, chóng mặt. Vậy mà tiếng vỗ tay lại vang lên rần rần. Tôi chỉ mong phần ca nhạc sớm chấm dứt. Phần biểu diễn ảo thuật của Z.30 bắt đầu. Một người đàn ông cao nhòng, mặc áo đuôi tôm màu đen, tay cầm can, bước ra sân khấu giở mũ chào khán giả. Tóc ông bạc trắng và khán giả cười ồ. Mặc ông bôi phấn trắng, hai bên má có hai đồng tiền màu đỏ trông như một anh hề. Z.30 biểu diễn trò thắt nút cột chặt hai khăn tay rồi giũ một cái, hai chiếc khăn bung ra. Trò ném những quả bóng ping-pong biến mất. Trò bốn lá bài toàn quân 10, tráo qua tráo lại thành con bồi, đầm, già, xì... Tất cả những trò đó tôi đã học qua khi còn bé nên chẳng còn thấy hấp dẫn và tôi che miệng ngáp. Hai người đàn ông khiêng bốn cái đôn nhỏ ra đặt ở giữa sân khấu, rồi họ khiêng một cái hòm sơn đỏ đặt lên trên. Một cô gái khoảng 18 tuổi, mặc quần áo thể dục nhịp điệu màu xanh, đi bằng hai tay từ hậu trường ra sân khấu. Em uốn người đứng dậy, cúi chào khán giả. Hai bím tóc dài của em thắt nơ đỏ, buông thõng phía trước ngực. Em đến mở nắp hòm, nhảy vào nằm gọn lỏn như một con mèo. Khán giả chỉ thấy đầu và hai chân em thò ra ngoài cái hòm đỏ. Z.30 đến đậy nắp hòm. Ông lấy một cái cưa lưỡi sáng quắc, cưa thử một thanh gỗ gãy đôi. Đèn quanh sân khấu đột nhiên tắt. Một luồng ánh sáng màu đỏ chiếu thẳng vào cái hòm đỏ. Người đàn ông bắt đầu cưa ngang cái hòm. Tiếng lưỡi cưa ăn gỗ được khuếch đại làm khán giả nổi da gà. Lưỡi cưa đi qua nắp hòm rồi từ từ xuống thấp. Đèn chiếu về phía đầu cô gái . Em bắt đầu ca một bài vọng cổ trong tuồng Phạm Công Cúc Hoa. Lưỡi cưa vẫn tiếp tục đi hết bề ngang cái hòm. Cô gái vẫn tiếp tục ca đến hết bài vọng cổ. Khán giả vỗ tay ào ào và tôi là người vỗ tay hăng say nhất. Đèn tắt rồi bật sáng. Cô gái đã đứng bên Z.30 cùng cúi chào khán giả. Phần ảo thuật chấm dứt, tiếp tục là ca nhạc. Tôi đứng dậy đi ra ngoài . Theo một con đường nhỏ bên hông rạp hát, tôi đi đến phòng của các diễn viên ở phía sau sân khấu. Lòng đam mê ảo thuật trong tôi bừng dậy, tôi muốn gặp người đàn ông xin đi theo học nghề. Bây giờ tôi đã lớn, ba tôi chẳng thể ngăn cản tôi. Ở góc phòng, Z.30 đang thu xếp dụng cụ có cô gái phụ giúp. Lúc này khuôn mặt ông đã lau sạch lớp phấn nên tôi nhìn thấy rõ vết sẹo ở gò má trái. Tôi đứng chưng hửng trong giây lát rồi bật kêu lên: - Thầy Ban. Người đàn ông ngừng tay, đứng nhìn tôi . Trong khi ông nhíu mày suy nghĩ, tôi chạy đến nắm chặt tay ông. - Thầy không nhớ con sao? Con là Trịnh Đen đây. Ngày xưa thầy đã đặt tên cho con là Thanh Trịnh. Người đàn ông cười ha hả vỗ vai tôi: - Nhớ rồi. Cậu học trò bất đắc dĩ đã bỏ tôi. Rồi ông quay qua giới thiệu cô gái: - Đây là Thanh Ly. Chắc cậu không nhớ nó, vì hồi cậu bỏ học nó mới có hai tuổi. Còn đây là học trò cũ của ba. Cô gái nhìn tôi mỉm cười chào và tôi cũng mỉm cười theo. Tôi mời thầy Ban và Thanh Ly đi ăn mì vịt tiềm - món ăn đặt biệt của thị xã. Họ đồng ý. Tôi phụ dọn dẹp đồ nghề cho nhanh rồi chúng tôi cùng đi xe lôi ra bờ sông. Về đêm, hàng quán ở dọc bờ sông rất đông khách. Mọi người tránh cái nóng ở thị xã, ra đây đón ngọn gió mát từ mặt sông thổi lên. Chúng tôi ngồi ở một cái bàn tròn kê trên bờ đá. Mặt nước dập dềnh cách chân chúng tôi hơn một thước. Thanh Ly xõa mái tóc dài ngang vai. Em mặc áo thun trắng có hình con cá sấu ở phía trái tim. Thầy Ban mặc áo sơ mi màu nâu nhạt, miệng ngậm ống vố. Chẳng còn ai nhận ra họ là diễn viên ảo thuật. Tôi nói: - Tại thầy đổi tên Thanh Ban, nếu không con đã tìm thầy từ hồi sáng. Thầy Ban cười: - Cái tên đó hết ăn khách rồi. Tôi phải đổi tên là Z.30 và con nhỏ này là Z.31, nghe cho có vẻ bí ẩn. Còn cậu bây giờ làm gì? - Dạ, làm nhân viên kế toán. - Có nghề nghiệp ổn định là tốt. Tôi mong cho con tôi cũng có một nghề ổn định như cậu, nhưng nó không chịu. Thanh Ly liếc nhìn ba, nói: - Ba bắt con học nghề may, ai mà ham. - Chứ con muốn học nghề gì? - Nghề ảo thuật. Thầy Ban cú nhẹ lên đầu cô con gái: - Theo nghề này chỉ khổ. Thấy hai cha con thầy Ban đang vui vẻ, tôi hỏi: - Lâu nay thầy có nhận ai làm đệ tử? - Nghề này càng ngày càng khó kiếm tiền, nên không có ai ham học. - Vậy con xin thầy nhận lại con làm đệ tử. Thầy Ban trợn mắt nhìn tôi: - Cậu nói thiệt hay nói chơi? - Dạ thiệt. Bây giờ con đã lớn và có quyền quyết định. - Cậu có quyết định đó từ khi gặp tôi hay gặp con nhỏ này? Tôi đỏ mặt lúng túng nói: - Dạ... gặp cả hai. Thầy Ban mỉm cười rồi nghiêm mặt nói: - Được, tôi cũng già rồi. Cậu có thể thay tôi diễn với con nhỏ. Đang cắn cái đùi vịt tiềm, Thanh Ly vội bỏ xuống, lắc đầu quầy quậy. - Không được đâu. Thầy Ban hỏi: - Sao vậy? Con tính độc diễn à? - Ngó tướng ảnh "ạch đụi" quá. Diễn chung con sợ sẽ bị cưa thành hai khúc. Thầy Ban bật cười rồi ho sặc sụa. Tôi tự ái nói: - Em đừng coi thường. Xem tôi biểu diễn ảo thuật nè. Tôi chỉ cần đọc một câu thần chú, tô mì trước mặt em sẽ biến thành hai tô. - Xí! Anh mà diễn được, tôi sẽ chịu diễn chung với anh. Tôi nhắm mắt lại lầm bầm đọc một câu thần chú, rồi mở mắt ra hét lớn: - Này chủ quán, cho một tô mì ăn thêm. Và trước mặt Thanh Ly đã có thêm một tô mình còn bốc khói. Thầy Ban vỗ tay: - Cậu diễn vai hề được lắm. Vai đó rất ăn khách. Ăn uống xong, tôi đưa hai người về khách sạn, nơi họ tạm trú trong thời gian biểu diễn ở thị xã. Tôi hẹn sáng mai sẽ đến đón họ đi thăm các thắng cảnh ở đây . Sáng hôm sau khi tôi đến khách sạn, thầy Ban không đi được vì bận công việc đột xuất. Thầy nói tôi dẫn Thanh Ly đi chơi và nhớ trở về rạp hát lúc 3 giờ chiều để diễn tập trò mới. Tôi chở Thanh Ly bằng xe Honda chạy một vòng quanh thị xã cho em biết. Thị xã nhỏ bằng bàn tay nên 15 phút sau chúng tôi đã trở về chỗ cũ. Tôi dắt xe cùng em đi ghe máy qua sông, về làng quê ngoại. Nơi có nhiều vườn trái cây chắc sẽ làm em thích. Dọc theo hai bên đường làng là hai con mương nước đục ngầu phù sa. Cây trái mọc lên xanh um. Thỉnh thoảng có tiếng trái chín rụng xuống mương kêu lõm bõm. Nhà ngoại tôi không có cổng vì quanh đây đều là người họ hàng. Tôi phóng xe vào đến thềm nhà. Con chó vàng chạy ra sủa ầm ĩ rồi ngoắc ngoắc đuôi khi nhận ra người quen. Ngoại tôi hơn 70 tuổi, nhưng dáng người còn khỏe mạnh. Bà đứng ở cửa nheo mắt hỏi: - Thằng Tư đó hả? Tôi chạy đến ôm chầm lấy bà rồi nói: - Dạ. Còn đây là bạn gái của con ở Sài Gòn mới xuống. Thanh Ly cúi đầu chào bà. Bà nói: - Cha! Chắc trời sắp mưa to vì có khách ở Sài Gòn đến chơi . Có trái mít chín cây ngoại mới hái xuống đó, thằng Tư mang ra mời khách. - Dạ. Ngoại cứ để đó cho tụi con. Tôi dắt Thanh Ly ra vườn phía sau nhà. Những cây mận đầy trái chín đỏ làm em thích thú, nhảy lên với hái bỏ vào miệng nhai. - Ngọt quá. Ước chi nhà em cũng có được cây mận như vầy. - Cả vườn mận này là của em, nếu em chịu ở lại đây. Thanh Ly tròn xoe mắt nhìn tôi: - Anh nói gì em không hiểu? - Tôi muốn nói ngoại cho tôi miếng vườn này, nhưng ở một mình buồn quá nên tôi không nhận. - Sướng thí mồ mà anh còn chê. - Thì chính em cũng chê nữa mà. - Em chê hồi nào đâu? - Vậy là em chịu ở lại đây với tôi há? Như chợt hiểu ra điều tôi muốn nói, Thanh Ly đỏ mặt cúi đầu. - Em không thể bỏ ba má ở Sài Gòn. Em phải giúp ba kiếm tiền nuôi gia đình. - Vậy tôi sẽ theo giúp em một tay. Thanh Ly bỏ chạy quanh gốc mận, tôi vội đuổi theo em và chúng tôi cùng cắn chung một trái mận chín. Đấy là trái mận ngon nhất mà tôi được ăn từ trước tới nay. Gần 3 giờ chiều tôi chở Thanh Ly về rạp hát để tập dượt trò ảo thuật mới. Thầy Ban ngồi đợi chúng tôi trên sân khấu vắng người. Thầy báo cho biết đêm nay là buổi biểu diễn cuối cùng ở đây. Sáng nay, chủ thầu họp cho biết vé bán không hết, họ không dám thuê đoàn diễn tiếp hai đêm nữa. Mặt Thanh Ly buồn xo, tôi cũng buồn xo, nhưng rồi tôi vui vẻ ngay khi nghĩ sẽ theo Thanh Ly về Sài Gòn sớm. Thầy Ban tập trò chim bồ câu rút lá bài, con bọ trắng từ trong túi chui ra. Thanh Ly tập trò người bay. Trò này rất công phu nên mặt em lấm tấm mồ hôi. Đêm ấy, tôi bồn chồn đi lại ở trong phòng đợi mà không vào rạp hát. Không gì chán bằng xem ảo thuật mà mình đã biết rõ phần "ảo". Còn ca nhạc thì tôi không ham. Hai cha con biểu diễn xong, tôi lại phụ giúp thu xếp đồ nghề vào những thùng gỗ. Tôi mời hai người đi ăn bồi dưỡng. Thầy Ban bị mệt, nên phải về khách sạn nghỉ để mai đi sớm. Thầy nói nếu tôi đã quyết định học nghề thì sáng mai theo thầy lên Sài Gòn. Còn nếu chưa thu xếp xong công việc thì lên sau cũng được. Thanh Ly sẽ cho tôi biết địa chỉ nhà thầy. Tôi chở Thanh Ly đến quán mì vịt tiềm đêm qua. Đêm nay gió thổi mạnh nên mặt sông nổi những dợn sóng. Thanh Ly phải xin một sợi dây thun để cột mái tóc vì gió thổi bay những sợi tóc dài vào miệng em. Ăn mì xong, tôi gọi hai ly chè bưởi. Khum tay che gió đốt một điếu thuốc, tôi nói: - Vì phải bàn giao công việc, chừng đầu tháng sau tôi mới lên Sài Gòn được. Em hãy ghi địa chỉ, tôi sẽ tìm đến. Tôi đưa cho Thanh Ly cây viết và tờ giấy. Em cầm lấy và vẽ những vòng tròn từ nhỏ đến lớn. - Em biểu diễn trò ảo thuật à? Thanh Ly lắc đầu: - Em ghi những con số 0. - Tại sao vậy? - Anh còn nhớ trái mận chín chúng ta ăn chung ở vườn? Chính ở đó trái mận mới ngọt. Lên Sài Gòn nó sẽ lạt nhách. - Ai biểu em ăn mận ở Sài Gòn làm chi. Khi nào thèm, em hãy xuống đây. - Dạ, khi nào thèm em sẽ xuống đây, với điều kiện anh phải ở đây. - Tôi rất muốn đi theo ba em học nghề. Tôi rất mê trò ảo thuật. - Anh thấy đó, trò ảo thuật nào cũng hấp dẫn khi người ta chưa biết mặt trái của nó, biết rồi trò nào cũng dở. Em nghĩ tình yêu cũng vậy. - Em bị méo mó nghề nghiệp rồi. Tình yêu không phải như vậy. Càng hiểu biết nhau, người ta càng yêu nhau hơn. - Càng ghét nhau hơn thì có. Thanh Ly tháo sợi thun cột tóc. Gió thổi mạnh làm bay những sợi tóc che khuất khuôn mặt em. Tôi nói: - Thôi, không bàn cãi lôi thôi nữa. Để tôi chở em về khách sạn. Tôi sẽ hỏi ba em địa chỉ. - Cám ơn anh. Hãy để em đi xe lôi về một mình. Chia tay ở quán ăn bao giờ cũng dễ dàng hơn chia tay ở những nơi khác. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tình địch[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Kim Ba - [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phạm Tú Châu dịch[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đan Bình là cô bạn gái mà tôi theo đuổi mấy năm nay. Cô chẳng những có năng lực lại rất xinh đẹp, biết săn sóc người khác, thu nhập chẳng hề kém tôi. Tôi cảm thấy đã đến lúc cầu hôn với cô được rồi. Khi tôi dò ý cô, cô bất ngờ lại lạnh nhạt đáp: - Chúng mình cứ thế này chẳng tốt hơn hay sao? Có cái gì đó nổ đánh ùng trong óc tôi, khiến tôi suýt ngất đi. Nghe người ta nói, yêu nhau mà không chịu kết hôn thì có đến tám, chín phần mười là muốn bai bai. Lẽ nào Đan Bình lại chê tôi? Theo tôi, Đan Bình tuy là nữ kiệt trong lứa các cô, mặt nào cũng khá ưu tú nhưng tôi nào có kém cạnh cô điểm gì? Trình độ học vấn của tôi ngang cô, tướng mạo của tôi đủ tiêu chuẩn đàn ông, tiền gửi ngân hàng của tôi đủ để mua nhà cho cô và điều quan trọng hơn nữa là tôi có trái tim chỉ dành cho cô. Thế là tôi bảo cô, tôi quyết không chịu buông lơi sự cố gắng cuối cùng, cho tới khi nào thất bại triệt để mới thôi. Đương nhiên Đan Bình bắt đầu xa lánh tôi. Cô đủng đỉnh với những lời thăm hỏi tôi gửi đến cho cô, từ chối khéo những lời hẹn hò nhiệt tình của tôi. Càng ngày tôi càng cảm thấy tình hình bất lợi liền hỏi thẳng cô: - Đan Bình, phải chăng em đã có người tình khác? Không ngờ Đan Bình cũng trả lời chắc nịch: - Đúng thế. Như bị một đòn côn ngầm, tôi hầu như đứng không vững. Một lúc sau, cố nuốt nước mắt, tôi tỏ ra rất có giáo dục nói: - Đan Bình, chúng mình thân nhau đã ba năm, anh tin rằng anh là người yêu em nhất, hơn nữa anh còn là người thích hợp với em nhất. Đan Bình, em suy nghĩ thêm đi! - Anh tưởng anh là người ưu tú nhất chăng? - Đan Bình trả đũa. - Ít nhất thì trong số người muốn cưới em, anh là người ưu tú nhất. Đan Bình bèn ngửa cổ cười ha ha, tiếng cười đó khiến tôi đỏ mặt, chẳng hiểu ra sao. Chưa chịu thôi, tôi bảo cô: - Em đưa bạn mới của em đến làm quen với anh đi! Nếu cậu ta hơn anh dù chỉ một điểm nào đó thì anh rút lui, cam chịu thua cuộc và thật lòng chúc hai người hạnh phúc! Đan Bình đưa cậu "tình địch" ấy của tôi đến thật, mà cậu ta còn đi bằng xe hơi Santana nữa chứ! Vừa nhìn thấy, người tôi đã nguội lạnh: Cậu ta cao to mà điển trai, ngẩng đầu, ưỡn ngực bước tới trước mặt tôi, hơn nữa còn rất lịch sự: Mỉm cười giơ tay: "Chào anh!", tôi đành phải lịch sự giơ tay, đáp lại: "Rất vui được làm quen với anh!". Trong quán trà, hai chúng tôi ngồi đối diện nhau, còn Đan Bình thì ngồi sát bên người bạn trai mới, ra vẻ quyến luyến nhau lắm. Tôi chỉ còn biết ngậm đắng nuốt cay bắt chuyện với cậu ta: - Nghe Đan Bình nói, anh là tiến sĩ ngành tài chính, hơn nữa còn tu nghiệp ở Anh đến hai năm. Xin hỏi, hiện nay anh làm việc ở đâu? - Tôi làm ở một công ty nước ngoài, công việc chủ yếu là liên hệ nghiệp vụ với đối tác Âu Mỹ. - Chà, năng lực ấy quả không tồi! Như thế là anh thường xuất ngoại chứ? - Đương nhiên rồi! - Cậu tình địch tự hào nói - Tôi còn định tuần sau đưa Đan Bình sang Mỹ du lịch một chuyến... À, đúng rồi, xin mời anh tới chơi biệt thự của tôi, ở khu... Tôi không sao nghe tiếp được nữa. Tôi tỏ ra bình tĩnh nhưng sông cuộn biển dâng trong lòng, không làm sao ngăn nổi. Trong lúc bối rối ấy, tôi bèn ra chiêu sát thủ cuối cùng: - Anh giỏi giang như thế, hẳn là có nhiều cô gái theo đuổi lắm nhỉ? Xin hỏi, anh thật lòng yêu Đan Bình và tình nguyện bảo vệ cô ấy suốt đời chứ? - Điều ấy còn cần gì phải hỏi nữa? - Cậu tình địch khinh thường đáp - Anh nói đúng đấy, các cô chủ động theo đuổi tôi nhiều lắm, nhưng chỉ riêng với Đan Bình là tôi vừa gặp đã ưng ngay. Tôi nhận thấy về mặt nào Đan Bình cũng giỏi, cô ấy đúng là người mà tôi để tâm tìm kiếm lâu