Truyện Ngắn và Thơ!

Thảo luận trong 'Cà Phê - Trà Đá' bắt đầu bởi Phúc Thịnh, 19/4/12.

  1. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Một năm chỉ có một ngày[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phan Thị Vàng Anh[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ngày truyền thống của lớp cũ, học trò xưa tụ họp nhau rủ thầy chủ nhiệm ra bờ biển cắm trại. Thầy dắt theo một cô bạn gái từ thành phố tên Châu. Cô ngồi xếp bằng trên tấm trải, miệng luôn cười xã giao vu vơ mà nghĩ : "Xưa nay mình vốn rất ghét những buổi họp mặt kiểu này".

    Học trò mặt đã phong sương, có đứa đã lấy vợ, ngồi xúm xít mà bẽn lẽn quanh thầy, day mặt ra biển hứng gió muối lồng lộng. Trên những tảng đá trọc, mấy ông câu cá đứng không yên, và sóng biển như một thằng điên, lâu dài xông vào tít trong sân, sủi bọt như xà phòng.

    Ngồi được một lúc, thầy gọi vài đứa học trò ra một góc dặn dò, tụi nó dạ dạ rồi lại nắm tay Châu : "Đi chụp hình, chị Châu !". Rồi chỉ một đứa con trai đầu đội mũ bánh tiêu đứng cười toe toét, chờ đợi : "Thợ của lớp em đó". Đi dọc bờ đá tìm cảnh chụp, gió thổi tóc bay tán loạn, bọn học cười thông cảm trước cái cảnh Châu
    chăm chăm nhìn xuống bãi cát tìm vỏ ốc. Châu cũng hơi ngượng, cô nghĩ : "Mình có vẻ hơi giống ăn mày !..." Ngồi lên một tảng đá găm đầy ốc đen li ti, chụp vài kiểu cổ điển, thấy quay ngang quay ngửa một mình mãi cùng nhàm, Châu bảo: "Mấy em đứng chụp chung với chị cho vui !" Bốn, năm đứa xúm lại, đứa bá vai, đứa kẹp tay Châu, một đứa rụt rè đề nghị : "Chị và thầy ở đến tối với em". Châu cười thật lịch sử: "Không được, trưa nay chị có hẹn !" Đứa nhỏ vớt vát: "Một năm, tụi em chỉ có một ngày !..." Châu cắt ngang nhẹ nhàng: "ồ, phó nhòm nhắc đứng im kìn !" Và tất cả ngừng lại, bất động, cả những miệng cười, cả những ngón tay ngo ngoe rên đầu giả làm sừng, chỉ có gió vẫn lồng lộng và biển gừ gào đầy sóng.

    Trời hửng nắng, một đứa con trai rót rượu cười sung sướng: "Bắt đầu được rồi ha, thầy !". Và nó nói, nhẹ nhàng lẫn trong biển và gió: "Năm nào chúng em cũng họp lại, vào ngày này. Có năm đầu bận thi đại học, không kể, hai năm sau, ở Mũi Né, rồi năm nay, ở đây. Năm nay có thầy..." Thầy giáo ờ ờ: "Mấy năm qua, thầy bận !" Học trò gật đầu thông cảm, nói tiếp: "Năm nay có vài bạn ở xa cũng về". Thầy hỏi: "Ai vậy ?" - "Chị đó, thầy, cách đây một trăm năm mươi cây, nó về từ hôm qua. Rồi Hoa, Dung..." Rồi chuyền nhau ly rượu, Châu nhìn đống chai xếp hàng chờ đợi, khẽ nhăn mặt. Thầy giáo rỉ tai: "Tụi nó lớn rồi, ra đời đã bốn năm rồi". Xong hỏi to: "Trong này, đứa nào có gia đình rồi ?" - nhỏ thó, mặt đỏ gay, căng ra vì hơi rượu. Một đứa lại hỏi: "Sao hôm nay không cho vợ mày đi cùng ?" Thầy bảo: "Vẫn xưng hô mày tao man rợ vậy sao ?" Học trò cười, long lãnh, con gái có đứa mắt đã chân chim mờ mờ: "Vẫn 12/A3, phải không thầy?" Thầy cười: "ờ, vẫn thế !" Và Châu chợt nghĩ: "Bao nhiêu năm rồi, lớp mình chưa gặp lại nhau nhỉ?".

    ... Rượu đã gần cạn, đám con trai dựa vào nhau ngập ngừng hát, bọn con gái ngồi riêng rủ rỉ cuốn bánh tráng, cắt sương sa, thầy giáo đăm chiêu nghe một học trò thầm thì tâm sự. Châu hỏi Hoa, người suốt buổi gắp thức ăn cho cô: "Năm nào cũng vậy sao ?" - "Dạ, năm nào cũng vậy, vui lắm, ở tới tận đêm !" Châu cười thầm: rù rì như thế này mà ở tới tận đêm cơ à ? Hay kể chuyện riêng mới ? Mà có thấy ai nói gì nhiều đâu, cứ ngồi thúc thủ dưới bóng dương nhìn nhau cười, ăn một tí, uống một tí, đàn tưng tửng vài tiếng rồi thôi... Cũng chẳng thấy chơi trò gì, "tìm khăn" hay "thêm đầu đuôi"... chẳng hạn.

    Đến gần trưa thì cả đám hầu như đã im lặng, có đứa đã thiu thiu ngủ trong tiếng gió phần phật, và nắng rọi mặt hanh hanh. Những ông câu cá cũng đã bỏ đi chỗ khác, học trò lơ mơ dựa nhau mắt lim dim dõi theo bất cứ thứ gì đi ngang mặt, một con chó mực lang thang bờ biển, một đám con trai phanh ngực hùng hổ đi dọc bãi cát... Châu nhìn tất cả, mỉm cười. Và Hoa chột dạ, cười theo ngượng nghịu : "Tụi em quê mùa lắm, chị ngồi đây có buồn không ?".

    Có buồn gì đâu ? Càng lúc Châu càng thấy, hình như ở đây, mình đã đạt tới trạng thái thăng bằng nhất. Những đứa nhỏ này cũng vậy, ai cũng có vẻ hài lòng với buổi họp mặt này, không ai phải loay hoay tìm cách hoạt náo. Châu nghĩ : "Thật là khôn ngoan !" Bởi vì các trò chơi tập thể, các câu đùa.. không thể kéo dài vô tận và một khi đã tung ra là cứ phải tìm cách cho nó được liên tục, chỉ sơ sểnh ngưng lại vài giây là cả đám sẽ rơi vào trạng thái bẽ bàng.

    Hoa đã nói : "Ngày xưa, lớp em thương nhau lắm, bây giờ chỉ cần ngồi thế này, nhìn thấy nhau là cũng đủ vui rồi !". Châu nhìn mây đen kịt một góc trời mà nghĩ : "Hình như mình và Hoàng không hạnh phúc. Những người yêu nhau thật không phải di chơi nhiều như tụi mình. Họ ngồi ở nhà, luẩn quẩn bên nhau, người hài lòng với ngay cả điều đơn giản nhất là người đang hạnh phúc nhất".

    Quá trưa, thầy giáo và Châu về. Học trò tìm đủ mọi cách để níu kéo: giấu cái mũ, chụp thêm hình... rồi khi được biết rằng cái hẹn của Châu ở nhà là rất quan trọng, tất cả đành buông xuôi, bịn rịn đi theo tiễn đến tận đường lớn. Vài đứa ghi lại địa chỉ của Châu xanh kín bàn tay, dặn dò: "Chị nhớ viết thư: Năm sau, ngày
    này nhớ về đây !" Thầy giáo nhìn học trò sôi nổi mà thương hại, thấy biết tính Châu, rồi đến lượt thầy rụt rè nói nhỏ: "Nếu tụi nó viết, em ráng giành chút thì giờ trả lời nghen ! Tội lắm!".

    Châu đi, nghĩ rằng mình sẽ viết thư, nhất định năm sau mình sẽ trở về, cũng ở chỗ này, cũng ngồi rù rì bình an như thế cả ngày... Và cô quay lại, làm một việc xưa này chưa từng làm là đưa tay vẫy vẫy cái đám người hạnh phúc ấy, họ vẫn đứng lô nhô bên gốc dừa, nhìn theo, nhỏ dần...
    [/FONT]
     
    No MercY, bình minh 6868 and kunkun like this.
  2. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Một mối tình[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Ngọc Tư[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mưa vô mùa, nghĩa là hết một đợt dài lưu diễn, tôi về quê. Má tôi chặt lá, giúc nếp cặm cụi ngồi gói bánh cà bắp, nấu một nồi tám đầy vun bánh. Tôi hỏi má gói chi nhiều vậy, má cười: "Cho cha con thằng Bầu, tội nghiệp tụi nó, nhà không có đàn bà nên cũng có bánh trái gì đâu...". Tôi giành: "Chừng nào bánh chín, để con đem qua bển cho. Mà, má nè, anh Hai có tính bước thêm bước nữa chưa, hả má?". Má tôi cười: "Chưa, má biểu nó hoài, mà, cái con nầy, lần nào về cũng hỏi có mỗi chuyện đó... ". Mình à? Mình sao? Lần nào cũng hỏi chuyện đó à? Ụa, hỏi hồi nào sao mình không hay vậy ta?

    Tôi ngủ lưng một giấc, bánh chín, một tay tôi bưng rổ bánh, tay kia xách tay dầm xuống bến. Má hỏi với theo: "Còn bơi được không hả con? Còn nhớ nhà ba con nó không?". Tôi cười, nghĩ bụng má mình già thật rồi, lẩm cẩm rồi, bơi xuồng thì biết bơi từ năm sáu tuổi, sao quên được, còn nhà Trọng thì nhớ dằn nhớ vặt đã mười mấy năm, quên sao được mà quên.

    Có xa xôi gì đâu, từ nhà tôi bơi dọc theo rạch ô môi, ngược lên hướng mặt trời mọc chừng năm thước là đã tới nhà Trọng rồi, nhà trồng nhiều thiệt nhiều cây ô môi, bông đỏ, lá xanh, trái chín không ai ăn, tụi con nít móc xuống làm gươm đánh nhau chan chát. Hai bên đầu trồng toàn là vú sữa, cao lớn lắm, già lắm, cỗi cằn lắm, lâu dày không thấy có trái trăng gì hết. Dưới mé kinh còn nguyên một đám nga cao ngòng. Mà, hết cái xóm kinh nầy có ai có cái nhà vừa cũ, vừa xưa như nhà Trọng đâu.

    Không biết tự hồi nào, rất tự nhiên, tôi thuộc lòng từng lớp rêu mốc mọc dưới chân cái tường rào, rêu phủ kín mái nhà, rêu mướt xanh cái gờ tường chỗ dựa hàng lơn nước. Tôi thuộc lòng nết của cha con Trọng, tôi biết chút nữa mình lên nhà, mừng tôi xong, Trọng sẽ tìm chuyện gì đó để ra vườn, chớ ngồi nói chuyện mà không nhìn tôi thì coi không được, nhìn lại tưởng nhớ xa xôi. Thằng Bầu cháu tôi sẽ te tái chạy lên gian nhà chính, lại chỗ bàn thờ lớn nhất, thành kính vặn ngọn đèn chong cho tỏ lên, ý như nói với những người đã khuất, "Thưa, Dì Út con tới nè" như hồi xưa bác Chín, ba Trọng rồi Trọng từng làm vậy mỗi khi có khách tới nhà.

    Ở nhà Trọng, có nhiều thứ mấy chục năm rồi không thay đổi. Cảnh cũ giữ nguyên đã đành, tánh tình lớp người sau cũng y chang người trước, như từ một khuôn đúc ra. Như Trọng vậy, mười năm, kể từ ngày chị Ái tôi bỏ Trọng đi, Trọng vẫn giữ nguyên cái khăn choàng tắm treo đầu sào, chiếc nón lá quai nhung đã ngã mầu thâm sì, cũ mèm, giữ cây lược sừng đã gãy mất mấy cái răng với cái kiếng soi để ở đầu giường như thể chị Hai tôi vẫn còn ở đâu đây. Như thể chút nữa khi tắm xong, chị sẽ bước vào, chải đầu, rồi vừa nghiêng đầu, vừa quạt hong khô tóc bên cái cửa buồng trông ra hàng lơn nước, chỉ cần một cơn gió nhẹ, lá vú sữa khô nằm trên mái nhà sẽ tuôn xuống như mưa.

    Sao tôi lúc nào cũng thèm ngồi ở đó, ở cái vị trí yên bình đó, nhất là bây giờ, khi tôi vừa lang thang hết một mùa nắng. Nhất là khi nghe Trọng biểu thằng Bầu ở nhà bắc nồi cơm để anh đi nhổ vài cọng bông súng nấu canh với mấy con cá vừa thả câu được hồi hôm. Tôi hỏi, đám trái giác ngoài bờ liếp còn không, thằng Bầu nói còn. "Vậy anh Hai hái giùm em một mớ nấu chua ăn, thèm quá chừng", tôi dặn với theo. Rồi Trọng quay lưng đi, không kịp để cho tôi nhìn anh cho kỹ, nhưng thà vậy, Trọng đứng lớ ngớ đây một hồi, thể nào không nén lòng tôi cũng ôm chầm lấy anh mà khóc. Tôi bỏ dép cho bàn chân áp xuống cái nền đất lạnh ngắt, chui theo thằng Bầu xuống bếp. Nó xua, ý trời, dì Út vô đây làm gì, khói lắm. Tôi cười, cũng có khi cần mà kiếm miếng khói không ra à, con. Trời ơi, cảnh nầy, sao y chang như năm ngoái, năm kia, chỉ khác là thằng Bầu đã lớn bội lên và nhớ mớ tóc bạc trên đầu Trọng thay đổi, nó trắng thêm, nhiều thêm. Tôi tự hỏi mình đang nghĩ tới cái gì mà lòng đau quá vậy cà.

    Chị Ái, tôi với Trọng cùng một đám con trai con gái nữa lớn lên cùng nhau trên cái xóm rạch ô môi nầy. Cỡ mười bảy, mười tám tuổi, thấy Trọng thấy thương quá, tôi nói với chị Ái: "Em xí thằng Trọng", chị tôi cười ngất, xong trề môi như đưa đò, "người ta mà em làm như trái bình bát chín cây vậy, bày đặt xí phần". Ba Trọng mất sớm, má đi lấy chồng ít về, từ nhỏ Trọng sống với ông nội, mười tuổi ông nội cũng mất, đang ở tuổi con nít chưa hết con nít, người lớn cũng chưa tới người lớn, anh đã gánh vác trọng trách lo hương hỏa cho gia đình. Một mình, với hai con chó, một con mèo, học xong, Trọng phải quần quật với chín công ruộng, một mảnh vườn đất cằn cỗi, già nua, lâu rày không thu được huê lợi gì, nhưng quý là trên đó chôn cả thảy chín cái mả ông bà, và ngôi nhà gạch đã có ba đời, cất trên nền cao theo kiểu chữ công, ba gian nhà rộng mênh mông trông ra cái sân gạch trơn rêu, mút sân là cái hàng rào giăng ngang, đứng dưới mé sông nhìn lên, dãy rào che tầm nhìn, chỉ thấp thoáng mái ngói lợp trài mầu vừa xanh vừa mốc.

    Nhà Trọng có một cái lạ nữa là trên bàn thờ lúc nào cũng chong đèn, ngày tháng này qua ngày tháng khác, năm này qua năm khác, ngọn đèn truyền từ đời cố Trọng, nội rồi tới Trọng, không bao giờ được phép tắt. Chiều nào chị em tôi đi ngang qua cũng thấy Trọng lọ mọ ngồi lau cái bóng đèn hột vịt ám khói, châm dầu bằng cái vẻ mặt thành kính, nâng niu. Lúc đó, tôi ước thầm, phải chi Trọng ngỏ lời

    thương, tôi sẽ làm hết thảy công việc đó thay Trọng đến suốt đời, đến khi trở thành bà già cóc kiết, tôi giữ lửa thì hay phải biết. Nhưng Trọng lại thích chị Ái tôi hơn, Trọng thương thầm chị cũng nhiều như tôi thương thầm anh vậy. Vậy mà anh không biết, còn cắc cớ biểu tôi làm mai. Nên có bữa, tôi hỏi má cho hai chị em đi coi hát, tới cái đập vô xóm Chẹt, Trọng đã bồn chồn chờ sẵn, tôi trao chị cho anh, giả đò đau chân để tụt lại đằng sau một khoảng xa xa. Tới sân Ủy ban xã, Trọng với chị tôi mua vé vào coi hát, tôi ngồi ngoài đầu cầu, đập muỗi. Trọng không quên mua cho tôi ly đá bào như để cảm ơn lắm lắm (chỉ thiếu điều anh mua kẹo dể dụ tôi). Ngồi buồn, nghe hát văng vẳng trong kia, tuồng thì giễu nhau ong óng như gà kêu đẻ, nhưng nước mắt tôi chảy dòng dòng lúc nào không biết. Vài người trong đoàn hát thấy, họ hỏi, sao khóc mò vậy, tôi cười thưa, tại tuồng cải lương hay quá. Họ cười, sao nhạy nước mắt vậy, đi hát đi, đem nước mắt mình ra lấy nước mắt người ta. Tôi khịt mũi, cười. Ngày chị Ái lấy chồng, phải lo dọn dẹp, tiếp đãi ở nhà, tôi không đưa chị qua bên đàng trai, quần xắn lúm đúm đầu gối, một tay tôi cầm cái giẻ lau bàn nước, tay kia vịn cửa nhà, khóc như mưa, khóc nhiều hơn cả chị, ai cũng dỗ, trời ơi chị bây lấy chồng gần xịn đây mà, khóc chi mà khóc, rồi trầm trồ khen, chị em con Ái thương nhau hết biết.

    Tôi thưa má cho lên thị xã xin vô đoàn cải lương Bông Tràm, lang thang nguyên một mùa nắng, mùa mưa mới về thăm má. Cũng có lúc gặp Trọng, kêu anh Hai ơi, anh Hai à tuồng như anh em một nhà thương nhau lắm (ai biết là có thương thiệt). Cũng có lúc viện cớ qua nhà thăm nom thằng Bầu, ôm nó lên, nựng nịu, đả đớt, coi nó giống Trọng ở chỗ nào, mà giống chỗ nào tôi cũng ưa. Cũng có lúc ngồi trân trân ngó chị Ái tôi mặc áo đỏ, chân xỏ guốc cao đi ngúc ngắc trong nhà, thấy không hợp mà cũng không dám nói ra. Chị thì lại nhìn tôi, săm soi guốc giày, quần áo tôi rồi tấm tắc: "Em sướng thiệt...". Tôi cười: "Chị cũng sướng thấy mồ, anh Trọng hiền khô, lại thương vợ...". Chị cười nhẹ: "Thương thôi thì được cái gì. Chị không hợp với cảnh nhà nầy, thầy Thành nói vậy..." Tôi hỏi, thầy Thành nào, chị cười, thầy mới về dạy ở trường xã mình nè, thầy hay lại nhà chơi, chưa vợ nên hay biểu chị làm mai, tưởng chuyện gì khó, con gái xứ này giỏi giang thiếu gì. Có lần, thầy thấy chị ngồi lau ống khói đèn thờ, thầy bảo, xứ này không hợp với chị, thầy nói câu nào nghĩ lại cũng trúng. Em gặp thầy một lần coi, thầy Thành nói chuyện hay lắm, thì người ta từ thành phố xuống mà. Nghe kể chuyện trên đó rồi, chị thấy sống ở đây chán thiệt, chán thí mồ đi. Gì mà ngày nào cũng giống y ngày đấy hỏng thấy thay đổi gì hết trơn". Tôi nhìn chị, muốn khóc quá, tội nghiệp chị quá, tội nghiệp mình hơn.

    Vậy rồi tôi lại đi, một bữa má tôi lên thăm, mới bước chân tới cửa đã vừa nói vừa khóc: "Con Ái tệ quá, nó bỏ chồng con nó theo người ta rồi. Biết nó hư thân vậy, má thà sanh cái hột gà, hột vịt còn hơn. Thôi, hết rồi, coi như đời nầy má không còn có nó là con má nữa". Rồi má hỉ mũi cái rột: "Con coi kỹ, có phải cái nhà thằng Trọng chỉ có đàn ông là sống được không?". Tôi không trả lời, Trọng mà rước tôi về bên ấy chừng nào tôi mới bỏ đi.

    Trời ô môi rộng vô cùng, đất thênh thang vô cùng bởi những khoảng trống mà chị Hai tôi bỏ lại. Má tôi xấu hổ vì con gái một dạ hai lòng, nhà có gì ăn cũng chắt chiu cho cha con Trọng, như là bù đắp nỗi đau, nỗi thiệt thòi. Tôi cười thầm má tôi hoài, buồng chuối xiêm, trái mướp, nắm rau với mấy cái bánh con con làm sao bù đắp nổi một con người, sao má tôi không đem tôi qua bên để đền, tôi hy sinh liền cho má coi. Nhưng từ lúc chị Ái tôi bỏ đi, cứ mỗi lần tôi qua nhà, Trọng lánh đi chỗ khác, tôi buồn, trách thằng Bầu mới sáu tuổi nhưng đã trở thành xướng ngôn viên cho ba nó, nó biểu, dì Út đừng có giận, ba con nói dì giống má con quá, nhìn dì, ba con chịu hổng nổi. Tôi nổi khùng trong bụng, nhìn tôi thì thương tôi chứ mắc mớ gì mà nhớ về người khác.

    Mười năm rồi, không biết đã thay đổi gì chưa. Tôi hỏi thằng Bầu lúc rày ba nó làm gì mà ốm nhom, đen thui vậy. Thằng Bầu nói, hết mùa ba nó chạy xuồng ra bến đò ngoài thị trấn chạy đò dọc, coi sóc cái rẫy khóm. Ở nhà cũng còn nhiều công chuyện lắm, hai ba con lui cui ngày nầy qua ngày nọ. Đi học về, nó đi đào trùn trộn cám vô lon sẵn để chạng vạng ba nó quẩy cần câu đi cắm dài theo mé ruộng, mé đìa, bữa nào nó cũng có cá ăn, bữa nào nhiều thì đem bán.

    Trọng không nghèo nhưng cũng chưa đủ giàu để sửa lại ngôi nhà đã bệu rệu xuống cấp. Mối mọt, bù xè thi nhau tấn công vào những cây cột gỗ, bộ quỳ chân quỳ, mấy cái tủ thờ, trường kỷ. Tôi nằm nghe rõ ràng tiếng bù xè nhai cây trẹo trẹo. Thằng Bầu nói con mèo mướp càng già càng tệ, mỗi lần bắt được một con chuột là mỗi lần làm ngói rớt xuống, bể tan nát. Thật ra, với tài bươn chải, tháo vát, tằn tiện, lại thêm má tôi giúp đỡ, Trọng có thể cất được một ngôi nhà khác, gọn gàng, vừa đủ để ở, nhưng Trọng muốn khi làm lại, vẫn giữ nguyên kiểu dáng như vầy, rộng thênh thang, mênh mông. Má tôi tức mình, hỏi tôi, "má hổng hiểu giữ cái nhà hổng giống ai đó lại để làm gì nữa, bây rảnh thì ngồi khuyên anh Hai bây mấy tiếng, chớ có bữa giông gió cái nhà nó sập đè chết cháu ngoại má cho coi..."

    Tôi nói gần xa, chê chỗ này cây mục, chỗ kia kèo sắp gãy. Trọng nói anh cũng lo không biết căn nhà có qua nổi mùa mưa năm nay không. Không biết cha con anh có còn giữ gìn được những bức liễn chạm trổ cầu kỳ, những bức tranh vẽ cảnh đồng quê, trời đất, trâu bò, trẻ con hiền hòa, bình dị, những tờ giấy dán tường vẽ truyện Trầu Cau, truyện Tấm Cám, rồi cái giường, căn buồng, cái ngạch cửa... Bữa nào mưa lớn hai cha con cũng chạy xấc bấc xang bang. Tôi hỏi chạy làm gì, thằng Bầu cười, chạy đi lấy đồ hứng nước dột đó, dì Út. Chớ để dột ướt nhà, mắc lấy khăn lau, cực lắm. Tôi cười:
    - Anh Hai à, để vầy hoài đâu có được, thôi, cất nhà mới cho rồi, ông bà mình cũng hiểu cho mình chớ chấp nhứt gì.
    Trọng chỉ cười nhẹ, ngó ra khoảng sân nắng. Thằng Bầu cười: "Dì Út giống hệt ngoại, biểu y chang. Ba con nói với con hoài, ba con hổng muốn thay đổi gì hết, để má con nhớ được đường, nhớ được nhà mà về".

    Trời ơi, tới bây giờ, Trọng còn mong một ngày như thế, cái ngày mà chị tôi sẽ trở về. Chị sẽ về ư? Sẽ về à? Không biết. Chỉ biết anh giữ nguyên cảnh cũ nhà xưa là để chờ người đang sống. Tự nhiên trong bụng thấy rầu, tôi biểu với thằng Bầu: "Thôi, dì Út về!". Bầu tròn mắt: "Để con nấu cơm đãi dì Út một bữa, mà, chút xíu nữa cơm chín rồi, dì ở lại ăn cơm với hai ba con con đi, trừ ngoại ra, lâu lắm nhà con mới mời cơm được một người". Tôi cười, cái thằng đàn ông đàn ang gì mà nói chuyện bắt mủi lòng.

    Càng lớn, thằng Bầu càng giống Trọng, tử tế, đàng hoàng lại pha thêm một chút gàn gàn. Bữa giỗ, Trọng uống hơi nhiều, nó ngồi kế bên nhắc: "Ba, ông cố nói, uống rượu có chừng thôi, uống ít còn nhiều, uống nhiều là mất hết đó". Cao hứng cỡ nào Trọng cũng ngưng lại ngay đó, ai cũng lạ khi thấy rằng con nói vậy mà cha cũng nghe.

    Bây giờ, Bầu cũng bước qua tuổi mười lăm, chưa chắc có nhớ chuyện cũ. Hai dì cháu lụi hụi trong bếp, tôi hỏi: "Bầu, còn nhớ má không con?", nó ngần ngừ một lúc, nhìn quanh, rồi nó thầm thì: "Con cũng hổng biết, chắc là không. Nhưng nói thiệt con sợ ba buồn... Hồi má đi con mới chút tẳn chớ gì...". Nó nói, có má cũng được, mà không có cũng được. Bây giờ quần áo rách, nó tự may được rồi, nhà cửa nó cũng dọn dẹp gọn bân nhưng cũng có lúc nó cần có má, để hỏi vài chuyện... Tôi hỏi chuyện gì, nó cười, bẽn lẽn, dường như những câu chuyện đó người ta chỉ dành để nói với má người ta. Tôi thương nó chút nữa đã ghì đầu nó ôm vào ngực. Chợt nó hỏi:
    - Sao dì Út không lấy chồng, dì ở vậy hoài, bà ngoại rầu lắm đó.
    - Dì còn phải đi hát.
    - Đi hát vui hơn lấy chồng hả dì?
    Tôi cười, lấy chồng vui hơn, nhưng phải lấy ngay trân người mình thương kìa. Còn đi hát thì không vui không buồn, mơ hồ lắm, thấy cười ha ha chưa chắc là vui, thấy rặn ra một đống nước mắt vậy mà hổng phải buồn. Có lúc đang ở nhà lại muốn đi, có lúc đang ở trên sân khấu vậy tự nhiên thèm về nhà. Bầu hỏi tôi thường đóng vai gì, tôi kể, nhiều lắm, hiền có, ác có, mà toàn vai phụ không thôi, có khi còn đóng vai con cọp mặt mày vằn vện trong tuồng "Thoại Khanh - Châu Tuấn" nữa. Bầu khen: "Dì Út giỏi thiệt ha, vai gì dì cũng đóng được". Tự dưng tôi nghe nỗi buồn chao chát trong lòng, tôi bảo, nhưng có một vai dì thèm mà không ai cho đóng, vai gì hả, vai một người bình thường, có chồng, sống với nhau trong căn nhà xưa, cũ kỹ. Buổi sáng chở mớ rau vườn ra chợ, mua ít thức ăn mang về nấu cơm trưa, chiều phụ chồng mần cỏ rẫy, chạng vạng chờ chồng từ ngoài đìa vác một mớ bông súng bước vô, đứng tắm bên cái lơn nước mưa vừa hứng đầy đợt mưa rồi, chồng dì biểu: "Mình ơi, làm ơn lấy dùm tôi cái khăn". Và dì tay cầm đôi đũa xào chạy từ trong bếp ra, tay kia cầm cái khăn, dì cười, "lạnh lắm rồi hả anh?". Và để được nghe con trai mình nói với mình những câu chuyện chỉ để dành nói cho má nó nghe thôi. Ừ, dì chỉ ước có vai bình thường vậy...

    Trọng đang nằm võng, tôi nghe nhịp đưa vùn vụt rồi cò kẹt dùng dằng chậm lại, tôi biết anh có nghe lời tôi nói. Căn nhà tự nhiên lặng lẽ đến kỳ lạ, nghe tiếng thằng Bầu thở ngỡ ngàng, nghe cả tiếng ơ cá kho sôi tăm tăm trên bếp, tôi ngửi thấy đâu đây mùi bông súng Đà Lạt thơm dịu, ngọt thanh pha cái mùi tanh tanh của bùn dưới đáy ao. Không lẽ im re hoài, tôi nói với Trọng, rằng anh có nhớ chị Hai thì cũng vậy thôi, người vẫn chưa về, thử thương tôi đi, tôi sẽ giúp thằng Bầu nấu cơm, vá áo, giúp anh lau ống khói, châm dầu cái đèn chong nhỏ, giữ cho ngọn lửa suốt đêm ngày le lói đỏ như giữ vẹn truyền thống nhà mình đã trăm năm nay. Sau nầy, chị Hai có về, tôi sẽ trao anh lại, như ngày xưa vậy, tôi làm cũng được lắm mà, gọn bân chớ gì...

    Mà, trời ơi, Trọng ác với tôi chi vậy, sao bắt tôi phải kìm lòng không được nói ra, nhìn tôi mà không hiểu à?
    [/FONT]
     
    No MercY and bình minh 6868 like this.
  3. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Một nửa sự thật[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phạm Thị Ngọc Liên[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thật ra những đứa trẻ ấy không được ra đời. Chúng hẳn đã đi đầu thai trở lại sau những lần bà mẹ trẻ của chúng che nón bước vào bệnh viện và bước ra với gương mặt xanh xao vì mất máu. Chỉ còn một đứa trẻ. Một đứa gái da trắng, tóc dài, môi đỏ, đôi mắt có ánh nhìn đen thẫm như mắt anh và hàng mi dày rậm như cánh bướm của cô.

    Con bé luôn về trong giấc mơ của cô với gương mặt phụng phịu. Đôi khi nó còn hỏi cô những câu lếu láo: "Bao giờ thì mẹ mới thôi tin ba?". Hình như cô chẳng trả lời được gì cả, cô bận nhìn sững gương mặt của nó mà tưởng đó là gương mặt anh thời tuổi nhỏ.

    Mỗi năm, con bé một lớn dần lên. Nó càng có vẻ giận hờn cô hơn mỗi lần trở về thấy áo gối cô ướt đầm nước mắt. Cô thì mỗi ngày một già hơn trong thân phận đàn bà giấu giếm. Dáng đi của cô mất hết vẻ cao ngạo, sang trọng, chỉ còn lầm lũi, mệt mỏi, dớn dác mỗi lúc qua đường. Trong lúc đó, anh vẫn thật đáng yêu, thật tội nghiệp với hoàn cảnh bế tắc, thật đàng hoàng trong tính toán và cư xử. Anh nói với cô "Tất cả những gì anh nói với em là sự thật". Và anh thề. Tất nhiên cô tin. Làm sao cô lại không tin những lời thề độc địa.

    Cô đặt tên cho đứa con gái nhỏ là Bình Minh. ừ thì cô phải có một bình minh của mình chứ. Ban đêm cô thắp nhang thì thầm khấn nguyện. Cô đăm đắm nhìn những bức tượng Phật trên bàn thờ, trong đó có bức tượng tự tay anh đem về từ những ngọn núi thiêng và đặt vào tay cô với lời chúc tốt lành. Đôi khi cô thấy bức tượng như rơi nước mắt và cô tự phạt đôi mắt quáng của mình bằng cách khóc theo. Con cá ấy màu vàng chứ không phải màu hồng. Hay là nó đã đổi màu trong làn nước tù túng ô nhiễm của chiếc bình? Cô chúi mũi nhìn qua lớp vách thuỷ tinh. Con cá nhìn cô bằng đôi mắt tội nghiệp, chúng như muốn nói lên lời thèm khát tự do, ngoài kia sông dài, biển rộng. Nhưng ngoài kia cũng có rổ rá, thúng mủng, dao thớt sẵn sàng. Và con cá quẫy đuôi một cách cam phận khiến cô xót xa trong lòng. Cô đưa chiếc bình ra bể định thay nước khác thì chợt khựng lại. Con cá nhìn cô với ánh mắt van xin sợ hãi. ánh mắt như muốn nói rằng trên cả sự thèm khát tự do, nỗi sợ hãi về sự thay đổi môi trường làm nó chết khiếp. Đã quen với làn nước ô nhiễm ấy rồi, nó sẽ sống và chết cùng sự ô nhiễm ấy chứ không thể thích ứng trong làn nước sạch sẽ ngọt ngào mà cô đem lại dù nó vô cùng ao ước. Sao vậy nhỉ? Cô tự hỏi tại sao cô lại không trả lời nổi với chính mình. Nhưng cuối cơn rên xiết, than thở đó, bao giờ anh cũng kết luận về sự bình yên, ổn định. Nhưng anh sợ mọi sự thay đổi. Cô lắng nghe mọi dằn vặt của anh từ thời điểm này sang thời điểm khác, đi từ trạng thái xúc động, tin cậy đến chỗ ngao ngán và coi thường. Vậy mà cô vẫn yêu anh.

    Nói cho đúng, cô cũng sợ mọi sự thay đổi. Từ lâu cô đã quen với sự hiện diện không bình thường của anh trong cuộc đời, về chiều chuộng ở một chỗ hẹn hò lén lút, quen những đột biến trong tính tình của anh... và rồi xem những thứ đó như những điều không thể thiếu trong đời. Cô che mặt đi vào, đi ra bệnh viện phụ sản như đi chợ, cho đến lúc người bác sĩ đặt tay lên người cô và nói cô sẽ chẳng bao giờ có con được nữa. Cảm giác tê dại chỉ đến với cô trong thoáng chốc, sau đó cô mừng thầm. Cô mừng khỏi phải nhìn thấy bộ mặt đăm chiêu của anh, khỏi phải nghe anh tự oán trách mình về tội đã gây ra căn nghiệp, sẽ phải trả đủ cho kiếp sau... Nhiều lúc, trong khi anh vừa ôm cô vừa ca thán, cô lẩn thẩn nghĩ trong đầu "Kiếp sau ư? Nhân quả tuần hoàn ư? Quả báo nhãn tiền thì có!" Và rồi cô lại tê dại đi với cảm giác hận thù vừa tràn trong ngực.

    Cô thù anh ngang bằng cô yêu anh. Điều đáng buồn cho cả cô và anh là cả hai người đều biết rõ như thế, đều biết rõ sợi dây oan nghiệt đang buộc chặt hai người đã nhuốm đầy máu và nước mắt, nhưng muốn chùi sạch hay cắt bỏ nó đi đều không thể được, bởi trong tâm thâm hai người vẫn tồn tại một chút gì đó của đạo đức và niềm tin, một chút gì đó của lòng nhân bản. Anh là người đàn ông không được tự do ư? Thế thì cô cũng mất tự do theo anh, đó cũng là hạnh phúc của cô vậy. Yêu anh thì thông cảm cho anh. Anh nhắc đi nhắc lại câu nói ấy với cô hàng nghìn lần. Và cũng hàng nghìn lần cô nuốt ực căm phẫn và nghẹn ngào xuống bụng. Ở đó có một nốt ruồi đỏ, nốt ruồi thái doãn vân mà sách tướng nói rằng người nào có nốt ruồi ấy chính là ngọc trong ngọc, tinh túy trong những tinh tuý, là người đem lại vận mệnh lớn cho đấng trượng phu làm chủ, và cũng tiêu diệt kẻ trượng phu ấy nếu y đem lòng phản bội. Anh đã từng thủ thỉ với cô rằng, làm sao anh có thể xa lìa nốt ruồi thái doãn vân này được. Đây là vận mệnh của anh mà. Nó đã đem lại cho anh biết bao may mắn trong cuộc đời mà... Còn cô, khi nghe anh nói, cô chỉ biết cười, nhưng thâm tâm cô u ám buồn. Cô nghĩ giá mà anh nói vì tình yêu anh sẽ không bao giờ xa em được, hơn là vì cái nốt ruồi nhỏ xíu đó. Một lần cô đã buột miệng hỏi anh và bị anh giận dỗi "Té ra em coi thường anh vậy à?" khiến cô phải xin lỗi anh rối rít. Cô nghĩ thầm, thôi thì vì cái nốt ruồi kia cũng được, miễn là anh ấy tồn tại bên mình, rồi cô quên khuấy đi số phận hẩm hiu, rất vui vẻ và hớn hở trong những lần được anh chiều chuộng. Bạn cô, mười người hết chín đều nói cô dại dột, nhưng chẳng ai khuyên cô chấm dứt sự dại dột đó. Họ nói "Lớn rồi, già rồi, có sức chơi thì có sức chịu. Ngay cả khi gục ngã cũng phải gục đàng hoàng". Nghe mà phì cười. nhưng cười xong, cô lại dùng mình tê dại. Tất nhiên là phải đàng hoàng rồi, chứ phận cô mà ngã ăn vạ thì ai đồng tình cho? Ngay cả anh cũng sẽ kết tội cô. Cô lấy quyền gì mà ăn vạ nhỉ? Quyền đó đã có người sở hữu mất rồi.

    Ở lầu dưới, tiếng một anh chàng bán pháo bông cho trẻ con đốt mừng sinh nhật đang ngân nga "Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt năm canh". Cô chợt mỉm cười. Cô cũng đã từng có những phút huy hoàng với anh - trên rừng, dưới biển, nơi cao nguyên, chốn đồng bằng... Những lúc ấy, anh như con cá hoá rồng, ôm ấp, bao bọc, che chắn cho cô bằng tất cả sự mạnh mẽ mà anh có sẵn. Cô lịm đi trong hạnh phúc, dâng hiến cho anh trọn vẹn và thật sự mãn nguyện vì được anh yêu. Những cảm giác buồn chán chỉ chiếm hữu cô khi hai người trở về thành phố. Nơi đó, anh đổi từ màu hồng sang màu vàng, chui vào lớp rêu dè dặt và e ngại. Nơi đó, cô chỉ ao ước được le lói một canh cũng khó, huống gì đến những năm canh?

    Một người từng yêu cô trước khi cô yêu anh đã nhìn vẻ suy sụp của cô một cách kinh ngạc. Cô đã khoe mình rất hạnh phúc kia mà? Âm thầm tìm hiểu sự thật xong, người ấy trở lại tìm cô. Anh không hiểu tại sao giữa thế giới đầy những người đàn bà yêu vật chất, mê danh vọng, xem ái tình như một nấc thang để tiến bước... lại có một người đàn bà chung thuỷ, lụy tình như em? Mà lại lụy tình với một người không xứng đáng. Cô đã trừng mắt nhìn anh ta một cách giận dữ, đuổi anh ta đi. Nhưng khi anh ta đã bỏ đi cùng cái lắc đầu tội nghiệp thì cô lại úp mặt vàolòng tay mà khóc âm thầm.

    Đêm hôm qua, con bé lại trở về. Nó u uẩn nhìn chiếc áo gối ướt đẫm nước mắt của cô, những tờ thư viết dở, những đốm nhang hoe đỏ trên bàn thờ Phật. Nó hỏi cô "Mẹ ơi, mẹ buồn lắm phải không? Con cũng buồn lắm đó. Ba đã bỏ con từ lâu, bây giờ ba lại tính bỏ luôn cả mẹ. Ba là một người bạc nghĩa, bạc tình. Tại sao mẹ không nhìn vào sự thật?". Mơ hồ cô đã ôm con bé vào lòng, cô đã trả lời nó như thế nào nhỉ? Rằng mẹ nào có ngờ đâu sự thật ba con thường nói với mẹ chỉ là một nửa. Rằng cái nốt ruồi thái doãn vân mà ba thường nói là trân trọng, hoá ra chỉ là chuyện buồn cười...
    [/FONT]
     
    No MercY, bình minh 6868 and kunkun like this.
  4. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Một trái tim khô...[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Ngọc Tư[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Năm Hậu ba mươi chín tuổi, Hậu gặp một chuyện ly kỳ, chạng vạng trên đường về nhà, qua cua Bún Bò, Hậu bị đâm. Thằng cha này giết người mà nhát hít, nhắm mắt đâm hai nhát nhưng chỉ ngoáy trúng bả vai. Thấy Hậu đổ gục, người này còn sám hối một câu, xong quăng dao xuống mương cống chạy mất. Sau câu nói ấy Hậu mới thấy mình chết ngắc.

    Vết thương lành nhưng Hậu mắc chứng trầm uất, hoang tưởng, rối loạn tâm thần. Hẳn cái cú sốc chết đi sống lại ấy khủng khiếp lắm. Hậu đã khóc suốt tháng đầu nằm viện, uống thuốc vào thì ngủ thiếp, thức dậy đã thấy nước mắt chảy thành hàng (như thể Hậu đã khóc sẵn trong mơ). Tháng thứ hai Hậu vật vờ, nín thinh nín thít, nằm không muốn dậy (mà đã dậy thì chẳng muốn nằm), đang ăn rớt đũa Hậu thà lấy tay bốc chứ không thèm lượm lên. Rồi bỗng một ngày Hậu tỉnh queo, xin bác sĩ cho xuống bếp bệnh viện nấu cháo từ thiện với chị em, "Chớ rảnh quá biết làm gì bây giờ". Giỏi giắn, tươi tắn, đến nỗi không ai tin Hậu còn bệnh (bác sĩ nhiều khi còn không dám tin), nhưng mãi Hậu vẫn không nhận ra chồng. Thường nhiều lần lại thăm, Hậu ngó lơ, Thường nắm tay, Hậu quạu quọ, mặt nhăn như khỉ ăn gừng, bảo, tui có chồng rồi nghen, cha nội. Chồng tui tử tế đàng hoàng chứ đâu có cà chớn như ông. Thường buồn quá, tha thểu ra về.

    Hôm mới giải phẫu xong, cảnh đời mới buồn ác liệt. Khi tỉnh dậy, Hậu chỉ biết tê tái hỏi một câu, " Sao anh đành đoạn giết em?" (trời đất ơi, chắc là hết chuyện nói rồi). Ba đêm Thường thức trắng, con mắt trỏm lơ, người căng như sợi dây đàn, lặng người theo mỗi tiếng Hậu rên, hớt hải khi Hậu trở mình, nhưng đến khi Hậu hỏi câu ấy, Thường mới quỵ xuống, rối rít gọi em ơi, em à, em sao vậy, thấy đau ở chỗ nào. Anh đây mà, chồng em đây, không nhận ra anh sao...

