[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phận đàn bà[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hoàng Phương Nhâm[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đi học về, vừa bước vào sân tôi đã nhìn thấy mẹ lúi húi làm thịt gà ngoài giếng. Vẫn nguyên cặp sách trên lưng, tôi nhào đến cạnh mẹ, sung sướng và ngạc nhiên: - A! Hôm nay được ăn cơm thịt gà rồi! Có sự kiện gì đặc biệt à mẹ? Không như mọi bận, mẹ nói với giọng buồn buồn: - Thôi, con vào cất sách vở đi rồi ra giúp mẹ một tay. Hôm nay nhà mình có khách. Tôi vấn cố nèo một câu: - Vị khách này chắc ở diện "đặc biệt quan trọng" phải không mẹ? Mẹ không trả lời chỉ khẽ gật đầu và giục: - Con có nhanh lên không nào! Tôi nghĩ, chắc hôm nay chị Thuý đưa người yêu về trình diện với mẹ. Mấy hôm trước tôi đã nghe chị nói với mẹ như vậy. Nhưng hôm ấy, mẹ có vẻ vui hơn hôm nay nhiều. Sợ mẹ lại giục lần nữa, tôi chạy ào vào nhà và tôi sững sờ khi gặp một người đàn ông dáng khắc khổ, rụt rè đứng sau mành như đang đón đợi. Người đàn ông mà tôi đã thề là không bao giờ mong ngóng. Tôi căm thù ông ta. Người mà khi tôi mới lên sáu tuổi, tôi đã mài dao giấu dưới gối chờ ông quay lại. Tám năm trôi qua, nhiều khi tôi không còn nhớ đến con dao ấy nữa và cũng không hiểu nó biến mất từ lúc nào. Bây giờ bất ngờ nhìn thấy gương mặt này, cơn giận của tôi lại bừng bừng bốc lửa. Tôi không nghe người ấy nói gì mà quay ngoắt người chạy ra giếng. Mẹ tôi vẫn bình thản như chẳng có chuyện gì xảy ra. - Mẹ! - Tôi gằn giọng - Ông ta về đây làm gì? Mẹ tôi không trả lời câu hỏi của tôi mà chỉ giục: - Con nhanh lên còn ra giúp mẹ một tay nào! Tôi vùng vằng: - Nhưng mà... Mẹ tôi nhẹ nhàng: - Thôi nào, hộ mẹ tí đã rồi hẵng hay. Đi, con gái! Vẫn vùng vằng, tôi miễn cưỡng đi vào. Tôi không vào nhà để cất cặp sách và thay quần áo vì không muốn nhìn thấy gương mặt người ấy, người đã làm cho mẹ con tôi khốn khổ trong bao nhiêu năm trời. Tôi quăng cặp sách lên mặt bể rồi vào bếp nấu cơm. Tôi cầm que cời đập vào cái thành xoong vô tội vì nó to hơn mọi bữa. Mẹ tôi vẫn không tỏ thái độ gì, vẫn như ngày xưa, nhẹ nhàng, ân cần với người ấy ngay cả khi người ta thú với mẹ rằng đã trót đem lòng yêu thương người đàn bà khác. Rằng đã lỡ sắp có con với người ta. Khi đó, tôi đang chuẩn bị đi học lớp Một. Dì Xuyến kể, trước đây tôi cũng có một người bố. Bố của tôi là một người rất tuyệt vời. Bố yêu mẹ khi cả hai người còn đang học cấp ba trường huyện. Hồi ấy, những người bạn của bố và mẹ đều ao ước có một mối tình như thế. Bố đi bộ đội, mẹ vào học trường trung cấp nông nghiệp tỉnh. Sau năm năm ở bộ đội, bố chuyển sang công tác tại Sở Giao thông vận tải với một chức vụ nhiều người mơ ước. Bố mẹ cưới nhau và một năm sau, chị Thuý được sinh ra trong ánh hào quang rực rỡ của tình yêu. Lúc đón mẹ và chị Thuý từ nhà hộ sinh về, bố nâng chị giơ lên khoe với mọi người, vụng về đến nỗi làm chị đau, chị oa oa khóc rồi tè ướt cả ngực áo bố. Mọi người cười ngả nghiêng. Bố lấy làm hãnh diện vì điều đó nên trước khi trao chị Thuý cho mẹ, bố còn âu yếm thơm lên khuôn mặt nhăn nheo của chị. Dù sao thì chị Thuý cũng vẫn còn có những tháng năm sung sướng. Chị được sự yêu chiều cả bố lẫn mẹ. Sau này, chị kể cho tôi nghe rằng, dù trời nắng nóng đến mấy mỗi khi đi làm về, bố không kịp thay quần áo đã bò ra nhà làm ngựa cho chị nhong nhong trên lưng. Những ngày nghỉ, bố chẳng mấy khi đi đâu mà chỉ quanh quẩn ở nhà cho mẹ sai vặt và làm cho chị những đồ chơi tinh xảo như được mua từ cửa hàng về vậy. Chị Thuý lớn dần, chị càng lớn bố càng có vẻ bận việc và ít về nhà hơn và nếu có về cũng chỉ ghé vội qua nhà, để lại cho hai mẹ con ít tiền hay một vài thứ đồ dùng gì đó rồi lại đi luôn chứ không nghỉ qua đêm ở nhà. Năm chị Thuý lên sáu tuổi, bố tôi về nghỉ ở nhà hẳn một ngày. Bố có vẻ buồn buồn và dường như có điều gì đấy định nói với mẹ mà không nói được. Mẹ thì vẫn dịu dàng chăm sóc bố. Thấy bố buồn, mẹ càng yêu thương bố hơn. Chiều đến, bố bắt gặp mẹ lặng lẽ khóc trong bếp và thế là đêm ấy bố ở lại. Dì Xuyến bảo, tuổi của tôi phải bắt đầu tính từ đêm hôm ấy. Khi có tôi, những đồ chơi bố làm cho chị Thuý dạo nào chị chỉ giữ lại một con búp bê gỗ còn chị cho tôi tất cả vì khi ấy bố đã chuyển công tác đi nơi xa ít khi về nhà được. Từ khi ấy mẹ tôi trở nên trầm lặng hơn trước nhưng đối với mọi người trong nhà, mẹ lại tỏ ra ân cần hơn. Ông bà nội ngoại của chúng tôi đều đã già cả. Dì Xuyến lại đi học xa, mẹ tôi như con thoi đi về cả hai bên. Còn bố tôi thì cứ đi công tác biền biệt mãi, nhiều năm, tết đến bố cũng không về, thư từ cũng chẳng có. Một mình mẹ tất bật sắm sửa mọi thứ để cả nhà đón năm mới như mọi nhà khác. Mẹ bảo, bố không về được là vì bận công tác đặc biệt. Mẹ đưa chị em tôi đi tết hết bên nội rồi bên ngoại. Hồi ấy, cả chị Thuý và tôi đều còn bé, chúng tôi còn mải vui với những bộ quần áo mới, với những đồng tiền mừng tuổi và nhiều thứ khác trong dịp tết nên nỗi buồn thiếu vắng bố chỉ thoáng qua. Chúng tôi luôn yên chí rằng bố đang bận một công việc gì đó quan trọng lắm. Thú thật, lúc đó có ai hỏi về bố, tôi còn lấy làm hãnh diện, vênh mặt mà trả lời rằng: "Bố cháu đi công tác!" và tôi nghĩ họ sẽ hiểu rằng công việc ở cơ quan mà thiếu bố thì sẽ hỏng bét, không thể có người thứ hai thay thế được bố! Điều đó làm cho tôi tự hào vì tôi là con gái của một người như thế. Năm tôi lên sáu tuổi, mẹ và chị Thuý đưa tôi đi học lớp Một. Trước khi vào lớp, tôi hỏi: - Mẹ! Đây là một sự kiện quan trọng đối với con phải không? Mẹ nhìn tôi mỉm cười: - Ai bảo con vậy? - Chị Thuý! Mẹ âu yếm xoa đầu tôi: - Chị Thuý nói đúng đấy con ạ! Hôm nay đối với con thật quan trọng vì con bắt đầu đi học. Tôi vội ngắt lời: - Vậy mà bố không có ở đây với con. Tiếc quá! Mẹ không nói gì. Chị Thuý quát khẽ: - Thôi, nói năng lung tung thế đủ rồi. Vào lớp đi chẳng bọn chúng nó ngồi hết chỗ! Chị khẽ ẩy vào vai tôi. Tôi chạy đi nhưng vẫn ngoái đầu lại nhìn mẹ và chị Thuý. Tôi thấy mẹ gật đầu mỉm cười. Nụ cười ấy không tươi như lúc trước. Khi ấy, tôi không hiểu gì và tôi cũng không quan tâm lắm đến mọi chuyện xung quanh, vì tôi còn đang mải nghĩ đến những đứa bạn mới ngồi bên cạnh và nghĩ đến những trò chơi mới đang đợi ở sân trường. Gần tết năm ấy bố tôi về ở nhà vài hôm. Cả tôi và chị Thuý đang thích mê đi vì những món quà tết của bố cho và những bộ quần áo còn thơm mùi vải mới. Nhưng còn già nửa tháng nữa mới đến tết, chúng tôi lại cất tất cả những thứ đó vào tủ để dành. Đi học về, tôi quấn quýt với bố, kể cho bố nghe tất cả những chuyện của mình ở nhà, ở lớp nhưng bố cứ ậm ừ cho qua chuyện làm tôi thấy chán. Hình như bố đang có điều gì khó xử và giữa bố và mẹ có chuyện gì đó muốn giấu không cho cho chị em tôi biết nên hai người đang nói chuyện hễ thấy chúng tôi lại dừng. Mẹ như muốn nuốt tiếng thở dài vào bụng. Đêm ấy, chúng tôi đi ngủ đã lâu, tôi chợt thức giấc vì mót đi tiểu. Nhìn ra nhà ngoài thấy đèn vẫn sáng, tôi định gọi mẹ, bỗng nhiên tôi nghe thấy tiếng sụt sịt. Hình như mẹ khóc. Tôi ngạc nhiên. Sao mẹ lại khóc? Vẫn im lặng. Một lúc sau, mẹ hỏi: - Thế mình định bao giờ đi? Tiếng bố khàn khàn, nặng nhọc: - Cũng không thể nấn ná được nữa... Cô ấy sắp đến ngày sinh... Đợt này lên chắc tôi không còn được làm việc ở cơ quan nữa... Tôi cũng không còn là đảng viên... Mình với các con tha lỗi cho tôi. Tôi không thể giấu mình và các con mãi được... Tiếng mẹ run run nhưng có vẻ đã lấy lại được sự bình tĩnh: - Tôi xin mình đừng nói cho các con biết. Cứ để sau này chúng lớn đã... Mình nói với tôi thế là được rồi... Giọng nói của mẹ tắc nghẹn trong im lặng. Tôi nằm cứng đơ như khúc gỗ không phải vì mót tiểu mà vì ức lên tận cổ. Tôi đã lờ mờ đoán được chuyện gì sắp xảy ra. Thì ra, lâu nay bố không về với mẹ con tôi vì đã đi theo người đàn bà khác. Bố đã bỏ mẹ con tôi, không còn yêu thương chúng tôi vì bố sắp có một đứa con khác. Tất cả những điều tốt đẹp về bố bỗng vỡ oà trước mắt tôi. Thương mẹ bao nhiêu tôi lại căm bố bấy nhiêu. Trong tôi chợt bùng cháy dữ dội một ý nghĩ, không thể để cho ông ấy đi với người khác, không một đứa trẻ nào được làm con ông ấy nữa. Tôi phải giết ông ấy ngay đêm nay! Phải, ngay đêm nay! Mãi lâu tôi mới nghe thấy tiếng mở mành, chắc ai đó đã đi ra sân, tôi vờ ngái ngủ gọi: Mẹ ơi! Mẹ chạy vào. Tôi vờ nhõng nhẽo đòi đi tiểu. Mẹ vén màn cho tôi ra. Tôi không đi tiểu mà lẻn vào bếp mò mẫm mãi mới nhặt được con dao tôi vẫn dùng thái các thứ lá để chơi bán hàng. Tôi vội giắt trong cạp quần đem vào giấu dưới gối rồi đi nằm. Tôi chờ cho ông ấy ngủ sau. Sáng hôm sau, tôi giật mình tỉnh dậy khi nghe tiếng chị Thuý hỏi: - Có chuyện gì thế mẹ? Sao mắt mẹ lại sưng mọng thế kia? Nhện nó đái vào mắt mẹ à? Tôi chạy bổ ra ngoài thấy mẹ lắc đầu cười. Mẹ nói: - Là bố con không thể ở nhà ăn tết cùng mẹ con mình được! - Thế bố đâu rồi, mẹ? - Bố đã đi cho kịp chuyến tàu. Tôi sững sờ nhìn mẹ và chưa bao giờ thấy mẹ cười mà buồn đến vậy! Chị Thuý nhìn tôi, bịt mũi cười ngặt nghẽo: - Mẹ! Mẹ nhìn nó kìa! Tôi vội sờ tay xuống thấy quần mình còn ẩm và có mùi khai. Tôi không cười mà bật khóc nức nở vì đã để ông ấy đi mất. Mẹ không cười nữa, kéo tôi vào lòng, bảo: - Thôi, để mẹ lấy quần khác thay cho con rồi còn đi học chứ! Tôi vùng vằng: - Con không đi học nữa đâu! Mẹ dỗ dành: - Ấy không. Không đi học sao được! Nào chị Thuý lấy bộ quần áo khác để mẹ thay cho em rồi dẫn em đi học kẻo muộn! Tôi gào lên: - Không đi học! Không đi học! Tôi giằng lấy bộ quần áo từ tay chị Thuý đưa lên miệng nhe răng cắn xé. Chị Thuý lùi lại, kêu lên: - Mẹ ơi! Nó điên thật rồi! Lúc ấy, tôi điên thật. Trong tay tôi không phải là bộ quần áo mà là người đàn ông ấy. Mẹ bế tôi lên vỗ về âu yếm. Tôi ôm ghì lấy cổ mẹ và tấm tức khóc. Hôm ấy, ngồi trong lớp đầu óc tôi quay cuồng. Tôi không thể cầm bút viết nổi một con chữ nào trong giờ tập viết. Người tôi nóng hầm hập. Cô giáo phải dừng giờ dạy ở lớp để đưa tôi sang trạm xá. Đợt ấy, tôi ốm đến qua tết mới khỏi. Những ngày nằm bẹp trên giường, tôi chỉ mơ thấy cầm dao đuổi theo người đàn ông ấy. Bẵng đi gần chục năm, tôi đã coi như quên người ấy. Trong cuộc sống của mẹ con tôi, tôi cố tìm mọi cách để không còn hình bóng gì của người ấy nữa. Tôi đã cố xoá nhoà những kỷ niệm buồn trong quá khứ. Chị Thuý đã đi làm ở phòng nông nghiệp huyện và đã có người yêu. Người yêu của chị Thuý phải công nhận là đẹp trai, có tài kể chuyện, lại rất khéo tay, làm việc gì cũng được. Chị Thuý yêu anh, ngưỡng mộ anh như thần tượng. Chị luôn thấy mình nhỏ bé trước anh. Còn tôi, tôi cứ thấy có gì gờn gợn trong ánh mắt, nụ cười của con người hào hoa ấy. Nồi cơm sôi trào xuống bếp gio, tôi vội lấy que cời xâu vào quai vung xoong để mở ra cho khỏi trào. Một mùi thơm giống như hương cốm mới ngào ngạt cả gian bếp. Mùi thơm của gạo tám. Tôi bỗng nhớ đến những bữa cơm thời xa xưa, khi mà tôi còn bé tí. Những lúc ấy tôi được ngồi trong lòng người đàn ông còn trai trẻ và thoả sức thò tay bốc nhón những thứ mình thích trong mâm mà không sợ bị mẹ đánh vào tay. Mùi thơm này lâu lắm rồi tôi không được ngửi, bởi vì sức mẹ chỉ đủ nuôi chị em tôi bằng hạt gạo khô xác, nở như bông, không còn cả mùi của cám. Nhìn những hạt gạo trắng bóng cười trong nồi tôi bỗng thấy tủi thân, nước mắt giàn giụa trên má. Những giọt nước mắt xót thương cho chính ba mẹ con tôi. Đến trưa, chị Thuý đi làm về cũng ngạc nhiên, ô a kêu lên như tôi khi thấy mâm cơm thịnh soạn đặt trên bàn. Chị còn thò tay nhón một miếng thịt gà rang bày trên đĩa bỏ vào miệng vừa nhai vừa cười khúc khích khi bị mẹ mắng. Lúc biết người khách về nhà mình là ai, chị chỉ thốt lên: "Thế ư mẹ?". Hình như chị còn chạy vào nhà chào người ấy. Về sau, tôi trách chị, chị bảo: "Là tao muốn xem ông ấy bây giờ thế nào thôi". Lúc sắp cơm ra tôi mới biết, ông ấy không về một mình mà còn đem theo một đứa con trai chừng sáu bảy tuổi. Thằng bé gày gò, ngơ ngác, vẻ sợ sệt hiện rõ trên nét mặt của nó và lúc nào nó cũng nép sau lưng ông ấy. Tôi nhìn nó bằng ánh mắt căm thù. Chính nó là kẻ đã cướp mất bố của tôi. Tôi căm nó và chỉ muốn tiện chân cho nó một cú đá "thọt dái lên cổ" mới bõ hận. Sắp xong bữa, mẹ vào nhà dắt thằng bé ra giếng, lấy khăn mặt của mình rửa ráy cho nó. Thằng bé có vẻ sợ hãi cứ cúi gằm mặt nhìn xuống đất. Mẹ vừa rửa vừa tỉ tê nói với nó điều gì đó như dỗ dành. Tôi đi ra giếng định sẽ cho nó một câu gì để bõ tức, nhưng gặp ánh mắt đau đáu như van xin của mẹ nhìn tôi nên lại thôi. Mẹ vén ống quần của thằng bé lên. Khiếp, chân với cẳng gì mà như hai cái ống nứa tép. Tôi chỉ gạt mạnh một cái là gãy. Những ngón tay mẹ nhè nhẹ kỳ vết đất bám quanh cổ chân thằng bé đầy vẻ xót xa. Ngày xưa, mẹ cũng kỳ cọ chân cho tôi như vậy. Sao bây giờ mẹ lại cũng rửa chân cho thằng bé như đã rửa cho tôi? Mẹ đang san sẻ tình thương của tôi sang cho