nay. Tôi cũng không biết vì nguyên nhân gì khác nữa, có lẽ đó là do duyên phận. Có phải thế không, Đan Bình? Đan Bình hắng giọng một tiếng rồi ý nhị gật đầu với cậu ta. Đôi mắt tràn trề tình cảm ấy tôi nào có xa lạ gì, nhưng bây giờ cô đã dành cho người khác không chút tiếc nuối. Vì quá yêu mà đâm ra hận, cuối cùng tôi đã mất hết lý trí, nghiến răng bảo Đan Bình: - Như thế là cô tham quý phụ bần, có thịt lợn thì bỏ đậu phụ, phải không nào? Đan Bình "hử" một tiếng, nói: - Xin lỗi, đó là tự do và quyền được lựa chọn của tôi. Anh có giỏi thì cứ kiếm "thịt lợn" đi! - Cô... - Tôi trừng mắt lên nói. Cậu tình địch của tôi phối hợp rất ăn ý, vội vàng đứng lên dang tay ngăn tôi lại: - Kim tiên sinh, bình tĩnh lại đi! Tình yêu phải là hai chiều. Nếu chỉ còn một chiều là miễn cưỡng thì hỏi còn ý nghĩa gì nữa? Hai bên đến với nhau được thì cũng xa nhau được, sau này vẫn là bạn của nhau, hà tất phải làm căng quá. Hơn nữa, anh cũng là người rất thông minh, nên nghĩ thoáng hơn chút. Không chừng sau khi chia tay, anh sẽ gặp được cô gái càng khiến anh chung tình hơn nữa đấy! - Anh là cái đồ gì mà dám lên mặt dạy đời? - Tôi gầm lên - Hai người chẳng qua là bọn coi tình cảm chân thành như trò chơi mà thôi. Tôi biết không sao cứu vãn được nữa bèn đứng lên đi thẳng ra cửa. Chạy một quãng khá xa tôi mới dừng lại dưới gốc một cây to, để mặc cho nước mắt tràn trề... Không biết qua đi bao lâu, bỗng sau lưng có tiếng đàn ông gọi: - Kim tiên sinh, xin bớt đau buồn, thuận theo sự thay đổi... Tôi ngoảnh đầu lại nhìn, thì ra đó là gã tình địch của tôi. Hắn từ trong xe hơi chui ra, chìa tay nói: - Đây là danh thiếp của tôi, khi nào cần đến xin cứ gọi. Tôi liếc mắt nhìn tấm danh thiếp, bỗng nhìn thấy mấy chữ: "Công ty cho thuê tình địch". - Thế này là sao? - Xin chớ hiểu lầm. Tôi là nhân viên của công ty cho thuê tình địch. Nếu sau này ông có bạn gái thì chúng ta sẽ cần đến nhau. Chẳng hạn, ông muốn chia tay với bạn gái thì thuê một cô xinh hơn bạn gái làm tình địch của cô ấy, thì bạn gái ông sẽ cảm thấy mình kém cỏi hơn mà tự biết rút lui. Còn nếu ông muốn cưới cô ấy thì hãy thuê một cô cũng xinh bằng hoặc kém xinh hơn một chút làm tình địch của cô ấy. Như thế, cô ấy phải chịu một áp lực, biết rằng không mau mau thì mất đi cơ hội và như thế cô ấy hẳn sẽ trở thành bạn đời chung gối với ông. Công ty chúng tôi có sẵn các chàng trai và cô gái, thoả mãn được tất cả mọi yêu cầu, hơn nữa còn có sẵn cả biệt thự, xe hơi cùng mọi đạo cụ cần thiết khác... - Thì ra là như thế! - Tôi gào lên như thằng điên - Sao các anh không sớm đến gặp tôi? [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tình dỏm làm sao quên[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đoàn Thạch Biền[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tình yêu chân thật, bạn sẽ nhớ suốt đời đời . Đúng rồi! Nhưng tình yêu “dỏm” như một cái tát tai cũng khiến bạn phải nhớ suốt đời. Tôi đã bị một cái tát tai như vậy và thỉnh thoảng vẫn cảm thấy má mình ran rát, mỗi khi nhớ lại. Gần đến ngã tư, tôi cẩn thận cho xe Honda chạy chậm lại . Chợt nghe có tiếng la hốt hoảng "cướp, cướp". Một chiếc xe Honda 67 chạy vụt lên. Tôi ủi luôn xe mình vào bánh sau chiếc xe đang chạy, cả hai xe té nhào xuống lòng đường. Mọi người bu đông làm hai tên cướp lính quýnh. Công an đã đến kịp thời tóm gọn chúng. Tôi lồm cồm đứng dậy với cái chân phải bị thương, cố gắng dắt xe vào lề đường. Một cô gái tóc dài che nửa khuôn mặt, mặc áo thun màu trắng hở ngực, đến nói chuyện với công an. Họ trao đổi với nhau điều gì đó, rồi cô gái đến bên tôi. - Anh bị thương nặng không? Tôi nhìn chiếc xe Honda bị gãy tay thắng, bể đèn signal. Tôi nhìn xuống chân mình chỗ đầu gối rướm máu, chiếc quần jean mới mua bị rách một mảng. Tôi nhăn mặt định nói đau lắm lắm. Nhưng khi nhìn rõ khuôn mặt cô gái, tôi vội nhoẻn miệng cười và nói một câu thật dối lòng: - Không có chi . - Cám ơn anh đã giúp em lấy lại sợi dây chuyền vàng bị chúng giựt. - Đây là một kinh nghiệm quý báu cho cô . Lần sau đi chơi đêm, đừng đeo dây chuyền vàng. - Nhưng bọn chúng không biết đấy là dây chuyền giả. Tự nhiên tôi thấy chân mình đau nhói, nên hậm hực nói: - Dây chuyền giả mà sao cô la lên như... thật vậy? - Em la theo thói quen. Tôi tức "ứa máu" đầu gối. Đối với một cô gái làm bạn chết mê chết mệt và đối với một cô gái làm bạn tức "ứa máu" (bất cứ chỗ nào), cả hai đều có sức quyến rũ như nhau. Đấy là lý do khiến ngay sáng hôm sau, tôi tìm đến nhà nàng. Nhà nàng ở xóm Cầu Kiệu . Cây cầu mới xây lại, sẽ đẹp vô cùng nếu ai có phép màu biến dòng nước đen ngòm dưới kia thành dòng suối trong xanh như cái tên của nàng: Thanh Tuyền. Tôi gõ cửa một ngôi nhà bình thường vì bảng số bị long đinh nên quay ngược. Cánh cửa gỗ hé mở, một bà già tóc bạc nhô đầu ra. Tôi cúi chào và hỏi: - Thưa bác, đây có phải là nhà cô Thanh Tuyền? - Không phải. Vậy là cô gái đã cho tôi địa chỉ dỏm. Tôi tức phát ho, xin lỗi bà già, quay ra. - A! Chào anh. Không ngờ anh đến thăm sớm vậy? Cô gái đội nón vải rộng vành màu trắng, tay cầm giỏ nhựa màu tím như mới đi chợ về. Tôi muốn nói tại khuôn mặt em làm tôi mất ngủ, nhưng không hiểu sao tôi lại buột miệng: - Cái chân nhức quá, không ngủ được nên tôi đến đây sớm. - Tội nghiệp. Mời anh vào nhà. Cô gái đẩy cửa bước vào trước, tôi bước cà nhắc theo. Nàng giới thiệu tôi với bà già: - Đây là ân nhân của con. Còn đây là má của em, gia đình em chỉ có hai ngườ . Đúng là một gia đình lý tưởng. Bất cứ người đàn ông nào (dù đã có vợ) cũng đều mơ ước được đăng ký tạm trú rồi thường trú vĩnh viễn ở đây. Không đợi cô gái mời, tôi đã kéo ghế ngồi trước vì trong nhà chỉ có hai chiếc ghế cho ba người . Bà già bỏ đi xuống bếp. Cô gái pha trà rồi lấy trong giỏ nhựa một gói Jet đặt trên bàn. - Mời anh. - Em mua thuốc thơm làm chi tốn tiền. Anh hút thuốc đen được rồi. - Anh đừng ngại. Cây nhà lá vườn mà. Tôi sửng sốt hỏi: - Thuốc jet này do em "tự sản tự tiêu"? Nàng gật đầu cười: - Anh hút thử đi. Bảo đảm khói thuốc này không thua khói thuốc ngoại. Tôi thở dài, móc túi lấy gói thuốc lá đen của mình ra hút. - Còn má của em là má ruột hay... Nàng chớp chớp mắt. Tôi không biết nàng chớp mắt vì cảm động hay muốn bắt chước diễn viên trong kịch truyền hình. - Em mồ côi ba má từ nhỏ. Bà đây đem em về nuôi nên em yêu quý bà như má ruột. Có tiếng lục đục dưới bếp rồi tiếng bà già gọi với lên: - Hên ơi, hộp quẹt con để đâu? - Con để gần hũ chao đó má - Nàng quay lại trả lời. Vừa lúc đó cánh cửa hé mở. Một cô gái mặc đồ bà ba màu hường, tay cầm giỏ nhựa màu xanh bước vào . Cô nói nhanh như gió: - Chín, đưa tao năm cây jet. Nàng nói xin lỗi tôi rồi dắt cô gái vào buồng ngăn với phòng khách bằng một tấm vải có những bông hoa to bằng nắm tay . Một lúc sau, cô gái xách giỏ ra . Cô liếc nhìn tôi, mỉm cười rồi đi thẳng. Nàng bước ra, vuốt tóc nói: - Trời nóng quá. Để em đi mua cà phê đá cho anh. - Thôi khỏi mua. Anh đang nôn nóng muốn biết tên thật của em. - Em có nói anh cũng không tin. - Thì em cứ nói rồi anh sẽ tin. - Lúc nhỏ, em đau ốm hoài, tưởng đã chết. Nuôi sống được là hên lắm rồi, nên má nuôi đặt tên em là Hên. Buôn bán với chị em bạn hàng, em đứng hàng thứ 9 nên họ gọi là Chín. Khi nghe anh giới thiệu anh là Kim Sơn - ngọn núi vàng - em muốn mình là con suối xanh nên nói tên là Thanh Tuyền. Còn tên thật của em là... Nữ. Tôi bật cười và nàng cũng bật cười theo. Khi một người nam và một người nữ cùng bật cười ha hả, bạn hãy tin họ tâm đầu ý hợp với nhau lắm lắm. Vậy mà ba tôi nhất quyết không tin. Suốt một năm trời tôi đã thuyết phục ba tôi rằng bản chất nàng là một con người chân thật. Rằng nàng như bông sen "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Ba tôi lắc đầu nói "gần mực thì đen, buôn bán hàng dỏm thì... dỏm". Tôi là trưởng nam. Khi ba tôi chết tôi sẽ được thừa hưởng cái tủ thờ ông bà. Ba tôi không muốn có một cô con dâu, mai sau cúng ông toàn đồ ăn dỏm. Khi tôi báo cho nàng biết ý kiến của ba tôi, nàng đã òa khóc. Tôi tin nàng đã khóc thật. Vì khi cúi xuống hôn đôi mắt nàng, tôi cảm thấy rõ ràng "nụ hôn có vị mặn". - Bây giờ anh tính sao? - Chúng ta hãy ráng chờ đợi một hai năm cho ba anh tin em, như nhân dân ta sẽ tin hàng nội tốt hơn hàng ngoại . Chẳng cần đợi một hai năm, ngay sáng hôm sau tôi đã nhận được tin dựng tóc gái . Cô bạn của Chín đến cơ quan tôi, báo cho biết đêm qua Chín đã tự tử. Tôi vội phóng xe Honda chạy như bay đến Trung Tâm cấp cứu . Thanh Tuyền đang nằm trên giường, mắt nhắm nghiền, kiệt sức như một con suối mùa khô . Má của Hên, bạn của Chín, đứng kế bên thút thít khóc. Tôi đi tìm bác sĩ trực hỏi tình trạng sức khỏe của nàng. Bác sĩ móc túi áo blouse trắng, đưa cho tôi một hộp Optalidon. - May cho cô bạn của anh uống lầm thuốc dỏm, nếu không thì chúng tôi cũng chịu thua. Cầm hộp thuốc trong tay, tôi phân vân tự hỏi: Không biết nàng đã vô tình hay cố ý uống lầm thuốc dỏm? Đây là câu hỏi mãi mãi còn làm tôi nhức đầu. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tình nghĩa giáo Khoa Thư[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Sơn Nam[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]- Từ đây tới nhà ông Trần Văn Có gần hay xa vậy thầy? Thầy xã trưởng đáp: - Ở xóm Cà Bây Ngọp lận! Ðể tôi ra lịnh cho phó hương ấp đòi tên đó tới công sở... Thầy phái viên nhà báo “Chim Trời” giựt mình. - Tôi là phái viên, đâu có quyền hạn đó đối với quý độc giả thân mến gần xa. Thầy xã hỏi: - Phái viên là gì vậy thầy? - Là người thay mặt cho tờ báo đi cổ động và thâu tiền. - À! Bây giờ tôi mới biết cái thằng Tư Có. Nó thiếu tiền của nhà báo hả? Hèn chi nó bơi xuồng lên công sở lãnh báo, đúng bảy bữa là có mật nó. Nghèo không biết thân lại còn bày đặt làm sang mua báo không trả tiền! Thầy phái viên cố nén sự bực tức khi nghe người độc giả thân mến của mình bị thầy xã khinh khi; thầy hút thuốc suy nghĩ rồi lại hơi buồn buồn mà nhớ đến sự thất bại về tài chánh. Ông độc giả Trần Văn Có thiếu sáu tháng tiền báo tức là hai đồng sáu cắc rưỡi. Từ chợ Rạch Giá vô đây, thầy đã tốn gần ba cắc rưỡi tiền tàu, tiền thuốc hút. Chuyến về lại phải xuất thêm ba cắc nữa... Ông độc giả nghèo nàn này chắc gì trả được một đồng trong số tiền thiếu chịu nhà báo! Nhưng đã tới đây rồi mà trở về thì uổng cuộc viễn du Hậu Giang này quá! Thầy phái viên quyết tình binh vực thể diện của người độc giả nọ: - Không phải tôi đi đòi tiền! Tôi đi dò hỏi ý kiến bạn đọc đối với tờ báo. Tiền bạc là quý... Nhưng ý kiến của bạn đọc lại quý hơn. Ðộc giả ở tới đâu, chúng tôi đi tới đó. Sau vài phút đi tới đi lui, thầy xã gất đầu: - Ðược. Ðể tôi biểu thằng “Trạo” chèo tam bản đưa thầy. Thầy nên dè chừng. Tên Trần Văn Có nói mười, thầy tin một là vừa. Anh ta công kích tờ Lục Tỉnh Tân Văn của nhà nước Lang Sa gởi xuống công sở; đi ăn giỗ thì nói chuyện Hít Le, chuyện nước Ý đánh nước Á, chừng hỏi kỹ mấy nước đó ở đâu, anh ta bí lối nói lảng qua chuyện Tàu... Thầy phái viên tò mò: - Vậy thì ông độc giả của chúng tôi rành chử nho? - Ai biết rõ được. Anh ta nói có dây có nhợ, tích người học trò nghèo tên là ngươì Thừa Cung gì đó... chăn heo; ông quan đại thần Lý Tích đích thân nấu cháo cho chị ăn dè đâu bị lửa táp cháy râu. Chưa hết đâu, thầy phái viên ơi! Hễ gặp ai say rượu anh ta nói một hơi như thầy chùa tụng kinh, có ca có kệ. Cái gì mà các anh hãy trông người kia đi ngoài đường, mặt đỏ gay, mắt lờ đờ... Thầy phái viên cười lớn, nhịp mạnh tay xuống bàn ba bốn lần như đánh trống chầu hát bội, đôi mắt sáng ngời, chân nhảy nhót như con nít: - Hay quá! Hay quá! Tôi thăm ông độc giả đó mới được. Ổng làm thầy giáo hả thầy? Nhờ thầy đưa tôi đi tới gặp mặt. Ngộ quá hen! Ừ! Ừ! Bực mình quá chừng, thầy xã nghĩ: “Ông phái viên này kêu mình bằng thầy mà lại tưng bốc kêu Tư Có bằng ông. Hay là ổng chê mình không dám xuất tiền mua báo như Tư Có. Chừng bận về, mình mua vài năm báo chơi cho biết mắt”. Thầy xã hối thúc cho chú trạo sửa soạn quai chèo đưa thầy phái viên đến ấp Cà Bây Ngọp. Thầy phái viên cám ơn một tiếng nhỏ rồi cúi đầu xuống nói rù rì như xa như gần, trong cuống họng: - Ờ! Ðể coi các anh hãy trông người kia đi ngoài đường, mắt đỏ gay, mắt lờ đờ, quần áo xốc xếch, chân đi xiêu bên nọ vẹo bên kia, múa chân múa tay, mồm nói lảm nhảm... Lũ trẻ theo sau reo cười chế nhạo... Ðúng vậy, Quốc Văn Giáo Khoa Thư lớp sơ đẳng, Việt Nam Tiểu học tùng thư... Sách náy do Nha Học Chính đã giao cho ông Trần Trọng Kim, ông Ðặng Ðình Phúc và ông Ðỗ Thận soạn... Eo ơi! Cái buổi thơ ấy đó nay còn đau. Ðường đi ấp Cà Bây Ngọp quá xa vời! Chiếc tam bản nhún xuống một cái “ồ” rồi nhảy tới một cái “sạt” theo nhịp chèo hai chèo. Nắng chang chang rắc vàng trên thảm cỏ hoang xanh ngắt. Vài nhánh bình bát gie ra, quất vào bụi sột soạt. Xế chiều, cò trắng phất cờ như đón người khách lạ. Trích, cúm núm kêu ré lên. Con rạch thâu hẹp lại. Chiếc tam bản lắc nghiêng như trái dừa khô trên mặt nước đầu sóng gió. Ánh trạo chèo một chèo, nghiêng mình bên hữu. Rồi bỗng nhiên anh chụp mỗi tay một cây chèo mà chèo trên đất khô bên bờ rạch. Chiếc tam bản lại lướt nhanh trong lòng nước quá hẹp, vừa đủ lọt bề ngang. Anh trạo mỉm cười: - Chèo như vậy đi lẹ hơn. Mọi lần mùa hạn, nước cạn queo, dưới sông đầy bùn non, tôi cưỡi trâu trên bờ mà kéo. Chiếc tam bản đi như cộ kéo lúa... - Chú trạo biết rành nhà Từ Có không? - Dạ, biết. Tư Có ở một mình, nuôi heo, giăng câu, ăn ong, nghe nói y ở xứ Vãng Long xuống đây tính bề dạy học mà xin phép chưa được... o0o Buổi cơm chiều ngon lành làm sao! Ăn cá lóc nướng trui, uống rượu “ông cọp”. Anh trạo đã về, Tư Có kềm thầy phái viên ở lại ngủ một đêm, chú hứa sáng mai bơi xuồng đưa thầy trở lại công sở mà đón tàu đò. Thếp đèn dầu cá kéo thêm một tim thứ nhì nữa, cháy khá sáng. Bếp un dưới đất