    Hậu chỉ nhếch một nụ cười tê dại, thấy mình quên thật rồi, điên thật rồi. Cái người đàn ông đang đứng trước mặt mình đây, là chồng, vậy mà bây giờ nhìn mặt thấy xa lạ, ghê tởm, thấy mình nẫu lòng ra, muốn chết quách đi cho rồi. May, sau này Thường không đến nữa, vì bận túi bụi thay Hậu tiếp nhận chức Tổng giám đốc công ty Mặt Trời, nghiễm nhiên là Chủ tịch Hiệp hội đồ chơi (những gì Hậu để lại nặng nề hết sức). Thường than với nhỏ Thỏ, "Gặp mẹ con lòng ba đau quá". Mà, không đau sao được, kỷ niệm tươi rói như mới hôm qua, hai người cùng nhau nấu bữa cơm chiều, cùng nhau sơn lại đôi cánh cửa, sửa hàng rào, cụm nụm trồng hành quanh chậu ớt. Buổi sớm chung xe đến công ty, vào đấy thì mỗi người một phòng nhưng ngang qua lần nào cũng búng vô cửa kính chóc chóc, để ngẩng lên ngó nhau cười. Hậu đi kiểm tra công việc ở chi nhánh miền Tây, Thường gọi điện thoại theo, ngập ngừng hỏi chỗ ấy mưa nhiều không?

    Lúc đó, Hậu đang căng thẳng vì phát hiện ra một vụ bê bối tài chính động trời nên trả lời nhát gừng, lạnh ngắt. Phải biết đấy là cuộc trò chuyện cuối cùng, thể nào Hậu cũng nói thêm vài câu em nhớ anh em yêu anh lắm, thể nào cũng nhắc chuyện tình xưa xanh mướt màu rau muống luộc chấm tương kho, chuyện Thường đạp xe chở Hậu đi dưới pháo hoa những giao thừa... Mối tình đẹp nhưng cũng nhiều trắc trở, mấy bận Thường tránh đi vì dư luận đồn đãi Thường lợi dụng con gái nhà giàu, là mấy lần Hậu tất tả giữ người yêu lại, " Người ta nói gì kệ họ, em tin anh".

    Vậy mà bây giờ lạnh lẽo, tan hoang như đồng sau bão, đến nỗi hay tin Thường lấy vợ, Hậu dửng dừng dưng, tỉnh bơ ba khía. Lòng chỉ se đau khi thấy nhỏ Thỏ mặt xìu co, tủi buồn ngồi thút thít, nó chờ Hậu khóc quá trời, chỉ có nước mắt rơi là hy vọng một trí nhớ, một tình yêu, một mái ấm về lại... Hậu biết nó nghĩ gì nên ôm lấy đôi vai nhỏ, bảo "Chừng con lấy chồng, mẹ khóc cho con coi ". Thỏ mếu máo cười, ai mà thèm... Rồi mẹ với con nhìn buổi sáng đã lên cao, nghe mùi gió chướng ngọt ngào, thấy chỗ u ám như bệnh viện mà trời xanh, trời đẹp như vầy, chắc ở ngoài kia nắng nhuộm đời tươi rực rỡ. Hậu bảo con, sẵn bữa nay mẹ xuất viện cho rồi. Thỏ phì cười.

    Tưởng nói chơi, nhưng Hậu ra viện cũng đơn giản như trả phòng khách sạn. Đã mướn sẵn một căn nhà nhỏ như hộp diêm quẹt nằm trong con đường cũng nhỏ, Hậu dọn ngay vào đó. Hàng xóm gầy gò ra xe đỡ ít đồ đạc còm nhom. Buổi chiều, Thỏ chở sách vở, quần áo, búp bê... lại, kêu Hậu ngồi nó chải tóc cho, bảo thiếu con mẹ bê bối cho coi. Mà, mẹ ơi, con nghỉ chơi với ba rồi...

    Hậu trở lại bệnh viện, xin việc. Người ta dành cho Hậu một chỗ làm ở khoa ngoại thần kinh. Công việc đơn giản chỉ quét dọn và săn sóc bệnh, nhưng những người trước bỏ việc vì sợ. Hậu thì thấy chỗ này dễ thương. Đi qua căn phòng cũ, nắng vẫn chênh vênh đeo ngoài cửa sổ, nghĩ tức cười, sao mình có thể ở đây từng ấy tháng trời vậy cà. Để kết bạn với đám người buồn cười, một cậu nhóc múa may vèo vèo, kêu Chỉ Nhược nàng ui, nhoẻn miệng cười khi Hậu gọi lại bằng Vô Kỵ. Một phụ nữ trạc ba mươi, chín năm trời giắt hoa lá trên đầu thi hoa hậu, rớt ngay phần ứng xử : Trước hết, em xin cảm ơn các đấng sinh thành, sau đó cảm tạ cha mẹ đã đẻ ra em... Một anh chàng làm thơ không hiểu nổi, nhiều lúc giảng thơ cho Hoa Hậu nghe, tự mình ngất ngư cười, câu này tui hổng biết viết về cái gì. Một ông đẹp người, hiền hậu, lên cơn thương nhớ vợ mới xé áo quần. Có lần ông lẻn ra ngoài, trèo lên lan can tầng bốn ngó xuống sân gọi vợ hời hời, Hậu dịu dàng kêu: " Xuống đây với em, mình ơi", ông trở xuống, ở truồng tồng ngồng, ôm Hậu vào lòng, ông khóc. Hậu cũng khóc, trong vòng tay ấm mà nghe mình lạnh ngắt, khóc cho một trái tim đã chết ngoẻo cù nèo.

    Chết ngay ở cua Bún Bò, ngay sau khi thằng cha giết mướn run rẩy bảo, "Đừng oán tôi nghen, có oán hận thì oán chồng bà". Trong một thoáng Hậu xâu chuỗi các sự kiện lại. Chồng mình. Khoản tiền thất thoát. Cô kế toán trưởng chi nhánh miền Tây. Những lời đồn đại (mà trước giờ Hậu chẳng tin)... Hậu nghe tim mình vỡ bục ra, giãy đành đạch rồi nín luôn. Sau coi phim thấy cảnh hiếp đáp éo le cũng không thương khóc nữa (hoàn cảnh ấy thì sức mấy mà đau bằng mình). Có lần đi chợ gặp Thường, Hậu ung dung chào, hỏi. Xong đứng nấn ná ở đấy trông tim nó lồm cồm ngồi dậy nhói chơi, nhưng không ăn thua, nó lặng như tờ.

    Trái tim đã mắc chứng vậy nên tội mấy ông đi qua đi lại tán tỉnh tòm tem, nói thương em quá chừng. Hậu cười, thương thiệt hông à, lúc trước tui bị điên đó nghen. Ai nghe nói cũng sửng sốt, chạy dài, dù có tiếc hùi hụi, chắc lưỡi, than, " Đẹp vậy mà điên, uổng thiệt". Nhưng tưởng tượng thử coi, hai người đang ngủ bỗng dưng vợ bật dậy lấy dao kề cổ ta, cười khà khà khà, quá ớn.

    Chỉ Nhâm còn lại, Nhâm cười, ai cũng một thời điên, vì quá sung sướng, quá khổ đau, vì danh vọng... Nói tới đây, Nhâm thảng thốt cúi đầu, tôi đã có lần điên vì tiền, lúc đó, con gái tôi đau nặng lắm... Hậu gật đầu miệng ờ ờ (như đã chứng kiến cảnh ấy rồi, đã biết tỏng rồi), nhưng chưa thôi dọa thêm, "Nhâm không sợ thiệt sao? Tôi điên là quên chồng tuốt luốt". Nhâm cười, "Tôi sẽ làm cho cô Hậu nhớ tôi hoài". Mà có vẻ như Nhâm chẳng làm gì thì Hậu cũng nhớ, cũng hay nghiêng ngó người ta. Nhâm ở kế bên, hai nhà chung vách, mới đầu Hậu không thấy mặt, chỉ nghe tiếng cơm sôi, tiếng đập muỗi. Và những cái thở dài xao xác như lá rụng hoa rơi. Thằng cha nào mà coi bộ đời cũng buồn, Hậu nghĩ, đến nỗi không nghe tiếng con nít cười, tiếng đàn bà càu nhàu chạy gạo. Một bữa Hậu mở cửa ra, đá nhằm Nhâm nhậu say nằm ngủ đại dưới thềm. Kỳ cục thiệt, không hiểu sao Hậu thảng thốt, nghe tim nhót lên một cái, chết cha, mình với thằng cha này có duyên gì mà gặp ở đây.

    Nhâm thì tin là có duyên phận, bởi nhìn Hậu, Nhâm thấy thương như gặp ở kiếp nào, hồi nào... Mỗi chiều về, thấy mẹ con Hậu ngồi trước cửa nhổ tóc sâu, Nhâm thấy lòng êm đềm như cỏ. Cứ muốn ngồi gần đấy cho đủ một chòm hạnh phúc, để bình yên nhả khói thuốc lên trời. Nhâm thương cả nhỏ Thỏ, một lần nó bước qua khi Nhâm mới vừa ngủ dậy, thảng thốt, bàng hoàng, Nhâm kêu lên hai tiếng con ơi. Để rồi bẽ bàng nhìn nhỏ Thỏ cười.

    Nụ cười đó, con gái Nhâm không bao giờ có. Thương Nhâm, nó chỉ thiu thỉu gượng nhếch môi mỗi khi chuẩn bị vào phẫu thuật. Rồi tới một ngày nó thôi không cười được nữa, dù là một cái cười thiêm thiếp, xanh leo lét, như mộng mị, chiêm bao...

    Nó đi rồi, Nhâm nhậu suốt tháng sau, định là sẽ nhậu hết nửa đời còn lại. Đỡ hết biết, một ngày kia mẹ con Hậu đến, chui vào cái hộp kế bên, cười giòn, họ còn kéo ra sàn nước, chỗ tắm giặt chung, con xối nước cho mẹ gội đầu. Hình ảnh ngọt ngào vô phương.
    Nhâm phụ hồ ngoài công trường, mong ngày qua mau, chạy về nhà, có khi chỉ để coi Hậu ngồi giặt áo. Nhỏ Thỏ cười, kéo Hậu lại thông báo tin... buồn, ông đó mê mẹ quá trời. Ờ, mà ổng coi bộ hiền hén, tại đời cũng buồn quá. Hậu gật gù. Đẹp trai. Mũi cao. Nhưng để râu tóc quá dài, dọn lên sẽ đỡ hì hợm. Hơi bê bối, Thỏ nói, bằng chứng là bạ đâu ngủ đó. Con người có vẻ phức tạp, vì chơi với mấy người cũng có vẻ... phức tạp. Cái thẹo dưới cằm quá ấn tượng, gặp một lần chắc là khó quên, Hậu nói với vẻ như đã biết rành, nhưng cái tâm lương thiện. Con thấy sao? Mẹ thấy sao? Hai mẹ con bình luận như đang đứng trước máy giặt sắp mua về.

    Sau đó là một mùa mưa dài, chuyện của Nhâm với Hậu không có biến động gì lớn. Cũng đi qua đi lại, cũng bịn rịn trong lòng, cũng giả đò kiếm chuyện nói chơi, nhưng thay vì trong bối cảnh nắng ngột cả người bây giờ hai người nhìn mưa rơi. Nhìn nước bò lên ngập đám cỏ đằng trước, mấy con cá nhỏ đủng đỉnh lội tới lội lui, thò lỏ nhướng con mắt coi lũ người ta chẳng ra gì. Nước tràn vô nhà ngập nửa ống chân, bèo hoa dâu trôi bồng bềnh chân giường, đi làm về Nhâm qua nhà, hì hụi tát. Bữa sau nước lại chảy vào, không thấy Nhâm than, biểu Hậu cứ ngồi trên giường, bôi thuốc lên mấy chỗ nước ăn. Có đám trẻ lội bủm xủm đi qua hát rằng "Ước gì mình đừng ngăn cách, ước gì nhà mình chung vách, anh... khoét tường... hú hí với em". Hậu lắc đầu, "Con nít nhà ai mới tí tuổi đầu mà quỷ quái", Nhâm cười, sẵn nói luôn, "Tôi tháo vách thiệt à, cô Hậu".

    Câu này, Hậu coi như là lời tỏ tình, thì đã là lần thứ năm. Tính luôn một bữa đòi góp gạo nấu cơm, một bữa đòi trả tiếp tiền nhà, một bữa nhỏ Thỏ bị đứt chân mà mắc cỡ không cho Nhâm cõng, Nhâm gắt, thì cháu cứ coi tôi như cha, một bữa gió buồn thiệt buồn, Nhâm nói phải chúng ta ở chung nhà chắc là vui lắm...

    Vui gì, chuyện tình này chắc bỏ lửng lơ như vậy thôi. Hậu vẫn nói cái câu, "Nhâm đâu có hiểu nhiều về tôi..." để thay lời từ chối. Bởi Hậu gật đầu, hẳn nhiên hai người sẽ lấy nhau. Sau bữa tiệc nho nhỏ sẽ là đêm động phòng (chớ còn gì nữa), Nhâm sẽ phát hiện Hậu có một cái thẹo lớn trên vai. Thể nào Nhâm cũng hỏi tại sao, mà Hậu không nghĩ ra được câu chuyện gì để nói. Kể sự thật rằng một bữa đi qua cua Bún Bò, Hậu bị đâm, sợ Nhâm sẽ đau. Tuần trăng mật chưa bắt đầu đã lịm buồn, dở cười dở mếu...

    Nhiều khi không thể tin được, làm gì có chuyện trùng hợp lạ lùng vầy. Nghĩ đời thiệt mắc cười, sao biết nhau ở đây, để thương nhau đến mức này, để rồi nhận ra lúc trước đã gặp gỡ một lần, ở cua Bún Bò, trong một tối đèn thì u ám vàng vọt mà cái vệt sắc lạnh của con dao lại lóe lên...
    [/FONT]
     
    No MercY, bình minh 6868 and kunkun like this.
  5. kunkun

    kunkun Thần Tài Perennial member

    Em là con HIV còn trinh
    Thầy ơi! Em sắp chết rồi!


    - Vớ vẩn!- Bất giác tôi đưa tay lên xoa đầu cô ta như tôi vẫn làm với đứa cháu gái ở nhà vậy. Mùi hương từ mái tóc màu hạt dẻ tỏa ra ..




    - Thầy ơi, em bị HIV!

    Bàn tay tôi chợt lạnh toát và sống lưng thì đông cứng lại. Tôi ước gì mình để quên phắt quyển sách cho xong!
    Mấy ngày sau Dung không đi học, tôi thở dài và cho lớp nghỉ sớm. Về nhà lướt web mà đầu óc tôi cứ lởn vởn hình ảnh người con gái đấy..

    2h am

    Tôi lai dắt xe ra khỏi nhà, nhưng tôi tránh cái hồ đấy ra và phi xe lên cầu Long Biên. Ôi chúa oi, bây h thì tôi tin vào hai chữ duyên số rồi. Dung đang ngồi trên thành cầu và .. hát. Khi thấy tôi, cô toan phóng xe đi. Nhưng tôi đã giữ kịp!

    - Em không hư hỏng gì thầy ạ! Em còn chưa ôm lấy một người đàn ông! Chỉ vì một lần đi tình nguyện tháng trước trong bệnh viện!
    - Em đã đi xét nghiệm chưa?
    - Thầy lại vui tính rồi. Tất nhiên là rồi!
    - Mấy lần?
    - Còn mấy lần, một lần là quá đủ!
    - 3 lần mới đủ!
    - Thôi, em xin thầy, để ê chề hơn ạ? Thầy làm sao hiểu được? Chẳng sớm thì muộn em sẽ chết, nhưng em không muốn nhìn thấy cái hình ảnh người mình lở loét, người ta xa lánh. Em không muốn thầy có hiểu không? Liệu có ai tin là em chưa một lần quan hệ mà dính vào cái bệnh này không hả trời? Em là một con HIV còn trinh!
    Trong đời mình tôi chưa bao h nghe ai và cái gì chăm chú đến như thế. Dung khóc , và nhìn tôi.
    -Em chỉ ước được một lần trong đời làm đàn bà trước khi đi khỏi cái chốn này thôi!

    Em nhìn tôi và tôi hiểu. Chúng tôi cứ ngồi với nhau như thế đến tận 5h sáng!




    Sáng hôm sau tôi dẫn Dung đi xét nghiệm. 1 tuần sau mới có kết quả. Tôi bảo đến lúc ấy nếu vẫn là dương tính tôi sẽ làm cho em cái ước muốn ấy. Và cười bảo rằng:" Dù sao thì anh cũng đọc nó lên mà"


    Một tuần này tôi chỉ sợ Dung làm liều. Tôi đã hỏi em kĩ và em bảo ngay khi bị kim đâm vào tay em đã đi rửa và uống thuốc điều trị. Nhưng Dung cảm thấy người có vẻ khác???


    Chúng tôi đi chơi với nhau suốt tuần ấy, và tôi phát hiện là cô nhóc HIV ấy rất xinh khi mặc váy. Cô ấy thích ăn kem, và có thể dỗ mọi thứ bằng kem. Cô nấu ăn ngon và ghét nấu ăn. Cô bảo sẽ chỉ nấu ăn cho thằng chồng nếu nó đứng đằng sau ôm cô. Tôi bảo thế thi hôi chết. Tự nhiên cô lại thần người vì cái từ cuối cùng ấy. Tôi trách mình dại miệng !


    Tối ngày thứ 6..
    - Thầy ơi, nếu ngày mai có kết quả rồi thầy còn giữ lời hứa với em không?
    - Còn chứ- Nói đến đây tôi thấy miệng mình đắng ngắt. Tôi đúng là điên rồi, một thằng điên rỗi việc. Tôi đâu thiếu người để làm cái việc đấy chứ?Nhưng lương tâm mách bảo cái lưỡi của tôi, cái đầu của tôi gật và gật.- Thế thì ngay tối nay đi!
    - Không..
    - Không..
    - Tại sao, đằng nào thầy cũng làm mà. Và nếu là âm tính thì thấy cũng có mất gì đâu? Hay thầy sợ?
    - Dung, em chẳng hiểu gì cả..
    - Em quá hiểu là khác..

    Em cứ nhìn đăm đắm vào tôi. Và tôi thấy em đẹp. Chúng tôi dừng ở một hàng thuốc tôi vào mua bao cao su.

    Sáng hôm sau, tôi để Dung đi bộ vào một mình trên con đường nắng chói chang ấy. Em bảo :" Anh đứng ngoài này, tiết kiệm 2 nghìn gửi xe, tý khao em đi ăn chè chúc mừng em và anh đã được bên đấy nhận học luôn!". Tôi chỉ cười như sắp mếu, có cảm giác như mình là thằng hèn. Sau đêm qua, tôi đã giúp em thực hiện cái ước muốn " lớn nhất của đời người con gái", nhưng cũng từ đấy cảm giác nhục bám theo tôi đằng đẵng suốt mười mấy tiếng đồng hồ qua. Nếu kết quả đúng như tôi linh cảm thì tôi nợ em. Nếu không đúng, tôi lại càng không đang tâm dứt lòng ra đi, để cho em ở nhà với bệnh tật. Tôi chỉ lờ mờ cảm nhận, nếu tôi dời chân khỏi mảnh đất này thì em, với cái mầm bệnh ấy cũng chẳng còn nuối tiếc gì để sống. Đêm qua, ôm em trong lòng, tôi bảo em hãy ráng sống cho dù kết quả ra sao. Em rúc mặt vào người tôi, tự nhiên bật cười rúc rích :" Nếu em không mang cái bệnh này thì em sẽ cắn cho anh một cái!" làm tôi hơi chột dạ, rồi lại buồn cười. Em khe khẽ thì thầm:" Em chẳng muốn trời sáng anh ạ!". Tôi yêu em ngay từ câu nói ấy!


    10 phút sau..

    Rồi em cũng đi ra. Tôi gần như đoán được kết quả của mẩu giấy nhỏ em cầm nơi tay qua dáng đi chầm chậm ấy. Bây giờ đây, tôi vừa muốn lao đến ôm em, vừa ước mình chưa bao h đặt chân vào đời người con gái này. Có lẽ tôi là một thằng hèn chẳng? Nhưng cả đời tôi, tôi sợ nhất là nước mắt đàn bà. Họ khóc vì sung sướng cũng làm ta bối rối, khóc vì đau khổ trước mắt ta thì còn tệ hơn. Nước mắt của họ làm ta có cảm giác bất lực, đần độn và khó xử nhất là khi ta chẳng thể tỏ chút cái khí phách sức mạnh của thằng đàn ông ra giải quyết.Và bây h tôi đang ở trong cảnh đấy. Em đến bên cạnh, không nói gì cả, chợt vòng tay ôm lấy eo tôi, dựa đầu vào lưng tôi rồi khẽ khẽ nói:"Mình vẫn đi ăn chè nhé anh!". Hình như áo tôi ướt! Chắc là mồ hôi ..


    Ringg..g..g

    Em ra mở cửa trong bộ váy hồng. Đã hai tuần chúng tôi chưa gặp nhau, không phải vì em nghỉ học mà vì tôi đã nghỉ dạy ở trường. Em nhìn tôi cười:
    - Em chào anh thầy!
    - Mai anh đi phỏng vấn visa. Nếu em nói.. anh sẽ ở lại ..

    Em nhìn tôi trân trối, như thể tôi vừa phun ra một thứ gì bẩn thỉu đáng khinh vậy.

    - Anh muốn nhìn em lở loét, ốm đau rồi anh mới hài lòng à? Hay anh muốn làm một vị thánh sống của đời của một kẻ HIV. Xin lỗi anh, nhưng nếu anh nghĩ anh cần có trách nhiệm với em sau chuyện ấy thì có lẽ anh đã nhầm! Em tự nguyện và nó sẽ là một kỉ niệm đẹp theo em dưới ba tấc đất. Nếu anh nhìn thấy em trong giai đoạn cuối, liệu anh có không khỏi rùng mình khi nghĩ mình khi nghĩ đến đêm hôm đấy không? - Dừng lại một chút, em thở hắt ra rồi nhìn tôi cười- Đừng vì em mà hủy hoại tiền đồ của mình anh nhé. Thật ra em chọn anh một phần là vì anh sắp đi khỏi đây, anh có hiểu em không?
    Nói rồi em chào tôi và đóng cửa lại..


    3 tuần sau..

    Tôi đã nhận lớp và đang bỡ ngỡ với cuộc sống mới của mình. Việc đầu tiên sau khi hoàn thành thủ tục nhập học là tôi đặt mua một cái lap qua mạng để chấm dứt sớm việc phải lên thư viện quá nhiều lần trong một ngày và quá nhiều tiếng trong một lần. Hôm nay tôi mới có thời gian vào check mail, rất nhiều thư mới. Tôi để ý có một email: dungkh. Là em!!


    Tôi click đên 3 lần chuột và rủa thầm cái mạng sao mà chậm như rùa. Bức thư mở ra. Chẳng có gì cả. Tôi thoáng thất vọng và lo lắng nhưng rồi chợt nhận ra có 1 file đính kẻm. Một file ảnh thì phải!

    Tôi mở ra. Bức ảnh chụp tờ giấy xét nghiệm của em: Âm tính. Bên dưới có dòng chữ: Em yêu anh
     
  6. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Một vầng nắng nhỏ[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ma Văn Kháng[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bạn đã bao giờ xao xuyến trước vẻ đẹp lạ lùng của mùa thu chưa? Tôi đã không ít lần như vậy. Nhưng tôi cam đoan với bạn rằng, lúc này, trên mảnh sân nhỏ ngay phía sau cơ quan tôi, tôi đang bắt gặp mùa thu ở khoảnh khắc đẹp nhất, một vẻ đẹp được chưng cất, trong suốt, không có hồi kết và bị bỏ lửng, như bản chất của cái đẹp vĩnh hằng.

    Đó là quãng chín giờ sáng. Nắng không còn non bấy, nhưng cũng chưa già dặn đến ánh ỏi. Nắng mới kết tinh, vừa đủ cho tiết thu bừng nở bằng hoa. Cúc đã nở bừng cả loạt rười rượi mà không nhàm tẻ tầm thường. Trái lại, bóng bẩy quý phái và lạ thay, cúc như một linh thể đưa dẫn hồn ta vào cơn đam mê tìm kiếm cái kỳ lạ, điều thiêng liêng.

    Cúc vàng đại đóa thịnh khai cả một vùng như một ẩn dụ tài tình cho cái đẹp viên mãn và tràn trề. Trong khi đó, trên cái giây phơi căng qua góc sân nhỏ, một tấm áo len xanh lá mạ mở vạt rộng dài, giống như một cánh bướm lớn đang yên ngủ trong vầng nắng nhỏ mùa thu vừa nhuộm vàng mảnh sân. Ôi, vầng nắng nhỏ mùa thu! Vừa nhuộm vàng mảnh sân, nắng đã hắt vào hàng hiên một làn bụi hồng lung linh như kim nhũ. Nhận ra thời khắc lúc này đã trở nên hoàn thiện, tôi đồng thời nhìn thấy trong vầng nắng sớm nơi hàng hiên bóng hình Nương đang ngồi hong mái tóc dài sau lần tắm gội sớm mai.

    Nương là nhân viên tạp vụ ở cơ quan tôi. Nghĩa vụ lao động của nàng bắt nàng đến cơ quan từ lúc tinh mơ. Quét quáy, dọn dẹp, lau rửa, sắp đặt... Nàng phải luôn tay luôn chân, để đúng giờ tầm, mọi người đến, mở cửa phòng, bàn ghế đã tinh tươm, ấm chén đã sạch bong, không khí đã thanh quang. Lúc đó cũng là lúc nàng đã tắm gội xong, đã trút sạch bụi bậm trần ai và quyền nghỉ ngơi đã đến với nàng trong chốc lát. Mặc chiếc áo sơ mi vải thô cổ rộng, cửa tay loáng thoáng đôi nét hoa văn dân tộc, nàng phô diễn một cách tự nhiên nhất làn da mát mẻ, trắng hồng và vóc hình căng nở đầy đặn của mình. Tóc nàng đen nhánh, dày dặn, giàu sức sinh tỏa, xõa từ đầu đến ngang lưng. Lưng nàng mẩy mang và nhìn nó, ta liên tưởng tới bên đối diện là một khuôn ngực rộng, hứa hẹn khả năng nuôi con, là sự ôm ấp và cho sữa. Không trang điểm, không xén tỉa, nàng mộc mạc lại thoáng chút hoang sơ thôn dã, lơi lả tự nhiên.

    Bây giờ thì nhờ Nương mà bức tranh mùa thu nơi mảnh sân nhỏ cơ quan tôi đã trở nên toàn bích. Tôi nhận ra cũng nhờ có nàng mà trong cái im lìm bất động sâu thẳm của một hiện tại không trôi đi, trong suốt không cùng, đang chập chờn đâu đó một giấc mộng hư huyền, hội tụ tất cả niềm sung sướng của con người về một hạnh phúc có thật ở cõi đời này.

    Ngồi trong căn buồng nhỏ, thu vào tâm tưởng cảnh sắc nọ, giờ tôi đã hiểu ra điều sách vở bấy lâu vẫn thường nói: cái đẹp là một ý niệm tiên thiên, thường gây nên cho người ta những mộng tưởng huy hoàng, và luôn bất ngờ với nhiều tầng ngữ nghĩa. Tôi nhận ra toàn bộ niềm đắm say của những kẻ như tôi, lúc này đều đang định hướng vào một điểm duy nhất là khung cảnh nọ. Và trong yên lặng đến vô thanh, yên lặng như một quyền lực tuyệt đối, từ ông giám đốc trẻ tuổi đến người bảo vệ già, các nhà nghiên cứu tuổi nhòng nhòng trong cơ quan tôi, đều như đang ở trạng thái bị thôi miên, vì một lực hướng tâm với hành lang ửng hồng, nổi bật bóng hình Nương trước bối cảnh mùa thu đang độ tuyệt đẹp này.
    - Rõ no cơm ấm cật chưa kìa. Có đúng là chó ghẻ có mỡ đằng đuôi không! Thế nào, ngẩn ngơ bảy vía mất bốn rồi, hả?
    Nghe thấy một giọng đàn bà thô lỗ và chua gắt, như kẻ tan mộng, tôi nhận ra sau lưng tôi, bà Luân, trưởng phòng hành chính, năm mươi hai tuổi, không con cái, người như quả ớt khô, mặt choắt cheo, vừa áp tới. Nhìn thẳng vào mặt tôi, khuôn miệng móm hõm hoác nở một cái cười đắc chí với cảm giác bắt được quả tang tội phạm, bà chẹp miệng:
    - Thế nào, thấy đỏ ngỡ là chín, mê tít thò lò rồi, hả? Đàn ông các người cũng chỉ là lũ đực rựa như nhau cả thôi!
    Đàn bà không có bạn. Nếu mệnh đề này không có ý nghĩa phổ quát thì ít nhất cũng chính xác với người đàn bà tính tình khắt khe cay nghiệt này. Bà Luân chẳng có thiện cảm, dù là thiện cảm tí ti thôi, với bất cứ một người đàn bà con gái nào. Với những kẻ xấu xí kém cỏi thì bà khinh bỉ, coi thường. Với đồng nghiệp ngang tài ngang sắc thì bà tranh cạnh, móc máy. Với người có ưu thế trội bật hơn về nhan sắc, tiền tài, quyền thế thì bà lồng lộn ghen tức. Cứ như họ là kẻ thù của bà vậy, những ai trẻ trung đẹp đẽ hơn bà. Cứ như là họ đẹp họ trẻ là do họ ăn bớt, ăn tranh phần của bà. Cứ như vì họ mà bà trở nên xấu xí, già nua đi.

    Với Nương, bà Luân bộc lộ ác cảm ngay khi nàng đến nhận việc. Thực ra nàng là người thứ mười ba được giới thiệu đến để cơ quan tôi tuyển làm nhân viên tạp vụ. Nhân viên tạp vụ! Chỉ nhân viên tạp vụ thôi mà khó thế! Khó vì phải được sự đồng ý của lãnh đạo trực tiếp, tức bà Luân trưởng phòng hành chính, chứ không phải chỉ là ông giám đốc. Khó thế nên sau khi người nhân viên tạp vụ cũ về hưu, đã hiện diện trước mặt bà trưởng phòng hành chính đến cả chục nhân mạng, đàn ông đàn bà, trẻ già đủ loại mà vẫn chẳng ai lọt vào được mắt xanh của bà.

    Trông mặt mà bắt hình dong, khôn ngoan hiện ra mặt, què quặt hiện ra chân tay. Chớ qua nhà thằng lé, chớ ghé nhà thằng lùn. Cao chê ngỏng, thấp chê lùn, béo chê béo trục béo tròn. Con mắt bà săm soi. Chẳng một khuyết tật ngoại hình của bất cứ ai có thể qua được mắt bà. Mà người ta thì có ai hoàn bị trăm phần. Bà chê tất, sổ toẹt tất. Cho đến Nương. Nương là một trường hợp đặc biệt. Một ông tướng hai sao, vóc to lớn, oai vệ, đích thân đưa Nương đến gặp giám đốc cơ quan tôi: "Này, cậu nhận nó vào làm việc ở cơ quan cậu hộ tớ. Nó là vợ mới cưới của thằng lái xe cho tớ. Quê ở tít tịt trên vùng cao Sapa Lào Cai. Thằng chồng nó có máu ghen, không yên tâm để vợ ở nhà, nay xin thôi, mai xin đổi, rắc rối quá". Giám đốc cơ quan này xưa là lính cưng của ông tướng nọ, lại có tính cả nể, nên vượt nguyên tắc đã đề ra, vâng dạ chấp nhận.

    Ngồi ở buồng bên, dõi theo câu chuyện, biết là không thể chối từ, nhưng mới nhác thấy Nương mặc áo dài lam, chít khăn mỏ quạ, bà đã ầm ầm:
    - Thế là chết tôi rồi! Rước cái của nợ miền rừng ngô nghê này về rồi mà hầu nó à! Chân tay to sều sều thế kia thì biết làm cái gì. Lại thằng chồng có máu ghen nữa chứ! Khiếp quá! Mà tôi nói trước, thử vài hôm, không được là tôi để nguyên đai nguyên kiện trả lại ông giám đốc đấy!

    Nhưng Nương không bị bà Luân trả lại cho giám đốc sau ít ngày thử việc. Nương chịu khó, khéo léo, ngoan ngoãn. Nương đi sớm về muộn. Mọi việc bà Luân giao, Nương đều hoàn thành chỉn chu, gọn ghẽ. Với mọi người trong cơ quan, Nương đều tỏ ra lễ độ, dịu dàng. Đã chẳng nề hà việc chung khó nhọc, Nương lại sẵn sàng giúp đỡ khi người này người nọ nhờ cậy. Nương được mọi người chẳng trừ ai, mến yêu, tin cậy.

    Bốn tháng qua đi, từ công việc đến quan hệ, Nương chẳng có điểm nào để bà Luân chê trách. Sáu tháng qua đi, dù ra sức bới lông tìm vết, bà Luân cũng chẳng tìm được khiếm khuyết nào của Nương để chê bai.

    Ganh ghét mà không tìm được cớ để trút cơn ganh ghét thì chỉ còn cách là ngấm nguýt, hậm hực và rình tìm cơ hội thôi. Thì lúc này, cơ hội là đây. Bà vừa chộp được tôi đang la đà trong giấc mộng thu vàng, trước cái đẹp nguyên khởi tiên thiên. Bà bắt quả tang Nương sau mấy giờ lao động mệt nhọc, đang trong trạng thái thảnh thơi giữa vầng nắng nhỏ mùa thu nơi hàng hiên nọ.
    - Rõ ra dáng ra dàng chưa kìa. Con này rồi còn lên mặt đài đệ nữa cho mà xem - Ngồi xuống cạnh tôi, bà Luân phóng hai con mắt ra phía Nương, và rít lên như một hồi còi - Còn nhớ hồi mới đến không? Chỉ là loại gạo để bồ đài, muối để bàn chân, nghèo rớt mồng tơi chứ là cái gì. Giờ thì có da có thịt có vú có ví, có tiền có của may mặc sắm sửa rồi, tha hồ mà động hớn nhá!
    Thấy tôi vẫn yên lặng, bà đứng phắt dậy, cầm cái phất trần đi ra cửa sổ đập lạch phạch một hồi. Rồi quay vào, bà bước đến cạnh tôi, nghiến kèn kẹt:
    - Ngồi rãi thẻ ra mà hong tóc! Mà đẹp cái nỗi gì cơ chứ! Chẳng qua cái mặt, cái đầu cũng chỉ là một cục cứt voi, ai dùi bẩy lỗ ngó coi lạ lùng, chứ là cái quái gì. Mà này ông ơi, kinh nghiệm rồi nhé, lỗ miệng mà khoan thai thì lỗ trôn tán tài đấy. Hừ, thế này thì tôi phải sang bảo lão giám đốc ngay mới được.

    Quay ngoắt lại, bà Luân thoăn thoắt bước đi, vẫn với bản độc thoại của mình. Nhưng, vừa nghe thấy tiếng bà chao chát ở bên phòng ông giám đốc, đã lại thấy bà mở cửa quay về. Chắc là ông giám đốc bận nên chối từ đối thoại, bà trở về mà vẫn chưa vợi được chút căm tức nào, trái lại, mặt sậm đỏ như lên cơn cao huyết áp. Đập tay đánh chạt xuống mặt bàn, bà hất hàm vào tôi, gằn:
    - Này, có đúng là dù cho trăm khéo ngàn khôn, đến cửa nhà là bảy vía còn ba không? Cả lão giám đốc nhà ông cũng thế. Bênh che nó chằm chặp. Nói trước cho mà biết, con này trường túc bất tri lao, thằng chồng hay ghen thế nào nó cũng đến phá tan hoang cơ quan này cho xem! Là tôi nói trước cho các người liệu đấy!
    Quay về sau, đầy vẻ giận dữ, bà sầm sập bước đi. Nhưng đi được mấy bước, bà lại đã lộn trở lại, xỉa tay, trút tiếp cơn tức tối vào tôi:
    - Là tôi nói trước để cảnh báo các người đấy! Cứ chiều chuộng nó lắm vào. Tôi là tôi không chịu được đâu. Thật là ngứa cả mắt, lộn cả ruột!

    Không hay biết tất cả những lời chì chiết cay nghiệt của bà Luân trưởng phòng, Nương vẫn đi làm đều đặn, vẫn thản nhiên một nếp sống nếp làm. Vẫn định hình bức chân dung mình nàng với mùa thu thảnh thơi, khi công việc buổi sớm đã hoàn thành. Ôi, bức tranh có nàng với vầng nắng nhỏ mùa thu! Nó là cái nguyên cớ gây nên sự giận dữ trong lòng bà trưởng phòng. Nhưng nó diễn tả chính xác nhất vẻ đẹp tự nhiên và tâm tình nàng.

    Nàng đẹp và yên lòng với cuộc sống. Quê nàng ở vùng cao Sapa tỉnh Lào Cai. Nàng đã học hết cấp hai phổ thông và như rất nhiều thiếu nữ Tày ở quê nàng, đủ mười tám tuổi thì nàng lấy chồng. Chồng nàng là người cùng quê, đi bộ đội và được tuyển làm lái xe cho ông tướng hai sao cũng người Tày. Nàng được ông tướng đưa về Hà Nội và giới thiệu về cơ quan này làm việc để vợ chồng nàng được gần gũi.

    Ở quê, công việc của nàng là trồng cây thuốc xuyên khung, đỗ trọng, bạch truật và cây ăn quả trên đất nương đồng. Ở đây, công việc có khác nhưng cũng là thứ lao động chân tay. Ngày ngày, sau giờ tan tầm buổi chiều, nàng đi về một căn hộ trong khu tập thể quân đội ở phố Lý Nam Đế, mà người ta hay gọi là Phố Nhà Binh. Căn buồng rộng mười bốn mét vuông đủ cho hai vợ chồng son.

    Chồng nàng là một chàng trai khỏe mạnh và yêu vợ. Nàng không nghĩ mình xinh đẹp hơn người, trừ những lúc gần gũi chồng. Chồng nàng mê mẩn, không muốn xa nàng, dù chỉ là một giờ một khắc. Chẳng đêm nào hắn không đắm đuối với nàng. Hắn rên lên như bị thiêu đốt mỗi khi ngắm nghía một chi tiết trên cơ thể nàng.

    Mỗi sáng trở dậy, hắn kiệt lực rũ rượi như cái dọc môn héo, phải tựa vào vách tường mới xỏ được chân vào ống quần. Thấy vậy, nàng ngoảnh mặt đi vì thương chồng và buồn cười. Cũng là sự thường tình thôi. Vùng cao quê nàng, khí hậu mát mẻ, quanh năm đêm ngủ phải đắp chăn bông. Ở đó, các cụ bảo âm thịnh dương suy, đàn bà đẹp mỡ màng, má đỏ au, ngực phồng như buổi sớm mai. Ở đó, quê nàng, mùa hoa, mùa đàn ông mệt như chiếc áo rũ, vừa vịn rào đi vừa ngái ngủ.

    Nương yên lòng với công việc và cuộc sống lương thiện ngày ngày. Nàng không hay biết vẻ đẹp làm say lòng người của nàng. Cũng không hay biết cả cái bỉ tiện đê hèn của thói đố kỵ ghét ghen nơi người đời. Con người, về một khía cạnh nào đó, là một kẻ không sống yên ổn với đồng loại của mình. Mỗi kẻ là một đơn nguyên biệt lập. Ganh ghét đố kỵ với người khác là thuộc tính của nó, một thói xấu thâm canh, một cơn điên khùng, bất chấp cả lẽ phải.
    Thành ra, chiều hôm đó, nghe tiếng bà Luân lu loa ở phòng bên, tôi và ông giám đốc liền vùng ngay sang và sau mấy phút lơ ngơ, chúng tôi đều vỡ lẽ. Bà Luân vò đầu bứt tai, cao rao:
    - Rõ ràng tôi để một triệu đồng ở bàn này. Mà ngoảnh đi ngoảnh lại mất biến một trăm ngàn là thế nào? Ai vào đây? Ai vào đây dọn dẹp, quét quáy phòng tôi!
    Nương thôi làm việc ở cơ quan tôi khi chưa hết hạn hợp đồng sáu tháng. Tôi đi công tác hơn một tháng ở phía nam về, một sáng mùa đông, ngồi trong phòng làm việc nhìn ra cái hành lang âm u tối mờ, bỗng thấy cái nhìn như trượt vào một cõi hư vô nào đó.

    Mùa thu đã đi hẳn rồi, vầng nắng nhỏ tiết thu quen thuộc đã tắt ngấm từ lúc nào. Nương đã trở về vùng cao Sapa quê hương nàng. Ở đó mùa này trời xanh trong vắt, nắng tươi tràn trề. Ở đó, nàng trồng đào lê mận, chăm sóc các loài dược thảo như bạch truật, xuyên khung, đỗ trọng. Chồng nàng xin thôi việc lái xe cho ông tướng, chuyển về huyện đội, đảm nhiệm việc chăn nuôi mấy con ngựa biên phòng. Hắn không thể xa nàng được.
    Vì sao Nương lại thôi làm việc ở cơ quan tôi?
    Mọi sự đều tỏ tỏ mờ mờ, và chẳng ai hiểu thật rõ ngọn ngành các sự kiện đã xảy ra. Cuộc sống chuyển động ào ào, không tư tưởng, không nghĩ suy, không kết luận. Nó cũng buông lửng tai ác như việc bà Luân kêu mất một trăm ngàn đồng.

    Rồi thì tất cả sẽ rơi vào quên lãng thôi! Tuy nhiên, cuối cùng thì cũng đã phong thanh lan truyền trong gió dăm ba lời đồn thổi và câu chuyện tưởng là hư cấu bỗng như có được điểm tựa.
    Rằng một ngày nọ, anh chàng lái xe cho ông tướng hai sao nọ, kẻ mang dòng máu Ôthellô đậm đặc, bỗng nhận được một lá thư không có tên không địa chỉ người gửi. Lá thư chỉ độc có hai câu: Vợ đẹp thì mày phải lo. Đêm nằm lắm kẻ rình mò ước mơ. Lửng lơ tai ác thế! Gã lái xe chồng Nương xồng xộc đến cơ quan, lôi Nương về, tẩn cho một trận và hôm sau áp tải Nương lên tàu về thẳng quê hương, phá vỡ giao ước đã thỏa thuận.

    Nương chẳng bao giờ trở lại cơ quan tôi nữa. Nàng đã biến vào nơi vô tăm tích. Nhưng từ đó, mỗi độ thu về, ngồi trong căn buồng nhỏ của mình, nhìn ra cái hành lang lung linh bụi hồng, trong bâng khuâng của sắc vàng hoa cúc, tôi lại như nhìn thấy bức toàn cảnh buổi sớm mùa thu đẹp toàn mỹ có bóng hình người phụ nữ Tày nọ.