nó. Cho cái thằng đã cướp mất bố của tôi. Uất ức tôi huỳnh huỵch chạy vào trong bếp. Bữa trưa hôm ấy tôi định không ăn cùng mọi người. Tôi kêu đau bụng. Mẹ năn nỉ mãi tôi mới miễn cưỡng ngồi xuống góc chiếu. Mẹ xới cơm cho cả nhà, ân cần giục mọi người ăn cho nóng. Tôi để ý thấy mẹ vẫn điềm đạm như mọi ngày. Mẹ với tay sang phía bên kia mâm lấy chai rượu rót ra chén nâng bằng cả hai tay đặt xuống trước mặt ông ấy. Đã lâu lắm trong nhà tôi mới có hơi rượu cay nồng ngào ngạt trong bữa ăn. Mẹ gắp cái đầu gà luộc đặt vào bát cho ông ấy rồi giục khẽ: - Mình uống rượu đi! Rượu nhà nấu đấy mà. Mình uống thử xem có ngon không? Chị Thuý thật thà: - Lâu lắm rồi mẹ chỉ nấu rượu để bán mà không để lại chai nào. Tôi không cần giữ ý, sẵng giọng: - Để lại cho ai uống mà để! Ông ấy vừa nhấc chén rượu lên lại run run đặt xuống mâm. Hình như ông ấy khóc. Khóc mà không hề có nước mắt chảy ra như tôi vẫn khóc. Làm như không có chuyện gì, mẹ đưa tay đón thằng bé đang ngồi nép cạnh ông ấy sang để cho nó ngồi vào lòng mình, xé thịt gà cho nó ăn. Thằng bé muốn chết ngẹn nhưng thi thoảng nó vẫn liếc nhìn tôi đầy vẻ sợ sệt. Mỗi lần thấy nó nhìn mình, tôi lại trợn mắt thầm dọa: "Đợi đấy, rồi tao sẽ cho mày biết tay!". Thằng bé vẫn lén nhìn trộm tôi và vẫn nuốt vội những miếng thịt gà to tướng. Chắc lâu lắm nó mới được ăn bữa cơm như thế này. Nó có biết đâu rằng chị em tôi cũng không hơn gì nó. Hôm sau, lúc ngồi xem mẹ cất rượu, tôi hỏi: - Bao giờ ông ấy đi, mẹ? - Cũng lâu lâu, con ạ! Tôi giận dỗi: - Giữ ông ấy lại làm gì? Đây không còn là nhà của ông ấy nữa! Mẹ giận dữ vung tay mạnh về phía tôi. Tôi nhắm mắt chờ đội một cái tát nhưng mẹ lại buông thõng bàn tay xuống và ghé mắt vào cửa bếp thổi lửa. Tôi đứng dậy ấm ức bỏ ra ngoài. Nếu tôi là mẹ, tôi đã kéo chà rào rấp ngõ từ lâu. Đằng này... Tự nhiên, từ thương mẹ, tôi đâm giận lây cả mẹ. Chị Thuý thì cứ vô tư vùi đầu vào công việc và say mê với tình yêu của mình để mặc cho mỗi mình tôi với nỗi ấm ức không có cách nào giải toả. Ông ấy thì hầu như suốt ngày chỉ quanh quẩn ở trong nhà, thằng bé cứ bám riết lấy ông ấy như con chó trung thành với chủ. Nó luôn nhìn mọi người với con mắt sợ sệt. Mẹ lúc nào cũng ngọt ngào với nó mà nó có vẻ vẫn sợ. Còn tôi, chỉ chờ dịp là tìm cách hăm doạ nó, chí ít là tôi cũng trợn mắt lên. Có lần tôi vờ vô ý dẫm chân lên nó. Nó đau đến chảy nước mắt mà không dám hé răng kêu một tiếng. Nhưng thực ra tôi cũng chẳng khoái gì với việc đó. Ánh mắt của thằng bé và sự lặng lẽ của ông ấy chỉ làm tôi cảm thấy nặng nề thêm. Tôi thấy mình cô đơn ngay trong nhà mình. Tôi nhìn ai cũng với vẻ cảnh giác, xa lạ. Gặp ánh mắt say đắm của ông anh rể tương lai nhìn chị Thuý, tôi cũng thấy đằng sau đó có ẩn chứa một điều gì đó đầy sự bất trắc. Dì Xuyến thì mãi vẫn không lấy chồng làm cho bà ngoại lo lắng đến phát bệnh. Bà mắng, dì cười trừ nói là sợ đàn ông. Tôi thì không sợ mà tôi ghét, tôi hận họ. Chiều thứ bảy, tan học, tôi tìm đến chỗ dì Xuyến làm. Tôi ở với dì suốt ngày chủ nhật và xin dì cho tôi ở với dì ít hôm. Dì phải nhờ người nhắn về nhà cho mẹ khỏi lo. Dì còn hứa cho tôi mượn xe đạp để đi học. Tôi hỏi dì bao nhiêu là chuyện. Chỉ riêng chuyện về ông ấy là tôi tránh. Là người tế nhị, dì cũng không hề đả động đến chuyện trở về của ông ấy, chuyện mà cả làng tôi ở chỗ nào cũng thấy người ta xì xào bàn tán. Từ chỗ dì Xuyến làm đến trường học của tôi cách khoảng sáu bảy cây số. Dì Xuyến bảo nếu tôi đủ sức đạp xe hơn chục cây số đi về mỗi ngày thì tôi có thể muốn ở với dì bao lâu cũng được, dì sẽ xin mẹ cho. Tôi ôm lấy cổ dì. Dì đẩy tôi ra, dí ngón tay vào trán tôi, mắng: "Còn bé lắm đấy!". Tôi cười, dụi mặt vào ngực dì. Tôi thấy mùi dì cũng thơm như mùi mẹ. Tối tối, tôi ngồi học bài, bên cạnh dì Xuyến ngồi loay hoay may vá. Tôi khoái chí nghĩ, không lấy chồng như dì Xuyến lại hoá hay. Sau này, tôi cũng sẽ sống như dì Xuyến. Có tôi, dì có vẻ vui hơn. Lúc rảnh rỗi hai dì cháu tôi lại kéo nhau đi chợ, dù đi chả để mua sắm thứ gì. Tôi cũng nguôi dần chuyện ông ấy nên hàng tháng liền dì cháu tôi không nghĩ đến chuyện về nhà. Tôi lại chuyên tâm cho việc học và thi thoảng lại có thể khe khẽ cất lên những câu hát vu vơ. Một hôm đi học về, tôi thấy mảnh giấy để trên bàn. Dì Xuyến dặn: "Cơm trong chạn, cháu cứ ăn rồi học bài. Dì có việc về qua nhà. Tối sẽ lên!". Đọc xong, tự dưng tôi thấy nao nao. Tôi nhớ mẹ. Tôi chẳng muốn ăn cơm, cũng chẳng muốn học bài. Suốt buổi chỉ ngồi bó gối ngóng ra đường chờ dì Xuyến. Tôi chờ mãi đến quá giờ cơm chiều dì Xuyến mới về. Hai dì cháu tôi hâm lại cơm nguội và ngồi ăn với nhau không một chút hào hứng. Tối hôm ấy, không hiểu sao tôi học mãi mà chẳng thuộc được chữ nào. Ngồi bên cạnh, dì Xuyến cứ mải làm cái gì đó như chẳng hề có tôi tồn tại trong phòng. Không hiểu ở nhà có chuyện gì không mà từ lúc về đến giờ dì chẳng nói với tôi một câu làm tôi đoán già đoán non mãi. Cuối cùng, tôi đành hỏi: - Ở nhà có chuyện gì không hở dì? Không ngẩng lên, dì hỏi lại: - Chuyện gì là làm sao? - Là bà ngoại, ông bà nội cháu, mẹ cháu có khoẻ cả không? - Khoẻ. - Chị Thuý có hay về không? - Có. Như những câu hỏi của tôi không làm dì bận tâm nên dì vẫn cắm cúi với công việc của mình. Hồi lâu, tôi lại hỏi: - Dì, mẹ không nhắn gì cháu sao? - Có đấy! - Dì đáp. Tôi ngạc nhiên: - Sao dì không nói với cháu? Dì Xuyến chậm rãi: - Nhưng cháu không muốn nghe điều này. - Sao dì biết? - À, vì cháu đã không thích ở nhà mà lên đây với dì. Tôi hiểu và im lặng. Dì Xuyến cũng im lặng. Tôi vờ như không quan tâm đến điều đó nên cúi đầu xuống trang vở nhưng rồi mãi cũng chẳng có chữ nào đọng lại trong đầu. Tôi chỉ nghe tiếng con mọt nghiến kèn kẹt trong một cái chân giường phía sát tường. Chắc con mọt này đã già lắm rồi nên tiếng nghiến gỗ rời rạc đứt ra thành từng đoạn ngắn, lúc to, lúc nhỏ. Tôi có cảm giác tiếng con mọt cứ chậm rãi, nhẫn nại nghiến tôi đứt dần ra từng đoạn làm tôi phải vén áo của mình lên xem. Cứ mãi như vậy, tôi không thể chịu nổi. - Cháu muốn nghe, dì Xuyến ạ! Dì Xuyến đến ngồi cạnh tôi, khe khẽ thở dài: - Bố cháu, à ông ấy đang ốm. Nặng lắm! Chắc khó qua khỏi. Mẹ cháu muốn cháu về... Dì chỉ nói vậy và đặt tay lên vai tôi bóp nhẹ rồi đứng dậy đi ra ngoài để lại tôi ngồi một mình với những con chữ nhảy múa lung tung trên trang vở. Ông ấy ốm! Làm sao mà ốm! Lại còn chắc khó qua khỏi! Nghĩa là ông ấy đang phải cận kề bên cái chết. Ngay từ hôm về, ông ấy trông lọm khọm như người sáu bảy mươi tuổi, da dẻ lúc nào cũng vàng ệch như xát nghệ. Mẹ chăm mãi cũng chỉ có mỗi thằng bé là phổng phao lên được tí chút. Nó đã gần chín tuổi mà trông không bằng con người ta lên năm, lên sáu. Sao mà tôi ghét nó thế! Cho dù chưa lúc nào nó dám nhìn thẳng vào tôi. Đêm nằm cạnh dì Xuyến, tôi hỏi: - Mẹ thằng bé có về không? - Nó không còn mẹ! Nó chẳng có cậu, cũng chẳng có dì và cũng không còn ông bà ngoại... Tôi bỗng thấy lạnh toát một bên người. Hôm sau, tôi dạy sớm gói ghém bộ quần áo cho vào túi. Dì Xuyến lấy xe đạp lai tôi về. Nhà tôi có đông người qua lại. Tôi len lén lách moi người vào trong nhà sao cho không ai để ý đến sự có mặt của mình. Mẹ đang ngồi cạnh giường bón cho người ốm thìa nước cháo. Thằng bé đứng ở phía cuối giường. Nó như cũng đang cố thu nhỏ người lại. Thấy tôi vào, nó từ từ ngồi nép xuống đất như lẩn trốn. Người ốm chợt nhìn thấy tôi. Lần đầu tiên kể từ hôm ông ấy về, tôi nhìn thẳng vào mặt ông ấy với ánh mắt không giận dữ. Một vẻ gì bỗng bừng lên làm rạng rỡ gương mặt u tối, người ốm cố vươn cánh tay về phía tôi, nặng nhọc nói từng lời rời rạc: - Thanh... con... tha... lỗi... cho... bố... Nước mắt tôi bỗng túa ra. Người ốm vẫn nhìn tôi như cầu khẩn. Tôi khẽ gật đầu. Người ốm ngả hẳn đầu xuống gối, miệng hơi nhếch lên như mỉm cười rồi từ từ nhắm mắt. Ai đó kêu lên: "Thôi, ông ấy đi rồi!". Mẹ như đổ gục xuống cạnh giường. Thằng bé vụt qua mặt tôi, chồm lên giường ôm chặt lấy người ốm. Không ai nghe thấy tiếng nó khóc. Không ai giằng được nó ra khỏi giường. Một phút sững sờ, tôi bổ đến, ôm ghì lấy nó. Thằng bé bỗng quay hẳn người lại, rúc mặt vào ngực tôi. Nó khóc. Tiếng "Bố!" nghẹn đắng trong cổ tôi không sao thoát ra được. Sau đấy, mẹ vẫn lầm lụi sống nuôi ba chị em tôi. Thằng bé bắt đầu đi học. Về nhà, tôi dạy kèm cho nó để đuổi kịp bọn trẻ cùng tuổi. Tối đến, tôi rửa chân tay cho nó. Nó tin cậy chìa bàn chân ra cho tôi mà không sợ tôi bẻ gãy. Càng ngày, tôi càng thấy gắn bó với nó và nó cũng dần dần sống cởi mở với mọi người. Dù muộn màng nhưng rồi dì Xuyến cũng lấy chồng. Chồng dì là một bác bộ đội trong ngày 22-12 hàng năm có huân huy chương đeo nặng cả ngực áo. Hình như dì chờ người ấy vì đấy không phải là ai xa lạ mà chính là bác Đông cùng làng. Chẳng hiểu bác là gì mà đi biền biệt mãi đến bây giờ mới về làng để làm đám cưới. Tôi hỏi dì Xuyến: - Sao người ta lại cứ phải lấy chồng, dì nhỉ? Ôm ngang lưng tôi, dì Xuyến thở dài: - Phận đàn bà, con ạ![/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phản bội[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phạm Thái Lê[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hằng hấp tấp dắt xe máy nhào ra đường. Thành phố giờ tan tầm. Dòng người căng tràn trên các phố đổ về những ngóc ngách chật tối, lắt léo và ẩm ướt. Hằng muốn phóng xe thật nhanh để gió thổi tung hết cảm giác ngột ngạt và bức bách này. Bầu trời xám màu chì như càng xám hơn dưới ánh đèn đường bắt đầu đỏ lên. Vọng về từ đâu đó tiếng sấm lẫn vào trong tiếng gầm rú của động cơ, lẫn vào trong tiếng gầm rú của chính nỗi lòng Hằng. Cô thấy ngột ngạt và khó thở. Cô thấy đổ nát và hoang tàn. Hằng muốn chết ! Một cái chết thật dữ dội, thật thảm khốc. Ví như lao vào chiếc xe đang đi ngược chiều kia. Rầm một cái. Thế là nát bét hết. Cả người. Cả xe. Và dòng người khựng lại, xúm đen xúm đỏ. Tắc nghẽn một quãng phố. Trong số những người hiếu kỳ ấy, có anh. Và hốt hoảng nhận ra vợ mình. "Trời ơi, em!"... Hoặc giả lao lên cầu Chương Dương, không phải để nhảy xuống sông Hồng, như thế êm ái quá, mà có thể là phi xe từ trên đường vượt, băng qua lớp rào chắn xuống làn đường bên dưới, như từ trên trời rơi xuống. Một cô gái và cái xe máy nằm giữa đường. Dòng người cuồn cuộn ầm ào sẽ lần lượt nghiến nát cô như máy xay sinh tố, cán bẹp cô như cái kẹo lạc. Hoặc có thể yên bình hơn một chút, cô sẽ chết ngay trong nhà mình, bằng thuốc ngủ, không, bằng độc dược. Một loại độc dược cực mạnh gì đó mà cô không biết và chưa có bao giờ. Anh mở cửa, sững sờ rồi hốt hoảng gọi cấp cứu. Nhưng đã muộn ! Anh sẽ khóc lóc đau đớn và ân hận tột cùng. Hằng muốn thế. Hằng muốn anh khóc lóc đau đớn và ân hận tột cùng. Bởi vì, như thế, chứng tỏ là anh còn yêu cô lắm. Đắm đuối như thuở nào... Nhưng Hằng không thể chết. Nếu chết đi rồi, làm sao cô còn có thể thấy được anh khóc lóc, đau đớn. Và như thế sự ân hận của anh còn có nghĩa gì ? Không thể chết. Mà cũng không thể khóc. Sự đau đớn, bức bách trong lòng Hằng cứ dày thêm, nặng thêm. Thành phố ngột ngạt mùi khói xăng. Thành phố muốn nổ tung vì dòng người, vì ngàn vạn âm thanh cùng đua nhau tấu lên. Hằng lao xe trên đường như một kẻ thèm tốc độ, thèm phá phách, thèm nghiền nát một cái gì đó. Giá như trời đừng oi ả thế mà mưa đi, giông đi, sấm chớp giật đùng đùng, mưa như quất nước vào mặt. Ngàn vạn người đi đường sẽ lao vội lên vỉa hè. Và Hằng sẽ thênh thang trong mưa. Những ngọn roi nước sẽ làm Hằng tứa máu. Nhưng... Không có người chết. Không có tai nạn. Trời cũng không giông. Dòng người vẫn cuồn cuộn đổ về những ngóc ngách chật tối và ẩm ướt một cách trật tự. Đời vẫn trôi bình yên. Hằng mệt mỏi tấp xe vào một quán cà phê. Quán vắng heo vắng hút. Chẳng ai uống cà phê vào giờ này. Cốc nước chanh muối nhiều đá tu một hơi hết veo làm cái đầu hừng hực những dự định điên rồ và bạo liệt của Hằng dịu lại. Cô mệt mỏi ngả người ra sau ghế, mắt lơ đễnh nhìn vào những ngọn đèn nhấp nháy xanh xanh đỏ đỏ giăng trên bụi cây. Hằng thấy đầu óc trống rỗng lạ kỳ. Những cảm xúc dâng ứ, đầy ắp lúc nãy đi đâu mất. Như người vừa qua cơn đau sinh nở, như rắn vừa lột xác, Hằng thấy yếu đuối rã rời và mệt mỏi. Mọi cảm giác về xung quanh không còn chính xác. Cô thấy ngón tay của mình đang to ra, to ra trong lòng bàn tay kia. Còn xương ống chân thì như bị hút dần chỉ còn chân không. Rất chơi vơi. Rất khó chịu. Anh đã phản bội Hằng! Nỗi đau này lớn hơn tất cả những buồn đau anh gây ra cho Hằng trong ba năm vợ chồng, bốn năm yêu đương cộng lại. Hằng đã từng khóc lóc vật vã suốt hai tiếng đồng hồ trong chuyến trăng mật vì anh "để quên" Hằng ở khách sạn mà đi uống với bạn học cũ. Hằng từng mở máy vào games chơi trò half-life bắn hàng ngàn viên đạn, giết hàng trăm người để xả cảm giác háo hức làm cơm chiều rồi ngồi chờ anh về trong khi máy anh thì "hiện không liên lạc được"... Những điều