Giao Lưu Tàng Kinh Các - Luyện Công

Thảo luận trong 'Cà Phê - Trà Đá' bắt đầu bởi Iris_Goni, 28/7/13.

  1. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    [​IMG]


    Sau 1 năm Luyện công giờ đổi qua học Đạo

    :drunk:
    Không bon chen nữa mệt rồi

    Lão Tử – Đạo đức kinh


    ó một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là đạo. Đạo mà diễn tả được thì đó không còn là đạo bất biến nữa, tên mà gọi ra được thì đó không còn là tên bất biến nữa. Ta gọi tiếng "trâu" để chỉ con trâu là do quy ước từ xưa đến nay, tiếng "trâu" không phải là tên bất biến. Nếu từ xưa ta quy ước gọi tiếng "bò" để chỉ con trâu thì ta sẽ gọi con trâu là "bò". Đạo thì không như vậy. Đạo bất biến nên ta không thể diễn tả rõ ràng được, chỉ có thể dùng trực giác để hiểu.
    Đạo trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật tự chuyển động, bình thản vô tâm mà khéo sắp đặt mọi việc. Đạo trời không thiên vị ai, luôn giúp đỡ cho người lương thiện. Lưới trời lồng lộng, tuy thưa nhưng khó lọt (Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất).
    Không tên là gốc trời đất, có tên là mẹ vạn vật. Đạo trời ví như cánh cửa khép mở, vạn vật từ đó đi ra rồi lại trở về đó. Đạo có tính chất trừu tượng, nó không có hình thù cụ thể, không thể nắm rõ, không sáng ở nơi rực rỡ, không mờ ở nơi tối tăm và cũng không có tiếng động. Đạo vĩnh viễn không có tên gọi. Vạn vật chuyển động theo một vòng tròn khép kín. Tất cả bắt đầu từ "có", có lại bắt đầu từ "không". Lời nói hợp đạo nghe như ngược đời.
    Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa, mưu trí xuất hiện rồi mới có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu thảo, nước nhà rối loạn rồi mới có tôi trung. Đạo ức chế vật cao, nâng đỡ vật thấp. Đạo trời lấy chỗ thừa mà đắp vào chỗ thiếu hụt. Đạo người thì lấy của người nghèo mà thêm cho người giàu, đây chính là nguồn gốc của sự hỗn loạn. Người khôn ngoan chỉ muốn một điều là không muốn gì cả.
    Trời có đạo mà xanh, đất có đạo mà yên, thần có đạo mà linh, biển nhờ có đạo mà đầy, vạn vật có đạo mà thành, đế vương có đạo mà được thiên hạ.
    Lời nói chân thật thì không hoa mỹ, lời nói hoa mỹ thì không chân thật. Người thiện thì không mắc lỗi nên không cần phải biện bạch, người nào phải biện bạch cho mình là người "không thiện". Người biết thì không nói, người nói là người không biết (tri bất ngôn, ngôn bất tri).
    Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi chết thì cứng lại. Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết đi thì lại khô cứng. Cho nên cứng rắn, cáu giận là biểu hiện của chết, mềm yếu, khiêm nhường là dấu hiệu của sống. Binh mạnh thì không thắng, cây cứng thì lại bị chặt. Cứng mạnh thì phải ở dưới, mềm yếu lại được ở trên. (Răng cứng thì chóng gãy, lưỡi mềm thì bền lâu – Lão Tử).
    Mạnh về dám làm (can đảm, cương cường) thì chết, mạnh về không dám làm (thận trọng, nhu nhược) thì sống. Hai cái đó cùng là mạnh mẽ, mà một cái thì được lợi, một cái lại bị hại; ai mà biết được tại sao trời lại ghét cái quả cảm, cương cường? Danh dự với sinh mệnh, cái nào mới thật sự quý? Người khôn ngoan không bao giờ vì trọng cái danh hão mà xem nhẹ tính mạng mình.
    Lời hứa dễ dàng thì khó tin, người nào cho việc gì cũng dễ làm thì sẽ gặp nhiều cái khó. Cho nên người hiểu đạo coi việc gì cũng khó mà rốt cuộc không gặp cái gì khó. "Không" có nghĩa là "không có gì" nhưng phải "có cái gì" thì mới có cái "không có". Trong tự nhiên, ngay cả những việc khó khăn nhất cũng có thể thực hiện theo cách dễ dàng, việc lớn thành tựu từ những hành động nhỏ hơn. Người khôn ngoan đạt những thành tựu vĩ đại là nhờ biết chia nhỏ hành động của mình.
    Cái gì ở yên thì dễ nắm, giòn thì dễ vỡ, nhỏ thì dễ phân tán. Ngăn ngừa sự tình từ khi chưa manh nha, trị loạn từ khi chưa thành hình. Cây lớn sinh ra từ một cái mầm nhỏ; tháp cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đất, đi xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân. Thường gần tới lúc thành công thì lại dễ thất bại, vì không cẩn thận như lúc ban đầu, dè sau như trước thì không hỏng việc.
    Người hiểu đạo trị thiên hạ theo chính sách "vô vi" (taking no action), luôn giữ thái độ điềm đạm. Xem cái nhỏ cũng như cái lớn, cái ít như nhiều, lấy đức báo oán. Giải quyết việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ (vì việc khó trong thiên hạ khởi từ chỗ dễ, việc lớn khởi từ nhỏ). Cho nên người đắc đạo trước sau không làm việc gì lớn mà thực hiện được việc lớn. Người đắc đạo làm việc mà không tư lợi.
    Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh thần bất nhân, coi trăm họ như chó rơm (Luật thiên nhiên không có tình thương của con người, cứ thản nhiên, vô tâm với vạn vật, mùa xuân tươi tốt, mùa đông điêu tàn...).
    Khoảng giữa trời đất như cái ống bễ lò rèn; hư không mà không kiệt, càng chuyển động hơi lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng, không bằng giữ sự yên tĩnh. (Người giản dị nhất thì không phải là người giản dị. Người khiêm tốn nhất thì không phải là người khiêm tốn – Lão Tử).
    Muốn cho vật gì thu rút lại thì tất hãy mở rộng nó ra đã. Muốn cho ai yếu đi thì tất hãy làm cho họ mạnh lên đã. Muốn phế bỏ ai thì tất hãy đề cử họ lên đã. Muốn cướp lấy vật gì thì tất hãy cho đã. Hiểu như vậy là sâu kín mà sáng suốt. Vì nhu nhược thắng cương cường.
    Người đánh xe giỏi không xông bừa tới trước. Người chiến đấu giỏi không giận dữ, khéo thắng địch là không tranh với địch, khéo dùng người là hạ mình ở dưới người. Đó là cái đức của sự không tranh, đó là cái khéo của sự dùng người, đó là hợp với chỗ cùng cực của Đạo Trời.
    Ngũ sắc làm người ta mờ mắt; ngũ âm làm người ta ù tai; ngũ vị làm người ta tê lưỡi, hưởng thụ làm cho người ta mê muội, vàng bạc làm cho hành vi người ta xấu xa. Cho nên bậc đắc đạo cầu no bụng mà không cầu vui mắt, bỏ cái xa xỉ, đa dục mà chọn cái chất phác, vô dục. Bậc đắc đạo bận áo vải thô mà ôm ngọc quý trong lòng.
    Trời đất vĩnh cửu. Trời đất vĩnh cửu được là vì không sống riêng cho mình, nên mới trường sinh được.
    Người đắc đạo đặt thân mình ở sau mà thân lại được ở trước, đặt thân mình ra ngoài mà thân mới còn được. Như vậy chẳng phải vì họ không tư lợi mà thành được việc riêng của mình ư?
    Người cực khéo thì dường như vụng. Người nói giỏi thì dường như ấp úng. Cử động thì thắng được lạnh. Nhưng yên tĩnh thì thắng được nóng. Vậy cứ thanh tĩnh thì mọi vật sẽ đâu vào đấy.
    Người quân tử gặp thời thì mặc áo gấm mà ngồi xe ngựa, không gặp thời thì mặc áo vải thô mà đi chân đất. Người tốt thật sự không ý thức được tính thiện trong việc làm của mình, trái lại kẻ dại dột (the foolish) luôn cố gắng tỏ ra là mình tốt.
    Không trọng người hiền để dân không tranh, không quý của hiếm để dân không trộm cắp, không phô bày cái gợi ham muốn để lòng dân không loạn.
    Chính trị của thánh nhân là làm cho dân lòng thì hư tĩnh, bụng thì no, không ham muốn, không tranh giành, xương thì mạnh.
    Khiến cho dân không biết, không muốn, bọn thông minh, mưu trí thì không dám hành động. Theo chính sách "vô vi" thì mọi việc đều yên ổn.
    Không học thì không phải lo. Đem cái hữu hạn xét cái vô hạn, há chẳng phải là ngốc lắm sao? Càng theo học thì mỗi ngày dục vọng, lòng "hữu vi" càng tăng, theo đạo thì mỗi ngày dục vọng càng giảm, lòng "vô vi" càng tăng.
    Vinh hay nhục thì lòng cũng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì sinh ra rối loạn. Là vì vinh thì được tôn, nhục thì bị hèn; được thì lòng rối loạn (mừng rỡ mà!); mất thì lòng rối loạn (rầu rĩ mà!); cho nên mới bảo là vinh, nhục sinh ra rối loạn. Vậy phải làm sao? Chúng ta sỡ dĩ sợ vạ lớn là vì chúng ta có cái thân. Nếu chúng ta quên cái thân mình đi, thì còn sợ gì lòng rối loạn nữa?!
    Cho nên người nào coi trọng sự hy sinh thân mình cho thiên hạ, thì có thể tin cậy vào kẻ đó được.
    Người nào giữ được đạo thì không tự mãn, không cố chấp, cũng không tự ái. Vì vậy nên mới có thể bỏ cái qua cái cũ mà chấp nhận cái mới được. Khi xem xét sự vật, không được quên mặt đối lập của nó. Nghĩ đến cái hữu hạn thì đừng quên cái vô hạn.
    Đứng một chân thì không thể đứng được lâu, giang chân ra thì không thể đi được, tự biểu hiện thì không bao giờ chói lọi, tự kể công thì không có công, tự phụ thì chẳng khuyên bảo được ai, kẻ vẽ rắn thêm chân thì không trường tồn. Thái độ đó được ví như thức ăn thừa, ung nhọt, người người đều ghét. Thiên bất dung gian.
    Cho cái đẹp là đẹp do đó mới có cái xấu; cho cái thiện là thiện do đó mới có cái ác. Là vì "có" và "không" sinh ra lẫn nhau, "dễ" và "khó" tạo nên lẫn nhau, cao thấp dựa vào nhau mà tồn tại.
    Biết người là khôn, tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được mình là kiên cường. Biết thế nào là đủ là người giàu; biết gắng sức là người có chí. Kẻ nào không rời bỏ những điều trên thì sẽ được lâu dài, chết mà không mất là trường thọ. Người hiểu đạo làm việc tuân theo quy luật tự nhiên, chỉ làm những việc cần thiết cho bản thân.
    Hồn nhiên vô tư, vô dục như đứa trẻ mới sanh là có đức dày, ai cũng yêu quý. Đứa trẻ mới sinh độc trùng không chích, mãnh thú không ăn thịt, ác điểu không vồ. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt, suốt ngày gào hét mà giọng không khản, như vậy là khí cực hòa.
    Tuyệt thánh, bỏ mưu trí dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân trở nên hiếu hòa; dứt trí khôn, bỏ lợi lộc, không còn trộm giặc.
    Ba cái đó (mưu trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì chỉ là cái vẻ bên ngoài không đủ để trị dân nên phải bỏ; khiến cho dân quy về điều này: ngoài thì mộc mạc, trong thì giữ sự đơn giản, giảm tư tâm bớt dục vọng mới là tích cực. (Đạo trời không thiên vị ai, luôn ban ơn cho người có đức – Lão Tử).
    Giọng kính trọng khác với giọng xem thường bao nhiêu? Thiện với ác khác nhau như thế nào? Cái mọi người sợ ta không thể không không sợ. Vũ trụ thật rộng lớn, không thể nào hiểu hết được.
    Mọi người hớn hở như dự bữa tiệc lớn, như mùa xuân dạo chơi; bậc đắc đạo điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ chưa biết gì, thản nhiên mà đi như không có nơi để về. Mọi người có thừa, riêng bậc đắc đạo như thiếu thốn, trong lòng thì trống rỗng! Mọi người đều có chỗ để dùng, riêng bậc đắc đạo luôn bảo thủ. Người hiểu đạo khác người mà quý mẹ của muôn loài (tức đạo).
    Vạn vật tuần hoàn, trong dương có âm, âm cực dương sinh, có sinh ắt có tử, trăng tròn trăng khuyết. Vạn vật biến đổi rồi trở về với đạo. Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo ra vạn vật. Chúng ta do đâu biết được vạn vật? Là nhờ đạo.
    Có câu: "Khiêm tốn là gốc của cao quý". Người khôn ngoan giữ lấy đạo làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải nên mới chói lọi, không tự kể công nên mới là có công, không tự phụ cho nên mới hơn người. Vì không tranh với ai nên không ai tranh với mình được.
    Có câu: "Cong (chịu khuất phục) thì sẽ được bảo toàn", há phải hư ngôn! Nên chân thành giữ lấy đạo mà về với nó. Trong trời đất có bốn cái vĩ đại là Đạo, tự nhiên, trời đất và con người. Luật con người nên bắt chước tự nhiên, luật tự nhiên bắt chước luật của trời đất, luật trời đất bắt chước Đạo.
    Ít nói thì hợp với tự nhiên. Cơn gió lớn không thể thổi suốt buổi sáng, cơn mưa lớn không kéo dài suốt ngày. Ai làm ra những cái ấy? Chính là do trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống chi là con người? Người hiểu đạo biết rằng không ai có thể đoán trước những gì tương lai nắm giữ.
    Vũ khí là vật gây lo sợ, ai cũng ghét cho nên người hiểu đạo không dùng binh khí. Chỉ dùng đến nó khi bất đắc dĩ, khi bảo vệ hòa bình, mà dùng đến thì điềm đạm là hơn cả. Chiến thắng mà vui mừng tức là thích giết người. Thích giết người thì không trị được thiên hạ. Chỗ nào đóng quân thì gai góc mọc đầy. Sau cuộc chinh chiến tất có mất mùa.
    Việc lành thì trọng bên trái, việc dữ thì trọng bên phải. Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng thương tiếc mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử. Thắng mà không bức người, vì vật mạnh thì có lúc suy. Nếu không như vậy thì là trái Đạo. Trái Đạo thì sớm bị tiêu diệt. Trị nước phải được tiến hành cẩn thận, giống như việc nấu cá nhỏ. Người khôn ngoan làm việc mà không bao giờ xảo trá, tư lợi.

    Nguồn tin: Sưu tầm
    [​IMG]


    [​IMG]
    [​IMG]

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 18/8/13
  2. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member




    Đạo không hình tượng

    Đạo không có hình bóng cụ thể,
    Nhưng nó lại có ngay trước mắt, chẳng ở đâu xa.
    Phải tự suy nghĩ mà tìm trong bản thân mình,

    Chớ mong tìm được ở người khác.
    Nếu tìm (ở người khác) mà được,
    Thì đó chẳng phải là “chân đạo” nữa.
    Và, dù có tìm được “chân đạo”,
    Thì “chân đạo” sẽ là vật gì?


    Bản dịch của Hoàng Lê:
    Đạo không hình bóng

    Đạo không hình bóng,
    Trước mắt, đâu xa.
    Tìm tự lòng ta,
    Chớ tìm chốn khác.
    Dẫu mà tìm được,
    Chẳng phải là "chân",
    Dù có được "chân",
    "Chân" là gì vậy?


    Bản dịch của Ngô Hồ Anh Khôi:
    Đạo vô hình tướng

    Hạt Đạo vốn dĩ vô hình
    Lại ngay trước mắt, rành rành chẳng sai.
    Mỏi mòn hỏi Đạo của ai,
    Sao không hỏi Đạo ở ngay tâm mình.
    Đạo ai dẫu có tường minh,
    Chắc gì đã đúng Đạo mình tìm đâu.
    Một khi tìm được Đạo sâu,
    Hỏi chi Hạt Đạo sắc màu ra sao…


    Bản lưu truyền tại Thiền Viện Thường Chiếu:
    Đạo không hình tướng

    Đạo không hình tướng,
    Trước mắt chẳng xa,
    Xoay lại tìm kiếm,
    Chớ cầu nơi khác.
    Dù cho cầu được,
    Được tức chẳng chân.
    Ví có được chân,
    Chân ấy vật gì?

    [​IMG]


    Kinh Phòng đời HÁN đã phối hợp Thập Thiên Can với Phục Hy Tiên , Hậu Thiên Bát Quái đồ theo bảng Thập can Phối số:

    NHÂM GIÁP phùng CÀN ( Tây Bắc , Số 6 Lạc Thư )
    ẤT QUÝ : KHÔN. ( tây Nam, Số 2 ; [​IMG]
    TỐN: TÂN &nb sp; ( Đông Nam, Số 4 )
    KHẢM : MẬU. ( Bắc , Số 1 ; ; )
    CHẤN : CANH dồn. ( Đông , số 3 ; ; )
    BÍNH: CẤN. &n bsp; ( Đông Bắc, số 8 )
    ĐINH: ĐOÀI &nb sp; ( Tây , số 7 ; ; )
    KỶ : LY môn. ( nam , số 9 ; ; )

    Thập Nhị Chi Phối Số:
    Hợi Tí hành Thuỷ - Số 1 Sinh, số 6 Thành.
    Tí Ngọ Hoả - Số 2 sinh , số 7 Thành
    Dần Mão Mộc - Số 3 sinh , số 8 Thành
    Thân dậu KIM - Số 4 sinh , số 9 thành
    Thìn Tuất Sửu Mùi Thổ - Số 5 Sinh, số 10 thành.