    Vùng thẩm mỹ đầy nhân tính ấy đã tan thấm hoàn toàn và vẫn còn ngưng đọng mãi trong không gian.
    [/FONT]
     
    No MercY, kunkun and bình minh 6868 like this.
  7. kunkun

    kunkun Thần Tài Perennial member

    Dưới cơn mưa

    imagesCACD6COY.jpg
    Có lẽ có những sự chia tay làm cho hai người hiểu nhau hơn, biết trân trọng hơn người bên cạnh mình.

    Dưới mưa… Thu thích đi dưới mưa. Cái cảm giác mát mát lành lạnh của từng hạt mưa làm Thu thấy dễ chịu, đi một mình, không ô dù, nhưng chẳng bao giờ thấy cô đơn khi đi dưới mưa, quanh Thu có hàng ngàn, hàng vạn hạt mưa làm bạn rồi mà… Thu bước chầm chậm đến chiếc xích đu ở khu vui chơi gần nhà trọ. Hôm nay chỗ này vắng thật, chẳng có ai, bình thường thì đông lắm, cũng tại hôm nay trời mưa, mà cũng 8 giờ tối rồi còn gì, may là khu này an ninh tốt không thì Thu cũng không vì sở thích đi dưới mưa của mình mà dám lang thang ở đây. Ngồi xuống xích đu, Thu ngửa mặt lên trời, nhắm mắt lại mưa rơi vào mặt mát lạnh, Thu khoan khoái mỉm cười và mở mắt ra nhìn xung quanh. Bất chợt, Thu giật mình thấy ở gần chiếc cầu trượt có một bóng người… một người con trai, cậu ta im lìm, ngồi bó gối, mắt nhìn vô hồn vào màn mưa, không biểu lộ một cảm xúc gì. Thu lưỡng lự nửa muốn lại gần hỏi thăm nửa lo sợ vì mẹ vẫn thường bảo Thu không nên nhiều chuyện, là người ngoài không nên chen vào chuyện của người khác. Nhưng nhìn bộ dạng cậu ta đáng thương quá, Thu không đành lòng cứ thế mà bỏ đi. Thu tiến lại gần, nhẹ đặt tay lên vai người lạ mặt lên tiếng:

    - Cậu sao thế?

    Cậu ta ngẩng mặt lên nhìn Thu, Thu sững người, đôi mắt ấy buồn quá… dù trời mưa không trăng sao nhưng nhờ ánh sáng của những ngọn đèn cao áp cũng đủ để Thu nhận ra cậu ấy đang khóc. Vậy mà ngày trước đã có lần Thu nói với Quang: “Nếu một ngày nào đó phải chia tay thì mình chia tay dưới mưa anh nhé! Khi đó… nếu ai đó có khóc thì người kia cũng sẽ không nhìn thấy để… bình yên mà bước đi.” Nhưng thật sự thì dù dưới mưa, chỉ cần nhìn vào mắt một người thôi cũng đủ để biết người đó có khóc hay không rồi. Thu bối rối:

    - Tại… tôi thấy cậu ngồi như vậy không biết cậu có làm sao không? Cậu… không sao chứ?

    Thu hỏi và khẽ ngồi xuống bên cạnh, cậu ta không khóc nữa, quay sang bên kia nhẹ gạt những giọt nước mắt. Rồi cậu ta quay lại:

    - Không sao… chỉ hơi lạnh một chút! Cho tôi mượn tay cậu được không.

    Thu ngập ngừng nhưng vẫn mỉm cười đưa bàn tay về phía cậu ta, cậu ta nắm lấy rồi bất giác cười:

    - Tay cậu lạnh quá, chẳng ấm gì cả. Biết vậy không mượn nữa.

    Nghe vậy Thu rút tay ra, vẻ hờn dỗi. Cậu ta thấy thế lại mỉm cười rất nhẹ. Thu nhìn và thầm nghĩ, con người này lạ quá, khóc rồi chợt cười, chẳng hiểu cậu ta đang nghĩ gì nữa. Cậu ta nói tay Thu lạnh, tay cậu ta cũng có khác gì đâu. Thu vẫn nhớ cảm giác khi cầm tay Quang, dù mùa đông hay mùa hè đều rất ấm, vì thế mà Thu tưởng tay con trai tay ai cũng ấm chứ.

    - Cậu đang thắc mắc tại sao tớ ngồi đây hả?

    Cậu bạn lạ mở lời và nhẹ nhàng kể cho Thu nghe câu chuyện của cậu ấy:

    - Tớ vừa chia tay với người ta đấy. 3 năm, hàng vạn phút giây với những kỉ niệm không đếm hết… vậy mà chỉ cần 3 từ “mình chia tay” là kết thúc tất cả. Tớ không phải người quá yếu đuối và dễ khóc nhưng thật sự trong chuyện này tớ không biết mình có lỗi ở đâu nữa. Tớ thích mưa nên ngồi đây rồi khóc lúc nào không biết... lại còn bị cậu nhìn thấy nữa… đừng cười tớ nhé...

    Cậu ta nói, cười buồn rồi lại lặng nhìn mưa.

    - Có gì đáng cười đâu chứ? Tớ hiểu cảm giác ấy mà. Thôi cũng muộn rồi, cậu cũng về đi. Tớ cũng thích mưa nhưng dầm mưa lâu quá là cảm lạnh đấy! Sau mưa, có lẽ cậu sẽ thấy mọi chuyện bình thường hơn.

    - Cái này thì cậu đúng. Cho mưa cuốn trôi hết rồi mà. Tạm biệt!

    Thu và cậu ta cùng đứng lên để ra về, mỗi người đi một hướng. Những gì cậu ấy nói khiến Thu nghĩ miên man về Quang, về tình yêu của cô. Nếu như nó còn nguyên vẹn những ấm áp thuở ban đầu, nếu như hai người không để những rắc rối, khó khăn trong cuộc sống, học hành ảnh hưởng đến tình yêu của mình để hai người ngày càng xa nhau hơn thì có lẽ giờ này Thu đã không đi dạo một mình dưới mưa, sẽ có một bàn tay cùng đưa ra hứng mưa với Thu. Nhưng giờ Quang có lẽ không còn thì giờ để làm những điều như thế với Thu nữa. Quang bận bịu với những dự định riêng, với những người bạn mới… Cậu bạn lúc nãy nói rằng không biết trong tình yêu lỗi của mình ở đâu, thật ra thì chia tay có nhiều lí do, lỗi lầm chỉ là một trong số đó, có những điều thật vu vơ, nhỏ bé trong tình yêu cũng đủ làm tạo ra một khoảng cách, lớn dần rồi thành vô cùng, không lấp đầy được nữa… thôi nghĩ làm gì nhỉ... Giờ về nhà tắm rồi ngủ một giấc thật ngon mặc kệ những gì sẽ đến vào ngày mai. Mưa ơi, cuốn trôi hết đi…

    ***

    - Hôm nay sinh nhật anh! Anh về nhà trọ sớm nhé! Em sang.

    - Tất nhiên rồi! 4h chiều anh học xong, anh về!

    - Anh nhớ đấy! Em chờ.

    - Anh hứa!

    Thu mỉm cười buông điện thoại xuống, bắt tay vào làm chiếc bánh kem mà cô đã học làm cả tháng nay. Quang chắc hẳn sẽ bất ngờ lắm, tại lúc nào Quang cũng bảo Thu là: “Em ở đâu anh cũng yên tâm trừ khi em vào bếp.” mà. Nhớ đến sinh nhật Quang năm trước - một sinh nhật chỉ có hai người mà Thu thấy ấm áp dù hôm ấy đang cùng hóng gió ở tượng đài thì trời mưa to làm cả hai ướt như chuột. Đã bao lần hai đứa cãi nhau rồi giận hờn nhưng chỉ cần nhớ đến cảm giác khi Quang đặt tay Thu lên ngực trái và nói “anh yêu em” là ngày hôm ấy bao giận hờn tan biến hết. Nhanh thật, hơn 1 năm rồi. Hôm nay, Thu muốn tìm lại cảm giác ấm áp ấy, có được hay không?

    4h… 4h15… 4h30… 5h00… 6h00… 7h00. Lần đầu tiên Thu phải đợi lâu như thế, Quang cũng là người duy nhất mà Thu có đủ kiên nhẫn để đợi. Nhìn vào chiếc điện thoại, Thu bấm số của Quang rồi lại xóa đi… Quang không thích bị người khác làm phiền khi đang bận việc gì đó, càng không thích bị thúc giục hay kiểm soát… nhưng… Quang đã hứa. May mà người bạn trọ cùng Quang đi làm thêm gặp Thu đã đưa chìa khóa, nếu không Thu cũng không biết phải chờ ở đâu. 7h15, Quang về cùng một người bạn. Hai người vào đến cửa, Thu ngạc nhiên khi nhận ra cậu bạn đi cùng Quang chính là người cô gặp dưới mưa hôm ấy. Cậu ta cũng nhận ra Thu thoáng bất ngờ nhưng rồi cũng chỉ mỉm cười gật đầu chào nhau. Thấy Thu, Quang có vẻ ngạc nhiên:

    - Em vẫn đợi anh à? Anh xin lỗi tại điện thoại hết pin nên không gọi được cho em. Anh tưởng em đợi một lát không thấy anh nên về rồi.

    - Em đã nói là em sẽ chờ mà.

    - Nhưng… hôm nay các bạn cùng lớp tổ chức sinh nhật cho anh. Vũ có việc phải về nên anh đưa cậu ấy về đây lấy xe đạp cậu ấy gửi. Giờ bọn bạn anh vẫn đang chờ để đi chơi tiếp… Em… em đi cùng bọn anh nhé!

    Thu cố nén cái cảm giác nghẹn ngào đang muốn trào lên, nhìn Quang nói:

    - Anh đã hứa… là sẽ về sớm…

    - Tại anh không biết là bọn bạn tổ chức sinh nhật cho anh.

    - Nhưng anh hứa với em trước… anh…

    - Anh không thể vì lời hứa với em mà ra kia nói với bao nhiêu người bạn là anh không đi cùng họ được. Em không đi cùng cũng không sao. Anh không muốn mình cãi nhau trước mặt bạn anh. - Nói rồi Quang quay sang Vũ - Cậu đưa Thu về giúp mình, cùng đường đấy!

    Quang nói rồi đưa tay với chiếc khăn quàng cổ vì mùa đông rồi Hà Nội lạnh đặc biệt về đêm. Chiếc khăn mắc vào chiếc lọ thủy tinh đầy những ngôi sao giấy, chiếc lọ rơi xuống vỡ tan bằng một thứ âm thanh khô khốc. Quang nhìn thấy, rồi thờ ơ quay ra cửa đi tiếp đến cửa còn kịp nói một câu: “Em về đi, cứ để đó khi nào về anh dọn!”.

    Quang đi rồi Thu đứng nhìn trân trân vào những mảnh thủy tinh vỡ và những ngôi sao giấy đủ màu sắc trên sàn nhà. Một lát, Thu từ từ ngồi xuống, mở chiếc hộp nhỏ để bánh kem, lấy nó ra để lên bàn rồi nhặt những mảnh thủy tinh vỡ và những ngôi sao vào đó. Còn Vũ từ nãy đến giờ chứng kiến câu chuyện từ đầu đến cuối cũng không biết phải nói sao. Nhìn vẻ mặt buồn đến thẫn thờ và có vẻ cam chịu của cô bạn mới gặp lần thứ hai kia, Vũ bỗng thấy đau lòng và thương cô bé quá. Là bạn cùng lớp Quang, nhưng Vũ cũng không thể hiểu tại sao Quang có thể hành động như thế. Bỗng Thu khẽ kêu lên vì bị một mảnh thủy tinh cứa chảy máu. Vũ giật mình, rút nhanh một tờ khăn giấy cầm lấy tay Thu rịt vào chỗ bị cứa, may mà vết cẳt nhỏ nhanh chóng không chảy máu nữa. Nhưng khi Vũ nhìn lên, cậu bối rối vì thấy Thu đang rơi nước mắt. Rồi không biết do bản năng của một thằng con trai khi nhìn thấy con gái khóc hay một thứ tình cảm nào khác mà nhẹ nhàng Vũ áp gương mặt ấy vào ngực mình… không thấy nước mắt nữa nhưng Vũ thấy bờ vai Thu khẽ run. Thu vẫn khóc. Vũ vòng tay khẽ vỗ về. Chẳng biết nếu Vũ mắng Quang là người vô tâm có đúng không khi vẫn có thể vui vẻ với bạn bè khi mà làm người bạn gái của mình bị tổn thương thế này. Lát sau, Thu ngừng khóc. Thu né ra không nép vào Vũ nữa, khẽ lau nước mắt và nói:

    - Không ngờ lại gặp lại cậu trong hoàn cảnh này. Coi như mình hòa nhé!

    - Ừ. - Vũ cười trả lời.

    - Thôi, nhặt nốt chỗ sao này rồi tớ đưa cậu về.

    Hai người cùng nhặt những mảnh vỡ và những ngôi sao trên sàn nhà bỏ vào chiếc hộp cát-tông nhỏ.

    - Cậu có biết có bao nhiêu ngôi sao tất cả không?

    - Bao nhiêu?

    - 1000. Đây là quà tớ tặng sinh nhật Quang năm trước. Hình như anh ấy đã rất vui khi nhận nó…

    - Quang lỡ tay thôi, không cố ý làm vỡ nó đâu.

    - Không cố ý nhưng có cần thiết phải nhìn nó bằng ánh mắt như vậy không?… Thôi xong rồi. Mình về đi. Quang chắc còn về muộn. Cậu cũng phải về sớm mà.

    Nói rồi Thu và Vũ đi ra ngoài. Thu khóa cửa lại đưa chìa khóa cho Vũ nhờ mai đi học đưa giúp cho Quang. Hai người đi song song trên hai chiếc xe đạp, chầm chậm, khẽ trò chuyện.

    - Cô ấy tên gì?

    - Ai? À cô ấy hả? Tên Thủy.

    - Thủy - Vũ. Hai người gặp ngày trước đi cùng nhau chắc trời hay mưa lắm nhỉ?!

    - Sao cậu biết?

    - Đã có nước lại còn có mưa không lũ lụt là may lắm rồi.

    Nghe lập luận của Thu, Vũ bật cười, Thu cũng khẽ cười theo. Cả hai thoải mái kể cho nhau nghe những câu chuyện của mình. Một chút tâm đầu ý hợp làm cả hai đều cảm thấy được chia sẻ. Hai chiếc xe đi song song trên đường Hà Nội và một tình bạn được thiết lập sau hai lần gặp ngẫu nhiên. Trái đất này lớn thật nhưng những người có duyên thì cứ không hẹn mà gặp…

    10h đêm… sau khi có một sinh nhật tưng bừng cùng tụi bạn trong lớp, Quang trở về với căn phòng trọ của mình. Nhớ đến Thu, Quang cố nén một tiếng thở dài. Sao Quang lại cư xử như thế nhỉ... Quang vào nhà, cắm sạc vào điện thoại, trước lúc Quang đi cùng bạn, Quang đã gửi tin nhắn nói Thu đừng chờ, bấm nút send rồi đút vào túi áo khoác. Ai ngờ điện thoại hết pin sập nguồn đúng lúc ấy nên tin nhắn không được gửi đi. Khi thấy Thu ở đây, quá bối rối, Quang đã chọn đi cùng lũ bạn chứ không ở nhà cùng Thu. Quang biết Thu đã chờ lâu lắm, nhìn chiếc bánh kem trên bàn với dòng chữ: “Cún yêu, sinh nhật vui vẻ.” và món quà để cạnh Quang chợt thấy hối hận quá. Chiếc bánh nhìn không chuyên nghiệp lắm, Quang mở tấm thiệp nhỏ gần đó: “Happy birthday to puppy!!! Em gần đốt bếp vì cái bánh này đấy!^^”. Quang mỉm cười, gấp lại tấm thiệp. Thu vốn không thích nói nhiều, nhưng tình cảm của Thu, Quang có thể cảm nhận rõ ràng qua những việc mà Thu làm. Nhớ đến đấy, Quang chợt nhìn lên chỗ trống nơi trước vẫn đặt lọ sao giấy, không còn ở đấy nữa, Quang chợt thấy lòng mình chùng xuống… một khoảng trống. Nhìn xuống sàn nhà nơi sao giấy rơi xuống, Quang nhìn thấy một ngôi sao còn sót lại, Quang nhặt lên, chỗ cài giấy bị bung ra, Quang gỡ nó ra để gấp lại. Chợt Quang sững người khi thấy trong mặt sau của mảnh giấy là 3 chữ: “Em yêu anh”. Quang nhắm mắt lại cho những xôn xao hối hận đang trào lên dịu bớt… Quang, Quang đã có tất cả 1000 ngôi sao như thế… Quang bấm số điện thoại Thu,… không liên lạc được... bất an… sinh nhật đầu tiên Quang không ngủ được…

    ***

    - Anh muốn nói xin lỗi. - Quang ngập ngừng nói và nhìn Thu. Sao hôm nay nhìn ánh mắt Thu có vẻ lạ lạnh lùng quá, xa lạ nữa???

    - Lời xin lỗi thì em nhận, vì em đã chờ anh hơn 3 giờ liền.

    - Em tha lỗi cho anh thật chứ?

    Thu nhìn Quang một lát, có cơn gió thổi qua, Quang thấy lạnh:

    - Anh đưa tay trái đây.

    Quang không hiểu ý của Thu nhưng vẫn làm theo. Thu cầm lấy tay Quang, nhẹ cởi chiếc dây nhỏ màu đỏ được kết rất đẹp buộc ở cổ tay. Quang giật mình, rút tay lại:

    - Em làm cái gì vậy? Buộc lại đi!

    - Nó chẳng còn là gì nữa, không cần buộc lại.

    - Sao lại không là gì nữa, khi em đã buộc nó vào tay anh từ ngày em nhận lời yêu anh?

    - Em tưởng nó có thể giúp em giữ chặt một cái gì đó, nhưng thật ra nó chẳng giúp gì được cho em cả, những gì phải đến vẫn cứ đến… - ngừng một lát Thu nói tiếp… Em không bắt anh phải giữ lời hứa luôn bên em nữa, cởi ra cho anh tự do.

    - Em nói vậy có nghĩa là…

    - Mình chia tay đi. Đừng bên em khi anh không muốn. Dù sao em cũng muốn tự cởi sợi dây này cho anh.

    - Em chia tay anh vì ngày hôm qua sao?

    - Không chỉ vì ngày hôm qua mà còn nhiều điều nữa… thôi em bận rồi, em về đây.

    Thu nói rồi quay đi. Quang sững sờ vì những gì đang diễn ra. Kéo tay Thu lại, Quang nói bằng giọng đứt quãng như muốn kìm lại một cái gì đó:

    - Em có biết… khi em nói rằng… nếu mình chia tay thì phải chọn ngày mưa không??? Từ lần đó anh đã có cảm giác sợ… sợ những ngày có mưa… bởi… anh nghĩ rằng… nếu trời không mưa, em sẽ không nói ra 3 từ “mình chia tay”… nhưng… hôm nay … đâu có mưa…

    Thu rút tay mình ra khỏi tay Quang và chạy đi. Cái lạnh mùa đông làm dư âm của bàn tay ấm tan mau quá, lại có một phát hiện mới rồi… nước mắt ấm hơn nước mưa…

    ***

    Hai tuần… dài quá! Dù hơi lạnh nhưng Thu muốn đi dạo một lúc. Trời sắp mưa thì phải, Thu ra khu vui chơi gần xóm trọ quen thuộc. Đến nơi, Thu ngạc nhiên thấy Vũ đang đùa với mấy đứa trẻ con, không rõ Vũ trêu gì mà chúng cười giòn tan. Thu tiến lại gần, Vũ nhìn thấy Thu cười tươi:

    - Lại gặp cậu rồi. Không phải cậu ra đây ngồi chờ mưa đấy chứ?

    - Ừ, có thể lắm.

    Thu cười nhìn cái nét vui vẻ của Vũ, Thu cũng thấy vui lây.

    - Cậu có muốn đi dạo với mình một lát không?

    - Rất sẵn lòng.

    - Hai người đi xa dần khu vui chơi về hướng nhà trọ Thu.

    - Nghe Quang nói hai người chia tay?

    - Ừ.

    - Có lí do gì đặc biệt không?

    - Lí do thì có… nhưng không đặc biệt, cậu thật khéo đùa.

    - Hì. Lạnh không?

    - Có!

    - Ôm nhé!

    - Cậu muốn đánh nhau hả?

    - Đùa thôi, đưa tay cậu đây.

    - Không cho cầm đâu, tay cậu lạnh lắm!

    - Hai bàn tay lạnh cầm lấy nhau vẫn thấy ấm hơn mà.

    Thu mỉm cười đưa tay cho Vũ. Hai người đi cạnh nhau không phải nói nhiều nhưng cũng làm Thu thấy nhẹ lòng hơn. Điện thoại Vũ báo có tin nhắn, Vũ mở ra đọc và khẽ cười nhắn tin lại.

    - Ai nhắn tin cho cậu mà cậu vui thế?

    - À một tên ngốc!

    - Cậu dám bảo người khác ngốc hả?

    - Ừ. Tại hắn ngốc thật... nhưng Thu này, cậu tha lỗi cho Quang lần này đi.

    - Tớ chia tay Quang đâu phải vì riêng ngày hôm đó.

    - Tớ hiểu, nhưng Quang còn bồng bột lắm! Trong tình yêu nó vô tâm như một đứa trẻ con ấy!

    - Cậu nói như hiểu Quang lắm vậy.

    - Hay nói chuyện nên hiểu một chút. Chia tay cũng khiến người ta trưởng thành hơn trong tình yêu đấy! Giờ thì cậu quay lại chỗ khu vui chơi đi. Tên ngốc ấy đang chờ tớ ở đấy đấy. Nó kêu buồn nên tớ bảo nó ra đấy chơi với tớ.

    - Cậu…

    - Đừng quá vội vã để rồi đánh mất một điều gì đó khiến cậu hối tiếc. Đặt tay lên ngực và tự hỏi mình đi.

    - Tớ…

    - Tớ biết cậu vẫn còn yêu Quang, cho Quang thêm một cơ hội để không còn vô tâm nữa. A… mưa rồi… cậu không muốn lại có một thằng con trai ngồi khóc dưới mưa như tớ chứ? Mà mưa bây giờ lạnh hơn rồi, ngấm mưa là cảm lạnh như chơi đấy!

    Mưa rào xuống to hơn, lo lắng trào lên, Thu rút tay mình ra khỏi tay Vũ, chạy theo hướng ngược lại, nhưng bỗng nhớ ra một điều Thu quay lại:

    - Sao cậu không quay lại cùng tớ, tớ nhớ nhà cậu hướng kia mà.

    Vũ bật cười:

    - Đi hướng này cũng về nhà tớ được.

    - Thu nghe vậy cũng mỉm cười rồi chạy tiếp. Mưa càng ngày càng lớn, trong mưa mọi thứ đều trở nên nhạt nhòa. Nhưng ở chỗ khu vui chơi kia, gần chiếc cầu trượt, Thu vẫn nhận ra một hình dáng quen thuộc.

    - Anh là đồ ngốc! Vũ nhờ em nói với anh câu đó!

    - Quang ngạc nhiên nhìn lên và thấy Thu ở đó, Quang đứng dậy, chạy đến bên người con gái ấy và ôm thật chặt vào lòng. Rồi Quang buông ra, nhìn Thu như nghi hoặc:

    - Phải em không?

    - Em đã nói anh cận là phải đeo kính mà. Mưa lạnh thế này mà anh vẫn muốn tắm mưa hả?

    - Anh… xin lỗi…

    - Này dưới mưa nhưng em vẫn nhìn thấy anh khóc đấy.

    Quang mỉm cười và lại nhẹ ôm Thu, Thu áp mặt vào ngực Quang cho những giọt nước mắt tự khô. Khi đã dám chắc những gì đang xảy ra không phải là trong mơ. Quang buông Thu ra, đưa tay trái về phía Thu:

    - Buộc lại cho anh đi!

    - Em không mang theo.

    Quang nghe vậy cúi mặt thoáng buồn, buông thẳng tay trái. Thu mỉm cười nhẹ nhàng kéo tay Quang lên và buộc lại sợi dây màu đỏ, thì thầm:

    - Em nói dối mà.

    - Còn những ngôi sao nữa, cho anh xin lại để cất vào một chiếc lọ khác được không?

    - Nhưng… thiếu một 1 ngôi sao rồi. Để em gấp lại cho anh một ngôi sao khác.

    - Đừng em, để nó là 999 đi… để anh nhớ lỗi của mình và không làm em buồn nữa.

    - Ừ, còn bánh kem anh thử chưa?

    - Biết em giận anh. Anh không còn tâm trạng thử nữa. Em làm lại lần nữa nhé!

    - Lần này em mà đốt bếp thật thì sao?

    - Anh mang mưa đến dập lửa.

    - Anh... Còn sợ mưa không?

    - Giờ thì không sợ nữa…

    ***

    Có lẽ có những sự chia tay làm cho hai người hiểu nhau hơn, biết trân trọng hơn người bên cạnh mình. Nhưng mấy ai có cơ hội để có thể sửa sai, điều sai lầm lớn nhất đó là con người ta luôn nhận ra rằng đáng lẽ ta phải trân trọng, phải nâng niu, để nhận ra cái gì đó vô cùng quý giá với mình khi đã bị mất đi. Buồn thay. Đi ngược đường về nhà, Vũ thấy đường dài hơn. Mưa lớn thật. Có lẽ bây giờ thằng bạn ngốc ấy đã làm lành với Thu rồi. Vũ cười một mình khi nghĩ đến hai người họ. Nhưng ít ra Quang còn có cơ hội để yêu lại từ đầu… Còn Vũ thì sao? Lại một mình một đường về như thế này đây. Đến gần cửa phòng trọ, Vũ sững sờ đưa tay lên ngực cố giữ không cho tim mình đập mạnh. Thủy đang đứng đó, chỉ cách vài bước chân nhưng Vũ không dám lại gần mà đứng im vì sợ nếu đưa tay về phía đó, nếu bước gần hơn thì tất cả tan biến như ảnh ảo. Thủy cũng đứng nhìn Vũ, ngập ngừng lên tiếng trước:

    - Mùa đông anh vẫn thích dầm mưa sao?

    - Thủy… sao em lại ở đây?

    Thủy không nói, chạy lại ôm ngang người Vũ. Rơi nước mắt nhưng vẫn cố đùa:

    - Thượng Đế bảo, không có “nước”, ông ấy không làm “mưa” được. Ngốc ạ!

    Vũ hạnh phúc vòng tay ôm lấy người con gái mình yêu thương, quả báo rồi… Ai nói hôm nay Vũ nói Quang ngốc để giờ cũng bị nói ngốc nữa đây này.
     
    No MercY and Phúc Thịnh like this.
  8. kunkun

    kunkun Thần Tài Perennial member

    Từ mai không còn Gió nữa, Cỏ sẽ hết lung lay…

    Tít tít tít.. New message.. “Bé ơi, mai em xin nghỉ làm dành cho anh 1 ngày nhé. Anh cũng vừa xin sếp nghỉ rồi”Tin nhắn của anh làm cô hơi bất ngờ. Thời gian rồi bận rộn quá anh và cô ko gặp đc nhau nhiều như xưa. Thường thì cứ tối thứ 7, họ vội vàng gặp như sợ nếu để bẵng đi sẽ quên mất nét cười của nhau vậy. Thứ 7 tuần rồi anh bận, họ không gặp nhau. Bữa nay mới thứ 4, anh lại gửi cô tin nhắn ấy, trộm nghĩ anh nhớ cô quá chăng..
    Nhớ hồi còn học Đại học, gần như ngày nào anh và cô cũng gặp nhau, cùng nhau rong ruổi trên những con phố dài. Anh xinh trai một cách.. nam tính (ít ra là trong mắt cô lúc nào cũng như thế), Anh sống tình cảm và suy nghĩ sâu sắc, nhưng cũng có khi lại biểu hiện mình vô tâm đến đáng sợ. Con người ấy lúc già dặn như một ông cụ non, lúc lại đáng yêu như một đứa trẻ, lúc kể hàng tá câu chuyện liên tiếp tranh hết phần cô nói, lúc lại trầm lặng chẳng nói một lời dù không có chuyện gì buồn, cũng chẳng giân dỗi cãi cọ gì.. Cô cũng chẳng biết cô yêu cái phần nào trong cái con người phức tạp đa chiều ấy nữa. Chắc là yêu cái phần Anh, yêu chính cái sự phức tạp làm nên Anh của cô
    Nhiều khi cô hay hỏi vu vơ kiểu con gái “Anh, sao ngày nào mình cũng gặp nhau được thế này nhỉ, rồi có đến lúc nào chán nhau không”
    Anh thở dài ra điều suy nghĩ sâu sắc lắm:
    - “Vì khi không gặp anh không thấy em cười, thấy tội tội nên cố gắng ngày nào cũng gặp em đó. Yên tâm chắc không chán đâu, sức cố gắng của anh còn nhiều ”. Kèm theo một nụ cười đắc thắng của kẻ ban ơn.
    Cô nào có kém cạnh, mặt bình thản:
    - Uh, không gặp thì làm sao nhìn thấy em cười được, tính mắc cầu truyền hình trực tiếp hả, thế mà cũng nói, lý do không thuyết phục, xí- Rồi cô nhún vai cười tít mắt: “Để em nói trúng tim đen cho mà nghe, vì em cười xinh ngoan đúng không?! Vì anh sẽ méo mó như một lá cây héo nếu một ngày không nhìn thấy em cười đúng không, tóm lại là ngươi cần ta chứ không phải là ta cần ngươi haha.. “
    - Á ah, lại còn dám xưng ta và ngươi với anh nữa ah. Nhà ngươi sẽ bị trừng phạt, chuẩn bị tinh thần đi là vừa…
    Anh cốc cốc vào cái đầu lém lỉnh của cô, rồi xiết chặt cô vào lòng đến ngạt thở.. Cô thì vẫn cười tít, la lối om sòm như thể mình sắp bị chết ngạt trong yêu thương ấm áp vậy..
    Họ hay được cười vui như thế mỗi khi gặp nhau. Cũng chẳng phân trần được ai cần ai, chắc là vì cả hai cùng cần niềm vui, tiếng cười, sự sẻ chia ấm áp và họ tìm thấy thứ họ cần mỗi khi bên cạnh nhau. Để bấy nhiêu năm rồi, cho đến giờ vẫn chưa thấy chán.
    Ngay cả dạo một năm gần đây, từ hồi anh chuyển sang công ty mới, công việc lúc nào cũng ngập đầu, ngoài tin nhắn và điện thoại ra thì thời gian anh nhìn thấy cô cười hầu như chỉ còn vỏn vẹn lại dăm ba tiếng mỗi tuần. Lúc đầu, cô tưởng như mình không thể chịu được cái cách yêu đương ít ỏi ấy, cô hay khóc hơn, hay cáu kỉnh hơn, hay giận tự ái hơn. Nhưng rồi bản thân cô cũng bị công việc cuốn đi, quan trọng hơn cả là cô vẫn cảm nhận được tình cảm và sự quan tâm anh dành cho cô, và thái độ vun vén cho mối quan hệ của hai người, một cách người lớn, một cách rất nghiêm túc chứ không còn đơn giản là bên nhau vui cười như xưa. Và vì thế, cô dần yên tâm với hiện tại, yên tâm yêu anh với nguồn tình cảm dạt dào nhất mà cô có.
    [​IMG]
    Bữa nay bỗng dưng anh hẹn cô nghỉ làm để đi chơi ngày giữa tuần. Hẳn phải có nguyên nhân đặc biệt. Cô chọn một chiếc váy đỏ xinh xinh, không quên tô chút môi thắm và chút má phớt hồng. Lúc nào cô cũng muốn thật xinh xắn khi đi cạnh anh. Cô biết chứ, con trai yêu bằng mắt mà. Cô biết phải luôn tự làm mới mình để lúc nào anh cũng thấy thú vị bên cô. Cô còn biết người ta bày cách phải giữ “lửa” cho tình yêu thế nào nữa kia..
    ..Có điều cô không hề hay biết, ngày mai anh sẽ đi xa.. du học.. Pháp.. và 4 năm.
    Bữa nay anh đưa cô đến Paradise- quán cafe mà lần đầu tiên họ hò hẹn, anh đưa cô đi ăn miến xào cua- một trong những món cô thích nhất, anh đưa cô đi xem phim, và còn tự chọn 1 bộ phim hài tình cảm mà cô thích thay vì cố thuyết phục cô xem phim hành động cùng anh như mọi khi. Họ kết thúc một ngày bên nhau bằng bức tranh hoàng hôn bên bờ biển. Cả anh và cô đều yêu biển, họ có thể ngồi lặng yên hàng giờ bên nhau chỉ để nghe tiếng sóng, để cô cảm nhận được sự ấm áp trong vòng tay anh, còn với anh chắc những khoảnh khắc đó đủ để anh cảm nhận được người con gái này yêu và cần anh nhiều đến mức nào..
    - “Bé, hôm nay anh mang máy ảnh này, lâu lâu rồi mình không có cái ảnh nào chụp cùng nhau đấy, cười toe toét lên anh xem nào”
    Cô bật cười, đúng là hôm nay anh hành động thật lạ. Cái con người ghét chụp ảnh nhất trần đời bữa nay lại chủ động rủ cô chụp ảnh. Nhưng kệ, cô cũng chẳng lo thắc mắc, cứ cười toe như anh bảo xem nào, dù gì thì chụp ảnh cũng là sở thích và sở trường của cô.
    - “Xem nào, trông mình cũng đẹp đôi đấy chứ nhỉ. Ai mà xinh trai đẹp gái quá ta” – Cô cười nheo mắt, cái cười ánh lên niềm yêu đương- “Hôm nay đợi được hoàng hôn rồi, mai anh đưa em đi đón bình minh nhé. Chỗ này nhìn hoàng hôn đẹp quá, chắc bình mình nơi đây cũng tuyệt vời thế này anh nhỉ. Sáng mai luôn nhé, em nóng lòng muốn xem quá đi mất thôi.. “
    Anh quàng hai tay ôm lấy cô và cả cái cười tít mắt của cô vào lòng. Anh mỉm cười ko nói. Có cái gì đó vừa vụt qua trong mắt anh. Từ ngày mai anh không thể đưa cô đi đón bình minh được nữa. Cảm giác tội lỗi chăng, hay thương cảm cô, hay tiếc nuối cô? Lẫn lộn, lẫn lộn! Đây không phải lần đầu anh giật mình muốn thay đổi quyết định. Suốt cả tháng nay từ khi Ba kiên quyết muốn anh đi du học, nhiều lần anh đã có những mâu thuẫn ấy. Mỗi lần gọi điện, mỗi lần gặp cô anh đều thấy lưu luyến, ko muốn rời. Trước đây vì anh không vui, anh không ủng hộ mà cô đã để lỡ một suất học bổng du học hai năm. Cô đã vì muốn giữ gìn tình cảm với anh mà bỏ qua cơ hội tốt cho bản thân mình. Anh vẫn còn nhớ lúc đó cô quả quyết nói với anh “Anh đừng nghĩ ngợi gì nhé, thực lòng em cũng không muốn đi, với con gái chuyện tình cảm, chuyện gia đình đc ưu tiên số một mà, em học tiếp ở nhà cũng tốt chứ sao”. Rồi cười. Cô luôn biết cách làm dung hòa mọi vấn đề bằng cái cười tươi tắn ấy. Thực ra nếu khi đó cô quyết tâm đi thì anh cũng không cản, nhưng khi cô nói vậy, anh chỉ còn biết ôm chặt cô vào lòng bằng một vòng tay kín như thể vòng tay ấy sẽ giữ người con gái này bên cạnh mình suốt đời vậy. Vậy mà giờ đây, chính anh lại là người buông tay dứt áo ra đi. 4 năm đâu có ngắn để bảo cô chờ đợi. Rồi cũng chẳng biết những gì sẽ đổi thay trong 4 năm ấy. Lúc nào anh cũng thấy nghèn nghẹn, muốn thú thực với cô tất cả mọi chuyện, muốn trút bỏ với cô tất cả dòng tâm sự của mình, muốn nhận cả những phản ứng dữ dội từ cô, có lẽ nếu cô tát anh một cái thật đau thì anh còn cảm thấy nhẹ nhõm hơn trong lòng.
    Nhưng anh biết chắc chắn cô sẽ không làm như thế, giả thử cô có biết được những gì sắp xảy ra thì cô cũng sẽ chỉ cười gượng, động viên làm anh vững tâm bằng vài lời vơ vởn nào đó để giấu đi nước mắt và sóng dậy trong lòng, rồi cô sẽ khóc hàng đêm, sẽ nhạt nhòa nước mắt mỗi sáng thức dậy.. Quen nhau bấy nhiêu năm đủ để anh hiểu được những gì cô nghĩ, những gì sẽ xảy ra nếu cô biết anh vẫn còn lưu luyến đến thế nào những vẫn phải ra đi. Cũng chính vì thế mà anh mới quyết định sẽ lặng lẽ ra đi theo cách này. Anh biết với tính cách của cô thì ghét cái gì đó, hận cái gì đó sẽ làm cô nhanh quên được hơn. Cô sẽ tự làm lành nỗi đau được nhanh hơn là làm vơi nỗi buồn nỗi tủi.
    Trước giờ Anh vẫn thường trêu cô là Cỏ, anh bảo vì Cỏ mềm nhưng có thể làm xước tay, vì Cỏ hay có những giọt nước mắt long lanh trên lá nhưng lại muốn mọi người nghĩ đó chỉ là những hạt sương mai còn đọng lại.. Và hơn hết cả là vì Cỏ hay “lung lay”, cũng như cái cảm xúc up up down down thất thường của cô vậy. Mỗi sáng nhận đc tin nhắn hay điện thoại của anh mắt cô ánh niềm vui, miệng cố mủm mỉm cười duyên lắm rồi mà nhiều khi vẫn bật lên thành tiếng. Vậy mà chỉ cần đến tối không có thêm tín hiệu gì từ anh thôi là cái mặt lại xị ra, trong đầu lại lởn vởn bao nhiều là suy nghĩ. Anh không nhớ cô ah, anh ko nghĩ đến cô ah, bận gì thì bận bỏ ra năm mười phút nhắn một cái tin khó khăn đến thế sao.. Cũng may cô không có tính dỗi vặt, buồn buồn down down thế nhưng chỉ cần anh nịnh nọt chút thôi là cô tươi tỉnh lại ngay…
    Anh chợt mỉm cười nhớ lại những lần nịnh nọt sến sến của mình. Bỗng nhiên thấy thương yêu và muốn ở bên cô hơn bao giờ hết, cái nắm tay cứ thế siết chặt ngoài tầm ý thức cho đến khi cô la lên “Ơ anh, sao đi quá cổng nhà em rồi này”. Đưa cô về tới nhà rồi, ngày hôm nay kết thúc rồi, cô sắp thơm lên má anh, mắt cười tít như thường lệ, cô sắp vẫy vẫy tay chào anh cho đến khi xe đi khuất. Tất cả những hình ảnh quen thuộc ấy sẽ lưu lại mãi trong đầu anh. Còn cô, từ mai sẽ không còn lặp lại những thói quen ấy, liệu bao lâu cô sẽ quên được..
    Vậy là chào nhau, không nước mắt, không ngậm ngùi lưu luyến. Chỉ có cái hôn nhẹ lên tóc, cái cười hồn nhiên của cô, và những day dứt trong anh..
    Cũng tốt, cứ để anh vờ che giấu tất cả đi, cứ chào nhau bình thường như ngày mai ta còn gặp lại, thực lòng anh không thể chịu được khi nhìn thấy cô khóc vì mình.
    Và ngày mai, anh đi..

    ———–
    Nhật ký của Cỏ
    Chắc anh về đến nhà rồi nhỉ, đã chuẩn bị xong hết đồ đạc để mai lên đường chưa. Ba tiếng đồng hồ rồi, em cũng đã kịp khóc một chặp đau hết cả bụng rồi đây này. Ngốc quá! Cả hai đứa cùng ngốc! Là em ngốc nghếch giỏi đóng kịch hay là anh khờ khạo không nhận ra?! Dù sao cũng phải cảm ơn Tuấn đã nói cho em biết việc anh sắp đi học từ mấy ngày trước. Nếu không biết trước hôm nay là ngày cuối mình gặp nhau, chắc em đã không làm anh vui được thế này, sẽ ko được nhìn thấy anh cười nhiều như thế này, chắc sẽ lại nũng nịu lại giả vờ dỗi hờn đòi anh đưa về nhà sớm trong nuối tiếc để anh luôn biết trân trọng những khoảng thời gian bên cạnh em hơn.
    Em hâm quá anh nhỉ, giờ mà mình còn được gặp nhau nữa em sẽ không bao giờ đòi về sớm nữa đâu. Thời gian ở bên cạnh anh chẳng bao giờ là đủ cả, biết không. Giờ thì có nói gì, ước gì cũng chẳng được nữa rồi. Những tấm hình mình chụp hôm nay anh cứ giữ lấy nhé, em có đủ hình ảnh anh rồi, ghi lại cả những khoảnh khắc chúng mình bên nhau nữa. Em cất ở đây này, kỹ lắm, trong tim em.
    Tối nay em định bụng sẽ thức cả đêm để ngày mai có sức mà ngủ cả ngày đấy, để ngày mai anh sẽ yên tâm ra đi, còn em sẽ vẫn mỉm cười yên bình trong những giấc mơ ấm áp.. Yêu anh..
    Từ mai không có Gió bên cạnh nữa, Cỏ sẽ hết lung lay
     
    No MercY and Phúc Thịnh like this.
  9. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mưa ấm tháng giêng[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Quang Thiều[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thường vào lúc những cơn mưa tháng giêng bay mờ trắng và ấm áp, thì bầy chim đi tránh rét từ mùa đông năm trước trở về. Cả bãi vải rộng và chạy dài gần một cây số dọc trên triền sông quê Ngần trở thành nơi nghỉ cánh của bầy chim. Không hiểu vì sao, bầy chim di cư lại chọn bãi vải ấy làm nơi nghỉ trước khi bay chặng cuối cùng về một vùng đất ngập nước cách làng Ngần khoảng 50 cây số. Chúng sống trên vùng đất ngập nước ấy từ mùa xuân cho đến đầu đông. Suốt thời gian ấy, chúng kiếm ăn và sinh nở. Bầy chim bay về những vùng ấm áp ở phương nam theo một đường khác. Khi trở về, chúng chọn một đường khác và nghỉ lại bãi vải vào giữa chiều. Người làng chạy ra mặt đê xem chim về. Bà nội Ngần kể: Ngày trước, có mùa chim về nhiều quá, bãi vải không đủ chỗ cho chúng, bầy chim phải đậu tràn vào những khu vườn trong làng, nghỉ lại đúng một đêm, và mờ sáng hôm sau lại ra đi. Cả làng như thức giấc bởi tiếng đập cánh ngờm ngợp của bầy chim. Chúng bay cắt qua làng và cất tiếng kêu trong như tiếng sáo trúc. Bà nội Ngần bảo, đó là lời cảm ơn của chim. Những buổi sáng như vậy, Ngần dậy sớm. Cô chạy ra sân, ra ngõ và đường làng để nhặt những chiếc lông chim rụng.