ấy không là gì cả. Không là gì cả khi sinh nhật Hằng anh quên tặng quà. Không là gì cả khi anh về muộn, Hằng nấu mì bê lên anh không kịp mời vợ mà ăn mà húp roàn roạt như người chết đói chết khát. Không là gì cả khi có lần anh say nôn cả ra chăn đệm. Không là gì cả khi anh quên dội nhà vệ sinh, không rửa chân trước khi đi ngủ... Bởi tất cả những thói xấu ấy, giờ đây, bỗng trở nên rất bình thường, bình thường với cả một bác sĩ. Bởi tất cả những thói xấu ấy là của anh, mà anh lại là của riêng Hằng. Nhưng giờ anh đã phản bội Hằng. Cay đắng quá ! Điều ấy xảy ra từ bao giờ ? Hằng giật mình nhớ lại. Đúng rồi. Anh đã rất khác từ mấy tuần nay. Anh gọn gàng sạch sẽ hơn, nói năng mềm mỏng dịu dàng với Hằng hơn. Có lúc anh lại rất đăm chiêu, thừ ra như người mất hồn. Và suốt hai tuần nay, anh không hề làm chuyện ấy... Chưa bao giờ anh thế cả. Chỉ nhịn mấy ngày Hằng đến tháng hoặc phải trực tăng cường, anh đã có vẻ sốt ruột lắm, có cơ hội là xoắn xuýt đòi bù. Trời ơi, thế mà Hằng không đủ nhạy cảm để nhận ra. Ngay mới hôm qua đây thôi, lúc đi ngủ, Hằng có cảm giác anh định nói một điều gì đấy rất quan trọng với cô nhưng rồi anh lại bảo: "Em đi ngủ đi, anh ru em ngủ nhé". Ru em ngủ nhé ! Đểu giả quá. Khốn nạn quá. Một đôi trai gái vừa bước vào quán ngồi ở chiếc bàn cạnh gốc cây. Cô gái không xinh nhưng tràn đầy hạnh phúc. Vẻ viên mãn, trẻ trung khiến cô thật đáng yêu. Cô ngồi sát vào chàng trai, đầu tựa vào vai và tay thì mân mê những ngón tay người yêu. Chàng trai choàng qua vai cô gái riết mạnh, hình như còn hít một hơi thật sâu trên tóc cô. Hằng bỗng thấy cô đơn kinh khủng, bất hạnh kinh khủng. Tự nhiên cảm giác căm thù và khinh ghét anh trào dâng trong Hằng. Hằng sẽ xỉ vả anh, mắng chửi anh, đòi ly dị. Anh là kẻ khốn nạn. Khốn nạn vô cùng. Trước đây anh săn đón và chiều chuộng Hằng như thế. Ngờ đâu... Sự căm giận khiến Hằng có cảm giác máu đang chạy rần rật từ chân từ tay lên đầu rồi xoáy lại dồn ứ ở đấy. Hằng trả tiền nước rồi lao xe về nhà. Lòng ngùn ngụt như một bó đuốc. Hằng giật mình choàng tỉnh. Miệng khô khốc. Bụng đói veo. Tay chân như muốn rời xa. Cô chợt nhớ lại tất cả... Anh không có nhà. Hôm nay là thứ ba, anh trực. Lại trực. Anh làm gì trong những ca trực ấy ? Hằng đau đớn nghĩ. Không, không thể mắng chửi anh, không thể làm ầm ĩ lên như thế. Đúng, phải bình tĩnh tìm giải pháp. Hằng phải giành lại anh về phía mình, bắt anh quỳ xuống mà nhận tội. Nhưng trước hết phải tìm cái gì ăn đã. Có thế mới đủ sức mà chiến đấu, đủ tinh thần mà suy nghĩ. Hằng mở tủ lấy ba quả trứng, gói mì tôm xuống bếp. Phải làm thế nào để anh tâm phục khẩu phục. Phải làm thế nào để anh vừa nể vừa sợ. Hàng ngàn ý nghĩ hiện lên chạy lòng vòng trong đầu cô làm thành một mớ rối rắm. Hằng buông bát đũa, lại mắc áo lấy ra ba chiếc ca-pốt rồi trân trân nhìn nó. Liệu có phải là trò đùa quái ác của một kẻ xấu nào đó không ? Có thể lắm chứ ! Ai đó cố tình bỏ vào túi quần anh để cô phải phát điên lên ? Hằng cố hướng mình theo ý nghĩ ấy mà không được. Anh đã phản bội Hằng, ý nghĩ ấy lớn hơn, mạnh hơn lấn át tất cả. Vợ chồng Hằng đang định có con vào năm tới, không cớ gì anh lại dùng bao cao su. Chỉ có anh ngoại tình. Chỉ có với bạn tình mới phải dùng bao. Anh là bác sĩ, anh ý thức rất rõ về sự bảo vệ chính bản thân mình, về hậu quả của nó... Hằng giận sôi lên. Cô rót cho mình một cốc nước to, tu ừng ực. Mình cũng sẽ nem chả. Mình cũng mua ca-pốt cho vào túi xách. Mình cũng sẽ đi với trai, ngủ với trai... Nhưng đi với ai ? Hằng chợt khựng lại. Cô không thể. Nghĩ loáng thoáng thì được. Nghĩ để trả thù thì được chứ thực hiện thì không thể. Hay là... Hằng chợt lóe lên trong đầu một kế hoạch. Cô trả những chiếc ca-pốt vào túi quần chồng. Đúng, Hằng sẽ làm như cô chưa biết gì hết. Rồi cô sẽ mua hàng trăm bao cao su. Mỗi lần anh đi trực sẽ lén bỏ vào túi quần của anh ba cái. Hằng sẽ khủng bố tinh thần anh. Có thể trên mỗi bao, Hằng sẽ dán vào dòng chữ "Giữ gìn sức khỏe", bao khác lại là "Bảo vệ hạnh phúc" hoặc "Vì tương lai của bạn"... Rồi xem thái độ anh thế nào ? Tạm hài lòng với kế hoạch ấy, Hằng leo lên giường ngủ tiếp. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] "Nào, xem hôm nay em cho anh ăn gì nào ?". Giọng Quang hồ hởi từ ngoài nhà. Hằng thoáng cười khẩy ngọt nhạt thế rồi quay ra làm bộ dịu dàng: "Anh về nhà rồi à? Canh chua, thịt rán, cà muối, mắm tép, toàn món anh thích đấy. Tắm rửa đi, mình ăn cơm". Quang xán lại ôm ngang eo vợ, thơm vào gáy. Một cảm xúc mới lạ chạy dọc người Hằng. Cô thấy vừa thích thú vừa ghê sợ. Sự thích thú của xác thịt. Sự ghê sợ tởm lợm về một con người. Anh đang để lộ bản chất đểu giả trước mặt Hằng. "Anh giúp em một tay nhé". Hằng mỉm cười vẻ đồng ý. Giúp thì giúp, việc gì phải nói ra mồm. "Hôm nay mình ăn cơm sớm rồi đi chơi". Quang vẩy mấy cái rau thơm cho vào rổ. Đi chơi, lại còn rủ đi chơi. Những kẻ có lỗi, những người ăn vụng bao giờ chẳng thế. Xăng xái và ngọt nhạt. Chắc chắn là Quang đã... nên mới chiều chuộng mình vậy. Mọi hôm, mình muốn đi còn phải rủ rê anh chán. "Em sao thế, không thích đi à ? Trông cái mặt kìa, đần thối ra". “Vâng vâng, đi chứ. Em đang bất ngờ vì hôm nay anh là người rủ em đấy". Đần à. Chính vì đần mà anh phản bội chứ gì. Anh bắt đầu chán tôi, bắt đầu thấy tôi đần rồi chứ gì. "Ồ, lâu rồi anh chẳng đưa em đi đâu". Đưa đi đâu. Anh có bao giờ tự đưa vợ đi đâu. Nay giở dói ra thế là đủ hiểu rồi. "Anh đổi mới tư duy rồi à ?". "Cũng phải đổi mới chứ, nếu không em cứ oán trách giận dỗi anh mãi rồi thành thật thì nguy cho anh quá". Nguy cho anh. Đồ lẻo mép. Tôi thì tôi biết tỏng bụng anh rồi. Khốn nạn lắm. Lại còn giở giọng nguy cho anh quá. Được lắm. Anh làm ra vẻ như anh sợ tôi, anh yêu tôi không bằng. Mấy hôm nay, Hằng vẫn diễn với Quang như thế. Cô chủ trương sẽ hết sức dịu dàng và ngọt ngào với chồng nhưng trong lòng thì tan nát. Một nỗi đau không cụ thể, không rõ ràng cứ mang mang, lởn vởn trong óc cô. Hằng trút lên Quang ngàn vạn từ ngữ thối tha nhưng chỉ là trong ý nghĩ. Kế hoạch mua hàng trăm bao cao su của cô vẫn chưa được bắt đầu. Đã có lần Hằng rẽ vào hiệu thuốc nhưng khi cất lời lại nói là mua thuốc nhỏ mắt. Không hẳn là cô xấu hổ. Cũng không hẳn là cô chưa hài lòng với dự định nhưng có cái gì đó cứ cản Hằng lại. Sự đau đớn bị kìm nén khiến Hằng thấy mình trơ ra, vô cảm. Hình như cô đã bắt đầu quen với ý nghĩ bị anh phản bội. Có lúc mệt mỏi quá, Hằng muốn sổ toẹt ra với anh rồi muôi thì muôi mà gáo thì gáo. Thậm chí có lúc cô còn cho rằng giờ mà hai người chia tay nhau cũng rất nhẹ nhàng. Hằng thấy anh không xứng đáng với mình nữa. Mấy hôm trước cô còn cố tình mời mọc, khêu gợi anh khi đi ngủ nhưng hai hôm nay cô thấy quá mệt mỏi, quá nực cười trong cái trò giả dối này. Anh vẫn trơ lỳ. Nói với cô thì ngọt ngào mà chuyện ấy thì vẫn không. Hằng cay đắng nghĩ, thế là hết. Anh không còn hứng thú chăn gối với mình thì không còn gì để níu giữ anh lại. Hằng cũng chẳng muốn biết người đàn bà kia là ai. Một sinh viên thực tập, một đồng sự trẻ tuổi... ? Nào có quan trọng gì ! Không khí trong gia đình vui vẻ một cách sượng sạo. Hình như Quang đã nhận thấy thái độ khác lạ của Hằng. Có lần nửa đêm cô bắt gặp anh ngồi bần thần trước máy vi tính, vẻ mặt rất đau khổ. Thây kệ, Hằng nghĩ. Mình chẳng làm được gì đâu. Cứ để anh tự đấu tranh và chọn lựa. Đến nước này, Hằng sẵn sàng chấp nhận mọi giải pháp anh đề ra. Anh là người tự quyết định và chịu trách nhiệm. Hằng chỉ là nạn nhân. Trời ơi. Hằng bỗng thương mình vô hạn. Anh không còn là của Hằng nữa rồi... [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Cuộc sống kỳ diệu bởi nó có muôn vàn điều bí ẩn. Hạnh phúc thay mà cũng bất hạnh thay khi chúng ta không bao giờ biết hết những bí mật quanh mình. Quang bị tai nạn nghề nghiệp khi tiêm cho một bệnh nhân AIDS đang vật thuốc. Anh giấu vợ. Bởi chưa đến ngày xét nghiệm lần hai. Ba tháng nữa... Chờ đợi và chịu đựng. Im lặng và hy vọng. Mà vẫn còn hy vọng thì... [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phòng khách[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hồ Anh Thái[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phòng khách của tôi là trường đại học của tôi. Nói thế lại có người bảo biết học thì đâu chả là trường đại học. Quán nước chè năm xu ngày xưa của các nghệ sĩ ngày trước. Vũ trường đêm màu hồng của đám trẻ bây giờ. Cái bờ nước ven hồ Tây, trẻ con bà già nhem nhuốc lội bì bõm, thò tay qua hàng rào, chạm tay ướt vào những cặp đê mê trong cà phê vườn mà xin vỏ lon bia lon cô ca. Đấy cũng là trường đại học. Trường sở thật sự thì chay tịnh. Dạy chay. Học chay. Ngủ chay gật gù giữa hai ợ kiến thức. Tôi học đến năm thứ ba viết văn bất thành cú. Thầy khen tuyệt vời số dách năm bờ oăn. Thầy đều là thỉnh giảng của trường. Thầy đều là thực khách thường xuyên phòng khách nhà tôi. Bố tôi mời các thầy cốc tay tiệc đứng tiệc ngồi. Bàn tròn bàn vuông. Chia tay đại sứ cũ đón đại sứ mới. Giới trí thức thủ đô có dịp gặp giới ngoại giao, tiền đề cho những lời mời đến sứ quán dự chiêu đãi quốc khánh, sinh nhật quốc vương, sinh nhật nữ hoàng. Giới thầy bà rầm rập tiến vào trong cờ hoa nghênh đón bao ngày mỏi mắt chờ trông của đám ngoại giao nước ngoài ở Hà Nội. Phòng khách nhà tôi thành phòng chờ, tiền trạm, trạm trung chuyển, trung tâm đảm bảo tư cách, trung tâm dịch vụ chắp nối. Đang nói chuyện tôi mới học đến năm thứ ba. Chính xác là hai rưỡi. Học đến đó tôi mới biết mình học nhầm sang môn khảo cổ học. Được dạy cách khai quật nhẩn nha dây dưa cho tới khi tốt nghiệp chắc mới thôi. Văn học dân gian, văn chương cổ điển, trung đại, cận đại, văn chương đầu thế kỷ hai mươi, văn học hiện đại. Chỉ trừ văn chương đương đại. Thói đời người đã chết là người khá nhất trong nhà. Một tư tưởng đã xanh cỏ đáng giá hơn những điều mang trong đầu một người còn biết thắp hương. Người đã chết được khai quật, mở ván, mông má, được soi chiếu, giám định, xác định niên đại. Lật sấp lật ngửa. Dựng lên hạ xuống. Tua đi tua lại. Quay nhanh quay chậm cắt lát chồng hình. Đến đó tôi mới biết mình sẽ thành nhà khảo cổ. Ở phòng khách các thầy vẫn bền bỉ khen ngợi trình độ học lực của con trai ông chủ tiệc. Nhưng tôi biết ngành khảo cổ xứ này còn chỗ cho mình. Tất cả đã được phân bổ chỉ tiêu chia bôi mảnh ruộng ba sào. Di sản văn hoá trống đồng có vẻ đã cạn. Thánh địa Mỹ Sơn được di sản văn hoá thế giới coi như đã tới đỉnh khảo cổ văn hoá Chàm. Thành cổ Hà Nội bắt đầu lộ thiên vội đến ngàn năm Thăng Long không thể chờ tôi là người đầu tiên phát hiện. Tôi tự ý rời trường, theo một thầy dạy võ. Văn chả được thì võ. Thì võ vậy. Võ sư do bạn bè dẫn mối. Mặt xương xương khả ái. Tôi không chịu được đàn ông một đống mặt một đống bụng. Võ sư chững chạc cân đối. Chỉ mỗi tội chiều cao 1 mét 55. Đàn ông 1,55 mét là lùn lắm. Dắt cái xe máy đi là không rõ người dắt xe hay xe dắt người. Buổi tập đầu tiên tôi nhìn xuống thầy từ tầm cao 1 mét 80, cao lớn thẳng thớm như thế tôi chẳng cần võ Tàu võ Tây, thầy võ nghệ cao cường cũng đố làm cho tôi cúi đầu xuống được. Tôi thách mãi thầy cũng chiều. Thầy đi qua đi lại trước pho tượng mét tám nhất quyết đứng thẳng rồi thình lình tung một quả đấm vào bụng tôi. Tôi hoảng hồn, vội gập người đẩy cái bụng thụt ra phía sau, thế là chỉ chớp mắt thầy vỗ đùi vút lên như một con chim sẻ, đậu vào cổ tôi, hai đùi kẹp chặt vít xuống lăn lóc sóng soài. Từ phút ấy tôi mới thực hiểu người đời nhất lé nhì lùn. Tất nhiên vế trước vẫn còn giữ trong ngoặc đơn bảo lưu. Tôi theo võ sư được vài năm. Võ sư thêm vào phòng khách bố tôi một thực khách. Đóng bộ vào trông anh nhỏ bé xa lạ giữa đám giáo sư văn giẫm chân lên khảo cổ. Những cặp kính lão loạn viễn cận không nhìn ra bắp thịt cuồn cuộn chảy ngầm bên trong trang phục. Ông giáo sư uống nốt ly vang đỏ, bỏ cái ly vào túi áo vét mà nói một cách đầy tự tin rằng võ nghệ quá lắm chỉ đánh được dăm ba người, văn chương đánh được dăm bảy vạn người. Tôi thực hiểu thái độ võ sư khi anh lễ phép đáp rằng quả đúng thế. Tôi cười cười phụ hoạ. Nhưng kẻ quan sát nấp kín trong người tôi đã đánh tín hiệu cho võ sư, võ sư ngay lập tức thọc tay vào túi áo vét giáo sư, lôi ra cái ly pha lê Pháp trả lại bàn rồi gạt tay một cái. Cả đống ly chén bát đĩa tới tấp khắp phòng , Tề Thiên Đại Thánh đang ra tay đại náo thiên cung. Tất nhiên chuyện tương tự như thế không hề xảy ra. Tôi chỉ tách mình ra khỏi mình một chút mà thôi. Một bó chỉ ngũ sắc thỉnh thoảng rút ra một sợi. Lúc trước tôi rút ra một sợi tôi bỏ học ở năm thứ ba. Một sợi tôi thấy võ sư đại náo đám học giả. Kẻ rút sợi là tôi sẽ còn thỉnh thoảng rút nữa. Võ sư nhã nhặn. Tôi cũng nhã nhặn. Sự nhã nhặn giả dối này không phải là tôi. Hình như linh cảm xúi tôi hãy ngậm miệng chờ thời. Thành ra cái ly pha lê theo ông giáo sư về làm con nuôi. Bộ ly tan đàn chỉ còn lại năm. Chúng theo bố tôi về trong một chuyến đi Pháp. Ông đang lang thang trong siêu thị, thình lình chuông báo động còi báo động inh ỏi rền rĩ. Hai gã trai gốc Á vừa chạy thoát khỏi cửa, ôm hai túi đồ như ôm con chạy. Kể từ phút ấy, tất cả những người gốc Á đầu đen mũi tẹt còn lại trong siêu thị đều mang bộ mặt kẻ cắp. Cái nôi văn minh của loài người đã gửi sang châu Âu rặt những kẻ mắt một mí đưa đẩy gian xảo, ngứa ngáy tắt mắt giữa choáng váng đèn vàng châu Âu. Bố tôi không định mua gì, nhưng tình thế đã đến lúc ông không thể không mua một cái gì. Hộp cốc pha lê ông ôm qua cửa hôm ấy giống như đứa bé mà người ta bắt buộc phải có nếu muốn xuống xuồng ưu tiên đàn bà trẻ em rời khỏi tàu Titanic. Hộp cốc là cái thẻ an ninh, là một tấm biển đảm bảo trước ngực, một lời thanh minh : Không phải tôi. Trở lại mối thâm tình gắn bó tôi và võ sư. Mối tình thân có truyền thống từ những chiến binh cổ đại. Những người trẻ với nhau khoẻ với nhau tập tành với nhau, nếu cần thì xả thân vì nhau. Môi trường của những người trai không có bóng thê nhi khi bức bách thì tự xử lý. Việc học võ tôi không thắc mắc gì. Năng lượng trẻ trai phải được giải toả, không bằng phép tinh thần thì phải bằng cái quần quật thể chất. Tôi không quan tâm đến chuyện đánh dăm ba người hay dăm ba vạn người. Cho tới một ngày. Quãng đường vắng. Đèn đêm đồng loã tắt hết. thình lình mấy con tôm rồ máy xông ra từ một ngõ tối. Một con vọt lên đánh võng chặn đằng trước. Hai con nướng chả ép giò hai bên. Hai con đằng sau băm băm xóc ốc. Một mũi dao lành lạnh bên sườn. Một giọng nói ngọt ngào dỗ dành anh giai cho mượn con xe. Tôi làm theo ngay. Tôi dừng xe. Xuống xe. Trao xe. Trong đầu vẫn nhớ mình có võ, võ hơi bị được hẳn hoi. Mắt vẫn thấy ở phía trước, bên kia đường một trạm xăng còn sáng đèn, một nhân viên bơm xăng rất có thể trở thành đồng minh. Bây giờ ngồi nghĩ lại mới hiểu lúc đó tôi phản ứng như một độc giả trung thành của báo an ninh. An toàn cá nhân được thấm nhuần triệt để. Võ nghệ chủ động thì đánh được dăm ba người, khi bị động thì không đánh nổi một người. Năm năm võ Tàu bảy năm võ Tây không bằng võ củ đậu bay. Đấy là chưa kể đồng bọn trấn lột còn ẩn nấp bên đường. Một thằng tức thì nhảy lên ngựa lên con dem của tôi. Nó thành thạo thoáng nhìn kim đồng hồ đo xăng rồi quay hỏi xin anh giai cái chìa khoá mở hộp. Thằng chó chết tinh mắt thấy xăng đã cạn, ổ khoá xe tôi đã thay bằng ổ khoá tròn, hộp xe vẫn dùng chìa cũ. Tôi lục túi quần đưa nốt cái chìa khoá hộp. Cả bọn kềnh càng nghênh ngang tiến vào trạm xăng dềnh dàng đổ đầy một bình. Đến thế tôi chỉ muốn có một que diêm để búng vào vòi xăng. Cũng phải đến thế tôi mới mong đêm nay lũ khốn này sẽ lao vào một cuộc đua xe tan đầu nát mặt Võ sư chia buồn về cái xe. Lại bảo tôi phản ứng thế là đúng, người giỏi võ không bao giờ dụng võ. Tôi không nghi ngờ triết lý này. Chỉ nghĩ cớ gì anh vẫn còn dạy võ, cớ gì tôi vẫn còn học võ. Triết lý thế chẳng hoá ra người không có võ mới là kẻ được trục lợi từ người có võ. Tôi lẳng lặng bỏ võ sư. Tinh thần chiến binh, tinh thần hiệp sĩ cáo chung ở cuối thế kỉ hai mươi thực ra là quá muộn. Tôi trở lại phòng khách. Thầy dạy võ không bao giờ trở lại phòng khách nữa. Thầy cư xử như một giáo sư thỉnh giảng tự trọng, mãn khóa rồi thì không lảng vảng, ve vãn làm gì.Các giáo sư văn chuyên gia phân tích xác ướp vẫn cầm ly cốc tay lượn vè vè khắp phòng tìm đầu ra ngoại quốc. Thêm mấy nhà dính líu đến lịch sử, máy tính, doanh nhân mới đoạt giải sao xanh. Một ông dụ tôi về với lịch sử. Tôi đã chán cái đời lang thang dở dang từ văn sang võ, gợn nghĩ có lẽ đến lúc neo đậu bến quê, tôi mỉm cười. Mỉm cười ở đây được hiểu là thôi thì nhắm mắt đưa chân. Ông sử đầu bù răng bựa tức thì có ngay vẻ mặt của người đang đồng hành với lịch sử. Hội thảo chọn một ngành nghề cho tôi đang sôi nổi thì một âm thanh khiếm nhã thoát ra từ dưới chỗ ngồi của ông sử. Bíp một cái. Xa lông các phòng khách bây giờ có mốt bọc đồ giả da, bóng lộn trơn nhẫy và hay có hiệu quả âm thanh phụ. Bíp một cái bủm một cái bỉm một cái là chuyện thường. Rắm rởm nhiều nên lỡ có cái thứ thiệt cũng khó phân biệt. Kêu to đích thị là thùng rỗng, rắm kêu cũng như chó sủa thì không cắn, vô hại. Biết thế, tôi vẫn làm ra vẻ hơi giật mình theo kiểu tôi nghe thấy rồi đấy. Mấy vị ngồi cạnh ông sử mặt buồn ngây ngô theo lối vô can, vội vàng đưa cái nhìn sang phía ông theo kiểu tôi cũng nghe thấy từ phía ấy. Một biến thái của kiểu chối cãi không phải tôi. Ông sử đã lường trước được sự phản bội hấp tấp của đám khách sang trọng trong một phòng khách sang trọng. Miện vẫn thao thao kể chuyện tiếu lâm “lịch sử là cái thằng cha nào mà nó bắt chúng ta gồng gánh cái sứ mệnh hao người tốn của đến thế”, miệng kể chuyện, ông đánh mông thuần thục một thao tác trượt, trượt theo kiểu nhúc nhắc bên phải một cái bên trái một cái rồi trượt sát sạt trên bề mặt giả da. Bíp. Bủm bỉm. Bủm bỉm. Những ai vừa mới thoáng nghi ngờ thì bây giờ vỡ lẽ. Chỉ tại cái xa lông. Bủm bỉm. Bủm bỉm. Bíp. Bíp. Đến chỗ này, để tiếp tục, tôi xin phép chưa rút thêm một sợi chỉ. Mà chỉ là lật lên một lá bài hồi ức. Ông sử không xa lạ với gia đình tôi. Ngày bà vợ ông, nay đà quá cố, đi dự hội thảo ở Mỹ, tôi mang gửi bà cầm sang cho bố tôi một cuốn sách. Hình như là một cuốn thuộc loại ngủ đi em mộng bình thường. Nước Mỹ thường xuyên mất ngủ ở Seattle cần nhiều cuốn sách như vậy. Bà vợ ông trưng bày ở phòng khách cái va li mở toang của mình, đồ lề được sắp xếp sao cho dễ thấy nhất ở bên trên là đồ lót và chiếc lược giắt đầy tóc. Mấy người ôm bọc lớn bọc nhỏ vây quanh bà, định tranh thủ gửi không cước cho chồng con em cháu bạn. Bà vẩy tay về phía cái va li chật cứng bảo còn chỗ đâu mà đút, nếu còn chỗ thì chị cho các em đút chứ chị tiếc gì. Đám người không còn chỗ đút rút lui ê chề. Chỉ còn lại mình tôi. Tôi chìa ra cuốn sách như liều an thần cho nước Mỹ. Lại điệp khúc còn chỗ thì cô cho cháu đút ngay. Ông sử phụ hoạ : Còn một chỗ nhỏ cũng cho đút. Bà vợ bảo sao mãi hôm nay mới gửi. Ông sử: Sao mãi hôm nay muộn thế mới gửi. Bà sử : Thanh niên mà thế à. Ông sử: Thanh niên mà chậm chạp thế à. Bà quăng ra một câu, ông đớp lấy, rắc thêm một tính từ làm gia vị. Ông sử bên cạnh vợ theo kiểu bảo vệ tiếp cận sẵn sàng lấy thân mình chồm lên đón đạn thay thân chủ. Nhâu nhâu nói leo đến mức chủ cũng bực mình. Bà sử bất chợt quát chồng, thôi đi anh, rồi bảo đưa cô xem. Bà nâng cuốn sách trên tay như cân nhắc trọng lượng kích cỡ, xoa xoa bóp bóp vuốt vuốt một lát thì gật gù thôi đành, bỏ tọt vào va li. Rốt cục bà vẫn còn chỗ để đút. Ông bà là một đôi sam quấn quýt hiếm thấy. Chỉ có những chuyến xuất ngoại của bà mới tách được họ ra. Ông nghiên cứu viết sách giảng dạy lịch sử nước Mỹ và lịch sử Ai Cập là những nơi ông chưa bao giờ đặt chân tới. Thứ ngôn ngữ tệ hại của những vùng đất ấy ông cũng không sử dụng được. Bà đi Mỹ dự hội thảo tơ tằm, bà có việc của bà, nhưng riêng tư thì như một kiều bù trừ cho chồng, một kiểu báo hận chồng đền nợ nước. Ông thì nhìn bà ngưỡng vọng, bà như ước mơ đau đáu một đời vật vã ngược dòng lịch sử của ông. Bà bốn lăm ông năm chín, bà váy ngắn ông quần bò, đi đâu cũng ríu rít cốm non như liên đội phổ thông cơ sở. Đùng một cái bà có khối u trong não, bà đi rất nhanh. Ông quay cuồng dứt tóc gào khóc như một bà nhà quê chết đời chồng thứ ba. Khóc cho cả ba lần dồn góp. Khóc cho chứng tỏ đến lần thứ ba vẫn không chai sạn nỗi đau. Khóc cho em nghe em thấu em hỡi em hời. Khóc cho em hiểu lòng anh em ơ ơ hờ. Xin đừng phạt vi cảnh tôi vì giữa nơi công cộng đã miêu tả nỗi đau người khác bằng nụ cười nên nhịn. Người có bộ mặt đau khổ nhất trong đám tang hôm ấy là sếp của bà sử, ông vụ trưởng kiêm trưởng ban lễ tang đọc điếu văn cũng phải bấm bụng nén cười. Tôi phải kể lể một chút như vậy để dễ hình dung hơn việc tám tháng sau ông sử cưới vợ, vợ Mỹ. Chỉ có tám tháng. Như thế ông chỉ chờ cho vợ chết để lấy vợ mới. Từ ấy trong tôi bừng bừng kết luận vợ chết mà khóc như cha chết, khóc ơ hờ ơ hời, đánh đu lên cả quan tài làm quan tài suýt đổ, hai người con trai mười tám đôi mươi phải xông tới giật bố ra xốc nách lôi đi, khóc như thế chỉ tổ càng chóng đi lấy vợ mới. Đàn ông nhiều nước mắt và trường giọng nỉ non luôn luôn cần có vợ làm chỗ dựa, mất chỗ dựa này thì phải mau mau dựa sang chỗ khác. Phòng khách vẫn lớp lớp người đến lớp lớp người đi. Mỗi lớp là một học kỳ chuyên tu tại chức của tôi. Một tiệc ngồi là học kỳ ba tháng có bài kiểm tra. Một tiệc đứng là học kỳ sáu tháng có tiểu luận. Tiệc trà tiệc cốc tay là bài kiểm tra giữa giờ linh tinh không kể. Tôi quen dần chả thấy phải gắng công khổ sở gì cho lắm. ta sinh ra ở một đất nước thơ ca. Ta có dân ta hầu như ai cũng biết ghép vần thành thơ, ho ra thơ thở ra văn hắt hơi ra tiểu luận. Lại những bóng người cầm ly rượu di chuyển khắp phòng tìm đầu ra đối tác bạn đồng nghiệp. Rượu đổ chỗ này. Đĩa vỡ chỗ kia. Cả đống giấy ăn vò nhàu ném hết xuống gầm bàn gầm ghế, thói quen Dao Chỉ khó bỏ. Tất cả vì một cái nền văn học, sử học, khoa học nhân văn, khoa học com piu tơ bình dân gọi là tin học, luật học, khoa học quản trị kinh doanh. Tôi đi dạo trong rừng khoa học lòng hoang mang chưa thấy ánh đèn le lói ngôi nhà phía xa để xin trú nhờ qua đêm. Bộ pha lê Pháp có thói quen thay thầy đổi chủ. Chẳng bao lâu một chiếc lại bỏ đi, theo về nhà ông sử. Tôi nhìn thấy ông bỏ cái ly vừa uống cạn vào túi quần, sửa sang kéo vạt áo vét che cái cục cồm cộm lềnh lệch. Chỉ khi khách khứa tan hết rồi, tôi mới chỉ cho bố thấy bộ cốc chỉ còn lại bốn chiếc. Bố như đã biết tỏng từ lâu gạt đi ngay thôi con ạ, người ta nghèo. giọng ông đầy cảm thương. Hễ có một nhân vật đáng kính sơ suất để lọt ra tiếng bíp trên xa lông, ông lại như giật mình nhìn về phía ấy, kiểu nhìn không buông tha, kiểu nhìn đòi được giải thích cho kỳ được. Tôi giống bố ở điểm này. Đám thực khách khốn khổ cứ phải giấy giụa trên xa lông, trằn mông trượt khu gây ra những âm thanh nhân tạo chứng tỏ không phải tôi. Bủm bỉm bủm bỉm. Bíp. bíp. Thôi con ạ, người ta nghèo. trong mắt người đời ông sử không còn nghèo nữa. Lấy Mỹ cơ mà. Phòng khách nhà tôi là nơi hai đối tượng tình yêu gặp nhau, tiếng sét ái tình nổ ra ngay từ cái nhìn đầu tiên. Em là người Mỹ nhưng em tên là Hồng. Yêu nhất là cái chữ nhưng ấy, ông bảo. Chỉ là một chữ mà lịch sử phải đi hơn một trăm năm kể từ sứ thần Bùi Viện. một chữ nhưng nối giữa hai mệnh đề như nhịp cầu hoà giải. Đến đoạn này thì tôi cho biết ông sử và cô Mỹ Rose Hồng đang gỡ bí cho câu chuyện từ đầu tới giờ thiếu tình yêu. Truyện không có yêu đương tươi mát ma nó đọc. Vậy thì để tỏ lòng biết ơn, nào ta hãy cùng đồng thanh nhắc lại lời cô. Em là người Mỹ nhưng em tên là Hồng. Một hai ba. Giọng phải hơi chơn chớt ngọng nghịu như ca sĩ Nam hát giọng Bắc. Em là người Mỹ nhưng em tên là Hồng. Một hai ba. Cô Hồng học tiếng Việt ở Cali, một thứ tiếng Việt Hà Nội đầu những năm năm mươi thế kỷ hai mươi, sau thành giọng Bắc di cư, rồi tung tẩy một phần tư thế kỷ ở nắng gió Cali mà bây giờ thành ra một giọng chấp chới nửa ba nửa bốn như giọng Thanh. Cô Mỹ theo Việt Nam học, rất thích giai thoại lịch sử Lê Lai liều mình cứu chúa, cho nên vừa gặp ông sử là cô Mỹ mê ngay, mê cái sự liều mình của ông dạy sử Mỹ mà chưa hề đến nước Mỹ, mê sự khảng khái trí thức – nói chuyện với người Mỹ chỉ nói bằng tiếng Việt và chỉ tiếng Việt mà thôi. Cô Mỹ đã qua ba đời tình với người gốc Việt. Cô xanh rờn bảo những bồ ấy không còn là người Việt nữa, mặc dù vẫn đầu đen mũi tẹt. Cô đã lên sân khấu cộng đồng thưa thớt dăm bảy chục người mà hát dân ca bà rằng bà rí, chồng gì mà chồng bé. Cô Mỹ cao mét bảy tám, mấy anh bạn trai chỉ đến tai, người Việt lại bảo chồng thấp vợ cao như đôi đũa lệch so sao cho vừa. Đó là thời kỳ cô Mỹ đi làm phiên dịch ở một bệnh viện cho người Việt. Bệnh nhân là những người Việt ban đêm là nhà văn, nhạc sĩ, nghệ sĩ, ban ngày thành đạt trong nghề thợ mộc, thợ may, thợ nề, thợ làm đầu, đánh máy vi tính... như cầy nhà lá vườn của cộng đồng. Một co bé mười bốn tuổi khai bệnh rằng cô nghi trong người có u. Cô Mỹ dịch thế nào mà bác sĩ chuyển co bé sang khám phụ khoa vì hiểu rằng cô bé có chửa. Về sau cô Mỹ thanh minh rằng ở đồng bằng Bắc Bộ u là mẹ, cô tưởng cô bé kia dùng tiếng lóng thử thách kho từ vựng của nữ nông thôn. Em là người Mỹ nhưng tên em là Hồng. Chỉ một câu Tây mắm tôm làm ông sử choáng váng xây xẩm đến rần rật khắp người. Hình như hễ dính dáng đến sử học là có tính dâm dật, người ta dính cái vô độ truyền nhiễm từ các triều đại đế vương. ông sử cắp ngay cô Mỹ đi điền dã thực địa những nơi mỗi nắm đất là một pho lịch sử. Ông đưa cô Mỹ về quê. Cả làng mừng cho ông vợ chết tám tháng nay đã có người nâng khăn sửa túi. Cả làng lượn quanh cầu ao mỗi sáng cô