    Các Bạn nên VẼ ra giấy - ngẫm nghỉ cho thật nhiều lần 2 bảng Thập Can , Chi Phối số.......

    Ví du: ( Trích Học Năng )
    Nam sinh năm Kỷ Sửu. Tháng Mậu Thìn . Ngày Quý Mùi , Giờ Giáp Dần.
    Tính số:
    Kỷ ( Ly môn ) Số 9.
    Sửu hành Thổ số 5 và 10.

    Mậu ( Khảm Mậu ) số 1.
    Thìn hành Thổ số 5 và 10

    Quý ( Ất Quý KHÔN ) số 2.
    Mùi hành Thổ số 5 và 10

    Giáp ( Nhâm Giáp phùng Càn ) số 6.
    Dần hành Mộc số 3 và 8.

    Tổng cộng số LẼ : DƯƠNG 9 + 1 + 5 + 5 +5+ 3 = 28.
    Tổng cộng số Chẳn : ÂM 2+ 6+ 10+ 10+ 10+ 8 = 46.

    Ví dụ 2:
    Nam Đinh Dậu : Đinh số 7 - dậu số 4 và 9
    Tháng Giáp Thìn: Giáp số 6 - Thìn số 5 và 10
    Ngày Đinh Mão : Đinh số 7 - Mão số 3 và 8
    Giờ Canh Tuất : canh số 3 - Tuất số 5 và 10.

    Tổng số Dương: ( Số Lẽ ) 7 +7+ 3+ 9+ 5+ 3+ 5 = 39.
    Tổng số ÂM ( Số chẳn ) 6 + 4+ 10+ 8 + 10 = 38.

    Lập Quẻ :
    Tuổi Dương Nam + Âm Nữ : Số Dương TRÊN - Số Âm DƯỚI.
    Tuổi Âm nam + Dương Nữ : Số Âm Trên - Số Dương Dưới.

    Dương Nam như Nam Bính Tuất - Nam Giáp Ngọ
    Âm nam như Nam Quý Mùi- Nam Ất Tỵ.........

    Âm Nữ : Nữ Quý Mùi - Nữ Ất Tỵ
    Dương Nữ như Nữ Giáp Ngọ - Nữ Bính Tuất.....

    Tôi đánh máy 2 lần - Bài khá dài thì bị... CÚP không gởi vào được.
    Thôi thì Thứ 2 vậy - Đánh máy vài giòng rồi Gởi thì hy vọng .

    Chuyển số thành Quẻ Dịch:
    - Số Dương: lấy Tổng số Dương trừ cho MỘT lần 25. Số còn lại :
    a/ Là số đơn vị - Vidụ: Tổng số Dương là 29 .
    Lấy 29 - 25 còn lại 4 . Số 4 là Quẻ TỐN.
    - Tsố Dương là 34. Lấy 34 - 25 Còn lại 9 . Số 9 là quẻ LY.

    b/ Là số hàng Chục : Ví dụ : Tổng số Dương là số 38.
    Lấy 38 - 25 cón lại là 13 thì bõ Số hàng Chục - Lấy số đơn vị là 3. Số 3 là quẻ CHẤN.
    - Tsố Dương 46. Lấy 46 - 25 cón lại 21 . Lấy số 1- Số 1 là quẻ KHẢM.
    c/ Trường hợp Số còn lại là số chẳn CHỤC:
    Ví dụ :Tổng số Dương là 45.
    Lấy 45 - 25 còn lại 20 thì lấy số 2 ( Số hàng Chục ) Số 2 là quẻ KHÔN.
    -Tsố Dương 35. Lấy 35 - 25 còn 10- lấy số 1. Số 1 là quẻ KHẢM.

    Số ÂM :
    Lấy Tổng số Âm trừ đi MỘT lần 30. Số còn lại chuyển thành quẻ Dịch y như số Dương.
    Lưu Ý : Số Dương thì trừ 25. Số Âm thì trừ đi 30.

    Trường hợp số còn lại là 5.
    - Người sinh vào Thượng Nguyên ( từ năm 1864 - 1923 )
    60 năm Giáp Tý đến Quý Hợi. Bất luận số Âm hay Dương:
    NAM CẤN - NỮ KHÔN.

    -Người sinh vào Trung Nguyên ( Từ 1924 - 1983 . 60 Năm Giáp Tý đến Quý Hợi :
    Dương Nam Âm Nữ : CẤN.
    Âm Nam Dương Nữ : KHÔN

    - Người sinh vào Hạ Nguyên ( Từ 1984 - 2043....)
    Nam LY - Nữ Đoài.
     
    Chỉnh sửa cuối: 18/8/13
  3. Tom&Jerry

    Tom&Jerry Thần Tài Perennial member

    tham gia diễn đàn bao lâu mà cứ giẫm chân tại chỗ hả anh hòa...sao ko luận và chia sẻ những gì đã học đã biết để giúp mọi người mà trốn ở đây :120:
     
  4. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    Quỷ-Cốc Tử Tiên-Sinh

    Theo sách Đông Chu liệt quốc, Quỷ Cốc Tử tên là Vương Hủ, bạn thân của Tôn Vũ và Mặc Dịch. Từ khi ông về ẩn cư ở Quỷ Cốc, đất Dương Thành thuộc địa phận nhà Chu, được người đời xưng tụng là Quỷ Cốc tiên sinh. Ông tâm đắc " Âm Phù Kinh " ( tương tuyền do Hiên Viên hoàng đế trứ tác, được xếp vào kinh điển của Đạo gia ) và " Tôn Tử binh pháp ". Tư tưởng của ông thiên về âm đạo ( chú trọng đạo âm nhu ), có phần giống tư tưởng của Lão Tử. Tuy vậy ,cho tới ngày nay các học giả vẫn chưa khảo chứng được tiểu sử của ông một cách chính xác, lai lịch của ông huyền ảo như chính danh hiệu của ông. Có người còn cho rằng sách Quỷ Cốc Tử là ngụy thư, nhưng dù phải hay không thì sách Quỷ Cốc Tử vẫn có một ảnh hưởng rộng lớn trong thời Chiến quốc đối với các học phái Tung Hoành gia, Pháp gia và Binh Pháp gia về sau.

    Trong số đồ đệ của ông có bốn người nổi tiếng là Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Tô Tần và Trương Nghi.

    Khi nhắc đến Quỷ Cốc Tử là người đời nghĩ ngay đến mưu kế của ông :


    Số sáu theo Kinh Dịch là số Thái âm, tượng trưng cho âm, sự kín đáo, bí mật. Sáu lần của số sáu là ba mươi sáu, tượng trưng cho sự vận hành biến hóa muôn vàn, 36 chỉ là con số tượng trưng, vì kế sách cần phải bí mật thâm hiểm nên lấy Thái âm làm tượng trưng. Đó là Tam Thập lục kế , ba mươi sáu kế khởi đầu của Quỷ Cốc tiên sinh, về sau để diễn tả sự biến hóa của mưu kế người ta hệ thống sách Quỷ Cốc Tử ra thành 72 đấu pháp công tâm thuật. Con số 72, tức 36 x2 tượng trưng cho sự biến hóa vô cùng, trong kế có kế, kế phản kế, kế đối kế, vận dụng theo lý luận âm dương, căn cứ trên những quan hệ mâu thuẫn đối đãi như minh ám, hư thực, khúc trực, thuận nghịch, đại tiểu, cương nhu, cường nhược, viễn cận, tiến thoái v.v...

    " Âm Phù kinh " là bản kinh cổ đại vô giá, chỉ gần năm trăm chữ, tương truyền do Hiên Viên Hoàng Đế trứ tác, lời văn súc tích uyên áo, về sau Quỷ Cốc Tử là người thâm đắc đem truyền lại cho Tô Tần, nhờ vào đó Tô Tần đưa ra kế sách " Hợp tung " làm Tướng Quốc cả sáu nước Triệu, Tề, Yên, Sở, Ngụy, Hàn. Lãnh đạo liên minh chống lại nước Tần cường bạo vào cuối thời Chiến quốc.




    Bản dịch nguyên văn Hán Việt "Âm Phù Kinh " :


    Thượng thiên



    Quan thiên chi đạo, chấp thiên chi hành, tận hỷ

    Xem xét đạo trời, cứ làm theo sự vận hành của trời ( như vậy là biết ) hết rồi vậy.


    Thiên hữu ngũ tặc, kiến chi giả xương.

    Trời có năm thứ giặc, thấy được nó là tốt.


    Ngũ tặc tại tâm, thi hành ư thiên.

    Năm thứ giặc ở trong tâm ( chúng ta ), mà thi hành là do trời.


    Vũ trụ tại hồ thủ, vạn hóa sinh hồ thân.

    Vũ trụ ở trong bàn tay, mà thân ( ta ) biến hóa sinh sôi vạn thứ.


    Thiên tính nhân dã. Nhân tâm cơ dã. Lập thiên chi đạo, dĩ định nhân dã.

    Tính trời là ( tính ) người vậy. ( Mà ) lòng người là máy móc. ( Cho nên ) lập ra đạo của trời là để định ( tính ) của người vậy.


    Thiên phát sát cơ, tinh thần ẩn phục ( di tinh dịch tú ) ;

    Trời phát ra sát cơ là ẩn phục trong tinh tú ( do tinh tú dời đổi );


    Địa phát sát cơ, long xà khởi lục. Nhân phát sát cơ, thiên địa phản phúc.

    Đất phát ra sát cơ thì rồng rắn nổi lên mặt đất. Người phát ra sát cơ thì trời đất tráo trở.


    Thiên nhân hợp phát, vạn hóa định cơ.

    Trời và người cùng hợp để phát ra ( sát cơ ) thì vạn thứ hóa sinh định được nền tảng.


    Tính hữu xảo chuyết, khả dĩ phục tăng.

    Tính ( người ) có khéo có vụng, có thể che dấu được.


    Quân tử đắc chí cố cung, tiểu nhân đắc chí khinh mệnh.

    Quân tử được nó thì thân vững bền, tiểu nhân được nó thì khinh rẻ mạng sống.





    Hạ thiên


    Cổ giả thiện thính, lung giả thiện thị ;

    Người mù thì nghe giỏi, người điếc thì thấy hay ;


    Tuyệt lợi nhất nguyên, dụng sư thập bội; tam phản trú dạ, dụng dự vạn bội.

    Dứt bỏ bớt đi một nguồn tiện lợi thì việc quân ( mạnh ) hơn mười lần; ngày đêm quay lại ( xét mình ) thì việc quân ( mạnh ) hơn vạn lần .


    Tâm sinh ư vật, tử ư vật, cơ tại mục.

    Cái lòng ( của mình ) nảy sinh ra từ vật ( bên ngoài ), ( mà cũng ) chết vì vật ( bên ngoài ), động cơ là do mắt (nhìn sự vật ).


    Thiên chi vô ân nhi đại ân sinh, tấn lôi liệt phong, mạc bất xuẩn nhiên.
    ( Điều tưởng như ) không có ân đức của trời chính là sinh ra cái ân đức lớn, sấm chớp dữ tợn, gió thổi vùn vụt cũng không phải là điều ngu xuẩn ( vô lý ) đâu.


    Chí lạc tính dư, chí tĩnh tính liêm.

    Vui sướng cực độ thì tính tình ( sẽ bộc lộ ) sự dư thừa ( phù phiếm ), yên tĩnh cực độ thì tính tình ( sẽ bộc lộ ) sự liêm khiết.


    Thiên chi chí tư, dụng chi chí công,

    Sự rất riêng tư của trời đem ra thực hiện ( chính ) là sự chí công,


    Cầm chi chế tại khí, sinh giả tử chi căn, tử giả sinh chi căn. Ân sinh ư hại, hại sinh ư ân.

    Khống chế cầm giữ là ở khí, sự sống là gốc của cái chết, cái chết là gốc của sự sống. Ân tình sinh ra từ sự tổn hại, sự tổn hại sinh ra từ sự ân tình.


    Ngu nhân dĩ thiên địa văn lý thánh, ngã dĩ thời vật văn lý triết.


    Người ngu thì lấy cái văn vẻ của trời đất để xem xét bậc thánh nhân, còn ta lấy cái văn vẻ theo thời mà xem xét sự sáng suốt.


    Nhân dĩ ngu ngu thánh, ngã dĩ bất ngu ngu thánh.

    Người ta lấy cái điều ngu muội để đo lường bậc thánh nhân, còn ta thì lấy cái điều không ngu muội để đo lường bậc thánh nhân.


    Nhân dĩ kỳ kỳ ( kỳ ) thánh, ngã dĩ bất kỳ kỳ ( kỳ ) thánh.

    Người ta trông chờ điều kỳ lạ ở thánh nhân, còn ta thì trông chờ điều không kỳ lạ ở thánh nhân.


    Cố viết
    Cho nên nói rằng :

    Trầm thủy nhập hỏa, tự thủ diệt vong.

    Trầm ( mình xuống ) nước, ( nhảy ) vào lửa là tự giành sự diệt vong.


    Tự nhiên chi đạo tĩnh, cố thiên địa vạn vật sinh;

    Cái đạo của tự nhiên thì yên tĩnh, cho nên trời đất vạn vật sinh sôi;


    thiên địa chi đạo tẩm. Cố âm dương thắng.

    cái đạo của trời đất thì thấm nhuần ( khắp nơi ). Cho nên âm dương hơn thua ( với nhau ).

    Âm dương tương thôi, nhi biến hóa thuận hỹ.

    Âm dương đẩy nhau ( nhờ vậy ) mà sự biến hóa được thuận vậy.

    Thị cố thánh nhân tri tự nhiên chi đạo bất khả vi, nhân chi chế chi.

    Cho nên thánh nhân biết không thể trái ngược với cái đạo của tự nhiên được, vì vậy ước chế theo nó.


    Chí tĩnh chi đạo, luật lịch sở bất năng khế.

    Sự cực yên tĩnh của đạo thì luật lịnh không thể khế hợp.

    Viên hữu kỳ khí, thị sinh vạn tượng. Bát quái giáp tý, thần cơ quỷ tàng.

    Do vậy mới có các khí cụ kỳ lạ sinh ra muôn tượng ( Như các môn tính toán ) bát quái giáp tý, quỷ thần ẩn chứa bên trong.

    Âm dương tương thắng chi thuật, chiêu chiêu hồ tấn hồ tượng hỹ.

    Cái học thuật âm dương sinh khắc bộc bạch ra ở các hình tượng và sự tiến triển

    * * *

    Quỷ Cốc Tử luận về " Thuận Nghịch " :


    Thuận là thuận theo, là thích ứng với hoàn cảnh ; nghịch là chống lại , là phản đối không theo. Con người thông thường có lợi thì hòa hợp thân nhau, tổn hại thì gây gổ xa nhau. Trong khi thiết lập mưu kế hay trong các trường hợp giao tế thương thuyết cần phải hành xử hợp lý phạm trù mâu thuẩn này.

    Quỷ Cốc Tử được xem như ông tổ của phái Tung Hoành gia ( học phái chuyên về du thuyết, bày mưu, lập kế thời chiến quốc ) có bàn về những động thái cần thiết về ngoại giao du thuyết rất rõ ràng ( tức thuật lượng nghi phát ngôn ).

    Ngày nay các nguyên tắc này vẫn còn có một giá trị nhất định. Mục đích là đo lường đối tượng để thuyết phục đối phương. Phải biết cách nói, cách nghe, phân biệt lời nói, thái độ, tâm lý cá tính của đối phương.

    Tâm lý người đời khá kỳ lạ, có khi cần nói thẳng không ngần ngại nhưng cũng có lúc phải quanh co; có khi phải nói xuôi theo, có khi phải nói nghịch lại, thật là phức tạp.

    Bởi vậy trong khi nghe người khác thuyết phục hay tranh luận, cần phải bình tĩnh, đừng để các giác quan hỗn loạn thì nhận thức sẽ sai lầm dễ rơi vào mê lộ của đối phương.

    Theo quy luật vật cùng loại thì hô ứng, không đồng loại thì không hô ứng với nhau ( Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu ). Tương tự, con người cũng vậy, thường chủ quan, cảm tính và thiên kiến. không đồng tình với ý của mình thì cho là trái. Không hợp với tâm lý tình cảm của mình thì cho là nghịch. Cho nên trong khi đối thoại thuyết phục, ai hiểu đạo này thì thành công, không nắm vững thì thất bại.



    Quỷ Cốc Tử xét về thái độ của lời nói như sau :


    1/ Nạn ngôn là lời nói khó, dùng lý luận đối lại, mục đích làm cho người đối thoại bộc lộ ý tưởng thật của họ.
    2/ Nịnh ngôn là nói xuôi theo, xu nịnh nhằm biểu lộ sự đồng tình của mình cho người ta biết.
    3/ Xảo ngôn là lời nói khéo léo hay ho, tự biểu lộ trí tuệ uyên bác hơn người của mình.
    4/ Bình ngôn là lời nói bình ổn để biểu lộ sự dũng cảm, quyết đoán của mình.
    5/ Uy ngôn là lời nói nghiêm nghị làm cho người đối thoại mình quan tâm đến thần thái của họ.
    6/ Tĩnh ngôn là lời nói thản nhiên dù bị người đối thoại dùng lý luận, kích bác đến thất bại vẫn bình tĩnh ôn hòa.