    "Tại sao bầy chim chỉ ở lại bãi vải làng mình có một đêm hở bà?". Ngày còn bé, Ngần hỏi bà nội như thế. Và bà nội kể câu chuyện về bầy chim do cụ nội Ngần kể lại.

    Từ thuở xa xưa, bầy chim di cư đã chọn đường bay trở về vùng đất bãi quê Ngần. Chúng chỉ bay qua chứ không nghỉ lại bãi vải. Nhưng một buổi chiều, người làng thấy bầy chim đỗ xuống bãi vải. Thấy lạ, cả làng đổ ra xem. Trên ngọn của một cây vải to nhất, cao nhất, bầy chim lượn thành hình tròn như một dải mây khổng lồ. Gió từ cánh của bầy chim rào rào vào những vòm lá vải. Chúng vừa bay vừa kêu thảm thiết. Trên tán lá dày nơi ngọn cây, một con chim lớn nằm xõa cánh. Đấy chính là con chim Chúa. Trong chặng bay cuối về vùng đất ngập nước, con chim Chúa đã hạ cánh xuống bãi vải. Nó biết nó không còn đập cánh được nữa. Và nó chọn bãi vải quê Ngần làm nơi yên nghỉ. Đàn chim bứt những chùm vải phủ kín lên con chim Chúa. Đêm ấy bầy chim ở lại bãi vải. Và sáng sớm hôm sau thì chúng ra đi.

    Sau khi bầy chim ra đi, dân làng đổ ra bãi vải và mang xác con chim Chúa xuống. Con chim Chúa to hơn những con chim khác. Đặc biệt, nó có một đôi cựa như một đôi ngà voi nhỏ xíu và một chiếc lông đỏ trên đỉnh đầu. Dân làng chôn con chim dưới gốc cây to nhất, cao nhất ấy và hương khói như đối với một con người. Lạ thay, năm ấy làng được mùa vải chưa từng có. Hình như cái hoa nào cũng đậu quả, và vải quê Ngần là giống vải to và hơi chua, bỗng trở nên ngọt và thơm lạ thường. Cho đến bây giờ, ngoài giống vải thiều ra, không có loại vải nào ngọt như vải quê Ngần cả.

    Và từ đó, làng Ngần đã chọn ngày 13 tháng giêng làm ngày hội làng, hội thi cây cảnh. Những cây chuối được uốn, tỉa thành hình con chim, có cái lông đỏ trên đỉnh đầu. Buổi sáng, người làng đổ ra mặt đê thắp hương và đợi chim về. Sáng sớm hôm sau, khi bầy chim ra đi, người làng ra bãi vải nhặt những chiếc lông chim rụng. Nếu ai nhặt được chiếc lông chim mầu đỏ thì sẽ gặp phước lành. Người già nhặt được thì sẽ không bệnh tật và sống đến trăm tuổi. Trẻ con nhặt được thì ngoan ngoãn, thông minh. Con trai nhặt được thì khỏe mạnh, tài trí, làm ăn phát đạt. Và con gái nhặt được thì mỗi ngày một đẹp, một thảo hiền và sẽ lấy được người mình mong ước. Nhưng mỗi lần chim về, trong hàng ngàn chiếc lông chim rụng, chỉ có mỗi chiếc mầu đỏ.

    Sau khi nghe bà kể, năm nào cũng vậy, đêm trước ngày hội làng Ngần hầu như chẳng ngủ được vì thấp thỏm. Nhưng cho tới bây giờ, Ngần vẫn chưa nhìn thấy chiếc lông chim ấy. Bởi thế mà Ngần vẫn chỉ ru rú ở nhà với bà. Đám trai làng hầu như chẳng để ý đến cô. Nếu có, cũng chỉ là những câu đùa cho vui mà thôi. Ngay cả khi ở tuổi 17, Ngần vẫn như một cô gái lên mười.

    Đã có thời gian dài, có lẽ cũng phải 15 năm, bầy chim không trở về bãi vải. Vào một đêm trong chiến tranh, đúng cái đêm mà bầy chim nghỉ lại bãi vải thì bị bom đánh. Hàng chục quả bom đã ném xuống bãi vải. Sáng sớm hôm sau, người làng chạy ra bãi vải. Một cảnh tượng đau lòng hiện ra. Bãi vải xơ xác, cây đổ ngổn ngang. Trên mặt đất, rụng kín hoa vải và la liệt xác chim. Người làng nhìn cây đổ, hoa rụng và chim chết mà nước mắt ròng ròng. Sau đêm ấy, bầy chim di cư không thấy bay về nữa.

    Vào những ngày đầu tháng giêng, Ngần vẫn đôi lúc tha thẩn dọc bãi vải. Chính ở đó Ngần đã gặp Thư. Đó là một buổi chiều cách đây bốn năm. Họ làm quen nhau và Thư hỏi:
    - Cô có biết bầy chim di cư không?
    Ngần đã kể cho Thư nghe về bầy chim ấy, cả câu chuyện về con chim Chúa và chiếc lông chim mầu đỏ.
    - Cô đã nhặt được chiếc lông chim ấy chưa?
    Ngần buột miệng:
    - Chưa. Năm nào em cũng tìm.
    Nói xong, Ngần đỏ mặt và vội bỏ đi.
    Hôm sau, một cán bộ xã đưa Thư đến nhà Ngần. Lúc đó cô mới biết Thư là một người nghiên cứu về những bầy chim di cư. Thư đến để được nghe bà nội Ngần kể về bầy chim.
    - Tôi đang đi tìm bầy chim ấy - Thư nói.
    - Bầy chim nào? - Ngần hỏi.
    - Bầy chim trước kia đậu lại làng mình một đêm ấy.
    - Chúng nó ở tận trên trời, làm sao anh tìm được?
    - Tìm được chứ - Thư nói hồ hởi - Tôi đã tìm thấy chúng rồi.
    - ở đâu hở anh? Chúng ở đâu?
    - Chúng đã về bãi vải ven sông, nhưng không như ngày xưa, chỉ có vài chục con thôi.
    Thư đưa Ngần ra bãi vải. Anh chỉ cho Ngần thấy một hai chiếc lông chim. Rồi cả làng xôn xao lên sau buổi Thư nói chuyện ở đình làng về bầy chim, rằng chỉ một vài năm nữa, bầy chim sẽ lại về. Những ngày sau đó, có những buổi Ngần và Thư lang thang dọc bãi vải cho đến tối. Thư nói với Ngần:
    - Chúng sẽ trở về. Bầy chim biết rõ chúng phải bay theo nguồn gió nào và hạ cánh ở đâu.
    Vào mùa xuân năm sau, Thư lại lỉnh kỉnh đồ đạc về làng Ngần từ mồng 5 tết. Suốt ngày Thư ở trên đê nhìn trời. Thi thoảng, anh qua sông và đạp xe vào sát chân núi Mối. Mỗi khi trở về, mặt Thư tím đi vì gió lạnh. Ngần thường đun một ấm nước nóng cho Thư rửa mặt.
    - Anh có thấy chúng về không? Lần nào thấy Thư dắt xe đạp từ ngõ vào sân, Ngần cũng hỏi như thế.
    - Chưa thấy gì - Thư đáp - Nhưng anh tin năm nay chúng sẽ về đông hơn...
    Thư bỏ lửng câu nói và im lặng nhìn Ngần.
    Một buổi tối, Thư ở lại nhà Ngần rất khuya. Hai người ngồi nói chuyện với nhau bên bếp lửa.
    - Đúng là những con chim này có một chiếc lông đỏ phải không anh? - Ngần hỏi.
    - Anh tin là có - Thư nói - Anh cũng muốn nhặt được chiếc lông chim mầu đỏ.
    - Để làm gì?
    - Để anh thực hiện được ước mơ của anh.
    Câu ấy, Thư như nói bằng hơi thở. Và sau câu nói ấy, cả hai người im lặng cho đến lúc Thư đứng dậy. Khi hai người bước ra sân, Thư chợt kêu lên:
    - Mưa ấm quá!
    Hai người đứng ở sân và cùng ngửa mặt lên bầu trời tháng giêng tối thẫm. Mưa tháng giêng từ xa thẳm đang thì thầm phả vào mặt họ. Cả hai thấy ấm rực lên như đang ngồi bên bếp lửa.
    - Mưa ấm quá! Thư nói như reo khẽ. Mưa ấm thế này là bầy chim sẽ về!
    Nói xong, Thư nắm lấy bàn tay Ngần. Và họ nhận ra, hai bàn tay họ cũng đang ấm rực. Sau khoảnh khắc bàng hoàng qua đi, Ngần vội rút tay mình ra khỏi tay Thư.
    - Anh về đi, khuya rồi! - Ngần nói vội vã.
    - Ngần, Ngần! - Thư gọi thảng thốt.
    Ngần bước lên hiên nhà. Cô đứng nép vào cột hiên. Chưa bao giờ cô lại thở như thế. Khi biết Thư đã đi xa, và khi hơi thở dần dần trở lại đều đều, Ngần đẩy cửa vào nhà. Cô bước lại bên giường bà nội và nói:
    - Bà ơi, bà ngủ chưa? Cháu đốt cho bà chậu lửa nhé!
    - Bố cô! Bà nội mắng yêu. Chờ được cô đốt lửa cho thì tôi đã chết cóng rồi!
    Ngần cười khúc khích và chui vào màn. Cô ôm lấy bà nội.
    - Bà ơi, mưa ấm lắm. Mưa ấm như thế bầy chim sẽ về!
    - Ai bảo thế? - Bà nội hỏi.
    - Anh Thư nói thế bà ạ!
    - Thằng Thư à - Bà nội nói - Cháu à, bà bảo nhé, con gái mà da khô, tóc cứng và nóng như cháu thì đường tình duyên khổ lắm. Đứa nào nó yêu cháu thật thì nó phải là người đức độ lắm.

    Đêm ấy, Ngần thao thức mãi không ngủ được. Tiếng Thư gọi Ngần lúc ở ngoài sân làm cho Ngần thấy chóng mặt. Chưa ai gọi Ngần với giọng như thế bao giờ.
    Đúng chiều ngày 13 tháng giêng năm ấy. Ngần theo Thư ra đê. Mưa tháng giêng bay mờ cả triền sông. Vải đang trổ hoa. Họ đứng im lặng nhìn về phía trời xa. Bầy chim trở về thật, chừng vài chục con từ từ đậu xuống ngọn cây vải cao nhất. Thư nắm tay Ngần chạy xuống chân đê. Cả hai rón rén đến dưới gốc vải và nhìn lên. Bầy chim đậu sát bên nhau và khẽ kêu lên, tiếng trong như tiếng sáo trúc. Thư say sưa ngắm nhìn bầy chim cho đến khi trời đổ tối. Thư dắt tay Ngần đi lên mặt đê. Ngần để yên tay mình trong tay Thư. Lên đến mặt đê, Thư vừa thở vừa nói:
    - Anh dự báo đúng. Bầy chim đã trở về rồi, Ngần ơi!
    Nói xong, Thư ôm choàng lấy Ngần. Ngần gục đầu vào vai Thư. Cô thấy tim mình đập vang vang tận đỉnh đầu.
    Sáng sớm hôm sau bầy chim rời bãi vải ra đi. Ngần lén ra bãi vải. Cô vừa hồi hộp vừa ngượng ngùng tìm dưới gốc cây vải xem có chiếc lông chim mầu đỏ không. Dù trong lòng cô nghĩ chiếc lông chim mầu đỏ có lẽ chỉ là chuyện cổ tích. Nhưng khi không tìm thấy chiếc lông chim ấy thì lòng Ngần dâng lên một nỗi lo âu mơ hồ. Và rồi, cô buồn hết cả tháng giêng.

    Bầy chim ra đi được mấy ngày thì Thư cũng ra đi. Anh phải trở về vùng đất ngập nước, cùng các đồng nghiệp tiếp tục công việc của mình. Đêm ấy, trong bếp lửa nhà Ngần, nghe Thư thổ lộ tình yêu của anh, Ngần đã khóc. Lời tỏ tình mà Ngần đã chờ đợi bao năm tháng lại làm cho Ngần hoảng sợ và đau khổ. Nếu Ngần tin rằng mình xinh đẹp như các cô gái khác, cô đã chạy ùa đến đón nhận tình yêu của Thư.
    - Làm sao em khóc? - Thư hỏi.
    Ngần không thể nói cho Thư biết vì sao cô khóc. Cô ngước mắt nhìn Thư. Cô nhìn thấy đôi mắt Thư đang nhìn cô đắm đuối và ấm áp vô cùng. Lúc đó, Ngần muốn gào lên với Thư rằng: "Tại sao anh có thể nhìn gương mặt xấu xí của em đắm đuối như thế kia được". Nhưng Ngần không gào lên được. Cô chỉ biết khóc. Thư kéo đầu Ngần vùi vào ngực mình. Anh vuốt ve mái tóc Ngần. Lúc đó, Ngần cảm thấy mái tóc mình khô giòn và khét đắng. Đến khi Thư vuốt ve bàn tay Ngần thì Ngần vùng khỏi vòng tay Thư và nghẹn ngào:
    - Tại sao em lại không nhặt được chiếc lông chim mầu đỏ?
    Câu hỏi của Ngần vừa tủi thân, vừa oán hận. Thư nhìn Ngần và nhận ra tất cả. Anh thì thào:
    - Em sẽ nhặt được, chắc chắn là nhặt được.
    Nửa tháng sau ngày Thư đi. Ngần nhận được thư anh. Thư say sưa kể cho Ngần nghe về những bầy chim di cư trở về trong những ngày đầu xuân ấm áp. Ngần thấy hạnh phúc và nhớ Thư vô hạn. Đêm ấy, cô đọc thư của anh bao nhiêu lần cũng không thấy chán. Nhưng khi cô lấy chiếc gương ra soi thì cô lại gục đầu mệt mỏi. Cô luôn luôn cảm thấy da cô khô và sạm, tóc cô cứng và khét, mắt cô hơi xếch, đôi môi cô có những vệt rộp. Nhưng sao anh ấy lại yêu mình? - Cô thầm hỏi. Hay anh ấy chỉ yêu bầy chim thôi? Ngần nhận được thư của Thư, nhưng cô không viết lại cho anh.

    Thư viết cho Ngần mỗi lúc một thưa và bặt hẳn. Lá thư nào, Thư cũng xin được cưới Ngần và mong câu trả lời của Ngần. Nhưng Ngần đã im lặng suốt cả một năm. Những lúc thấy Ngần thẫn thờ, bà nội lại bảo: "Bà biết cháu chờ nó. Nhưng cháu ơi, người ta khác mình lắm. Xem có đứa nào trong làng tốt bụng hỏi thì lấy. Tuổi cháu đứng rồi, đừng viển vông. Trong nhà, bà lo và thương nhất mày. Nếu xinh đẹp như người ta thì lại đi một nhẽ, đằng này... Thôi, ông trời cho thế nào thì được thế, cháu ạ".

    Năm ấy, bầy chim di cư trở về đông lắm, có tới hàng trăm con. Cả làng xôn xao. Những người già trong làng họp lại để bàn về lễ đón chim năm sau. Sau khi bầy chim bay đi, chẳng có ai ra bãi vải tìm chiếc lông chim mầu đỏ, chỉ có Ngần. Nhưng Ngần không tìm được chiếc lông chim mong ước ấy. Và năm đó, thời gian đối với Ngần trôi đi quá chậm.

    Nhưng rồi mùa xuân lại trở về, dù rằng năm nay mùa đông như về quá muộn. Nhưng mùa đông phải trả lại thời gian cho mùa xuân đúng quy luật của nó. Mới chỉ ngoài Tết mấy ngày mà mưa phùn đã ấm như hơi nước nóng. Cũng vào lúc đó, có một người tìm đến Ngần. Đó là một người đàn ông tóc đã điểm bạc. Ông là một nhà nghiên cứu chim di cư. Ông làm cùng viện với Thư:
    - Cậu Thư đang lặn lội tận đồng bằng sông Cửu Long - Người đàn ông nói vậy. Sau đó ông không hề đả động gì đến Thư, mà chỉ chăm chú hỏi về bầy chim.
    - Tôi đọc hồ sơ của cậu Thư về bãi đỗ chim làng cô và cả câu chuyện về chiếc lông chim mầu đỏ...
    - Chuyện cổ tích ấy mà, bác quan tâm làm gì. - Ngân buồn bã nói.
    - Tôi lại tin chuyện đó là thật.
    - Thật, sao chẳng thấy chiếc lông chim mầu đỏ? - Ngần nói, giọng chợt xa xăm, - có người tìm cả đời chẳng thấy.
    - Người nào có lòng tin thì sẽ gặp được điều mình mong muốn - Người đàn ông nói. Mỗi người phải tin vào một điều đấy. Trước hết phải tin vào chính mình.
    Đêm ấy, Ngần lại mở thư của Thư ra đọc. Cô biết, cô vừa mong đợi những lá thư như thế, lại vừa nghi ngại những gì Thư viết cho cô.

    Sau bao nhiêu năm, ngày 13 tháng giêng năm nay, làng Ngần lại tổ chức lễ đón bầy chim. Khoảng hai giờ chiều, người làng đã tụ tập kín mặt đê. Một chiếc bàn phủ gấm điều bày bánh trái, hoa quả và một chiếc lư đồng. Trầm được đốt lên tỏa thơm ngát, Ngần cũng có mặt trên đê. Nhưng cô chỉ đứng ở phía cuối đoàn người, khăn len che kín mặt. Với mặc cảm về sắc đẹp của mình, cô luôn luôn né tránh đám đông. Cô đứng đợi bầy chim trở về mà lòng buồn bã.

    Khoảng ba giờ chiều thì bầy chim trở về. Chúng xuất hiện phía xa như một đám mây. Đám mây mỗi lúc một lớn. Và những người đứng trên mặt đê nghe thấy tiếng đập cánh của bầy chim như tiếng mưa rào đang đổ xuống. Và trong khoảng khắc, bầy chim có lẽ đến vài ba ngàn con ngờm ngợp đập cánh trên đầu họ. Tiếng kêu của bầy chim vang lên như tiếng sáo trúc rộn ràng. Bầy chim lượn một vòng quanh làng Ngần rồi từ từ đậu xuống bãi vải. Mọi người đứng trên mặt đê reo hò.
    Ngần đứng lặng im, mắt không chớp nhìn bầy chim.
    - Tôi đã nhìn thấy con chim Chúa.
    Nghe tiếng người nói sau lưng. Ngần quay lại và nhận ra người đàn ông cùng viện với Thư.
    - Bác nhìn thấy thật à? - Ngần hỏi. - Sao bác biết?
    - Con chim bay ở giữa đàn. - Người đàn ông nhìn về phía bãi vải, nói. Nó có đôi cánh dài, rộng gấp đôi những con khác. Nó bay nhanh nhưng đập cánh rất ít. Chỉ có con chim Chúa mới có chiếc lông mầu đỏ.

    Câu nói của người đàn ông bỗng làm cho Ngần dâng lên một cảm xúc lạ lùng. Cô mở chiếc khăn ra. Gió xuân ấm áp phả lên mặt cô. Và từ đó cho tới lúc đi ngủ, Ngần náo nức lạ thường. Ngày mai cô sẽ dậy thật sớm để đi tìm chiếc lông chim mầu đỏ.

    Và Ngần đã khóc nấc lên trong buổi sớm mùa xuân. Khi bước ra sân, cô thấy những chiếc lông chim rụng ngay ở sân nhà cô. Sáng sớm hôm nay, bầy chim từ bãi vải đã bay cắt qua làng cô để trở về vùng đất ngập nước. Và giữa những chiếc lông chim mầu trắng là một chiếc lông chim mầu đỏ như lửa. Ngần nhặt chiếc lông chim lên. Cô để chiếc lông chim trong lòng bàn tay. Chiếc lông chim khe khẽ rung lên bởi hơi thở của Ngần. Cô vội mang chiếc lông chim mầu đỏ vào nhà, mở chiếc khăn tay và đặt chiếc lông chim lên đó ngắm nhìn, lòng ngập tràn hạnh phúc. Suốt ngày hôm đó, Ngần cười nói khác thường. Đến khuya, khi tin chắc mọi người đã ngủ say, Ngần rón rén trở dậy. Cô vặn to đèn, run rẩy lấy ra chiếc gương rồi lại ấp chiếc gương vào ngực, người run bắn. Cuối cùng cô đưa chiếc gương lên ngang mặt mãi lâu sau mới lấy hết can đảm và từ từ mở mắt ra. Cô nhìn vào gương. Và thật kỳ lạ, cô thấy mình không hề xấu xí như những ngày xưa, nước da không phải khô và sạm, mà rám nắng, khỏe mạnh, đôi môi không hề có vết rộp mà mọng ướt. Cô từ từ đưa tay lên mái tóc. Mái tóc cô dày và mềm mại.
    Cô soi gương, rồi bỏ gương đi. Rồi cô lại soi, lại bỏ, mỗi lúc lòng tin về nhan sắc của mình càng mạnh mẽ.
    Ngày hôm sau, cô đi chơi khắp làng. Bạn gái cô kéo cô lại và thì thầm: "Yêu rồi phải không?", "Yêu ai mà yêu", - cô cãi. Bạn gái cô nói: "Đừng có giấu tao, mày đẹp ra như thế này thì chỉ do hơi đàn ông chứ còn gì". Cô đỏ mặt sung sướng. Cô không muốn nói về chiếc lông chim mầu đỏ. Cô không tin chuyện thần tiên. Nhưng cô không lý giải được vì sao lại thế. Chỉ có điều không ai cho là cô xấu. Chỉ có cô nghĩ mình xấu xí và tự ti về nhan sắc của mình.

    Điều ấy chỉ mình Thư biết. Và anh yêu cô lạ lùng. Anh phải kéo cô ra khỏi sự mặc cảm ghê gớm đó. Chỉ làm như thế, anh mới có được cô. Và anh đã bỏ mọi công sức lang thang đến nhiều vùng để tìm được một chiếc lông chim mầu đỏ. Anh đã nhờ một đồng nghiệp về làng Ngần trong mùa chim di cư trở về và bí mật thả chiếc lông chim mầu đỏ xuống trước cửa nhà cô.

    Mấy ngay sau, người đàn ông cũng ra đi. Ngần viết lá thư đầu tiên cho Thư và nhờ người đàn ông ấy chuyển giúp. Lá thư chỉ vẻn vẹn mấy dòng: "Em yêu anh. Ngày nào em cũng mong anh trở về. Hãy về với em! Ngần".
    [/FONT]
     
    No MercY thích bài này.
  10. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mùa "len" trâu [/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Sơn Nam [/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nước tràn bờ sông Hậu chảy qua. Nước trên trời tuôn xuống. Gió biển triền miên thổi lộng về. Từ Sáng đến chiều, mặt trời biến dạng sau lớp mưa: ánh nắng pha loãng đều đều không làm chóa mắt kẻ ưu tư đang ngồi hút thuốc mà ngắm mấy lượn sóng chạy dài tiếp lưng trời. Núi Ba Thê bên này, núi Cấm trước mặt, hòn Sóc, hòn Ðất bên kia bình thường xem hùng vĩ, thơ mộng thì nay trở thành lè tè, bé bỏng trong cảnh bao la trời nước.
    Chú Tư Ðinh lại vấn điếu thuốc thứ nhì, mỉm cười khi thấy từ chân trời một cơn mưa to hơn sắp kéo đến.
    - Ừ! Mưa hoài đi. Ông trời năm nay biết điệu, thuận mùa, thuận tiết...
    Thiếm Tư như phản đối ý chồng:
    - Mưa vài đám nữa thì có môn leo lên nóc nhà mà ở. Ba cái lu, ba cái hũ trôi lểnh nghểnh trong nhà rồi, ba nó chưa hay sao? Gạo hết, tiền hết.
    - Mình đừng trách trời. Hồi nào tới giờ, trời cứ vậy hoài, hết mùa hạn thì phải tới mùa nước lụt chớ.
    Chú Tư muốn giải nghĩa sự lạc quan của mình dài dòng hơn để thiếm Tư nghe. “Ðàn bà giỏi tài chú ý lặt vặt chuyện bếp núc. Nhìn ra đồng thì họ chỉ thấy những chuyện trên mặt nước, hơi đâu mà cãi”. Nghĩ vậy, chú im lặng, vấn thêm điếu thuốc nữa. Giờ này, dưới đáy nước, sát mặt ruộng, mớ đất cày mềm nhũn, trở mình trắng phau. Gió thổi mạnh, trôi nhà trôi cửa nhưng lúa một tấc; thân lúa đuối sức cố nằm dài trên mặt nước vừa hấp hối ngột thở là nhánh non nứt ra trong nháy mắt để chào đón cuộc sống.
    Sau hè nhà, nước dậy đùng đùng, sóng gợn từng lượn lớn, vỗ lát chát vào vách. Chú Tư bước nhè nhẹ trên sàn tay vịn mái nhà, tay che mắt rồi cau mày; thằng Nhi đứa con trai của chú đang cưỡi trâu về.
    Ðôi trâu bước lên nền chuồng trâu lúc trước, tuy đã đắp cao thêm gần một thước vậy mà nước leo lên lé đé.
    Chú Tư chờ thằng Nhi vào nhà. Nó cổi cái áo ướt mem quăng trên sân:
    - Xung quanh đây hết cỏ rồi. Làm sao bây giờ hả ba? Trâu đói nữa, con mắt nó đổ ghèn hoài.
    Chú nói:
    - Bên giồng cát Sóc Xoài... Mày có qua tới đó không?
    - Có. Mà hết cỏ rồi. Mấy lõm cỏ sau chùa không đủ cho trâu bò ở đó ăn, đâu có dư tới mình. Trâu mình ốm nhiều. Từ Ðây tới nước giựt còn trên ba tháng nữa, làm sao chịu nổi?
    - Hồi đầu mùa, tao biểu giao trâu mình họ len đi miệt khác kiếm cỏ. Má mày ngăn cản. Bây giờ tới nước này rồi...
    Thiếm Tư trầm ngâm suy nghĩ, nhìn đôi trâu đã mòn sức, be sườn lòi rõ rệt từng hàng như vòng cung. Ðể ở nhà, trâu chết đói; giao cho thiên hạ len đi thì làm sao bảo đảm được? Trâu của trăm chủ khác nhau gom lại chung một bầy, tha hồ lấn hiếp, chém lộn bầy trâu gần bốn trăm con mà chỉ có năm sáu người chăn giữ.
    Ðường dài thăm thẳm, lội nước băng rừng, rủi khi bịnh hoạn thì trâu đành bỏ mạng nơi xứ lạ quê người. Thật là tấn thối lưỡng nan! Ðôi trâu nhà đứng khúm núm đó, trên nền chuồng, như hai pho tượng bằng đồng đen dựng lên mặt nước. Thiếm nói:
    - Ba nó tính sao thì tính. Tôi rối trí quá rồi.
    Chú Tư chép miệng:
    - Không nên cãi mạng trời. Muốn cãi cũng không được. Không lẽ họ giết trâu mình? Trăm con, chết chừng đôi ba con là nhiều. Muốn vững bụng hơn, mình cho thằng Nhi theo coi chừng.
    Thằng Nhi há miệng ngạc nhiên không dè mùa nước năm nay nó lại được đi du lịch bất ngờ như vầy. Chú Tư hỏi:
    - Muốn đi không mậy? Chặng đầu, họ mới len trâu tới chân núi Ba Thê, mình đuổi theo nhập bầy còn kịp, đây qua đó chừng nửa ngày đường. Lấy cái nóp mới của tao mà đem theo. Dọc đường muỗi mòng, mưa gió nhớ đi theo sát hai con trâu của mình, đừng ham chơi lêu lổng. Nói với tằn khao (đầu nậu, cai thầu) rằng mình chịu đóng cho y mười giạ lúa tiền công len trâu, mùa này.
    o0o
    Mưa cứ mưa trút xuống. Gió cứ dậy sóng lên. Từ lúc thằng Nhi dẫn trâu đi, nhà cửa lần lần trở nên vắng lạnh. Thiếm Tư cằn nhằn:
    - Giao sanh mạnh hai con trâu cho họ, ba nó chưa vừa bụng sao? Lại còn bày đặt cho thằng Nhi đi theo! Rủi bề gì...
    Chú Tư nói:
    - Má nó khéo lo thì thôi! Trâu hễ tới số thì dẫu cầm ở nhà nó cũng không sống. Tôi buồn lắm. Trâu giúp mình tạo ra hột lúa; bù lại, mình không kiếm đủ cỏ cho nó ăn no. Như vậy là mình bất nhân . Còn thằng Nhi... dịp này để nó học nghề với người ta.
    Thiếm Tư hơi giận:
    - Nghề gì? Nghề chăn trâu mà cũng học nữa à? Tôi không ham cái nghề đó.
    - Má nó nói giỡn sao chớ! Chăn trâu còn khó hơn diều binh khiển tướng. Ðời xưa, nhiều người nhờ lúc nhỏ chăn trâu mà tới lớn được làm vua. Con nít chăn trâu ca hát nghe bậy bạ nhưng nhiều khi linh nghiệm như sấm truyền, đoán trúng những chuyện quốc sự. Tôi nhớ coi... Trong truyện Phong Thần gì đó nhắc cái tích ông Nịnh Thích ngồi trên lưng trâu, gõ sừng mà hát công kích vua đời... Liệt Quốc Ðông Châu! Vua giựt mình, mời ông Nịnh Thích về làm quân sư. Nghe đâu lúc về hưu trí, ông Nịnh Thích lại cữi trâu mà du sơn ngoạn thủy. Như, tiều, canh, mục là bốn điều quan trọng mà.
    Thiếm Tư vẫn chưa nguôi cơn buồn:
    - Ba nó nói chuyện đời xưa. Chăn trâu theo kiểu ở xứ mình có khác, tối ngày đeo đuôi trâu mà lặn hụp dưới nước, ăn không no, ngủ không yên...
    - Nhưng mà học khôn nhiều chuyện. Mà nó hồi nào tới giờ chưa từng tới núi Ba Thê, vậy mà bây giờ thằng Nhi nó rành đó! Cảnh núi non thanh lịch, tâu ăn cỏ ngẩng đầu coi mây bay lui tới; ngứa lưng thì trâu cọ mình vô cột của đền vua chùa mà gãi sốn sột. Má nó biết không? Ở núi Ba Thê, trâu len ăn cỏ trên đền vua đời xưa... Vua chùa mất hết, trâu đời đời kiếp kiếp còn đứng dửng dưng trên mặt đất này hoài!
    Thiếm Tư bực bội:
    - Ðói, không đủ cỏ ăn mà cũng sang trọng. Thôi ông ơi! Ðừng nói nữa.
    - Hết cỏ thì qua chỗ khác, má nó đừng lo. Từ Ba Thê cả bầy trâu len qua miệt Bảy Núi. Oai vệ lắm kìa! Voi đi một lần đôi ba chục con là cùng, cọp đi hai ba con là nhiều; cảnh đó ở miệt rừng ai cũng thấy. Ðằng này, trâu lội nước năm ba trăm con, đen đầu, đặc nước. Kiếm bạc trăm là dễ chớ muốn thấy được cảnh đó không phải dễ, giống như hồi thiên hạ sơ khai, càn khôn hỗn độn... Mấy ông thầy chùa, bà vãi ẩn mình trong cốc trên núi, chán cảnh trần tục vậy mà họ còn bước ra ngóng mắt theo bầy trâu len dữ dội...
    Càng nhắc tới, chú Tư càng thích chí, thiếm Tư trái lại ngồi buốn xo, không tin nơi lời chồng , cho rằng đó là kiểu an ủi gượng của kẻ túng cùng. Chú Tư lại vấn thuốc, hỏi vợ:
    - Má nó ngủ hay thức? Nãy giờ có nghe không? Sao không ừ hử gì ráo, hay là ngủ rối...
    - Tôi nằm nghe đây mà. Nghe bằng lỗ tai chớ nghe bằng miệng sao mà phải ừ hử từng chập?
    Chú Tư lại nói tiếp:
    - Ở Bảy Núi thanh khiết hơn ở Ba Thê. Trâu ăn toàn cỏ lạ hoa thơm; lắm thứ cỏ phảng phất mùi gì giống như vị thuốc Bắc. Ban đêm, muỗi mòng cũng ít, tiếng chuông chùa, tiếng tụng kinh gõ mõ thì nhiều... Mặc dầu ăn cỏ ở dưới chân núi, trâu cũng được phong làm chúa sơn lâm. Cọp beo trên núi quì xuống mà đầu hàng chớ không dám xáp lại.
    Bên kia sàn nhà, thiếm Tư bắt đầu thở nhẹ rồi ngáy pho pho. Chú Tư mỉm cười, không chút hờn giận. “Vợ mình chán không thèm nghe nữa vì nãy giờ mình nói toàn những chuyện vui tươi, sung sướng, giấu giếm những nỗi cực nhọc trong nghề chăn trâu. Nhưng cần gì? Cốt ý là mình nhắc lại cuộc đời len trâu của mình hồi thuở con nhỏ cho riêng mình nghe mà thôi”. Chú lại vấn thuốc hút. Bên ngoài trời vẫn mưa, sóng nước vẫn chạy ùa tới đập vào vách nhà. Khói thuốc phun mờ mờ, bay thoảng lên cao. Chân trời lại hiện ra, lúa nằm dài xanh rờn, nhấp nhô trên ngọn sóng. Và... Ðằng xa kia là Bảy Núi, nơi mà giờ này thằng Nhi và hai con trâu của chú đang tung hoành, sắp lội nước hằng mươi cây số để vượt ra mé biển đến vùng rừng tràm miệt Linh Quỳnh.
    Rừng tràm xanh đậm, rọi xuống mặt nước đỏ ngầu, rung rinh. Nhứt là về đêm khi trăng chiếu, đom đóm bay về đậu khắp nhánh tràm như họp chợ phiên! Hồi thuở nhỏ, chú đến đó nhiều lần. Cảnh ấy bây giờ thay đổi vì nhà nước đã đào thêm con kinh Xáng Rạch Giá – Hà Tiên và đắp xong con lộ đá. Trâu vượt qua lộ xe hoặc ngủ tạm trên lộ cho tới sáng. Lội dưới nước lâu ngày, móng trâu trở nên mềm, đứng trên đá, trâu đau chân. Chú Tư bỗng hình dung trước mặt một cảnh tượng oai hùng, khi mặt trời vừa lố dạng, đàn trâu phải rút vào rừng tìm nơi ăn nằm. Nhà nước đắp lộ xe nào phải để cho trâu đứng, phá hoại... Trâu chạy ầm ầm. Không mấy chút, tràm gãy rôm rốp ngã liệt xuống, lõm rừng trở thành một cái đầm rộng lớn. Người len trâu tạm nghỉ ngơi vài ngày. Mấy “tay riều” đốn củi gần đó tụ họp lại làm quen, đánh bài cào, uống rượu, đốt lửa lên bàn chuyện tiếu lâm. Lắm khi họ sắp đặt công việc đi ăn cướp, ăn cướp kẻ khác và ăn cướp lẫn nhau. Mấy tay len trâu giựt tiền của tay riều; mấy tay riều xúm nhau giựt trâu của mấy tay len. Rừng lại đẫm máu... Trong cuộc xô xát dao búa đó, sanh mạng của con người như con kiến, hà huống chi đứa trẻ bé bỏng như thằng Nhi, con trai chú!
    Chú Tư giựt mình, e ngại.
    Trong giấc mơ, có lẽ thiếm Tư không tưởng tượng được tới cảnh chém giết rùng rợn đó. Thiếm nói lảm nhảm rồi lại trở mình, ngáy khò khò.
    o0o
    Tháng mười, nước giựt xuống. Ðến cuối tháng, mặt ruộng lộ ra, cỏ non nhú mọc xanh tươi đến tận chân trời. Mưa dứt sớm. Núi non lại trở nên hùng vĩ. Suốt mùa, lúa nương theo nước mà vươn lên đến bốn năm thước; bây giờ lúa nằm rạp xuống đất, chồng chất cao ngùn ngụt. Cái sàn nhà của chú Tư cũng hạ xuống. Cuộc sống trở lại bình thường.
    Ðêm ấy, quá canh ba, có tiếng kêu vang dội:
    - Ba ơi ba! Má ơi má! Trâu mình nè...
    Chú Tư, thiếm Tư mừng quýnh, tốc mùng chạy ra: Thằng Nhi về đó, coi dị hợm hơn mọi ngày, máng trên vai một đống gì cao nghệu. Chú Tư xanh mặt. Nó thảy đống ấy xuống đất:
    - D.m. chết hết một con. Ðem cặp sừng bộ da của nó về nè! Nặng gần chết. Ð.m. không lẽ bỏ luôn.
    Thiếm Tư mếu máo, mừng vì gặp được con, buồn vì mất hết phân nửa gia sản:
    - Mô Phật. Mạnh giỏi hả con? Trời ơi! Con đi theo coi chừng mà làm sao nó chết? Dọc đường con có đau ốm gì không... Con, Con...
    Chú Tư im lặng, buồn buồn. Mừng con, tiếc của là một lẽ. Nhưng còn lẽ khác đáng lo ngại hơn... Hồi nào tới giờ, thằng Nhi ăn nói đàng hoàng mà chuyến về này, trong câu nói hồi nãy, nó pha vô hai lần chửi thề mà nó không hay.
    Thiếm Tư nhìn cặp sừng và bộ da trâu mà rơi nước mắt:
    - Thôi! Lần này lần chót. Năm tới bán con trâu còn lại, không làm ruộng nữa. Ðất nước gì kỳ cục quá, cái xứ này...
    Chú Tư nghiêm mặt:
    - Nói bậy nữa đi. Ðất của mình, nước của mình mà bà dám nguyền rủa hả? Hồi nào cúng vái, bà nói bà phục ông bà đất nước lắm mà...
    Thiếm Tư đi ra sân lo đốt lửa để un trâu. Chú Tư cũng đến vuốt ve con trâu còn lại rồi trở vô thấy thằng Nhi đang chụp gói thuốc rê trên bàn; nó mở ra, xé giấy vấn hút phì phà một cách tự nhiên, ngon lành.
    - Ghiền rồi hả mậy? Chú hỏi.
    - Hai ba bữa rày, hút có mấy điếu. Ở rừng, họ hút kịch liệt lắm kìa... ba.
    Chú Tư đem chai rượu đế ra, rót vào chén. Chú thấy thằnh Nhi hít mũi lia lịa.
    - Nhậu thì nhậu một chút cho ấm đi! Cỡ này mày sanh nhiều tật lạ.
    Rồi chú day ra sân mỉm cười:
    - Bà nó ơi! Coi thằng con của bà nè! Nó giống hệt tôi hồi nhỏ quá chừng.
    Thiếm Tư chạy vào, không hiểu rõ đầu đuôi. Thiếm lau nước mắt rồi nấu cơm cho thằng Nhi ăn, dọn mùng cho nó ngủ... Chú Tư thức mãi tới khuya, thỉnh thoảng hé mùng dòm thằng Nhi. Mùng rộng rãi nhưng nó vẫn co rút như hồi nằm trong nóp chật hẹp. Tay và bụng của nó xăm đầy những chữ nho, chữ quốc ngữ. Không cần đọc kỹ, chú đoán đó là “ngũ hồ tứ hải giai huynh đệ” hoặc “ái tình vạn tuế” mà một tay hảo hớn nào đã xăm cho nó.
    - Mình không lỗ lã gì đâu! Chú Tư lẩm bẩm một mình.
    Chuyến đi len trâu này, đứa con của chú mhiễm nhiều tật xấu nhưng nó khôn lớn hơn, nghe thấy được nhiều việc mà ở nhà chú không nghe thấy. Chú ra sân. Dưới ánh trăng suông, con trâu Pháo bước tung tăng, nhịp móng xuống lớp phù sa mát rượi, đứng trên mặt đất hôm nay mà sao thấy hơi khác lạ hơn mặt đất hôm nao, cũng ở chốn này. Nó hinh hỉnh lỗ mũi như cố phân biệt mùi thơm của cỏ núi hoa rừng với mùi thơm của mùi lúa sạ đang độ chín.
    [/FONT]
     