tỏa lên cuồn cuộn, tỏ rõ từng sợi khói mịn màng như mànhlưới tơ giăng bủa khắp căn chòi nhỏ hẹp. Tư Có bỏ mùng xuống, chun vô tấn ba phía rồi mời: - Thầy Hai vô trong này ngồi nói chuyện cho vui. Ở ngoài muỗi cắn. Khói như vậy mà muỗi cứ bu lại rớt lềnh trong thếp đèn dầu cá đó. Ngượng nghịu, thầy phái viên nhà báo Chim Trời rón rén dở mí mùng, chun lẹ vào ngồi kế bên: - Xứ gì lạ quá! Anh Tư ở đây hoài sanh bịnh chết. Tư Có đáp: - Xứ Cà Bây Ngọp, tiếng Khơ Me nghĩa là trâu chết. Hồi đó nghe nói trâu “len” tới đây thất bại, phong thổ ẩm thấp trâu chết nhiều quá. Họ đặt tên kỷ niệm luôn... Bởi vậy dân tình bịnh hoạn, thưa thớt, làng này chưa cất nổi cái trường học. Thầy phái viên trố mắt: - Vậy à? Còn mấy làng khác? - Ðông Thái, Ðông Hoà, Ðông Hưng, Vân Khánh Ðông... không làng nào có trường hết. Thầy nghĩ coi... - Hèn chi miệt này chỉ một mình anh Tư là độc giả báo Chim Trời của chúng tôi... Báo có thích hợp không anh Tư? - Nói chí tình, đó là của người bà con ở Sài Gòn “đăng” dùm tôi, ban đầu tưởng nói chơi dè đâu nhà báo gởi xuống thiệt, xem cũng đỡ buồn. Phần nhiều bài vở của mấy ông viết cao quá. Tôi thường đọc cái trương Văn Uyển, có bài thơ bát cú vủa cô Bích Lý vịnh cảnh sông Hương. Hay quá lẽ! về sau, ông Trần Bất Diệt ở Cầu Kè họa vận... Thầy phái viên gật đầu, ừ lấy lệ, thật ra hồi nào tới giờ đi cổ động cho báo Chim Trời mà ít khi thầy đọc kỹ báo nhà. Tư Có hỏi tiếp: - Nhà báo Chim Trời đông người không thầy? Chắc là lớn lắm? Làm sao mà thành chữ được. - Có thợ chuyên môn ráp từ chữ a, chữ b. - Trời thần ơi! Biết tới chừng nào mới xong, chắc là thợ đông lắm... Còn mấy ông chủ nhiệm, chủ bút, phóng viên... Chắc làm việc rần rộ ngày đêm. thầy phái viên sực nhớ đến tình trạng loe hoe của toà soạn, gật đầu lần nữa. - Làm báo thì cần nhiều trí óc lắm phải không thầy phái viên? Tiếc là hồi nhỏ cha tôi chết sớm. Hồi đó, ổng làm thầy giáo cũng đặt thơ bát cú, từ cứ. Cha tôi chết, má tôi giữ mấy pho sách, dạy lại tôi. Ðó là sách Quốc Văn giáo khoa thư, thầy còn nhớ không? Thầy phái viên cười: - Nhớ chớ. Làm sao mà quên được! Hồi nhỏ tôi hớt “ca rê”, tay xách tòn ten bình mực đi học ở trường làng. Hồi đó, trí óc minh sáng suốt, nhớ dai lắm. Bây giờ lớn tuổi, đầu bạc hoa râm, đi làm ăn rày đây mai đó, nhớ nhà, nhớ trường học, nhớ làng xưa. Tư Có nói: - Chắc là thầy muốn nói bài “chốn quê hương đẹp hơn cả” chớ gì? Rồi chú đọc một hơi: - Một người đi du lịch đã nhiều nơi. Hôm về nhà, kẻ quen người thuộc, làng xóm, láng giềng đến chơi đông lắm. Một người bạn hỏi: ông đi du sơn du thủy... - Ðó đa! Ðó đa! Anh Tư nhớ kỹ quá... Người du lịch mới trả lời: ở chống quê hương... từ cái bụi tre ở xó vường cho đến con đường khúc khuỷu trong làng, cái gì cũng gợi cho tôi những mối cảm tình chứa chan... Bài đó có hình ông già mang kiếng, chống gậy nói chuyện với mấy người khăn đống áo dài. - Thì hình nào cũng khăn đống áo dài. Trừ ra cái hình thằng nhỏ chăn trâu cầm roi: ai bảo chăn trâu là khổ... Không, chăn trâu sướng lắm chứ. Thầy phái viên phụ họa theo như cùng hợp xướng: - Ðầu đội nón mê như lọng che, tay cầm cành tre như voi ngựa, ngất nghểu ngồi trên mình trâu, tôi nghe chim hót trong chòm cây, mắt trông bướm lượng trên đám cỏ... Rồi thầy kéo qua những đoạn khác mà thầy nhớ: - Hay quá! Nhà báo bây giờ không ai bằng. Văn chương như vậy là cảm động lòng người... Như cái hình ông già đẩy xe bò lên dốc, có hai đứa học trò kéo dây tiếp sức. Trời nắng to. Ðường thì dốc. Một ông lão đẩy cái xe lợn. Trên xe có ba bốn con lợn to, chân trói bụng phơi và mồm kêu eng éc... Tư Có vỗ trán: - Còn ông già khuân tảng đá nữa, thấy mà thương: Trời nhá nhem, chạng vạng tối, tôi thấy một ông cụ già hì hục khuân tảng đá. Ông cụ nhắc lên để xuống đến bốn năm lần mới đem được từ giữa đường đến chỗ bụi cây mà bỏ đấy... Lão đi lỡ vấp phải tảng đá này, sầy cả chân đau lắm nên khuân bỏ vào đây, sợ có người vấp nữa chăng. Thầy phái viên lại không chịu rằng mình kém trí nhớ: - Ngang hình ông già đó, trương phía tay trái có bài chọn bạn mà chơi, thói thường gần mực thì đen. Cha chỉ ngón tay, con đứng khoanh tay cúi đầu mà nghe. Dưới chót lại có hàng chữ: Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài. Tu Có gất đầu: - Ðó là ngụ ý răn he gương tốt thói xấu. Phải siêng năng như Sửu chăm học, ngồi bên đèn mà đọc sách; đừng lười biếng như thằng Bình đánh vòng. Phải bền chí học hành. Ờ thầy phái viên chắc nhớ cái hình con kiến tha mồi! Văn chương nghe như đờn Nam Xuân: Nước mềm, đá rắn thế mà nước chảy mãi đá cũng phải mòn. Sợi dây nhỏ, cây gỗ lớn, vậy và dây cưa mãi cũng đứt. Con kiến nhỏ, cái tổ to, thế mà kiến tha lâu cũng đầy tổ. Người ta cũng vậy... o0o Không ai bảo ai, hai người lại nằm xuống lim dim. Tuổi của họ đã quá ba mươi! Nước chảy mãi mà sao đá không thấy mòn? Sợi dây cưa mãi, gỗ chưa đứt mà sợi dây sắp đứt trước. Sự nghiệp của họ nào đã có gì: Kẻ mến cái thú ở nhà quê, người lận đận với cái thú ở kẻ chợ. Nằm mãi không ngủ được, thầy phái viên lắng nghe những tiếng động trong nhà, giữa tiếng mọt nghiến gỗ kèn kẹt như người đưa võng, bất chấp tiếng chuột chạy sột soạt và nhất là tiếng muỗi rừng lộng hành kêu vo vo, thầy mơ lại những ngày năm nay tôi lên bảy, tôi đã lớn, tôi không... lêu lổng nữa. Còn đâu mùi hương của những quyển sách mới bao bìa kỹ lưỡng nhưng vài ngày sau đã rách bìa! Làm sao nghe được tiếng phập phồng trong ngực của đứa bé khi trời mưa to, đi học trễ, run rẩy bước vào trường rồi cổi áo phơi ngay trong lớp... Ðây, thầy giáo mặc đồ bà ba, lâu lâu bước ra khỏi lớp để chào hỏi khi thầy xã, thầy cai tổng đi ngang qua. Một đôi lúc, thầy giáo quá cay nghiệt đã dùng thước đánh vào những đầu ngón tay non yếu, hoặc hươi cây thước bảng... Dầu sao đi nữa, những kỷ niệm xa xưa vẫn vui, vui như một lũ học trò giành nhau chụp cho được cây dùi trống, đánh thùng thùng báo hiệu giờ vào lớp. Giọng Tư Có nói nhỏ: - Ngủ chưa, thầy phái viên? Thầy phái viên yên lặng, trời mới mưa, các chỗ trũng đầy nước cả nên cóc và nhái kêu ính ỏi. Vài giọt mưa rớt nhẹ xuống đất... Và rơi trên rạch Cà Bây Ngọp trước nhà. Hồi năm nào, thầy là giọt nước trong lành đó, bây giờ nó đã trôi xa, ra sông, chứa đựng rác rến, chảy hăng ra biển. Ừ, hoạ chăng đó là con đường hiệu quả nhất là được sớm bốc thành hơi, đầu thai trở lại nguồn... Nghĩ vậy, thầy khoan khái mỉm cười ngồi dậy hỏi: - Ngủ chưa anh Tư? - Chưa! - Tôi nãy giờ cũng vậy, muốn ngủ sớm để mai về nhà, mà không thấy mệt. Im lặng một hồi lâu, rất lâu, Tư Có nói ngậm ngùi sau một tiếng thở dài: - Biết lấy gì làm sở phí cho thầy. Thầy nói thiệt tình nghe coi... Chắc thầy tới đây thâu tiền. - Ðâu có! Ðâu có! Mình là bạn đời với nhau... - Thầy hiểu cảnh tôi. Không lẽ gởi cá lóc, rùa, mật ong... nhờ thầy đem về Sài Gòn gọi là tiền của tôi trả cho nhà báo. Tôi “đăng” là vì ái mộ báo Chim Trời chớ ít đọc lắm. Mấy thầy viết cao quá. Tôi mua để dành về sau cho đủ bộ. - Anh Tư đừng ngại chuyện đó. Cứ tiếp tục đọc. Lâu lâu dò nơi mục Thư tính không chừng có lời của tôi thăm hỏi anh Tư. Nếu thấy báo đăng đòi tiền các độc giả, xin anh Tư hiểu rằng đó là nhắc nhở các người khác. Tôi hứa nói lại với ông chủ nhiệm mỗi kỳ gởi tặng anh Tư một số báo, hoài hoài cho tới số chót. Chú Tư Có vô cùng cảm động: - Thôi thầy ngủ lấy sức để mai về bình yên. Khuya nghe chồn cáo cộc kêu, thầy đừng giựt mình: Ở đây miệt rừng, không có... xa xa thì nghe tiếng chó sũa trăng. Thầy phái viên cười dòn, tưởng tượng cái cảnh biệt ly ngày mai “Ôi! Cái cảnh biệt ly ở xóm Cà Bây Ngọp sao mà buồn vậy!”. Vĩnh biệt thì đúng hơn. Nghe nó buồn như một giọng hò, một câu rao Vọng Cổ, nhưng thầy chưa muốn nói ra, giờ này.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tình qua tin nhắn[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trung Cường[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi nghĩ hắn là đàn ông. Còn hắn đoán tôi là phụ nữ. Mọi chuyện rất đơn giản, kể từ khi tôi quen hắn. Rất ngẫu nhiên bằng một tin nhắn. Dĩ nhiên là từ phía hắn, vì tôi không thích mấy cái trò nhăng nhít này. Ấy thế mà tôi lại quen hắn, đến nay là 3 tháng. Thế mới lạ! Và càng lạ hơn nữa khi tôi với hắn không hề biết mặt nhau. Hắn giới thiệu hắn là nhà báo nửa mùa (đơn giản là viết để kiếm sống, nhưng không được danh chính ngôn thuận cho lắm, vì không có tòa soạn nào nhận hắn). Hắn mới ra trường, làm việc được sáu tháng, gặp ông sếp ngụy quân tử, thế là hắn bỏ việc và trở thành “ký giả tự do”, như tin hắn nhắn. Ừ! Tôi cũng gặp nhiều loại người như hắn. “Thế lấy gì sống?”- tôi hỏi - “Sự cưu mang của bè bạn”. “Đời cũng hay nhỉ?”. Hỏi cũng để mà hỏi, tôi cũng chẳng quan tâm lắm. Đời vốn phức tạp, cái gì đơn giản được cứ để cho nó đơn giản. Tôi quan niệm thế. Tôi không cần biết hắn là ai (có lẽ hắn cũng vậy). Khi buồn, ngày hay đêm, tin nhắn của tôi đều được reply. Khi vui, hắn là người duy nhất nhận tin nhắn của tôi. Những lúc cô đơn, hắn nhắn hắn có thể giúp được tôi. Quả thật, có lần tôi khóc, dường như hắn biết được (tôi đoán thế), nhắn lại rằng: “Phụ nữ khóc ra nước mắt. Đàn ông nhỏ nước mắt gọi là khóc”. Nghe cũng triết lý nhưng khó lọt tai. “Có gì khác đâu?”. “Sao không? Nhìn đời qua khe mắt hẹp như you thì làm sao thấy được độ chênh của nó”. “Thế đã bao giờ “nhỏ nước mắt” chưa người đàn ông?”. Sự im lặng hồi lâu của phương tiện liên lạc hiện đại. “Tôi chỉ trả những gì đã từng được nhận”. “Thế trả hết chưa?”. “Có người không bao giờ muốn trả, có người muốn trả lại không được. Đời mà!”. Hắn kết thúc câu chuyện. Tôi biết thế. Một sáng nhận tin nhắn của hắn, có nội dung: Sếp cũ gọi hắn làm việc lại, ký hợp đồng dài hạn và nhiều hứa hẹn. Hắn đếch cần, lấy lại hồ sơ, nguẩy cái mông quần bạc phếch vào cặp kiếng cận đang nhướng lên như mắt ếch của sếp, rồi biến. Thề không bao giờ quay lại nhìn cái thói đạo đức giả của những thằng luôn tỏ ra mình có hành động giống quân tử. Dòng cuối hắn nhắn: “Tưởng tượng thôi. Ngày Cá tháng tư mà!”. Bật cười. Nhưng đâu rồi lại đấy, như bao mẩu tin vặt vãnh tôi đọc hằng ngày. Nhàm chán. Đơn điệu. Không lưu nổi vào bộ nhớ của tôi. Ngày vẫn lại là ngày. Hắn nhắn (dường như hắn buồn), hắn đã từng yêu, người ấy đã lấy chồng. “Sao vậy?”. “Không biết. Cô ấy bỏ tôi. Không. Đúng hơn tôi chia tay cô ấy”. Chuyện thường thôi. Tôi gặp đã nhiều ở ngoài đời, trong tiểu thuyết và có thể là chính tôi. “Bận tâm làm quái gì” - tôi reply lại. Hắn không trả lời. Dường như hắn giận. Mặc kệ. Đời này lắm đứa dở hơi. Nghĩ vậy nhưng thấy chạnh lòng. Kỳ lạ. Hắn không bao giờ có ý định gặp tôi. Và tôi cũng không có ý nghĩ ấy. Lỡ ra... Rách việc. Có lần hắn giả sử: “Nếu mình gặp nhau thì sao nhỉ?”. “Chẳng sao cả. Tôi chẳng muốn gặp anh”. Hắn nhắn: Hi... Hi. Trong những lúc buồn bực, stress, tôi vẫn thường xem hắn như một bao cát. Thình thịch nện vào đó bao bực dọc về công việc, bè bạn, tình cảm... Và tất cả những gì tôi nghĩ hắn có thể hứng chịu, như hắn đã và đang chịu sự bầm dập của thói đời. Hắn vẫn với giọng ôn hòa (có thể đang cố gắng) điềm đạm phản bác lại tôi. Quẩn quanh như đi vào ngõ cụt, tôi buông tay, mệt mỏi vớt vát: “Để rồi xem”. Có lẽ vì câu nói ấy làm cầu nối giữa tôi và hắn, cho đến bây giờ. Hắn lại nhắn vào một sáng thứ bảy, khi tôi đang thinh lặng bên ly cà phê không đường như bao ngày cuối tuần: “Có bao giờ you nghĩ sẽ yêu một người nào đó theo đúng nghĩa đàn ông chưa?”. “Không cần biết. Cái gì đi rồi sẽ đến. Và ngược lại”. “Thế là you đã từng yêu”. “Ai mà chẳng từng yêu. Ai chẳng từng đổ vỡ. Hạnh phúc nào cũng bềnh bồng, diệu vợi”. Tôi nghĩ thế. Hắn cười (tôi luôn tin vào những phán đoán của mình): “You có ý nghĩ lạ, không giống ai”. “Tôi sợ giống một ai đó, phiền phức lắm, sống phải cho ra mình”. Hắn nhắn hắn có nhiều việc đáng lo nghĩ. Có thể. “Nhưng nghĩ lắm mệt người” - tôi luôn đơn giản mọi vấn đề, không riêng với trường hợp của hắn. Tôi có một căn nhà để ở, một công việc để làm, không bận bịu với toan tính yêu đương. Thế thì cần gì phải nghĩ. “Biết đâu”- hắn luôn kết thúc mọi tranh cãi như thế. Biết đâu. Tôi mỉm cười lặp lại câu nói của hắn. Nghe cũng triết lý chứ nhỉ? Ngày lại ngày. Công việc vẫn cứ là công việc. Không có sự đổi thay. Tôi với hắn vẫn nhắn tin, và theo tôi, ai cũng hiểu rằng không nên phí thời gian để gọi điện làm phiền nhau. Thế đấy. Một quy luật bất thành văn. Nó ngớ ngẩn mà vẫn tuân thủ đúng quy trình của nó. Tôi nghĩ thế. Còn hắn? Thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ tới, nhưng rồi cũng bật cười vì mình cũng dở hơi như hắn. Đã quy luật thì bất biến. Có quy luật nào bị phá vỡ không nhỉ? Biết đâu. Tôi mượn lời của hắn kết thúc ý nghĩ ngớ ngẩn của mình. Có lần tôi nhắn với giọng buồn bực, khi đứa bạn thân vừa rầu rầu với câu chuyện buồn tôi kể, thoáng chốc đã cười nói như chẳng có việc gì. Tôi ngẫm tưởng, người ta vừa trút khỏi khuôn mặt cái mặt nạ đồng cảm. Và biết đâu sau cái mặt nạ đồng cảm đó...? Tôi dằn dỗi kết luận: “Mỗi người đều có những mặt nạ khác nhau. Tôi và anh cũng vậy”. Hắn không phủ nhận: “Chính đời sống làm nên những mặt nạ ấy. Con người chỉ mượn mặt nạ đa sắc thái để duy trì sự tồn tại dễ thở hơn một chút”. “Tất cả đều giả dối”- đó là chủ kiến của tôi. “Không hẳn vậy! Tính tiêu cực hay tích cực tùy thuộc nhiều góc nhìn: người đeo mặt nạ, người nhận mặt nạ, hoàn cảnh đeo-nhận...”. Tôi không trả lời. Hắn lại nhắn: “ Sống ở đời cần loại suy nhiều. Đừng áp đặt những ý kiến, nghĩ suy của mình lên người khác. Khổ cho người, đau cho mình”. Bẵng thời gian, tôi không nhận được tin nhắn của hắn-như một người ghiền cà phê thiếu đi dư vị đăng đắng hằng ngày. Người với người rồi cũng có lúc như dấu chấm than vô nghĩa. Tôi nghĩ thế. Đời sống vốn bắt đầu từ sự ngẫu nhiên. Ngẫu nhiên đến. Ngẫu nhiên đi. Thế thôi. Nghĩ là vậy nhưng có một khoảng trống nào đó dìu dịu trong tôi. Rất nhẹ... Rất nhẹ... Một sáng như buổi sáng nhận được tin nhắn đầu tiên của hắn, chiếc điện thoại báo hiệu có kẻ quấy rối giấc ngủ cuối tuần. Bực dọc. Cầm điện thoại mở hộp thư đến: “Một ngày mới bắt đầu từ cái giường của mình. Chúc cuối tuần zui zẻ”. Bật cười. Vội reply. Vẫn vậy, tin nhắn của hắn vẫn sặc mùi triết lý, nhưng có vị ngô nghê. Tôi vẫn gọi đó là thứ triết lý rởm đời, triết lý của những kẻ nhìn đời bằng cách ngược xuôi giữa dòng đời hối hả, bên cạnh những bon chen, chụp giựt danh vọng, tiền tài, địa vị... mà vẫn giữ cái nhìn rất rởm. Rởm đến cho người đời chột dạ dừng lại nhìn. Nhìn người. Nhìn mình. Rồi cúi đầu bước. Cứ thế, tôi với hắn vẫn duy trì cái quy luật như đã từng thiết lập nhưng không từng có ý định phá vỡ. Cho đến... Một sáng như thường ngày, tin nhắn lại đến với tín hiệu thông thường: “Hôm nay 49 ngày anh Hai mất. Chị đến nhé. Có lẽ anh mong chị lắm!”. Ngẫu nhiên. Nhưng không đơn giản. Chưa một lần tôi nghe giọng nói của anh. Không hiểu sao tôi òa khóc![/FONT]
LỖI Cả hai chúng mình chẳng có lỗi gì đâu Khi tình yêu đã một lần tan vỡ Vẫn yêu nhau mà đành dang dở Cả hai chúng mình chẳng có lỗi gì đâu. Cả hai chúng mình điều có lỗi với nhau Anh đã quên em để em mơ kẻ khác Em thì quên đi, tưởng tình kia đã nhạt Không ngờ còn lại vết thương đau. Nhức nhối nhiều bởi đã rất lâu Trái tim ai đã bắt đầu nồng cháy Anh muốn nói yêu em như xưa ấy Đã vỡ rồi đâu còn được lành nguyên? Có bao giờ hàn gắn được trái tim? Anh đừng nói cho lòng em thổn thức Em biết anh đã nhiều lần day dứt Anh buồn, em còn buồn nhiều hơn. Trước em buồn vì đã mất anh Nay lại buồn vì anh khơi chuyện cũ Lấy lại làm sao niềm tin đã sụp đổ Hãy quên em và đừng nói yêu em.
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tình yêu cuộc sống[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Jack London[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Họ hì hụi tập tễnh xuống bờ suối, và có lần gã đi đầu trong số hai người loạng choạng giữa lớp đá lởm chởm. Họ mệt, yếu lử lả và mặt họ thuỗn ra cái vẻ nhẫn nại do chịu đựng gian khổ đã lâu. Họ đeo những bó nặng bọc mềm có quai đeo vào vai. Những bọc này còn có những đai đầu quàng qua trán cho đỡ nặng. Mỗi người mang một cây súng trường. Họ bước đi trong tư thế lom khom, vai chúi hẳn về đằng trước, đầu còn nhô xa hơn, mắt cúi gằm xuống đất. - Giá như chúng mình có hai viên đạn ở chỗ giấu của chúng mình - người thứ hai nói. Giọng gã hoàn toàn vô cảm một cách buồn tẻ. Gã nói không một chút hào hứng; và người đi đầu trật trà trật trưỡng trong dòng suối trắng như sữa sủi bọt trên những mô đá, không buồn trả lời. Gã kia theo sát gót hắn ta. Họ không cởi giày, tất gì hết, mặc dầu nước giá lạnh, lạnh đến nỗi đau cả mắt cá và bàn chân tê cóng. Có những chỗ, nước xô vào đầu gối họ, và cả hai chệnh choạng quờ tìm chỗ đặt chân. Gã đi sau trượt chân trên một phiến đá nhẵn lì, suýt ngã, nhưng hết sức cố gắng gượng dậy, đồng thời ré lên một tiếng kêu đau. Gã có vẻ lả đi, chóng mặt và trong khi lảo đảo, giơ bàn tay rảnh ra như muốn níu vào không khí. Khi đứng vững rồi, gã bước tiếp nhưng lại lảo đảo và suýt ngã lần nữa. Rồi gã đứng im và nhìn người kia, tay này không ngoảnh đầu lại lấy một lần. Gã đứng im cả một phút như bàn luận với chính mình, rồi lên tiếng gọi: - Này Bil, mình bị trẹo mắt cá rồi. Bil vẫn ngật ngưỡng đi qua dòng nước trắng sữa. Hắn không quay lại nhìn. Gã kia ngó theo hắn đi và tuy mặt gã vẫn đờ đẫn như trước, nhưng cặp mắt thì lại như mắt một con nai bị thương. Người nọ tập tễnh lên bờ bên kia và tiếp tục đi thẳng không nhìn lại. Gã ở giữa dòng ngó theo. Môi gã run rẩy khiến lớp lông nâu phủ bên trên động đậy rõ rệt. Cả lưỡi gã cũng thè ra liếm môi. - Bil ! - gã gọi to Đó là tiếng kêu khẩn cầu của một người khoẻ mạnh trong cơn quẫn bách, nhưng Bil không ngoái đầu lại. Gã kia nhìn theo hắn đi, tập tễnh đến tức cười và loạng quạng tiến dần từng bước theo bờ dốc thoải hướng tới nét lượn mềm in lên nền trời của trái đồi thấp. Gã nhìn theo cho đến khi Bil đi qua đỉnh đồi và biến mất. Rồi gã xoay hướng nhìn và từ từ đảo mắt vòng quanh thế giới còn lại với gã giờ đây khi Bil đã đi khỏi. Gần chân trời , vầng dương thoi thóp mờ mờ, gần như bị những đám sương mù và hơi không ra hình thù gì che khuất, gây một cảm giác về tảng khối và đậm đặc không đường nét hoặc không cụ thể. gã rút đồng hồ ra xem, dồn trọng lượng toàn thân trên một chân. Đã bốn giờ và vì đận này đã gần cuối tháng bảy hay đầu tháng tám - trong vòng một, hai tuần nay, gã không còn nhớ đích xác ngày tháng - gã biết là mặt trời lúc này ang áng chỉ hướng tây bắc. Gã nhìn về phía nam và biết răng đâu đó bên kia những trái đồi heo hút này, là Hồ Gấu Lớn; gã cũng biết rằng ở phía ấy vòng tròn bắc cực cắt ngang vùng hoang địa Canada. Con suối mà gã đang đứng giữa dòng là một nguồn tiếp nước ra sông Mỏ Đồng, sông này lại chảy theo hướng bắc đổ vào Vịnh Đăng Quang và Bắc Băng Dương. Gã chưa bao giờ tới đó, nhưng gã đã thấy nơi ấy một lần trên một tấm bản đồ của công ty Vịnh Haxđơn. Một lần nữa, mắt gã lại đảo khắp một vong cái thế giới quanh gã. Một quang cảnh không lấy gì làm phấn khởi. Đâu đâu cũng là đường chân trời mềm mại. Các trái đồi đều thấp. Chẳng có cây to, cây nhỏ cũng chẳng có cỏ, chẳng có gì ngoài một sự tiêu điều mênh mông và ghê gớm, khiến cái sợ mau chóng nhóm lên trong mắt gã. - Bil ! - gã thì thào, một lần rồi hai lần : - Bil ! Gã co ro giữa dòng nước trắng sữa, như thể khoảng không rộng lớn đang ép lên gã với một sức mạnh áp đảo, đè dí gã một cách thô bạo với sự uy nghi đầy tự mãn của nó. Gã bắt đầu run lên như cơn sốt, cho đến khi cây súng rơi đánh tõm khỏi tay gã . Điều đó có tác dụng khuấy động gã. Gã đấu tranh với nỗi sợ và trấn tĩnh lại, mò xuống nước nhặt cây súng lên. Gã nhích cái bọc qua về phía vai trái, để chuyển bớt một phần trọng lượng khỏi đè lên phía mắt cá bị thương. Rồi gã từ từ và thận trọng tiến vào bờ, mặt nhăn nhó vì đau. Gã không dừng lại. Với một sự tuyệt vọng như điên, bất kể đau, gã hối hả lên dốc tới tận đỉnh đồi, nơi ban gã đã đi khuất, dáng vẻ còn tức cười hơn nhiều so với tay bạn tập tễnh, ngật ngưỡng nọ. Nhưng tới đỉnh, gã trông thấy một thung lũng nông, trống vắng sự sống. Gã lại đấu tranh với cái sợ, vựot lên được , nhích thêm cái bọc qua nửa vòng phía vai trái và tiếp tục lảo đảo xuống dốc. Đáy thung lũng sũng nước được lớp rêu dày, tựa bọt biển, hút xâm xấp trên mặt. Nước ấy, cứ mỗi bước, lại bắn vọt từ dưới chân gã và mỗi lần gã nhấc chân lên, lại nghe kêu đánh oạp khi lớp rêu ướt miễn cưỡng nhả ra. Gã lách đường từ đám lầy này sang đám lầy khác và dò theo dấu chân của người kia, dọc, ngang những gờ đá lô nhô như những hòn đảo nhỏ giữa biển rêu. Tuy có một mình, nhưng gã không lạc. Gã biết đi quá nữa, gã sẽ đến chỗ có những cây vân sam và linh sam chết nhỏ xíu và quắt queo bên bờ một con hồ nhỏ, Titsinisili, tiếng địa phương có nghĩa là " Vùng đất của những chiếc que nhỏ ". Và chảy vào hồ ấy, là một con suối nhỏ, nước không lờ lờ màu trắng sữa. Trên bờ dòng suối này có cỏ bấc, điều này gã nhớ rất rõ, nhưng không có cây to, và gã sẽ ngược theo nó đến đầu nguồn của một đường phân thuỷ. Gã sẽ qua đường phân thuỷ đó, tới đầu nguồn một con suối khác chảy vào sông, ở đấy gã sẽ tìm thấy một chỗ cất giấu dưới một cái xuồng lật xấp, với nhiều phiến đá xếp chồng lên trên. Và trong chỗ cất giấu ấy, sẽ có đạn cho cây súng rỗng không của gã, lưỡi câu và dây câu, một cái lưỡi nhỏ , tất cả những thứ đó dùng cho việc giết và bẫy mồi làm thức ăn. Gã cũng sẽ tìm thấy bột mì, không nhiều, một miếng thịt lợn và chút ít đậu. Bil sẽ đợi gã ở đó và họ sẽ chèo xuồng xuôi về nam trên sông Đijơ đến Hồ Gấu Lớn. Và họ sẽ xuyên qua hồ về phía nam, cứ phía nam đi miết cho đến khi tới sông Meckenji. và lại hướng nam, vẫn hướng nam, họ sẽ tiếp tục đi, trong khi mùa đông hoài công đuổi theo họ, băng đóng trong những xoáy nước, và ngày trở nên lạnh giá và hanh, cứ hướng nam mà tiến, đến một trạm ấm áp nào đó của công ty Vịnh Haxđơn, ở đó có cây mọc cao và thoáng, ở đó có ê hề đồ ăn, thức uống. Đó là những ý nghĩ của người đàn ông này, khi gã gắng sức dấn bước. Nhưng dầu nỗ lực mấy về thể xác, gã cũng nỗ lực không kém về tinh thần, cố nghĩ rằng Bil không bỏ gã, rằng Bil chắc chắn sẽ chờ gã ở chỗ cất giấu. Gã buộc phải nghĩ vậy, nếu không thì việc gì phải ráng sức, cứ nằm xuống và chết cho rồi. Và trong khi mặt trời như quả cầu mờ từ từ lặn xuống mé tây bắc, gã điểm qua suốt lượt, nhiều lần, từng phần một chặng đương trốn chạy xuống phía nam của gã và Bil trước khi mùa đông tới. Và gã xem đi xét lại những đồ ăn ở nơi cất giấu và ở trạm của mọc ở đầm lầy, bỏ vào miệng, nhai và nuôtcông ty Vịnh Haxđơn. Đã hai ngày, gã không ăn gì cả, trong một thời gian dài hơn thế nhiều, gã phải bóp miệng, không có đủ những gì gã muốn ăn. Nhiều lúc, gã cúi xuống nhặt những quả tai tái mọc ở đầm lầy, bỏ vào miệng, nhai và nuốt. Đó là một tí hạt bọc trong một tí cùi nước. Bỏ vào mồm, cùi nước tan ra và hạt nhai găn gắt, đắng nghét. Gã biết quả ấy chẳng bổ béo gì, song cứ kiên nhẫn nhai, với một hi vọng lớn hơn kiến thức và bất chấp kinh nghiệm. Đến chín giờ, gã vấp ngón chân vào một mô đá và chỉ vì mệt và yếu, gã lảo đảo, quỵ ngã. Gã nằm nghiêng một lúc, không động cựa. Rồi gã rút tay ra khỏi quai đeo bọc và lóng ngóng gượng ngồi dậy. Trời chưa tối hẳn và trong ánh hoàng hôn còn vương lại, gã rờ rẫm quanh, tìm những mảng rêu khô giữa những phiến đá. Khi đã vun lại được một đống, gã đốt lên một ngọn lửa, một ngọn lửa lom rom, lem nhem, và đặt lên một bình thiếc đựng nướcđể đun sôi. Gã mở cái bọc và việc đầu tiên là đếm các que diêm. Có sáu mươi bảy que. Gã đếm tới ba lần cho chắc. Gã chia làm nhiều phần, gói bằng giấy dầu, cất một bó vào cái túi đựng thuốc lá đã rỗng không , một bó khác vào đai trong của chiếc mũ nhàu nát, bó thứ ba vào dưới ngực áo sơ mi. Làm xong việc đó, gã chợt hoảng và giở tất cả ra đếm lại. Vẫn còn nguyên sáu mươi bảy que. Gã hong giầy tất bên bếp lửa cho khô. Đôi giày da đanh rách bươm, ướt sũng. Bít tất nhiều nhỗ thủng, chân gã trầy da cà rướm máu. Mắt cá giần giật và gã xem xét kỹ chỗ đau. Nó đã sưng lên to bằng đầu gối. Gã xé ở một trong hai tấm mền ra một miếng dài và buộc chặt lấy mắt cá. Gã xé thêm nhiều dải khác buộc quanh hai chân thay cả giầy lẫn tất. Rồi gã uống bình nước nóng bốc hơi, lên giây đồng hồ và mò vào giữa hai lớp mền chăn. Gã ngủ như chết. Bóng tối ngắn ngủi vào khoảng nửa đêm, đến rồi đi. Măth trời lên ở mạn đông bắc, chí ít là ngày đã rạng ở khu vực ấy, vì mặt trời bị những đám mây xám che khuất. Sáu giờ, gã thức giấc, nằm ngủ bình thản. Gã nhìn thẳng lên bầu trời xám và biết rằng mình đói. Khi chống khuỷu tay xoay người đi, gã giật mình vì một tiếng khịt to và trông thấy một con tuần lộc caribu đực đang nhìn gã với vẻ tò mò cảnh giác. Con vật cách gã không quá mười lăm mét và lập tức trong óc gã bật lên hình ảnh và vị thơm ngon của một miếng bit-tết caribu rán xèo trên bếp lửa. Như cái máy, gã với tay ra lấy cây súng rỗng không nhằm và bóp cò. Con tuần lộc khịt khịt và nhảy đi, móng nện lóc cóc khi chạy qua những mô đá. Gã rủa một tiếng rồi quẳng cây súng rỗng không khỏi mình. Gã rên to khi bắt đầu nhổm người đứng dậy. Đó là một công việc chậm chạp và gay go. Các khớp xương của gã như những bản lề gỉ. Chúng ngúc ngắc khó khăn trong hốc xương vì cọ sát nhiều, và mỗi động tác gập vào hay duỗi ra đều chỉ thực hiện được với sự cố gắng ghê gớm. Cuối cùng khi gã điều khiển được đôi chân, lại mất độ một phút nữa để đứng thẳng lên được, đứng như tư thế của một con người. Gã bò lên một cái gò nhỏ và nhìn khắp xung quanh. Không có cây to, cũng chẳng có cây bụi, chẳng có gì ngoài một biển rêu xám, lác đác điểm xuyết bằng những tảng đá xám, những hồ nhỏ màu xám, những suối nhỏ màu xám. Bầu trời cũng xám. Không có nắng, cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của mặt trời ; gã không còn biết đâu là phương bắc và gã đã quên đêm qua gã đã đến chỗ này bằng cách nào. Nhưng gã không lạc. Điều đó thì gã biết. Chẳng bao lâu gã sẽ đến Vùng đất của những chiếc que nhỏ . Gã cảm thấy nó nằm bên trái đâu đấy không xa, có thể nagy sau trái đồi thấp sắp tới. Gã quay lại xếp cái bọc cho vuông vức để lên đường. Gã kiểm tra cho chắc chắn là vẫn còn ba gói diêm riêng rẽ, tuy nhiên gã không mất thì giờ đếm lại. Nhưng gã có lần chần, cân nhắc về một cái túi da nai bè bè. Nó không to. Gã có thể che dấu nó dưới hai bàn tay mình. Gã biết nó nặng mười lăm "pao" - bằng phần còn lại của cái bọc- và nó làm gã băn khoăn. Cuối cùng, gã để nó sang một bên và cuộn cái bọc lại. Gã ngừng lạ, đăm đăm nhìn cái túi da nai bè bè. Gã nhặt vội nó lên, đưa mắt nhìn quanh ra chiều thách thức, tựa hồ sự hoang sơ đang chực cướp nó đi vậy, và khi gã đứng dậy để loạng choạng đi vào ngày mới, thì nó đã được gói gọn trong cái bọc trên lưng. Gã rẽ sang bên trái, thỉnh thoảng dừng lại để ăn những trái cây đầm lầy. Mắt cá gã đã cứng ngắc, bước đi cà nhắc hơn, nhưng cái đau ấy hồ như chẳng thấm gì so với cái đau hành hạ dạ dày. Những cơn đói quặn thắt ruột thắt gan cứ nhay huỷ cho đến khi gã không thể giữ cho đầu óc tập trung vào lộ trình gã phải theo để tới Vùng đất của những chiếc que nhỏ. Những trái cây đầm lầy không làm sao giảm nhẹ được sự nhay nghiến đấy, mà chỉ làm cho lưỡi và vòm miệng gã đau rộp lên. Gã tới một thung lũng, tại đó gà gô núi đá vỗ cánh rào rào bay lên từ những gờ đá và bãi lầy. "Kéc ... kéc ... kéc ", chúng kêu như vậy. Gã lấy đá ném nhưng không trúng con nào. Gã đặt cái bọc xuống đất và rón rén đến gần chúng như mèo định lén bắt chim sẻ. Đá nhọn cứa qua ống