    Quỷ Cốc Tử xét về trạng thái tâm lý của lời nói như sau :


    1/ Bệnh ngôn là lời nói không có khí lực, hư nhược.
    2/ Oán ngôn là lời nói biểu lộ tự mình đã hỗn loạn, vô lý.
    3/ Ưu ngôn là lời nói buồn rầu không vui, thiếu sức sống.
    4/ Nộ ngôn là lời nói giận dữ, vọng động, giống như bị khống chế.
    5/ Hỷ ngôn là lời nói vui mừng, đắc ý, tản mạn.



    Quỷ Cốc Tử, xét về mặt cá tính của đối tượng đã đề ra mấy nguyên tắc đối thoại như sau :


    1/ Đối với người ngu thì dùng thuật hùng biện để nói với họ.
    2/ Đối với người hùng biện thì im lặng lắng nghe.
    3/ Đối với người cao quý thì dùng điều cao thượng nói với họ.
    4/ Đối với người đang thất bại khó khăn thì dùng sự khiêm cung để nói với họ.
    5/ Đối với người giàu sang thì vận dụng uy thế để nói với họ.
    6/ Đối với người bần cùng thì dùng điều lợi để nói với họ.
    7/ Đối với người dũng cảm thì dùng đạo nghĩa mà nói với họ.
    8/ Đối với người có chí tiến thủ thì dùng sự sắc bén để nói với họ.
    9/ Gặp người cường mânh thì dùng sự nhu hòa để nói với họ.
    10/ Gặp người có địa vị thì dùng thế mà nói với họ.



    Mỗi một con người đều có một phong cách, một cá tính riêng, hiểu được đối phương và tìm phương pháp đối thoại thích hợp thì có thể thuyết phục và giành được ưu thế.


    Trăm mưu ngàn kế cũng phải tùy theo đối tượng mà vận dụng, đều phải căn cứ vào tâm lý cá tính của con người. Nghề quý ở tinh thông, trí quý ở sáng suốt, cho nên điều quan trọng là tùy cơ ứng biến, vận dụng các nguyên tắc một cách thông minh.



    Quỷ-Cốc Tử Tiên-Sinh


     
  5. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    47 Quỷ kế gồm có:
    1.Trong nhu có cương, trong cương có nhu
    2.Tuyệt đối bí mật
    3.Co để duỗi
    4.Trước đánh sau bắt
    5.Lấy giả làm thật
    6.Ném đá hỏi đường
    7.Lấy tính chế động
    8.Giả nhưng không điên
    9.Người tài của Tấn dùng ở Sở
    10.Bí quyết hiến kế
    11.Tuỳ lòng ham muốn
    12.Làm cho đối phương nghi ngờ nhau
    13.Kẻ hở giữa hư và thực
    14.Sắc đẹp phụ nữ nguy hiểm như dao kiếm
    15.Biết trước thời thế
    16.Kín kẽ, chu đáo
    17.Biến không thành có
    18.Nụ cười dấu đao kiếm
    19.Không tiến thì thối
    20.Một mũi tên trúng năm con
    21.Thiên mệnh ràng buộc
    22.Mưu kế không thể lửng lơ
    23.Thẩm định thời cơ, đo lường thế lực
    24.Xuất đầu lộ diện
    25.Liệu địch như thần
    26.Quanh co, khuất lấp
    27.Không đánh mà thắng
    28.Không cự mà tuyệt
    29.Thả mồi sâu, câu cá lớn
    30.Kiêu mưa gọi gió
    31.Lấy thắng trí
    32.Không ngại nói thẳng
    33.Nói mãi phải tin
    34.Chính không bằng kì
    35.Khống chế địch trước
    36.Mức độ thân sơ
    37.Xa bang giao, gần tiến đánh
    38.Giải mối nghi ngờ
    39.Đã quyết thì không nên thay đổi
    40.Quyết đoán then chốt
    41.Có thưởng có phạt
    42.Gương sang thường soi
    43.Trời, đất và người
    44.Giải cứu hiềm nghi
    45.Trước lễ sau binh
    46.Sự hưng suy qua lễ nhạc
    47.Chết để sau sống​
     
  6. Flower_of_summer

    Flower_of_summer Thần Tài Perennial member

    :134:gòy !!! Chắc anh í đã không muốn bon chen zới trần tục nữa òy --- khi nào quy y cho tui hay nghen chú tiểu --- đặng tui bik chùa mốt tui lên thăm :tea::125:
     
  7. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    Trong tam thức, nếu như Thái Ất thiên về Thiên, nó nghiên cứu sự chuyển động của các tinh tú ảnh hưởng đến Trái Đất thì Ðộn Giáp, lại thiên về Ðịa, nó nghiên cứu ảnh hưởng của địa lý, phong thủy đối với con người.

    Ðộn Giáp là môn dự đoán, phát sinh từ Dịch học, ứng dụng dịch lý. Ðộn Giáp là hệ thức thời gian theo Can Chi tương ứng với các thuộc tính của Tiết khí, theo một chu kỳ tính theo năm (tháng) hoặc Nguyên, Hội, Vận v.v mà mỗi vị trí thời gian Can Chi phản ánh một quá trình phát sinh, phát triển và kết quả của sự vật, hiện tượng, con người. Nói đến Ðộn Giáp là nói đến Tiết khí được lượng hoá qua độ mạnh yếu của khí Âm Dương bằng hằng số của Dịch học gọi là Cục.

    Trong mười Thiên can thì ba nhóm Thiên can Ất, Bính, Ðinh được gọi là Tam Kỳ, sáu nhóm Thiên can Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí được gọi là Lục Nghi. Can giáp được ẩn đi nên gọi là Ðộn Giáp. Tam kỳ tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng và tinh tú.

    Môn là Bát Môn, tức là tám cửa. Tám cửa gồm có Hưu Môn, Sinh Môn, Thương Môn, Ðỗ Môn, Cảnh Môn, Kinh Môn và Khai Môn. Tám cửa này là từ tám phương vị của Bát Quái mà ra. Trong quân sự còn có tên khác là Bát Trận Ðồ. Tên các cửa trong Bát Trận Ðồ là Thiên Môn, Ðịa Môn, Phong Môn, Vân Môn, Long Môn, Hổ Môn, Ðiểu Môn và Xà Môn. Bát Trận Ðồ này xem thì rất đơn giản, dễ dàng nhưng kỳ thực thì thiên biến vạn hóa, cao siêu thần diệu. Bát Môn thực tế là tám loại cảm ứng điện từ của hệ Mặt Trời và Trái Ðất đối với con người ta.

    Kỳ Môn Ðộn Giáp nguyên gọi là Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp. Tam Nguyên tức là Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên (có nơi còn gọi là Thiên Nguyên, Nhân Nguyên, Ðịa Nguyên dựa trên cơ sở Tam Tài là Thiên Ðịa Nhân rồi tìm ra Thiên Thời Ðịa Lợi Nhân Hòa).

    Ðộn giáp được hình thành trên cơ sở của các thuyết : Tam tài (Thiên, địa, nhân), Can Chi, Âm Dương, ngũ hành, Tiên thiên bát quái , Hậu thiên bát quái, cửu cung phi tinh... Hiện nay có nhiều trường phái độn giáp được phát triển ở Trung Hoa lục địa và Đài Loan. Phổ biến nhất là thời gia kỳ môn học, sau đó là niên gia kỳ môn học, nguyệt gia kỳ môn học, nhật gia kỳ môn học...

    Kỳ Môn Ðộn Giáp là môn khoa học cho ta biết được thời điểm nào, phương vị nào sẽ có lợi cho ta và phương vị nào sẽ bất lợi cho ta, rồi ta có thể dựa vào đó cải thiện vận mệnh của ta cho từng thời điểm.

    Kỳ Môn Ðộn Giáp được ứng dụng trong việc lựa chọn thời gian, hướng bày binh, xuất quân, cầu tài, cầu danh, yết kiến quí nhân, xuất hành, khai trương, động thổ, xây cất, tìm người cưới gả …

    Trước đây, Độn giáp ứng dụng vào quân sự là chủ yếu. Ngày nay độn giáp có thể ứng dụng trong các hoạt động mang tính cạnh tranh, thi đua, nhất là trong lĩnh vực kinh doanh. Ngoài ra độn giáp còn là công cụ quan trọng trong tính toán địa lý "tam hợp" điều này cũng nói lên sự liên quan mật thiết giữa độn giáp với yếu tố "Địa" trong hệ thống tam tài Thiên - Địa - Nhân.:Smile 48:

    Muốn lập Hệ thức Ðộn giáp, phải có:

    Biết năm, tháng, ngày, giờ để tính can chi, xét can ngày để tính được nguyên nào:

    - Can Giáp Kỷ gia với Tý Ngọ Mão Dậu là Thượng nguyên

    - Can Giáp Kỷ gia với Dần Thân Tỵ Hợi là Trung nguyên

    - Can Giáp Kỷ gia với Thìn Tuất Sửu Mùi là Hạ nguyên

    Có nhiều cách xét đoán một hệ thức độn giáp như: xem tổng quát, xem thân thế và vận hạn của một người, xem từng sự việc, xem theo cách bói Dịch, xem về các cách dụng binh và xem các cách đặc biệt...

    Tổng quát: Là xét vế can của giờ xem. Lối coi này được dùng khi cần coi cấp tốc các việc bất thường xảy ra như nghe một hung tin, bị máy mắt trước khi xuất hành hay trước khi việc gì nghi ngờ mà không tuỳ thuộc nơi mình.
    Người coi căn cứ giờ ra thuộc can nào (Ất, Bính Ðinh…) và căn cứ các sao thuộc vòng cửu tinh, Trực phù lạc vào cung nào mà có phương án đoán giải.

    Thân thế và vận hạn của một người: Là cách lập lá số độn giáp rồi xét mệnh chủ, nghi kỳ, xét bản mệnh….
    Cách xem này tương tự như xem Tử vi, Tử bình, Bát tự Hà Lạc…

    Từng sự việc: Là dự báo về từng sự việc cụ thể như thời tiết (xem mưa hay tạnh ráo), xem gia trạch cát hung , xem thi cử, xem có thăng chức hay bị đổi đi, hôn nhân , bệnh tật, kiện tụng…
    Theo cách bói Dịch: Là căn cứ hệ thức độn giáp, qui về một quẻ Dịch, nạp giáp cho quẻ, an hào thế và hào ứng, an lục thân, lục thú… rồI tiến hành xét đoán như Bói Dịch.
    Ngoài ra còn có xem về các cách dụng binh (phân chia chủ khách, bát tướng lâm Bát môn) và xem về các cách đặc biệt của hệ thức độn giáp.

    Tiếng ViệtĐộn giáp lược giải, Đỗ Quân (Có thể đăng ký hội viên và tải sách này về từ các website Tử vi lý số, Việt lý số ...)
    Hệ thức thời gian Ðộn giáp, Bùi Biên Hoà, NXB Văn Hoá dân tộc, 2002.
    Kỳ Môn Độn Giáp, Nguyễn Mạnh Bảo, Sài Gòn, 1959
    Giáo trình Ðộn Giáp, Vũ Xuân Quang
    Phi bàn độn giáp yếu giải, Vũ Xuân Quang

    Tiếng Trung
    Sách về Ðộn giáp bằng tiếng Trung sau đây, một số người quan tâm nghiên cứu môn này sưu tầm được, ít có bán tại các hiệu sách ở Việt Nam.

    Độn Giáp chỉ quy
    Kim hàm Ðộn giáp bí kíp toàn thư
    Kỳ môn Ðộn giáp pháp khiếu
    Quỷ Cốc tử bí kíp
    Độn Giáp học đại toàn
     
  8. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    72 phép QUỶ CỐC ĐẤU PHÁP TÂM THUẬT

    Gồm có 72 phép :

    Trong tĩnh có động ,trong động có tĩnh . “Biến sinh ra sự ; Sự sinh mưu ; Mưu sinh kế ; Kế sinh nghị ; Nghị sinh thuyết ; Thuyết sinh tiến ; Tiến sinh thoái ; Thoái sinh chế (chế ngự sự việc).
    Quỷ cốc tử cho rằng : Trên đời vốn không có việc gì khó ,mọi việc toàn là do con người đặt ra ,bố trí mà thôi .Chỉ cần không ngừng nghiên cứu thực tiễn ,thì có thể đạt được mục đích của mình .

    -Phép thứ 1 ương mưu –Âm mưu

    “Mưu kế trí lược ,mỗi cái đều có hình dạng của nó : hoặc vuông hoặc tròn ,hoặc âm hợặc dương”.
    Mưu kế có âm mưu và dương mưu,trong bất kỳ tình huống nào ,người ta đều không được coi thường đối phương .Bởi vì sự việc ,có những việc giả dối mà đối phương cố ý tạo ra .Tình báo cũng có tình báo giả .Chnên thánh nhân phải làm cho đối phương không thể dò biết thực hư ,Như nhà buôn phải dấu kín như không có chuyện gì .
    Âm mưu ở đây không phải là thứ thủ đọan của bọn tiểu nhân ,mà là âm mưu của thánh nhân .
    Mưu việc ở âm mà thành sự ở dương .Mục đích là làm cho dân giàu nước mạnh.
    Cho nên Quỷ cốc tử lại nói : Thánh nhân mưu ở âm nên gọi là Thần ,thành ở dương nên gọị là Minh ,chủ sự thành tức là tích đức vậy.

    -Phép thứ 2 :Xoay chuyển Càn khôn

    Giữ vững ý chí ,tinh thần thì sẽ có uy lực. Có uy lực ắt bên trong mạnh ,bên trong mạnh thì không ai địch nổi”.
    Quỷ cốc tử cho rằng :khi tình thế bất lợi cho ta ,ta phải dùng trăm phương ngàn kế để hàm dưỡng sức mạng tinh thần ,và chỉ khi nào sức mạnh tinh thần của ta hùng hậu thì mới có thể Xoay chuyển càn Khôn.

    -Phép thứ 3 :Đánh bại lần lượt:

    “Phân tán được uy thế của đối phương thì ta mạnh như thần”.
    Muốn phân tán uy lực của đối phương thì ta phải phục sẵn ,chờ cơ hội xuất hiện mà lần lượt đánh bại đối phuơng.

    -Phép thứ 4 :Ứng biến thần tình :

    “Tiến thoái xoay trở ,xuất quỷ nhập thần khiến người không biết đâu mà lần”.
    Khi tác chiến ta phải tùy cơ ứng biến không hề cố định ,xoay chuyển tùy ý muốn ,khiến cho đối phương chẳng biết thực hư.

    -Phép thứ 5 :Giành hết thiên cơ:

    “Thánh nhân ở giữa trời đất :lập thân ,tạo nghiệp,lên tiếng ,tuyên truyền đều phải quan sát tượng trời để chớp đúng thời cơ”
    Một người cao minh ,trước sự biến đổi mau lẹ của sự vật ,sẽ biết nắm lấy thời cơ ,vận hội 1 cách kịp thời mà thực thi ,hoặc điều chỉnh kế họach của mình .

    -Phép thứ 6: Họa phúc tùy lời :

    “Lời lẽ của Thánh nhân rất huyền diệu,có thể chuyển nguy thành an ,cứu cả mạng sống”.
    Thế gian có câu : “Một lời nói ra ,ngựa giỏi chẳng đuổi kịp” .Hàn Phi Tử nói : “Cái tâm của kẻ vô mưu,lời lẽ của kẻ có mưu :đều là nguy”.Ngụ ý rằng người ta phải thận trọng trong lời ăn tiếng nói .
    Ngôn ngữ là tiếng lòng ,là biểu hiệu tư tưởng .
    Tục ngữ Trung quốc có câu : “Muốn biết việc trong bụng ,hãy nghe lời cửa miệng “. Họa phúc là tùy ở lời nói vậy.

    -Phép thứ 7 :Chúng bất địch quả:

    Quỷ cốc tử nói : “Xuân sinh ;hạ trưởng ; Thu thu ; Đông tàng .Đạo trời là vậy ,chẳng thể làm trái.” Lại nói : “Làm trái ,dù thịnh ắt suy”.
    Trời đất có 4 mùa thay đổi ,nhân sự cũng có quy luật biến hóa của nó ,mỗi người nếu có hành động trái ngược với quy luật phát triển của sự vật ,thì dù thế lực lớn mạnh đến mấy cuối cùng cũng sẽ thất bại .
    Một người ,nếu hành động đúng theo quy luật phát triển của sự vật ,thì dù hiện thời còn đơn thương độc mã ,nhưng rồi vẫn có thể lấy ít thắng nhiều.

    -Phép thứ 8 : Trăm phương ngàn kế :

    “ Vạn sự trên thế gian biến hóa vô cùng ,tình hình lúc thế này khi thế khác .Người đời cũng trăm phương ngàn kế” .Một vị chủ soái ắt hẵn cũng phải nắm vững nhiều lọai mưu kế để ứng phó với tình húong không ngừng thay đổi.