Mỹ theo đất lề quê thói ra ngồi cầu tõm tụt quần thả mồi nuôi cá. Cả đàn cá đói hung dữ sùng sục quằn quẫy bên dưới, cô Mỹ chấp tất, cô cứ kiên cường rung rinh trên mấy nhịp cầu tre. Tôi đã có lần nói phòng khách nhà tôi là trạm chuyển tiếp. Ai đến đó cũng ao ước có ngày được lọt qua màng lọc, lên tới phòng khách chiêu đãi của những đại sứ quán ở Hà Nội. Phòng chiêu đãi sứ quán, những đại sảnh, những banquet hall ở khách sạn sang trọng mới là cái đích vinh quang. Hoạt động tíu tít quanh năm ở những nơi này tạo nên loại người chuyên môn đi ăn tiệc. Người Á Đông coi miếng ăn là miếng nhục, để sỉ nhục được tức thị miếng ăn là to, tôn vinh cho ngồi mâm trên, chưa đến tầm thì mâm dưới, không có tầm thì ăn xó ăn niêu. Được mời đến ăn, mà Tây mời, thì cũng đáng tất bật ngược xuôi để vận động gợi ý giới thiệu tiến cử. Bố tôi dắt tôi qua nhiều phòng chiêu đãi như vậy. Hình như ông có ý cho tôi trải nghiệm thực tế giao tiếp lễ tân để dần dà làm chủ phòng khách gia đình, để dẫn dụ đưa đẩy mối manh giữa tầng lớp chuyên gia ăn tiệc mới hình thành. Lực lượng này cũng non trẻ hãnh diện như lực lượng tư sản dân tộc, như cánh giàu xổi nouveau riche mới hình thành từ sau tám sáu. Những bậc những nhà là thực khách thường xuyên ở phòng khách nhà tôi lần này thấy mặt trăm phần trăm ở phòng tiệc sứ quán. Một tỷ lệ đỗ đáng thèm ước cho tất cả các trường học. Ông sử tung tăng khoác tay vợ mới đi vào. Đám thực khách bản xứ phũ phàng xé toạc hai người ra làm đôi. Cô Mỹ bị quây chặt để thử thách trình độ đối đáp tiếng Việt. Ông sử bị bỏ rơi đi vẩn vơ qua rừng ly cốc cà phê. Em là người Mỹ nhưng tên em là Hồng. Cô Mỹ được tán thưởng, tiếng Việt của cô càng uốn éo luyến láy vô tội vạ như ca sĩ Ánh Tiết. Kiểu người như cô thường không thể lấy đàn ông Âu - Mỹ. Đều thế cả những người theo mốt nhìn sang phương Đông, cải sang một cái đạo châu Á, bỏ cái dìa phuốc sét chuyển sang ăn đũa ăn bốc ngồi bệt ngồi quỳ. Họ trống vắng lạnh lùng trong xã hội của chính mình như những người bất bình thường. Không dưng chẳng có lý gì họ như thay máu, chuyển sang vật vã quay cuồng mê mẩn một nền văn hoá không thuộc về máu thịt của họ. Cô Mỹ bây giờ còn nói cười rổn rảng suồng sã hơn cả một người châu Á thường gây mất trật tự ở nơi công cộng. Sau làn áo mỏng hai hòn bi nâu thâm đội lên như thách thức. Cái cooc xê vốn dĩ thực hiện công lý một cách rất nhân văn : Trấn áp những kẻ bành trướng, nâng đỡ những kẻ sa sút, che chở những kẻ nhỏ nhoi. Cô Mỹ hôm nay ăn mặc rất thiếu tính nhân văn. Ông sử vẫn một mình trầm tư cầm những cái ly đẹp lên ngắm nghía. Ông sắp sang Mỹ ít lâu ra mắt gia đình vợ. Môn lịch sử nước Mỹ không giúp ông đến Mỹ được, rốt cục chỉ người vợ Mỹ mới giúp được ông. Sắp sang cái nước Mỹ đến cái vỉa hè cũng lát bằng vàng rồi, ông sử vẫn không sao thản nhiên mà đi qua những chiếc ly ngoại. Rồi mối quan tâm chuyển sang bộ dao thìa dĩa bằng bạc. Tôi đến gần ông bình phẩm những vật bằng bạc chính cống. Tôi than phiền về sự sơ suất của chủ tiệc, một tài sản như thế này mà không có camêra bảo vệ trong phòng tiệc, không có cả máy báo động kim loại. Tôi đã nhầm. Ông sử cũng tin tôi mà nhầm theo. Tàn bữa tiệc, ông chuếnh choáng khoác tay cô Mỹ ra cửa thì được bảo vệ sứ quán mời đi qua máy kiểm tra. Máy kêu reng reng có kim loại. Cô Mỹ tháo cái kiềng vàng tây ra, ông tháo đồng hồ ra, bỏ chùm chìa khoá ra. Máy vẫn kêu. Ông há mồm chỉ mấy cái răng vàng. Người ta không đếm xỉa đến răng vàng mà tìm thấy trong túi áo ông hai cái thìa bằng bạc. Trong ví đeo bên hông cô Mỹ thì một thìa ba dĩa cũng bằng bạc. Cả hai lúc ấy mới tỉnh rượu, ra sức phẫn nộ mà rằng có kẻ đã bỏ bộ đồ bạc vào túi của họ. Cái sứ quán nọ đã lật lọng một giai đoạn kiểm tra. Người ta thông thường chỉ đặt máy dò khi khách đến. Như vậy mới là bảo vệ an ninh. Họ lại đặt máy dò khi khách đi. Như vậy là chỉ nhằm bảo vệ tài sản cho chính họ. Từ dạo ấy bố tôi không tổ chức chiêu đãi nữa. Việc của ông đã xong. Toàn bộ khách của ông được ông un trồng bón lót nuôi dưỡng nay đã được sang tên chuyển tiếp cho các sứ quán. Đám thực khách ăn mòn bát đĩa nhà tôi cũng một đi không trở lại. Họ đang tất bật vận động gây cảm tình ở những phòng khách mới. Trong số họ rồi sẽ nhiều người đi thỉnh giảng tham quan hội thảo ở nước ngoài. Mọi con đường đều dẫn tới Rôma. Biết đâu tỉ lệ đỗ sẽ là trăm phần trăm. Họ đi để đỗ, còn tôi ở lại đây dở dang đại học, tôi lại đỗ hàm thụ những khoá học phòng khách. Một buổi tối chỉ có hai bố con làm cuộc tổng kiểm kê trong phòng khách. Bố tôi nhắc cái chuyện cái máy kiểm tra ngược đời ở sứ quán nọ. Bố tôi biết cả chuyện tôi thừa rõ sứ quán sẽ kiểm tra mọi người lúc ra về nhưng tôi cố tình không báo cho ông sử biết, tôi còn cố tình mời mọc bộ đồ bằng bạc với ông ta. Không có gì qua được mắt bố tôi. bây giờ cũng vậy. Bố tôi xua tay kiểm kê mà làm gì. Chắc chắn không còn bộ đồ ăn nào nguyên vẹn. Tôi cứ tính đếm một lúc mới thấy bố tôi nói đúng. Tất cả đều ly tán lưu lạc tan đàn xẻ nghé. Cuối cùng là bộ ly pha lê Pháp, sáu chiếc còn một. Có lẽ hôm nào đó tôi sẽ đóng gói gửi nốt đến nhà ông sử cho nó khỏi lạc đàn. Bố tôi cứ thâm trầm ngồi nhìn tôi bần thần tính đếm. Từ chỗ ông ngồi vang lên một tiếng bíp. Chẳng bao giờ kèm theo những âm thanh bủm bỉm bủm bỉm. Một người chủ tự tin như ông chẳng bao giờ thèm dùng hiệu quả âm thanh phụ để thanh minh. Ai mà biết đồ rởm hay đồ thật. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phía cuối con đường có ai đó đợi Em?[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyên Lê[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Người ta bảo “Chờ đợi là niềm hạnh phúc tuyệt vọng nhất khi yêu.” Đợi để gìn giữ, sẻ chia và để biết rằng, trong cuộc đời này, luôn có một người dõi về phía một người, luôn có một người đi tìm kiếm một người… Năm năm rồi Du không thay số điện thoại. Chỗ ở cũng thế, vẫn căn phòng nhỏ bé nằm trong một con phố ngợp bóng những hàng xà cừ xanh mướt lá. Du mòn mỏi chờ một người trở lại. Mòn mỏi cá cược với trái tim về một người đàn ông ngay từ đầu đã không thuộc về mình. Luôn có một người đi tìm kiếm một người... Du không bao giờ nghĩ sẽ gặp anh nhanh đến như thế. Đó là một ngày bắt đầu mùa mưa; ẩm ướt và se lạnh, một người bạn hẹn Du: - Tối nay em rảnh không, đi uống nước cùng chị. Du băn khoăn cũng nhận lời. Giới thiệu, làm quen hững hờ, thế mà “phải lòng” nhau. Sau này anh thường cười trêu, tại Du theo anh nên anh mới bị “sa bẫy”. Nhưng Du không bực mình, cũng chẳng thấy anh đáng ghét, vì anh đã ở trong vòng tay Du, vòng tay anh bảo: - Anh không chạy đâu, sẽ đứng im mãi đấy. Du cười, hiền lành và ngoan ngoãn, rúc vào anh như một con mèo. Khi ấy Du vừa tròn 21 tuổi. Và anh - một người đàn ông thành đạt 33 tuổi, đã có gia đình. Du cũng không bao giờ nghĩ là mình sẽ thuộc về anh nhanh đến như thế. Vẫn một đêm ẩm ướt mùa mưa, trong căn phòng nhỏ bé nhức nhối mùi vôi vữa và hơi mốc của đồ đạc, Du run rẩy đón nhận anh. Du nghe thấy trong mình dòng yêu thương đang vỡ oà tràn vào ngóc ngách của mọi giác quan. Trong cơn say mê mải, anh khẽ cắn vào tai Du thì thầm. - Em đàn bà lắm em à, vẻ ngây thơ, trong trắng nơi ánh mắt em khiến cho bất cứ người đàn ông nào cũng muốn giữ gìn như sợ đánh vỡ mất đi. Đàn bà khi vui thường hân hoan, niềm hạnh phúc long lanh trên ánh mắt bờ môi không có tấm màn nào che giấu được. Du không như những người con gái khác, cho đi rồi hối hận hay trách cứ, Du mãn nguyện vì có anh và được là của anh. Sau cùng của những yêu thương, anh lặng lẽ rời xa, Du không giữ anh ở lại, vì Du biết anh không thuộc về mình. Cuộc sống của anh ở nơi có vợ và cô con gái ba tuổi. Tấm ảnh của Du bao giờ anh cũng cất sâu trong ví, phía sau hình của mái ấm nhỏ bé đó. Du không giữ anh ở lại, vì Du biết anh không thuộc về mình Dự án của anh kết thúc cách đây 4 năm. Du tiễn anh vào một ngày mùa đông giáp Tết, miền Bắc lạnh tê người. Đêm trước khi chia tay, anh gục trên bờ vai Du, nước mắt họ mặn chát lẫn trong môi hôn khắc khoải, day dứt. - Anh đi rồi, em nhớ chăm sóc cho mình nhé! Em có trách anh tệ quá vì không dám sống hết mình với tình yêu của chúng ta không? Du lặng lẽ lắc đầu. Du biết mình yêu con người có trách nhiệm với gia đình trong anh, yêu cả tình thương vô bờ anh dành cho con gái, những thấu hiểu về nỗi vất vả, thuỷ chung khi anh kể chuyện về vợ của mình. Du yêu cách anh chăm sóc vợ con, cách anh gọi điện về nhà với đầy lo toan, trằn trọc. Yêu và tủi hờn đồng hành vì biết đắng cay và đau khổ sẽ đến, Du không thể rời xa anh. Du dụi đầu vào má anh, nói như thì thầm với chính mình: - Em phải trả anh về cho chị ấy, gia đình nào cũng cần có bờ vai rộng của một người đàn ông. Người ta không thể tham lòng mà bấu víu lấy những thứ mãi mãi không phải của mình. Anh hôn từ từ lên mắt, lên môi, lên cổ, lên tóc, lên từng tế bào nhạy cảm trên cơ thể Du. Đó là lần cuối cùng, Du cong mình đón nhận tình yêu của một người đàn ông với cả hai thứ cảm xúc đối lập hạnh phúc và buồn tủi. Sân bay nhốn nháo cảnh chia tay ngày đó, anh ôm nghẹt lấy Du. Đau khổ nhất là khi người ta có thể nhìn thấy nhau, biết mình cần nhau, mà phải lẳng lặng chôn vùi yêu thương vì những duyên cớ số phận sắp đặt an bài. Hơi ấm thân thương len lỏi vào lồng ngực nấc lên từng hồi, phút giây đó Du thấy mình khánh kiệt. Để rồi kể từ sau ngày ấy, chưa một lần họ gặp lại nhau. Kể từ ngày anh đi, Du chưa từng yêu một người đàn ông khác. Du vẫn là một người đàn bà trong trắng, yêu và chỉ thuộc về một người đàn ông. Đau khổ nhất là khi người ta có thể nhìn thấy nhau, biết mình cần nhau, mà phải lẳng lặng chôn vùi yêu thương... Cho đến sáng hôm nay, tại góc của quán cafe này, quán café sáu năm về trước họ chạm mặt và chấp nhận khánh kiệt để thuộc về nhau trong một tình yêu biết trước chỉ toàn khổ đau và dằn vặt. Anh ngồi đó, khuôn mặt xạm đen vì sương gió, rắn rỏi và gân guốc; thoáng một chút mệt mỏi. Đôi mắt đen thăm thẳm khuất dưới hàng lông mày đậm nét nhìn Du long lanh. Mùa đông này lạnh hệt như ngày họ xa nhau. Du vừa nhận được điện thoại của anh cách đây 30 phút. Cuộc điện thoại khiến Du nghẹn ngào không nói được lời nào, cố lắm cô mới hỏi anh được đúng một câu: - Bây giờ anh đang ở đâu? Du cuống cuồng bỏ mặc cơ quan mà chạy đến, chết trân nhìn cái dáng ngồi hiền lành của anh, nước mắt chảy tràn trên hai khoé mi suốt dọc đường để lại những vệt dài loang bờ má. Du vừa ngồi xuống, tay anh đặt lên tay Du, nóng bỏng và cồn cào. Bao nhiêu năm, Du thèm khát được đụng chạm vào người đàn ông này, thèm khát hoang dại cho những bến bờ tận cùng với anh; bao nhiêu năm Du giữ mình cẩn thận để xuất hiện trong cuộc gặp gỡ cô phải đợi chờ quá lâu này. Bây giờ không phải chờ đợi nữa, không phải đấu tranh và dằn vặt lòng nữa; anh mạnh bạo kéo tay Du chạy như bay về căn phòng nhỏ của họ. Ở đó, họ lại mê mải hoà lẫn vào nhau. Sau cuối của đam mê, sau cuối của những nhịp yêu thươg gấp gáp và thoả mãn; Du khóc nức nở như đứa con gái lần đầu tiên trao đi cái quý giá nhất của cuộc đời. Anh hôn nhẹ lên má Du: - Bao năm rồi, em vẫn quyến rũ như thế. Anh không thể quên ánh mắt em, không thể chịu nổi khi không nhìn thấy mình trong đó. Em hãy nói là em yêu anh, nói đi em. Gối đầu trên vai anh, bất giác Du giật mình: - Bao giờ anh sẽ đi? Anh lặng yên không nói. Im lặng có nghĩa là kết cục ấy lại xảy ra. Du nghĩ đến những năm tháng tiếp theo của cuộc đời mình, và thấy cổ họng nghẹn đắng. Sống tiếp, sẽ đợi chờ một người, sẽ tiếp tục mòn mỏi, hi vọng nghĩ đến tương lai? Nhưng bản thân mình Du sẽ sống thế nào? Cần phải làm gì để vượt lên những ám ảnh đeo đẳng đó? Du theo đuổi bóng dáng của một người, liệu còn có ai đó đợi chờ cô phía cuối con đường kia không? Có ai đợi cô ở phía cuối con đường kia không? Ba tháng sau cuộc gặp gỡ bất ngờ và ngắn ngủi của Du và anh, một buổi sáng, Du nhận được điện thoại của một người phụ nữ. Người đàn bà có chất dọng nhẹ nhàng, cất những lời mỏng manh khó nhọc nhưng khiến Du khuỵu ngã: - Du phải không? Chị là vợ của anh Nam. Anh Nam… mất rồi em à. Du không hiểu chuyện gì đang xảy ra nữa; chỉ thấy tiếng gió, tiếng cười khàn đục của anh lào xào đập vào bờ thành lồng ngực mình. - Anh Nam phát hiện ra mình bị ung thư gan từ 6 tháng nay, nhưng không cho ai biết. Lần anh ấy lặng lẽ ra Hà nội gặp em trở về, bệnh trở nặng nên không giấu được. Những ngày cuối, anh ấy kể cho chị về em. Du nghe thấy tiếng người khóc nức lên ở đầu dây bên kia, tiếng vỡ tan của những tế bào tan ra trong dòng xoáy mãnh liệt rút kiệt sinh lực của cô. Du không cảm nhận được nước mắt mình có chảy hay không, chỉ có những dòng thác của sợ hãi, đau đớn đổ ập lên bờ vai khiến Du ôm ngực khuỵu xuống. - Không! Anh? Anh à! Làm sao như thế được! Bây giờ Du mới hiểu, tại sao bao nhiêu năm nay Du có đủ can đảm, nghị lực đợi