quần đến độ đầu gối gã để lại một vết máu. Nhưng cái đau ấy chìm trong cái đau đói bụng. Gã bò ngoằn ngoèo trên lớp rêu ướt, quần áo ướt đẫm, người rét run ; những cơn sốt cuồng đòi ăn quá lớn, khiến gã không còn biết tới cảm giác đó. Và lũ gà gô vẫn bay lên rào rào trước mặt gã, đến khi tiếng "kéc ... kéc" của chúng trở thành một sự trêu chọc đối với gã, và gã rủa chúng, quát ngậu lên với chúng. Một lần, gã bò tới một con, chắc đang ngủ. Mãi đến lúc nó vụt lên từ hốc đá ngay trước mặt gã, gã mới trông tháy nó. Gã chộp một cái, cũng bất thần như con gà gô bay lên, và trong tay gã còn lại ba cái lông đuôi. Nhìn theo nó bay, gã thấy căm thù nó như thể nó đã hại gã một điều gì ghê gớm lắm. Rồi gã quay lại và khoác cái bọc lên vai. Giờ này qua giờ khác gã đi vào những thung lũng hoặc những chỗ đất thấp lầy còn nhiều thú săn hơn nữa. Một đàn tuần lộc caribu đi qua, có toíư hơn hai chục con, ở trong tầm súng như trêu ngươi. Gã cảm thấy một khao khát cuồng dại muốn đuổi theo chúng, tin chắc mình có thể bắt được chúng. Một con cáo đen tiến về phía gã, mồm ngậm một chú gà gô. Gã la lên. Đó là một tiếng kêu ghê sợ, nhưng con cáo hốt hoảng nhảy đi, không buông rơi con gà gô. Xế chiều, gã lần theo một con suối, nước lờ lờ chất vôi, chảy qua những vạt cỏ bấc rải rác. Nắm chặt những bụi cỏ bấc ấy ở quãng gần rễ, gã nhổ lên một cái gì từa tựa một đọt hành non, không lớn hơn chiếc đinh ván. Nó mơn mởn và răng gã cắm ngập vào đó, gặm rau ráu tưởng chừng sẽ là món ăn tuyệt diệu. Nhưng thớ nó rắn cấc. Nó gồm những sợi đẫm nước, như những trái cây bãi lầy nọ, và chẳng có chất dinh dưỡng gì. Gã quẳng cái bọc xuống và quỳ gối bò vào đám cỏ bấc, gặm và nhai trệu trạo như trâu bò. Gã rất mệt và nhiều lúc muốn nghỉ, nằm ềnh ra và ngủ ; nhưng gã vẫn bị thôi thúc dấn bước liên tục bởi cái đói hơn là bởi nỗi mong muốn tới được Vùng đất của những chiếc que nhỏ. Gã sục những vũng nước mò ếch nhái và lấy móng tay đào đất tìm giun, mặc dầu gã biết ở mạn cực bắc này chẳng làm gì có ếch nhái cũng như giun. Gã hoài công soi mói từng vũng nước, cho đến khi hoàng hôn đến, gã mới phát hiện ra một con cá lẻ loi, bằng cỡ một con cá tuê, trong một cái vũng như vậy. Gã thọc tay xuống nước đến tận vai, nhưng con cá lẩn thoát. Gã với cả hai tay ra chộp nó, khuấy tung lớp bùn đục lờ dưới đáy. Thế là nước đục ngầu lên khiến gã không thấy nó đâu nữa và buộc phải đợi cho bùn lắng xuống. Cuộc săn bắt tiếp tục, cho đến khi nước lại đục ngầu lên. Nhưng gã không thể đợi được nữa. Gã tháo chiếc xô thiếc và bắt đầu tát nước. Thoạt đầu gã tát như điên, bắn vung cả lên người, và hắt nước gần quá thành thử lại chảy về vũng. Rồi gã làm thận trọng hơn, cố gắng bình tĩnh, mặc dầu tim đập vào thành ngực thình thịch và hai tay run lên. Được nửa giờ, vũng nước gần cạn khô. Chỉ còn không đầy một cốc nước. Mà chẳng thấy cá đâu. Gã tìm ra một khe nứt giữa lớp đá, nó đã chui qua đó trốn sang cái vũng bên cạnh to hơn, một cái vũng mà có bỏ cả một ngày, một đêm gã cũng chẳng thể tát cạn. Nếu có biết cái khe nứt ấy thì gã ắt đã lấy một hòn đá bịt lại từ đầu và giờ đây con cá ắt đã là của gã. Nghĩ thế, gã vật mình vật mẩy trên nền đất ướt. Mới đầu gã khoc khe khẽ một mình, rồi khóc to tướng với cả cảnh hoang sơ vô tình bao quanh gã; và hồi lâu sau, người gã còn rung lên những tiếng nấc khan. Gã đốt một đống lửa, uống hàng ca nước nóng cho ấm người ; và hạ trại trên một gờ đá như đêm trước. Việc làm sau cùng của gã là lo cho số diêm thật khô ráo và lên dây đồng hồ. Những tấm mền thì ướt và dính nháp. Mắt cá gã đau giần giật. Nhưng gã chỉ biết rằng gã đói và, qua giấc ngủ náo động, gã mơ thấy tiệc lớn, tiệc nhỏ và thức ăn bày la liệt theo đủ mọi cách có thể tưởng tượng được . Gã thức dậy, rét run và nôn nao. Không một chút nắng. Màu xám của đất và trời đã trở nên đậm hơn, sâu hơn. Một ngọn gió rét căm căm thổi và những bông tuyết đầu tiên làm trắng xoá những đỉnh đồi. Không khí quanh gã dày đặc thêm và quánh dần trong khi gã đốt một đống lửa và đun thêm nước. Tuyết ướt, gàn như mưa, và những bông tuyết vừa to vừa sũng nước. Thạot đầu, mới chạm đất, chúng đã chảy liền, nhưng mỗi lúc một xuống nhiều, phủ kín mặt đất, dập tắt lửa làm hỏng cả chỗ rêu dự trữ làm chất đốt của gã. Điều đó thành một tín hiệu cho gã khoác cái bọc lên vai và ngật ngưỡng bước tiếp, không biết là đi đến đâu. Gã không bận tâm đến Vùng đất của những chiếc que nhỏ, cũng như đến Bil và chỗ cất giấu dưới cái xuồng lật sấp bên dòng sông Đir nữa. Thống ngự gã lúc này là động từ "ăn". Gã đang đói điên người. Gã chẳng để ý gì đến hướng đường gã đang đi theo, chừng nào hướng ấy dẫn gã qua những bãi thấp. Gã dò dẫm qua tuyết ướt lần tới những trái cây đầm lầy mọng nước và đi bằng cảm giác trong khi gã nhổ những rễ cỏ bấc. Nhưng cái món này thật vô vị không thoả mãn được gì cả. Gã tìm được một thứ cỏ có vị chua và kiếm được bao nhiêu cỏ ấy, gã ăn tuốt, cũng chẳng nhiều nhặn gì, vì nó là loại cây bò sát, dễ bị lấp dưới tuyết dày hàng mấy phân. Đêm ấy, gã không có lửa, cũng không có nước nóng, gã chui vào chăn ngủ giấc ngủ đứt quãng vì đói. Tuyết chuyển thành mưa lạnh. Gã tỉnh dậy nhiều lần để cảm thấy nó rơi trên khuôn mặt úp sấp của mình. Ngày đến, một ngày đen xám và không có mặt trời. Mưa đã tạnh. Cái nhói buốt của cơn đói đã biến đi. Về sự háo hức muốn có cái ăn, mức nhạy cảm đã kiệt. Bụng gã âm ỉ một cái đau nặng trịch, song nó không quấy rầy gã nhiều như trước. Gã trở nên duy lý hơn, và một lần nữa gã lại quan tâm chủ yếu tới Vùng đất của những chiếc que nhỏ và chỗ cất giấu ở bờ sông Đir. Gã xé mảnh còn lại của một tấm mền thành từng dải để buộc đôi bàn chân tướp máu. Gã cũng buộc chặt lại chỗ mắt cá bị thương và chuẩn bị cho một ngày đương. Khi đụng đến cái bọc, gã ngừng lại hồi lâu suy tính về chiếc túi da nai bè bè, nhưng rốt cuộc vẫn mang nó đi theo. Dưới mưa, tuyết đã tan chảy và chỉ còn những đỉnh đồi là phô màu trắng. Mặt trời ló ra và gã định vị được các hướng địa bàn, mặc dầu giờ đây gã biết là mình đã lạc. Có lẽ, trong khi lang thang những hôm trước, gã đã quá lệch về bên trái. Giờ đây gã ghé sang phải cho cân lại độ có thể sai lệch khỏi hướng chính gã cần đi theo. Mặc dầu cái đói không còn hành hạ dữ dội như trước nữa, nhưng gã nhận biết rằng mình rất yếu, gã buộc phải dừng lại nghỉ luôn, để nhá những trái cây đầm lầy và những vạt cỏ bấc. Gã cảm thấy lưỡi mình khô và to tướng như mọc đầy một lớp bông nhỏ li ti, và có vị đắng ngắt trong mồm. Tim gã làm rầy gã ghê gớm. Đi được ít phút, nó đã bắt đầu nện không thương xót thình thịch, thình thịch, thình thịch, rồi nhảy loạn xạ trong một thôi đập xao xuyến, đau đớn, khiến gã nghẹn thở , lử lả và chóng cả mặt. Đến giữa trưa, gã tìm được hai con cá tuê ở một cái vũng to. Không thể tát cạn nó được, nhưng bây giừo gã bình tĩnh hơn và xoay xở bắt được chúng vào trong cái xô thiếc. Chúng không dài hơn ngón tay út của gã, nhưng gã không đói lắm. cái đau âm ỉ trong bụng gã đã lắng xuống và yếu đi. Như thể dạ dày gã đang ngủ gà ngủ gật vậy. Gã ăn cá sống, thận trọng nhai một cách vất vả,vì việc ăn là một hành động thuần tuý lý trí. Tuy gã chả muốn ăn chút nào, nhưng gã biết mình phải ăn để mà sống. Chiều đến, gã bắt được thêm ba con cá tuê, ăn hai con và để dành một con cho bữa điểm tâm sáng hôm sau. Mặt trời đã sấy khô những mảng rêu rải rác và gã có thể sưởi ấm bằng nước nóng. Hôm ấy gã không đi được quá mười dặm ; và hôm sau, cất bước khi nào tim gã cho phép, gã đi được không quá năm dặm. Nhưng dạ dày gã lại không hề làm gã khó chịu tí nào. Nó đã ngủ. Một điều nữa : gã đang ở một vùng đất lạ và tuần lộc caribu tại đây tăng nhiều hơn, cả sói nữa. Lắm lúc tiếng hú của chúng vang qua cảnh tiêu điều, và một lần gã trông thấy ba con lẩn tránh trước mặt gã, trên đương đi. Lại một đêm nữa ; và sáng hôm sau, duy lý hơn, gã cởi dây da buộc cái túi da nai bè bè. Từ mệng túi đã mở, chảy tuôn một dòng bụi vàng thô và quặng vàng. Gã chia đại khái số vàng ra làm hai phần, giấu một nửa vào một gờ đá nhô ra, gói nửa kia vào một mảnh chăn và bỏ trở vào túi. Gã cũng bắt đầu dùng những giải của cái chăn còn lại để buộc chân. Gã vẫn níu giữ cây súng vì ở chỗ cất giấu bên sông Đir có đạn. Đó là một ngày đầy sương mù, và ngày hôm ấy cái đói lại thức dậy trong gã. Gã rất yếu và bị chóng mặt đến nỗi đôi lúc hoa mắt không thấy gì. Bây giờ, đối với gã, vấp ngã không phải là chuyện không bình thường, và một lần bị vấp ngã, gã ngã trúng giữa một tổ gà gô núi. Có bốn chú gà con mới nở được một ngày, những đốm sống phập phồng, vừa một miếng, không hơn, và gã ăn chúng ngấu nghiến, nhét chúng vào mồm nhai sống nuốt tươi ràu rạu giữa hai hàm răng như nhai vỏ trứng. Gà gô mẹ lồng lộn quanh gã, kêu rầm rĩ. Gã dùng cây súng như một chiếc chuỳ để đánh nó, nhưng nó tránh xa khỏi tầm với. Gã ném ba hòn đá về phía nó và một hòn ngẫu nhiên trúng, làm gãy một bên cánh. Rồi nó chao chao chạy đi, kéo lê chiếc cánh gẫy, gã đuổi theo sau. Mấy chú gà con chỉ làm cho gã thêm háu đói. Gã nhảy loi choi một cách vụng về với vết thương mắt cá chân, chốc chốc lại ném đá và kêu la khàn giọng, lắm lúc lại lặng lữ chạy lật đà lật đật, mỗi lần ngã lại hằm hằm bò dậy một cách kiên nhẫn, hoặc đưa tay lên dụi mắt khi cơn chóng mặt đe doạ quật ngã gã. Cuộc săn đuổi đưa gã qua bãi đất lầy xuống đáy thung lũng và gã bắt gặp những vết chân trên lớp rêu sũng nước. Không phải vêt chân gã, gã có thể thấy rõ là thế. Chắc là vết chân Bil. Song gã không thể dừng lại, vì con gà gô mẹ vẫn chạy tiếp. Gã sẽ bắt nó trước, rồi quay lại dò tìm điều tra sau. Gã quần con gà gô mẹ kiệt sức, nhưng gã cũng tự làm mình kiệt sức. Con gà nằm nghiêng thở dốc. Gã cũng nằm nghiên thở hồng hộc, chỉ cách nó khoảng ba, bốn mét mà không sao bò được tới nó. Và khi gã hồi tỉnh lại, nó cũng hồi sức, vỗ cánh chạy khỏi tầm với, khi ga vươn bàn tay đói lả về phía nó. Cuộc săn đuổi lại tiếp diễn. Đêm xuống hẳn và gà gô mẹ chạy thoát. Yếu ớt, gã loạng quạng vấp và lao đầu ngã sấp mặt xuống, toạc cả má, chiếc bọc vẫn trên lưng. Hồi lâu, gã không động cựa ; rồi gã xoay nghiêng người, lên dây đồng hồ và nằm đó đến sáng. Lại một ngày mú sương. Nửa cái màn cuối cùng đã xé ra để làm giẻ bọc chân. Gã không thấy lại được dấu chân Bil. Chẳng hề gì. Cái đói đang đôn thúc gã quá xá ... có điều ... có điều gã băn khoăn không biết Bil có lạc nốt không. Đến trưa, cái bọc trở nên quá nặng, không chịu nổi. Gã lại chia đôi số vàng, lần này thì đơn giản là dốc toẹt một nửa xuống đất. Đến chiều, gã vứt nốt số còn lại và gã chỉ còn độc nửa cái chăn, cái xô thiếc và cây súng. Một huyễn cảm bắt đầu quấy rầy gã. Gã tin rằng mình còn một viên đạn. Nó nằm trong ổ nòng súng và gã đã quên béng mất. Mặt khác, gã luôn biết rằng ổ đạn rỗng không. Thế nhưng huyễn cảm ấy vẫn dai dẳng. Gã xua đuổi nó hàng giờ liền, rồi mở súng ra và thấy tận mắt là ổ đạn rỗng tuếch. Sự thất vọng cũng cay đắng như thể gã thực sự chờ đợi thấy viên đạn trong đó. Gã lụi hụi đi tiếp được nửa giờ thì cơn huyễn cảm lại nổi dậy lần nữa, gã lại cố dẹp đi mà nó vẫn dằng dai cho đến lúc gã mở súng tự thuyết phục là chẳng có gì. Đôi lúc đầu gã phiêu diêu đi xa hơn, và gã lụi hụi đi như thằng người máy, với những ý nghĩ ngộ nghĩnh và ngông cuồng kỳ lạ gặm nhấm óc như những con sâu. Nhưng những cuộc du ngoạn khỏi thực tại ấy đến ngắn ngủi, vì bao giờ những dằn vặt của cái đói cào cấu cũng gọi gã trở lại. Một lần, đang phiêu du như vậy, thình lình gã bị kéo giật trở lại bởi một cảnh khiến gã suýt ngất xỉu. Trước mặt gã sừng sững một con ngựa. Một con ngựa ! Gã không thể tin ở mắt mình. Một màn sương dày rủ trong mắt gã, điểm những chấm sáng lấp lánh. Gã dụi mắt như điên để nhìn cho rõ và nhận ra không phải một con ngựa mà là một con gấu lớn màu nâu. Con vật đang ngắm nghía gã với một vẻ tò mò hung hãn. Gã đã nâng súng lên vai rồi mới nhớ ra là không có đạn. Gã hạ súng xuống và rút con dao săn bên hông ra khỏi vỏ. Trước mặt gã là thịt và sự sống. Gã lướt ngón tay cái trên lưỡi dao. Lưỡi săc, mũi nhọn. gã sẽ lao cả người vào con gấu và giết chết nó. Nhưng tim gã bắt đầu báo động : thình thịch, thình thịch, thình thịch. Rồi tiếp theo là nhịp nhảy lên cuồng loạn và sức nén ép như một vành đai sắt thít quanh trán, cơn chóng mặt len lỏi bò vào trong đó. Sự can đảm tuyệt vọng của gã bị một nỗi sợ dâng trào mãnh liệt đánh bật ra. Gã đang yếu thế này, nhỡ con vật tấn công gã thì sao? Gã đứng thẳng lên trong tư thế hùng dũng nhất, nắm chặt con dao và nhìn chằm chằm vào con gấu. Con gấu vụng về tiến lên vài bước, lùi lại và trút ra một tiếng gầm gừ thăm dò. Nếu con người chạy ắt nó sẽ đuổi theo. Nhưng con người không chạy. Lúc này, trong gã dấy lên lòng can đảm của khiếp sợ. Gã cũng gầm gừ, man rợ, gớm ghiếc thốt lên nỗi sợ vốn là thích hợp với sự sống và vốn xoắn xuýt quanh những rễ sâu nhất của sự sống. Con gấu né sang một bên lủi đi, gầm gừ đe doạ. Bản thân nó cũng kinh hãi trước cái sinh vật bí ẩn hiên ngang thẳng đứng, không biết sợ ấy. Nhưng con người không động đậy. Anh ta đứng sững như một pho tượng cho đến khi cơn nguy hiểm qua hẳn, bấy giờ mới chịu khuất phục run bắn lên một hồi và quỵ xuống lớp rêu ướt. Gã định thần lại và đi tiếp, bây giờ lại sợ theo cách khác. Không phải là sợ sẽ chết một cách thụ độngvì không có cái ăn, mà sợ sẽ bị tiêu diệt một cách cuồng bạo trước khi cái đói làm suy kiệt nốt chút xíu cố gắng cuối cùng trong gã nhằm vươn tới sự sống sót. Vùng này có chó sói. Suốt cảnh tiêu điều này, vẳng tới vẳng lui tiếng sói hú, dệt cả bầu không khí thành một tấm màn đe doạ có thể sờ mó thấy, đến độ gã bỗng giơ tay lên trời, đẩy không khí ra khỏi mình, như thể nó là thành vải của một cái lều bị gió thổi ép vào. Thỉnh thoảng, sói đi từng tốp hai