    -Phép thứ 9 :Thiên địa vô thường:

    “Trời đất luôn thay đổi há có gì trường cửu”.
    Một cái lý chung xuyên suốt giữa trời và người .Khi trời luôn đổi ,nhân sự làm sao bất biến .Một người chỉ 1 mực theo đuổi truyền thống mà không chịu đổi mới ,ắt sẽ bị lạc hậu so với thời cuộc.

    -Phép thứ 10 :Thay cũ đổi mới :

    “Uốn lượn thì toàn vẹn ,cong ắt sẽ qua ,đầy ắt sẽ tràn ,rách nát sẽ đổi mới ,ít rồi đủ ,nhiều ắt giảm”.
    Thay cũ đổi mới là quy luật phát triển của vạn vật trong vũ trụ . Song sáng tạo cái mới bao giờ cũng dựa trên cơ sở truyền thống sẵn có .Không kế thừa truyền thống thì đừng nói gì đến sang tạo cái mới .
    Phải hiểu thấu đáo truyền thống mới có thể tiếp nhận tinh hoa và gạt bỏ cặn bã ,từ đó mà phát huy thêm tinh hoa của truyền thống.

    -Phép thứ 11:Nhìn xa trông rộng :

    “Bậc đại trí dùng cái mà mọi người không hay biết ,cũng dùng cái mà mọi người không nhìn thấy”.
    Cái mà mọi người không hay biết ,không nhìn thấy thì chỉ có bậc đị trí mới thấy rõ .Như vậy gọi là “biết nhìn xa trông rộng”.

    -Phép thứ 12 :Xử lý linh họat

    “Lợi hay thiệt ,được hay mất ,nhiều hay ít …đều dùng âm dương chế ngự .dương động mà vận hành ,âm tĩnh mà thu tàng .dương động mà hiện ra ,âm theo mà nhập vào .Dương cực sinh âm ,âm cực sinh dương”.
    Vạn vật trong thiên hạ luôn luôn thay đổi .Khí hậu có 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông luôn đổi thay .Đời người có sống chết ,đủ thấy biến đổi là quy luật phát triển của vạn vật .Ta phải linh họat chứ không máy móc xử lý mọi việc mới có thể : “Thắng không kiêu ,bại không nản”.

    -Phép thứ 13 :Mưu thâm thích hợp :

    “Phàm theo hay bỏ ,thuận hay nghịch phải tùy theo hoàn cảnh .Hợp ở mưu ắt thành ở sự .Bỏ ta theo ngươi hay bỏ người theo ta :ấy là do mưu thuật có tòan vẹn hay không ?
    Dùng thiên hạ có mưu kế này ,dùng một nước có mưu kế khác ,dùng 1 phái có mưu kế nọ,dùng 1 người có cách dùng riêng .Lón nhỏ tiến thoái …đều có cách thích hợp .
    Xưa nay ,kẻ giỏi xoay trở :theo hay bỏ ,giúp được 4 biển ,chi phối được chư hầu đều trải qua lắm phen chuyển hóa ,theo hay bỏ ,mới tìm ra chổ thích hợp .
    Cho nên Y Dõan mấy bận theo vua Thang ,mấy bận theo vua Kiệt ,cuối cùng mới theo vua Thang .
    Lã Vọng 3 lần theo Văn vương ,3 lần nhập điện vẫn chưa thật rõ .Cuối cùng mới hợp với Văn Vương”.

    -Phép thứ 14 :Hành động bí mật:

    “Đạo âm của Thánh hiền ,đạo dương của kẻ ngu ,đạo của Thánh nhân ẩn giấu rất kỹ”.
    Tướng soái khôn ngoan thường tạo nên những cái giả để mê hoặc đối phương ,ngấm ngầm hành động để giáng cho đối phương những đòn trí mạng.

    -Phép thứ 15 : Đột phá điểm yếu:

    “Từ ngoài chế ngự bên trong ,sự việc có điểm cốt lõi phải nhắm vào đó”.
    Muốn khống chế nội tâm kẻ khác thì phải nắm chắc: đâu là điểm mấu chốt ,đâu là chồ yếu để mà chĩa mũi nhọn vào đó.

    -Phép thứ 16 :Nhỏ mà thấy lớn :

    “Quan sát sự việc,luận về vạn sự ,chớ tranh hơn thua .Phải biết nhìn :cái tuy nhỏ nhưng mà nhìn thấy nó lớn lao”.
    Người thông minh chỉ căn cứ vào triệu chứng nhỏ bé mà biết nó tiềm ẩn sự kiện trọng đại.

    -Phép thứ 17 : Đổi vai chủ - khách:

    “Mạnh tích tụ từ yếu ,Có tích tụ từ không .Yếu muốn thắng mạnh ,mềm muốn thắng cứng thì phảỉ tích yếu ,tích mềm”.
    So sánh thế giữa chủ và khách để đổi vai chủ khách .
    Đó cả là 1 nghệ thuật.

    -Phép thứ 18 :Chiêu nạp người hàng

    “Cự tuyệt là bịt kín lối vào ,đề phòng quá kỹ thì chẳng ai theo”.
    Một vị chủ soái thông minh thì phải có khí phách của 1 chính trị gia vĩ đại ,sẵn sàng chiêu nạp những ai muốn chạy về phía mình .

    -Phép thứ 19 :Ứng địch hành động

    “Tuy động mà ứng ,việc gì cũng xong”.
    Ứng nghĩa là chuyển động sau người ,bất đắc dĩ mới động .”Ứng” đây không phải là thái độ tiêu cực ,bất đề kháng ,mà là dùng “Vô vi” để đạt tới cảnh giờ “Vô bất vi”
    Một cá nhân ,nếu ở đâu cũng hiếu thắng ,tranh giành hơn thua : thì thể lực và tinh thần sẽ bị hao tổn rất nhanh ,tuổi thọ sẽ chẳng được lâu bền
    Ngược lại ,nếu hiểu rõ lẽ “ứng địch nhi động” thì sẽ không vọng động 1 cách khinh xuất .Mà không ngừng rèn luyện thể lực và ý chí 1 cách nghiêm túc ,cho đến khi hòan tòan có khả năng thắng địch thì mới hành động ,
    Không làm thì thôi ,mà đã ra tay thì không có gì cản nổi .
    Đã đánh là thắng.

    -Phép thứ 20 :Tam giáo cửu lưu

    “Tìm kiếm nhân tài ,phải tìm khắp xa gần .Phải có người tài về từng phương diện để khi cần thì ta có thể xử dụng”.
    Một người múôn dựng nghiệp lớn thì phải chiêu nạp nhiều tài năng .
    Tử Nghiêm là người nước Trịnh rất biết chọn và dùng người .
    Công Tôn Huy am hiểu tình hình 4 nước .
    Tỳ Thâm thì giỏi bày mưu.
    Phùng Giản Tử có tài phán đóan mọi sự .
    Tử Đại Thúc thì văn hay chữ tốt.
    Gặp sự việc liên quan giữa các nước .Tử Nghiêm hỏi Công Tôn huy ,sau đó bàn mưu tính kế với Tỳ Thâm ,đọan để Phùng Giản Tử phán đoán mọi khả năng diễn biến của sự việc .Sau khi xong việc bèn để Tử Đại thúc sọan lời văn ứng đối với quan khách các nước.

    -Phép thứ 21 :Bổ dọc chen ngang

    Quỷ Cốc Tử nói : “Dùng cách phân tán uy quyền để chuyển quyền” .
    Người tài giỏi nhất phải biết phá vỡ sự liên minh của các đối thủ phân tán uy lực của chúng mà tăng cường uy thế của mình.

    -Phép thứ 22 : Trói buộc chi phối

    “Lập thế tạo thế .Phải quan sát ,nghe ngóng ,xác định mức độ của người và việc mà định kế an nguy .Xem thiên thời thịnh suy ,địa hình rộng hẹp của các quốc gia ,tài sản của dân chúng ,quan hệ giữa các chư hầu mà dùng thiên hạ.
    Xem tài năng ,khí thế ,sức vóc mà dùng người .
    Xem cái gì ,người nào cần giấu diếm hay phô bày ;cần dung nạp hay mời chào .Xem Đông Tây ,ngó Nam Bắc .Rồi dùng mọi biện pháp khả dĩ để chi phối ,trói buộc 1 cá nhân ,một tập đòan hay 1 quốc gia làm theo ý múôn của ,mà không thể nào làm khác được” .

    -Phép thứ 23 : Liệu địch như thần

    “Ngồi 1 chổ mà nắm biết mọi chuyện trong thiên hạ”.
    Bậc đại trí có thể qua mọi diễn biến phức tạp ,chằng chịt ,qua hiện tượng mà nhận biết phương hướng hành động thật sự của đối phương.

    -Phép thứ 24 : Không lừa nổi ai

    “Kế sách dù muôn ngàn kiểu ,cuối cùng cũng không nằm ngoài tâm lý con người”.
    Người thông minh ,tỉnh táo ,từ triệu chứng nhỏ nhặt tưởng như không đáng kể mà nắm bắt được sự kiện trọng đại để phá vỡ âm mưu của đối phương.

    -Phép thứ 25 :Yếu thắng được mạnh

    “Mạnh tích tự từ yếu ;Có tích tụ từ không.Đó là cả 1 nghệ thuật”.
    Yếu múôn thắng mạnh ,mềm muốn thắng cứng thì phải tích yếu ,tích mềm .Yếu và mạnh chỉ là 1 cách nói tương đối .Trong tình huống nhất định ,yếu cũng có thể thắng được mạnh.

    -Phép thứ 26 : Biến không thành có

    “Thần đạo hỗn thuần vi nhất ,dù đạo trời phức tạp đến mấy cũng có thể suy diễn bất tận”.
    Bậc quân tử hay thống soái có thể suy luận hàng vạn lý lẽbiến hóa trên thế gian để lý giải các bí ẩn vô cùng vô tận.

    -Phép thứ 27 :Uốn ba tấc lưỡi

    “Lời lẽ khôn khéo hay giả dối đều lợi hại khôn tả”.
    Người khôn khoan thường lợi dụng ngôn từ để vẽ ra lâu đài trên cát ,kích thích người ta hăng hái hay dẫn dụ đối phương mắc lừa .
    Múôn được vậy thì phải tô điểm cho thất khéo và nói năng phải thật hùng hồn,đầy sức dẫn dụ và thuyết phục.

    -Phép thứ 28 :Thu phục nhân tâm

    “Dùng tâm hệ trọng hơn dùng binh”.
    Dùng binh vẫn phải lấy việc dùng tâm làm nguyên tắc cao nhất .Chỉ dùng binh mà không dùng đến tâm thì rất là nguy hiểm .Bởi lẽ dùng binh vốn là để giết địch ,nếu ta thất bại thì địch sẽ giết ta .Cho nên dùng binh cũng có thể đem lại hậu quả “tự giết mình”.
    Dùng binh hòan toàn không chỉ giới hạn ở việc dùng mệnh lệnh hay kỷ luật bắt người ta phục tùng ,mà còn phải làm co người ta “tâm phục” .Lòng người đã phục thì dù hành động ,động tác có thể chệch chọac ,song hết thảy đều đồng lòng như một.

    -Phép thứ 29 : Một công đôi việc

    “Vừa lợi cho mình mà cũng lợi cho người,trên hay mà dưới cũng tốt”.
    Một mưu kế phải đem lại nhiều hiệu quả thì mới là kế hay ,kiểu như một mũi tên mà bắn trúng 2 con chim.

    -Phép thứ 30 :Bốn lạng ngàn cân

    “Lượng quyền là gì? Là đo lường lớn nhỏ -xác định nhiều ít”.
    Tướng soái thì phải “biết mình biết người”: mới có thể dùng sức “ bốn lạng mà thắng ngàn cân”.
    Thông thừơng thì 4 lạng có thể bị đè bẹp bởi ngàn cân.Nhưng nếu sức bốn lạng khôn khéo tránh né sức ngàn cân ,rồi sau đó giáng đòn thì có thể hòan toàn thắng ngàn cân.

    -Phép thứ 31 : Ngàn vàng phá địch

    “Mọi sự đều có sự cố kết bên trong ,có thể dùng tiền tài ,nhan sắc để phá vỡ sự cố kết ấy”.
    Dùng nhiều tiền để mua chuộc ,ly gián nội bộ đối phương có thể thu được thắng lợi mà ở chiến trường không thể nào giành được.

    -Phép thứ 32 : Chủ động quyền biến

    “Sự việc quý ở chổ mình chủ động ,nếu để cho người giành được phần chủ động thì hỏng”.
    Người chủ động thì mới giành được quyền hành ,quyền biến .Đã bị động thì khó mà đạt được thắng lợi .Khi lâm sự phải sáng suốt ,cân nhắc lợi hại ,bỏ cái lợi nhỏ mà tránh cái hại lớn ;nhận cái hại nhỏ để giành cái lợi lớn .

    -Phép thứ 33 :Tuyệt đối bí mật

    “Giữ kín mưu đồ thì việc mới thành”.
    1 vị thống soái hay tướng lĩnh muốn giành thắng lợiphải tuyệt đối giữ bí mật.


    -Phép thứ 34: Kích động vua chúa.

    “Tiếp xúc ,phán đoán có nhiều cách :hoặc dùng binh ;hoặc dùng chính ,hoặc dùng hỉ ,hoặc dùng nộ…Dùng nộ là kích động”.
    Người kkhôn ngoan chẳng những dùng lời lẽ để thuyết phục ,phân trần ,mà còn phải dùng những lời lẽ để kích động ,nói khích vua chúa.

    -Phép thứ 35 : Kế sách lâu dài

    “Người thông minh thì luôn nhìn cái rất xa để mà kiểm nghiệm”.
    Người khôn ngoan thì phải biết nhìn xa trông rộng ,sẽ không tham cái lợi nhỏ mà để mất cái lớn ,tham cái lợi trước mắt mà quên kế sách lâu dài.
    Người có đảm lược thật sự thì biết tính tóan sâu xa,chu đáo ,không chỉ thấy cái trước mắt ,không chấp nê tập quán thông thường.

    -Phép thứ 36 :Biết trước thời thế

    “Dự đóan thời thế để quyết định lợi hại ,quyền biến”.
    Một thống soái hay 1 tướng lĩnh nắm được thời là điều trọng yếu .Họ phải hành động lặng lẽ một khi hết thảy chưa ai chú ý ,đến lúc thời cơ chín mùôi là họ ra tay:lập tức làm nên chuyện lớn.

    -Phép thứ 37: Không đánh vẫn oai

    “Người cầm quân không cần lâm trận mà vẫn làm chủ được thiên hạ ,thế mới đáng gọi là Thần minh”.
    Bậc đại trí không cần hao tổn binh lực vẫn khiến cho đối phương phải bãi binh cầu hòa ,thiên hạ nể phục ,đủ sánh với Thần minh.


    -Phép thứ 38 : Nắm quyền bá chủ

    “Chư hầu chống nhau nhiều không kể xiết .Khi quốc gia buớc vào thời điểm sinh tử tồn vong .Bậc vĩ nhân xuất chúng phải xuất đầu lộ diện nắm lấy cơ hội kiến lập nghiệp vương bá.

    -Phép thứ 39:Thay thù thành bạn

    “Trên đời không có gì quý mãi ,không có ai làm thống soái vĩnh viễn”.
    Thế sự biến hóa vô cùng ,hôm nay họ là kẻ thù ,nhưng ngày mai có thể họ sẽ là bạn của ta ,hoặc ngược lại .
    Đó là cả 1 nghệ thuật chuyển hóa.

    -Phép thứ 40 : Chỉ dẫn do người

    “Tình mà hợp thì vật cũng tụ lại với nhau.Đống củi gần lửa lúc khô dễ bén.Nước rót xuống chổ đất bằng ,nơi nào ẩm thì nước sẽ dừng lại”.
    Lòng người cũng vậy .Một thống soái muốn thuyết phục hay là lợi dụng tướng sĩ của đối phương thì phải làm sao cho họ thấy,họ phải chịu ân huệ của mình .

    -Phép thứ 41 :Chiêu hiền đãi sĩ

    “Dùng mưu kế .Công không bằng tư ,tư không bằng kết,kết sao cho chặt”.
    Có nhiều cách kết : có nội kết ;ngoại kết ;sinh kết ;tử kết…
    Trương Lương kết thân với Hạng Bá :đó là nội kết.
    Trương Nghi –Tô Tần : ấy là ngoại kết.
    Lấy đức và ân huệ đã người ,mưu phúc cho dân ,mưu lợi cho nước :ấy là sinh kết.
    Tuyên dương người chết ,úy lạo thân thuộc người đã hy sinh :ấy là tử kết.


    -Phép thứ 42: Áp đặt chủ quan

    “Chớ áp đặt sở thích của mình cho người”.
    Cái mình thích co thể người ta không thích ;cái mình ghét có thể người ta lại ưa .Chớ nên suy bụng ta ra bụng người.Cùng 1 sự việc nhưng 2 người nhìn nhận lại khác nhau :kẻ cho là lợi ;người cho là hại .
    Nếu chủ quan áp đặt dễ phạm sai lầm ,gây hậu quả đáng tiếc.


    -Phép thứ 43 : Mâu thuẫn thống nhất

    “Cao mà hóa thấp –lấy mà hóa cho –mất mà hóa được”.
    Sự vật bao giờ cũng có 2 mặt đối lập nhau,Có những việc bề ngoài tưởng chừng như bất lợi đối với ta ,nhưng thực chất lại hàm chứa ích lợi to lớn đối với ta.