chờ. Còn đợi chờ là còn hi vọng, còn tin tưởng. Du chợt nhớ những lời nói nghẹn lại của anh: - Cuộc đời anh có lỗi với cả hai người đàn bà thương yêu anh nhất. Anh xin lỗi em. Xin lỗi vì để em mòn mỏi quá lâu thế này. Đến một lúc nào đó, em à, em hãy tin tưởng nhé! Ở nơi nào rất xa, anh sẽ chờ em, để trả lại tuổi trẻ, tình yêu và niềm tin trong trái tim em. Anh hứa với em. Nhưng từ giờ đến khi gặp lại, hứa với anh là em phải mở lòng để yêu thương, để sống hạnh phúc. Em hứa chứ? Du khẽ gật đầu, mắt rưng rưng nước. Bờ môi mềm của anh như còn đang phủ cả cơ thể của Du mà sao khóe miệng Du đắng ngắt. Cuối cùng chúng ta cũng mất anh ấy rồi... Tròn một tuần anh mất, Du mới có mặt trước mộ anh, những thảm cỏ xanh thẫm để lại trong mắt Du một vạt buồn hoang lạnh, cô độc. Yêu thương giờ nằm xa tầm với của con người, anh im lặng nằm đó, Du đứng đây mà không có nổi một mối liên hệ mong manh nào. Người phụ nữ nhỏ bé đứng bên Du, khuôn mặt u sầu, mệt mỏi nhìn vào khoảng mênh mông không có vẻ trách cứ, oán thán. “Cuối cùng chúng ta cũng mất anh ấy rồi. Người không ở lại thì mọi điều chẳng có nghĩa lý gì.” Du châm lửa, những trang nhật ký bén thứ ánh sáng vàng vọt, nhợt nhạt chuyển sang màu tàn tro bay trong gió. Kỉ niệm không đốt được, thiêu cháy tâm hồn Du. Người đàn bà góa bụa ở tuổi 35 lặng lẽ rời đi. Chỉ lúc bấy giờ Du mới đổ khuỵu xuống mộ anh và nức nở khóc. Du bỏ lại chiều Sài gòn và nắng hoang hoả ngược tàu trở ra Hà Nội, về căn nhà nhỏ bé dưới gốc cây xà cừ rợp lá. Một tuần, sống trong những kỉ niệm khôn cùng, Du thu xếp đồ đạc, chuẩn bị cho hành trình dài của cuộc sống mới. Từ Hà Nội, Du ngược mãi lên Cao Bằng, ở đó có một cơ quan thường trú của tờ báo Du đang làm, chưa ai nhận đảm đương vị trí quản lý. Lần đầu tiên, sau gần 5 năm yêu một người, Du nghĩ về sự thay đổi. Trong cuộc đời một con người, thay đổi cũng là để đợi chờ. Nhưng là đợi chờ để đi đến gần nhau hơn. Mỗi ngày tới, mỗi giờ tới, Du biết là mình sẽ gần anh hơn nữa. Du đi về phía anh, phía ánh sáng của một tình yêu không bao giờ tắt.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phía núi bên kia[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Thiên Ngân[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Làng nằm lọt thỏm giữa những ngọn núi. Bên kia núi là một làng khác? Một dòng sông? Hay mãi cứ một con đường không có điểm dừng? Nàng không biết. Những người đã đi qua núi đều không trở về. Cho đến ngày anh không trở về nữa, thì nàng tin bên kia núi là địa ngục. Anh đã hứa rằng chỉ khi phải chết, anh mới xa nàng. Giữa làng có một cái hồ nước lớn. Người làng sống kín đáo, ẩn dật đến đáng sợ. Những người từ phương xa đến đổi trà cứ mỗi ba tháng mới được vào làng một lần. Tất cả họ đều phải long trọng thề rằng ngoài trà - sản vật trao đổi được với dân làng bằng những nhu yếu phẩm khác - họ không được mang theo bất cứ điều gì: những câu chuyện về làng, những điều hơi lạ lùng mà họ thấy. Họ cũng không được mang đến bất cứ thông tin nào từ thế giới bên kia núi. Trái lời, sớm muộn gì họ cũng sẽ bị thần Hồ trừng phạt. Và quả thật, sau cái chết của một người đổi trà nào đó năm xưa, không ai dám khinh mạn thần Hồ. Anh ta chết thảm khốc sau lần dan díu với một cô gái trong làng và định đưa cô trốn đi. Trên đường dẫn cô gái chạy trốn trong đêm, anh ta ngã xuống hồ và nhanh chóng bị thần Hồ nhấn chìm trong tuyệt vọng. Khắp người mang nặng những bao trà vừa đổi trong mấy ngày trước đó, anh ta không thể nào bơi được. Xác anh ta trôi lênh đênh giữa hồ ba ngày ba đêm. Những người làng chạnh lòng thương mang thuyền ra vớt nhưng như có một bàn tay vô hình ngăn cản, không ai chạm vào anh ta được. Người già trong làng phải ra hồ cầu khấn hồi lâu, cái xác kia mới cập vào mạn thuyền. "Vì sao con muốn ra đi? Tại sao con phải trốn? Chỉ cần con nói thực là muốn từ bỏ dòng tộc, quê hương, chúng ta sẽ để cho con đi thôi mà". Trưởng làng ôn tồn nhìn sâu vào mắt cô gái đang ngây điếng ôm xác người tình, nói lời khó nhọc. Cô gái bật khóc, rồi lại rú lên cười man dại. Ít tháng sau, bụng cô dần to lên. Câu chuyện đó xảy ra cũng đã lâu rồi... [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Sinh anh xong, mẹ anh trẫm mình xuống hồ. Trưởng làng tự tay chèo thuyền ra giữa hồ vớt cô lên, đôi mắt đỏ kè như đang khóc. Cô được chôn cất với những mảnh lụa bạch lấy từ kho lụa táng của làng quấn quanh người, nghi thức như với bao người làng khác. Không ai bình luận về nghi thức có phần thiên vị đó, dành cho đứa con gái hư hỏng từng định bỏ làng mà đi, và giờ thì tự tử theo người tình, để lại đứa con hoang. Chỉ có điều, cặp tình nhân không được nằm cạnh nhau. Cô yên nghỉ trong nghĩa địa làng quanh năm tung bay cờ lụa trắng và ngập tràn mùi hương nhài. Còn người yêu cô, nằm chơ vơ trong nấm đất nhỏ bên con đường lớn, nơi anh ta từng vượt qua để đến được làng này. Con đường ấy dẫn về phía bên kia núi. Đứa bé trai vừa ra đời được trưởng làng mang về nhà nuôi, cho bú nhờ con gái ông, lúc này cũng vừa sinh một bé gái. Bé gái ấy là nàng. Người làng rỉ tai nhau, đó là do lương tâm ông cắn rứt, vì những lời cuối ông nói với cô gái kia hồ như đã góp phần dồn đẩy cô tìm cái chết. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Những ngày thơ ấu, nàng và anh thường chạy đuổi nhau len lỏi qua những đồi trà rồi ngã phệt xuống nghỉ bên ngôi mả hoang ấy. Anh tần ngần nhổ những chân nhang cũ nhạt màu lên, nhìn thật lâu như muốn rõ điều gì. Lúc ấy, cả hai đứa trẻ đều chưa biết về người nằm dưới mộ. Nhưng sau này lớn lên, biết chuyện, nhớ lại ánh mắt anh rưng rưng khi thì thầm trò chuyện với những chân nhang, nàng hiểu được mối ràng buộc vô hình của tình máu mủ, dù họ chẳng bao giờ có cơ hội biết về nhau. Hai đứa trẻ nằm gối đầu lên mộ, cố đặt tên cho hình thù của những đám mây trên bầu trời xanh. Chán chê, nàng hỏi anh con đường này sẽ dẫn tới đâu, bên kia núi có những gì... Anh trầm ngâm hồi lâu rồi quay sang thì thào: "Ngôi mộ này không phải của người làng. Bên kia núi chắc phải có một làng nào đó...". Ông ngoại nàng yêu thương anh một cách lạ lùng. Lúc nào ông cũng cao vời, đường bệ với tư thế oai nghiêm của một trưởng làng, đôi khi lạnh lùng đến đáng sợ. Nhưng riêng với anh, ông yêu chiều ra mặt. Anh lớn lên, thông minh đĩnh ngộ. Hầu những bữa trà sớm hay đêm trăng của ông, không chú tiểu đồng nào có thể làm ông vừa ý, ngoài anh. Đôi lúc ông cao hứng đọc thơ cho anh nghe, đôi khi lại bồn chồn tâm sự như với người tri âm, tri kỷ. Có lẽ, tất thảy sự ân hận năm nào đã chuyển thành một tình thương mến. Ông ôn tồn, dịu nhẹ, chẳng mắng anh bao giờ, kể cả khi anh gây ra tội lỗi tày đình nhất. Lừa khi ông ngủ, anh lén lấy chơi rồi làm vỡ miếng ngọc quý hộ thân mà lúc nào ông cũng đeo bên mình. Ông nhìn những mảnh vỡ đầy đau xót, thu nhặt chúng cho vào một túi lụa nhỏ rồi bỏ đi, không nói tiếng nào. Cả nhà ngơ ngác nhìn nhau, còn anh thì cởi trần quỳ giữa sân, run bần bật, nhưng một trận roi nát da nát thịt đã không xảy ra. Tuổi thơ anh trôi qua yên bình, anh chẳng hề thắc mắc vì sao mình không có cha, yên lòng với câu chuyện thô vụng mà người làng bịa ra dưới lệnh của ông. Ai đó đem trồng cạnh mộ mẹ anh một cây nguyệt quế. Ít lâu sau nó ra hoa rải trắng một vùng. Trên thảm hoa đó, không ít lần nàng thấy anh cô đơn nằm khóc, trong nỗi đau vô thức về thân phận mình. Nàng nhặt những đóa hoa tinh khôi kia cho vào túi lụa nhỏ đặt trên đầu giường anh. Đến lần thứ bao nhiêu đó thì anh bắt được. Ấy là lần đầu tiên anh hôn nàng. Năm đó, cả hai đều vừa mười sáu tuổi. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lần đầu tiên ông ngoại nàng trừng phạt anh là khi ông bắt gặp họ hôn nhau ở bụi nguyệt quế ấy. Ông sững sờ đánh rơi những hoa huệ trắng đang cầm trên tay, xềnh xệch lôi anh ra hồ. Ở đó, ông nhấn nước anh thừa sống thiếu chết, cùng với những cái tát túi bụi vào mặt. Phải đến khi gần như cả làng kéo ra can ngăn, ông mới buông anh, đã tơi tả như một miếng giẻ rách nát te tua ra, ném vào anh cái nhìn phẫn nộ rồi phừng phừng bỏ đi. Họ bị cách ly gắt gao, nhưng không bao giờ chịu đầu hàng. Trong mắt làng tộc, hai đứa cháu đáng yêu bỗng trở nên lì lợm, bất trị. Không được đến gần nhau, nhưng ánh mắt đắm đuối chúng dành cho nhau như thách thức mọi lời cấm đoán. Không biết bao đêm mẹ nàng đã khóc lóc, chỉ thiếu điều van xin con gái. Tình yêu ấy quá tội lỗi. Con và nó đã lớn lên cùng nhau, bú chung bầu sữa, có chung một gia đình. Làm sao con có thể yêu chính anh trai mình?! Lần thứ hai, ông bắt gặp anh ôm nàng giữa gian phòng thơm ngát những khay trà vừa sấy. Ông tuốt cây kiếm treo bên tủ thờ kề ngay cổ anh, mắt vằn lên những tia máu: "Tao nhắc lại lần nữa, tránh xa nhau ra, nếu không tao giết hết!". Ông bất chợt vung kiếm, chém bay một bím tóc của nàng, run giọng: "Mày... mày nghĩ mày có thể quyết định cuộc đời mày sao? Với thằng con hoang này?!!". Bóng kiếm sắc lạnh soi rõ niềm đau đớn trong mắt anh. Nàng không sợ chết. Nhưng nàng hốt hoảng nhận ra vòng tay ôm của anh đã dần lơi đi. Ít lâu sau đó, anh bỏ đi khỏi làng. Anh trốn theo đoàn người đổi trà, men theo con đường qua ngôi mả cũ dẫn đến phía bên kia núi. Nơi đó, anh tin có một ngôi làng khác... Đọc bức thư anh để lại, trưởng làng ngồi ôm đầu ở bậc cửa, không nói một lời. Rồi ông đứng dậy, rút cây kiếm sắc đâm một nhát thật lực vào bục gỗ gần tấm phản, chỗ anh hay quỳ để hầu trà... Nhiều năm sau, cây kiếm vẫn còn cắm nguyên ở đó. Còn nàng, tự giam mình trong nhiều ngày, khóc đến kiệt sức. Không khí trong gia đình nặng như đá. Người làng có chuyện để xầm xì. Khi nỗi đau kia tưởng đã dần nguôi, tóc nàng đã dài trở lại, thương nhớ trong nàng dường đã chai đá thì anh đột ngột trở về. Đứng lẫn trong toán người đổi trà đang long trọng tuyên thệ trước thần Hồ, không ai nhận ra anh. Nhưng nàng, dù bộ râu quai nón kia xa lạ đến mức nào, dù nước da anh đã xạm đen đến đâu, dù anh đã cao lớn rắn rỏi ra sao, nàng làm sao quên nổi đôi mắt u buồn kia. Đôi mắt đã ám ảnh trái tim nàng từ hồi thơ dại. Nàng đánh rơi nong trà. Anh giật mình quay đi, khuất sau những dải lụa màu chấp chới. Nàng len lén nấp sau những dải cờ lụa trắng ngoài nghĩa trang, lặng lẽ khóc khi thấy dáng anh quen thuộc bên cây nguyệt quế cạnh mộ mẹ. Rồi không thể nào chịu nổi, nàng vùng chạy đến ôm chầm lấy anh. Tấm lưng anh giờ đã rộng, đã vững chãi lắm rồi. Nàng nghe thấy mùi mồ hôi ấm áp, quen thuộc lẫn với mùi gió, mùi núi sông sau lần vải áo thô kệch. Anh lập cập quay lại ôm chặt nàng, mắt đẫm nước. Chiếc cằm đầy râu mấp máy, run run không nói nên lời. Nàng chùi nước mắt vào ngực anh, nói câu đầu tiên sau bốn năm chia cách. - Đưa em đi! - Đi đâu? - anh thảng thốt. - Sang bên kia núi. Đêm hôm đó, trong trí nhớ của ông, trời tối đen giống hệt năm nào chàng trai đổi trà định dẫn cô gái làng bỏ trốn. Ông đứng đợi bên hồ, tay cầm cây kiếm đã từng kề cổ anh, đã thô bạo cắt đứt bím tóc nàng và cô đơn cắm trên bệ gỗ với những nỗi niềm suốt từng ấy năm anh lưu lạc. Nó tưởng ông không nhận ra nó sao? Dáng người ấy, đôi mắt ấy, cung cách cam chịu ấy... Nó đã lớn lên trong tầm mắt ông, từng ngày, và trong cả trái tim ông nữa. Đôi trai gái dắt díu nhau đi trong bóng tối. Họ lạc ra phía hồ. Anh nắm tay nàng rất chặt, và nàng biết anh đang vã mồ hôi vì sợ. Luật làng từ thời ông trưởng làng đầu tiên, là ông cố nàng đề ra, từ bé anh đã thuộc lòng. Lời thề với thần Hồ và cái chết truyền kỳ của anh chàng đổi trà năm xưa ám ảnh tâm trí anh. Anh chỉ định trở về để nhìn thấy nàng một lần. Vả lại, ngày đi anh chưa kịp ra mộ mẹ... - Đứng lại! - giọng ông khản đặc. Ánh kiếm lóe lên như vệt trăng mờ xám lạnh. Hai đứa quỳ sụp xuống. Nàng khóc òa: - Ông để bọn con đi. Ông thẫn thờ ném cây kiếm xuống đất khi nghe tiếng khóc của đứa cháu gái xinh đẹp. Nó đang van xin ông hãy cho nó được hạnh phúc. Ông quỳ phệt xuống trước hai đứa. Mơ hồ, ông nghe tiếng hai đứa ngày nào thơ bé, ca hát rộn ràng. Âm thanh nao nức, vui tươi như vọng về từ ngày tháng xa xưa... Xen vào đó là hình ảnh chập chờn, kinh hãi của một quãng đời ông không bao giờ ông muốn nhớ... [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Năm ấy, cha ông hận người vợ bội bạc nên dắt ông - lúc đó mới ba tuổi - bỏ đi. Cùng một số dân nghèo không có đất, ông vượt núi đến vùng này lập làng. Cha ông trở thành trưởng làng, đề ra bao quy ước quái lạ, vin vào lời nguyền của thần Hồ. Ai muốn bỏ vùng này ra đi phải tuyên hứa giũ bỏ quê hương, máu mủ và dứt khoát không được trở về. Không ngờ, chính ông - con trai trưởng làng - lại là người đầu tiên rời bỏ đất. Ông say sưa với thế giới rộng lớn bên ngoài, yêu và được yêu, nhưng rồi đến phiên ông cũng bị người đàn bà ấy phụ bạc. Ẵm đứa con gái khóc ngằn ngặt vì khát sữa, ông chẳng biết đi đâu. Rồi cuối cùng ông quyết trở về làng. Cha ông thương đứa con trai nông nổi, đã dựng nên một câu chuyện để có thể đón ông trở về. Không lâu sau đó, cha cưới cho ông một cô gái làng nhu mì, hiếu thuận. Còn đứa bé gái được gửi cho một bà góa nuôi, giấu biệt tung tích. Ông chỉ có thể đứng xa nhìn nó từ lúc lẫm chẫm theo bà góa đi hái trà cho đến khi biết nhảy chân sáo và chơi trốn tìm giữa những đồi trà xanh biếc. Ông đau đớn tột cùng khi nhận ra, càng ngày nó càng xinh đẹp giống hệt người mẹ bội bạc của mình. Chưa bao giờ ông được ở gần con gái như cái ngày chèo thuyền ra giữa hồ để bế bồng thi thể nó lên. Lúc ông chạm vào thi thể cóng lạnh ấy, khóe miệng nó ứa đầy máu tươi. Ông đã lén chùi sạch vết máu ấy trước khi đưa nó lên bờ, tránh ánh mắt dò xét của người làng. Con gái ông, đứa con gái không được thừa nhận, rồi cũng đến phiên nó muốn theo người lạ rời làng, mà không biết đằng sau ngọn núi kia là bao gian dối... Anh buông tay nàng ra. Đêm đó, cả ba linh hồn đều gục chết sau lời sám hối của ông và những bí mật kinh khủng được tiết lộ. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chàng buôn lụa có đôi mắt buồn rời làng một mình vào lúc rạng đông. Ngang ngôi mả hoang bên đường dẫn qua núi, anh quỳ xuống, rút mấy chân nhang cũ, dập đầu lặng lẽ khóc. Rồi, anh đứng lên đi tiếp chặng đường qua phía núi bên kia. Không ai thấy cảnh ấy. Làng đang có đại tang. Sáng hôm đó người ta thấy thi thể vị trưởng làng nổi lềnh bềnh trên hồ. Thần Hồ lại lấy đi một mạng người. Cô cháu gái xinh đẹp của ông ngồi câm nín bên bờ hồ, tóc đẫm sương đêm. Không ai đọc được trong đôi mắt ngây dại của nàng hằn in chỉ một khoảnh khắc: anh vụt đứng dậy chạy điên cuồng trong bóng đêm, và nàng không còn thấy gì nữa. Chỉ còn lại nàng và ông. Ông cúi xuống vỗ về nàng, nói khẽ lời hối lỗi ngàn lần rồi từ từ bước về phía hồ thăm thẳm kia, với một vẻ cương quyết và thanh thản lạ lùng mà nàng biết. Không phép lạ nào trên đời này có thể níu giữ bước chân ông lại...[/FONT]
[FONT="]Hoa mai nở[FONT="] mu[/FONT]ộ[FONT="]n[/FONT][/FONT] Võ Xuân Phương Chiều 26 tết, tiết cuối của năm xong, tôi đến phòng công đoàn nhận quà và tiền tết, năm nay tháng chạp thiếu, cái tết hối hả thúc sau lưng, tôi ghé vào ngả ba cầu ông Đô, lựa mua mai, mà lâu nay trên đường đi dạy tôi thường ngắm nghía, nhà tôi cũng có cây mai vàng 5 cánh đẹp, được Thầy cũ đã nghỉ dạy sau năm 1975 tặng, trước năm 75 Thầy là giáo viên tiểu học, nhưng sau 75 không rõ sao Thầy không dạy nữa, ở nhà làm vườn, sau ngày mở cửa, thấy người chơi hoa nhiều, nên Thầy quay sang trồng mai, thường những ngày 20 tháng 11 hay tết tôi về thăm thầy. Nghe có người nói, năm 76 lớp Thầy chủ nhiệm, có một học sinh quậy phá dữ lắm, lại học kém, cuối học kỳ I tổng kết điểm trung bình chỉ có 4,00 và Thầy xếp hạnh kiểm loại yếu, chẳng may đó là cháu của một cán bộ tập kết về, ông cán bộ này lên gặp hiệu trưởng, nghe nói đòi xem lý lịch của Thầy, và cảnh báo với hiệu trưởng về quan điểm của Thầy sao lại để con cháu cán bộ học yếu và đạo đức yếu, tay hiệu trưởng có mời Thầy lên làm việc, đề nghị sửa lại đạo đức loại khá, và nâng điểm, để điểm trung bình lên 6,5 được tiên tiến, Thầy không chịu, và nói đây chỉ ở học kỳ I, cứ trung thực cho em đó phấn đấu, qua học kỳ II, sẽ xét sau. Có lần về thăm Thầy, nói chuyện một lúc không rõ sao lại đưa đẩy đến chữ dũng, Thầy nói, trong lịch sử của mình, người xưa có biết bao người dũng, dũng như Trần Bình Trọng là khí dũng, nhiều người làm được. Dũng như Nguyễn Biểu là trí dũng có người làm được. Còn dũng như Chu Văn An là tâm dũng khó người làm được. Năm nay cây mai Thầy tặng, không rõ sao mà nụ còn nhỏ, do tôi chăm sóc kém hay lặt lá muộn, cô Ngọc, cô giáo ở trường chuyên trồng mai bán, nói, cây mai này nở sớm nhất là rằm, còn chọc, chắc nó thấy anh làm thơ, nên để tết Nguyên Tiêu, tết thơ nở mừng anh đấy! Vì vậy tôi tính với vợ, là tiền hỗ trợ ăn tết của trường và công đoàn năm nay, mua cây mai về chơi tết với thiên hạ! Đang loay hoay chọn mai, trả giá, vô tình tôi ngước lên nhìn, thấy Trọng con trai thầy ngồi sau xe tải nhỏ, đang vịn vào đầu võng, thấy tôi chú chỉ chỉ về hướng Qui Nhơn, vậy là Thầy phải đi cấp cứu ở bệnh viện tỉnh, Tôi không mua mai nữa, về nhà, vợ và con hỏi sao không mua mai, tôi nói khi nãy thấy chú Trọng đưa Thầy đi bệnh viện tỉnh, thôi, mình nhịn chơi mai, ăn cơm xong anh chở em xuống Qui Nhơn vào thăm thầy thử như thế nào, Vợ tôi ghé chợ mua chục cam, tôi lấy bì thư bỏ vào 200 ngàn đồng, tiền trường và công đoàn hỗ trợ ăn tết, tôi gọi điện hỏi Trọng về tình hình bệnh của Thầy, số phòng rồi chở vợ đi. Chiều 26 tết, mọi người đều hối hả, công nhân khu công nghiệp Phú Tài về, các thợ vôi từ Qui Nhơn về, đường tấp nập, lộn xộn, không chú ý dễ có tai nạn. Vợ chồng tôi vào phòng cấp cứu, Bình thấy tôi đứng dậy nhìn rươm rướm nước mắt, Thầy đang thở oxy, mê man, người Thầy bẹp xuống dính sát vào drap trắng, và lọt thỏm vào chỗ trũng của chiếc giường, Trọng kể -Khi trưa em nhận điện thằng Bính gọi về, thấy ba mê man, lo quá, em vội vàng thuê xe đưa ba đi, bệnh viện nói, trễ quá…Mà anh cũng biết ba em hút thuốc nhiều quá! Những ngày này nhà nào cũng bận rộn cả. - Thầy đau lâu chưa, - Thực sự là khoảng một tuần, trước đó ba em vẫn còn chăm sóc mai, tụi em nói với Ba thôi đừng trồng mai nữa, nhịn tiêu là được, nhưng Ba em nói trồng cho vui, và bán có tiền tiêu rộng rãi hơn, khi các cháu về thăm ông, bà có tiền mà lì xì, chúng nó cũng vui, mà em thấy có được gì đâu, tiền thuốc thang còn nhiều hơn tiền bán mai! Chúng tôi gởi thầy chục cam, rồi tôi kéo Trọng ra riêng nói, - Chú biết tôi quí Thầy như Ba tôi, giờ tôi xin góp vào tiền dịch vụ, tôi đưa bì thư, Trọng từ chối, sau nói mãi mới nhận và ngậm ngùi, tôi nói thêm ở đây tiền dịch vụ ngoài cũng tốn lắm đó, Trọng nói em biết! Chúng tôi vô lại phòng, Bình và vợ tôi đang nói chuyện gì đó. -Sao, còn gia đình cô Bình thế nào. Tôi quay sang hỏi chuyện Bình, cô con gái lớn của Thầy, làm bên dược, chồng là cán bộ tổ chức của một xí nghiệp, Trọng là con trai đầu nhỏ thua tôi 3 tuổi, Bình em kề Trọng - Dạ tụi em sống cũng được, em mới nghe anh Trọng báo, mấy ngày này cơ quan của ảnh và của em cũng bận quá, gia đình anh cũng khỏe? - Cũng như gia đình cô vậy, mà hai chúng tôi là giáo viên, thời giờ có rộng rãi hơn, nhưng tiền thì eo hẹp hơn, tôi nói vui. Chúng tôi chào đi về, Bình đưa ra cửa, đi chậm lại, ghé sát tôi nói nhỏ -Em cảm ơn anh. Má tôi mất, lúc tôi mới 2 tuổi, tôi về ở bên ngoại, đến năm 10 tuổi ba tôi dẫn về gởi học ở nhà Thầy lớp năm và lớp tư, qua năm sau tôi vào lớp ba trường xã, nhà Thầy trong xóm, phải qua sông bằng cây cầu gỗ, cất trong khu vườn rộng, nhà nằm ở góc, kề ao đào lấy nước tưới rau, vợ Thầy ở nhà, thời gian này Thầy dạy hưởng lương của xã, nên chẳng được bao nhiêu, cuộc sống khó khăn, tôi nhớ nhiều kỷ niệm thời gian ở đây, bữa ăn thường rau trong vườn, chấm nước cá, trã cá nục, cứ hết nước thì đổ thêm vào, cho muối, nước mắm là chan ăn, và chấm rau, thường rau muống luộc, rau lang luộc, chúng tôi chơi trong khu vườn rộng, những đám rau tưởng là những thảm cỏ mênh mông, chạy luồn dưới những cây chuối tưởng là đang lạc vào cánh rừng nào đó, sợ nhất là gặp lũ mèo hoang, nhìn cặp mắt xanh lè, có lúc thu nhỏ lại mà khiếp, Trọng vẽ rất đẹp, thường lấy các hình trong truyện Tàu, hay trong truyện Kiều mà vẽ lại, Bình thích chơi buôn bán, hái lá bông bụt làm tiền, thường bắt tôi đi bắt chuồn chuồn, châu chấu, nếu được loại chuồn cộ thì tôi ngắt chót đuôi, sau đó cắm lá táo nhơn vào thả, nó bay rất đẹp, em rất thích, có lần tôi nghe thằng bạn xúi dại cho chuồn chuồn cắn rốn em để biết bơi, làm em khóc thét và tôi bị một trận la, những tình cảm khó quên đó theo tôi vào tận các năm học đại học, có lần tôi viết thơ về cho em, kể chuyện xưa: Bướm vàng châu chấu, chuồn chuồn Đưa tay em tính nên buông con nào Anh thì biết trả lời sao Thôi thì em tính đường nào lợi thôi! Bình rất thích, có điều tôi vẫn mang dấu ấn rất thô thiển là, con của các bạn Ba tôi, tôi coi như là ruột thịt của mình, lớn tuổi hơn là anh, chị, bằng tuổi là mầy tao, nhỏ tuổi là em rồi, nếu có lúc nào tơ tưởng đến các cô em đó thì lập tức xua đi, xem như phạm tội, có lần vợ tôi vô tình thấy trong nhật ký của tôi có câu thơ: Nguyệt Bình ơi! Ơi Nguyệt Bình Trong thơ anh, đẫm bóng hình của em Vợ tôi nói - Sao hồi đó anh không làm rể của Thầy, - Các bạn của Ba anh đều muốn anh làm rể lắm đó, vì thấy anh dễ thương, và các em đó cũng muốn bắt anh làm chồng lắm đó, vì thấy anh đẹp trai, phong độ. - Chứ không phải làm thơ tình rồi lén giả đò bỏ quên vào phòng mấy cô, - Không phải giả đò bỏ quên vào phòng, mà cố ý bỏ lộn vào hộc tủ ở phòng hội đồng! Thằng Quí vừa về hôm qua, đem cây mai cả tháng nay tôi cố chăm sóc, nhưng búp còn nhỏ, vào nhà, nó mua dây điện và bóng đèn về thắp sáng để kích thích, không biết có kết quả gì không, hy vọng vậy thôi! Tối 29, tôi lấy cái đôn sứ, để trước thềm nhà, đặt cây mai lên, dù chưa nở bông, nhưng dáng đẹp, các bạn đến thăm tết, khen và nói - Người ta chơi mai giảo, mai cúc, mai cung đình còn ông Hoàng thì chơi mai ghế, Vợ tôi nói - Không phải đâu, loại này là mai hương, nở hoa thơm lắm, năm nay nở chậm đấy, Anh Bảo nói, -Không, tôi biết, thằng này nó thích mai ghế, tôi cười bảo vợ là mấy ảnh chọc đấy, vợ tôi người Huế không biết cách nói lái của Bình Định. Mồng 4 các học sinh cũ về thăm trường, ghé thăm Thầy, tôi tiếp bắt mệt, vợ tôi sửa soạn quà cáp cho thằng Quí tối đi tàu vào lại thành phố, 4 giờ sáng tôi dậy làm việc, in giáo án, để mai lên lớp, nay mồng 5 có thể có các học sinh cũ hay bạn đi chơi Đống Đa về ghé thăm, phải chuẩn bị trước, 5,00 giờ tôi cúng trà Ba tôi, thành thông lệ, lúc nhỏ tôi thường được Ba tôi sai pha trà khi Người có khách đến chơi, tôi yêu thơ văn cũng một phần nghe lỏm chuyện của Ba tôi và các bác, và cũng ghiền trà từ đó, nên nay, cứ đến 5,00 g sáng là tôi cúng trà, Rửa bình chén xong, tráng lại nước sôi, tôi cho trà vào bình, chế ít nước sôi vào để rửa trà, lắc đều, xong tôi mở cửa đi ra hè chắc nước rửa, có mùi thơm! Dừng lại một chút, mùi hoa mai, mùi mai hương! Tôi nhè nhẹ lần theo mùi mai, đến chậu mai trên đôn, dưới ánh đèn đường hắt vào, thấy một chùm nụ mai, được che khuất bỡi các lá non, nhiều nụ ló màu vàng, trong đó có một hoa đang nở, tỏa hương thơm, sung sướng quá, tôi ngâm khe khẽ: Hết tết nhà ai mai rụng hết Riêng ta đang nở một hoa mai. Vào nhà, chế nước sôi vào bình, đi ra phòng sau định gọi vợ dậy khoe, thì có chuông điện thoại, tôi nhìn đồng hồ, mới 5giờ 20, sao Quí đến Sài gòn sớm vậy, nhắc ống nghe, nói - Ba nghe đây, - Em đây anh Hoàng, tiếng của Trọng, im lặng, Ba em mất rồi. - Thầy mất lúc nào! - Khi nãy lúc 5 giờ 00, Tôi bàng hoàng, lúc nãy khi tôi rửa trà, phát hiện có mùi thơm hoa mai cũng trùng với giờ Thầy mất, hẳn khi mất, hồn Thầy đã nhập vào hoa mai để tỏa hương thơm! Tôi nói lời chia buồn và nói tí nữa vợ chồng tôi về. Tôi pha hai chén trà, thêm một chén cho Thầy đưa lên bàn thờ, chắp tay cầu nguyện, thấy trong hơi trà hình như có hai ông cụ đang bàn luận về thơ Phùng Quán!