    No MercY thích bài này.
  11. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mùa thu trong em[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đào Huy Kiên[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hoài Anh khẽ mở mắt. Cô nhận ra mình vừa bước ra khỏi giấc ngủ êm dịu. Việc đầu tiên cô làm trong ngày là ghé mắt ra ngoài cửa sổ. Trời vẫn mưa rả rích. Mưa suốt cả ngày hôm qua mà đến giờ vẫn chưa dứt. Hoài Anh cảm thấy lo lắng. Hôm nay là ngày cuối cùng cô được đi chơi với anh. Thế mà trời lại mưa thế này. Cô cầu mong ông trời cho cơn mưa chấm dứt trước giờ hẹn…
    “Nếu Ông cho mưa dứt trước khi anh ấy đến thì con hứa tháng này con sẽ không mua cái váy nào nữa”
    Sau khi ước xong, cô nhìn đồng hồ thấy vẫn còn sớm. Vẫn còn vương vấn giấc ngủ ngon, không khí thì mát mẻ, cô lại khép mi ngủ tiếp.
    Khi tỉnh dậy cô lại nhìn đồng hồ. Cô sửng sốt khi thấy đồng hồ đã điểm mười hai giờ trưa. Hoài Anh nhìn ra ngoài trời thì trời mưa tầm tã. Cô giở điện thoại ra thì thấy năm cuộc gọi nhỡ và một tin nhắn của anh.
    “Ạnh gọi em mãi không được nên đành quay về. Hôm nay anh định gặp em để nói lời chia tay. Vĩnh biệt em!”
    “Không, không thể như thế được, tại sao mọi thứ lại như thế này!”
    Thế giới như sụp đổ trước mắt cô. Cô đã đánh mất anh, người mà cô yêu hơn chính bản thân mình. Không những thế cô còn ngủ quên để rồi không được gặp anh lần cuối. Trái tim cô lấp đầy bởi nỗi đau đớn. Cô bật khóc nức nở. Nhưng không có giọt nước mắt nào…
    Hoài Anh từ từ mở mắt. Đồng hồ mới chỉ tám giờ. Ngoài trời, mưa đã dứt hẳn nhường chỗ cho một mảng trời tươi sáng. Hóa ra cô vừa trải qua một cơn ác mộng. Tất cả đã biến mất, chỉ có nỗi đau là vẫn còn đây, trong trái tim cô. Cô lo sợ khi nghĩ rằng đó không chỉ là một giấc mơ mà là một điềm báo. Cô bèn nhấc điện thoại lên gọi cho anh:
    - Anh à, anh dậy chưa đấy?
    - Anh vừa mới dậy.
    - Qua đón em luôn đi.
    - Vẫn còn sớm mà. Sao? Anh chưa đi mà đã nhớ rồi à?
    - Ai thèm nhớ anh? Trời đang khô ráo thì mình đi luôn kẻo tí nữa lại mưa.
    - Ok, được rồi, anh qua luôn.
    Nghe được giọng nói của anh, Hoài Anh đã yên tâm hơn. Cô bắt đầu chuẩn bị cho buổi hẹn của mình: từ chải đầu, kẻ mắt, đánh phấn, tô son cho đến chọn váy. Dù không phải người cầu kì nhưng cô cũng muốn hôm nay mình phải đẹp hơn mọi ngày. Băn khoăn mãi mới chọn được váy, cô khiến anh phải chờ mất mười lăm phút. Khi ra đến nơi thì anh tỏ vẻ giận dỗi:
    - Bảo đến ngay xong rồi bắt người ta chờ cả tiếng đồng hồ thế à?
    - Anh điêu thế. Mới có mười lăm phút thôi mà. Thôi, em xin lỗi. Đừng giận em mà.
    - Thôi được, trông em hôm nay cũng khá xinh nên anh tha cho.
    - Anh đúng là đồ háo sắc.
    - Ơ hay, khen mà cũng bị mắng. Thế người đẹp hôm nay thích ăn gì nào?
    - Em không biết, tùy anh chọn.
    - Ăn bún riêu nhá?
    - Vâng.
    Thế là hai đứa đi ăn bún riêu. Đối với cô thì đi đâu cũng được, chẳng quan trọng, miễn là được ở bên anh, được nhìn thấy khuôn mặt anh, được nghe giọng nói ấm áp của anh, được nép vào bờ vai anh. Cô yêu anh cũng như yêu mùa thu Hà Nội. Những con đường quen thuộc bỗng trở nên dịu dàng hơn, những hàng cây rung rinh theo từng cơn gió, hương thơm ngọt lành của mùa thu chẳng thể cảm nhận được ở mùa nào khác trong năm. Vẳng trong tâm trí cô là những câu thơ của Nguyễn Đình Thi:
    “Sáng mát trong như sáng năm xưa
    Gió thổi mùa thu hương cốm mới
    Tôi nhớ những ngày thu đã xa
    Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
    Những phố dài xao xác heo may”
    Những cơn gió mát thổi vào tâm hồn cô nhẹ nhàng và tinh khôi. Vị ngọt của mùa thu và vị ngọt của tình yêu hòa quyện lại khiến cô cảm thấy thật hạnh phúc. Ước gì cô có thể cùng anh tận hưởng trọn vẹn một mùa thu Hà Nội. Mới yêu nhau có hai tháng mà ngày mai anh đã phải đi du học nơi phương trời xa xôi. Lúc ngồi ăn bún riêu, nghe anh bảo sang bên kia biết bao giờ mới lại được ngồi vỉa hè ăn bát bún riêu ngon lành thế này mà cô thấy chạnh lòng thương anh.
    Sau đó hai người lên Vincom chơi, ở Hà Nội cũng chẳng còn chỗ nào khác để chơi. Giới trẻ thường tụ tập ở đây, đặc biệt là trên tầng sáu, nơi có rạp chiếu phim Megastar. Nhiều bạn trẻ không đi xem phim cũng hàng ngày lượn qua lượn lại trên này để khoe những bộ đồ hợp mốt của mình. Một số khác thì lên đây để nhìn ngắm thiên hạ và bình phẩm về họ. Mặc dù không phải là người thích sự ồn ào, náo nhiệt nhưng Hoài Anh cũng luôn cảm thấy vui vui khi lên đây. Cô cảm nhận thấy nhịp đập của tuổi trẻ trong trái tim mình. Vả lại, đã có anh ở bên cô, chở che cho cô. Dù ở giữa biển người thì cô cũng vẫn cảm thấy như chỉ có hai người mà thôi. Anh mua vé xem phim cho hai người. Trong lúc đợi đến giờ chiếu, họ ngồi ngắm những nam thanh nữ tú ở đây.
    - Này, sao anh cứ dán mắt vào chị kia thế.
    - Vì trông cô ấy đẹp quá.
    - Đẹp hơn em chứ gì?
    - Em làm sao thế. Tự nhiên lại ghen vớ ghen vẩn. Anh ngắm cho vui thôi. Anh làm sao yêu ai khác ngoài em được.
    - Thật không?
    Anh véo má cô.
    - Thề luôn!
    Cô mỉm cười nhìn vào mắt anh, tin tưởng vào tình yêu anh dành cho cô. Rồi bỗng cô nhìn thấy một cặp vợ chồng trung niên người Tây nắm tay nhau đi xem phim. Cô cảm thấy ấm lòng, hình ảnh đó đem lại cho cô niềm tin vào sự tồn tại của tình yêu vĩnh cửu, sinh vật vốn bị coi là đã tuyệt chủng trong thời đại ngày nay. Cô ước sao mình và anh cũng được như đôi vợ chồng kia, vẫn giữ được tình yêu cho đến khi bạc mái đầu.
    Đến giờ chiếu phim, hai người bước vào rạp ngồi. Anh vòng tay ôm lấy cô, cô tựa đầu vào bờ vai rắn rỏi của anh. Anh vuốt ve mái tóc của cô. Hoài Anh thì thầm:
    - Anh còn nhớ lần đầu mình đi xem phim không?
    - Nhớ chứ. Hôm đấy em ngủ từ đầu đến cuối phim. Anh mới nghĩ là cái con bé này nó ngủ giỏi thế không biết.
    - Anh lại điêu rồi. Em xem được nửa phim rồi mới ngủ nhé. Mà tại hôm đó em mệt. Hihi, thế là em cũng tựa đầu vào vai anh như thế này.
    - …
    - Anh à, anh đừng đi nữa có được không?
    - …
    - Anh ở lại với em được không?
    - …
    Anh lặng yên, xúc động vì những lời nói của cô. Trong một giây lát, anh đã muốn thốt lên “Anh sẽ ở lại với em” nhưng rồi lại thôi. Anh không thể trẻ con như thế. Anh không thể từ bỏ tất cả ước mơ, hoài bão của mình chỉ vì một phút nông nổi nhất thời.
    - Anh đi rồi sẽ về với em mà, có đi mất luôn đâu mà lo.
    - Nhưng con bạn em cứ bảo là nhiều đôi xa nhau rồi tan vỡ lắm, xa mặt cách lòng mà.
    - Kệ người ta nói gì thì nói. Chỉ cần em giữ vững niềm tin là được. Anh cũng thế.
    - Vâng.
    Phim bắt đầu chiếu, hai người lặng yên theo dõi. Bộ phim có tên Step up 3 nói về những con người đam mê với những điệu nhảy sôi động. Nhưng sau khi xem xong phim, Hoài Anh chẳng còn nhớ gì về bộ phim, tất cả trôi tuột khỏi trí nhớ của cô, tất cả những gì đọng lại chỉ là những lời nói, những ánh mắt và những nụ hôn của hai người.
    Xem phim xong, anh đưa cô lên hồ Tây chơi. Lên hồ, gió càng mát hơn. Mặt hồ trải ra mênh mông gợn sóng. Bầu trời nhuốm một màu thu buồn, như màu của sự chia li. Cảnh buồn nhưng đẹp đến say lòng người. Hoài Anh khẽ hát mấy câu trong bài “Nhớ mùa thu Hà Nội” của Trịnh Công Sơn:
    “Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi.
    Màu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời”
    - Anh sẽ nhớ mùa thu Hà Nội lắm.
    - Năm nay lại còn Đại lễ một nghìn năm Thăng Long nữa chứ.
    - Ừ, cũng sắp đến trung thu nữa.
    - Trung thu thì năm nào chẳng có?
    - Nhưng nếu anh ở lại thì anh sẽ có trung thu đầu tiên với em, phải khác chứ.
    - Thế thì anh ở lại đi.
    Hoài Anh cười. Anh đưa tay vuốt tóc cô, say đắm nhìn vào mắt cô, rồi nhẹ nhàng đặt lên môi cô nụ hôn đam mê. Nụ hôn ấy như lời thề chung thủy của anh dành cho cô. Chứng kiến nụ hôn ấy là bầu trời cao, là mặt hồ rộng, là cơn gió mát, là mùa thu Hà Nội. Tất cả như lặng đi say sưa ngắm nhìn tình yêu của đôi trai gái. Sau đó, hai người còn tâm sự mãi. Chỉ còn hôm nay để hai người tận hưởng những giây phút bên nhau. Ngày mai sẽ chỉ còn hương vị của sự chia li.
    Bỗng chốc, trời lại đổ mưa, cơn mưa thu lây rây tươi mát.
    - Mưa rồi, về thôi anh.
    - Ở lại một tí tắm mưa đi.
    - Không được, mai anh đi rồi, nhỡ bị ốm thì sao.
    - Thì càng tốt, anh sẽ ở lại luôn với em.
    Anh cười sảng khoái, cô cũng cười theo.
    “Anh là mùa thu, mùa thu trong em”, cô thầm nghĩ.
    Hai người nắm tay nhau khiêu vũ trong mưa, giống như trong phim Step up mà họ vừa xem. Họ bỗng thấy mình giống như những kẻ ngốc nghếch khờ dại. Họ đang yêu…
    Đêm hôm sau
    Ở sân bay Nội Bài, gia đình và người thân tiễn anh lên đường. Giây phút chia li nặng nề và im lặng. Trước khi đi, anh ôm cô lần cuối:
    - Anh đi nhé!
    Rồi anh bước qua cánh cửa phòng chờ, vẫn cố ngoái lại nhìn mọi người. Ánh mắt của anh dừng lại khi bắt gặp ánh mắt của cô. Trong khoảnh khắc, sự tiếc nuối ngập tràn trong đôi mắt anh. Anh quay đầu lại và bước tiếp. Cô nhìn theo cho đến khi bóng anh khuất hẳn.
    “Người đi, ừ nhỉ người đi thực
    Mẹ, thà coi như chiếc lá bay
    Chị, thà coi như là hạt bụi
    Em, thà coi như hơi rượu say…”
    Lúc này cô mới cảm thấy nỗi mất mát của mình to lớn nhường nào. Cô nghĩ đến ngày mai, ngày kia, ngày kìa… những lúc cô buồn sẽ chẳng có bờ vai nào để cô dựa vào, sẽ chẳng có cánh tay nào ôm cô, sẽ là một mùa đông rất lạnh, sẽ là một năm rất dài. Dù vẫn có thể nhìn thấy anh, nói chuyện với anh qua skype, nhưng dẫu sao vẫn cứ là xa cách. Họng cô nghẹn lại. Mắt cô nhòa đi. Cô không ngăn được dòng lệ tuôn trào. Cô ôm mặt khóc nức nở. Suốt quãng đường về, cô cứ khóc mãi như thế thôi…
    Một chiều nọ, Hoài Anh một mình dạo bước ở hồ Gươm. Những cơn gió vẫn man mác lùa qua kẽ lá, hương mùa thu vẫn ngọt lành như ngày hôm nao, nhưng dường như vẫn còn thiếu một điều gì đó để tạo thành mùa thu Hà Nội. Cô biết đó là điều gì…
    “Anh ra đi, mang theo mùa thu đi, anh là mùa thu trong em”
    [/FONT]
     
    No MercY, 5dola, julie and 1 other person like this.
  12. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mưa vào ngày cưới [/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Việt Hà[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ngày cưới tôi, mưa không nhiều, nhỏ và mịn. Đấy là điều may, sách số nói thế và Giáo sư Trần, bạn bố tôi cũng nói thế. Tôi lấy chồng không ngỡ ngàng, không yêu cũng không ghét. Chồng tôi hiền lành nói được chút ít tiếng Việt. Mọi người thường cười những câu bập bẹ của chồng tôi, nhưng là cười yêu. Hôm chồng tôi nói với Giáo sư Trần muốn được là "tử sĩ" để luyện thêm tiếng Việt, Giáo sư cười rung mớ tóc bạc: "Anh Isekura này, người Việt khi gọi những kẻ có học luyện thi là sĩ tử. Còn như anh nói, anh sẽ thành Ise thây ma". Suốt một năm trước ngày cưới, chồng tôi là sếp nhất của tôi. Chờ một ngày văn phòng nhiều người nghỉ phép, vị đại diện trưởng quỳ xuống vừa tỏ tình vừa cầu hôn khi tôi đang ngồi soạn thảo văn bản trước màn hình computer: "Anh đã muốn yêu em. Sẽ cưới anh nhiều nhé". Tôi không phải là tiểu thư Natasa nên không thấy hồi hộp trước phiên bản có lối tư thế của công tước Andre. Để cho giống tiểu thuyết, tôi ngước nhìn trần hai phút, nhè nhẹ gật đầu. Khi biết tin, bố mẹ tôi tăng huyết áp. Hạnh phúc là doping.

    Tôi bước ra khỏi khách sạn trên tấm thảm nhung xanh chạy suốt bậc tam cấp đến cánh cửa chiếc Toyota trắng sữa viền hoa hồng đỏ. Mưa dịu đẫm một bên voan. Những người thân của tôi ngây ngất mùi Henesy và Champagne đứng một hàng dài trong mái hiên rộng. Lúc này ông cậu tôi Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Công thương, đến gần hỏi nhỏ về tiền lương của chồng tôi. Hạnh phúc đơn giản là giàu sang. Chồng tôi gập người chào quan khách, vòng bụng làm tư thế đôi phần khiếm nhã. Tôi bâng quơ nhìn qua đường và chợt rùng mình, không phải vì lạnh, tôi đã thấy anh rồi. Có ai đấy mở hộ cửa xe hoa, tôi vội vã chui vào, kệ cậu thợ ảnh đang gào lên đòi chụp một kiểu ảnh đã dặn trước "ngập ngừng lần cuối". Chồng tôi âu yếm ngồi cạnh tôi, vẻ mặt vẫn chưa hết thích thú trước tập tục của một truyền thống văn hóa lạ. Tôi đăm đăm nhìn qua cửa kính mờ đục anh vẫn đứng rũ rượi bên gốc sấu già với mái tóc lõa xõa bết nước mưa. Tôi và anh yêu nhau đã dài, có thể nói dài nhất trong các cuộc tình của tôi. "Về đi anh". Lần cuối tôi cũng nói vậy.
    - Em không yêu anh nữa sao?
    - Không hẳn thế.
    Anh bỏ cái bút vẽ, run run châm điếu thuốc. Anh cũng run run, khi nói chuyện với bố mẹ tôi. Nghề nghiệp của anh, bố mẹ tôi nặng đầy ác cảm.
    - Con yêu cái thằng ấy thật à?
    - Mẹ tôi vừa kẻ mắt vừa hỏi. Tôi không trả lời, hơi thấy khó chịu. Ở tuổi ngoài bốn mươi, người ta không nên đánh son phấn quá dày. Mẹ tôi đang theo học một "cua" nhảy đầm, bố tôi bật đèn xanh. Vị trí công tác của bố tôi hay phải dự những bữa tiệc chiêu đãi, các quý phu nhân đành tuân thủ nguyên tắc "phi khiêu vũ bất thành lady". Bố tôi sùng đồ ngoại nhưng lại dạy tôi thâm thuý bằng câu ca dao nội: "Lấy chồng cho đáng tấm chồng. Bõ công trang điểm má hồng răng đen". Lấy chồng là một đề tài triền miên quấy rầy phụ nữ. Nó cũng giống như đàn ông bị ám ảnh bởi công danh sự nghiệp. Thế nhưng, muốn đạt được danh lợi, người ta có thể đê tiện, không hiểu lấy chồng có làm thế được không.

    Xe hoa bắt đầu chạy chầm chậm. Giây phút rưng rưng của một đời con gái. Tôi vô cảm. Chồng tôi hôn lên tóc tôi âu yếm, đưa tay xoa nhẹ bụng tôi. Sau lần đi Đà Lạt nửa công tác nửa đi chơi. Tôi có bầu. Tôi thông báo ngắn gọn bằng tiếng Anh cho người cùng đi, vẻ mặt vị trưởng đại diện văn phòng thương mại đẫm đầy hạnh phúc. Tôi không thở dài vì tôi đã biết nhiều. Chồng tôi bốn mươi tư tuổi lẻ ba tháng, sáu năm luôn khao khát baby. Đã hai lần ly dị, một lần được lời chín mươi tám nghìn "đô" và một lần bị lầm thiệt cỡ ngần ấy. Đầu tư rất nghiêm túc vào hôn nhân mà vẫn không sao tạo dựng được thế hệ sau. Chồng tôi đam mê trẻ con một cách bệnh tật. Cả khoảng dài của thiếu thời chồng tôi ở cô nhi viện: Nói theo phân tâm học, đấy có thể là một ẩn ức ngầm. Giáo sư Trần lý giải, những người Á Đông đa phần chịu ảnh hưởng của Nho giáo từ sâu thẳm vô thức. Mạnh Tử dạy "tam đại bất hiếu vô hậu vi đại nghĩa" là không con tội to lắm. Tôi khó chịu nhiều cái cách ăn nói của nhà nho, hóa ra phụ nữ chỉ là máy đẻ. Giáo sư Trần cười, giải thích sự dị biệt của các quan điểm nhận thức xã hội xuyên dọc thời gian. Đàn bà từ Đông sang Tây chưa cần kể đến trinh nữ tiết phụ mà ngay cả dâm phụ lăng loàn đều coi chuyện chồng con là quan trọng. Giáo sư Trần thôi không nghịch tóc tôi, nói nghiêm túc: "Em sẽ là một bà mẹ tốt". Tôi không biết, tôi không thấy mình thay đổi gì nhiều từ lúc có bầu. Có lẽ tôi chưa kịp yêu con tôi vì tôi chưa kịp chuẩn bị làm mẹ.

    Tôi giật mình ra khỏi vẩn vơ. Ngã tư chiều mưa đèn đỏ không người. Tôi nói với bố mẹ không cho ai đi theo đưa dâu, mọi thủ tục làm trọn vẹn ở khách sạn. Qua gương chiếu hậu tôi thấy cái xe "cuốc", với dáng lêu nghêu quen thuộc. Anh vẫn chưa chịu về, chẳng nhẽ anh mệt mỏi đến vậy sao. Anh nói yêu tôi chắc vì tôi đẹp. Còn tôi, tôi có yêu anh không. Có một hồi anh thích vẽ tranh khỏa thân, cô bé người mẫu nhiều nét tròn mê anh lắm. Tôi không ghen. Tôi hồn nhiên cuối cùng vào chừng giữa năm lớp mười trung học. Tôi và mẹ bắt gặp bố tôi ở chung phòng với một người đàn bà lạ. Mẹ tôi chưa kịp lu loa, bố tôi đã vứt ra một xấp ảnh có mẹ tôi đang ôm một người đàn ông khác. Cho đến giờ tôi chẳng còn tin vào bất cứ cái gì. Tình yêu, tình mẫu tử, tình bằng hữu. Những khái niệm sang trọng và chỉ thuần tuý sang trọng. Mọi chuyện cũng chẳng thiêng liêng, cũng chẳng nhảm nhí. Tôi có yêu anh không. Vẻ hoang dã nghệ sĩ của anh an ủi tôi vào đúng thời điểm buồn chán nhất. Anh vẽ nhiều nhưng thiếu một điều căn bản, tài năng. Anh trót học mỹ thuật và phải hành nghề nghệ thuật. Xã hội ngây thơ thường thích gọi sinh viên tốt nghiệp trường Yết Kiêu là họa sĩ. Tranh của anh vặn vẹo, một thứ uốn éo làm dáng. Đấy không phải là nhận xét của tôi mà của nhiều đồng nghiệp trường anh. Nhưng anh không nản, vẫn hăm hở vẽ. Anh tin chắc một điều, xung quanh sự cô đơn của thiên tài bao giờ cũng đầy rẫy sự ghen tị bất tài. Con người kể cũng buồn cười. Đàn bà cố nghĩ mình là đẹp. Trí thức cố chứng tỏ uyên bác. Nghệ sĩ sợ bị coi là bất tài. Tôi bảo anh, anh phải kiếm tiền, có tiền người ta sẽ nghĩ về anh khác. Anh khinh bạc "tiền là cái gì". Tôi hỏi lại Giáo sư Trần, Giáo sư nói đơn giản nhưng tôi nghĩ là đúng. Tiền là phương tiện tốt nhất để đưa đến hạnh phúc.

    Một thời gian dài, đối với tôi, giáo sư Trần là thần tượng. Mái tóc muối tiêu vừa đủ bồng bềnh quanh vầng trán rộng. Kiến thức tuyệt vời và năng khiếu ngoại ngữ tuyệt vời. Giáo sư làm đau lòng các cô gái mới lớn và làm hài lòng các nàng quả phụ có tiền. Giáo sư là bạn của bố tôi và sau đó là người tình của mẹ tôi. Tôi hết "sốc" rồi. "Hỡi ơi, tôi không bao giờ được trẻ. Khi tôi trẻ, tôi đã già một nghìn tuổi hơn tất cả những người già". Không hiểu Nietzche hay Kafka đã nói như vậy. Tôi không còn thiếu nữ năm tôi học dở lớp 12 và lúc tôi tốt nghiệp đại học, tốt nghiệp về nhiều mặt. Các bạn gái cùng lớp của tôi nhiều người phải giấu, phải che. Biết sao được. Không ít những ông bố, bà mẹ về già mới chịu đứng đắn nổi cơn dị ứng khi thấy phong hóa suy đồi. Báo Tiền Phong trong hàng chục số liên tiếp mở diễn đàn cho thanh niên nam nữ tranh cãi về chữ trinh. Tham gia hăng hái nhất là những phụ nữ ế chồng. Tôi yêu đàn ông hơn đàn bà, tất nhiên là những đàn ông thông minh. Tôi vò mái tóc bạc của giáo sư, nũng nịu hỏi:
    - Anh có thấy vấn đề gì về đạo đức không?
    - Em đáng sợ lắm.
    - Anh ngại mọi người biết à?
    - Nếu mọi người biết, anh sẽ nổi tiếng như ông già Goethe.
    Tôi là thư ký của giáo sư. Quan hệ giữa chúng tôi thỏa thuận là bí mật. Những người có học hay ở chỗ luôn có đủ chữ nghĩa để biện minh cho các hành vi của mình. Hồi yêu tôi - cứ cho là như vậy. Giáo sư viết một loạt bài khảo cứu rất sâu sắc về tâm thức người Việt. Tình yêu không những là động lực của thi ca mà còn là động lực của khoa học. Trong ngành dọc của mình, giáo sư Trần nổi tiếng là người có nhiều ý kiến. Đương nhiên có vài trùng lặp, kể cả ý người khác. Tôi thích trí thức hơn nghệ sĩ, đặc biệt là những nhà nghiên cứu khoa học xã hội, họ vay mượn nhưng sáng tạo. Giáo sư Trần nói: "Sự trung thực cực đoan không có chỗ đứng trong khoa học. Em đọc nhiều nhưng đừng nên tin sách".
    - Thế có nghĩa tất cả chỉ là giả dối?
    - Anh không biết.
    Tôi tò mò nhìn giáo sư. Câu trả lời phảng phất của một công án Thiền. Ngộ tính của tôi thấp, tôi chưa đạt đến cảnh giới của sự biết. Hồi ấy, có lẽ tôi yêu sự uyên bác bàng bạc khó hiểu ở giáo sư. Tuy nhiên, tôi tin giáo sư thật thà vì đa phần khi bàn về học thuật cả hai chúng tôi đều nằm trên giường không mặc quần áo gì cả.

    Chồng tôi bắt đầu hút thuốc, loại Dunhill đỏ. Mùi khói nặng làm tôi tỉnh táo. Mưa có vẻ dày hạt hơn. Chúng tôi sẽ về cái vila nhỏ chồng tôi mới thuê ở sát mép hồ Trúc Bạch. Tôi hồi hộp quay lại đằng sau. Một sự mơ hồ rất lạ nào đó kích động. Vẫn thấy anh. Cái xe "cuốc" lảo đảo đi sau với một khoảng cách nhất định. Anh ấy yêu mình, anh ấy thực sự yêu mình. Tại sao tôi lại không tin vào điều ấy. Ở sâu trong tôi rung rinh xanh non như cái thuở đi học be bé vẫn thường tin trong mỗi quả thị đều có cô Tấm. Trước hôm đi Đà Lạt, tôi qua nhà anh. Căn phòng nhỏ trên gác hai bừa bộn những tranh dang dở. "Em sẽ lấy chồng vào cuối thu". Anh lặng người cầm tay tôi. Bản "Hạ trắng" tha thiết với kèn saxophone từ cái cassette đặt chênh vênh trên nóc tủ. Anh nấc khe khẽ rồi òa khóc. Tôi rút gói Dunhill châm bâng quơ một điếu cố không nhả khói. Anh yếu đuối quá.
    - Người ấy chắc là nhiều tiền - Giọng anh khàn khàn.
    - Chồng em là người nước ngoài.
    Anh đột ngột hôn tôi, vòng tay hầm hầm níu kéo. Cũng như nhiều người đàn ông người yêu tôi vẫn có kiểu ham muốn ấy. Tôi gỡ nhẹ tay anh, sự vớt vát làm tôi ghê. Khi yêu, người ta đều mong muốn trinh bạch. Tôi không còn và cái số tôi mãi mãi không được gặp. Nhưng hôm nay, tôi hy vọng là ngày hạnh phúc.

    Đến đầu đường Thanh Niên, xe hoa đi nhanh hơn. Tôi hạ cửa kính xe, mưa bay ngược đầm đậm tạt. Tôi ngoái hẳn người, không còn thấy anh nữa. Tôi rưng rưng buồn. Xe hoa dừng trước ngôi nhà hai tầng xinh xắn quét vôi màu be nhạt. Tôi cởi voan, chồng tôi mở cửa xe. Tôi đã có gia đình, hôn nhân không hẳn là hạnh phúc. Chợt nhiên tôi bảo: "Em phải quay về nhà". Chồng tôi ngạc nhiên. Tôi giải thích, tập tục nghìn đời của người Việt, con gái sau khi đón dâu bắt buộc phải về một mình, chào bố mẹ. Chồng tôi chiều và tin tôi. Tôi đưa chồng tôi bó hoa cưới và nói sẽ đi chừng ba chục phút. Chồng tôi vội vã chạy ra bảo cậu lái xe, cái Toyota trắng sữa chạy chầm chậm quay lại con đường chúng tôi vừa đi. Mặt Hồ Tây sóng sánh màu sáng dù trời vẫn nặng mây. Tôi thấy nhớ anh, tha thiết nhớ. Hạnh phúc là tình yêu. Xe đi dọc Thụy Khê đỗ trước cửa nhà anh. Tôi rút tờ năm mươi "đô" đưa cậu lái xe dặn ngồi chờ. Cái cầu thang lên căn phòng gác hai quen thuộc ẩm ướt rêu. Tôi không gõ cửa, luồn tay qua lỗ nhỏ hất then như bao lần tôi đã từng mở. Người yêu của tôi không ở một mình. Tôi cắn môi. Trong quả thị vẫn chỉ là hột thị. Chàng họa sĩ của tôi đang gục đầu vào lòng cô người mẫu có nhiều nét tròn. Anh ngẩng khuôn mặt bết nước mưa hay nước mắt ngơ ngác nhìn tôi. Tôi bước xuống cầu thang từng bước một. Trời vẫn sũng đầy hạt nước. Hình như ngày cưới của ai cũng có mưa.
    [/FONT]
     
    No MercY, 5dola, julie and 1 other person like this.
  13. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mưa Xuân[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lương Minh Giang[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay
    Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy
    Hội chèo làng Ðặng đi ngang ngõ
    Mẹ bảo: thôn Ðoài hát tối nay....
    (Nguyễn Bính)


    Ðó là cả một câu chuyện ngày xuân và bắt đầu bằng: Cổ Tích. Mưa xuân phơi phới rải mình trong khắp không gian. lên những nụ xoan trắng trong biêng biếc, lên xóm làng, đồng ruộng và thả mình vào mớ tóc của lũ gái xuân dậy thì, má đào chín đỏ.

    Trong cái đảm chúng nó, có Lụa là xinh đẹp nhất. Làn da cô căng mịn như nước mặt sông. Môi cô hồng nhẹ phớt đào. Ðôi mắt sáng trong tựa hồ soi thấy vài nụ xoan đang lung linh trong ấy. Và mái tóc, mái tóc ấy nồng nàn như mưa xuân. Từ nhỏ Lụa thường hát chèo co u nghe. Cũng được cái trời phú, giọng Lụa ngọt như nước giếng Sữa Ðường Lâm. Các cụ trong làng đều bảo: Lụa có dáng con đào, điều đó cứ nhức nhối mãi trong lòng cô...

    Sáng nay, Lụa ra sông đãi đỗ, rửa lá với lũ con gái cùng xóm. Chúng nó í a í ới gọi nhau từ lúc tờ mờ làm u không ngủ được. Thế là, bà bèn dậy sớm lên thoi dệt lụa. Chộn rộn mãi mới kéo nhau ra được bến. Ðãi đỗ, rửa lá thì ít hát hò trêu chọc nhau thì nhiều. Con Mận được ông nó dạ cho một điệu chèo nới bèn ỉ eo hát. Lụa học lỏm được ngay. Rồi hát ngay còn hay hơn cả Mận. Mãi cho tới mặt trời lên cao gần ngọn sào chúng nó mới kéo nhau về. Lụa muốn hát cho u nghe điệu mới ngay lập tức bèn chạy về trước. Chạy về đến cổng vấp phải hòn gạch ngã sóng soài, đổ sạch cả đỗ. U vừa xót vừa giận, chẳng nói năng gì. Lụa lại tự nhặt lá, vét đõ mang ra sông kì cụi, đãi rửa. Lụa nấu cơm trong bếp, khóc dấm dứt. U hỏi: sao? Lại còn nói là khói gio. Rôid lại càng thổi tợi cho bụi cứ bốc mù cả lên. Có mỗi niêu cá với niêu cơm mà nhá nhem tối u con mới được xơi. Bữa cơm mằn mặn là, Lụa cứ len lén nhìn u và miếng cơm rồi nước mắt lã chã.

    -Nào tao đã chửi mắng gì mày? Rõ thật...
    -Thì con...

    Vừa nói vừa khóc nấc lên, Lụa lại thôi chả buồn thưa nữa. Gần xong bữa mới rành rọt nói mọt lèo thật chóng:
    -Là con muốn về nhanh hát cho u nghe điệu chèo mới học được...thế thôi...
    Rồi chạy ù ra sân, ôm gốc cau lại khóc dấm dứt. Một lúc khóc hết mới vào. Ðã thấy u xếp mâmbát lại để qua một bên, ngồi ăn trầu. Lụa đằng hắng, bê mâm đi, ra chiều dỗi. U với theo:
    -Con cái Lụa mai thổi sớm, ăn cho khỏi tốn dầu đèn.
    Lụa khe khẽ cười. Cô chẳng biết sau lưng cô u cũng đang múm mím. Việc nhà xong, Lụa tựa cửa trông bốn bên hàng xóm, đưa tay hứng giọt mưa bay.
    -...Ðào liễu có một...mình...em đi đâu hỡi cô nàng ơi...Ðào liễu có một mình....
    -Phải điệu chị định hát cho u nghe không? Hay đáo để! Thôi đi trông nồi bánh cho nục mai u cho đi xem chèo nhá...!
    -Thật u...mai ạ...con đi ngay đây. Rồi u xem bánh sắp chín rồi.
    -Cha chị...vừa bắc lên bếp đã chính với sống...
    Ngọn lửa cháy giùon làm mặt Lụa đỏ ửng như đĩa xôi gấc u thổi. Lụa chìm vào cơn buồn ngủ lúc nào không hay. Không gian đầy khói sương. Lụa thấy mình đang đi trên thôi đê sang thôn Ðoài. Không phải cô đang đi mà đang lướt, bwocs chân nhẹ nhàng cứ quấn quýt vào nhau. Lụa cảm thấy cỏ đẫm sương đang cù nhẹ vào gan bàn chân man mát. Chỉ còn dăm thước nữa là tới nơi, Lụa thấy lòng xốn xang. Mà lạ lắm cơ! Sao chủ thấy mình Lụa đi trên đê đầy khói. Cô như đang đi sâu vào cơn mê. Vừa thích vừa sợ...Trống phách đang chộn rộnl àm cho máu trong người Lụa chạy xuôi, chạy ngược. Lụa đang hoà mình vào dòng người đi đi lại lạit rong bãi. Họ chả nói, chả rằng. Ai ai cũng hờ hững vô cảm. đi vài bước rồi quay lại nhìn nhau chằm chằm. Họ xô đẩy, chen vai thích cánh làm bẹp cả nón của Lụa. Họ giẫm vào chân Lụa. áo xống lại bị giẫm bẩn, rách tả tơi. Chợt Lụa lại nghe tiếng sáo dặt dìu. Như có sức mạnh, Lụa đứng phắt dậy xô mấy người ngã, chen vào giữa chiếu. Cô trân trân dán mắt vào đôi đào-kép đang sắm vai. Cô nuốt từng câu hát, nuốt từng điệu nhạc, say đừ ra với ngón tay,bước xuyến. Rồi một bà trông nhợt nhạt. bơ phờ kéo cô lại, cài lên đầu cô vài cái lá lẩu, hoa cỏ, rồi đủn cô vào chiếu. Dôi đào kép sợ hãi giạt ra. Cô nhìn bà ta, bà ta nhìn cô. Rồi chả biết có cài gì điều khiển Lụa hát, Lụa diễn. Bây giờ, giữa chiếu là một cô Xuý Vân giả dại đang say sưa hát múa. Hết lớp diễn, Lụa kiệt sức ngã vật. Lúa ấy, mọi người vây quanh chợt giật mình, nom tinh khôn lạ. Họ vỗ tay, họ la ó rồi dần dần tan ra như khói. Chị còn lại mình Lụa và bà mặt nhợt.
    Mai, tôi với gánh đi vài làng khác. Lúc trở về sẽ đón cô đi theo. Thế nhá ! Tôi đi. à! Cô tài lắm. Chờ nhá...

    Lụa thất thểu ra về. Ði mãi chả tới nhà, mưa rơi ướt hết áo. Sau đêm đó Lụa ốm nặng.
    Lụa thở dài quay mặt vào vách. Vài ngày sau cô đỡ hơn, cô thường ra sông sớm ngồi trên bến sông đợi gánh hát về qua. Ngày trôi qua, Tháng trôi qua. Mùa trôi qua. Lạu sợ hãi mối khi thấy con đò chở khách qua sông.

    -Bớ đò, bớ đò cho tôi sang với !
    Cô tưởng rằng con đò đang chở đi khát vọng của mình. Ðêm trăng, Lụa ra bến sông múa hát, hò hét, gọi khát vọng trở về. Mệt thì nằm vật ra, rồi ngồi dậy lấy cỏ quệt ngang mày, lấy ngón tay di di xuống mép nước, chạm gan bàn tay vào mặt nước rồi xoa lên má. Sao mà Lụa thấy chúng thơm tho kỳ lạ. Y như phấn son đào kép vậy. Người làng nói Lụa điên. Cô không điên và cô vấn tiếp tục đợi chờ. Hàng đêm Lụa lại ra sông đóng vai Xuý Vân gào gọi tên mình:
    -Lụa...Lụa...Lụa...Chờ đợi...Khát vọng...

    -Lụa...Lụa...Dậy con. Dậy Lụa. Nát hết bánh rồi. Dậy...
    -Dạ! U à...con ngủ quên mất! Bánh nát rồi ạ !
    -Là tôi nói thế chị mới dậy cho. Thôi để u trông.

    Lụa vào nhà, bàng hoàng cho tới sáng. Sáng sớm hôm sau cô ra bến từ tờ mờ giặt vuông dũi u dệt đêm qua. Giặt xong ngồi bó gối trên bờ cỏ và nghĩ sẽ biến cơn mê thành sự thật xem sao? Nhưng nếu thế, Lụa sẽ sắm vai Thị Mầu. Sức sống mạnh hơn và bay bổng hơn. Nghĩ thế, Lụa chạy ù về nhà dụi đầu vào lòng u
    -U ơi! đã có đào nào, kép nào sống thật với mình đâu!
    [/FONT]
     
    No MercY, 5dola, julie and 1 other person like this.
  14. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mỹ nhân Ngư[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Liêm Trinh[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chị Sương nhảy lầu tự tử đúng ngày Phật sinh. Đám trẻ con xóm chợ, trong đó có tôi, đang hí hửng chen chúc nhau trong sân chùa xem các nhà sư tưng bừng tụng kinh gõ mõ, thành kính đi đi lại lại vòng quanh pho tượng một người nhỏ bé có hào quang tỏa sáng quanh đầu, chờ đến lúc được phát xôi chè oản chuối. Nghe tiếng người ta la hét ồn ào cả lũ rùng rùng ù té chạy đi xem.

    Ngày mẹ ẵm tôi về nhà, chị Sương là người đầu tiên hé mở tấm chăn để nhìn mặt tôi. Chúng tôi yên lặng nhìn nhau một lúc lâu, mắt người này xuyên suốt người kia. Đó là cái nhìn nhận diện và đồng cảm thân phận. Chị Sương kêu lên “ô, em bé” và tôi đã mỉm cười khi nghe thấy tiếng reo mừng ấy.

    Bố ít khi có mặt ở nhà. Mẹ không thường xuyên bế ẵm tôi. Cái cửa hàng tạp hóa chiếm hết thời giờ của mẹ, lúc nào cũng loay hoay tất bật. Tôi luôn phải nằm một mình trên giường, nơi góc nhà tối tăm, u ơ với đám thằn lằn đông đúc thường hay trố những con mắt đen nháy chằm chằm nhìn tôi, như không hiểu sao trên đời lại có một giống loài kỳ khôi đến vậy? Khi chiều xuống, việc mua bán đã ngớt tôi mới được mẹ ẵm lên đi tắm. Vào lúc này, chị Sương hay chạy sang để nhìn ngắm thân thể trần truồng phủ trắng phấn rôm của tôi. Chị hít hà vuốt ve da thịt tôi mềm mại thanh khiết, thơm tho non nớt. Mẹ giấu tôi đi, hắt hủi: “Xê ra, mày toàn mùi cá!”.

    Chị Sương toàn mùi cá vì là chủ nhân của cá.

    Những lúc hiếm hoi được rảnh rỗi mẹ tranh thủ bế tôi ra cửa đón nắng. Tôi rất thích những giây phút này, vừa được mẹ ẵm vừa được thấy những con người giống tôi đi lại nói năng, làm đủ chuyện chứ không phải lũ bò sát ở trên cao chỉ biết uốn đuôi cà rỡn, đớp ruồi, giao phối và tặc lưỡi. Mọi người đều hân hoan khi trông thấy tôi, trầm trồ nịnh tôi “em bé xinh quá”, “mắt nó trong quá”, “sao tai nó mỏng manh quá, như hai mảnh gốm sứ”. Đôi mắt trong như thủy tinh của tôi nhận ra chị Sương bé bỏng đang ngồi dạng hai chân bên cạnh cái thùng to tròn bằng tôn kẽm, bên trên đậy một cái bơ. Từ trong cái thùng không ngớt phát ra những tiếng kêu rít kinh hoàng, tiếng đùng đùng giẫy giụa cực kỳ tuyệt vọng của những con cá. Chị Sương như người bị điếc chẳng nghe thấy gì, lẳng lặng thản nhiên thỉnh thoảng thò tay vào bắt ra một con, đặt nó lên tấm thớt, dùng cái chày gỗ to giáng xuống đầu nó. Tiếng chày gỗ nện trúng đầu con cá nghe cóc cóc.

    Những con cá luôn luôn giẫy giụa rất dữ, thậm chí có con tuột khỏi tay chị Sương, nhảy bật lên, phóng ra ngoài. Nhưng luôn luôn chẳng có con nào thoát được. Chị Sương nện chày liên tục lên đầu con cá đến khi nó chịu nằm yên. Chỉ khi cái đầu bị tróc mất lớp da và vảy, lộ ra một mảng xương trắng, những con cá mới chịu nằm yên. Chị Sương thảy con cá sang bên cạnh cho mẹ của chị. Bà Tư nhanh nhẹn chộp lấy con cá, tiếp tục thoăn thoắt làm nốt công đoạn đưa lưỡi dao bén chặt hết vây đuôi, róc hết lớp vảy đen bọc ngoài cho đến khi lộ ra làn da màu trắng xám với những vết gợn mảnh như những đường chỉ đen chạy ngang dọc. Đến lúc này, những con cá mới được yên thân thanh thản nằm cạnh nhau trên mặt bơ. Những con cá trắng trẻo tinh tươm chỉ hơi vấy chút máu ứa ra nơi cái mõm đã bị vạt đứt.

    Sau này lớn lên, khi đã mọc đủ răng, được dịp thưởng thức những món ngon từ cá, tôi nhận ra lắm khi chỗ ngon nhất của con cá lại là lớp vảy.

    Dưới nắng trời rực rỡ, xóm chợ của tôi mới náo nhiệt làm sao. Sinh ra và lớn lên từ một xóm chợ, liệu có ai được chứng kiến nhiều cảnh đời náo nhiệt hơn tôi?

    Như chị Sương, tôi lớn lên, nhanh chóng trở thành trợ thủ đắc lực của mẹ. Mẹ sai bảo tôi làm đủ thứ việc. Tôi sung sướng chạy như cờ lông công khắp chợ. Sáng sớm, tôi rảo một vòng giao túi nylon, hộp nhựa, giấy báo, dây thun cột hàng cho bạn hàng. Xong việc tôi không về ngay mà la cà các ngõ ngách hóng đủ chuyện, nghe đủ giọng người. Chỉ những ai sinh ra và lớn lên trong một cái chợ mới rành rẽ giọng người thay đổi, biến hóa tinh vi khôn lường như thế nào. Ngọt xớt là giọng rao mời, sắc đanh là đang mặc cả, lạnh lùng là ngã giá. Giọng the thé chanh chua là lúc giành giật chỗ bày hàng hay đanh đá chửi bới là vì bị tranh mất khách. Người ta thi nhau gào thét, người sau át giọng người trước, như một dàn đồng ca toàn những âm điệu chói lói, lời lẽ thô tục. Ngay cả bà câm bán hành gừng tỏi ớt bị trời bắt tội không nói được tiếng người cũng chẳng chịu thua thiệt, vừa nhảy như choi choi vừa hộc lên những tiếng ú ớ khàn khàn không biết là mời chào hay rủa xả. Hai mảnh gốm sứ mong manh trong suốt của tôi hân hoan mở rộng hứng trọn thác âm thanh sống động lên bổng xuống trầm không sót một nốt.

    Người ta tranh thủ góp tiếng góp lời, giành giật nhau, chèn ép nhau bởi vì không ai biết lúc nào mình buộc phải biến khỏi thế giới tươi đẹp này. Như hôm nọ, thấy bạn hàng xúm lại chụm đầu bàn tán, tôi cũng tò mò chen vào nghe ngóng rồi hớt hải chạy về gọi mẹ ầm ĩ. Mẹ đang lúi húi bên trong, vội vàng nhào ra hỏi: “Cái gì thế? Cháy chợ à?”. Tôi vừa hào hển thở vừa kể cho mẹ nghe chuyện bà bán dây dù, võng vải, dao lam đã thắt cổ tự vẫn vì mắc nợ nhiều quá không trả nổi. Chưa nghe hết chuyện mẹ đã nhăn mặt bảo: “Có thế thôi mà mày làm tao điếng cả hồn”. Tôi chưng hửng thấy mẹ không hoảng hốt như mình tưởng, ấm ức chạy qua kể cho chị Sương nghe, ai ngờ chị cũng chẳng hề sợ hãi thất thần lại mỉm cười bảo: “Có gì đâu nhóc, chuyện bình thường”.