    -Phép thứ 44 :Thủ trước công sau

    “Đối phương hùng mạnh thì ta tạm lui chờ thời chuyển biến”.
    Một quốc gia ,1 qu6n đội hùng mạnh cũng có lúc phải sơ hở ,suy yếu .
    Một quốc gia ,1 quân đội suy yếu ,nếu biết tích lũy thực lực ,nín lặng chờ thời thì có thể trở nên hùng mạnh .Bấy giờ có thể chuyển từ thế thủ sang công.

    -Phép thứ 45 :Kiên tâm bền chí

    “Anh hùng có lúc cũng sa cơ .Khốn tới cùng ắt biến”.
    Người có chí lớn thật sự gặp bất cứ hòan cảnh khó khăn nào cũng kiên trì theo đuổi mục đích của mình ;có thể chịu đừng ,nếm trãi những nổi đau khổ mà người đời không mấy ai chịu nổi .
    Chỉ như thế mới có thể tạo nên sự nghiệp lớn lao.

    -Phép thứ 46 : Lấy tĩnh chế động

    “Trong thiên hạ : con cái thường hay lấy tĩnh đễ thắng con đực ,con cái lấy tĩnh nên ở dưới”.
    Hòan cảnh luôn biến động ,nhân sự thường có đua tranh hơn kém .Trong cuộc tranh đua phải bình tỉnh thì mới giữ được tỉnh táo ,không bị mê lọan về thần trí .
    Phàm người cương gặp kẻ cương thì sẽ tranh chấp không ngừng ,nhưng gặp người nhu thì sẽ trở nên nhu hòa.
    Cho nên mới có câu : Lạt mềm buộc chặt .
    Kẻ cương rất dễ bộc lộ điểm yếu ,ta chỉ cần bình tĩnh quan sát ,đợi cho chỗ yếu lộ ra ắt sẽ chế ngự được.

    -Phép thứ 47 : Quyết giữ chính nghĩa

    “Bậc quân tử có chính nghĩa thì mới chiêu mộ được hiền tài”.
    Ta phải là chính đạo thì mới thu phục được lòng người theo về.

    -Phép thứ 48 : Đánh vào chỗ yếu

    “Người đời có người thích yên tĩnh ,có kẻ thích hành động ,có người hám danh ,có kẻ hám lợi ,có người chính trực ,có kẻ xiểm nịnh ,có người thích sáng sủa ,có kẻ ưa tăm tối”.
    Người khôn ngoan thì phải hiểu rõ điểm yếu của đối phương để mà đánh vào đó.

    -Phép thứ 49 :Ghi công quên lỗi

    “Bậc trí giả không dùng sở đỏan ,mà dùng sở trường của người ngu.Không chú ý đến lỗi lầm mà sử dụng công lao của họ cho nên không bị khốn”.
    Bậc quân tử đối với quần thần phải khoan dung độ lượng như thế ,quần thần mới cảm kích mà đền đáp.


    -Phép thứ 50 :Hạ chiếu cầu hiền

    “Thánh nhân dùng vô vi đãi người có đức”
    Bậc thánh minh phải nghĩ mọi cách ,phải dùng lời lẽ thế nào để thu phục người hiền tài ,đức độ”.




    -Phép thứ 51 :Lưu danh muôn thuở

    “Bậc hiền sĩ dù đã qua đời ,vẫn được mọi người nhắc đến như có tình sâu nghĩa nặng”.
    Có những kẻ sống trên đời chỉ biết tranh danh đọat lợi ,tàn sát hung hãn như mãnh thú .Có kẻ đạt được danh lợi thì kiêu căng tự mãn ,bị tiền của và nữ sắc làm mê muội tâm trí ,dù có sung sướng hưởng lạc vài chục năm nhưng khi chết đi sẽ để lại tiếng xấu ngàn thu.

    -Phép thứ 52 :Thoái binh chế binh

    “Có thuật lui binh ,có phép chế binh”.
    Ngụ ý là 1 người bình tĩnh ,thận trọng ,luôn làm điều thiện ,đức độ cao cả,thhì dù 1 thân 1 mình đi vào hang ổ đối phương ,cũng có thể làm cho đối phương phải kính nể không dám tàn hại .Một người như vậy thì nơi nào cũng là đất sống ,không có gì đáng gọi là hiểm nguy.

    -Phép thứ 53 :Đại hiền vô địch

    ”Người giỏi quyền biến là người : trên thông thiên văn ,dưới tường địa lý ,sai khiến quỷ thần ; tùy thời tiết từng mùa mà biến hóa ,khiến cho vạn vật trong thiên hạ phải phục vụ cho mình”.

    -Phép thứ 54 :Tiến công nước-người

    “Chế ngự người thì nắm được quyền.Đồng thời với việc tiến công nước địch phải chế ngự được người của địch”.

    -Phép thứ 55 : Giữ thế cân bằng

    “Ít rồi sẽ nhiều ,thiếu rồi sẽ đủ”
    Vạn vật trên đời vờua đối lập vừa thống nhất .Lão Tử cũng nói “Đạo trời giống như chổ cao thì dựa vào chổ thấp ,chổ thừa thì bù vào chổ thiếu”.Giữ cho cân bằng,hài hòa là điều tối cần thiết.

    -Phép thứ 56 : Ẩn náu chờ thời

    “Dụng chi hữu đạo ,dụng chi tất ẩn” .Lại nói “Có đạo của Tiên vương ,có mưu của thánh trí ,thảy đều không lộ liễu”.
    Người thông tuệ thường thường ít bộc lộ sở trường của mình ở tất cả mọi nơi ,mà luôn luôn hường nhịn người khác .Nhưng sự ẩn giấu này chỉ là để chờ thời cơ chin muồi sẽ hiển lộ.

    -Phép thứ 57 : Sử dụng nội gián

    “Con Gấu trước khi vồ mồi thường giấu mình rồi mới xông ra .Muốn hành động thì trước tiên hãy dùng nội gián”.
    Người khôn ngoan chẳng những giỏi dùng binh trên chiến trường,mà còn biết cài gián điệp vào hàng ngũ của đối phương để họat động.

    -Phép thứ 58 : Uốn nắn sửa sang

    “Thánh nhân vừa thấy cong bèn uốn nắn lại cho thẳng ,tùy mức độ lệch lạc mà có cáchtrị thích đáng”.
    Khi nền chính trị quốc gia xuất hiện nguy cơ,phải dùng quốc pháp bổ cứu.Nếu nguy cơ nghiêm trọng ,tất phải dùng hình phạt nghiêm khắc.

    -Phép thứ 59 : Lùi để tiến tới

    “Người giỏi dùng thiên hạ xưa nay tất phải lượng định quyền trong thiên hạ,phải phân biệt nặng nhẹ ,mạnh yếu”.
    Bậc hhiền minh thường tránh kẻ mạnh,tạm lùi để tìm cách tiến công.

    -Phép thứ 60 :Cho rồi mới lấy

    “Muốn chiếm lĩnh được gì của đối phương thì trước hết phải đáp ứng phần nào ý muốn của đối phương ,rồi mới lấy được cái mình cần”.

    -Phép thứ 61 :Quan sát gián tiếp

    “Thẩm định hư thực,căn cứ vào thị hiếu mà biết ý chí”.
    Muốn xem xét 1 người,ta hãy xem thường ngày họ bộc lộ ý thích gì để mà phán đóan tình hình.

    -Phép thứ 62 :Đánh rắn dập đầu

    “Kẻ mạnh khi chiến thắng thường chóang váng vì thắng lợi,không tấn công giành thắng lợi trọn vẹn,sớm thỏa mãn thì sẽ chuốc lấy tai họa .
    Kẻ yếu bị thất bại ,nếu biết bình tĩnh suy xét rút ra bài học ,phục hồi lực lượng ,thì có thể lật ngược thế cờ.

    -Phép thứ 63 :Chủ quan hại mình

    “Hợp mà không kết ,dương thân mà âm sơ:Sự chẳng thành”.
    Có những việc tưởng chừng vô cùng thuận lợi,thực ra hết sức khó khăn.Phải đi sâu vào cuộc sống ,nghiên cứu điều tra nắm chắc thực tế ,mới không phạm sai lầm chủ quan,đã làm hại cho mình ,còn hại cả cho người

    -Phép thứ 64 : Dẫn dụ đối phương

    “Những điều dẫn dụ của thánh nhân :kẻ ngu lẫn kẻ trí đều không nghi hoặc”
    Bậc đại trí có thể khôn khéo dẫn dụ được hết thảy mọi người mà đối phươngkhông hề hay biết.

    -Phép thứ 65 :Lợi dụng kẻ địch

    “Thả mồi sâu bắt cá lớn”.Bậc đại trí không những chỉ biết sử dụng những người hiền tài ở phe mình ,mà còn biết lợi dụng những khe hỡ,những mâu thuẫn trong nội bộ đối phương mà sử dụng người của đối phương phục vụ lợi ích cho mình.

    -Phép thứ 66 :Một cây thành rừng

    “Đơn thương độc mã vẫn có thể ra vào tùy ý không ai ngăn nổi”.
    Đông người vẫn chưa chắc là đã giành phần thắng .Một bàn tay cũng có thể tạo nên tiếng vỗ:chỉ cần chân lỳ thuộc về ta ,thì ta vẫn thành vô địch trong thiên hạ.

    -Phép thứ 67 :Tương quan lợi hại

    “Dùng lời lẽ để thuyết phục đối phương nhận ra điều phải trái”.
    Muốn cho đối phương hành động làm theo ý mình thì ta phải biết khôn khéo thuyết phục ,chỉ rõ điều lợi hại.

    -Phép thứ 68 :Hình dung có địch

    “Nghĩ rằng có địch để mình nổ lực”
    Muốn lập nên sự nghiệp lớn ,phải biết hình dung những thế lực lớn mạnh ngăn cản bước tiến của mình ,từ đó mà ta cố gắng không ngừng để vươn tới mục đích.

    -Phép thứ 69: Học hỏi kẻ thù

    “Muốn chiến thắng thì phải biết học hỏi ở tất cả mọi người”.
    Bậc địa trí khi mưu nghiệp lớn chẳng những học hỏi ở những bậc tiên hiền,mà còn học hỏi những cái hay của chính kẻ thù.

    -Phép thứ 70 :Nói mãi phải tin

    “Lời nói của số đông có thể biến không thành có”.
    Nếu giỏi tung tin thì có thể đánh lạc hướng đối phương.

    -Phép thứ 71 :Luồn sau leo cao

    “Phái gián điệp luồn sâu vào đầu não đối phương mà hành động ,có thể dành thắng lợi lớn lao bất ngờ”.
    Nếu gián điệp của ta mà len lõi sâu vào bộ chỉ huy của địch thì thắng lợi gần như cầm chắc.

    -Phép thứ 72: Không màng danh lợi

    “Bậc chân nhân hợp với đạo trời”
    Một người kinh qua tu luyện lâu dài đạt tới cảnh giới thóat tục thì gọi là “Chân nhân”.
    Người ta khi sinh ra ban đầu không khác nhau là mấy .Chỉ sau đó do môi trường ,hòan cảnh khác nhau ;do sự tu luyện nhiều hay ít mà thành ra những hạng người khác nhau.
    Người nào chìm đắm trong danh lợi ắt chuốc lấy họa sát thân .
    Người nào không màng danh lợi thì sẽ thanh thản vui sướng.
     
    cantiennuoivo and thupt70 like this.
  9. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member


    Sự phi thường của đức tin


    - Phạm Tử Hoa là người thích kết nạp dũng sĩ. Ông có một thế lực rất lớn ở Tấn. Tử Hoa không có quan chức gì nhưng uy tín ông vượt hơn cả Tam Khanh (3 quan đầu triều). Cái uy tín đó khiến ông làm được những việc: Từ giàu hóa nghèo, hoặc từ nghèo hóa giàu; người vô tội Tử Hoa có thể làm người chết, người bị tội chết ông có thể cứu sống.

    Có một lão tên Thương Khâu Khai nhà rất nghèo, tưởng chừng trong xã hội không ai nghèo hơn, nghe được quyền lực của Phạm Tử Hoa, họ Thương bèn xốc áo lên đường tìm Tử Hoa. Bọn môn khách nhà họ Phạm thấy ông già lụm cụm, da nhăn nheo rám nắng, áo quần xốc xếch bẩn thỉu biểu môi khinh miệt lão, ông không hề phản ứng. Bọng chúng đưa Thương Khâu đến một cái đài cao, một tên xấc xược nói:

    - Lão nhảy được từ trên đài xuống đất sẽ được thưởng 100 lạng vàng.

    Thương Khâu Khai nhảy liền! Ai cũng tưởng lão tan xương nát thịt, không ngờ lão nhảy xuống nhẹ nhàng như chiếc lá rơi. Dĩ nhiên lão bình yên.

    Bọn chúng lại đưa lão đến vực sâu, nước xoáy cuồn cuộn, nói:

    - Dưới này có châu ngọc nhiều lắm, lão nhảy xuống đó lấy.

    Thương Khâu Khai tin thật bèn nhảy xuống, hồi lâu lão bình thản trồi lên mặt nước, trong tay lão bình thản trồi lên mặt nước, trong tay lão có một viên ngọc. Bây giờ bọn chúng kể cả Phạm tử Hoa rất ngạc nhiên. Phạm Tử Hoa cho lão vào hàng thượng khách. Dè đâu kho tài sản nhà Tử Hoa phát hỏa, lửa khói mù mịt. Phạm tử Hoa sốt ruột bảo Thương Khâu Khai:

    - Nếu ông có thể xông vào lửa khuân ra mấy hòm gấm vóc châu báu, tôi sẽ thưởng công cho ông!

    Lão Thương nét mặt tự nhiên xông vào biển lửa cứu được tài sản của họ Phạm, bụi than không hề dính vào người lão. Bấy giờ bọn chúng mới biết sợ cúi đầu lạy lão và hỏi:
    - Tiên sinh có đạo thuật gì không?

    Lão chân thành đáp:
    - Tôi không có thuật gì cả. Chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên cho tôi lắm. Nhưng tôi biết chắc một điều, lời người ta đồn ông Phạm đây, giàu có thể đổi thành nghèo, nghèo có thể hóa giàu, có quyền khiến ai chết, cho ai sống. Vì tôi quá tin điều đó, nên tôi làm việc gì cũng không trở ngại. Tôi tin tôi sẽ giàu, tôi tin rằng ông Phạm không cho tôi chết. Chỉ có vậy!

    Tể Ngã nghe được điều đó về thuật lại cho Khổng Tử nghe.

    Khổng Tử nói:
    - Người có chí thành có thể cảm hóa được vạn vật, khiến quỷ thần, Trời Đất cảm động, nên có thể tung hoành mà không có gì trở ngại. Các con hãy nhớ kỹ điều đó.

    ___ LỜI BÌNH

    Chuyện này có tính chất đạo học, nó có vẻ gì huyền bí và siêu nhiên. Tuy vậy trên thực tế không phải là không xảy ra. Người Tây Phương có câu "Muốn là được!". Người ta đặt hết niềm tin và hi vọng vào "muốn". "Muốn" như một tâm linh không thể tách rời với cơ thể. Kinh Thánh nói: "Chỉ cần một đức tin lớn bằng hạt cải, có thể xoay chuyển được một quả núi". Thuật thôi miên cũng ở đức tin mà ra. Thôi miên không thuộc về thần học, mà nó thuộc khoa học.

    Sử Ký Tư Mã Thiên có chép một đoạn về Lý Quảng: "Quảng ở Hữu Bắc Bình đi săn, thấy tảng đá trong bụi rậm tưởng rằng đó là hổ, bèn giương cung bắn, mũi tên cắm lút vào. Nhìn lại là tảng đá. Quảng bắn lại lần nữa nhưng không sao găm được!" Bộ sách này rất có giá trị về sử liệu, khó nói ngoa. Lý Quảng là một cung thủ nổi tiếng. Ban đầu đấi tượng kia ông cho là hổ, nếu là hổ ắt mũi tên phải gắm lút vào. Ấy thức ấy đã biến niềm tin mãnh liệt thành sức mạnh. Sau, Lý Quảng biết là đá, thì sự hoài nghi nảy sinh. "Mũi tên bằng cây làm sao có thể xuyên qua đá?". Sự hoài nghi ấy đã làm niềm tin không còn mãnh liệt nữa. Và tất nhiên mũi tên không thể xuyên qua đá được!

    Ở đây, Thương Khâu Khai có một niềm tin tuyệt đối, vì vậy ông xuống nước, vào lửa đều không trở ngại, bởi vì những thứ kia ông vẫn xem nó là không khí, nó là món lợi nhuận, lại có một Phạm Tử Hoa cứu tử, thì ông không hề nghĩ đến cái chết!