hoặc ba con, kéo qua đường đi của gã. Nhưng chúng tránh gã. Chúng không đủ đông, vả lại, chúng đang săn tìm tuần lộc caribu, tụi này không đánh trả, trong khi cái sinh vật đi thẳng đứng này có thể vừa cào vừa cắn. Xế chiều, gã bắt gặp những ống xương rải rác ở chỗ lũ chó sói đã giết một con thú. Đám xương tàn, trước đó một giờ, còn là một chú tuần lộc Caribu non kêu quang quác, chạy nhảy và đầy sức sống. Gã ngắm đống xương đã lóc sạch thịt và nhẵn bóng, với sinh bào hồng hồng bên trong còn chưa hết hẳn. Liệu có khả năng, gã cũng có thể như thế trước khi ngày tàn không ? Sự sống là thế ư ? Một sự hão huyền và thoảng qua. Chỉ có sống là đau đớn mà thôi. Chết thì chẳng đau gì hết. Chết là ngủ. Có nghĩa là thôi, là nghỉ ngơi. Thế thì tại sao gã lại không bằng lòng chết. Nhưng gã không lý luận rông dài. Gã đang ngồi xổm trên lớp rêu, với một cái xương trong miệng, mút mát những vụn sinh bào còn nhuộm hồng hồng chất xương. Cái vị thịt ngọt, loãng và thoáng thấy thoáng mất gần giống như một hồi ức làm gã tức điên. Gã ngoạm hàm vào những đốt xương và nhai rào rạo. Lúc thì xương gãy, lúc thì răng gã gãy. Rồi gã bỏ xương vào giữa những hòn đá, nghiền nát nhừ và nuốt chửng. Trong lúc vội vàng gã giã cả vào ngón tay mình, và có lúc lại ngạc nhiên thấy những ngón tay không đau lắm khi bị kẹp vào đá. Rồi đên những ngày tuyết xuống, mưa rơi kinh khủng. Gã không còn biết mình hạ trại lúc nào, nhổ trại lúc nào. Gã đi ban đêm cũng nhiều bằng đi ban ngày. gã nghỉ luôn ở nbất cứ chỗ nào gã ngã xuống, bò đi tiếp bất cứ lúc nào ngọn lửa sống đang tabnf trong gã bùng lên và đỡ mù mịt hơn. Với tư cách là một con ngưới, gã thôi không ráng sức nữa. Chính là cái sinh lực trong gã không muốn chết, nó thôi thúc gã dấn bước. Gã không đau đớn. Thần kinh gã đã cùn mòn, tê dại đi trong khi đầu óc gã đầy viễn ảnh kỳ lạvà những giấc mơ thú vị. Nhưng gã vẫn mút và nhai những đốt xương nát của con tuần lộc non, mà những dư tàn nhỏ nhất của nó đã vun vén lại và đã mang theo. Gã không vượt đồi, cũng chẳng qua những đường phân thuỷ nữa mà cứ tự động theo một con suối lớn chảy qua một thung lũng rộng và nông. Gã không nhìn thấy con suối ấy cũng như thung lũng ấy. Gã không nhìn thấy gì ngoài những tấm ảnh. Hồn và xác hoặc đi hoặc bò cạnh nhau, nhưng riêng rẽ, vì sợi dây buộc chúng lại với nhau quá mảnh. Gã thức dậy minh mẫn, nằm ngủ trên một gờ đá. Mặt trời chiếu rực rỡ và ấm áp. Xa xa gã nghe thấy tiếng những con tuần lộc non kêu quác quác. Gã nhớ mang máng là đã có mưa, có gió, có tuyết rơi, nhưng còn về việc gã đã bị dãi gió dầm mưa hai ngày hay hai tuần thì gã không biết. Gã nằm gần như không động đậy một lúc, ánh mặt trời hiền hoà chảy tràn trên gã và toả hơi ấm thấm đẫm cái thân hình khốn khổ của gã. Một ngày đẹp, gã nghĩ. Chưa chừng gã có thể xác định được mình đang ở đâu cũng nên. Bằng một cố gắng cực nhọc gã xoay người nằm nghiêngã. Phía dưới gã, một con sông rộng và lờ đờ chảy. Vẻ lạ lẫm không quen thuộc của nó khiến gã bối rối. Gã chậm rãi đưa mắt nhìn theo dòng sông uốn lượn thành những khúc rộng giữa những ngọn đồi trọc đìu hiu, đìu hiu hơn, trơ trụi hơn và lún thấp hơn mọi trái đồi gã gặp cho đến nay. Chậm rãi, từ tốn, không chút khích động hoặc chỉ với sự quan tâm hết sức bình thường, gã theo dõi dòng chảy của con sông lạ về phía đường chân trời, và thấy nó đổ vào một vùng biển sáng lấp lánh. gã vẫn không thấy náo nức gì. Thật khác thường , gã nghĩ một tấm ảnh hay một ảo giác, có vẻ là một tấm ảnh thì đúng hơn, một trò ranh ma do tâm trí rối loạn của gã. Gã chắc chắn vậy khi nhìn thấy một con tàu nằm thả neo giữa vùng biển lấp lánh. Gã nhắm matứ một lát, rồi lại mở ra. Kỳ lạ thay, tấm ảnh ấy vẫn còn ! Thế nhưng lại không kỳ lạ. Gã biết chẳng làm gì có biển hay tàu nào giữa vùng đất cằn này, cũng như gã đã biết chẳng có viên đạn nào trong cây súng rỗng không. Gã nghe thấy một tiếng khụt khịt đằng sau mình, một tiếng thở dốc gần như bị nghẹn, hoặc một tiếng ho. Rất chậm chạp, do quá yếu và người cứng đờ, gã xoay nghiên mình sang mé kia. Gã không trông thấy gì gần kề, nhưng gã kiên nhẫn chờ. Lại thấy tiếng khịt và ho, và in bóng giữa hai tảng đá lởm chởm cách đó không đầy sáu mét, gã nhận ra cái đầu xám của một con sói. hai cái tai nhọn không dựng hoắt lên như gã thường thấy ở những con sói khác, đôi mắt mờ và vằn tia máu, cái đầu như gục xuống rũ rượi và tuyệt vọng. Con vật chớp mắt lia lịa dưới nắng. Nó có vẻ ốm. Khi gã nhìn, nó lại khịt và ho. Chí ít điều này cũng là thực tế, gã nghĩ và quay người sang mé kia để có thể thấy được sự thực của cái thế giới ban nãy bị tấm ảnh che phủ. Nhưng birn vẫn lấp lánh đằng xa và con tàu nhìn rõ mồn một. Rút cục, nó có phải là thực tại không ? Gã nhắm mắt một hồi lâu suy nghĩ, thế rồi vỡ lẽ ra. Gã đã hướng về phía đông bắc, tách xa khỏi đường phân thuỷ sông Đir và đi vào thung lũng Mỏ Đồng. cái con sông rộng và lờ đờ này là sông Mỏ Đồng. Vùng biển lấp lánh kia là Bắc Băng Dương. Con tàu kia là một tàu đánh cá voi từ cửa sông Mêchkengi lạc về hướng đông, viễn đông, và nó nằm bỏ neo trong vịnh Đăng Quang. Gã nhớ lại bản đồ của công ty Vịnh Haxđơn mà gã đã xem cách đây đã lâu, và gã thấy mọi sự trở nên rõ ràng, hợp lý. Gã ngồi dậy và tập trung chú ý vào những công việc trước mắt. Những dải mền bọc chân đã mòn xơ ra và đôi chân gã chỉ còn là những cục thịt trầy trụa không ra hình thù gì. Cái chân cuối cùng của gã đã đi tong. Cả súng lẫn dao đều đã mất. Gã đã đánh mất cái mũ ở đâu đó, cùng với bó diêm dắt ở vành trong, nhưng số diêm trước ngực vẫn nguyên vẹn và khô ráo trong cái túi đựng thuốc lá sợi, bọc bằng giấy dầu. Gã nhìn đồng hồ. Nó chỉ mười một giờ và vẫn đang chạy. Hiển nhiên là gã vẫn lên giây đều. Gã bình tĩnh và tự chủ. Tuy cực kỳ yếu sức, nhưng gã không cảm thấy đau đớn gì cả. gã không đói. ý nghĩ về thức ăn thậm chí cũng chẳng thú vị gì đối với gã và mọi điều gã làm đều do lý trí đơn thuần. Gã xé ống quần đến tận đầu gối để buộc chân. Không biết làm sao mà gã vẫn giữ được cái xô thiếc. Gã sẽ uống một chút nước nóng trước khi bắt đầu làm cái mà gã thấy trước sẽ là một chặng hành trình ghê gớm để tới con tàu. Gã cử động chậm chạp. Run rẩy như bị chứng liệt. Khi bắt đầu thu thập rêu khô lại, gã không nhấc nổi chân được nữa. Gã thử đi thử lại rồi đành bò quanh bằng tay và đầu gối vậy. Một lần gã bò đến gần con sói ốm. Con vật miễn cưỡng lê ra khỏi đường đi của gã, liếm những chỗ nứt nẻ trên mình bằng một cái lưỡi hầu như không còn đủ sức để uốn nữa. Gã nhận thấy lưỡi nó không có cái màu đỏ lành mạnh thông thường. Nó nâu nâu vàng ệch và như phủ một lớp nhầy ram ráp và gần như khô. Sau khi uống một ca nước nóng, gã thấy mình có thể đứng dậy và thậm chí có thể đi với mức một người sắp chết có thể đi. Cứ khoảng một phút, gã lại phải nghỉ. Bước chân gã khật khưỡng, y hệt như bước chân của con sói theo sau gã. và đêm ấy, khi bóng tối xoá mờ vùng biển lấp lánh, gã biết mình mới chỉ tiến gần thêm nó được độ hơn bốn dặm, không hơn. Suốt đêm, gã nghe thấy tiếng ho của con sói ốm, và thỉnh thoảng, tiếng quác quác của bầy tuần lộc non. Xung quanh gã đều có sự sống, sự sống cường tráng, rất sinh động và tốt lành, và gã biết con sói ốm bám theo con người ốm với hy vọng là con người sẽ chết trước. Sáng dậy, mở mắt ra, gã thấy nó đứng lom khom, đuôi cụp giữa hai chân như một con chó khốn khổ, thiểu não. Nó run cầm cập trong làn gió sớm lạnh giá và nhe răng cười buồn nản khi con người nói với nó bằng một giọng không hơn gì một tiếng thì thầm khàn khàn. Mặt trời lên rực rỡ và suốt buổi sáng, con người chập chững vưà đi vừa ngã về phía con tàu trên biển lấp lánh. Thời tiết thật tuyệt. Đó là cỡ thu muộn ngắn ngủi ở vùng vĩ độ cao. Nó có thể kéo dài một tuần. Mai kia, nó có thể qua đi. Đén chiều, gã bắt gặp một vệt đường. Đó là dấu vết của một người khác. Không đi mà bò bốn châ. gã nghĩ đó có thể là Bil, song chỉ nghĩ một cách đờ đẫn, không chút quan tâm. Gã chẳng tò mò muốn tìm hiểu gì. Thực tế, cảm giác và xúc động đã từ bỏ gã. Gã không còn biết đau. Dạ dày và thần kinh gã đã ngủ rồi. Tuy nhiên, sự sống trong gã vẫn thúc gã dấn tới. Gã thì rất mệt, nhưng nó lại không chịu chết. chính vì nó không chịu chết mà gã vẫn cứ ăn trái cây đầm lầy và cá tuê, uống nước nóng và thận trọng canh chừng con sói ốm. Gã đi theo dấu vết của người kia, anh chàng bò lê ấy, và chẳng mấy chốc đến chỗ tận cùng của nó : một chút xương mới lóc hết thịt, quanh đó lớp rêu sũng nước in hằn vết chân của nhiều con sói. Gã trông thấy một cái túi da nai bè bè, hệt như túi của gã, bị xé toạc ra bằng răng nhọn. Gã nhấc nó lên, tuy nó hầu như quá nặng đối vời những ngón tay yếu ớt của gã. Bil đã mang nó đến phút cuối cùng. Ha ha ! Gã sẽ cười vào mũi Bil. Gã sẽ sống sót và sẽ mang cái túi đến con tàu trên biển lấp lánh kia. Tiếng cười của gã khàn khàn và ghê rợn như tiếng quạ kêu, và con sói ốm cũng cất tiếng tru sầu thảm hoà theo. Con người bỗng nhiên ngừng bặt. Làm sao gã có thể cười vào mũi Bil nếu như cái này là Bil, đám xương trắng hồng và sạch bong này là Bil ? Gã quay đi. ồ, Bil đã bỏ rơi gã, nhưng gã sẽ không lấy số vàng này, cũng chẳng mút xương Bil làm gì. Tuy nhiên, nếu là trường hợp ngược lại, ắt Bil sẽ chẳng tha, gã vừa chệnh choạng bước tiếp vừa nghĩ vậy. Gã tớu một vũng nước. Cúi xuống tìm cá tuê, gã bỗng giật đầu lại đằng sau như bị ong châm. Gã đã trông thấy mặt mình phản chiếu trong đó. Nó gớm ghiếc đến nỗi khua được sự nhạy cảm trong gã thức dậy đủ lâu để thấy bàng hoàng. Có ba con cá tuê ở trong vũng, vũng quá rộng không tát cạn được, và sau mấy lần lấy cái xô thiếc vục bắt không được, gã bỏ cuộc. Gã sợ vì quá yếu sức, có thể ngã tòm xuống và chết đuối. Chính vì lý do ấy mà gã không dám cưỡi lên một trong những khúc gỗ dạt vào những hố cát ven bờ sông để buông trôi theo dòng nước. Hôm ấy, gã đã giảm được ba dặm khoảng cách giữa gã và con tàu. Hôm sau được hai dặm, vì bây giờ gã cũng bò, như Bil đã từng bò. Và đến hết ngày thứ năm, con tàu vẫn cách độ bảy dặm thì gã thậm chí mỗi ngày không vượt nổi một dặm. Cữ thu muộn vẫn còn , và gã vẫn tiếp tục bò rồi lại ngất xỉu, loanh quanh luẩn quẩn hoài, và con sói ốm vẫn ho và khụt khịt sau gót gã. Đầu gối gã đã trầy cả thịt như bàn chân gã, và mặc dầu gã đã cởi áo sơ mi làm đệm lót cho cho đầu gối, gã vẫn để lại đằng sau một vệt đỏ trên rêu và đá. Một lần, ngoái nhìn lại, gã thấy con sói thèm thuông liếm vệt máu của gã, và gã hình dung đậm nét cái kết thúc của mình có thể sẽ như thế nào ... trừ phi gã xơi tái được con sói. Thế rồi bắt đầu một tấn bi kịch để tồn tại, khốc liệt chưa từng thấy : một con người ốm phải bò lết, một con sói ốm phải tập tà tập tễnh, hai sinh vật kéo lê thân xác hấp hối qua cảnh hoang sơ, và bên nọ rình cướp sự sống của bên kia. Giá nó là một con sói khoẻ mạnh, thì hẳn con người cũng chả xem vấn đề hệ trọng đến thế đâu, nhưng nghĩ đếm việc phải làm mồi cho dạ dày của cái vật ghê tởm và gần như chết rồi này, gã chẳng ưng chút nào. Gã vốn khó tính. Đầu óc gã lại bắt đầu lang bang và bị những huyễn tượng ám ảnh , trong khi những giây phút sáng suốt trở nên mỗi lúc một hiếm và ngắn hơn. Một lần, gã tỉnh dậy khỏi một cơn ngất nhờ một tiếng khụt khịt sát bên tai. Con sói khập khiễng nhảy lùi lại, mất thăng bằng và ngã nhào trong cơn suy kiệt. Điều đó thật kỳ lạ, nhưng gã không thấy buồn cười. Thậm chí gã cũng không thấy sợ. Gã đã vượt quá xa những phản ứng đó. Nhưng lúc ấy, trí óc gã sáng suốt, và gã nằm suy tính. Con tàu chỉ còn cách không quá bốn dặm. Gã có thể trông thấy nó rõ ràng khi gã dụi lớp sương mờ khỏi mắt, và gã trông thấy cánh buồm trắng của một con thuyền nhỏ rẽ nước trên biển lấp lánh. Nhưng gã không bao giờ có thể bò nốt bốn dặm ấy. Gã biết vậy. Tuy nhiên rất bình tĩnh trong nhận thức, gã biết mình không thể bò nổi nửa dặm. Và mặc dù thế, gã vẫn muốn sống. Thật là vô lý nếu gã phải chết sau khi chịu đựng tất cả ngần ấy thứ. Số mệnh đòi hỏi gã quá nhiều. Và đến lúc sắp chết, gã từ chối không chịu chết. Có lẽ đó là điều cực kỳ điên rồ, những ngày trong móng vuốt của cái chết, gã lại thách thức cái chết và khước từ không chịu chết. Gã nhắm mắt lại với sự tĩnh tâm một cách thận trọng. Gã cố vượt lên sự suy nhược như một lớp sóng trào dâng, bập bềnh xô vào mọi ngóc ngách trong người gã. Nó rất giống biển, cái sự suy nhược giết người ấy, nó cứ dâng lên hoài và từng tí một nhận chìm ý thức gã. Đôi lúc, gã gần như bị chìm nghỉm , loạng quạng vung tay đập chân bơi qua quên lãng. và một lần nữa , do một phép màu nào đó cảu tâm hồn, gã lại tìm thấy một mảnh ý chí và rẽ sóng lao vụt đi mạnh hơn. Không động đậy, gã nằm ngửa, và gã có thể nghe thấy tiếng hít vào thở ra khò khè của con sói ốm mỗi lúc một sát lại gần hơn. Nó tiến lại gần, gần nữa, qua một quãng thời gian tưởng như bất tận và gã không nhúc nhích. Nó đã kề bên tai gã. Cái lưỡi khô sần sùi có vào má gã như giấp ráp. Hai tay gã phóng ra, hay chí ít là gã muốn phóng tay ra. Các ngón tay quắp lại như móng vuốt, nhưng thộp vào quãng không. Sự nhanh nhẹn và chính xác đòi hỏi sức khoẻ, mà gã thì không có sức khoẻ đó. Sự kiên trì của con sói thật ghê gớm. Sự kiên trì của con người cũng ghê gớm không kém. trong nửa ngày liền, gã nằm im không cựa quậy, đấu tranh để khỏi thiếp đi, chờ con vật định ăn thịt gã. Mà gã cũng muốn ăn thịt nó. Đôi khi, biển-suy-nhược dâng trào trong gã và gã mơ những giấc mơ dài, nhưng suốt thời gian đó, tỉnh hay mơ, gã vẫn chờ tiếng thở khò khè và cái lưỡi thô liếm láp. Gã không nghe thấy tiếng thở, và truồi dần từ một cơn mơ nào đó đến cảm giác thấy chiếc lưỡi kia lia dọc bàn tay. Gã chờ. Những chiếc nanh ấn khe khẽ, rồi mạnh hơn ; con sói đang huy động hết sức tàn trong một cố gắng để cắm ngập răng vào miếng mồi