    Tôi thích được mẹ sai bảo, thích được long rong ngoài chợ cả ngày nhưng đôi khi cũng gặp chuyện không vui. Tan chợ là lúc đi đòi tiền thiếu. Bán hàng không ai tránh được khách hàng mua thiếu, nhưng sợ nhất là những người hay nợ dai. Ông chủ tiệm vàng Kim Sáng là người đáng sợ như thế. Là chủ tiệm vàng nhưng ông ta hay đến sạp của mẹ mua khi thì ít muối khi ít đường. Chẳng bao nhiêu nhưng luôn luôn mua chịu. Mẹ bực lắm, hễ ông ta vừa quay lưng đi là lầm bầm chửi trong miệng nhưng chẳng bao giờ từ chối không bán. Chiều hôm ấy, mẹ sai tôi đi đòi nợ ông ta. Tôi nói với mẹ: “Con không đi đâu!”. Mẹ ngạc nhiên: “Sao thế?”. Tôi ngập ngừng: “Ông ấy... hay sờ... bụng con”. Tôi không biết nói làm sao cho mẹ hiểu cảm giác nhờn nhợn khó chịu mỗi khi tôi phải gặp người đàn ông có mái tóc hoa râm, luôn đeo kính trắng, nói giọng ngọt ngào, chân tay sạch sẽ thơm mùi nước hoa, hay cho tôi cả nắm kẹo rồi kéo tôi vào lòng hôn hít. Tôi không dám nói ra vị trí chính xác mà người đàn ông đó hay tìm cách luồn tay vào. Cho nên mẹ tôi nhíu mày rồi cau có: “Vớ vẩn, chỉ lười... Đi lấy tiền về cho tao!”. Tôi chỉ còn cách đứng trước cửa nhà ông ta, gào lên: “Trả tiền đây!”. Từ trong tủ kính sáng trưng, bà vợ tròn trĩnh và bóng lộn của ông ta lăn ra, xỉa xói vào mặt tôi mắng: “Tao nợ nần gì mày mà mày gào tướng lên trước cửa nhà tao thế, con mất dạy?”.

    Ông chủ tiệm vàng không đến mua đường muối của mẹ nữa, xem như mẹ tôi mất một mối hàng. Nhưng chẳng bao lâu sau, mẹ đáng thương còn mất nhiều hơn nữa. Cũng chỉ tại tôi. Như mọi khi, mẹ giao nhà cho tôi để đi lấy thêm hàng về bán. Như mọi khi, bà chủ hụi đến thu tiền hụi. Tôi vui vẻ mở tủ lấy tiền giao cho bà ta. Bà dịu dàng vuốt tóc rồi vuốt má tôi khen tôi ngoan. Đến chiều mẹ về tá hỏa nghe tôi nói số tiền quá lớn. Mẹ vung tay tát tôi liên tiếp mấy cái rồi ứa nước mắt, rít lên: “Giời ơi, vốn liếng của tao”.

    Thái độ hung dữ bất ngờ của mẹ khiến tôi hoảng sợ. Tôi ôm hai cái má sưng đỏ bỏ chạy, đi tìm chị Sương. Chị Sương bé bỏng đã thoa dầu lên má cho tôi. Những ngón tay chai run run gượng nhẹ di di những giọt dầu lên hai cái má bỏng rát.

    Thế mà bây giờ chị lại nằm đây, sóng soải, im lặng và lạnh ngắt như những con cá nằm trên mặt bơ. Từ khóe miệng của chị cũng rỉ ra chút máu y như lũ cá bị vạt mõm. Sao chị chẳng nói gì với tôi? Như đã thổ lộ rất nhiều điều ấp ủ vào buổi chiều hôm đó ?

    Chiều hôm đó cả hai đã ngồi thừ ra bên cái thùng rộng cá. Những con cá đen đủi sầu muộn ngước mắt nhìn chúng tôi. Tội nghiệp chúng, cái thùng chật chội quá. Chị Sương bé bỏng thở dài nói ước gì tao có cái thùng rộng hơn, để lũ cá không phải chen lấn nhau quằn quại, vùng vẫy đùng đùng như thế này, tiếng cá quẫy nghe sợ làm sao. Tôi cãi tiếng cóc cóc khi cái chày nện xuống đầu chúng mới dễ sợ hơn chứ. Chị Sương ao ước mai mốt lớn lên sẽ xây một cái hồ thật to cho lũ cá, cho chúng nó ăn, cho chúng nó đẻ, tha hồ tự do bơi lặn, sinh sôi nảy nở hàng đàn hàng lũ. Hóa ra chị không thích chút nào cái việc ngày ngày phải nện chày xuống đầu những con cá.

    Tao nghe nói có một giống cá rất đẹp tên là mỹ nhân ngư, người ta bảo nó đẹp hơn cả mấy con hồng long, kim long ở tiệm vàng Kim Sáng nữa đấy. Em chưa từng thấy con cá ấy bao giờ. Chị Sương sờ sờ cái chày thì thầm tao cũng chưa, may cho con cá, không thì... Nhưng chị ơi, chỉ những người giàu có sang trọng như chủ tiệm vàng Kim Sáng mới đủ tiền nuôi cá cảnh, nhất là những con cá đẹp như con mỹ nhân ngư. Không phải, chính những con cá đẹp mang lại sự giàu có sung túc cho người nuôi nó. Chị Sương cả quyết tao dám chắc mỹ nhân ngư là giống cá linh, nó đẹp nhất trong các loài cá mà, ai mà có nó trong nhà chắc chắn sẽ được may mắn và hạnh phúc. Tôi cũng hy vọng điều chị Sương tin là đúng.

    Bà chủ tiệm vàng Kim Sáng đẻ em bé, rao khắp chợ tìm thuê người giặt tã, dọn dẹp cứt đái. Chị Sương xin được công việc này. Buổi sáng chị ngồi ngoài chợ phụ mẹ bán cá. Buổi chiều chị vào tiệm vàng cho người ta sai bảo đổ bô, pha sữa, cọ rửa, lau chùi... Có khi chị phải ở lại đêm để bồng ẵm dỗ dành em bé những hôm nó khó ở quấy khóc khiến bà chủ không ngủ được. Chị Sương bé bỏng cần cù thức khuya dậy sớm, chăm chỉ làm việc để kiếm tiền xây cái hồ rộng nuôi đàn cá đẹp mỹ nhân ngư. Nhưng chị làm không được bao lâu thì bị đuổi. Bà chủ béo tròn trắng bong như quả trứng vừa xô vừa đẩy chị Sương bé bỏng xanh xao ra đường, cái miệng đỏ chót như ma cà rồng hút máu the thé hú lên: “Mày xéo ngay ra khỏi nhà tao, con đĩ!”.

    Mấy tháng sau, tôi đi đến đâu cũng trông thấy người ta chụm đầu bàn tán. Mấy bà khách mua cá cứ chần chừ chuyện vãn, đứng ì trước sạp lõ mắt lom lom nhìn chị Sương. Người ta xì xào hình như chị Sương có chửa. Tất nhiên là chửa hoang không biết của ai. Đàn bà thì bĩu môi nói cái con bé coi hiền lành ít nói vậy mà hư thân mất nết tự bao giờ. Đàn ông thì cười cợt đúng là con nhà hàng tôm hàng cá, nền nếp gì đâu, ranh con nứt mắt mới tí tuổi đầu đã lẳng lơ dâm tặc, bé như cái kẹo chẳng biết mỗi lần “đi” được bao nhiêu tiền. Những cái nhìn lom lom, những tiếng huýt sáo, những lời xì xào đồn đại xa gần bóng gió đã nhấc chị Sương từ chỗ ngồi bên cạnh thùng cá thảy lên cao cao tận nóc nhà mái tôn rồi từ đấy, vứt thẳng xuống đất. Như người ta vẫn thường thản nhiên vứt một bọc rác thối ra đường.

    Thế là chị Sương bỏ dở giấc mơ tự tay thả những con cá mỹ nhân ngư đẹp đẽ cho chúng nó bơi trong cái hồ rộng. Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu vì sao cùng là những con người nhỏ bé, nhưng chú bé con vua khoác tấm áo vàng thì được đứng trong sân chùa tỏa hào quang lộng lẫy, thân thể sực nức hương trầm trong âm thanh rộn rã khúc tụng ca, còn chị Sương bé bỏng của tôi, đang thu mình lặng lẽ ngồi im đâu đó chìm khuất trong bóng đêm ủ rũ trước quan tài của mình.

    Tôi vẫn tiếp tục công việc giao hàng mỗi sáng sớm. Len qua những tấm lưng lạnh lùng chèn ép, né tránh những gót chân nặng nề luôn chờ chực đạp lên chân mình, tôi lầm lũi đi qua những ngõ chợ xôn xao, buồn rầu tự nhủ mình cô đơn biết chừng nào. Nhà ở chợ ken két mở cửa. Người chạy chợ xình xịch đậu xe. Những sạp hàng lộc cộc ngả xuống, những cái dù bựt bựt bung lên, những tấm vải nylon kêu roàn roạt trước khi xoải ra trên nền đất, những túi hàng rào rào xổ tung, từng món một bắt đầu được cẩn thận bày biện. Mọi việc vẫn diễn tiến bình thường không hề đứt đoạn. Xóm chợ ồn ào kẻ đến người đi không có gì đau đớn, chẳng có ai nhung nhớ buồn thương.

    Trong không gian náo động của buổi bình minh chất chứa bao âm thanh và hình ảnh ấy, tôi bỗng thấy thấp thoáng một hình hài bé nhỏ quen thuộc. Mờ mờ như sương. Mừng rỡ, tôi rối rít chạy theo kêu: “Ủa, chị Sương, chị đi đâu thế?”. Chị Sương dừng lại nhìn tôi như thể chị vừa rời khỏi cái chỗ ngồi khuất sau thùng cá, đứng dậy đi đâu đó một lát cho đỡ mỏi người và tình cờ gặp tôi. Chúng tôi đứng lặng nhìn nhau. Đó là cái nhìn thấu hiểu và đồng cảm. “Chị về trời”. Giọng chị nghe thật lạ lùng, khẽ khàng và nuối tiếc. Tôi thương xót hỏi: “Chị về trời ư? Thế còn... mỹ nhân ngư thì sao?”. Như bị mỏi tay, chị Sương đưa cái chày nhuốm máu cho tôi cầm giúp: “Là của em. Tất cả mỹ nhân ngư trên đời này là của em, chị tặng em đấy, em muốn làm gì chúng thì làm”.

    Từ đó, tôi phải tự mình ròng rã đi khắp nhân gian để tìm cho được những con cá đẹp mang tên mỹ nhân ngư, thu thập chúng về và đem phân phát cho những trẻ con khác.

    Còn ông chủ tiệm vàng Kim Sáng, một hôm người ta phát hiện thấy ông ấy tắt thở trên giường, hai con mắt mở to bất động như mắt cá chết, lớp da trên trán tự nhiên bị bong tróc rách toác, lộ ra một mảng xương trắng. Lạ nhất là xung quanh người đàn ông lúc nào cũng thơm tho ấy lại đậm đặc mùi cá.
    [/FONT]
     
    No MercY, 5dola, julie and 1 other person like this.
  15. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mỹ nhân xóm Trại[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trọng Bảo[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Một cô gái xuống xe đò hỏi đường về xóm Trại.
    Lão Tộ đang be bờ tát bắt cá ở rãnh mương ven đường há hốc mồm kinh ngạc. Chưa bao giờ thấy có một người con gái đẹp đến thế vào cái xóm ven rừng này. Lão hơi gượng gập khoác cái áo bộ đội cũ lên che cái thân hình đen đúa trơ xương sườn của mình. Cô gái hỏi nhà bà Nhâm. Bà Nhâm chính là hàng xóm của lão. Bà này mới về ở xóm trại được độ hơn hai năm, là cư dân mới nhất xóm.
    Lão Tộ cố nghiêng nghiêng người để khỏi lộ cái quần đùi rộng thùng thình và đôi chân đen đúa của mình.
    - Cô cứ đi đến chân dốc kia thì rẽ trái, rồi lại rẽ trái thêm một lần nữa là vào cổng nhà bà Nhâm!
    - Vâng! Em cảm ơn bác ạ!
    - Ôi chết! - Lão Tộ giật mình. Cô bé này sao lại xưng em với lão. Lão thấy hơi ngường ngượng. Mặt lão nóng bừng đỏ lên. May mà mặt mũi lão lấm đầy bùn đất nên cô bé không nhận ra. Một con cá chuối giẫy đành đạch lao qua háng lão làm bùn bắn lên tung toé. Lão Tộ vội cúi xuống bắt cá. Cô gái chào lão rồi xách túi đi về phía xóm Trại. Dáng cô thật mềm mại và yểu điệu. Ngẩng đầu lên nhìn trộm những cái dây đeo hằn lên trên tấm lưng thon thả của cô gái lão Tộ lén nuối ực một cái.
    Lão Tộ xách giỏ cá về nhà. Đến cái quán nước đầu xóm thì lão đã rõ lai lịch của cô gái. Cô gái đó tên là Hương, cháu nội của bà Nhâm. Cô gái này đi học đại học ở nước ngoài rồi học tiếp mãi lên, bảo vệ xong luận án tiến sĩ bây giờ mới về nước làm việc. Cô đã lặn lội lên tận nơi xóm núi heo hút này tìm bà nội.
    Có lẽ đây là lần thứ hai bà Nhâm có khách từ xa đến thăm. Lần trước khi bà mới về đây ở cũng có một ông từ Hà nội đánh xe ô tô lên. Lúc ấy lối vào xóm trại còn chưa được mở rộng. Xe ô tô phải để ở mãi ngoài con đường liên xã. Ông cán bộ xách giày lội ruộng vào nhà bà Nhâm. Đó là ông con nuôi của bà. Ông ta ở nhà bà nửa ngày. Đến bữa trưa bà phải nhờ người đem cơm ra cho anh lái xe ngoài đường. Anh này không dám vào nhà bà Nhâm ăn cơm vì sợ bọn trẻ con nghịch cào xước sơn chiếc xe du lịch bóng lộn. Ông con nuôi lên là để thuyết phục bà Nhâm quay về thủ đô nhưng bà không chịu. Khi ông ta đi rồi thì mọi chuyện mới vỡ ra.
    Bà Nhâm vốn là công nhân quét rác ở Hà Nội. Trong chiến tranh bà vác đạn lên trận địa cho bộ đội cao xạ bắn máy bay Mỹ. Trong một trận máy bay địch đánh phá bà bị trúng mảnh bom. Vết thương ấy khiến bà mất chức năng sinh nở nên không lấy được chồng. Một đêm đi làm vệ sinh đường phố, bà nhặt được một thằng bé sơ sinh bị bỏ rơi ở trong đống rác cạnh một miệng cống nước thải. Ôm thằng bé về nhà bà thấy niềm vui cứ dâng lên râm ran trong người. Có lẽ đây là số trời thương hại đã bù lại cho bà thiên chức làm mẹ. Tuy vậy bà nuôi thằng bé thật vất vả. Thời bao cấp lại chiến tranh cái gì cũng thiếu. Bà ôm thằng bé đi xin sữa. Nhà bà ở gần bệnh viện sản khoa nên bà thường bế nó vào lân la xin bú nhờ các bà đẻ. Bà chắt chiu từng lon sữa mậu dịch phân phối để nuôi thằng bé nên người. Những lúc nó ốm đau sài đẹn bà lo lắng đến mất ngủ. Bà cố lo cho nó đi học bằng chúng bằng bạn. Cứ tưởng hiểu rõ thân phận mình nó sẽ hiếu thuận với bà hơn. Nhưng ngược lại.
    Khi làm đến chức vụ cao ở một bộ nọ, đứa trẻ bị bỏ rơi-ông con nuôi của bà Nhâm lại cảm thấy rất xấu hổ vì bà mẹ nuôi của mình là một người quét rác. Bà làm nghề quét rác từ khi còn trẻ. Cho đến lúc ốm yếu nghỉ chế độ bà cũng chỉ có duy nhất có mỗi một nghề quét rác. Ông ta thường rất ngại mỗi khi có khách khứa đến chơi bà hay kể chuyện ngày xưa đi quét rác nhặt được gói tiền đem nộp công an trả lại cho người mất được biểu dương trên loa truyền thanh của phường mấy lần. Bà cũng hay nói chuyện đã nhặt được ông nằm co quắp khóc không thành tiếng trong đống rác thải bên cái cống thoát nước thải như thế nào. Mấy lần ông con nuôi đã cáu bẳn với bà ngay cả khi khách khứa còn đang ngồi đầy nhà. Ông luôn khó chịu với bà từ xuất thân cho đến tính thật thà tai hại của bà. Có lẽ vì thế mà dần dần cái hố ngăn cách ông và bà càng ngày càng một lớn.
    Một lần do bực với bà ông buột miệng nói: “Xét cho cùng tôi với bà cũng chả có quan hệ máu mủ gì!”. Bà Nhâm giận quá liền bỏ về xóm Trại là nơi năm xưa đã đưa con về sơ tán khi máy bay B52 của Mỹ rải thảm vào Hà Nội tháng 12 năm 1972. Bà được ông trưởng thôn cho ở nhờ gian nhà kho cũ. Bà con xóm Trại giúp cây que, ít gạch làm cho bà một căn nhà nhỏ chỗ gò đất cuối xóm. Ông cán bộ đánh xe về năn nỉ bà trở về thành phố nhưng bà không chịu. Cô con gái ông từ nước ngoài trở về rất giận bố vì chuyện để bà nội bỏ lên xóm Trại. Cô vội vã bắt xe lên tìm bà nội.
    Lão Tộ xách xâu cá rô, cá trê sang nhà bà Nhâm. Thỉnh thoảng bắt được nhiều cá lão vẫn đem sang biếu bà vài con. Ở cái xóm trại này ai cũng bảo lão là một con rái cá. Nhà lão lúc nào cũng có cá đồng để ăn, để bán. Bà Nhâm và cô cháu gái đang bổ những quả trám trắng để phơi. Hai bà cháu vừa làm vừa nói chuyện ríu rít. Nhìn xâu cá của lão Tộ, bà Nhâm thích quá bảo:
    - Thế là chiều nay bà cháu tôi có bữa cá đồng kho trám ngon đây! Hay là ông ở lại ăn cơm cùng hai bà cháu tôi nhé!
    Lão Tộ vội chối:
    - Hôm nay nhà tôi có giỗ! - Lão ta nói dối.
    Cô cháu gái bà Nhâm lấy nước mời lão. Lão như bị điện giật khi bất chợt nhìn thấy một khoảng ngực trần tròn căng khi cô cúi xuống rót nước cho lão. Ra về đến nhà rồi mà trong ánh mắt lão vẫn còn đọng lại hình ảnh bầu ngực tròn căng của cô gái. Mẹ kiếp, lão nghĩ cả đời mình chưa thấy cô nào có bộ ngực đẹp như thế. Mà cả đời lão sinh ra và lớn lên cho đến lúc hai ba thứ tóc trên đầu chỉ loanh quanh ở cái xóm núi này thì làm gì mà nhìn đâu thấy chứ. Con gái xóm Trại chưa biết lớn đã biết lấy chồng. Lúc có con thì vú dài loằng ngoằng như quả mướp, ở chỗ đông người cũng cứ tự nhiên lôi ra cho con bú, trông thấy đã chán. Vợ lão cũng vậy. Lúc trẻ thì giấu giấu diếm diếm. Ngủ với nhau thì đèn tắt om om. Lúc về già thì phơi ra ma chả buồn nhìn.
    Mải nghĩ, suýt nữa lão Tộ giộng cái chày giã cua vào mu bàn chân. Từ trong bếp mụ vợ lão riết gióng nói vọng ra:
    - Ông làm gì mà giã lâu thế! Có nhanh nhanh lên không, hai thằng trời đánh nó sắp về rồi đấy.
    - Xong đây rồi… - Lão Tộ lẩm bẩm. Lão vét nắm cua đã giã nhỏ vào bát loa đem xuống bếp cho mụ vợ lọc lấy nước cốt nấu canh. Hai thằng con lão đang đi chặt cây trên rừng, chúng nó về đến nhà là phải có cơm ăn ngay. Chúng nó đang tuổi ăn, tuổi làm khoẻ. Thằng con lớn vừa suỵt soạt húp canh cua vừa hỏi:
    - Nhà bà Nhâm có cô nào đẹp thế mẹ nhỉ?
    - Hỏi bố mày ấy! Bố mày sang nhà bà ấy mãi không về được đấy…
    Lão Tộ nổi cáu:
    - Bà câm mồm đi!
    - Chắc là dân Hà Nội chính gốc bố nhỉ?
    - Tao không biết!
    - Bố còn mang cá sang biếu cô ấy mà lại không biết…
    - Mày cũng câm đi mà ăn cho xong còn dọn!
    Thằng con lớn cười ngặt nghẽo. Nó và vội bát cơm rồi vớ cái ấm siêu đựng nước sôi để nguội ngửa cổ tu một hơi. Khi lão Tộ ăn xong thì hai anh em nó đã biến mất. Hai anh em nó chắc là lại sà vào cái quán trò chơi điện tử vừa mới mở ở đầu xóm.
    Lão Tộ vừa ngả người xuống cái chõng ở thềm thì có tiếng kêu cứu thảm thiết ở giữa xóm. Lão vội nhỏm dậy. Lại vợ chồng thằng Lãm đánh nhau. Hai vợ chồng thằng này dăm ngày ba trận choảng nhau kêu gào đến vỡ xóm. Lão Tộ định nằm xuống nhưng thấy không yên. Lão vớ cái đèn sạc chạy ra cổng. Đường làng nhốn nháo. Ánh đèn soi loang loáng. Lão Tộ nhao đến chỗ đám đông. Vợ thằng Lãm đầu be bét máu đang được mấy người xúm lại băng bó. Còn thằng Lãm hung hăng thì đang giãy giụa cố thoát khỏi đôi tay khoá chặt của một cô gái. Đó chính là cô bé Hương, cháu nội bà Nhâm. Cái thằng côn đồ từng gây gổ khắp xóm thế mà chịu bị khoá tay vì một cô gái. Hắn đang hò hét đuổi theo chém vợ thì bị cô gái chặn lại. Nhìn cô bé mặc quần lửng, áo hai dây trắng như bột lọc hắn coi thường xông tới. Hắn đâu có biết cô vốn là một vận động viên võ thuật từng đoạt giải nhì thi đấu võ thuật học sinh sinh viên toàn quốc.
    Anh công an xã giờ mới đến. Anh rút cái còng bập vào cổ tay nó khoá tách một cái. Thằng Lãm bị dẫn về trụ sở xã để xử lý. Chắc lại bắt làm kiểm điểm, cảnh cáo rồi tha cho nó về như mọi bữa. Nhưng lần này nó có thêm bài học là biết thế nào là một cú đá móc hàm của một nữ võ sĩ. Hai tay vẫn chốt chặt trong còng, quai hàm hắn còn đau êm ẩm vì cú đá của cô bé nhưng không hiểu sao hắn lại không thấy tức mà lại thấy thinh thích. Hắn nhớ lúc cô gái áp sát hắn để tước con dao quắm. Bộ ngực cô chà sát vào tay hắn. Hình như buổi tối cô mới tắm xong không mang mặc các loại phụ tùng của phụ nữ. Hắn nhớ như in cái cảm giác sau lần áo mỏng là sự tròn trịa nây nẩy của người con gái đẹp.
    Lão Tộ không đi theo đám người dẫn giải thằng Lãm lên trụ sở uỷ ban xã. Lão quay về nhà ngủ sớm để ngày mai lên rừng. Có mối quen từ thành phố về đặt mua lão mấy chục cân phong lan rừng.

    Lão Tộ khoác cái ba lô cũ xách dao đi vào rừng. Mùa hè vào đến rừng là thấy mát mẻ sảng khoái hẳn lên. Rừng già rậm rạp là một cái máy điều hoà nhiệt độ khổng lồ vừa mát rượi lại vừa có không khí trong lành.
    Cũng như những lần trước, muốn tìm và lấy được phong lan lão phải đi vào tận trong rừng già mới có.
    Vừa đi, lão vừa chú ý quan sát phát hiện những nhánh lan rừng mọc trong khe đá hay trên các hốc cành cây. Phong lan thường không chịu được nắng chiếu vào trực tiếp mà cũng không ưa mưa dầm. Chúng chỉ mọc trong vùng ánh sáng khuếch tán và ẩm độ vừa phải. Hiểu rõ những đặc tính ấy của phong lan nên lão Tộ thường đi dọc theo những con suối hoặc theo đường thông thủy, tức là nơi giao nhau của hai chân ngọn đồi. Phải tinh mắt và có kinh nghiệm thì mới nhìn thấy được phong lan. Khi thì phong lan đeo vắt vẻo ở tận ngọn cây cao, khi thì mọc um tùm chỉ ngang tầm tay, kiễng chân lên với là lấy được. Mùa đông nhiều loại phong lan rụng lá hoặc chuyển sang chế độ ngủ thì chúng chỉ còn là những đoạn thân giả hành nằm bám lăn lóc trên thân cây, vách đá. Nhiều khi lúc đi vào rừng tìm mãi không thấy, lúc quay về lại gặp được phong lan. Có lần lão Tộ nhìn thấy một bụi lan thủy tiên rất to, chừng phải đến ba bốn chục cọng nhưng nó mọc trên thân cây to khá cao, xung quanh cây không có dây leo nên không thể nào trèo lên lấy bụi lan được. Lão phải lộn đi, lộn lại mấy lần tìm nối một cây sào thật dài mới ngoặc được bụi phong lan. Loại lan thuỷ tiên mà đang có nụ bán rất được giá.
    Lấy được một gùi phong lan nặng, lão Tộ quay về xóm. Lão men theo con suối đang chảy ào ào. Đêm hôm qua đầu nguồn có mưa to. Tuy thế nước chảy từ trong rừng già ra vẫn trong mát. Dòng nước đập vào những gộp đá giữa suối tung bọt trắng xoá.
    Đang lụi hụi đi thì lão Tộ chợt nghe lẫn trong tiếng nước chảy có tiếng hát. Đoạn này đã gần đến xóm núi rồi. Lão đứng lại trân trân ngó ra phía bãi bồi ngoài bờ suối. Người lão chợt nảy dựng lên như bị điện giật. Trên doi cát nhỏ trắng phau ven suối cô cháu gái bà Nhâm đang vừa khe khẽ hát vừa cởi quần áo. Có lẽ cô bé này định xuống suối tắm. Lão Tộ tưởng như sắp tắc thở khi nhìn thấy cơ thể ngọc ngà của cô gái dần dần hiện ra. Lần đầu tiên trong đời lão được nhìn thấy một người con gái đẹp khoả thân như thế này. Lão thấy tim mình đập loạn. Lão lâng lâng thấy mình đang bay lên trời. Hình như trong lão có cái gì đang cựa quậy. Ánh mắt tinh tường của lão dán chặt lên từng chi tiết đường nét cơ thể tuyệt vời của người con gái. Lão cấu mạnh má mình một cái xem có phải là thật hay mơ. Đau quá. Đúng là thật rồi, không phải mơ.
    Một giọt mồ hôi lăn xuống mắt, lão giơ tay dụi. Lúc mở mắt ra thì lão Tộ không còn trông thấy cô gái đâu nữa. Cô bé đã phóng xuống dòng suối đang cuồn cuộn chảy. Thôi chết rồi, nguy hiểm quá. Chỗ cô gái nhảy xuống tắm rất gần một xoáy nước sâu và mạnh. Dòng suối chảy đến đây bị một mỏm đá nhô ra chắn ngang. Giữa mỏm đá ấy có một cái hang nhỏ thông qua xuống phía dưới. Khi suối cạn, cái hang ấy khô có thể khom người chui qua được. Hang có độ dốc nên khi lũ dâng cao, nước bị hút qua hang thành một dòng chảy rất mạnh như một chiếc cống ngầm. Đã có người đi bè đến đây ngã xuống suối bị hút vào đó quăng quật đập vào thành hang lởm chởm trôi qua xuống phía dưới rách nát hết người.
    Lão Tộ vội chạy nhô ra bờ suối quát:
    - Lên… lên… ngay đi!
    Nhưng hình như cô bé Hương không nghe thấy. Cô sải tay bơi gần đến chỗ xoáy nước. Cô bị cái xoáy nước hút mạnh quay tròn. Lão Tộ ném vội gùi phong lan lao xuống nước. Khi cô gái đang vùng vẫy cố thoát khỏi lực hút của dòng nước thì lão Tộ kịp bơi đến. Lão quào tay ôm tóm được cô gái. Cả hai bị dòng nước mạnh ép vào vách đá. Lão Tộ thấy đôi chân mình bị hút mạnh vào miệng hang. Lão một tay vẫn ôm chặt cô gái, một tay quờ tóm được cành cây mọc trên sườn mỏm núi xà xuống. Người cô gái mềm mại, trơn tuột không có chỗ nào để giữ chặt được cả. Lão Tộ phải cố gắng lắm mới không để cô bé bị hút vào miệng hang đá ngầm. Lão biết mình đã nắm vào chỗ không nên nắm trên người cô gái. Khi đã đạp mạnh chân vào được một mô đá thì lão Tộ có lực rướn người lên để thoát ra khỏi lực hút của xoáy nước. Lão và cô gái bám chặt vào vách đá. Hai người cố trằn mình để thắng sức mạnh của dòng nước. Họ tuồi được ra phía đầu mỏm đá, nơi dòng suối chảy quặt xuôi, tránh xa dần cái hang đá lởm chởm như miệng một con cá sấu đang hút nước òng ọc.
    Lão Tộ và cô gái bơi lên chỗ bãi cát. Họ đã kiệt sức vì chống chọi với dòng nước xiết và vì vừa thoát khỏi cái chết gần như trong gang tấc. Cả hai cùng bò lên bờ nằm vật ra bãi cát thở dốc. Trên người cô gái còn in hằn dấu ngón tay của lão Tộ.
    Chợt nhận ra mình đang khoả thân, cô gái vội nhỏm dậy một tay ôm lấy ngực, một tay bưng che chỗ kín. Lão Tộ cũng ngồi bật dậy nhớn nhác nhìn quanh. Rừng già vắng vẻ. Chỉ có tiếng suối chảy ào ào không dứt. Cô gái đã tìm được quần áo. Cô lặng lẽ đứng ngay sau lưng lão mặc quần áo. Lão Tộ cố giả bộ nghển mặt ngó nghiêng tìm cái gùi hoa phong lan của mình. May gùi phong lan không bị nước lũ cuốn đi. Lão gỡ một giò phong lan đang nở hoa rất đẹp đưa cho cô bé.
    Cô bé cúi đầu vừa mân mê cái đuôi tóc ướt vừa khẽ nói:
    - Em cảm ơn bác!
    - Không… không… có gì…tôi…tôi…
    Lão Tộ như bị hụt hơi nói không lên lời. Lão vẫn sợ. Suýt nữa lão và cô bé này bị dòng nước hút vào cái hang ngầm rồi. Lão thu thu bàn tay phải của mình lại giấu vào cạnh sườn như sợ cô bé nhìn thấy bàn tay thô nhám, đen đủi của mình. Chính cái bàn tay này lúc nãy dưới suối đã túm chặt một bên ngực của cô bé khi cố giữ cho cô khỏi bị hút vào cái hang ngầm cuồn cuộn nước lũ.
    Cô cháu nội bà Nhâm ở chơi xóm Trại cả tuần. Cô lân la đi khắp các nhà trong xóm núi. Gặp ông trưởng xóm cô góp ý nên sửa sang lại nhà mẫu giáo và mua thêm một ít đồ chơi cho các cháu. Ông trưởng thôn kêu không có tiền. Cô gái rút máy điện thoại di động ra gọi. Một chiếc xe tắc-xi rẽ vào xóm Trại. Cô cùng một chị nhân viên nhà mẫu giáo lên xe. Buổi chiều họ trở về cùng một chiếc xe tải nhỏ chở theo một đống đồ chơi và những bộ bàn ghế nho nhỏ xinh xinh. Ông trưởng thôn áng chừng phải mất đến gần hai chục triệu mới mua được bấy nhiêu thứ. Cô hứa khi về đến cơ quan sẽ tìm cách vận động tài trợ cho xóm Trại xây lại cái nhà mẫu giáo khang trang hơn.
    Ông trưởng thôn huy động cả xóm ra dọn dẹp, tu sửa lớp mẫu giáo. Mọi người ủng hộ, đóng góp vật liệu để xây trát lại những chỗ tường bị lở lói, quét vôi ve sáng trưng, phạt cây dọn cỏ xung quanh nhà. Cô bé Hương mặc quần lửng áo ngắn tay cùng vui vẻ làm với mọi người. Thằng Lãm bị xã phạt lao động công ích một tháng bị tội đánh vợ. Nó cởi trần trùng trục xúc đất khơi con mương thoát nước sau lớp học theo sự chỉ huy của cô Hương. Ai cũng ngạc nhiên vì thằng này hôm nay lại chịu khó làm không biết mệt. Nó vốn là một thằng lười biếng.
    Nhà bà Hương thành nơi cho đám thanh niên kéo đến hò hát. Xóm Trại quanh năm im lìm tự dưng sôi động hẳn lên. Nói chính xác hơn là trước đó thỉnh thoảng xóm Trại cũng sôi động. Đó là mỗi lần thằng Lãm đánh vợ hay bà Mứt mất gà. Thằng Lãm đánh vợ thường ầm ĩ như sắp có đám đâm chém, giết người. Nó đuổi vợ chạy khắp xóm. Nhưng thằng này chỉ được cái hùng hổ thế thôi. Hôm trước ném vợ chảy máu đầu bị công an xã giam một tối trong nhà kho làm mồi cho muỗi rừng đốt cũng thấy hãi. Còn bà Mứt mỗi lần bị thằng trộm nào đó tóm mất con gà hay bê mất ổ trứng thì chắc chắn bà ấy phải chưởi rủa, mắng nhiếc cả tuần. Nửa đêm dân xóm đang ngủ yên cũng giật cả mình tỉnh giấc khi nghe tiếng bà Mứt réo chưởi kẻ trộm. Bà này ngẫu hứng, thích chưởi lúc nào là chưởi. Ông trưởng thôn bực lắm. Cô bé Hương nảy ra một sáng kiến bèn góp ý cho ông trưởng thôn:
    - Khi nào bà ấy chưởi bác cứ cho ghi âm lại!
    - Để làm bằng chứng kiểm điểm bà ấy trước dân xóm à?
    - Không! Khi nào bà ấy vui vẻ, bác đem sang mở lại cho bà ấy nghe.
    Bà Mứt ngượng đến đỏ cả mặt khi nghe lại chính lời chưởi rủa ngoa ngoắt của mình. Từ ấy bà bớt làm náo động cả xóm mỗi khi bị mất gà.
    Một buổi tối, lão Tộ chợt tóm được thằng Lãm đang lò dò ở gần cổng nhà bà Nhâm. Lão quát:
    - Mày làm gì mà lần mò ở đây hả! Đi ăn cắp phải không?
    - Lão đừng có mà nói bậy!
    - Thế cái gì mày đang cầm trong tay kia? - Lão Tộ soi đèn rồi kêu lên: - A… sắn hả! Mày nhổ trộm sắn này ở đâu, khai ra ngay?
    - Lão im đi! Sắn nhà tôi đấy. Nhà tôi có khối việc gì phải đi nhổ trộm?
    - Thế mày mang đi đâu hả?
    - Thì… mang sang biếu bà Nhâm… - Thằng Lãm chống chế rồi hỏi: - Thế còn Lão cũng đang xách cái gì thế? Lại thó được của nhà ai phải không?
    - Câm mồm! Thứ này nhà nào có mà thó! Tao lấy ở trong rừng đấy!
    Lão Tộ chìa ra một giò quế lan hương có mấy chùm hoa đang nở. Mùi hương thơm của loài hoa phong lan nở vào đầu mùa Thu cứ ngan ngát trong đêm một cách quyến rũ. Thằng Lãm cười cười:
    - Thế đêm hôm lão đem phong lan đi đâu hả?
    - Tao… tao… đem… đem…
    - Chắc là lão đem biếu bà Nhâm chứ gì? Bà ấy già rồi mà có thấy bà ấy chơi hoa phong lan bao giờ đâu nhỉ? - Thằng Lãm nói móc.
    - Thế chắc bà ấy thèm ăn sắn của mày hả?
    Lão Tộ vặn lại. Lão và thằng Lãm gầm gừ nhau một lúc. Rồi cả hai cùng cười phá lên. Ngày mai cô cháu gái bà Nhâm xuôi về Hà Nội. Họ đến chơi để tiễn chân cô ấy.
    Lão Tộ và thằng Lãm cùng đi vào. Nhà bà Nhâm đã đông chật người. Toàn là dân xóm Trại. Các cháu lớp mẫu giáo đang múa hát ngoài sân. Cô bé Hương có vẻ rất xúc động khi nhận những món quà của lão Tộ và của thằng Lãm.
    Bà Nhâm mời lão Tộ và thằng Lãm vào trong nhà ngồi uống nước với đám người đến trước. Mấy người này đang bàn tán việc cô Hương hứa sẽ luôn về thăm xóm Trại.
    [/FONT]
     
    No MercY, 5dola, julie and 1 other person like this.
  16. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Những mảnh vụn trần Gian[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dương Văn Toàn [/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ðèn bắt đầu được trưng lên, giăng giăng như mắt thưa giữa hai hàng phố. Rất sáng. Tôi nhìn rõ bóng mình đang lúp xúp đi. Ðường tấp nập, hối hả, những biển hiệu nhập nhoè. Những tiệm ăn phưng phức, ngậy ngà những món ăn hấp dẫn. Cố đẩy cái "hương vị chết người" ấy ra khỏi đầu óc, tôi hướng những mã lực yếu ớt của cỗ xe thần kinh vào vị ngòn ngọt, xôm xốp của chiếc bánh mì lúc ban trưa. Nó cũng ngon. Ăn tốt. Chả sao. Nhưng bây giờ trong đôi tay vã đầy mồ hôi của tôi không có lấy một mảnh vụn. Một cái gì tựa hồ như một cơn lốc nhảy xổ vào bụng, gây nên một cơn chấn động. Bắt đầu từ cửa miệng rồi sang đầu lưỡi, xuôi xuống dạ dày. Mới đầu là những nhịp nhè nhẹ từ từ, rồi nó lao xồng xộc hối hả, với tốc độ phi mã. Cứ như có ai thúc, ai cào, lại như có ai đánh trống ngũ liên trong ruột. Thống ngữ trong tâm trí tôi là một từ: "Đói". Cái từ đáng ghét này lần hồi ám ảnh tôi bao nhiêu ngày nay, ngay cả trong những mộng mị nhọc nhằn.
    Tôi vừa đi vừa nghĩ, thật tuyệt vời, nếu một ai đó gọi: "Ê, đánh giày". Như vậy thì cuộc đời vẫn cứ đẹp. Cả ngày đi rạc cẳng mà chẳng ai thuê cả. Tay tôi chạm phải bọc tiền trong túi quần cộc. Một thằng người khác trong tôi xuất hiện. Nó bảo "Cứ lấy ra mà ăn. Ðói thì chết". Thằng tôi quyết liệt "Không. Tiền đó mai gửi cho bà rồi. Ăn thì lấy đâu ra". Thằng tôi đã thắng. Tôi đi trong cái đói vần vũ, mang theo hy vọng mong manh về một vị khách nào đó, dọc theo con phố dài. Cái hy vọng cứ xẹp dần như chiếc ruột xe bị lủng. Mắt tôi hoa lên. Ðành cố dẫn dụ cái dạ dày bằng một chiếc bánh mì ở một cửa hiệu nào đó, ngay thật gần.
    Tôi cứ đi. Ðến khi cái hộp đồ nghề trở thành một khối nặng trĩu trên tay và niềm hy vọng mong manh như hơi thở, thì gặp được vị khách gọi vào: "Xi gì?" - gã hỏi. Tôi bảo: "Xi Thái. Ðảm bảo bóng lộn mà không sợ nứt mặt da". Gã chìa đôi chân ra. Gã chừng 16 tuổi, người ốm nhóc ốm nhách, chân tròng đôi giày khủng bố to tướng như tranh đả kích. Tôi dùng hết khí sức bình sinh còn lại để phết, đánh, lau cho kỳ láng bóng mới thôi. "Trả tiền!". Gã vứt tọet tờ bạc xuống mặt đường. Một ngàn đồng. Tôi im lặng nhặt, chẳng dám đòi hỏi thêm. Rất có thể gã sẽ ném tôi vào bất cứ xó xỉnh chết giẫm nào đó nếu tôi đòi thêm, dù chỉ là một cắc thôi.
    Sự sống đang quẫy đạp trong tay tôi, nó hưởng ứng cuộc biểu tình của cái dạ dày. Một cái bánh bao nhân thịt. Tôi đi về hướng cầu, mang bánh về chỗ ngử để vừa ăn vừa thở. Chuông đồng hồ đâu đó vọng lại chín tiếng. Ðêm đã thống soái mặt đất rồi. Tôi chui xuống gầm cầu. Bọn ăn xin, bọn bán báo, cả bọn móc túi đã túm tụm ở góc kia, bật diêm lẹt xẹt để ăn tối. Trời om om tối. Muỗi đàn vo ve ầm ập đến, lao sàn sạt vào mặt người. Tôi lần tìm cái bao tải trong góc để lấy bật lửa. Bỗng giật thót mình vì một cánh tay lạnh giá của ai đó. "Ai?". Có tiếng trở mình. "Tôi!". "Tôi là ai?". "Ai vậy?". Nó không đáp. Tôi giật cái bao, lần tìm bật lửa, gom rác và bã mía đốt lên. Nó là thằng nhóc chừng mười ba mười bốn, đen nhẻm, già câng. Cái áo nó mặc dợt hết cả vai, chỉ còn một vài sợi mỏng. Tôi mở áo lấy chiếc bánh bao. Hai mắt nó lập tức mở thao láo, cái yết hầu chạy lên chạy xuống. "Ăn đi" - tôi chia cho nó một nửa. Hai thằng ăn một nắm tay bột mì nhân thịt, chẳng nói và chẳng kịp nói. Nó phủi tay: "Ngon nhỉ!". Tôi lôi tấm chăn đơn cũ đã phai hết tuyết ra, tự nhủ, giá thằng kia biến đi đâu thì tốt. Nhưng nó đã vội lên tiếng: "Có chăn à, ấm nhỉ! Cho tao ngủ nhờ một đêm". Nó chui luôn vào chăn. "Mày tên gì, ở đâu?" - nó hỏi. Tôi bảo: "Tên Phận. Quê xa lắm". "Còn tao tên Quân, bố tao cứ gọi là thằng cu. Nhà tao ở bờ con sông Mã, sóng mạnh dữ dội nhưng mà bơi thì thật thích. Tao từng bơi qua sông năm tao mười tuổi". "Thế mày lên đây làm gì?" - tôi hỏi. "Ðịnh làm cửu vạn, nhưng họ bảo bé loắt choắt thế này chỉ có ma nó thuê. Giờ thì bạ việc gì làm nấy. Bữa nay không ai mướn, đói meo. May mà gặp mày...".
    Tôi im lặng. Nó bảo: "Mày nghĩ gì vậy?". Tôi thờ ơ: "Chả nghĩ gì". "Còn tao chỉ ước, giờ có tiền, tao về nhà luôn, ăn cơm độn củ rong với ông già vẫn sướng". Tôi định bảo nó là ngủ đi, nhưng thôi. Tôi cũng thích về nhà, nhưng về bây giờ thì bà tôi sẽ phải gồng thêm một miệng ăn và cái Mai, em tôi sẽ phải nghĩ học, ra bờ biển đỏ ngầu nhặt những con cua con ốc về bán. Còn bây giờ tôi phải ở lại, chờ cho đến Tết, lúc ấy làng quê tôi đang bừng độ xuân về. Tay tôi bỗng chạm vào nắm tiền trong túi quần. Ngày mai tôi sẽ gửi tiền về cho bà, để cho cái Mai kịp mua áo len mặc Tết. Ba năm rồi, cái áo mút từ hồi lên 8 giờ cộc cỡn ngang bụng rồi.
    Thằng tên Quân nói lơ mơ một hồi rồi ngủ mất, tiếng ngáy nhè nhẹ bên tai. Tôi nhắm mắt lại mà sao đầu óc cứ ong ong, không làm sao ngủ. Ngày cuối năm, nửa đêm người ta vẫn đi lại rầm rập trên cầu. Ngồi bật dậy tôi nhìn đăm đăm ra mặt sông. Sông thăm thẳm tối, bóng tối vạm vỡ phủ lên những con thuyền, phủ lên những cư dân lầm lụi của gầm cầu. Lục tục tiếng người nói mê, tiếng càu nhàu của người đàn bà mỏi mệt. Mắt tôi dỏi xuôi theo dòng chảy. Ở tít tắp xa, ngỡ như cuối cùng của con nước, thấy le lói một ánh đèn. Phía ấy là quê tôi. Tôi cứ ngồi như thế, cho đến khi thấy người mình chĩu xuống. Khung trời tím thẫm đổ xập xuống lòng sông tạo ra màu sông đêm vừa bịt bùng vừa mờ hoặc. Tôi gục xuống, thiếp đi. Ðêm mệt mỏi thở dài.
    Sáng sau, lúc tôi tỉnh dậy thì Quân đã bỏ đi rồi. Và những đồng tiền mồ hôi nước mắt của tôi cũng bay hơi theo. Tôi lao đi. Tôi tìm nó. Qua đường. Leo dốc. Ga Long Biên chật ních những người. Nó đang lếch thếch trong đám người chen chúc. Biết ngay mà, ăn trộm tiền để trốn đây. Nhìn thấy tôi nó vùng bỏ chạy. Chạy bán mạng. Tôi rượt theo. Ðến ngõ cụt. Nó bị dồn vào chân tường. Tôi túm áo nó rồi đấm túi bụi. Nó đứng im, không chống cự. Tôi dừng lại, thấy từ hai hốc mắt nó trườn ra hai giọt nước, nhểu qua má, xuống bờ môi: "Tại tao thèm về nhà quá. Hăm ba tháng chạp là giỗ mẹ tao". Người tôi như quả bóng xì hơi. Ngồi phịch trên hè phố, giữa đông rét mà mồ hôi tôi túa ra. "Tha lỗi cho tao. Hết cách rồi, tao mới thế. Lúc nào mày về nhà tao mà xem, nó nghèo lắm. Nhưng tao phải về. Vì ở đó bố tao đang sống và đợi chờ".
    Tôi bỏ đi. Con tàu hụ từng hồi còi dài, đưa nó về quê. Còn tôi, thực tình, tôi chưa dám chắc chuyến tàu vét nào sẽ dành cho mình trong một ngày chót năm.