    Nhưng đại khối nhân sinh mấy ai có được niềm tin tuyệt đối và mãnh liệt để chứng nghiệm điều ấy đúng hay không đúng.
     
    cantiennuoivo and thupt70 like this.
  10. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    . Dương đông kích tây (Đánh lạc hướng đối phương)
    Kế “Dương đông kích tây” là reo hò giả vờ như thật sự đánh vào phía đông, nhưng chủ yếu lại đánh vào phía tâỵ
    Trong tất cả mọi vấn đề của xã hội, từ chiến trường, thương trường, chính trường cho đến tình trường; nếu muốn điều này nhưng lại giả làm điều kia, nói điều này mà làm điều nọ, ấy là “Dương đông kích tây” vậỵ
    Kế này mờ ảo vô song. Nó rất khó biết, khó đoán, bị đánh bất ngờ. Kế này nhằm chuyển mục tiêu để lừa dối đối phương, khiến cho địch sơ ý, lừa lúc bất ý tấn công kẻ không chuẩn bị.
    Có nhiều cách thức để thực hiện kế này, như:
    - Tạo tin đồn. – Làm rối tai rối mắt địch. – Buộc đối phương lo nhiều mặt. – Mê hoặc ý chí của địch. – Nghi binh. – Làm phân tán lực lượng đối phương. – Làm yếu lực lượng đối phương, lực lượng phòng vệ địch.
    Nguyên tắc của ” Dương đông kích tây” là bí mật và chủ động. Bị động coi như phải chịu sự khống chế của địch.
    Điều kỵ khi dùng kế ” Dương đông kích tây” là để lộ cơ.
    Lộ cơ là mất hết khả năng phòng bị, chuẩn bị. Dù là trên chiến trường, thương trường hay chính trường cũng đều phải giữ bí mật và nắm được thế chủ động.


    2. Điệu hổ ly sơn (Dụ hổ ra khỏi rừng)
    Kế “Điệu hổ ly sơn” là nhử, dụ hay khuấy động làm cho con hổ ra khỏi rừng.
    Kế “Điệu hổ ly sơn” có hai lối: Một là nhử hổ ra khỏi rừng để dễ dàng giết hổ. Hai là đuổi hổ đi để dễ bắt giết những loại hồ ly vẫn dựa oai hổ mà hoành hành.


    3. Nhất tiễn hạ song điêu (Một mũi tên hạ hai con chim)
    Kế “Nhất tiễn song điêu” là dùng một mũi tên bắn chết hai con chim.
    Ý của mưu kế này là dùng sức lực tối thiểu để đạt đến hiệu quả tối đa.


    4. Minh tri cố muội (Biết rõ mà làm như không biết)
    Kế “Minh tri cố muội” là biết thật rõ chuyện đấy, nhưng làm ra vẻ không biết gì.
    Với người xưa, đây là một triết lý xử thế rất cao, mục đích lại ẩn trốn tất cả những tiếng thị phi nghi hoặc, nhưng theo nghĩa mưu kế, nó là một thái độ thâm sâu.
    Cái đức của người quân tử không thể không cho thiên hạ biết, nhưng cái mưu kế của trượng phu không thể không giấu thiên hạ.
    Tóm lại, biết rất nhiều mà tỏ ra không biết một là kế “Minh tri cố muội” vậy.


    5. Du long chuyển phượng (Biến rồng thành phượng)
    Kế “Du long chuyển phượng” là biến cái này thành cái kia, bên trong là hình rồng đó, nhưng làm cho nó trở thành phượng.
    Cái kế này rất phổ biến, trong dân gian ta gọi là “Treo đầu dê, bán thịt chó”.


    6. Mỹ nhân kế (Kế dùng gái đẹp)
    “Mỹ nhân kế” là dùng gái đẹp để làm xoay chuyển, thay đổi tình thế mà những cái khác không thể thực hiện được.
    Giai nhân từ ngàn xưa đến nay bao giờ cũng là đề tài chính. Tuy là phái yếu, không thể vác gươm đao mà đánh giặc, nhưng các nàng có thể thắng được bằng đôi mắt biếc và nụ cười xinh đẹp.
    Có những bức thành kiên cố cả mười vạn quân không hạ nổi, nhưng nó có thể bị sụp đổ bởi ánh mắt mỹ nhân.
    Sức mạnh của mỹ nhân đặc biệt là có ảnh hưởng đối với người anh hùng, người có quyền thế.


    7. Sấn hỏa đả kiếp (Theo lửa mà hành động)
    Kế “Sấn hỏa đả kiếp” là lợi dụng lúc loạn để thao túng, lúc tình hình rối ren mà sắp xếp theo ý muốn.
    Có hai loại “Sấn hỏa đả kiếp”: Một là theo lửa để mà đánh cướp. Hai là chính ta phóng hỏa mà đánh cướp.
    Theo lửa tức là thừa lúc người ở trong cơn nguy biến mà ta quấy hỗn loạn thêm.
    Phóng hỏa tức là chính ta gây ra sự hỗn loạn mà thực hiện theo ý muốn của ta.
    Theo lửa hay phóng hỏa cùng đi chung vào một mục đích là đánh địch và đoạt của địch để tạo cơ hội cho ta.
    Theo lửa thì dựa vào thời cơ sẵn có.
    Phóng hỏa thì tự ta tạo ra thời cơ.
    Không thể phê phán theo lửa hay phóng hỏa, cái nào hay, cái nào dở, cái nào tốt, cái nào xấu, vì cả hai giống như một sự biến ảo giữa không khí và nước.
    Trong sử sách, người ta thấy tay phóng hỏa giỏi là Trương Nghi. Một mình Trương Nghi đã phá tan thế hợp tung bằng cách dối Tề, lừa Triệu, dọa Ngụy, thuyết Yên, bịp Sở.
    Trương Nghi thật là con người có cái lưỡi bằng lửa thiêu đốt cả sáu nước, dựng thành cơ nghiệp thống nhất cho nhà Tần.
    Khổng Minh tuy là một nhà chính trị lỗi lạc tài tình, nhưng cái thế của ông ngay từ đầu chỉ là cái thế phải theo lửa để gây vốn: Lưu Bị bị Tào Tháo đánh chạy đến cùng đường, Khổng Minh đành tính kế nương nhờ Tôn Quyền rồi ăn theo cuộc chiến tranh Nam – Bắc, ăn theo trận Xích Bích để cướp Kinh Châu.
    “Sấn hỏa đả kiếp” đòi hỏi một khả năng hành động mau lẹ như con ó bắt mồi.


    8. Vô trung sinh hữu (Không có mà làm thành có)
    Kế “Vô trung sinh hữu” là từ không mà tạo thành có.
    Thiên hạ không loạn, trật tự không rối thì làm gì có anh hào xuất lộ! Bởi lẽ đó, những anh hào thường được gọi là kẻ “chọc trời khuấy nước”. Mục đích của khuấy nước là làm rối beng sự việc lên để dễ bề thao túng. Thủ đoạn của khuấy nước là gây tiếng tăm, tung tiếng đồn, gây xáo trộn rồi dựa vào đó mà thủ lợi.
    Kế “Vô trung sinh hữu” hình dung là tu hú đẻ nhờ, tổ thì chim khác làm, nhưng con tu hú cứ đến đặt trứng của nó vào đó, rồi lại nhờ loài chim khác ấp trứng luôn, khi trứng nở thành chim, tu hú con bay về với bầy tu hú.


    9. Tiên phát chế nhân (Ra tay trước để chế phục đối phương)
    “Tiên phát chế nhân” là ra tay trước để dành chiếm ưu thế, để đoạt lợi, để bắt lấy sự chiến thắng.
    Kế “Tiên phát chế nhân” là không nói quá xa, viễn vông, mà phải nhìn vào thực tế gần nhất.
    Các vụ xảy ra trong lịch sử như: Lý Thế Dân tại Huyền Vũ Môn, Võ Tắc Thiên phế lập Lư Lăng Vương, Ung Chính cướp Bảo Tòa, Từ Hi độc sát Quang Tự, Gia Cát Lượng lấy đất Quang Trung… Tất cả đều là áp dụng thủ đoạn “chớp nhoáng” không cho địch kịp trở tay, không cho dư luận phản ứng kịp.
    Vẫn có câu “Tiên hạ thủ vi cường” là vậy.


    10. Đả thảo kinh xà (Đập cỏ làm cho rắn sợ)
    Kế “Đả thảo kinh xà” là đập vào cỏ, làm động cho rắn sợ.


    11. Tá đao sát nhân (Mượn đao để giết người)
    Kế “Tá đao sát nhân” là mượn dao để giết người, mượn tay người khác để giết kẻ thù của mình.
    Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Sát nhân bất kiến huyết, kiến huyết phi anh hùng”. (Giết người không thấy máu, thấy máu không anh hùng).
    Trên đời dĩ nhiên chưa có kẻ nào chỉ giết người mà thành anh hùng, nhưng cũng hiếm có tay anh hùng nào không giết người. Điểm khác nhau không ở có hay không, mà ở chỗ thông minh hay ngu xuẩn. Tào Tháo mượn Lưu Biểu giết Nễ Hành, mượn lòng quân giết Dương Tu rồi lại được làm cái việc mèo già khóc chuột, thật đáng kể là một tay thông minh, gian hùng.


    12. Di thể giá họa (Dùng vật gì để vu khống người ta)
    Kế “Di thể giá họa” là đem xác chết hay đồ vật gì bỏ vào nhà người khác để giá họa.
    Kế này thường được dùng bởi khối óc quỷ quyệt thông minh, tự mình không ra mặt mà làm cho đối phương bị hại. Như vậy gọi là “giết người không thấy máu”.


    13. Khích tướng kế (Kế chọc giận tướng giặc)
    “Khích tướng kế” là kế chọc giận tướng giặc, làm tướng giặc nổi giận. Nổi giận sẽ mất sáng suốt, thiếu suy nghĩ, không tự chủ được con người mình.
    Mạnh Tử nói: “Nhất nộ nhi an thiên hạ”.
    Trong đời có nhiều sự việc được thành tựu bằng một cơn giận và cũng có nhiều việc thất bại bởi một cơn giận.
    Bởi vậy cái kế khích tướng cũng là một trong những diệu kế, nếu đạt ra thì kiến thiên hạ, cùng thì mang họa vào thân.
    Khích tướng còn là khơi dậy cái hùng khí của người khác để người ấy làm việc cho ta.
    Đối tượng tốt nhất của kế khích tướng là những người có tính tình bạo tháo hay sẵn sàng phẫn nộ.
    Tuân Tử bảo rằng: “Lời nói khéo êm như lụa, lời nói ác nhọn như giáo mác”.
    Thuyết là tiến dẫn lời nói, cái nghĩa căn bản của thuyết làm cho người ta nghe theo. Hiệu quả của thuyết rất lớn. Bởi thế mới có câu: “Thiên hạ tĩnh, nhất ngôn sử chi động. Thiên hạ động, nhất ngôn sử chi tĩnh”. (Thiên hạ đang yên lặng, một lời nói làm náo loạn. Thiên hạ đang náo loạn, một lời nói làm lắng dịu).
    Căn bản mưu thuật của thuyết, theo Tuân Tử có bốn điều: Cơ, dũng, trí, biến.
    - Cơ: Là xem thời độ thế, nhân lợi thuận tiện.
    - Dũng: Là quyết đoán nói những điều không ai dám nói.
    - Trí: Là biết rõ sự tình, tâm lý, giải quyết được thắc mắc, chế phục được người.
    - Biến: Là biến hóa, trong các trường hợp bất trắc.
    Mục đích của thuyết có năm điều:
    - Làm cho người hiểu rõ.
    - Làm cho người tin tưởng.
    - Làm cho người đồng tình.
    - Làm cho người phục.
    - Làm cho người theo.
    Đạt được năm mục đích trên thì kể như nắm chắc phần thắng trong tay.


    14. Man thiên quá hải (Lợi dụng sương mù để lẩn trốn)
    Kế “Man thiên quá hải” là lợi dụng lúc trời sương mù mà lẩn trốn, vượt qua hay hành động ngay trong lúc sương mù.
    Man thiên, trời u ám không phải hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi như một quẻ trong Dịch lý đã nói. Man thiên, không thể ngồi đợi nó tới như sương mù do thời tiết thiên nhiên, mà phải tạo ra nó.
    Kế “Man thiên” đem áp dụng thực hiện được cả hai mặt: tiêu cực lẫn tích cực.
    Tích cực là đem ánh sáng đến cho một tình thế mờ mịt.
    Tiêu cực là lẩn tránh một tai họa, là lợi dụng cơ hội sơ hở của địch để thoát bí.
    Ở trận Xích Bích, Khổng Minh đã giải quyết vấn đề thiếu tên bắn cho các cung thủ bằng cách lấy mười chiếc thuyền lớn chất đầy rơm, đợi lúc trời sương mù, âm thầm đến trại Tào Tháo nổi trống la hét làm như tấn công. Tào sợ ngụy kế, không dám xông ra, chỉ bắn tên như mưa vào các thuyền rơm. Bằng một đêm đánh trống reo hò, không chết một người, Khổng Minh đã lấy được của Tào Tháo cả trăm ngàn mũi tên.


    15. Ám độ trần sương (Đi con đường mà không ai nghĩ đến)
    Kế “Ám độ trần sương” là bí mật đưa quân qua con đường mà không ai nghĩ rằng ta sẽ đi qua.
    Kế này áp dụng giữa lúc hai bên đang đấu tranh, chiến đấu với nhau.
    Mỗi bên đều ra sức giấu mục tiêu thật của mình rồi đưa ra mục tiêu giả mà lừa đối phương.
    Đây là công việc rất phức tạp, có một quá trình khúc triết. Như “Tôn Tử Binh Pháp” viết: “Việc binh là trá ngụy, có thể mà làm ra vẻ không có thể, dùng đấy mà tỏ ra không dùng, gần giả làm như xa, xa giả làm như gần. Lấy lợi mà dụ, gây rối mà đuổi, thấy khỏe thì tránh. Đầu tiên là làm mọi cách giảm nhược lực đối phương, sau rồi mới tiến hành dự định.
    Muốn dụng kế này phải là người có tầm nhìn xa hiểu rộng và một khối óc tuyệt vời.


    16. Phản khách vi chủ (Đổi vị khách thành vị chủ)
    Kế “Phản khách vi chủ” là đổi địa vị khách thành địa vị chủ.
    “Phản khách vi chủ” là trong đấu tranh đang ở vào thế bị động nên phải tìm kế hoạch đến chủ động, khách vốn là địa vị bị chi phối, mọi việc đều do chủ đặt định sắp xếp.
    “Phản khách vi chủ” là nguyên tắc thường dùng trong đấu tranh. Có chủ động mới khống chế được cục diện. Không có chủ động, không thể thắng lợi.


    17. Kim thiền thoát xác (Ve sầu vàng lột xác)
    “Kim thiền thoát xác” là con ve sầu vàng lột xác.
    Kế này dùng cho lúc nguy cấp, tính chuyện ngụy trang một hình tượng để lừa dối, che mắt đối phương, đặng đào tẩu chờ một cơ hội khác.
    Kế “Kim thiền thoát xác” có một phạm vi rất rộng rãi và phổ biến, bất cứ ai ở hoàn cảnh nào cũng có thể sử dụng được.


    18. Không thành kế (Kế bỏ trống cửa thành)
    “Không thành kế” là kế bỏ thành trống, thành bỏ ngỏ.
    Kế này có hai loại:
    - Một là lúc tình thế cực khẩn cấp, nguy hiểm như treo trên sợi tóc, buộc phải dùng nghi binh để lừa dối đối phương mà dựa vào đó để trốn thoát.
    - Hai là rút lui với đầy đủ kế hoạch dụ cho địch quân xâm nhập rồi mới bao vây tiêu diệt.
    “Không thành kế” thực ra là một cách tạo nghi âm cho đối phương, mục đích là không cho đối phương sớm có một quyết định.


    19. Cầm tặc cầm vương (Dẹp giặc phải bắt tướng giặc)
    “Cầm tặc cầm vương” là dẹp giặc phải bắt chúa giặc.
    Phương pháp bắt chúa giặc thật thiên biến vạn hóa, không cứ bằng sức mạnh hay bằng trí khôn. Các kế khác như “Điệu hổ ly sơn”, “Mỹ nhân kế” hay “Man thiên quá hải” đều có thể dùng cho kế “Cầm tặc cầm vương”. Để đối phó với một nhân vật anh hùng, thì dù một quả đạn mà giết hay dùng mỹ nhân kế mà nhử thì cũng như nhau.
    Nhưng đa số âm mưu cầm vương được hiệu quả bằng kích thích anh hùng và mỹ nhân kế.
    “Tự cổ anh hùng đa hiếu sắc” là vậy.
    Việt Vương thua trận rồi, mà chỉ dùng một nàng Tây Thi đã đủ giam cầm Phù Sai. Lý Viên muốn đoạt quyền của Xuân Thân Quân, nên đã cho cô em là Lý Yên sang làm tì thiếp. Đó là những cách gián tiếp để cầm vương.


    20. Ban chư ngật hổ (Giả làm con heo để ăn thịt con hổ)
    Kế “Ban chư ngật hổ” là giả làm con heo để ăn thịt con hổ.
    Lão Tử nói: “Người cực khôn khéo mà làm ra vụng về”, cũng như câu “đại trí nhược ngu”. Người đi săn thường học tiếng heo kêu rồi tự giả làm heo để nhử con hổ.
    Đối với kẻ thù, ta hãy giả ngu như một con heo, trên bề mặt cái gì cũng thuận chịu, lúc nào cũng cười, lúc nào cũng cung kính để cho địch mất hết nghi âm. Chờ thời cơ chín, tìm thấy chỗ nhược của kẻ thù mà đập đòn sấm sét.
    - Dùng việc không gì quan trọng bằng bí mật.
    - Hành động không gì quan trọng bằng thừa lúc bất ý.
    - Dò xét không gì quan trọng bằng làm cho địch không hay biết.
    - Bên ngoài ra vẻ loạn mà bên trong rất có cơ ngũ.
    - Tỏ ra đói mệt nhưng thật là no khỏe.
    - Làm ra ngu xuẩn nhưng rất tinh tường.
    Những câu trên đây chính là căn bản lý luận của kế “Ban chư ngật hổ” vậy.