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phục thù [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ái Khanh [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chiếc xe với bảng số Victoria ngưng lại trước văn phòng điạ ốc của Tuấn. Không cần nhìn kỹ, Tuấn cũng hiểu rõ chủ nhân là người lạ tại cái thành phố nhỏ bé này. Khi người lạ mặt vừa bước xuống xe, Tuấn nói với cô thư ký đang ngồi đọc sách một cách say mê: - Cô Hoa, có lẽ mình có khách. Hoa suýt giật mình, bỏ vội quyển sách vào ngăn kéo, lấy một tờ giấy đặt vào máy chữ giả vờ đánh lách cách. Người lạ, với tờ báo cặp dưới nách, tiến tới trước cửa kiếng đứng nhìn những tấm hình quảng cáo. Đó là một người đàn ông mập mạp trong bộ đồ lớn lợt màu, mồ hôi lấm tấm trên trán. Ông ta vào khoảng trên dưới năm mươi tuy nhiên tóc vẫn còn dầy và đen nhánh. Khuôn mặt ông ta hồng hào - có lẽ vì nóng - với đôi mắt ti hí lạnh lùng. Rồi ông ta xô cửa bước vào, liếc nhìn cô thư ký đang bận rộn đánh máy trước khi gật đầu chào Tuấn: - Ông Tuấn? Tuấn cười thật tươi: - Dạ! Mời ông ngồi. Người đàn ông ngồi xuống, giơ tờ báo lên: - Tôi thấy có mấy căn nhà trong báo coi cũng tàm tạm. - Dạ, chúng tôi thường đăng những căn nhà tốt với giá rẻ trên báo này với kết quả rất tốt. Dạ thưa quí danh ông là... - Tôi là Chiến. Rồi Chiến móc túi lấy khăn tay ra lau mặt: - Hôm nay trời nóng quá! Tuấn lắc đầu chắc lưỡi: - Dạ, hôm nay trời nóng một cách bất thường. Ở đây trời ít khi nóng lắm. Nhiệt độ trung bình chỉ vào khoảng trên dưới 20 độ... Dạ, mời ông hút thuốc. - Cám ơn ông, tôi không hút. Tôi muốn coi căn nhà ông quảng cáo trong báo. - Dạ, thưa ông ông muốn coi căn nào? - Tôi cũng chưa quyết định... Nhưng có một căn nhà cũ ở gần ngoại ô, có lẽ khá yên tĩnh. - Dạ thưa chắc là căn nhà màu trắng giá $420,000? - Dạ đúng. Tuấn lắc đầu: - Thành thực mà nói với ông, đây là một căn nhà rất đặc biệt. Đáng lẽ chúng tôi không nhận bán nhưng chủ nhân nhất định năn nỉ và còn tự trả tiền quảng cáo nữa, thành ra.... Chiến ngắt lời: - Căn nhà đó có gì mà ông gọi là đặc biệt. Tuấn cười gượng: - Dạ có lẽ tôi dùng chữ đặc biệt không được chính xác lắm. Đúng ra phải nói là căn nhà đó... mắc quá! Có lẽ ông sẽ không chấp nhận cái giá quá cao như vậy đâu! - Tại sao? Tuấn lục tìm trong tập hồ sơ, rút một tấm giấy ra đưa cho Chiến: - Xin ông coi đây thì rõ. Chiến cầm tờ giấy ghi một vài chi tiết của căn nhà “Nhà fibro 3 phòng ngủ. Phòng khách, phòng ăn, nhà bếp, phòng tắm và nhà vệ sinh riêng. Đất 12mx32m. Cách ga 5 cây số. Cách trường 8 cây. $420,000”. Bên dưới là ghi chú bằng mực đỏ “Nhà cũ, cần sửa chữa nhiều. Chỉ đáng $250,000”. Chiến gật gù: - À thì ra thế! Nhưng tại sao chủ nhân lại đòi cao quá như vậy? Tuấn nhún vai: - Có lẽ bà ta tưởng đất của bà là vàng chắc. Chiến có vẻ ngạc nhiên: - Chủ nhân là đàn bà? Bà ta ở với ai? - Từ khi con bà ta chết cách đây khoảng trên ba năm, bà ta ở một mình. Chắc ông không muốn mất thì giờ đâu nhỉ? Ông muốn mua khoảng bao nhiêu, chúng tôi còn nhiều căn rất tốt và rất rẻ. Chiến có vẻ ngần ngừ: - Thực ta thì tôi rất thích vị trí của căn nhà này. Có lẽ mình có thể trả giá với bà chủ. Tuấn lắc đầu: - Bà ta đòi đúng giá, không bớt một xu. Chiến lấy khăn lau mồ hôi: - Hay ta cứ thử tới coi xem sao. Rồi Chiến đứng dậy: - Tôi đi bây giờ. Tuấn có vẻ ngạc nhiên: - Ông quyết định mua căn nhà đó hay sao? - Dạ thì cứ tới thử xem sao, có mất mát gì đâu. Tuấn thở dài, hỏi lại: - Ông có tới đó ngay bây giờ không? Ông biết địa chỉ không? - Dạ biết. Tấm bảng của ông cắm ngay sân trước ai mà chả thấy. - Để tôi điện thoại cho bà chủ. Bà ta tên là Đào. Mười lăm phút sau Chiến ngừng xe trước căn nhà cũ kỹ. Sân trước cỏ dại mọc đầy, tường nhà tróc sơn loang lổ. Rõ rệt là căn nhà không được chăm sóc từ nhiều năm qua. Chiến xuống xe, leo lên mấy bực thềm, gõ mạnh vào cánh cửa cũ kỹ. Người đàn bà ra mở cửa ốm yếu và thấp bé với mái tóc bạc phơ. Đôi mắt của bà như sáng lên khi hỏi Chiến: - Ông là ông Chiến? - Dạ. - Chắc ông muốn coi nhà? Ông Tuấn vừa điện thoại cho tôi. - Dạ. Bà chủ nhà bước lui vài bước: - Mời ông vào. Vừa bước qua ngưỡng cửa, Chiến vừa lấy khăn tay lau mồ hôi: - Nóng quá! Bà chủ thản nhiên: - Tôi có pha sẵn một ít nước chanh để trong tủ lạnh. Chỉ có điều là ông không nên hi vọng là tôi sẽ bớt một xu cho ông. Trong nhà tối tăm ẩm thấp với những cánh cửa sổ cũ kỹ đóng kín. Đồ đạc trong nhà có lẽ cũng cùng tuổi với chủ nhân. Bà chủ lặng lẽ bước tới ngồi lên cái ghế bành cũ, nét mặt hoàn toàn không cảm xúc. Chiến nhìn quanh trước khi lên tiếng: - Tôi vừa nói chuyện với ông Tuấn... Bà chủ ngắt lời: - Tôi biết! Chắc ông ta lại nói là căn nhà này không đáng giá $420,000 phải không? Nếu ông không đồng ý, xin ông cứ tự nhiên ra khỏi nhà. Tôi không bớt một xu. Chiến hắng giọng: - Dạ, tôi không biết là tôi có nên trả giá hay không. Tuy nhiên mình có thể thảo luận một chút. Chủ nhân ngửa mình vào lưng ghế: - Ông muốn thảo luận điều gì xin cứ tự nhiên, nhưng đừng trả giá. Chiến lại lau mồ hôi ướt đẫm trên mặt: - Dạ... Tôi là dân buôn bán, còn độc thân. Tôi dành dụm được chút đỉnh và rất thích thành phố này sau khi có dịp đi ngang hồi mấy năm về trước nên tôi có ý định sẽ hồi hưu ở đây. Hôm nay nhân chạy ngang đây, tôi ghé vào văn phòng ông Tuấn hỏi xem ông có căn nhà nào vừa túi tiền hay không và ông ta gởi tôi tới đây. Không hiểu tại sao tôi cảm thấy thích căn nhà này ngay khi vừa bước vào cửa. Bởi thế tôi đề nghị bà nên bán với giá phải chăng. - Giá phải chăng! Hừ, tôi đã nói ngay từ đầu là không có vấn đề trả giá rồi mà! Nếu ông không trả nổi giá tôi đòi, ông có thể tìm mua nơi khác. Rồi chủ nhân đứng dậy lạnh lùng: - Chào ông. Chiến lúng túng: - Thưa bà... Chủ nhân vẫn lạnh lùng: - Tôi xin nhắc lại là không có vấn đề trả giá. Tôi đã dặn đi dặn lại ông Tuấn hàng trăm lần rồi. Chiến có vẻ bối rối: - Thực ra thì... tôi không biết phải nói sao, nhưng... tôi đồng ý trả giá bà muốn. Chủ nhân nhìn sững Chiến: - Ông có chắc không? - Chắc chắn! Tôi có đủ tiền. Nếu bà nhất định muốn bán với giá đó, tôi trả giá đó. Khuôn mặt chủ nhân như dịu lại, nhưng đôi mắt bà như sáng lên: - Có lẽ nước chanh đã đủ lạnh rồi. Để tôi lấy mời ông uống một chút cho đỡ khát. Chiến đang lau mồ hôi khi chủ nhân trở lại với ly nước chanh mát lạnh. Chiến đỡ lấy uống một hơi gần nửa ly. Chủ nhân lại ngồi xuống cái ghế bành. Lần này bà nói với vẻ trầm ngâm: - Căn nhà này của gia đình tôi từ hơn một trăm năm nay. Tất cả những người trong nhà, ngoại trừ Long con trai tôi, đều ra đời trong căn phòng nhỏ kế bên nhà bếp. Chỉ có tôi là nhất định sanh Long tại nhà bảo sanh. Bà chớp chớp đôi mắt, lúc này không còn trong sáng nữa: - Tôi biết căn nhà này rất cũ. Ông Tuấn nói rằng căn nhà này còn bị mọt ăn nữa. Nhưng tôi vẫn thương căn nhà này. Chắc ông cũng hiểu? - Dạ! - Ba của Long mất khi nó mới lên chín. Long bỏ thành phố này lên ở Sydney trái ý muốn của tôi! Nhưng nó cũng giống như các thanh niên thời nay, đầy tham vọng nhưng không biết hướng đi. Tôi không biết nó làm gì ở Sydney. Nhưng có lẽ nó thành công vì nó gởi tiền cho tôi đều đặn. Bà đưa tay lên lau mắt: - Tôi không gặp con tôi trong chín năm trời. Tôi buồn khổ lắm! Nhưng khi nó trở về, tôi còn buồn hơn... Nó về nhà vào lúc nửa đêm, mặt mày hốc hác, già hơn đến năm mười tuổi! Nó về nhà với một cái valise nhỏ màu đen. Khi tôi tính đỡ cho nó, nó hất mạnh khiến tôi suýt té. Tôi đưa nó vào giường như khi nó còn nhỏ, và tôi nghe nó rên rỉ suốt đêm. Sáng hôm sau nó nói rằng nó phải ra khỏi nhà trong vài tiếng đồng hồ để làm một cái gì rất quan trọng. Nó không cắt nghĩa gì thêm, chỉ xách chiếc valise đi. Chiều hôm đó nó trở về tay không, không có cái valise đen. Đôi mắt Chiến như mở rộng: - Thế nghĩa là gì? - Tôi không biết. Nhưng tôi được người ta cho biết... Đêm hôm đó có người vào nhà tôi. Tôi không biết làm sao ông ta vào được. Tôi chỉ biết khi nghe tiếng ồn ào trong phòng con tôi. Tôi lắng nghe xem con tôi bị lôi thôi vì việc gì, nhưng chỉ nghe tiếng la hét và đe doạ... Rồi... Bà già ngưng lại, đôi vai bà như xệ xuống: ... súng nổ. Khi tôi chạy sang, cửa sổ phòng con tôi mở toang, người lạ đã biến mất, và con tôi... thằng Long của tôi nằm dưới đất... Chết rồi! Bà lắc đầu: - Chuyện đó cách đây hơn ba năm rồi. Cảnh sát cho tôi hay rằng con tôi và người lạ mặt dính líu tới một vụ cướp... lên tới bạc triệu. Thằng Long ôm trọn số tiền toan chiếm lấy một mình. Nó giấu trong căn nhà này, mà cho tới bây giờ tôi vẫn không biết ở đâu. Người lạ mặt tới tìm nó đòi phần chia. Khi nó từ chối, ông ta bắn chết nó... thằng Long, con tôi... Rồi chủ nhà ngước lên, nói thật chậm rãi: - Đó là lý do tại sao tôi đăng bảng bán nhà đắt gần gấp đôi thực giá, vì tôi biết một ngày nào đó kẻ giết con tôi sẽ trở lại. Một ngày nào đó ông ta sẽ mua căn nhà mục nát này với bất cứ giá nào. Bà ngưng lại một chút rồi nói bằng một giọng vô cùng thanh thản: - Tôi chỉ cần kiên nhẫn đợi chờ với một ly nước chanh có pha thuốc độc... Rồi bà tựa ngửa vào ghế nhìn Chiến với ánh mắt chợt như bừng sáng. Chiến run rẩy đặt cái ly không còn một giọt xuống bàn. Hắn không nghe rõ những lời nói cuối cùng của chủ nhân vì đôi mắt hắn đã trợn trừng, đầu hắn bật ngửa, tuy hắn vẫn cố lẩm bẩm: Nước... chanh... của bà... đắng quá! [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phục thù [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hồ Thủy Giang[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hai cô gái cùng rất đẹp. Một cô nổi trội hơn chút ít nhờ gương mặt nhẹ nhõm, tươi như hoa. Nếu chỉ có vậy thì cũng chẳng có gì để bàn. Đằng này, hai cô cùng yêu đắm đuối một chàng. Dĩ nhiên chàng đó thật điển trai và tài giỏi. Ở cái thị xã nhỏ như bàn tay này hẳn cũng chỉ có vài chàng trai như thế. Kết cục, cô có gương mặt tươi như hoa đã thắng cuộc. Ngày cưới của họ được tổ chức sau đó ít ngày. Ngày cưới của cô này đã trở thành đám tang tinh thần của cô kia. Cô gái thua cuộc không đi dự lễ cưới. Ngày hôm đó cô khóa trái cửa, ở lì trong phòng. Cô lấy con dao nhọn khắc vào cái chân đèn bằng gỗ cẩm lai hai chữ: Phục thù. Đáng sợ thật ! Sự phục thù của đàn bà sẽ chẳng ai lường trước được điều gì. Đón đường đón chợ, dao phay, đòn gánh, tạt axít, đánh thuốc độc, thậm chí bắt cóc con tin. Trời ơi ! Khi cơn tam bành của họ nổi lên thì không chuyện gì họ từ nan. Khiếp đảm quá ! Khi tình địch đã khắc cốt ghi xương hai tiếng "Phục thù" thì hãy dè chừng. Một năm. Hai năm. Rồi năm năm. Vẫn chưa động tĩnh gì. Có vẻ như con hổ mang, con sói xám còn đang thu mình mai phục. Cô gái mặt hoa đã lần lượt sinh ba đứa con. Cô gái kia vẫn chưa hề tung ra một miếng đòn nào. Kể cũng lạ. Cô ta đã quên thù cũ hay là đang giấu mình trong lối chơi hiểm độc? Việc này không ai đoán nổi. Có một điều mà tất cả mọi người đều thấy là mặc dù không ít những kẻ đến quỳ thụp xuống dưới chân cô để cầu hôn nhưng lòng cô thì vẫn giá băng. Hình như điều cô quan tâm nhất chỉ là những bài thể dục mạnh ở nhà thi đấu. Cô tập không bỏ buổi nào, nắng cũng như mưa. Sức lực của cô ngày một sung mãn trông thấy. Vâng ! Sức lực ! Điều hết sức cần thiết cho một kẻ đang nuôi chí phục thù rửa hận. Mười năm trôi qua. Vẫn chưa hề động tĩnh. Bây giờ ngoài việc luyện tập cơ bắp để có một cơ thể nở nang săn chắc, cô còn tìm đọc rất nhiều sách về tâm sinh lý con người. Hỡi ôi ! Thật đáng gờm cho kẻ mang chí phục thù mà lại văn võ song toàn như cô. Mà hình như không chỉ có thế, cô còn quan tâm thường xuyên đến cả sắc đẹp của mình nữa. Nào củ đậu, dưa leo, sữa tắm... Không có thứ gì là cô không sử dụng để làm cho làn da tươi tắn mịn màng. Quả là ở cô có nhiều bí ẩn khôn lường. Lâu quá, đúng vào cái lúc mọi người đã tưởng rằng cô nản chí thì buổi sớm hôm ấy cô vùng dậy. Cô lấy tay phủi lớp bụi bám vào hai chữ "phục thù" trên cái chân đèn. Một lúc sau, cô đi tới bàn trang điểm. Cô thoa phấn, kẻ mày, đánh môi rất kỹ. Người phụ nữ nào mà chẳng vậy. Dù có chuẩn bị dao búa trong huyết chiến, thậm chí dù biết sẽ phải chết thì họ vẫn điểm tô nhan sắc để được chết đẹp. Âu cũng là một ưu điểm mà có lẽ cánh mày râu còn lâu mới có được. Đã vào tuổi "băm" mà trông cô rực rỡ như một ngôi sao màn bạc. Cơ thể cô lại cân đối và dũng mãnh như một nữ cầu thủ bóng chuyền. Một nhà tâm lý học đã từng nói người phụ nữ đẹp nhất không phải ở tuổi dậy thì mà chính là ở tuổi ba lăm quả là quá chính xác đối với cô trong lúc này. Cô bỏ mấy thứ vào cái sắc rồi đi ra cửa, nhằm hướng nhà vợ chồng cô gái mặt hoa bước tới. Cô bấm chuông. Cửa mở. Chủ nhà vô tư dẫn cô vào nhà. Cô nhún nhảy bước, mặt mày tươi tỉnh như không có chuyện gì. Vợå chồng cô mặt hoa hình như đang thu dọn đống rác rưởi mà cả tuần qua bận rộn họ không kịp động tay. Cô nhếch mép cười khi nhìn thấy khuôn mặt lốm đốm tàn nhang bắt đầu chảy xệ của bà chủ nhà. "Nào, vẻ mặt tươi như hoa của mày biến đâu rồi ?" - Cô thầm đắc chí. Cô gái tiến đến ngồi cạnh bà chủ mặt hoa. Ông chủ thì ngồi ngay đối diện. - Dạo này sống khá chứ ? - Khách quay sang khẽ hỏi. - Cũng... tạm... nhưng... - Bà chủ ấp úng. Chủ, khách ngồi đã yên vị. Cô gái ngước cặp mắt đen đến nao lòng đưa về phía ông chủ làm gã cứ ngồi đực mặt ra. Giời ơi ! Sao lại có cặp mắt tình tứ đến thế, cứ như thiêu, như đốt. Mắt của vợ gã bây giờ chỉ còn một màu tối xám và nhoèn gỉ thôi. Kìa ! Cô gái còn cười với gã nữa chứ. Gã sực nhớ là ngày xưa cô ấy cũng từng mê mình. Cặp môi dày của gã run lên bần bật. "Sao cô ta còn đẹp đến mê mẩn thế nhỉ. Thân thể cứ săn chắc như thiếu nữ" - Gã thầm rên lên. Suốt gần nửa giờ đồng hồ, gã chỉ nhìn dán vào mỹ nhân chứ chẳng dành một giây khắc nào cho cái cơ thể đang ọp ẹp của cô vợ đã ba con của gã. Đúng là một con công và một con gà mái già đứng bên nhau. Mỗi lúc mặt gã lại thêm nghệt ra như ngỗng... Cô gái nhìn vẻ mặt si tình của gã đàn ông, bật cười thành tiếng. Tiếng cười như muốn nói rằng: "Anh đã thấy chưa ? Đã thấy tôi là thế nào chưa ? Thế mà ngày ấy anh đã chọn nó chứ không chọn tôi. Đại ngu. Bây giờ thì cứ việc rỏ dãi ra nhé". Một lúc sau, cô gái cầm cái sắc đứng dậy. Cô hít hà một cách khoan khoái. Cô sung sướng đến đỏ bừng mặt. "Chà ! Thôi thế là đủ. Quá đủ !" - Cô thầm kêu lên đắc chí. Cô vếch mặt chào hai vợ chồng rồi ngúng nguẩy ra về. Tới nhà, việc đầu tiên là cô ném cái chân đèn có khắc hai chữ "Phục thù" vào bếp than. Thế là xong. Hơn mười năm nung nấu cho một cuộc phục thù, cô chính là người chiến thắng. Cô hả hê phấn chấn, luôn mồm nói đi nói lại mấy câu: "Đã đời quá đi mất! Đã quá!". [/FONT]