    Sau rất nhiều ngày, kể từ khi Quân về quê, tôi vẫn chợt giật mình mỗi khi về lại góc nhỏ nơi gầm cầu. Tôi nhớ rõ Quân nằm ở đó, từng tiếng ngáy dậy thì vỡ vạc ra mệt mỏi giữa đêm khuya. Tôi không trách Quân. Chỉ thương nó nhiều.
    Bây giờ gầm cầu thêm nhiều dân cư mới, cuộc giành giựt chỗ nằm quyết liệt hơn. Nhưng hằng đêm tôi vẫn ngóng về phía cuối dòng sông, nơi có ánh đèn hắt sáng. Phía ấy có bà, có em Mai với những bát cơm đỏ đót màu phù sa, miếng cháy lót nồi chỉ đủ ăn thêm... và những hơi thở lòng người ấm nóng. Mỗi buổi sáng, tôi khắc lên mố cầu một vạch than đen và khoắc khoải một ngày trở về. Cũng chỉ còn vài hôm nữa là đến năm 2000 rồi.
    Ôi những ngọn đèn phía quê hương, đang canh gác cho ngày mai của đời tôi.
    [/FONT]
     
    No MercY, 5dola, julie and 1 other person like this.
  17. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nuôi con một mình[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dương Nữ Khánh Thương[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Giang suýt rơi nước mắt khi con bíu vai thỏ thẻ: "Mẹ Giang ơi, mẹ Giang, mẹ không cho con đi cùng à?". Giang xốc cái túi du lịch cũ kỹ mà gần hai năm trước cô vẫn dùng, hôn con trao cho bà ngoại rồi đi như chạy. Mẹ Giang cũng rơm rớm nước mắt. Thì có khác gì con Giang hai mươi tuổi khi xưa. Cũng đi học. Có điều Giang bây giờ đẫy ra, mặn mà hơn và có cả thứ hành lý không thể mang đi được là bé Bi. Giang đi vào trường. Bác giữ xe ở cổng ký túc xá ngờ ngợ. Bác định kêu lên câu gì đấy xong lại thôi. Vài đứa học khóa sau biết Giang nên nhìn cô săm soi lạ lùng. Giữa cổng ký túc xá, Giang vừa đi vừa sợ lại mọc ra một đôi mắt cũ.

    Cuối cùng các thủ tục cũng xong. Cô ở phòng 411 cách phòng cũ mấy phòng. Phòng cũ chỉ còn An ở lại. Đào, Liên đã ra trường. Tam chuyển ra ngoài. An vẫn hiền lành ra dỡ đồ đạc hộ Giang. Tội nghiệp, nó không dám hỏi tình hình Giang bây giờ. Nó sợ Giang buồn. Ngày xưa nó vẫn hay bênh Giang nhất khi lũ đanh đá cá cầy kia hùa vào nói Giang. Bất kể nói sau lưng hay trước mặt nó đều xông vào bảo vệ Giang quyết liệt dù bọn kia nói cũng có cái lý của nó. Và lúc đấy thì không thể bảo là hiền được, trông nó như con nhím xù lông, hung hăng và dữ tợn lạ thường. Giang sau khi tan cuộc nghe nó kể lại cười: “Chấp gì chúng nó hả em, mà chúng nó nói đúng đấy. Chị mê muội như thế thật”. Đến lúc đấy nó khùng lên: “Chị nói nghe chướng lắm”. Nói xong nó nhảy phốc xuống giường làm một ca nước bể tu mà phát khiếp. Thế mà bình thường nó sống chỉn chu, ngoan lành như một cái máy. Sáng đi học, chiều chui lên cái thư viện bé tí, thoảng lắm mới thấy nó đi chơi. Thế giới của nó rành rọt khác hẳn thế giới của Giang nhưng chưa thấy ai thương Giang như nó.

    Ăn bữa cơm bụi đầu tiên, Giang cứ ngờ ngợ. Cơm nhà ăn quen rồi. Thức ăn chẳng có gì ngoài quả cà, rau dưa quanh vườn, tôm cá phơi khô nhưng ngon lạ lùng. Cơm bụi nhớt nhát, nguội ngặm. Ăn xong Giang lững thững đi dạo bộ. Cô đi đến những chốn quen ngày xưa Quân và cô vẫn hay đi.

    Giang mỏi chân dừng lại ở ghế đá. Một đôi trai gái khác nhanh chân hơn đã đến trước cô. Người con trai dìu tay người con gái kéo xuống ghế. Và chỉ chờ có thế người con gái nhào vào lòng chàng trai. Họ hôn nhau. Giang tự dưng tò mò cứ đứng mãi sau bụi hoa ngọc anh mà ngắm họ. Nụ hôn người con trai tham lam và cuồng nhiệt. Càng lúc họ càng bện chặt vào nhau. Giang không thể tự vấn an lòng mình được nữa. Cô thở dài, lén quay vào bóng tối.

    Những ngày đến giảng đường không còn mang nhiều háo hức như những ngày xưa. Giang giận mình như một đứa trẻ con dẫu đã mang hình hài của một người đàn bà. Sao lúc ở quê đã cảm tưởng chai lì, trơ trẽn được với tất cả mọi tình huống cơ mà???

    Cuộc gặp gỡ chiều nay với Hoan gần như không mong đợi, Hoan là bạn của Quân. Bạn thân nhưng không hiểu sao lại thân với một người như Quân. Không hiểu sao lại thân thì cứ tìm Hoan mà chơi rồi sẽ biết. Nhìn ngón tay Hoan vàng nhờ vì khói thuốc và nụ cười ám nhiều rượu, hơi son đàn bà, hơi tiền Giang đã muốn bật khỏi cái ghế tựa điệu đà của quán cà phê thơ mộng. Nhưng cô cứ ngồi yên, ngồi hơi mơ màng, mi hơi khem khép, tay đặt se sẽ lên đùi, cốc nước hơi lay lay...

    Hoan quan sát Giang có thể nói là hơi kỹ. Hoan cũng không hiểu vì sao nữa. Ngày Quân “đá” cô bé này ra lề đường thì Hoan thấy thương hại, thế thôi.

    Hoan vừa nhắc đến Quân, Giang không còn có thể khóc được rồi nhưng tay cầm cốc nước thì vẫn run run. Hoan nói bây giờ vợ Quân không tịt đẻ như ngày xưa nữa, cô ta cố gắng chạy chữa và đã sinh cho Quân một mụn con trai xấu xí. Vợ Quân cũng không ghen tuông cấm đoán Quân mà để mặc cho Quân trăng hoa nhưng Quân chán. Hoan nói đến đó thì thở dài. Giang định hỏi vì sao chán nhưng thôi, nghĩa lý gì đâu.

    Hoan rủ Giang đến thăm Quân. Giang trợn mắt. Hoan sợ, xua tay: “Thôi, không thích thì thôi. Mà cũng nên oán chứ bỏ qua thì mắm muối quá. Đàn bà rộng lượng ngoảnh đi ngoảnh lại đời đã như tờ giấy nháp”. Hoan đưa cho Giang một nắm tiền toàn tờ to, hơi nhàu bảo Giang mới trở lại học, lớn rồi chẳng nhẽ xin mẹ mãi, cầm mà tiêu nhưng Giang không cầm. Hoan bắt cầm, ngày xưa biết Giang hiền lành, tử tế thế mà Hoan không ngăn Quân được thì Hoan thấy áy náy lắm. Giang cười dài nhờ Hoan nếu quen biết đâu thì xin cho Giang một chỗ làm thêm.

    Về đến nơi An hoảng hốt kéo lay: “Phải chị đã đi tìm thằng đấy không?”. Giang lắc đầu, An ôm Giang: “May quá!”. Giang cười: “Sao lại may?”. An bảo: “Không biết, chị trông rõ sắc sảo nhưng dễ mê muội lắm. Từ nay em sẽ canh chừng chị, chị có biết chuyện chú người gỗ và con dế lương tâm không? Chị là chú người gỗ, còn em là chú dế lương tâm ấy đấy”. Giang không khó chịu với quan tâm của An vì nó dễ thương một cách thái quá như một con nhím xù lông vậy.

    Hai chị em kiếm được việc làm mẫu trong một tiệm may áo dài. Dáng Giang dong dỏng như gái mười tám, các cô đến may áo dài được thoải mái mượn thân hình Giang để ngắm nghía, tưởng tượng mình với một hình mẫu có thật. Lương bán thời gian được triệu đồng/tháng, tính toán cẩn thận còn dư được mấy trăm gửi về cho bà ngoại với bé Bi. Nhưng như thế thì đến bao giờ Giang mới ngẩng cao đầu và vênh mặt được với đời là Giang này vẫn sống rất đàng hoàng. Mà cái từ đàng hoàng rộng nghĩa lắm, không chỉ đủ ăn, đủ mặc. Phải như thế nào mới gọi là đàng hoàng chứ?

    Giang theo Hoan đi buôn. Hàng nửa cấm nửa không cấm. Nói thế cho oai thôi chứ Giang chỉ làm chân vận chuyển hàng. Hoan ưu ái trả công cao. Giang nghỉ quá số tiết quy định, nguy cơ vài môn không được thi. An túm lấy tay Giang giật xuống khi Giang sắp lẫn vào dòng người nhộn nhạo ở bến xe. Giang hét lên: “Em về đi, đây là chuyến quyết định, đi chuyến này về chị sẽ có rất nhiều tiền”. An lấy nước mắt ra dọa, cuối cùng kéo được Giang về. Phòng An không có ai ở nhà, An kéo Giang qua phòng, đóng kín cửa.

    - Chị nói đi, chị trở lại trường để học nốt và có tấm bằng cơ mà?
    - Có lẽ là vậy.
    - Chị đừng trả lời em kiểu nước đôi, mệt mỏi như thế được không?
    - Nhưng như thế thì biết bao giờ mới nuôi nổi bé Bi, mẹ chị già rồi. Bao giờ chị có thể ngạo nghễ nhìn Quân rằng không có anh ấy chị vẫn có thể sống được. Và sống tốt là đằng khác.
    - Bà chị đáng thương, chị tưởng với mấy đồng tiền công mà Hoan trả chị có thể giàu được à, cùng lắm chỉ đủ trang trải tùng tiệm đời sống một đứa sinh viên nghèo. Bù lại chị học hành như một đứa sinh viên cá biệt. Em hỏi chị, học tử tế, có tấm bằng kha khá kiếm một chỗ thơm hay lê lết lấy tiền đi buôn trả tiền học lại cho các môn khác. Đằng nào hơn? Chị sắc sảo ở đâu em không biết chứ với em chị bé bỏng quá đỗi và cả tin, ngây thơ nữa chị Giang ạ. Chị tha lỗi cho em, đứa em chưa hề yêu mà lại dám dạy khôn chị.
    Giang giận An đúng một tuần.
    Một tuần đấy Giang về thăm nhà. Hôn hít con, nói mấy lời sám hối với mẹ, ăn mấy món mẹ nấu rồi tong tả lên trường. Lúc Giang đưa tiền bảo bà ngoại mua sữa cho bé Bi, bà ngoại chối đây đẩy và mắng Giang vẽ vời, cứ lo học cho tốt, bà ngoại còn tiền để dành chưa phải cậy đến cô. Giang chẳng biết nói gì lại bế Bi. Bi vừa mọc thêm mấy cái răng trắng mũm yêu ơi là yêu. Nó ôm Giang: “Mẹ lại không ở nhà với con hả mẹ Giang? Mẹ lên trường mẹ ngủ một mình con ba bị nó bắt mẹ thì sao? Con ở với bà đêm nào bà ngoại cũng ôm chặt con để khỏi ba bị bắt. Mà con ba bị láo lắm có hôm tè dầm lên mắt bà ngoại ướt mèm. Bà ngoại phải lau đấy”. Giang nhìn mẹ, cô vẫn biết là mẹ thương cô nên không muốn trách cứ cô nhiều nhưng bố mất, có mỗi mụn con gái bà chỉ mong cô có tấm chồng tử tế danh giá để mời bà con chung vui một ngày... Thế mà, từ lúc Giang vác bụng về đến lúc Giang sinh bà vẫn cặm cụi chăm sóc không trách mắng nửa lời. Giang ở lì trong nhà còn mẹ buôn bán, tiếp xúc chịu bao lời ong, tiếng ve của người đời. Mẹ lúc nào cũng như cái cây thẳng đứng, cái cây không sợ gió bão quật đổ. Còn Giang thì...

    Giang trở lại trường, đi học chăm chỉ. Buổi chiều phụ bán ở một cửa hàng quần áo, buổi tối lại đi dạy kèm. Cũng tạm ổn. Có mấy anh lớp tại chức mê Giang như điếu đổ, có cả mấy cậu chíp hôi cùng lớp nhưng Giang chả dại. Cửa lòng Giang không đóng nhưng luôn khép hờ. Đấy là lời Tản - một khách quen mua quần áo chỗ Giang. Tản mua khá nhiều quần áo cho cả nam và nữ. Đã đôi lần Giang tò mò tự hỏi: “Anh ta mua cho ai? Mua thường xuyên như thế làm gì? Nàng nào mà được anh ta chiều đến vậy?”. Tự hỏi xong thấy vô duyên vì anh ta mua cho ai đâu có quan trọng bằng mình bán được hàng. Tản hay cười với Giang nhưng chỉ cười chứ cũng không tỏ vẻ thân thiện với một cô bán hàng thuê.

    Chiều Giang định xin về sớm. Tối nay đứa học trò xin nghỉ nên Giang tính rủ An đi ăn một cái gì đó rồi hai chị em đi xem phim. Không ngờ Tản lại đến mua quần áo. Anh ta nhờ Giang chọn mấy kiểu khá trẻ trung. Giang xã giao: “Anh mua cho ai mà thường xuyên vậy?”. Tản cười: “Tôi quen nhiều cô gái đẹp. Mua một vài món quà không đắt lắm nhưng lại thể hiện sự quan tâm đến nhau. Làm vừa lòng các nàng kể cũng như là một cái thú của tôi”. Giang gật đầu: “Ra vậy”. “Ra vậy” là câu nói xác nhận cho sự vỡ lẽ của Giang. Giang đợi một lý do tương tự như thế, nghĩa là lý do gì thì cũng liên quan đến danh từ “phụ nữ” thôi nhưng đáng ra phải có vẻ mờ tỏ hơi tí chứ ai lại... Tự dưng có một làn gió mơ hồ phảng phất, Giang quên tiệt suy nghĩ vừa thoáng qua và chú tâm với việc bán hàng. Giang xăng xái đưa cho anh ta chọn các kiểu mẫu, đưa một cách ồ ạt, nhiệt tình thái quá đến nỗi Tản chóng cả mặt. Giang đang định chuyền tiếp chiếc áo cho Tản thì phải rụt lại vì cái xua tay mệt mỏi của Tản. Giang nâng chiếc áo lên hời hợt ướm lên người, hời hợt soi vào gương giết thời gian. Không ngờ Giang thấy Giang trong gương và mình khác nhau quá. Giang mê mình quá. Mình trông không tệ tí nào lại còn quá tuyệt nữa là đằng khác. Chắc tại cái gương thôi nhưng... Tản giằng lấy chiếc áo trong tay Giang.
    - Cô thích nó chứ?
    - Thích.
    - Tôi mua tặng cô nhé, nó rất hợp với cô.
    - Không. Nếu thích tôi có thể lấy sau đó trừ vào tiền lương.
    - Nhưng nó rất đắt mà lương cô còn phải dùng vào nhiều khoản khác.
    - À, thế thì cảm ơn sự cảm thông của anh. Tôi không được nhận gì ngoài tiền bán hàng của khách!
    - Cô Giang, cô đừng khách khí thế. Một cái áo cũng không nói lên nhiều điều lắm đâu. Đơn giản vì mỗi lần đến mua hàng tôi thích được nhìn thấy cô mặc thế thôi.
    - Tôi không phải ăn mặc vì sở thích của ai.
    - Không thể nói chuyện với cô thân thiện hơn được sao cô Giang?
    -. ..
    - Thôi, chào cô tôi về. Gói cho tôi mấy cái áo tôi đã chọn.

    Giang đưa túi đồ cho anh ta. Gật đầu nhẹ rồi quay vào kiểm tra sổ sách. Giang rời cửa hàng vào lúc chín giờ ba mươi. Quá muộn để xem phim. Giang rảo bước nhè nhẹ trên vỉa hè. Đang mùa thu, lá rải một lớp như thảm mượt mà. “Mình dẫm lên thì đẹp và thơ nhưng với chị lao công mùa lá rụng này công việc vất vả lên gấp bốn. Hạnh phúc, hưởng thụ trong xã hội này chênh lệch nhau quá nhiều”. Giang lẩm bẩm một mình khi nhìn thấy chiếc chổi loạt xoạt nặng nề đang lại gần. Cô phải tránh sát vào các bức tường, chị ta bịt khăn kín, miệt mài quét như không biết một mùa lá rụng đem lại bao sự nên thơ cho thành phố. Một chiếc lá sót lại cọ vào chân, chiếc lá đẫm sương làm chân Giang ươn ướt như vết liếm âu yếm của một con cún nhỏ. Giang đi thơ thới, tâm hồn tưởng mới có mười hai, mười ba, tuổi còn đi trộm quả, trèo cây chứ không nghĩ mình đã là gái một con và ăn bám mẹ thế này.

    Trong lòng Giang những tưởng tượng tươi non làm mọi ý nghĩ đang dang dở với cuộc đời mình tan biến. Giang những thấy mình đang được đi học là hạnh phúc, tự dưng không cần phải lấy chồng mà có đứa con ôm ấp gọi bằng mẹ thì sướng. Giang thấy cả những điều tủn mủn cũng trở nên dễ thương... Cứ thụ hưởng đi chứ, mình không có thứ hạnh phúc được trải sẵn như nhung lụa thì ba chút vui lẻ tẻ cũng đủ dành dụm cho một niềm vui sống đang dâng lên...
    [/FONT]
     
    No MercY, 5dola, julie and 1 other person like this.
  18. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nước trong nguồn[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trần Hồng Long[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hôm đó là một chiều cuối tháng giêng. Tôi vừa ở đằng nhà máy chà gạo của ông già vợ tôi về, chưa kịp nghỉ ngơi thì có tiếng gọi ở ngoài sân: "Cậu ơi! Làm ơn cho tôi hỏi thăm một chút!". Tôi bước ra ngoài thì thấy một người đàn bà chừng năm mươi tuổi, tay xách một chiếc xách đệm - hoàn toàn không phù hợp với dáng vẻ quý phái của bà trong bộ đồ bà ba màu tím than bằng gấm ngoại nhập đắt tiền làm tôn thêm làn da trắng và gương mặt thánh thiện như Đức bà Maria của bà. Tôi hỏi: "Thưa, bà muốn hỏi thăm gì ạ?". Bà không đáp mà cứ đăm đắm nhìn tôi, rồi bước vào đối diện với tôi, môi lắp bắp: "Khanh! Con có phải là thằng Khanh không?". Tôi ngạc nhiên lẫn ngờ ngợ: "Bà là...?". "Má đây! Con không nhận ra má sao Khanh?". Bà buông rơi cái xách, giang hai tay ra định đón tôi, để ôm lấy tôi. Nhưng tôi đã lùi lại tránh vòng tay thân ái của bà, mặc dù lúc ấy ký ức của những ngày thơ trẻ sống bên bà đã cho tôi biết bà là má của tôi. Tôi nhếch môi cười, không ra vui cũng không ra buồn: "Bà là má của tôi thật sao?". Bà vừa gật đầu, vừa đưa tay chặn nước mắt: "Thật, má là má của con, của thằng Kha, con Vy, con Thắm đây!". Tôi gằn giọng mai mỉa: "Bà mà còn nhớ tới ba đứa nó nữa à?". "Làm sao mà không nhớ được hả con? Các con là núm ruột của má mà!". Tôi bảo: "Thôi bà vô nhà đi! Chuyện dài lắm, để từ từ tôi kể cho mà nghe, đã hơn hai mươi năm rồi còn gì!"...

    Năm 1976, nhà tôi ở một vùng ngoại ô thị xã. Ba tôi chạy xe đạp ôm, còn má tôi thì bán xe nước mía dạo. Nhờ sự cần cù của ba má tôi, nên cũng đủ cho bốn anh em tôi đắp đổi qua ngày. Nhưng rồi định mệnh đã giáng xuống gia đình tôi. Chiều hôm ấy, ba tôi đang trên đường đạp xe về nhà sau một ngày cật lực mưu sinh thì bị một chiếc honda chạy ngược chiều tông phải. Kẻ gây tai nạn vô lương tâm đã rồ ga bỏ trốn, để lại ba tôi nằm ngất lịm bên đường. Những người dân tốt bụng đã đưa ba tôi vào viện cấp cứu... Hậu quả là ba tôi bị gãy cột sống, phải nằm bệnh viện mấy tháng liền. Để có tiền chữa trị cho ba tôi, mới đầu má tôi bán cái xe nước mía, sau thì bán luôn căn nhà. Vì ba má tôi đều là những đứa trẻ mồ côi lớn lên từ cô nhi viện, không có họ hàng để nương tựa, nên phải thuê nhà của dì Ba - một gái goá hàng xóm khá thân thiết với má tôi, làm nghề bán thuốc lá dạo ngoài bến xe - ở tạm, với giá rẻ như là cho không. Rồi ba tôi xuất viện trong trạng thái bất động toàn thân. Tiền bán nhà đổ vào thang thuốc cho người bệnh, cộng với năm miệng ăn của người lành chẳng mấy chốc đã hết. Má tôi đổ bánh bò đi bán dạo. Bạn thử nghĩ xem, một xề bánh bò hằng ngày thì làm sao có thể nuôi nổi một gia đình những sáu người? Vì vậy, chuyện chúng tôi ăn khoai, ăn cháo trừ cơm là chuyện thường. Trong lúc đói khổ như vậy, bỗng đâu có người đàn ông lạ đến ngỏ ý giúp đỡ má tôi một số tiền, nhưng má tôi nhất mực từ chối. Sau này, tôi được biết, ông ta là người tình cũ của má tôi. Vì chê má tôi là đứa con gái mồ côi mà ba má của ông ép ông phải cưới một cô gái khác, nhưng cuộc hôn nhân ấy không mang lại hạnh phúc cho ông, nên ông đã ly hôn. Vậy rồi, có một chiều má tôi đi bán bánh bò và đi luôn mấy ngày không về. Anh em tôi ngồi quanh giường ba khóc hết nước mắt. Còn dì Ba thì đi tìm má tôi khắp nơi. Một hôm vừa bước vào nhà thì dì đã la chúng tôi: "Tụi bây đừng có ở đó mà khóc lóc nữa. Nó đã bỏ tụi bây đi theo thằng chả mất rồi". "Chị nói cái gì hả chị Ba? Vợ tôi đã đi theo thằng ấy rồi à?". Ba tôi hỏi dì mà như hét. Dì Ba nói: "Thì hồi nãy tôi đến nhà thằng chả, để nhờ thằng chả đi tìm má tụi nó tiếp tôi thì mới hay thằng chả đã bán nhà một tuần nay rồi. Má tụi nó không đi theo thằng chả thì theo ai chớ? Thiệt là, tình cũ không rủ cũng tới, chứ đừng nói chi đã rủ!". Không biết ba tôi có nghe hết những lời dì Ba nói hay không mà đôi mắt ông đã khép chặt lại. Và, cũng kể từ đó trong tâm thức tôi không còn chứa đựng hình bóng yêu thương của một người mẹ tần tảo sớm hôm, mà chỉ tồn tại sự thù ghét căm hờn đối với một người đàn bà đã đoạn đành bứt lìa những núm ruột của mình, chỉ vì một người đàn ông.

    "Con hãy kể về cuộc sống của con, của các em con cho má nghe đi Khanh!". Tôi nói: "Chỉ e rằng bà không đủ can đảm để nghe thôi! Bà có biết không, khi ba tôi chết được hai ngày thì con Thắm bị nổi trái rạ, dì ba không có tiền đưa nó đi bệnh viện mà chỉ xin thuốc của mấy ông thầy lang. Trị hoài không hết, toàn thân nó lở loét đầy máu mủ đến nỗi không thể nằm trên chiếu được, tôi phải cắt lá chuối lót lưng cho nó, được ba hôm thì nó chết. Trước khi chết, nó còn khóc gọi má ơi!". "Thắm ơn, con chết thật rồi sao hả Thắm? Bà gào lên rồi lảo đảo khuỵu xuống nền nhà. Tôi đỡ bà đứng lên và dìu bà lại ghế ngồi, rót cho bà ly nước mát.

    Sau khi con Thắm chết mấy tháng thì dì Ba cho thằng Kha cho một ông chủ lò bánh Pía ở ngoài thị xã - ngày người ta đến dẫn thằng Kha đi, tôi và con Vy cố giành giựt nó lại nhưng không được. Người ta cho dì Ba một số tiền, dì bèn làm vốn nhảy dù gạo lên Sài Gòn. Mấy chuyến đầu trót lọt, nên dì gom hết cả vốn lẫn lời đánh lớn một chuyến mong có tiền bắt lại thằng Kha. Nhưng không ngờ chuyến ấy đứt dù, trắng tay. Dì định cho tiếp con Vy, tôi nói nếu dì cho con Vy thì tôi sẽ dẫn nó bỏ nhà dì đi bụi. Dì còn dùng dằng chưa quyết thì may sao có người bà con của dì ở quê lên chơi bảo rằng sẽ làm mai cho dì một ông sồn sồn đã chết vợ mấy năm, không con cái nhưng có nhà cửa đất vườn hẳn hoi. Nếu dì chịu thì ông ta sẽ rước về quê ở luôn và hai anh em tôi cũng được theo dì. Nói cho ngay, những ngày sống chung với dì dượng, tuy rằng có cực nhọc một chút nhưng chúng tôi không bị đói. Năm hai mươi mốt tuổi, tôi cưới vợ - hay nói đúng hơn là vợ tôi đi cưới tôi, vì vợ tôi là con gái của một ông chủ nhà máy chà gạo, khá giả - nhà này cũng do ông già vợ tôi cất cho. Còn con Vy thì lấy chồng sau khi tôi cưới vợ một năm. Vợ chồng nó cất nhà riêng tuốt trong Xẻo Lá. Bên chồng nó chia cho ba công ruộng, nhưng vì đông con nên đầu tắt mặt tối quanh năm mà vẫn không đủ ăn.

    "Còn thằng Kha, chắc là cuộc sống của nó có khá hơn?". Bà thở dài não ruột, rồi hỏi tôi. "Không đâu! Ngược lại còn bi đát hơn nhiều nữa kia - Tôi vừa nói thật, vừa cốt để hành hạ bà. Tưởng đâu nó về ở nhà giàu có thì sung sướng tấm thân. Ai dè người ta đày đoạ nó làm lụng cực nhọc ngay từ lúc nhỏ. Năm mười sáu tuổi thì nó bỏ nhà ông chủ lò bánh Pía mà đi hoang. Năm năm trước nó đánh đánh lộn gây thương tích cho người ta, phải ở tù hết ba năm!". "Trời ơi, các con của tôi vì đâu mà ra nông nỗi?". Bà lại khóc. Từ lúc đầu gặp tôi đến giờ lúc nào bà cũng khóc, tưởng chừng như nước mắt của bà đựng trong cái lọ để nằm nghiêng. Mặc dù tôi thừa biết bà đang rất đau khổ nhưng tôi vẫn không buông tha. "Vì đâu mà ra nông nỗi à? Vì chúng tôi không có mẹ đó, bà hiểu không". "Má hiểu, nhưng Khanh ơi... Mà thôi, cho dù má có nói gì đi nữa thì các con cũng không thể tin má. Mấy năm thằng Kha ở tù, con và con Vy có đi thăm nom gì nó không?". "Trong ba năm thằng Kha ở tù, tôi có đi thăm nó được hai lần. Còn con Vy, gạo không đủ ăn thì tiền đâu mà đi thăm nó chứ? Khi nó ra tù, tôi rước nó về đây ở để đi làm nhà máy cho ông già vợ tôi, chung với tôi. Làm đâu chừng hơn một tháng thì nó lại bỏ đi!". " Sao em con lại bỏ đi, hả Khanh?". "Vì nó đã quen lối sống giang hồ!" - Đó là tôi nói dối má tôi, chứ thật ra thằng Kha bỏ đi là do nó không thể chịu nổi khi hàng ngày nhìn thấy vợ tôi lấn lướt tôi, mà tôi thì cứ nhẫn nhịn, chịu đựng cho êm nhà, ấm cửa. Thật ra tôi cũng đâu phải là một thằng đàn ông nhu nhược, nhưng đã sống bên vợ đôi lúc cũng phải chịu sự lép vế. Vả lại, vợ mình mình sợ chứ có sợ vợ ai đâu mà lỗ chứ? - Má tôi hỏi; "Vậy, con có đi tìm em của con không?". Rồi má tôi hỏi thăm dì Ba. Tôi cho bà biết, dì Ba đã chết hồi năm ngoái, vì bệnh tim.

    Chuyện vừa tới đó thì vợ tôi và hai con của tôi đi chơi nhà ngoại hồi sáng về tới. Vợ tôi ngỡ ngàng nhìn người khách lạ: "Ai vậy hả anh?". "Má của tôi đó!". Nghe vậy, vợ tôi lại càng ngạc nhiên hơn. "Sao anh nói má anh chết hồi anh còn nhỏ mà?". Má tôi nói: "Má đi làm ăn xa, đã lâu không về nên thằng Khanh tưởng má đã chết!". Tôi bảo hai đứa con tôi thưa bà nội. Hai đứa nhỏ liền khoanh tay thưa bà. Má tôi mở cái xách lấy ra hai ổ bánh mì mềm èo, xẹp lép cho chúng. Vợ tôi nhìn hai ổ bánh, rồi nhìn cái xách chau mày. "Má định ở đây chơi mấy ngày rồi đi?". Tôi biết, má tôi cũng hiẻu cái nhìn và ẩn ý của vợ tôi trong câu hỏi ấy, nhưng bà vẫn nói: "Má tính về đây ở luôn với các con!". Vợ tôi giương mắt: "Ở luôn? Vậy còn nhà cửa có má thì bỏ cho ai?". "Má đâu có nhà cửa gì đâu con. Mà thôi, nếu như các con thấy má ở đây không tiện thì má sẽ vô ở với con Vy!". "Cô Tư à?" Cổ "nghèo khạc ra tro" thì làm sao mà...?". "Con cứ yên tâm, cho dù ở với đứa nào thì má cũng tự làm ăn được. Má không bắt đứa nào phải nuôi má đâu!". Tôi nghĩ, có lẽ má tôi đã bị người đàn ông kia phụ bạc, đuổi xua nên mới tìm chúng tôi để nương nhờ. Ngày xưa tôi đã từng tự nhủ, sau này nếu có gặp lại bà, tôi sẽ không bao giờ nhận bà là má của tôi. Nhưng, trong hoàn cảnh này thì một chút, chỉ là một chút tình mẫu tử còn lại trong tôi, làm tôi cảm thấy mủi lòng. Tôi nói: "Thôi, má cứ ở đây với tụi con, rồi từ từ tính. Em vô nấu cơm, ăn cho sớm để anh đưa má vô nhà con Vy!". Vợ tôi quạu quọ bỏ ra nhà sau. Rõ ràng em không vui trước quyết định của tôi.

    Nếu nói cuộc gặp gỡ giữa má tôi và tôi là ngỡ ngàng và xa lạ thì cuộc gặp gỡ giữa má tôi và con Vy mới khiên cưỡng, lạnh lùng làm sao. Con Vy không còn một khái niệm nào về má cả. Cũng phải thôi, vì lúc bà bỏ đi nó vẫn chưa đầy bốn tuổi mà bây giờ nó đã có bốn con rồi còn gì? Nó nói: "Kêu bà bằng má, làm tui mắc cỡ muốn chết đi được vậy!". Má tôi nói: "Không sao! Con kêu má bằng gì cũng được! Nhưng với má thì bao giờ con cũng là đứa con gái bé bỏng của má!". Con Vy cười như mếu : "Tui mà bé bỏng gì nữa hả trời? Già "cóp thùng thiết" rồi. Coi bộ tôi còn già hơn bà nữa không chừng!". Thằng chồng của nó thì ngồi im như khúc cây, giấu mặt trong bóng tối lờ mờ của chá đèn trứng vịt. Còn bốn đứa con gầy đét, đen thủi của nó thì túm tụm lại một chỗ trên chiếc giường tre, chóp chép nhai bánh mì của bà ngoại cho.

    Việc má tôi về ở với vợ chồng tôi, làm cho không khí gia đình tôi khá là căng thẳng - chỉ là tại vợ tôi không ưa gì bà mẹ chồng từ trên trời rơi xuống với hai bàn tay trắng, mặc dù má tôi luôn tỏ ra là một người mẹ, một người bà hết lòng yêu con, thương dâu và quý cháu. Má tôi chăm sóc hai đứa nhỏ từng li, từng tí từ giặt giũ, tắm rửa cho đến ăn mặc. Vậy mà vợ tôi luôn cáu gắt, thậm chí là thiếu lễ độ với má tôi. Có lần con tôi đùa nghịch vấp té, vợ tôi đã quát má tôi: "Bà đó! Chỉ có mỗi việc là coi chừng hai đứa nhỏ mà cũng không xong nữa!". Má tôi vừa giỗ cháu vừa nói: "Xin lỗi con! Vì má đang bận chắt nước cơm ở nhà sau!". Vợ tôi chừng mắt gầm lên: "Đồ báo cô ăn hại!". Đến nước ấy thì tôi không còn chịu đựng được nữa, tôi giơ tay lên định tát vợ tôi, nhưng má tôi đã kịp ngăn lại: "Thôi, cho má lạy tụi bay đi, lỗi là do má. Nếu tụi bây còn cãi nhau nữa má đập đầu chết bây giờ!". Nói rồi má tôi lủi thủi đi ra sau bếp, tiếp tục chuẩn bị bữa ăn chiều cho chúng tôi.

    Sau lần cãi vã ấy hai hôm thì má tôi hỏi mượn vợ chồng tôi năm chục ngàn để làm vốn đổ bánh bò bán. Tôi chưa kịp nói gì thì vợ tôi đã la lên: "Trời đất ơi! Bộ má muốn cho thiên hạ nguyền rủa vợ chồng tôi sao hả má?". Má tôi vẫn nhẹ nhàng: "Cái gì mà thiên hạ nguyền rủa hả con? Má biết, vợ chồng con nuôi má cũng đầy đủ lắm. Nhưng má còn sức thì phải biết bươn chải chứ. Vả lại, bán bánh bò là nghề của má, giờ nghỉ ở nhà ngồi không cũng buồn!". Vợ tôi nói: "Đó là tự má muốn đó nghen! Tui mà nghe má kêu rêu là vợ chồng tôi bắt má làm là không được với tôi đâu à!". Nói rồi vợ tôi móc tiền ra đếm đủ năm chục ngàn dằn trước mặt má tôi. Má tôi lấy tiền, bơi xuồng ra chợ rồi đem về nào cối xay bột, cái bồng, cái thau và cả gạo nữa... để làm bánh. Chẳng biết má tôi thức dậy xay bột đổ bánh từ lúc nào mà trời vừa tờ mờ sáng thì bà đã đổ và cắt xong những ổ bánh. Rồi bà chất đầy một cái thau nhỏ, chống xuồng vô Xẻo Lá cho mấy đứa con của con Vy. Khi bà trở về thì trời cũng đã sáng rõ, bà xếp bánh vào thau bưng dọc theo xóm bán dạo và không quên để lại nhà cho hai đứa con tôi những miếng bánh đã chan sẵn nước cốt dừa. Hễ bán hết bánh trở về thì má tôi lại lao vào công việc nhà và chăm sóc hai thằng cháu nội. Rồi lại ngâm gạo, chuẩn bị đổ những ổ bánh cho ngày mai. Tối tối, lúc đã xong hết công việc nhà, má tôi lại sang nhà hàng xóm - chuyên chầm lá vàng đốp bán cho ghe chở đi miệt trên - để chầm mướn tận mười một, mười hai giờ khuya mới về. Vậy mà sáng ra bà vẫn có bánh để bưng đi bán. Đâu chừng hơn mười hôm thì bà trả năm chục ngàn tiền vốn đã mượn của vợ tôi. Và, dường như đã thành quy luật, cứ cách một tuần thì bà mua gạo, dầu lửa, nước mắm, tiêu ỏi, bột ngọt... đem vô Xẻo Lá tiếp tế cho con Vy - nhưng xem ra sự lo lắng của bà đối với nó cũng không làm cho tình cảm của nó đối với bà khá hơn. Mỗi lần tôi gặp con Vy, nó đều bảo, hồi đó bà bỏ anh em mình đi bây giờ bà muốn chuộc lỗi đó mà - và cứ cách hai tuần thì bà lại ra thị xã, đến nhà ông chủ lò bánh Pía, hỏi thăm tin tức của thằng Kha. Lần gần nhất má tôi về với vẻ mặt đầy đau khổ: "Thằng Kha phạm tội giết người, đang bị Công an truy nã, bây giờ không biết nó trốn chui, trốn nhủi ở đâu? Trời ơi, con tôi!". Bà nói rồi ngã vật xuống giường, nức nở.

    Rồi, một thời gian sau, tôi không nhớ rõ là bao lâu, má tôi ốm đi nhiều. Da không xanh, nhưng lại tai tái màu nghệ non, hai mắt đờ đẫn có màu vàng nhạt. Có lúc đang làm việc gì đó bà lại bỏ tắt ngang leo lên giường nằm thở dốc, lại có lúc tôi thấy bà chải đầu mà tóc rụng ra cả nắm. Tôi nói: "Má bệnh rồi, để con đưa má lên huyện khám, nghen má!". Má tôi trấn an tôi: "Không sao đâu con! Má lên chùa hốt vài thang thuốc uống sẽ khỏi thôi mà!". Chiều bà lại lên chùa hốt thuốc đem về và tự sắc uống một mình. Thấy bà đang trong thời gian uống thuốc mà vẫn không chịu nghỉ ngơi, tôi khuyên: " Thôi, má nghỉ đi, chừng nào khỏe hẵng hay!". Bà bảo: "Má phải dành dụm chút ít tiền, nó rất cần cho thằng Kha sau này, con à!". Tôi hiểu, má tôi nói như vậy có nghĩa là bà đã biết một ngày nào đó thằng Kha sẽ bị tù và bà cần tiền để thăm nuôi nó.

    Mặc dù má tôi uống thuốc đã nhiều thang, nhưng sắc diện vẫn không khá hơn, ngược lại càng lúc càng kém đi nhiều. Một đêm, tôi giật mình tỉnh giấc thì gnhe tiếng rên khe khẽ ở dưới nhà sau. Tôi tốc mùng chạy xuống thấy má tôi đang nằm trên giường vẻ đầy đau đớn, bên cạnh bà là thau gạo đang xay dở dang, nước bột trong cối vẫn còn nhểu ton tỏn. Tôi gọi bà: "Má, má sao vậy, hả má?". Bà thều thào: "Má hơi mệt một chút thôi con!". "Để con đưa má đi bệnh viện!". Má tôi gượng dậy cản tôi, nhưng không được. Tôi biết bệnh của bà đã nặng lắm rồi, nên bồng bà xuống xuồng đưa lên huyện ngay trong đêm.