    21. Quá kiều trừu bản (Qua cầu rồi phá cầu)
    “Quá kiều trừu bản” là qua cầu rồi thì phá cầu, ý nói một người sau khi đã thành công, muốn hưởng thụ một mình nên giết hại hoặc xa lánh những người bạn đã đồng lao cộng khổ với mình.
    Kế “Quá kiều trừu bản” thường trái ngược với kế “Ban chư ngật hổ”. Qua cầu cất nhịp là lúc đắc thời đắc thế đem thuộc hạ ra mà khai đạo. Còn giả tiếng heo là kế áp dụng giữa lúc ở vào thế kẹt.
    Đứng trên lập trường đạo lý thì cất nhịp cầu là một hành động vong ân bội nghĩa.
    Lưu Bang nổi danh là người qua cầu cất nhịp lớn nhất trong lịch sử. Lúc Lưu Bang hàn vi còn đi ăn cắp gà, thôi thì Bang nói đủ các điều ngon ngọt dễ nghe để tựu chúng lập đảng. Đến khi nên cơ nghiệp rồi, lo việc củng cố quyền thế, Lưu Bang chẳng ngại gì hết, đổi lại thái độ, nghi ghét triều thần.
    Người thứ nhất mà Lưu Bang lôi chém là Hàn Tín, rồi đến Bành Việt, Anh Bố, bỏ tù Tiêu Hà, Trần Hi, Phàn Khoái.
    Trương Lương thấy họa chẳng chóng thì chày cũng đến với mình, nên bỏ trốn lên rừng học đạo tu tiên.


    22. Liên hoàn kế (Kế móc nối nhau)
    “Liên hoàn kế” là nối liền với nhau thành một dây xích.
    “Liên hoàn kế” còn là vận dụng một quyền thuật để tạo phản ứng dây chuyền cho đối phương hoặc gây thành phản ứng nhiều mặt.
    Mỹ nhân kế là vũ khí phổ biến nhất cần thiết cho việc dùng “Liên hoàn kế”. Vì người đẹp ví như nước, anh hùng ví như bùn, nước làm cho bùn nhão ra.
    Từ ngàn xưa, đa số anh hùng đã vì thương hoa tiếc ngọc nên bỏ lãng nhiệm vụ.
    Tuy vậy, vẫn phải phân biệt “Mỹ nhân kế” với “Liên hoàn kế”.
    Liên hoàn kế là một hình ảnh của thực tiễn, bất cứ việc gì xảy ra cũng gây thành phản ứng dây chuyền. Việc xảy ra hôm nay cũng không tự dưng mọc ra, nó phải là kết quả dây chuyền từ những sự việc trước.


    23. Dĩ dật đãi lao (Lấy khỏe để đối phó với mệt)
    Kế “Dĩ dật đãi lao” là lấy sự thanh thản để đối phó với hấp tấp, nhọc nhằn; dưỡng sức mà đợi kẻ phí sức.
    Kế này viết ở trong thiên “Quân Tranh” của bộ “Tôn Tử Binh Pháp”: “Lấy gần đợi xa, lấy nhàn đợi mệt” nghĩa là trên chiến thuật phải tìm nắm trước địa vị chủ động để ứng phó với mọi tấn công của địch.
    Cũng có ý nói nên chuẩn bị chu đáo, dễ dàng lấy cái thế bình tĩnh xem xét tình hình biến hóa mà quyết định chiến lược, chiến thuật. Đợi địch mỏi mệt, tỏa chiết bớt nhuệ khí rồi mới thừa cơ xuất kích.
    Tôn Tử gọi thế là: “Ẩn sâu dưới chín từng đất, hành động trên chín từng trời”.
    Sử dụng sách lược này đòi hỏi thái độ tuyệt đối trầm tĩnh ứng biến, đo được ý kẻ thù, hoàn cảnh kẻ thù, thực lực kẻ thù. Nếu thời cơ chưa chín thì đứng yên như trái núi. Khi cơ hội vừa tới thì lập tức lấp sông, chuyển bể.
    Tư Mã Ý ngăn Gia Cát Lượng ở Kỳ Sơn.
    Chu Du phóng hỏa tại Xích Bích.
    Tào Tháo đại phá Viên Thiệu nơi Quan Độ.
    Tạ Huyền đuổi Bồ Kiên ở Phi Thủy.
    Tất cả đều lấy ít đánh nhiều, thế kém vượt thế khỏe. Tất cả đều là kết quả sử dụng tài tình sách lược “Dĩ dật đãi lao”.


    24. Chỉ tang mạ hòe (Chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe)
    “Chỉ tang mạ hòe” là chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe. Ý nói vì không tiện mắng thẳng mặt nên mượn một sự kiện khác để tỏ thái độ.


    25. Lạc tỉnh hạ thạch (Ném đá vào người dưới giếng)
    “Lạc tỉnh hạ thạch” là ném đá vào đầu kẻ đã rơi xuống giếng.
    Rơi xuống giếng lại còn ném đá vào đầu nạn nhân. Nếu đứng trên quan điểm đạo đức Khổng – Mạnh thì phải là hành động không chính nhân quân tử, nhưng nếu coi là một mưu kế thì hành động này lại là một hành động sáng suốt.
    Căn bản triết lý của “Lạc tỉnh hạ thạch” là chi phối được thì mới chiếm đoạt được, và nhân từ với kẻ thù tức là tàn nhẫn với chính ta.
    Lưu Bị lúc nào hé miệng cũng nói những điều nhân từ, lúc nào cũng chảy nước mắt, nhưng ông lại là người cũng giỏi thủ đoạn “Lạc tỉnh hạ thạch” nhất.
    Chẳng vậy mà khi Lã Bố vốn là người làm nhiều ân huệ đối với Lưu Bị, nào việc bắn kích ở Viên Môn, nào việc cho Lưu Bị nương tựa ở căn cứ mình… Đến lúc Lã Bố bị bắt sau khi thất trận Từ Châu, Tào Tháo trong lòng còn đôi chút thương mến muốn dụ dỗ Lã Bố, Lưu Bị ngại Tào Tháo có thêm một mãnh tướng nữa nên đã ghé tai Tào Tháo mà nhắc khéo: “Ông không nhớ chuyện Đinh Nguyên và Đổng Trác hay sao?” (Đinh Nguyên và Đổng Trác đều nhận Lã Bố làm con nuôi, nhưng đều bị chết vì tay Lã Bố.
    Lưu Bị đã không kể đến ơn nghĩa, lại còn đưa đòn độc “Lạc tỉnh hạ thạch” hạ Lã Bố. Như vậy, Lã Bố làm sao khỏi chết!


    26. Hư trương thanh thế (Thổi phồng thanh thế)
    “Hư trương thanh thế” là thổi phồng thanh thế để cho người ta chóa mắt, nể sợ.
    Đời Tam Quốc, Tào Tháo tiến xuống Giang Định, rầm rộ cả trăm vạn hùng quân. Tháo định dùng ưu thế tuyệt đối để buộc Tôn Quyền phải hàng phục. Nhưng Khổng Minh trông thấy âm mưu này nên chỉ ba vạn quân với một số mưu kế và trận gió đông đã đánh bại quân Tào.
    Khi sử dụng kế này, trước hết phải xem mục đích và giá trị của nó thế nào đã, rồi mới định cỡ to nhỏ.


    27. Phủ để trừu tân (Bớt lửa dưới nồi)
    Kế “Phủ để trừu tân” là bớt lửa dưới nồi, ý nghĩa là giải quyết trên căn bản một vấn đề, chủ ý không cho nó phát ra (bớt lửa cho nước khỏi trào).
    Khi có một việc đã bùng nổ ra rồi thì tìm cách làm cho nó dịu đi, không để nó tiếp tục ác liệt.
    Chỗ diệu dụng kế “Phủ để trừu tân” là không nghe thấy tiếng, không nhìn thấy hình, vô cùng như trời đất, khó hiểu như âm dương, khiến cho kẻ thù rơi vào kế của mình mà họ không biết.
    Không kể tình trường, chiến trường hay thương trường, kế “Phủ để trừu tân” lúc nào cũng là kế rất âm độc, lớn mang hiệu quả lớn, nhỏ có hiệu quả nhỏ.
    Ở tình trường, anh chàng kém vế thường o bế song thân hoặc anh em của đào, hơn là tấn công chính nàng!
    Ở chiến trường, kế “Phủ để trừu tân” lại càng dày đặc, giăng mắc như mạng nhện.


    28. Sát kê hách hầu (Giết gà cho khỉ sợ)
    “Sát kê hách hầu” nghĩa đen là giết con gà cho con khỉ sợ.
    Theo truyền thuyết dân gian, con khỉ rất sợ trông thấy máu, cho nên khi người ta muốn dạy khỉ, trước hết họ giết một con gà, bắt con khỉ nhìn thấy đống máu bê bết rồi mới bắt đầu giáo hóa. Lúc bắt khỉ cũng thế, người ta vặn cổ con gà cho nó kêu lên những tiếng ghê rợn, khiến cho khỉ bủn rủn chân tay thì đến bắt.
    “Sát kê hách hầu” có tác dụng lớn, làm cho các vụ mới nở ra trong trứng nước bị rơi vào cảnh bối rối, sợ sệt.


    29. Phản gián kế (Dùng kế của đối phương để quật lại)
    “Phản gián kế” là dùng người của đối phương lừa dối đối phương, dùng kế địch lừa địch.
    Tôn Tử nói: “Biết mình là biết thực lực và nhiệm vụ của mình. Biết người là biết thực lực và ý đồ của địch. Biết mình thì tương đối dễ hơn biết người. Cho nên muốn biết người thì phải dùng gián điệp”.


    30. Lý đại đào cương (Đưa cây lý chết thay cây đào)
    “Lý đại đào cương” là đưa cây lý chết thay cho cây đào.
    Người lớn làm họa, bắt người bé chịu tội thay. Có rất nhiều kẻ tác gian phạm tội lại bắt người khác thế thân.


    31. Thuận thủ khiên dương (Thuận tay dắt con dê về)
    “Thuận thủ khiên dương” theo nghĩa đen là thuận tay dắt con dê về.
    Sự việc trên đời, thiên biến vạn hóa rất kỳ diệu. Phải biết nắm lấy bất cứ cơ hội nào vụt hiện đến trước mắt, đó là những thâu hoạch, những cái lợi bất ngờ.


    32. Dục cầm cố tung (Muốn bắt mà lại thả ra)
    “Dục cầm cố tung” theo nghĩa đen là muốn bắt cho nên thả ra.
    Muốn thực hành kế này, phải có một nhãn quan sâu rộng, một tấm lòng nhẫn nại vô song. Những kẻ cấp công cận lợi không bao giờ có đủ tài trí để thi hành nó.
    Kế “Dục cầm cố tung” không thi hành theo cái nghĩa đen của nó. Kế này nói lên sự mềm dẻo cho mọi chính sách, thứ nhất là chính sách thu phục lòng người, giữ người.


    33. Khổ nhục kế (Hành hạ thân xác mình để người ta tin)
    “Khổ nhục kế” là hành hạ mình, rồi đem cái thân xác bị hành hạ ấy để làm bằng chứng mà tiếp cận với địch để hoàn thành một âm mưu nào đó.


    34. Phao bác dẫn ngọc
    (Ném hòn ngói để thu về hòn ngọc)
    “Phao bác dẫn ngọc” nghĩa đen là ném hòn ngói để thu về hòn ngọc. Tức là dùng tiểu vật để đoạt một đại vật, như người đi câu vậy.
    Dân gian thường nói “thả con tép bắt con tôm” cũng là kế này.


    35. Tá thi hoàn hồn
    (Mượn xác để hồn về)
    “Tá thi hoàn hồn” nghĩa là mượn xác để hồn về.
    Ý kế này chỉ rằng: Sau khi đã thất bại, buộc phải lợi dụng một lực lượng nào đó để khởi lên thi hành trở lại chủ trương của mình.
    Tuy nhiên, dùng kế này rất dễ đi vào con đường nguy hiểm, nếu sơ xuất thì tỷ như rước voi về giày mả tổ.
    Nếu mượn xác mà mượn ẩu thì chẳng khác gì vác xác chết về nhà.


    36. Tẩu kế
    (Chạy, lùi, thoát thân)
    “Tẩu kế” nghĩa là chạy, lùi, thoát thân.
    Tại sao kế sau chót cổ nhân lại đặt là “kế chạy”?
    Lại có câu: “Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách”. (Ba mươi sáu chước, chạy là hơn hết!)
    Bởi vậy kế này liên quan nhiều đến sự thành bại của một công việc lớn. Bất luận là đánh nhau bằng văn hay bằng võ, không ai là có thể thắng hoài. Trong quá trình chiến đấu bao gồm nhiều kiểu thắng, nhiều kiểu bại, lúc ẩn lúc hiện, trong chớp mắt dồn dập cả trăm ngàn biến chuyển. Nếu không ứng phó mau lẹ để tránh những cảnh bất lợi, để nắm mau lợi thế mà tiến tới thắng lợi, thì không phải là nhân tài.
    Chạy có nhiều phương thức. Bỏ giáp, bỏ vũ khí mà chạy, bỏ đường nhỏ mà chạy tới đường lớn, bỏ đường bộ mà chạy sang đường thủy… Các phương thức tuy không giống nhau nhưng cùng hướng chung đến mục đích là tránh tai họa để bảo đảm an toàn, để bảo toàn lực lượng.
    “Tẩu kế” không phải là chạy dài. Chạy chỉ là một giải pháp để mà sẽ quay lại. Tinh hoa của kế chạy là giành thời gian, bảo tồn sức khỏe, lực lượng.
    Rút chạy đến một vị trí mới, cho tư thế vững mạnh hơn, tập trung nỗ lực và củng cố tinh thần, chọn một cơ hội thuận tiện để quật lại, ấy mới thực là “Tẩu kế”.
    Sau hết phải lo đến điểm nguy của kế chạy: Khi chạy, sẽ mất tinh thần, sự việc hoàn toàn lỏng lẻo, mất sự tin tưởng ở xung quanh. Nếu không giải quyết cho chính xác những vấn đề trên thì “tẩu” không còn là một kế hoạch nữa, mà là một sự tan rã vậy!
     
  11. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    1. Dương đông kích tây (Đánh lạc hướng đối phương)
    2. Điệu hổ ly sơn (Dụ hổ ra khỏi rừng)
    3. Nhất tiễn hạ song điêu (Một mũi tên hạ hai con chim)
    4. Minh tri cố muội (Biết rõ mà làm như không biết)
    5. Du long chuyển phượng (Biến rồng thành phượng)
    6. Mỹ nhân kế (Kế dùng gái đẹp)
    7. Sấn hỏa đả kiếp (Theo lửa mà hành động)
    8. Vô trung sinh hữu (Không có mà làm thành có)
    9. Tiên phát chế nhân (Ra tay trước để chế phục đối phương)
    10. Đả thảo kinh xà (Đập cỏ làm cho rắn sợ)
    11. Tá đao sát nhân (Mượn đao để giết người)
    12. Di thể giá họa (Dùng vật gì để vu khống người ta)
    13. Khích tướng kế (Kế chọc giận tướng giặc)
    14. Man thiên quá hải (Lợi dụng sương mù để lẩn trốn)
    15. Ám độ trần sương (Đi con đường mà không ai nghĩ đến)
    16. Phản khách vi chủ (Đổi vị khách thành vị chủ)
    17. Kim thiền thoát xác (Ve sầu vàng lột xác)
    18. Không thành kế (Kế bỏ trống cửa thành)
    19. Cầm tặc cầm vương (Dẹp giặc phải bắt tướng giặc)
    20. Ban chư ngật hổ (Giả làm con heo để ăn thịt con hổ)
    21. Quá kiều trừu bản (Qua cầu rồi phá cầu)
    22. Liên hoàn kế (Kế móc nối nhau)
    23. Dĩ dật đãi lao (Lấy khỏe để đối phó với mệt)
    24. Chỉ tang mạ hòe (Chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe)
    25. Lạc tỉnh hạ thạch (Ném đá vào người dưới giếng)
    26. Hư trương thanh thế (Thổi phồng thanh thế)
    27. Phủ để trừu tân (Bớt lửa dưới nồi)
    28. Sát kê hách hầu (Giết gà cho khỉ sợ)
    29. Phản gián kế (Dùng kế của đối phương để quật lại)
    30. Lý đại đào cương (Đưa cây lý chết thay cây đào)
    31. Thuận thủ khiên dương (Thuận tay dắt con dê về)
    32. Dục cầm cố tung (Muốn bắt mà lại thả ra)
    33. Khổ nhục kế (Hành hạ thân xác mình để người ta tin)
    34. Phao bác dẫn ngọc (Ném hòn ngói để thu về hòn ngọc)
    35. Tá thi hoàn hồn (Mượn xác để hồn về)
    36. Tẩu kế (Chạy, lùi, thoát thân)




    Chuyện con chim ưng

    [​IMG]

    Một người lên đỉnh núi bắt được một chú chim ưng con vừa mới nở. Mang về nhà, chú chim ưng được nuôi chung với những con chim khác trong một chiếc lồng. Khi chú lớn lên, chú không hề biết mình là loài chim ưng. Trong khi đó, người chủ lại muốn huấn luyện chú trở thành một con chim ưng dũng mãnh biết đi săn mồi. Dùng hết mọi cách vẫn không được, chú vẫn không thể bay. Cuối cùng người chủ bèn mang chú trở lại đỉnh núi ngày xưa, ném chú xuống. Mấy lần đầu, chú rơi xuống như một hòn đá. Sau vài lần như thế, chú tìm cách tự cứu lấy mình và rồi chim ưng bất ngờ tung cánh. Chú đã biết bay.