nó đã chờ đợi bao lâu. Nhưng con người đã chờ sẵn từ lâu và bàn tay nát bươm nắm lấy hàm nó. Trong khi con sói vật lộn một cách yếu ớt và bàn tay bóp lại một cách yếu ớt, thì bàn tay kia từ từ trườn qua thành một gọng kìm. Năm phút sau, cả trọng lượng của con người đè lên trên con soid . Hai bàn tay không đủ sức để bóp nghẹt con sói nhưng mặt con người áp sát vào họng con sói và mồm con người đầy những lông. Hết nửa giờ, con người nhận thấy một dòng âm ấm chảy vào họng mình . Cái đó chẳng lấy gì làm thú vị. Nó như chì nóng chảy đọng vào dạ dày gã, và gã được tọng vào hoàn toàn chỉ do ý chí của gã mà thôi. Sau đó con người lăn kềnh ra, nằm ngửa lên và ngủ . . . . . . Có một số thành viên của đoàn thám hiểm khoa học trên chiếc tàu đánh cá voi Bedfod. Từ trên bông, họ nhận thấy một vật kỳ lạ trên bờ. Vật ấy di chuyển xuôi bãi biển về phía mặt nước. họ không thể xác định đó là loại gì. Và, vốn là những nhà khoa học, họ trèo vào chiếc xuồng bên sườn tàu, đáp vào bờ để xem cho rõ. Và họ thấy một cái gì còn sống nhưng khó mà có thể gọi là một con người. Nó loà lẫm, không ý thức. Nó oằn oại trên mặt đất như một con sâu kỳ quái. Phần lớn những cố gắng của nó đều vô hiệu. nhưng nó bền bỉ, nó vặn mình, quằn quại và mỗi giờ có lẽ tiến lên được năm sáu mét. Ba tuần sau, người đàn ông nọ nằm trong một chiếc giường trên tàu đánh cá voi Bedfod, và nước mắt ròng ròng trên đôi má hốc hác, gã kể lại lai lịch mình là ai và đã trải qua những nông nỗi gì. Gã cũng nói lõm ba lõm bõm về mẹ gã, về miền nam Califonia đầy nắng và một ngôi nhà giữa những lùm cam và những khóm hoa. ít ngày sau, gã ngồi cùng bàn ăn với những nhà khoa học và các sĩ quan trên tàu. Gã hau háu nhìn cảnh đồ ăn ê hề, bồi hồi theo dõi những thức ăn ấy biến voà miệng những người khác. Cứ mỗi miếng mất đi, trong mắt gã lại hiện lên một vẻ tiếc nuối sâu sắc. tâm thần gã hoàn toàn lành mạnh, tuy nhiên gã căm ghét họ vào giờ ăn. gã bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi là lương thực không còn tồn tại lâu dài. Gã hỏi đầu bếp, hầu phòng và thuyền trưởng về lương thực dự trữ . Họ trấn an gã không biết bao nhiêu lần, nhưng gã không thể tin họ, và gã khôn khéo nhòm ngó quanh chỗ hầm kho để thấy tận mắt. Người ta nhận thấy gã béo ra. Mỗi ngày gã một to xù. Các nhà khoa học lắc đầu là hợp lý. Họ hạn chế gã trong những bữa ăn, nhưng vòng bụng gã vẫn tăng và gã trương phình ra kỳ lạ dưới chiếc áo sơ mi. Đám thuỷ thủ tủm tỉm cười. Họ biết. Và khi các nhà khoa học cắt người theo dõi gã, họ cũng biết. Họ thấy gã thông thạo đi ra phía trước, sau khi điểm tâm, và lại gần một thuỷ thủ, chìa tay ra như một kẻ hành khất. Tay thuỷ thủ nhe răng cười và đưa cho gã một miếng bích quy. Gã bo bo nắm chặt lấy, nhìn ngắm như một anh hà tiện ngắm vàng, rồi nhét vào ngực áo. Các tay thuỷ thủ khác vừa cười vừa cho như vậy. Các nhà khoa học vốn kín đáo. Họ để mặc gã. Nhưng họ bí mật xem xét giường của gã. Giường được lót bằng bánh quy khô, đệm được nhồi bằng bánh quy khô, mọi xó xỉnh ngóc ngách đều lèn đầy bánh quy khô. Tuy nhiên, gã không loạn trí. Gã lo đề phòng một cơn đói khác có thể xảy ra, có thể thôi. Rồi gã sẽ qua, các nhà khoa học nói thế. Và quả nhiên, gã qua khỏi thật, trước khi cây neo của tàu Bedfod gieo ùm xuống vịnh San Francisco. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tình yêu màu xanh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Thị Việt Nga[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đã từ hơn một tháng, quán chè của chị Thanh trở thành nơi "trú chân" của Linh sau buổi học chiều, để chờ học tiếp một ca lúc 16 giờ sắp tới. Cái Hiền bảo, nếu thời gian ôn thi đại học cứ kéo dài khoảng 4, 5 tháng thế này thì Linh sẽ lên cân một cách "tự do". Linh tự nhủ: "Học gì thì cũng phải "nạp năng lượng" đã chứ! Hơn nữa đường về lại xa, làm sao mà kịp. Xuất hiện đến tuần thứ hai thì chị chủ quán đã quá quen với sở thích của Linh: Một chiếc ghế mây, một góc bàn khuất sau chậu cảnh dù lúc đó quán vắng teo. Và khi Linh đến, dù cassette đang rên rỉ hát hò kiểu gì cũng "stop" và thay vào đó bản nhạc không lời Linh rất mê: "Tình yêu màu xanh". Có gì tuyệt hơn vừa nhâm nhi ly chè, vừa thả hồn theo bản nhạc. Không gian sẽ rộng ra, chẳng còn bàn còn ghế, chẳng còn những bức tường nữa, mênh mông trước mắt Linh là thảo nguyên đầy hoa và cỏ, là bầu trời xanh như cổ tích, là một cảm giác ngọt ngào và êm ái. Có lần, đang mơ màng gõ gõ chiếc thìa lên miệng ly, Linh chợt giật mình khi "chạm" phải một ánh mắt đang nhìn mình chăm chú từ dãy bàn bên kia. Hậm hực cúi xuống với ly chè, Linh cũng đã kịp liếc thấy "thủ phạm" làm đứt mạch cảm hứng âm nhạc của mình. Đó là một tên "đực rựa" có mái tóc bồng bềnh chải hất lên với một chiếc cặp sách trên mặt bàn (chắc cũng dân "dài lưng tốn vải" đây!). Ly chè vơi đi tới hai phần ba, Linh ngẩng lên và ngạc nhiên thấy tên đối diện mình đang ngả người trên ghế vẻ mặt mơ màng như cũng đang bị cuốn theo tiếng nhạc. "Thì ra đó cũng là sở thích của ngươi. Tại sao lại dám "phạm thượng" như vậy?" Linh bật cười với ý nghĩ của mình và lặng lẽ rút lui khỏi quán, không biết rằng tên kia cũng đang nhìn theo. Dần dần, Linh và "tên ấy" đã quen với sự có mặt của nhau trong quán chè vào đúng giờ tan học chiều như có một quy ước ngầm. Có điều cả hắn và Linh chẳng bao giờ nói với nhau câu nào, vẫn góc của ai người ấy ngồi, chỉ chung một thứ duy nhất là bản nhạc. Có một lần Linh dám táo bạo ngồi "ngắm nghía" hắn một lúc lâu như khiêu khích. Hắn ngẩng lên, ban đầu thoáng nét bối rối, nhưng ngay sau đó lấy lại sự bình thản, thậm chí ánh mắt nhìn Linh còn như cười cười làm Linh "đầu hàng" nhìn xuống. Trời mưa, hắn vắng mặt, Linh mặc kệ ly chè đang tan dần đá lễnh loãng, băn khoăn đoán định nguyên nhân để rồi tự cười mình vớ vẩn. Và bản nhạc trôi hết lúc nào chẳng biết. Chắc hắn cũng như Linh, đang ôn thi đại học. Nếu không, ai dở hơi mà vào quán chè "nghỉ ngơi" trong lúc lẽ ra phải về nhà với mâm cơm hấp dẫn của mẹ đang chờ sẵn. Cái Hiền chuyển từ ngạc nhiên sang bái phục khi Linh trở thành đệ tử ruột của quáng chè. Nó chọc Linh: "Ăn chè tăng trí nhớ và sự thông minh có phải không ? Hay nó giúp mày "nuốt" gọn gần hai trăm đề Văn - Sử - Địa một cách dễ dàng?". Linh cười bí mật, chợt nhớ đến một hôm mình nhìn thấy cuốn bộ đề Văn để trên bàn của tên người lạ trong quán chè. Quãng thời gian ôn thi rút ngắn dần. Linh phải bù đầu với hàng núi bài vở, thậm chí trong quán chè còn phải lôi bài ra lẩm nhẩm, có điều là vẫn lẩm nhẩm trong tiếng nhạc. Như bắt chước, ở dãy bàn bên kia, tên "người lạ" cũng chúi mũi vào mấy cuốn vở. Sự trùng hợp ngẫu nhiên hay cố tình bắt chước? - Linh nghĩ thầm. Nhưng nhìn thái độ chăm chú ấy, Linh biết hắn lôi vở ra không phải để chơi . Hai tuần nữa thi tốt nghiệp, Linh chợt thấy buồn buồn khi nghĩ đến những ngày sắp tới không còn được đến trường, không còn những ca học ôn toát mồ hôi và cả những chiều nghỉ chân trong quán chè thế này. Rồi sẽ tất bật vì thi cử, sẽ phải đi xa, chia tay với từng góc phố, gốc cây quan thuộc của thị xã nhỏ bé và thân thương. Thỉnh thoảng, tên "người lạ" nhìn Linh với vẻ ngập ngừng như muốn nói một câu gì đó, nhưng khi thấy Linh nhìn sang lại hiền lành cúi xuống trang vở và ly chè của mình. "Đúng là đồ con gái - lại còn thích ăn chè nữa chứ!". Thi tốt nghiệp xong môn cuối cùng, vẫn sớm, Linh cùng Hiền và nhóm "tam quái" của Phương ra công viên chụp ảnh. Lang thang chán, giỏ xe của đứa nào cũng đầy phượng vĩ và hoa bằng lăng. Đến lúc cả bọn chia tay ở ngã ba đầu vườn hoa, Linh đạp xe quay lại. Linh hiểu cảm giác thiêu thiếu của mình là chưa rẽ qua quán chè quen thuộc của chị Thanh. Quán vắng teo, cả tên "người lạ" cũng không nốt. Có gì như là thất vọng. Linh chậm chạp đi vào chỗ ngồi quen thuộc của mình và chợt sững người khi thấy ở trên bàn băng nhạc hằng yêu thích: "Love is blue" chặn ngang mảnh giấy nhỏ: "Thân tặng người cùng sở thích!". Chị Thanh mang ly chè đến, cười cười: "Cậu thường ngồi ở góc kia nói là gửi cho em đấy. Hôm nay cậu ta đi đâu vội, chỉ ghé qua một chút dặn chị". Linh cảm thấy ly chè hôm nay buốt lạnh hơn và bản nhạc thêm da diết lạ lùng. Tháng bảy, nắng bỏng rát và từng quầng hoa phượng nở tung đỏ nhoi nhói. Tiến ve rền rĩ khắp các nẻo đường. Qua kỳ thi đại học, Linh gầy đi trông thấy. Mẹ xót xa nhường luôn cho con gái xuất đi nghỉ mát nửa tháng ở Sầm Sơn. Rồi quê nội, quê ngoại vẫy gọi. Bố đùa: Linh đang nghỉ "báo thù" những ngày vùi đầu vào học. Cảm giác thấp thỏm vỡ òa thành niềm vui khi giấy báo điểm quá mức học bổng là 5 điểm. Cu Tuấn còn mơ màng: "Liệu chị Linh có được thủ khoa không nhỉ?". Buổi liên hoan cho Linh đi học đại học có đầy đủ bạn bè và các thầy cô giáo. Hoa, quà tặng và lời chúc mừng tới tấp. Buổi chiều, Linh đạp xe đến quán chè chị Thanh, ngồi lặng người với bản nhạc không lời quen thuộc và khoảng trống ở dãy đối diện. "Người lạ" ơi! Mùa hè đã vơi đi quá nửa rồi. Bản nhạc được tặng, Linh chưa một lần mở nghe. Nhập trường, Linh ngẩn ngơ nhìn dãy nhà cao tầng đồ sộ với sự nhộn nhịp, huyên náo. Thật khác xa với nhịp sống yên ả trong thị xã của Linh. Chẳng một ai quen biết, những dáng người, khuôn mặt lướt qua Linh đều thấy giống nhau lạ lùng. Ước gì gặp được một đứa bạn - dù đó có là con nhỏ Mai "la sát" lớp bên cạnh - thì cũng tốt biết bao! "Chào bạn !" - Linh chợt giật mình ngoảnh lại, một gương mặt rất quen và nụ cười tươi tắn. Trời ơi! Còn cả mái tóc chải bồng bềnh lên nữa. Linh buột miệng "Ôi! Người cùng sở thích!". "Người lạ" nhìn Linh cười lém lỉnh: "Và giờ là cùng trường nữa. Tình yêu màu xanh ạ!". [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tình yêu mong manh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cấn Vân Khánh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đã có hàng lớp lớp nhà văn, nhà thơ, cả những triết gia muốn định nghĩa tình yêu và hình như họ đều thất bại. Tình yêu không thể định nghĩa được bởi bản chất nó có quá nhiều sắc thái và cũng rất mong manh. Đã bao lần Quân cố gắng kiếm tìm một thời điểm, một không gian thích hợp nhất để nói với Như rằng anh không muốn tiếp tục nữa, nhưng càng ngày anh càng hiểu ra rằng sự kiếm tìm đó là rất khó. Nên anh trở nên trì hoãn ghê gớm. Ví dụ như lúc này. Như đang ngồi trước anh. Mặt nghiêng nghiêng vì ánh nắng xéo qua ô cửa kính quán cà phê. Cô mặc một chiếc áo len mỏng khoác ngoài chưa cài hết khuy. Mái tóc dài đen nhánh phủ xuống bờ vai gầy guộc, gương mặt ngơ ngác xanh xao. Tất cả dấy lên trong anh cảm giác tội nghiệp, hơn là một niềm yêu thương. Tại sao thế nhỉ? Mình đã từng rất yêu cô ấy kia mà. “Em này, anh quyết định rồi...”. Quân hắng giọng. Anh kìm mình khi thấy dáng Như xoay qua anh hốt hoảng. “Gì thế anh?”. Giá như giọng nói của cô ấy đừng trong trẻo thế. “Anh quyết định không đầu tư vốn vào công ty nữa. Đã có những mâu thuẫn xảy ra...”. “Vâng, tùy anh”. “Anh muốn nghỉ ngơi, anh định đi Nha Trang”. “Vâng”. Cô ấy không hỏi mình đi với ai, cũng không có quyền được đòi hỏi là sẽ đi cùng anh. Trong anh phút chốc dấy lên một cảm giác ngán ngẩm tột cùng. “Mình về đi”. Anh gọi người phục vụ tính tiền rồi ra bãi giữ xe. Như líu ríu sau anh. Anh chở cô ngang qua con đường hoa phượng nở hiếm hoi của Sài Gòn mà trước đây cô vẫn thích thú đòi anh chở qua. Nhưng anh đã đọc thấy sự mỏi mệt, thậm chí cả cam chịu trên gương mặt ấy. Toàn, đứa bạn thân của anh, hiện là giảng viên Trường Đại học Thủy sản Nha Trang ra ga đón anh. Vừa thấy anh đã toét miệng cười hỏi: “Như đâu?”. Anh khoát tay: “Đi một mình tự do hơn”. “Tao đã dặn mày rồi, đi đâu chứ đi biển mà đi một mình là buồn muốn khóc đó”. “Vậy chứ mày thì sao? Sống ở biển một mình tưởng chết từ đời nào rồi chứ?”. Toàn cười ha hả: “Thế không biết là cuối năm nay tao cưới vợ à?”. Anh gật gù: “Thật là một tin tốt lành”. “Thế còn mày thì sao? Bao giờ cưới?”. Anh im lặng. Thật ra, anh đã có lúc mơ đến một gia đình yên ổn, để khỏi phải ngày ngày ra tiệm ăn cơm, khỏi mặc một chiếc sơ mi đến công ty còn mùi mồ hôi của ngày hôm trước, khỏi phải chật vật một mình với những viên thuốc mỗi lúc bệnh hoạn, ốm đau. Nhưng rồi, có một cái gì đó lại ngáng trở anh, khi công việc ngập đầu và anh phải giải quyết đến khuya rồi ngủ gục luôn bên tách cà phê uống dở, để sáng sớm hôm sau hoan hỉ với những ấp ủ mới, thành công mới. Những chầu nhậu, những cuộc vui ngẫu hứng, bất kể sáng trưa chiều tối của mấy nhân viên dưới quyền khiến anh vui vẻ xua đi căng thẳng dù đôi khi làm cho anh nôn thốc nôn tháo và thức trắng đêm với căn bệnh đau dạ dày. Chốt lại một điều sự tự do hấp dẫn anh hơn thảy và anh chưa sẵn sàng thay đổi cuộc sống mà anh đang sống. Hơn thế, liệu Như có thực sự là người mà anh muốn gắn bó cả cuộc đời? “Nha Trang có gì thay đổi không?”. Anh ngồi sau xe Toàn, hỏi bâng quơ. “Như mày thấy đấy, vẫn xinh đẹp như ba năm về trước”. Anh nhìn những rặng dừa xanh thẫm nằm trải dài bên bờ cát trắng mịn trong hoàng hôn thành phố qua cặp kính đen, thấy lòng không khỏi xốn xang: “Cho tao về khách sạn nào mà ba bước có thể về với vua Thủy Tề”. Toàn quay đầu lại: “Sao? Mày chê căn hộ chật chội của tao à? Căn hộ ở Sài Gòn của mày chắc gì đã rộng rãi tiện nghi bằng?”