    Má tôi nằm ở bệnh viện huyện được hai ngày thì người ta chuyển lên bệnh viện tỉnh. Sau khi đã làm đủ các xét nghiệm, một bà bác sĩ gọi tôi lên phòng làm việc của bà cho biết, bệnh của má tôi cần phải kịp thời chuyển lên Sài Gòn điều trị thì mới khỏi. Tôi hỏi bà, lên Sài Gòn thì tốn bao nhiêu tiền, bà bảo, chừng vài chục triệu. Vài chục triệu thì tôi không thể nào kham nổi. Vì vậy, tôi đành phải đưa má tôi về nhà sống những ngày còn lại. Chở má tôi về nhà chưa được nửa ngày thì vợ tôi đã đùng đùng thu xếp đồ đạc, chuẩn bị dẫn hai đứa nhỏ về ở bên nhà mẹ đẻ. Má tôi nói: "Vợ thằng Khanh à, con kỹ càng như vậy là phải. Nhưng má đã tính rồi, má sẽ vô chùa nằm chờ ngày theo ba con và con Thắm!" - Nhà tôi ở gần ngôi chùa cổ, đã từng nhận nuôi những người già yếu, những người bệnh tật mà không muốn lụy phiền cho người thân. Tôi nói: "Má tính như vậy không được đâu má! Dù sao thì má cũng còn có hai con, có con Vy mà!". "Má biết, má vẫn còn hai con, và cả hằng Kha nữa. Nhưng để má vô chùa nằm cho các vãi sắc thuốc, biết đâu phước chủ may thầy, má sẽ qua khỏi!". Suy đi nghĩ lại, lời của má tôi nói cũng phải

    Hàng ngày, ngoài những giờ đi làm ở nhà máy, tôi đều tranh thủ lên chùa thăm má tôi. Còn con Vy thì chỉ thỉnh thoảng, chẳng trách vì hoàn cảnh của nó khổ hơn nhiều. Lần nào gặp tôi, má tôi cũng nhắc tới thằng Kha, rồi khóc. Mặc dù được các vãi tận tình chăm sóc, nhưng càng lúc má tôi càng teo tóp lại. Những ngày sắp đi bà chỉ còn da bọc lấy xương. Có lần tôi hỏi: "Má sống với người chồng sau này có con cái gì không? Nếu có thì má cho con biết tụi nó ở đâu để con đi cho hay!". Má tôi chỉ khóc mà không nói. Thấy vậy, tôi cũng không hỏi thêm.

    Một hôm tôi ở đằng nhà máy về muộn - vì phải xay cho hết lúa của một bà hàng xáo - ăn vội mấy chén cơm, tắm rửa qua loa, rồi ra cây rơm vấn con cúi để lên chùa thăm má tôi. Vấn chưa xong con cúi thì thấy lù lù một người vai quảy túi xách, đầu đội nón sùm sụp bước đến bên tôi, gọi khẽ: "Anh Hai!". Thì ra là thằng Kha. Tôi buông rơi con cúi lôi nó tuồn tuột vào nhà, cài chốt cửa lại. Vợ tôi buông một câu mất dạy vô cùng: "Cô hồn nào nữa đây?". Có lẽ vợ tôi không nhận em tôi, vì râu ria lởm chởm. "Thằng Kha đó! Làm ơn tóp cái miệng lại giùm chút đi!". Thằng Kha móc con giao bấm thảy lên bàn cái cộp. Vợ tôi run như cua nướng, hai hàm răng va vào nhau lập cập. "Chị đừng sợ! Tôi sẽ không làm gì chị đâu, nếu như chuyện tôi về đây chị không nói cho ai biết!". Vợ tôi gật đầu lia lịa. Rồi em tôi kể vì sao nó phạm tội giết người.

    Sau khi bỏ nhà đi, em tôi xin làm lơ xe được một thời gian thì nó quen với hai anh em nhà thằng kia, là dân đầu trộm đuôi cướp - thằng em trước đây cũng là dân tài xế. Cả bọn bàn nhau thuê xe mười hai chỗ ngồi chạy tuyến Sài Gòn - Cà Mau để hành sự. Lần ấy, lên xe của chúng, ngoài những hành khách là người trong nước, còn có một bà Việt kiều chở theo nhiều đồ đạc, trong đó có chiếc vali mà lúc nào bà cũng ôm kè kè bên mình. Dưới con mắt nhà nghề, bọn chúng hiểu trong đó đựng gì. Xe chạy đến địa phận tỉnh... thì trời sụp tối, bọn chúng đưa mời khách những chia nước suối đã bơm sẵn thuốc mê. Khi khách đã mê man, đến đoạn đường vắng chúng hè nhau thả họ xuống đường sau khi đã lột sạch tư trang, tiền bạc. Rồi cả bọn về chỗ chia tài sản vừa cướp được. Khi đã cạy được nắp chiếc vali, ngoài những thứ quà cáp đắt tiền mang từ Mỹ về chúng còn đếm được tất cả hai trăm ngàn đô la. Hai anh em thằng kia chơi tồi, định cuỗm sạch số tiền đó nên một cuộc ẩu đả đã xảy ra. Em tôi vốn giỏi võ nên giết chết thằng anh và đánh cho thằng em què quặt. Song, lại bị lực lượng tuần tra của Công an phát hiện, trước khi chạy trốn em tôi đã kịp mang theo hai trăm ngàn đô la. Nó thay tên đổi họ ẩn náu rất nhiều nơi, cuối cùng thì thì cũng bị nhận dạng, nên nó chạy về đây tạm vài hôm rồi sẽ tìm đường qua Miên. Thật lòng tôi không chấp nhận việc làm của nó. Và, tự trong thâm tâm tôi rất mong có tiền để trị bệnh cho má tôi. Tôi bèn kể cho nó nghe chuyện má tôi về đây... Cuối cùng, tôi nói: "Hay là em để lại một ít tiền để anh đưa má đi Sài Gòn trị bệnh!". Nó nạt: "Tôi không có má nào hết há! Nếu tôi có má thì tôi đâu bị người ta bán đi, tôi đâu bị người ta đày đoạ, để rồi cuối cùng tôi phải đi hoang, tôi phải là một tên ăn cướp, một tên giết người đang bị truy nã chứ? Bà chết hay sống không liên quan gì tới tôi, cũng như tôi sống hay chết đâu liên quan gì tới bả!". Tôi biết trong nhất thời khó mà làm cho thằng Kha chấp nhận một người mẹ đã từng bỏ rơi nó, nhưng chưa kịp thì đã nghe tiếng của cô vãi từ ngoài sân vọng vào: "Cậu Khanh ơi! Cậu lên chùa ngay đi! Má của cậu đang hấp hối ở trển!". "Như vậy là không còn kịp nữa! Nghĩa tử là nghĩa tận, em hãy đi gặp má lần sau cùng, đi Kha!". Em tôi còn chần chừ, tôi bèn nắm tay nó đứng lên, vợ tôi cũng dắt hai con cùng theo. Chúng tôi vào phòng của má tôi. Mắt má tôi nhắm nghiền, bà hỏi: "Vợ chồng thằng Khanh đến chưa hả Vy?". Tôi nói: "Tụi con đến rồi nè má! Má coi con đưa ai đến đây nè!". Má tôi mở mắt và rút bàn tay gầy guộc ra khỏi mền nắm lấy tay thằng Kha. "Trời ơi! Thằng Kha, con của má đây sao?. Còn thằng Kha thì máy móc đưa tay cho bà và nói như người trong cơn mê sảng: "Tại sao? Sao lại là bà được chứ? Trời ơi!". Tôi hết ngỡ ngàng nhìn thằng Kha, rồi nhìn má tôi: "Má! Chuyện gì đã xảy ra vậy hả má? Má hãy nói cho chúng con biết đi má!". Má tôi vẫn nắm chặt tay thằng Kha và đảo mắt một lượt nhìn tất cả chúng tôi. Rồi, bằng một giọng chậm dần đều má tôi kể về quãng đời nghiệt ngã của mình.

    " Các con có biết không, chiều hôm ấy má bưng xề bánh bò đi bán. Đi rất xa mà bánh vẫn còn nhiều, má sợ bán không hết thì sáng mai sẽ không có tiền đong gạo cho các con, nên mặc dù trời đã sụp tối má vẫn quẹo xuống đường sông, với hy vọng bán thêm chút ít nữa. Nhưng, không ngờ, má lạc vào bãi đáp của một nhóm người chuẩn bị vượt biên. Vì sợ bị lộ nên họ định thủ tiêu má. May sao có một người đàn bà bảo rằng, giết người trước lúc ra đi là một điều hết sức xui xẻo, tàu của họ sẽ không đến được bến bờ cần đến, hay là để cho má cùng đi luôn. Má van xin họ hãy thả má ra cho má về, vì chồng của má đang bệnh ở nhà, các con của má còn nhỏ. Má hứa với họ là sẽ không nói cho ai biết chuyện này. Mặc cho muốn van xin khóc lóc, họ vẫn đẩy má xuống hầm tàu. Không biết qua bao nhiêu ngày đêm thì tàu cập đảo. Và, má cũng không nhớ mình đã ở trong trại tị nạn bao nhiêu năm thì mới được gọi phỏng vấn. Những thuyền nhân nói với má rằng, nếu má khai thiệt chuyện của má bị ép lên tàu thì họ sẽ nhốt má trong trại đến suốt đời. Cuối cùng thì má được định cư ở Mỹ. Hàng chục lần má gửi tiền về cho các con - qua dì Ba thì cũng hàng chục lần bị hoàn trả, vì không có người nhận. Rồi khi Nhà nước mở cửa cho Việt kiều về thăm quê má đã ba lần về Việt Nam tìm các con, thì cũng ba lần má đều phải trở về Mỹ với niềm đau khôn tả. Nhưng bằng linh cảm của một người mẹ, má tin rằng một ngày nào đó má sẽ tìm được các con. Quả nhiên một hôm má cũng gặp được một người quen cũ, hiện đang sống ở Mỹ, biết được dì Ba đã lấy chồng và đem các con về xứ này... Má lập tức rút hết tiền ở ngân hàng mà gần hai mươi năm má dành dụm là hơn hai trăm ngàn đô la để về Việt Nam cùng sống với các con, cho bõ những tháng ngày khắc khoải nhớ thương. Má dùng số tiền lẻ để mua vé máy bay và quà cáp cho các con, còn số chẵn má để trong vali để chia đều cho bốn đứa - Vì bà ấy không nói cho má biết là con Thắm đã chết, có lẽ bà ấy không nỡ làm cho má đau lòng khi vừa biết được tin của các con. Khi má xuống phi trường Tân Sơn Nhất cũng đã ba giờ chiều, lẽ ra má phải nghỉ ở Sài Gòn, nhưng vì nóng lòng muốn gặp các con nên má lên xe đi luôn... Khi má tỉnh lại thì thấy mình nằm trong bệnh viện. Bác sĩ bảo, lúc trời sáng có anh xe lôi thấy má và mấy người nữa nằm bất tỉnh bên vệ đường, nên đưa vào bệnh viện cấp cứu, rồi, có một người đi nuôi bệnh thương tình cho má ba chục ngàn để đi tìm các con!".

    Tiếng sụt sùi của những người đàn ông, tiếng nức nở của những người đàn bà hoà cùng tiếng cú kêu ở ngoài hậu viên nghe não nùng bi thiết làm sao. Và, tôi cũng đã hiểu rồi, chuyện ông ấy - người tình cũ của má tôi ngày trước - bán nhà đi đâu đó hoàn toàn không có liên quan gì đến má tôi, đó chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên mà con tạo đã tàn nhẫn sắp bày. "Má ơi! Sao má không nói cho chúng con biết để chúng con cứ mãi trách móc, oán hờn má?". Má tôi nói: "Làm sao má có thể nói được khi mà tiền bạc đã mất, hộ chiếu cũng không còn hả con? Kha ơ! Hãy nghe lời má, ra đầu thú để hưởng lượng khoan hồng, mong có ngày về đoàn tụ với anh, với em của con! Con có hứa với má không Kha?". Thằng Kha gục đầu lên ngực má thổn thức: "Dạ, con hứa, con hứa với má, má ơi!". Má tôi thở hổn hển, gấp gáp: "Vợ chồng thằng Khanh nghe má dặn nè, tụi con là anh, là chị thì phải biết chăm sóc các em của mình, nghe con!". Vợ chồng tôi cùng nói: "Dạ, con hiểu rồi, má ơi!". Má tôi nở một nụ cười mãn nguyện, rồi bà như hét lên: "Khanh ơi, Kha ơi, Vy ơi! Các con đâu hết rồi? Sao má không thấy đứa nào hết vậy? Các cháu ơi, sao bà cũng không thấy đứa nào hết vậy?". Tay má tôi từ từ vuột khỏi tay thằng Kha. Nó gào lên điên dại: "Má ơi! Con đã giết chết má rồi, má ơi!". "Má! Má ơi! Má không thể chết được đâu!". Chúng tôi cùng lay gọi bà, nhưng bà đã ra đi về miền vĩnh cửu.
    [/FONT]
     
  19. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nước chảy mây trôi[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Ngọc Tư[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hôm trước ngày đi Đất Mới khai giảng niên học mới, Diệp chở mẹ đi nhổ răng. Trên đường về, bỗng dưng Diệp nghe nước mắt mẹ rớt trên lưng mình. Mẹ than buồn, vì miệng còn ngậm bông gòn nên giọng mẹ bệu bạo (hay tại khóc ?), mẹ nói, không biết thầy Nhiên có chê mẹ già không. Diệp biết mẹ nói không thật, mẹ khóc vì mai này mẹ đã xa Diệp mất rồi, chứ hai mẹ con Diệp hiểu thấu tới đáy lòng, thầy Nhiên không phải là người coi trọng mấy chuyện lặt vặt đó.

    Mẹ Diệp lớn hơn thầy Nhiên đến tám tuổi, hồi họ quen nhau, thầy Nhiên mới ba mươi ba. Nhà may của mẹ cách trường cấp ba Hưng Hải chừng mươi thước, nổi tiếng khắp thị xã về may áo dài. Gặp lần đầu ở buổi họp phụ huynh, thấy thầy vai áo rách, về nhà mẹ Diệp mua vải may tặng thầy một chiếc sơ mi mới, để lấy lòng thầy cho con nó nhờ. Sau này, thầy hay lại nhà nhờ mẹ Diệp may áo. Có lần mẹ hỏi vợ thầy đâu mà để áo rách vầy, thầy cười, còn gửãi ở nhà người. Diệp đi học về, mẹ hỏi, thầy Nhiên ba mươi mấy tuổi đầu chưa lấy vợ, chắc thầy khó tính lắm hả con. Diệp lắc đầu, không, thầy thấy thương lắm.

    Diệp nói thật lòng. Từ ngày thầy Nhiên chủ nhiệm lớp, buổi sinh hoạt nào lớp cũng vui tươi, tràn ngập tiếng hát, tiếng cười, có đứa còn đi học đàn về gảy tửng từng tưng. Thầy dạy môn Văn và biến những tiết học khó khăn này thành một thiên đường của cảm xúc. Giọng thầy ấm áp, sôi nổi, truyền cảm, mắt hay nheo, coi bộ hóm hỉnh, vui tính. Thầy bảo, mắt thầy bị tật hồi còn ở lính, không nheo thì bắn không... trúng, nheo riết thành quen. Bọn Diệp cười, tướng thầy mà bộ đội gì, thầy cũng cười, giỡn hoài, đơn vị còn không định cho ra quân nhưng thầy nhất quyết xin ra, đi dạy học. Đám học trò khen thầy dạy Văn giỏi nhất trường. Nhà trường thì không nghĩ vậy, dạy cháy giáo án hoài mà giỏi gì.

    Sau này, khi xem bộ phim võ hiệp "Tiếu ngạo giang hồ", Diệp phát hiện ra thầy Nhiên giống hệt Lệnh Hồ Xung, cuộc đời anh chàng không thể hoạch định trước, làm gì cũng theo cảm xúc, cả chiêu thức võ công anh ta dùng cũng "nước chảy mây trôi" theo ý mình. Dù vậy, Diệp cũng thảng thốt, bất ngờ rất nhiều khi hay thầy với mẹ thương nhau. Mối tình đó không thể giải thích được vì sao, không thể nói rành rọt bằng lời những cảm xúc dịu dàng mà bỏng cháy trong lòng mỗi người. Bắt đầu từ đâu? Từ miếng băng keo thầy mang đến khi thấy tay mẹ đứt, từ việc mời nhau mấy củ khoai mì nóng thầy mua của chiếc xe đẩy trên đường, hay từ những bữa họp phụ huynh, thầy nhìn thấy mẹ Diệp ngồi trong một góc nào đó, đẹp đẽ, sang trọng mà buồn buồn, vơ vất, như lạc ở một vì sao nào...? Mẹ chỉ biết nói lời xin lỗi Diệp. Nó khó khăn lắm mới bảo, không sao, nếu con là mẹ, con cũng yêu thầy, thầy dễ thương quá trời đất mà.

    Ba Diệp thì không thể tha thứ. Chẳng thèm chửi bới đánh đấm nhau, là người trí thức, ông bác sĩ xử sự rất mềm mỏng. Ông đến trường, níu bất cứ đứa học trò nào ông nhìn thấy, phẫn trí van vỉ (như một người yêu vợ hết lòng), "Cháu làm ơn nói với thầy Nhiên trả vợ lại cho chú, làm ơn, cháu ơi !". Chuyện này gây tiếng vang đến phòng giáo dục, rồi đến Sở. Thầy Vẹn, hiệu trưởng trường vốn là đồng đội cũ với thầy Nhiên, thương bạn lắm nhưng đành buộc thầy thôi việc.

    Rồi thì mẹ Diệp cũng ra đi. Qua cửa, mẹ chỉ có một chiếc va li nhẹ bỗng, trống không. Lẽ ra mẹ có thể mang đi nhiều hơn, nhưng chỉ với hai bàn tay trắng, mẹ mới rửa oan cho thầy trước lời mai mỉa của người đời, rằng thầy chỉ yêu túi tiền của mẹ thôi. Diệp thầm thắc mắc, yêu là phải hy sinh nhiều thứ, vậy sao người lớn đâm đầu đi yêu hoài làm chi cho khổ ?

    Tổ ấm đó cách nhà Diệp một cây cầu, nhiều con đường ngoắt ngoéo. Diệp có đến chơi, đến mà nghe quen thuộc, ấm áp như nhà mình. Hồi trước, Diệp tới nhà thầy chơi hoài chớ gì, nó thuộc lòng từng cuốn sách trên giá, rành rẽ từng chỗ thủng của cái màn cửa. Nhà thầy bừa bộn, đầy màu sắc. Màu của giấy dán tường, của những đường viền tự tay thầy cắt, của những tờ lịch đầy núi, thác nước và mây. Tất cả những cái đó đầy sự sống. Nó khác với nhà Diệp, bốn bức tường đều trắng, Diệp đem hình diễn viên, ca sĩ về dán trong phòng, ba khó chịu. Ở nhà, mọi người phải xem những bộ phim, nghe những loại nhạc bác học mà ba thích. Bữa cơm nào ba cũng tự tay rửa rau, dù mẹ rửa rồi ông cũng phải rửa lại (Diệp ngờ rằng, tình yêu của mẹ đã mất mát từ chuyện ấy, đến rửa rau mà cũng không tin nhau). Ba không ăn ở quán ăn vỉa hè, cự tuyệt những món chuối nướng, khoai nướng bên đường, ba nói ăn vậy là không vệ sinh. Ba bảo mẹ một tuần nấu canh bí đỏ sáu lần, thực đơn này giúp cho Diệp thông minh, học giỏi, giúp Diệp mai sau trở thành một bác sĩ danh tiếng như ông.

    Nhưng Diệp chỉ thích làm cô giáo. Một cô giáo sẽ không vì đám học trò ngỗ nghịch mà nguôi đi lòng thương yêu, không vì danh hiệu thi đua này nọ mà nguôi đi tâm huyết của mình. Giống như thầy Nhiên vậy.

    Một bữa lại nhà mẹ chơi, Diệp chỉ tay vào góc lâu nay thầy vẫn để sách và đàn, nó nói, "Thầy ơi ! Em chỉ cần chỗ này là đủ, ban đêm em ngủ, ban ngày em sẽ ngồi học ở đây". Thầy Nhiên với mẹ nhìn Diệp mừng rưng rưng nước mắt. Nhưng cũng phải đợi đến bữa ba dẫn bạn gái về, Diệp mới ra đi. Ba không ngăn lại, chỉ cười khan, lạnh, đầy cay đắng, hằn học. Diệp thấy mình hơi giống mấy tên phản bội trong phim.

    Bây giờ chuyện cũ cũng đã nguôi rồi, người ta thôi không trầm trồ nữa. Mẹ gầy dựng lại một tiệm may mới, với những khách hàng cũ. Thầy Nhiên quyến luyến đám học trò nên thuê quầy bán sách báo ở trước cổng trường. Ba Diệp đã lấy vợ, có con. Tốt nghiệp đại học xong, Diệp có ghé nhà, thấy ba ngồi giặt tã cho em. Lúc ra về, tổng kết lại thì ba chỉ hỏi Diệp đúng một câu, "Ra trường rồi tính làm ở đâu ?" Diệp nói không biết nữa, nếu chờ được phân công, có thể sẽ về dạy ở một huyện, thị trấn nào đó, có thể ở đó nghèo và buồn.

    Mẹ nói sẽ tìm cách xin cho Diệp ở lại thị xã, thầy Nhiên có nhiều người quen làm trong ngành giáo dục, thí dụ như thầy Vẹn đang làm Phó giám đốc Sở. Diệp chần chừ không biết lắc hay gật đầu. Mẹ thở dài, nửa đêm than với thầy Nhiên, "Chắc mình mau già lắm, Nhiên ơi. Con gái mình thấy rầu quá".

    Rầu chớ, công việc đang lừng khừng, chuyện yêu đương Diệp cũng chẳng tới đâu. Đứa con trai cuối cùng đã thôi lui tới nhà chừng nửa tháng nay, sân trước chưa thấy xe của người mới nào đậu. Mẹ nhắc lại nào Tuấn nào Huy, rồi Phát, Sang, mấy đứa đó thấy thương quá mà sao kỳ vậy không biết. Diệp cười, "Trời đất, tụi nó hả, con đâu có yêu". Mẹ tức quá vặc lại, "Vậy chớ con yêu ai?". Mẹ hỏi Diệp trong một đêm gió rất nhiều. Diệp tự vấn mình câu đó, khi có được câu trả lời, chợt nghe gió thổi tơi bời vào lòng, nghe như gió cấp mười, mười hai trong ấy.

    Hôm sau, Diệp gọi thầy Nhiên bằng ba (nó bẻ miệng đến toát mồ hôi ra). Mẹ với thầy nghe lạ, phì cười. Diệp tá hỏa, tiếng gọi ấy với nó không có ý nghĩa gì hết, kêu tiếng ba thiêng liêng mà lòng vẫn yêu thầy, yêu thầm lặng tự hồi nào không biết. Hèn chi đi xa nhớ quá chừng (tưởng chỉ nhớ nhà thôi), hèn chi mấy thằng bạn trai hay bị đem ra so sánh với thầy (tưởng vì quý trọng quá đó thôi)... Bây giờ không biết làm sao quên được đây, để vầy nguy hiểm quá, người ta nói yêu với say rượu khó che mắt được người đời.

    Diệp ngầm chuẩn bị cho mình một chuyến đi xa. Mẹ không biết, nên mẹ đi chợ, mua hai ký lô khô cá sặc rằn, dịu dàng bảo thầy Nhiên, "Nhiên chở con tới nhà anh Vẹn chơi, sẵn tiện nhờ ảnh giúp cho nó một chỗ làm. Có chút quà này...". Rồi mẹ Diệp tiễn hai người họ ra tới ngoài sân. Lên xe chạy một đoạn, ngó lại thấy mẹ vẫn còn đứng tần ngần, giống như sợ thầy trò Nhiên đi lộn đường hay sẽ lén quay trở lại nhà.

    Nó ngồi sau lưng thầy (như nhiều lần ngồi sau thầy đi mua keo, nút áo, chỉ may cho mẹ), mà lòng nghe dịu ngọt lạ thường, chợt nghe thèm đến rớt nước mắt được nép mặt vào lưng, được choàng tay ôm eo thầy. Chiếc xe chạy lòng vòng qua hết mấy con đường, cứ gặp đèn đỏ là thầy lại quẹo phải, Diệp khúc khích cười, nghĩ, nhà thầy Vẹn đâu có xa dữ vậy. Chiếc xe máy hiểu ý chủ nên nó cũng cà xịch cà lụi, lâu lâu lại phun ra một bụm khói đen xì. Thầy bảo, "Chết cha, chắc là nước vô bình xăng". Mà, chiếc xe vẫn không chịu chết máy hẳn, vậy mới kỳ. May nhờ đến trước cổng nhà thầy Vẹn thì trời đổ mưa, cả thầy Nhiên và Diệp đều mừng húm, kêu lên, "Mưa ! Mưa rồi !" rồi chạy vào quán cà phê ngang đó cho khỏi ướt.

    Diệp vừa phủi nước trên áo, trên tóc mình vừa cười, nhớ lại trên đời này chắc không ai mắc mưa mà phấn khởi như vậy. Thầy trò Diệp kêu hai ly trà đá, bắc ghế ngồi ngó mưa rơi, ngó qua cái tường rào im sẫm đằng trước nhà thầy Vẹn, nghe trong lòng ngại ngần quá trời đất.

    Chỗ này chỉ cách bên đó một con đường, coi vậy mà qua đó cũng nghiêm trọng như Kinh Kha qua sông Dịch. Thật ra, nghỉ dạy ở trường cấp ba Hưng Hải rồi, thầy vẫn thường lại chơi nhà thầy Vẹn. Người đang có chức vị, ngồi cao lại hay ước sống như ông bán lẻ sách báo ở cổng trường (mà càng bán càng lỗ vốn, cứ thấy cuốn sách nào hay là dúi tặng cho học sinh). Thầy Vẹn bảo, "Đâu phải ai cũng làm được chuyện động trời như ông vậy. Nhớ kỹ coi, đang học ngon lành, ông tình nguyện đi biên giới, ở lính được cưng chiều ông không chịu, đòi ra lính dạy học, đang dạy học, lại đòi yêu mà lại đi yêu ngang trái mới chết". Thầy Nhiên cười, "Cũng trả giá dữ lắm, đừng tưởng giỡn". Vợ thầy Vẹn cũng quý bạn chồng, chị nói, "Ông xã em mê anh lắm, ảnh nói bây giờ có một chút chức quyền mới biết cực khi chơi với bạn, cứ phải cảnh giác nhìn nhau không biết người ta sắp nhờ cậy gì mình. Chỉ có anh Nhiên là không tính toán gì hết". Vì chị đã nói vậy nên bây giờ mới khó mở lời...

    Diệp biết thầy Nhiên đang nghĩ lung lắm, nhưng nó không nói gì, nó chỉ lẳng lặng ngồi nhìn mớ tóc cứng như rễ tre đã chớm bạc trên đầu thầy. Hồi trước, mỗi khi thấy tóc thầy dài, Diệp vẫn hay nhắc, biểu đi cắt, để tóc vậy coi già thấy mồ. Hồi đó, thầy cười cười, "Đâu nè, vầy là vừa chớ". Sau rồi Diệp biết, thầy cố tỏ ra luộm thuộm để đuổi cho kịp mẹ, để mẹ khỏi buồn, khỏi mặc cảm chuyện vợ già chồng trẻ. Thầy tinh tế cả chuyện ăn mặc, chuyện xưng hô. Ở nhà Diệp, ai tới cũng bảo ngộ, nhất là mấy anh chàng đang đeo đuổi Diệp, họ bảo, "Nhà Diệp không có tôn ti trật tự gì hết, thấy lộn tùng phèo". Thí dụ như chuyện xưng hô, rõ ràng nghe thầy Nhiên với mẹ kêu nhau Nhiên Nhiên Thúy Thúy giống bạn bè hơn là chồng vợ, còn Diệp gọi thầy thì tùy hứng, có lúc kêu cậu, có lúc gọi "đại sư ca".

    Nhớ tới đâu lòng Diệp đau tới đó, nhà giống như thiên đường vậy, mà mình lại phải đi xa. Ngoài trời vẫn còn mưa, nước chảy ròng ròng vào miệng cống. Thầy bảo mưa dai quá hen. Diệp cười, dạ, mưa dai thiệt. Thầy hỏi, hay là hai cậu cháu mình chạy qua gặp thầy Vẹn một chút. Diệp lắc đầu, thôi cậu !

    Diệp không đành lòng cùng thầy cầm gói cá khô bước qua cửa nhà thầy Vẹn. Muốn hay không, khi quay trở lại, thầy trong lòng Diệp sẽ không tròn vẹn như bây giờ. Mất mát đó có thể rất mỏng manh, nhẹ như hơi thở, có thể chỉ là cảm giác vậy thôi. Thầy trông sẽ hèn hèn đi một chút, ngượng ngập một chút, vẩn đục một chút. Diệp muốn giữ vẹn trong lòng mình một hình ảnh đẹp, một người đàn ông lúc nào cũng nồng ấm, đĩnh đạc, thư thái, đầy khí phách và thành thật với con tim. Lỡ mai mốt đây gặp hoàn cảnh khó khăn nào, Diệp còn có thầy Nhiên mà vịn vào, đứng lên, đi tiếp. Nếu phải đi xa để những điều tốt đẹp còn nguyên lành mãi thì cũng đáng lắm chớ.

    Lúc về trời vẫn còn mưa, Diệp có dịp giấu mặt vào lưng thầy, khóc chơi. Trời ơi, nép sau một cái lưng rộng và ấm áp như vầy để khóc đã thiệt. Mẹ hạnh phúc biết bao nhiêu.

    Lúc về Diệp ôm vai mẹ, Diệp bảo mớ khô cá sặc rằn này hôm nào làm liên hoan tiễn con đi, mẹ nướng rồi xé trộn xoài sống, con thích món này lắm. Chỗ con tới có thể buồn và nghèo, có thể cách trở xa xôi, có thể đám học trò của con lấm lem sình đất, nhưng con không ngại, để con hát cho mẹ nghe bài này, rằng "Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng. Gian khổ sẽ dành phần ai?". Mẹ nghe xong, rớt nước mắt, day qua thầy Nhiên, không rõ khen hay than mà giọng buồn hết biết: "Nhiên coi, không phải máu mủ của Nhiên mà con mình nó giống y chang Nhiên vậy. Muốn là làm".

    Đâu nè, đâu phải muốn là làm, cũng phải suy nghĩ đắn đo dữ lắm. Coi lại, làm gì có chuyện con người được sống hồn nhiên như nước chảy mây trôi ? Phải chọn lựa và trả giá chớ...
    [/FONT]
     
    No MercY, 5dola and LeTruongps like this.
  20. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nửa đêm về sáng[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tạ Duy Anh[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi nhớ lần đầu anh ta gọi đến vào khoảng 12 giờ đêm. Có vẻ như anh ta vừa uống rượu nên giọng không được chuẩn lắm. Tuy nhiên tôi chỉ biết vậy mà không được quyền thóc mách sâu hơn. Sau một lát ngập ngừng, anh ta hỏi tôi:
    - Đề nghị 1080 cho biết khi người ta cô đơn thì người ta nên làm gì?
    Suýt nữa thì tôi đã bật cười vào máy. Bằng khả năng nghề nghiệp, tôi nhận ra người hỏi không thuộc loại hiếu sự thích đốt tiền bằng cách trêu đùa một cô gái, mà về nguyên tắc cô ta không được phép bỏ máy khi khách còn có nhu cầu muốn biết thông tin. Qua giọng nói, tôi đoán anh ta quãng bốn mươi tuổi. Việc đoán chính xác tuổi khách hàng, với riêng tôi, rất quan trọng. Nó cho tôi những dữ liệu hữu ích để phỏng đoán khái quát về người ở đầu dây bên kia, từ đó lựa chọn thái độ đàm thoại thích hợp. Chẳng hạn với một thanh niên, có thể dùng giọng hài hước chút ít, câu chuyện sẽ nhẹ nhàng hơn. Còn với một ông trung niên, lại trong tâm trạng cô đơn (vào giờ ấy một người trung niên ít khi đùa cố ý) thì nói gì chưa chắc đã quan trọng bằng nói thế nào. Sau vài giây cân nhắc, tôi vui vẻ đáp:
    - Anh thử nghĩ về một kỷ niệm đẹp nào đó xem.
    - Với ai? - Giọng anh ta chợt nhỏ xuống và như đang hỏi một người tri kỷ. Điều đó khiến tôi giật mình. Tôi hoàn toàn tin là anh ta cô đơn thật và cái cách tìm đến 1080 là đã có cân nhắc nghiêm túc hoặc chẳng còn cách nào hơn.
    - Với một cô bạn gái thời sinh viên chẳng hạn.
    Tôi nghe rõ một tiếng thở dài bị nén xuống.
    - Cảm ơn cô! Nhưng nếu có một kỷ niệm như vậy thì chính là điều mà tôi đang muốn quên đi.
    Giọng anh ta, dù cố làm ra bình thản nhưng vẫn không sao giấu được vẻ chua chát. Tôi vội nói:
    - Thành thật xin lỗi anh nếu tôi có vô tình khía thêm vào nỗi bực bội của anh...
    - Không! - Ông ta ngắt lời - Hoàn toàn ngược lại. Nghĩa là cô giúp tôi nhẹ bớt đi rất nhiều những gì tôi tưởng một mình không thể kham nổi đến sáng mai. Cô rất có khả năng làm an lòng người khác.

    Tôi cảm thấy xúc động và tin vào sự chân thành của ông khách ở đầu dây bên kia. Tôi khuyên anh ta đi ngủ, rằng sau một giấc ngủ, đôi khi người ta đã đến một miền đất khác. Ở đó mọi thứ đều mới mẻ... Đáp lại, anh ta bảo đã nhiều đêm anh ta mất ngủ và đêm nay "chợt nhớ" trên đời còn có 1080...

    Hoá ra anh vừa chia tay với vợ, cũng đồng thời là cô bạn gái duy nhất thời sinh viên. Cô ta bỏ anh và đứa con trai bảy tuổi lại để bay sang Đức với gã tóc vàng từng tuyển cô ta vào làm thư ký văn phòng. Bi kịch với anh là ở chỗ, mặc dù rất khinh bỉ vợ trước lối ứng xử như vậy nhưng lại không thể quên cô ta được. Vài ngày trước đây anh đã phải tìm đến rượu. Người anh ướt sũng rượu và nó giúp anh quên cuộc đời trong chốc lát. Nhưng khi tỉnh lại, ngoài nỗi u buồn nặng trĩu hơn, anh thấy mình có lỗi với con. Chính điều này đã cho tôi có được một lời khuyên với anh ta. Nhưng tôi cảm thấy anh trở nên tỉnh táo hơn chính bởi anh đã nói ra được những điều riêng tư ấy.

    Thế là chúng tôi thoả thuận thiết lập một đường dây riêng với nhau. Tôi cho anh biết lịch trực đêm của tôi. Còn anh hầu như cứ đúng giờ ấy là lại gọi đến. Khi tôi thưa máy, anh thường không giấu được sự hớn hở. Có hôm thay vì hỏi để nghe trả lời, anh hỏi để được hỏi lại. Có hôm anh chẳng kể gì đến anh và cậu con trai, mà nói huyên thuyên những chuyện ở cơ quan. Qua đó tôi biết anh là giảng viên ở một trường đại học. Một điều tự tôi lấy làm lạ là chưa bao giờ tôi thấy những câu chuyện của anh nhàm chán. Nó hấp dẫn tôi trước hết ở những kiến thức chứa đựng trong đó. Anh hiểu rộng, gồm nhiều lĩnh vực. Không ít trường hợp tôi mạnh dạn hỏi lại anh những kiến thức mà tôi chưa tự tin lắm, cả những điều tôi chưa từng biết, chưa từng thấy trong sách nên đành gác nợ khéo léo với nhiều khách hàng.

    Một hôm anh gọi điện sớm hơn. Anh hốt hoảng hỏi tôi khi trẻ bị sốt, chân tay co giật thì cần làm ngay việc gì. Vào giờ ấy văn phòng tư vấn y tế đã đóng cửa. Tôi bèn bảo anh cứ chờ máy, kịp để tôi hỏi một anh bạn bác sĩ. Anh bạn này bị đánh thức vào nửa đêm thì lầu bầu bực bội, nhưng cuối cùng thì chính anh ta lại cuống lên. Tôi chuyển lại cho anh những lời bạn tôi nói và dặn thêm sáng sớm mai anh nhớ gọi lại báo cho tôi biết. Sau đó ba, bốn ngày liền không thấy anh gọi đến. Tôi cứ thấy lo lắng thay cho bố con anh. Và một tình cảm không thể giải thích được cứ lăm le trỗi lên trong ý nghĩ của tôi. Chẳng hạn tôi chẳng thể tập trung được vào việc gì, luôn luôn hồi hộp mỗi khi có tiếng đổ chuông và khi không phải cái giọng ấm áp, tin cậy của anh thì tôi thấy hẫng. Tôi cố hình dung xem khi một người đàn ông phải chăm con một mình, lại vào lúc nó ốm, thì họ xoay xở ra sao.

    Nhưng tôi không phải chờ lâu. Đúng một tuần sau thì anh gọi lại. Và quả là như tôi dự đoán, anh đã phải vừa giảng dạy vừa chăm con trong viện. Anh vui mừng báo cho tôi biết cháu đã qua cơn nguy kịch, hiện đang do một chị đồng nghiệp của anh chăm nom giúp. Tự dưng tôi nóng bừng cả mặt. Tôi rất muốn hỏi về "chị đồng nghiệp", nhưng chả lẽ lại hỏi chuyện chẳng liên quan gì đến mình. Tôi đành hỏi anh cuộc sống dạo này ra sao, đã ngủ được chưa, anh bảo nhờ những lời khuyên của tôi mà anh đã bớt căng thẳng rất nhiều. Đến lượt anh trấn an tôi, rằng cuộc đời thế mới là cuộc đời. Nó thường không theo ý muốn riêng của bất kỳ ai. Chẳng thể cứ ôm mãi trong lòng những gì đã vĩnh viễn lìa xa mình, trong khi còn có tương lai và nhiều việc hữu ích khác. Liệu cái cô "đồng nghiệp" nào đó có can dự gì vào đây không? Tôi tự chế nhạo mình ngay: Đừng có vớ vẩn. Ông ta chỉ là một khách hàng. Ông ta phải trả 300 đồng mỗi phút cho những câu hỏi, nghe lời khuyên, nghe lời động viên, hỏi lại và động viên lại. Xét về mặt nào đó ông ta là người vô hình, người ảo; và chỉ có bảng ghi thanh toán là ghi lại những điều có thật. Tuy thế, từ cơ quan về nhà, tôi lăn ra giường và nằm úp mặt xuống gối. Đúng lúc anh bạn vẫn đeo bám tôi, làm ở một trung tâm tư vấn tình cảm, gọi điện đến. Không hiểu sao tôi thấy giọng anh ta nhạt nhẽo đến thế. Cả người anh ta cũng nhạt thếch, từ chân đến đầu. Lạy giời anh ta đừng có dẫn xác đến. Tôi đáp chiếu lệ vài lời hỏi thăm rồi lấy lý do buồn ngủ để ngắt máy.

    Ông khách đặc biệt của tôi không gọi đến nữa. Chắc anh ta có trong tay ngần ấy lời khuyên là đủ rồi. Cũng có thể anh ta không thấy cần thiết phải đốt tiền thêm nữa. Xét về mặt nghiệp vụ thì tôi đã làm tốt một công việc. Nhưng chả hiểu sao cứ mười hai giờ đêm tim tôi lại đập những nhịp khác thường, bất chấp mọi sự cảnh cáo của lý trí. Tôi khuyên anh ta "nhớ về một kỷ niệm nào đó hoặc nếu không thì hãy tìm kiếm những kỷ niệm mới, bởi cuộc đời không phải ai cũng bán rẻ những lời thề nguyền". Tôi khuyên anh ta như vậy để giờ đây đang sợ anh ta đã thực hiện được điều đó do nghe lời tôi khuyên. Sao con người lại phức tạp thế nhỉ. Đến ngay chính bản thân tôi, tôi cũng không hiểu được.

    Cuối cùng để giúp mình thoát khỏi những dằn vặt vô cớ, tôi quyết định dò theo số điện thoại tìm đến nơi ở của bố con anh. Việc này không khó khăn gì. Đó là một buổi chiều đầu đông nhè nhẹ gió heo may. Cũng là buổi chiều mà tôi sẽ còn nhớ mãi, bởi nó để lại trong tôi cả niềm vui lẫn nỗi buồn. Tôi đã tận mắt thấy bố con anh cùng một phụ nữ đã cứng tuổi, hiền thục và có duyên, tíu tít từ siêu thị trở về. Có vẻ như sắp sinh nhật ai đó. Như một vị khách qua đường, tôi đứng lại chốc lát để ngắm kỹ gương mặt anh, một gương mặt rất đàn ông, trung thực, giàu trí tuệ và sống có trách nhiệm. Thôi, cầu chúc cho anh. Chắc chắn chị ấy phải là một người tốt...

    Tôi cố gắng trở lại với công việc của một nhân viên 1080. Đúng mười hai giờ đêm hôm ấy chuông điện thoại réo lên. Nào, lại ai nữa đây. Tôi chào khách và liền đó tiếng một cậu bé nhỏ nhẹ cất lên:
    - Thưa cô cháu tự dưng buồn quá. Cô có thể kể cho cháu nghe một chuyện cổ tích nào đó được không?
    - Liệu cô có thể biết lý do vì sao cháu buồn không? Mà cháu học lớp mấy rồi?
    - Cháu học lớp hai (tôi nghĩ nhanh: Cũng một cậu bé bảy tuổi) và cháu chỉ có thể nói với cô được thế thôi.
    - Vậy thì ta bắt đầu nhé.

    Tôi đã kể cho cháu nghe câu chuyện do tôi bịa ra, được cổ tích hoá. Có hai bố con nhà nọ sống cảnh gà trống nuôi con. Rồi có một cô tiên xuất hiện. Rồi... Đột nhiên cháu bé bảo: "Chuyện của cô kể giống hệt chuyện của bố con cháu. Nhưng liệu cậu bé có hạnh phúc với một người không phải là mẹ cậu hay không?".
    - Sao không? - Tôi đáp dứt khoát - Cháu cứ chờ xem.
    Sau đó không thấy cậu bé điện đến hỏi nữa. Liệu có phải là chính con trai anh không? Chắc nó cũng như anh, trong trái tim đã có chỗ cho người phụ nữ kia!

    Không khỏi có lúc tôi ước cho anh lại cảm thấy cô đơn. Nhưng ý nghĩ đó bị tôi xua đuổi nhanh chóng. Tôi cần chuẩn bị thêm những tình huống khác để có câu trả lời ngay. Giả dụ một hôm nào đó có người hỏi "khi hạnh phúc quá thì nên làm gì?" Sẽ trả lời họ ra sao. Điều chắc chắn là loại câu hỏi như vậy sẽ không đến vào lúc mười hai giờ đêm, bởi vào giờ ấy người hạnh phúc đang ngủ say.
    [/FONT]
     
    No MercY, 5dola and LeTruongps like this.