. “Không. Lần này về, tao muốn được tĩnh tâm một chút, với lại còn bồ của mày nữa. Phiền lắm”. “OK, tùy mày đó. Nhưng không phải vì thế mà khi tao lên Sài Gòn mày tống tao ra vỉa hè đâu nhá. Tao không phải là sếp như mày nên không chơi sang được”. Anh vỗ vai thằng bạn lắm lời: “Tao hiểu mà. Mày hợp với nghề bán cháo phổi lắm đấy, thật không hổ danh giảng viên đại học”. Toàn xách va li cho anh lên tận phòng ở khách sạn rồi vẫy tay: “Có gì thì ới một câu, tao tới liền”. Anh ngả xuống giường, đệm êm ru khiến anh khoan khoái, anh mở máy điện thoại. Có ba tin nhắn đang đợi anh. Tin của Như. Những dòng chữ dài lê thê nội dung cái nào cũng như cái nào, rằng anh đã về đến Nha Trang chưa, anh có khỏe không, anh đang làm gì, em nhớ anh... Anh buông máy chạy vào buồng tắm xối nước lên tóc với cảm giác đã đời sau một ngày lắc lư trên tàu. Anh muốn quên... Nha Trang về đêm vô chừng quyến rũ, anh đi dạo một mình trên phố rộng đèn điện giăng mắc sáng choang. Những quán cà phê hoa trổ đầy cổng mở nhạc êm ru, những gương mặt khách du lịch tươi vui, hớn hở. Và tiếng sóng, khi anh đứng trên bờ biển lắng nghe âm vang đại dương, thấy cuộc đời quả là kỳ diệu. Khoảnh khắc này, anh mới nhận ra, mình thật cô đơn. Mình có sai lầm không khi đi biển một mình thế này. Anh bắt đầu nghĩ đến Như, khi mà đi lướt qua anh là một đôi trai gái. Cô gái mặc một chiếc áo len có gam màu giống như chiếc áo len Như hay mặc. Một gam màu xanh trời nhạt điểm những nụ hoa tím ở cổ và tay áo. Anh đã từng chê là quá đơn điệu và tẻ nhạt. Nhưng hiện tại, Nha Trang đã làm cho anh nghĩ về cô. Anh điện thoại gọi cho Như. Chỉ một tiếng chuông reo cô đã nhấc máy. “Anh đây. Em khỏe chứ”. “Vâng, em khỏe”. Anh áp chặt điện thoại vào tai, dường như anh nghe thấy cả tiếng thở dồn của Như bên kia đầu dây. “Anh đã đi chơi nhiều chưa? Anh ăn tối chưa?”. “Rồi em”. “Anh nhớ mặc áo khoác nhé...”. Quân ừ hử. Vẫn những điệp khúc đó, mà cái anh cần, trong lúc này, không phải những lời quen thuộc ấy. Giá như, một lần thôi, cô nói rằng: “Em về Nha Trang với anh nhé”. Anh sẽ hoan hỉ biết bao. Thế có tàn nhẫn không nhỉ, để cô lặn lội một mình xuống đây. Khi mà trước đó anh có thể thừa khả năng kéo cô đi bất cứ nơi nào. Anh đang mâu thuẫn hay sao? Không. Anh cần Như mãnh liệt hơn. Nhưng Như vẫn là Như, không thay đổi. Anh đã từng yêu cô tha thiết ở cái tính nết nhu mì giản dị. Cô từng đến với anh sau những cơn say. Không quản ngại, cô pha nước ấm lau mặt cho anh, cởi tất, cởi giày cho anh, rồi ngồi ngay ngắn bên cạnh. Lần đầu anh xúc động, nhưng những lần kế tiếp, sự chu đáo lặng lẽ không một lời phàn nàn oán trách của cô làm cho anh bực bội, vì một điều gì mà chính anh không thể nào lý giải được. Tình yêu hai người phẳng lặng như một dòng sông không gợn sóng, như một đĩa hát tua đi tua lại phát nhàm. Quân không phải là người đa tình hay thích phiêu lưu vì xung quanh anh không thiếu những cô gái trẻ hấp dẫn. Nhưng nếu anh chia tay, Như sẽ nghĩ gì. Rằng anh là kẻ phản bội. Mà với Quân, sự phản bội là điều anh ghê tởm nhất. Nhưng cố gắng duy trì, thì anh lại mệt mỏi nhàm chán, lại trốn tránh, lại cảm thấy sợ hãi khi phải đối diện với chính mình. Hay chăng, anh sẽ nói thật với Như... Rằng hai người cần phải có một thời gian để xem xét lại... Quân tắt máy điện thoại. Anh ghé vào một quán bar gần khách sạn, cô gái phục vụ tiến đến rót rượu cho Quân. Khi cô ta cố ý ngồi sát Quân thì anh khoát tay tỏ vẻ từ chối. Anh gọi cho Toàn, thông báo vắn tắt rằng ngày mai anh quyết định trở về Sài Gòn, nếu rảnh thì qua gặp anh gấp khiến thằng bạn vàng cáu nhặng xị kêu anh là đồ khùng. Quân uống sạch ly whisky, thở dài: “Có lẽ nó nói đúng, mình khùng thật rồi”. Tàu vừa đến ga Sài Gòn thì mưa đổ ập xuống. Quân kéo va li, đi như chạy trên con phố đông đúc rồi ghé vào một quán cà phê. Anh ngồi co ro đốt thuốc, lơ đãng nhìn lá vàng bay tơi tả qua ô cửa kính. Đúng lúc đó cửa mở, đứng sững trước anh là Như. Cô ướt lướt thướt trong chiếc váy trắng mỏng manh: “Sao em lại ở đây?”. Như bíu tay lên mặt bàn, nói bằng một giọng yếu ớt: “Em ra ga đón anh”. “Sao em biết anh về?”. Em gọi cho anh nhưng anh tắt máy, em gọi cho anh Toàn, anh ấy nói anh về... Em đã đợi anh ở ga suốt cả chiều nay... Khi nãy em nhìn thấy anh và gọi anh, nhưng không kịp...”. “Thế à?”. Quân nói bằng một giọng hờ hững, đến mức anh phải kêu trời, sao mình lại tệ thế, nhưng rồi anh đã lấy lại bình tĩnh. Anh gọi cho Như một ly sữa nóng. Hai người ngồi đối diện nhau. Quân không biết phải bắt đầu thế nào thì Như đã cất lời trước: “Anh Quân, em muốn nói với anh một chuyện...”. “Anh nghe đây”, “Em sắp đi xa...”. “Hả?”. Trong một giây Quân tưởng mình nghe lầm. “Em đi đâu?”. “Em đi Pháp. Mẹ của em đã lo xong giấy tờ cho em. Mẹ cần em. Em không nghĩ rằng tất cả lại chóng vánh thế. Em xin lỗi vì đã giấu anh...”. Quân im lặng. Thế là xong. Khỏi phải nhức đầu nhức óc cho một cuộc chia tay vì chính Như chứ không phải là ai khác đã nói ra điều đó. Anh chợt nhận ra trong quãng thời gian hai năm yêu nhau chưa bao giờ anh để tâm đến gia đình của Như. Thậm chí, chưa bao giờ anh quan tâm cuộc sống của Như. Anh chỉ láng máng biết rằng ba mẹ Như chia tay nhau khi Như còn nhỏ và cô phải sống với bà ngoại. Thi thoảng anh đưa cô về và hai người chia tay nhau ở cầu thang khu chung cư cao tầng buồn bã. Quân nhìn sâu vào đáy mắt Như, anh thấy những giọt nước mắt long lanh trào ra. Anh nắm tay cô: “Em, đừng khóc”. Như đưa Quân về khi mưa gần tạnh. Đến cửa, Quân nói khẽ: “Em về đi không muộn”. Như ngẩn ngơ một lúc rồi cô lên xe, nhưng vì tay không vững nên cô suýt ngã. Quân giữ lấy cô thật chặt: “Em có sao không?”. Như lắc lắc đầu: “Không...”. Rồi cô lên xe, phóng thẳng về con đường phía trước. Quân nhìn theo. Anh không hiểu tâm trạng của mình. Như đang nghĩ gì? Phải chăng sự im lặng của anh càng làm cho Như vò xé vì cô đã đột ngột thông báo cho anh về chuyến đi của mình, đến mức anh không thốt được nên lời? Tội nghiệp cho Như, cô như bình pha lê trong trẻo đến tinh khiết đã đặt nhầm tình yêu cho một kẻ hời hợt như anh. Quân tra chìa vào ổ khóa và đổ vật xuống giường, một lúc sau không tài nào chợp mắt, Quân với lấy điện thoại bấm số máy Như , nhưng cô tắt máy. Lẽ nào Như đã ngủ? Hoặc cô đã chọn ngày hôm nay để chấm dứt tình yêu. Dường như cô hiểu, sự ra đi của cô sẽ rất khó để tiếp tục đắp xây tình cảm với Quân. Vì ngay cả khi cô sống gần anh, chưa bao giờ anh thực sự thuộc về cô. Và với Quân, anh cũng chưa bao giờ hình dung ra được, có một đêm thế này anh gần như thức trắng chỉ để gọi về một số máy mà chính anh cũng không biết, mình sẽ nói gì với chủ nhân của nó...[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tình yêu muộn[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phan Thị Tần[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hai Thế sống lủi thủi một mình mà mọi người không hiểu nguyên do tại sao anh lại cứ như thế. Cho đến buổi tối hôm đó, Hai Thế chợt lên cơn đau bụng. Nhà anh vốn neo đơn, chỉ có một thân một mình, chẳng ai đốt dùm anh ngọn đèn dầu hay chạy ra đầu ngõ mua dùm anh viên thuốc trị bệnh. Anh chỉ còn cách ôm lấy cái bụng đau của mình mà rên. May mà có chị Dung tình cờ đi ngang, nghe tiếng anh Hai Thế rên rỉ, chị nhìn vào thì chỉ thấy bóng tối tràn đầy trong căn nhà của người đàn ông đó. Chần chừ một lát mới đẩy cửa bước vào, trong ánh sáng lờ mờ, chị nhìn thấy anh Hai Thế đang ôm bụng rên la. Cám cảnh trước căn bệnh của người đàn ông đang sống một mình, chị đã đốt dùm anh ngọn đèn, kéo anh lên giường vạch lưng ra cạo gió. Chị lại lui cui xuống bếp nấu giúp anh bát cháo. Chuyện chỉ có vậy thôi nhưng đêm đó khi chị Dung bước vào nhà anh Hai Thế, chẳng che nổi mắt của người dân trong xóm Thúy Kiều. Cứ người này to nhỏ với người kia khiến chuyện giúp đỡ lẫn nhau thành chuyện họ phải lòng nhau. Cũng thật buồn cười khi xóm nhỏ có chưa tới ngàn dân này lại có cái tên rất quen, dù chưa chắc họ đã biết đến truyện Thúy Kiều của thi hào Nguyễn Du. Chuyện xảy ra trong đêm chẳng liên quan gì tới cơm áo gạo tiền của gia đình nào, nhưng có lẽ bởi Dung dù sao cũng là một người phụ nữ nhan sắc, sống đàng hoàng chẳng hề để lại chút tai tiếng gì. Người đàn bà đàng hoàng lại ở trong nhà người đàn ông độc thân trong đêm thì làm sao lại không có tình ý? Đó là suy nghĩ của nhiều người. Vài hôm sau, Hai Thế rảnh việc, ra quán rượu của bà Ba béo đầu ngõ, kêu xị rượu ngồi uống chơi, dường như trong lòng còn mang bóng dáng của người đàn bà lo chữa bệnh, nấu cháo cho mình ăn hôm nào. Nói đúng hơn là, Hai Thế đợi chị Dung đi ngang qua. Giữa lúc đó thì cánh thanh niên ngồi lai rai ở bàn bên có lẽ cũng đã quá chén, một đứa cầm ly rượu tới chỗ Hai Thế ngồi: - Anh Hai Thế thật là có phước. Khi nào anh với chị Dung làm đám cưới, nhớ cho tụi em này uống ké ly rượu mừng. Hai Thế ném chai rượu xuống nền nhà khiến nó vỡ tan tành mà nói: - Trai đơn gái chiếc có gì đâu mà mấy người dị nghị. Chỉ sợ cô Dung chê thằng Thế đưa đò này không lo nổi cho mẹ con cô thôi. Thằng Thế sẵn sàng lo chu toàn bổn phận của người chồng nếu cô Dung chịu về nhà Thế ở. Đám thanh niên trong xóm vỗ tay hò reo: - Ừ, có sao đâu. Rổ rá cạp nhau thì lại thành rổ rá. Chị Dung nấu cháo ngon không anh Hai? Hai Thế cười hề hề: - Cả cuộc đời tao chưa bao giờ ăn một bát cháo ngon như thế. Bà Ba béo pha thêm vào câu chuyện: - Ngon giống như bát cháo hành của Thị Nở nấu cho Chí Phèo ăn không? Lập tức, Hai Thế trừng mắt nhìn bà Ba béo: - Bà nói như thế mà nói cho bằng được? Thị Nở là con đàn bà xấu xí. Còn Dung thì sắc nước hương trời. Tất nhiên là ai dám trêu chọc người say. Vả lại, Hai Thế tướng người to con, tánh tình nóng như lửa đốt dù cho là làm nghề chèo thuyền nhưng đố trai làng nào khoẻ bằng Hai Thế? Mọi người nghe kể lại là Hai Thế cũng đã từng có vợ, một cô vợ nhan sắc khá mặn mòi. Tuy nhiên, cô nàng lại không thích cam phận làm vợ một người chèo đò đưa người qua sông. Nhờ có chút nhan sắc, Nguyệt (vợ Hai Thế) mở quán nước ngay cạnh bến đò của chồng bán cho khách qua lại. Nào ngờ chính vì quán nước đó mà Nguyệt đã bị ngã lòng bởi một tay thu mua nông sản thường la cà ở quán nước buông lời trăng gió. Rồi một buổi sáng, Nguyệt đã khăn gói theo người tình chèo thuyền qua sông lên thành phố. Hai Thế đã căm giận đến chừng nào, nổi lửa đốt cái quán nước ven sông như chính nó là nguyên nhân gây ra chuyện vợ mình ngoại tình. Với Dung thì lại là một trường hợp khác. Dung vốn không phải là gái làng nhưng theo chồng về quê theo tiếng gọi của con tim. Nhưng Nhân, chồng Dung vốn là người đàn ông yểu mệnh, lại là chàng trai mồ côi cha lẫn mẹ. Về ở với nhau được hơn năm, khi Dung vừa sinh ra đứa con đầu lòng thì Nhân bị cây đè chết trong một chuyến lên rừng tìm trầm hương. Bởi ở làng này người dân sống chủ yếu bằng nghề rừng. Cánh rừng dựa lưng vào làng có vô số của cải nhưng cũng đã cướp đi bao nhiêu sinh mệnh của những đàn ông trong làng. Điều lạ là ở chỗ thay vì dắt con rời khỏi làng sau khi chồng chết, chị Dung vẫn ở lại làng như thể làng Thúy Kiều này là nơi chôn nhau cắt rún của chị. Thằng Ngọc, con của chị Dung lớn như thổi, đều được dân làng yêu mến vì tánh tình ngoan ngoãn, học hành giỏi giang. Dung mở một quán cà phê bình dân ở chợ. Cà phê của Dung pha ngon, lại rẻ, thằng Ngọc phụ bán với mẹ nếu hôm nào không đi học. Cuộc sống của mẹ con nhờ thế mà chẳng phải vất vả. Vả lại, Dung cũng còn mở thêm hàng bán trầu cau lặt vặt và những thứ linh tinh như thuốc Cẩm Lệ, thuốc rê, dầu gội đầu, dầu gió ngay ở nhà. Sau đêm Hai Thế bị đau bụng, dường như tình cảm của hai người trở nên thân mật hơn. Mọi người trong xóm Thúy Kiều gọi đó là mối tình "Trầu Cau". Chẳng ai hình dung ra là họ đã chú ý đến nhau từ lúc nào? Chỉ thấy vào những khi chiều xuống, chị Dung thường hay ra bến sông ngồi đợi Hai Thế chở khách về. Có khi bến đò không còn khách, Hai Thế lại cùng Dung chèo thuyền dạo chơi trên dòng sông. Tính ra, tuổi đời thì người nào cũng đã xấp xỉ bốn mươi rồi, tuổi mà theo mọi người thì chẳng còn hăm hở lao vào tình yêu khờ khạo, khi đó người ta cần có nhau để sẻ chia những vui buồn trong cuộc đời hơn là hò hò hẹn hẹn. Còn theo cách nói của các ông bà già xưa thì đó là kiểu rổ rá cạp nhau, góp gạo nấu cơm chung. Còn nói theo kiểu Hai Thế khi ngỏ lời với Dung là "Anh hay đau bụng, có người cạo gió anh mau khỏi", Dung không khỏi phì cười với lời tỏ tình như thế: "Vậy anh chỉ cần kiếm một người cạo gió cho anh thôi sao?". Những lúc chỉ có hai người với nhau, Hai Thế nói: - Hai mẹ con cứ về để tôi chăm sóc. Tôi vụng về lắm, nhưng tôi cũng cố gắng để trở thành người chồng tốt của em. Mình về ở chung một nhà cho ngọn lửa trong bếp nó cháy sáng hơn... Dung ngần ngại: - Cha thằng Ngọc chết sớm cho nên nó không được dạy dỗ cẩn thận. Nếu anh thương em thì thương luôn con của em. Anh đừng làm cho nó buồn. Rồi một buổi trưa trời nhiều mây trắng, họ làm một bữa cơm nhỏ ra mắt hàng xóm, cùng về ở bên nhau. Cho đến một buổi chiều bến sông vàng nắng chiều, Nguyệt bỗng nhiên trở về. Người vợ từng đã làm cho Hai Thế khổ đau, giờ đây cô ta lại cần anh đùm bọc sau khi bị người tình giang hồ buông bỏ giữa đường. Hôm đó, Dung ra chợ chưa về, còn Hai Thế thì khá bất ngờ khi đang sửa soạn gác mái chèo, kết thúc một ngày đưa đò. Hai Thế nhìn Nguyệt, lắc đầu: - Muộn rồi.Tôi đã có vợ. Tôi chẳng thể cho cô về nhà tôi được đâu. Nguyệt chẳng nói chẳng rằng, cứ bước chân theo Hai Thế. Nguyệt về nhà, rồi như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Tự tiện thay quần áo, dọn dẹp nhà cửa, xuống bếp nấu cơm. Nguyệt nói: - Em chưa cho anh ly dị em. Không có ai được bước vô nhà này ngoài em. Hai Thế hung dữ đến thế mà chẳng biết đối phó với tình huống như thế nào. Hai Thế nhỏ giọng: - Dung và thằng Ngọc sắp về rồi. Cô làm ơn bước ra khỏi nhà tôi có được không? - Không. Tiếng Nguyệt gằn cứ như là Nguyệt không phải là người có lỗi. Bến sông giờ đây chẳng có bóng dáng anh Hai Thế chèo đò. Anh lên đường đi tìm Dung và thằng Ngọc. Hy vọng là anh sẽ tìm ra Dung, dẫu rằng giữa muôn trùng người làm thế nào anh biết họ đi đâu? Nguyệt đã phá vỡ đi hạnh phúc đến muộn của hai người. Với Dung, đó là nỗi đắng cay khi bị Nguyệt đay nghiến: "Hết đàn ông rồi sao mà mày đi giật chồng người khác?".[/FONT]