    Bài học: Sự luyện tập là sức mạnh đưa chúng ta đến thành công.


    Chuyện 5 đồng xu

    [​IMG]

    Một cậu bé tên Aba sống trên thảo nguyên. Lần kia, cậu theo cha đi săn rồi lạc mất phương hướng. Hai cha con vất vả tìm đường trở về nhưng không được. Sau nhiều ngày, chân Aba mỏi nhừ, nhấc không nổi bước nên bật khóc. Cha Aba lấy 5 đồng xu, ném một đồng xuống đất, bảo: "Con người có 5 đồng xu, đó là thơ ấu, thiếu niên, thanh niên, trung niên và về già. Bây giờ con mới dùng hết một đồng xu đầu tiên của mình, không lẽ con cũng muốn dùng cả bốn đồng còn lại trên thảo nguyên này sao? Con phải dũng cảm lên để ra khỏi đây, vì con còn bốn đồng xu cho cuộc đời của mình".

    Được sự động viên của cha, Aba đứng lên đi tiếp, chẳng bao lâu sau tìm được lối về nhà. Sau này trưởng thành, cậu bé đã sử dụng đúng bốn đồng xu còn lại của mình, trở thành một thuyền trưởng giỏi.

    Bài học: Biết quý trọng cuộc sống thì mới vượt qua khó khăn.

    Chuyện hai đứa bé quét ánh sáng vào nhà

    [​IMG]

    Có hai anh em chừng bốn, năm. Do cửa sổ đóng kín nên sống trong căn nhà âm u. Nhìn thấy bên ngoài ánh sáng chan hòa, chúng thích lắm, bèn bảo nhau: "Anh em mình đi lấy ánh sáng ngoài đấy vào nhà đi!". Thế là chúng thay nhau dùng chổi quét ánh sáng vào nhà. Quét hoài, quét hoài mà ánh sáng vẫn không chịu vào. Người mẹ đang nấu ăn dưới bếp ngạc nhiên hỏi. Hai anh em thật thà trả lời. Người mẹ cười: "Nếu muốn có ánh sáng thì các con phải mở hết các cửa sổ ra".

    Bài học: Hãy mở hết những cánh cửa của trái tim thì ánh sáng thành công sẽ tràn vào.

    Chuyện con nhện sau cơn mưa


    [​IMG]

    Sau cơn mưa, bờ tường ẩm ướt. Con nhện không cách nào bò lên phía trên mạng nhện của nó. Cứ bò lên được một đoạn lại bị rớt xuống. Có ba người trông thấy.

    Người thứ nhất bèn thở dài: "Ôi, con nhện này giống y như đời tôi, không cách nào leo lên được!", rồi buồn rầu thương cho phận mình. Người thứ hai trông thấy liền cười: "Tại con nhện ngu ngốc thôi, không biết tìm chỗ khô ráo mà bò lên!", sau đó anh ta trở nên thông minh. Người thứ ba sau khi chứng kiến những thất bại của chú nhện đã ngộ ra nhiều điều, anh ta trở nên mạnh mẽ.

    Bài học: Phải có khát vọng thành công thì mới có sức mạnh để đạt được thành công.

    Chuyện Quan Âm quỳ lạy Quan Âm

    [​IMG]

    Một người đàn ông đang trú mưa dưới mái hiên, trông thấy Phật bà Quan Âm cầm dù đi ngang qua, bèn nói: "Quan Âm bồ tát, xin hãy phổ độ chúng sanh, giúp con đi một đoạn đường được không?". Quan Âm trả lời: "Người đang dưới mái hiên, ta đang đứng dưới mưa, người cũng cần ta độ sao?". Người đó liền chạy ra ngoài: "Bây giờ con đã đứng dưới mưa, xin Quan Âm phổ độ cho!". Quan Âm nói: "Chúng ta cùng đứng dưới mưa nhưng ta không bị ướt vì có chiếc dù. Còn người bị ướt vì không có chiếc dù, bởi vậy không phải ta độ cho mình mà là chiếc dù độ cho ta. Nếu người muốn không bị ướt thì không cần ta độ, hãy tự đi tìm một chiếc dù". Dứt lời, Quan Âm bước đi.

    Hôm khác, người đàn ông trú mưa hôm nọ gặp nhiều chuyện phiền bực, khó khăn nên vào miếu Quan Âm cầu nguyện. Anh ta thấy một người phụ nữ đang quỳ trước tượng Quan Âm, có hình dáng rất giống Quan Âm, tiến lại gần hỏi: "Xin hỏi có phải Quan Âm không?". Người phụ nữ trả lời: "Đúng, ta là Quan Âm". Người đàn ông kinh ngạc: "Ô, tại sao Quan Âm lại bái lạy Quan Âm?". Quan Âm cười đáp: "Ta cũng gặp những chuyện khó khăn nhưng ta hiểu, đi cầu sự giúp đỡ của người ta chi bằng tự mình giúp đỡ mình".

    Bài học: Phải biết tự mình cứu lấy mình.

    Chuyện hai chiếc giày


    [​IMG]

    Một ông cụ ngồi xe lửa, không may làm rơi mất một chiếc giày mới mua qua cửa sổ. Xe lửa đang chạy, không ai dừng lại để ông nhặt nó nên ông ném luôn chiếc giày còn lại. Nhiều người ngạc nhiên hỏi tại sao, ông cụ từ tốn trả lời: "Cho dù đôi giày có mắc đến đâu thì nếu chỉ còn một chiếc cũng không thể dùng. Thôi thì ta ném luôn chiếc thứ hai, để ai đó nhặt được chiếc kia còn cón thể tìm thấy chiếc này".

    Bài học: Người thành công phải biết hy sinh thì mới tìm thấy giá trị của sự thành công.

    Chuyện cô bé và hai cửa sổ

    [​IMG]

    Ngôi nhà có hai cửa sổ, mở ra hai hướng khác nhau. Cô bé trèo lên cửa sổ thứ nhất nhìn ra ngoài, thấy người ta đang chôn chú chó cưng của mình. Cô bé thương lắm, khóc lớn. Ông nội thấy vậy liền dụ bé đến cửa sổ thứ hai. Mở ra, trước mặt cô bé là một vườn hoa tràn ngập ánh nắng. Cô bé rạng rỡ hẳn, nụ cười nở lại trên môi.

    Bài học: Khi bạn mở cửa sổ bên cạnh cửa sổ thất bại, có thể bạn sẽ tìm thấy niềm hy vọng.

    Chuyện sự tử và linh dương dạy con chạy

    [​IMG]

    Mỗi ngày, khi mặt trời lên, trên thảo nguyên Phi châu rộng lớn, mọi con thú bắt đầu một ngày của mình. Sư tử mẹ dạy các con: "Các con yêu của mẹ! Các con phải tập chạy thật nhanh, thật nhanh. Nếu các con chạy chậm hơn lũ linh dương chậm chạp thì các con sẽ đói đấy, hiểu chưa?".

    Ở một nơi khác, linh dương mẹ dạy các con: "Các con yêu của mẹ! Các con phải tập chạy thật nhanh, thật nhanh. Nếu các con chạy chậm hơn lũ sư tử thì các con sẽ bị chúng ăn thịt đấy, hiểu chưa!?.

    Bài học: Bạn chạy nhanh, sẽ có người khác chạy nhanh hơn bạn.

     
    Chỉnh sửa cuối: 21/8/13
  12. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    VỀ KIẾM TIỀN: đừng bao giờ phụ thuộc vào một nguồn thu nhập duy nhất. Hãy đầu tư để tạo ra nguồn thứ hai.

    VỀ TIÊU TIỀN: nếu như bạn cứ mua những thứ bạn không cần thì sớm muộn gì bạn cũng phải bán những thứ mình cần.

    VỀ TIẾT KIỆM TIỀN: không nên tiết kiệm những khoản còn lại sau chi tiêu, mà hãy tiêu những khoản còn lại sau khi tiết kiệm.

    VỀ MẠO HIỂM: đừng bao giờ thử độ sâu của dòng sông bằng cả hai chân.

    VỀ ĐẦU TƯ: đừng bao giờ cho hết tất cả số trứng vào một rổ.

    VỀ SỰ KÌ VỌNG: Trung thực là một món quà vô cùng đắt giá và đừng mong chờ chúng từ những kẻ rẻ tiền
     
  13. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vân hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là đạo.

    Đạo trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật tự tới, bình thản vô tâm mà khéo mưu tính mọi việc. Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt.

    Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa, mưu trí xuất hiện rồi mới có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu thảo, nước nhà rối loạn rồi mới có tôi trung. Đạo ức chế vật cao, nâng đỡ vật thấp. Đạo trời lấy chỗ thừa mà đắp vào chỗ thiếu hụt. Đạo người thì lấy của người nghèo mà thêm cho người giàu, đây chính là nguồn gốc của sự hỗn loạn. Người khôn ngoan chỉ muốn một điều là không muốn gì cả.

    Trời có đạo mà xanh, đất có đạo mà yên, thần có đạo mà linh, biển nhờ có đạo mà đầy, vạn vật có đạo mà thành, đế vương có đạo mà được thiên hạ.

    Lời nói chân thật thì không hoa mỹ, lời nói hoa mỹ thì không chân thật. Người thiện thì không cần phải biện giải [vì hành vi tốt rồi], người nào phải biện giải cho mình là người "không thiện". Người biết thì không nói, người nói là người không biết.

    Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi chết thì cứng đơ. Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết đi thì lại khô cứng.

    Cho nên cứng mạnh là cùng loài với chết, mềm yếu là cùng loài với sống. Vì vậy binh mạnh thì không thắng, cây cứng thì bị chặt. Cứng mạnh thì phải ở dưới, mềm yếu lại được ở trên.

    Mạnh mẽ về dám làm [tức quả cảm, cương cường] thì chết, mạnh mẽ về không dám làm [tức thận trọng, nhu nhược] thì sống. Hai cái đó cùng là mạnh mẽ, mà một cái thì được lợi, một cái lại bị hại; ai mà biết được tại sao trời lại ghét cái đó [quả cảm, cương cường]?

    Người nào hứa một cách dễ dàng quá thì khó tin được, người nào cho việc gì cũng dễ làm thì sẽ gặp nhiều cái khó. Cho nên người hiểu đạo coi việc gì cũng khó mà rốt cuộc không gặp cái gì khó. Cái có từ cái không mà ra. Không có nghĩa là không có gì cả nhưng phải có cái gì thì mới có cái không có.

    Trong tự nhiên, ngay cả những việc khó khăn nhất cũng có thể thực hiện theo cách dễ dàng, việc lớn thành tựu từ những hành động nhỏ hơn. Người khôn ngoan đạt những thành tựu vĩ đại là nhờ biết chia nhỏ hành động của mình.

    Cái gì an định thì dễ nắm, giòn thì dễ vỡ, nhỏ thì dễ phân tán. Ngăn ngừa sự tình từ khi chưa manh nha, trị loạn từ khi chưa thành hình.

    Cây lớn một ôm, khởi sinh từ một cái mầm nhỏ; đài cao chín tầng khởi đầu từ một sọt đất, đi xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân.

    Người ta làm việc , thường gần tới lúc thành công thì lại thất bại, vì không cẩn thận như lúc ban đầu, dè sau như trước thì không hỏng việc.

    Người hiểu đạo trị thiên hạ theo chính sách vô vi, giữ thái độ điềm đạm. Xem cái nhỏ cũng như cái lớn, cái ít như nhiều, lấy đức báo oán. Giải quyết việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ khi còn nhỏ [vì việc khó trong thiên hạ khởi từ chỗ dễ, việc lớn khởi từ nhỏ]. Cho nên người đắc đạo trước sau không làm việc gì lớn mà thực hiện được việc lớn. Người đắc đạo làm việc mà không tư lợi.

    Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa, mưu trí xuất hiện rồi mới có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu từ, nước nhà rối loạn rồi mới có tôi trung.

    Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh nhân bất nhân, coi trăm họ như chó rơm [Luật thiên nhiên không có tình thương của con người, cứ thản nhiên, vô tâm với vạn vật, mùa xuân tươi tốt, mùa đông điêu tàn...].

    Khoảng giữa trời đất như cái ống hơi; hư không mà không kiệt, càng chuyển động hơi lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng, không bằng giữ sự hư tĩnh.

    Muốn cho vật gì thu rút lại thì tất hãy mở rộng nó ra đã. Muốn cho ai yếu đi thì tất hãy làm cho họ mạnh lên đã. Muốn phế bỏ ai thì tất hãy đề cử họ lên đã. Muốn cướp lấy vật gì thì tất hãy cho đã. Hiểu như vậy là sâu kín mà sáng suốt. Vì nhu nhược thắng được cương cường.

    Người đánh xe giỏi không xông bừa tới trước. Người chiến đấu giỏi không giận dữ, khéo thắng địch là không tranh với địch, khéo dùng người là hạ mình ở dưới người. Đó là cái đức của sự không tranh, đó là cái khéo của sự dùng người, đó là hợp với chỗ cùng cực của Đạo Trời.

    Ngũ sắc làm cho người ta mờ mắt; ngũ âm làm cho người ta ù tai; ngũ vị làm cho người ta tê lưỡi, ruỗi ngựa săn bắn làm cho lòng người ta mê muội, vàng bạc làm cho hành vi người ta đồi bại. Cho nên bậc đắc đạo cầu no bụng mà ko cầu vui mắt, bỏ cái xa xỉ, đa dục mà chọn cái chất phác, vô dục. Bậc đắc đạo bận áo vải thô mà ôm ngọc quý trong lòng.

    Trời đất trường cửu. Sở dĩ trời đất trường cửu được là vì không sống riêng cho mình, nên mới trường sinh được.

    Vì vậy thánh nhân [người đắc đạo] đặt thân mình ở sau mà thân lại được ở trước, đặt thân mình ra ngoài mà thân mới còn được. Như vậy chẳng phải vì thánh nhân không tự tư mà thành được việc riêng của mình ư?

    Người cực khéo thì dường như vụng. Người nói giỏi thì dường như ấp úng. Cử động thì thắng được lạnh. Nhưng yên tĩnh thì thắng được nóng. Vậy cứ thanh tĩnh thì mọi vật sẽ đâu vào đấy.

    Người quân tử gặp thời thì mặc áo gấm mà ngồi xe ngựa, không gặp thời thì mặc áo vải thô mà đi chân đất. Người tốt thật sự không ý thức được tính thiện trong việc làm của mình, trái lại kẻ dại dột (the foolish) luôn cố gắng tỏ ra là mình tốt.

    Không trọng người hiền để dân không tranh, không quý của hiếm để dân không trộm cắp, không phô bày cái gì gợi ham muốn, để lòng dân không loạn.

    Chính trị của thánh nhân là làm cho dân lòng thì hư tĩnh, bụng thì no, không ham muốn, không tranh giành, xương cốt thì mạnh.

    Khiến cho dân không biết, không muốn mà bọn mưu trí thì không dám hành động. Theo chính sách vô vi thì mọi việc đều yên ổn.

    Không học thì không phải lo. Càng theo học thì mỗi ngày dục vọng, "hữu vi" càng tăng, theo đạo thì mỗi ngày dục vọng càng giảm, vô vi càng tăng.

    Ta có ba vật báu mà ta ôm giữ cẩn thận, một là lòng nhân ái, hai là tính tiết kiệm, ba là không dám đứng trước thiên hạ. Vì nhân ái mà sinh ra dũng cảm, vì tiết kiệm mà sinh ra sung túc, rộng rãi, vì không dám đứng trước thiên hạ mà làm chủ được thiên hạ.

    Nếu không nhân ái mà mong được dũng cảm, không tiết kiệm mà mong được rộng rãi, không chịu đứng sau mà tranh đứng trước người thì tất hỏng việc. Trời muốn cứu ai thì cho người đó lòng nhân ái để tự bảo vệ, lấy lòng nhân ái mà giúp người đó.

    Người sáng suốt nghe đạo thì gắng sức mà thi hành, người bình thường nghe đạo thì nửa tin nửa ngờ, người tăm tối nghe đạo thì cười rộ. Nếu không cười thì đạo đâu còn là đạo nữa?

    Nước là vật cực mềm mà lại thắng được vật cực cứng là đá [nước chảy đá mòn]. Nước là vật cực kì mềm mại, nó luôn tìm chỗ thấp mà tới [khiêm nhường], ngày đêm chảy không ngừng, bốc lên thì thành mưa, chảy xuống thì thành sông rạch, thấm vào lòng đất để nuôi vạn vật. Tự nó không ngừng biến đổi, lại sinh ra mọi loài. Nó không tranh với ai, lựa chỗ thấp mà tới, gặp cái gì cản thì nó uốn khúc mà tránh đi, cho nên đâu nó cũng tới được. Đạo cũng ví như nước vậy.

    Yếu thắng được mạnh, mềm thắng được cứng, ai cũng biết như vậy nhưng không ai thực hành được.

    Vật gì bén nhọn thì dễ gẫy. Ráng giữ cho chậu đầy hoài, chẳng bằng thôi đi; con dao cố mài cho bén nhọn thì lại không bén lâu.

    Nghèo hèn chính là gốc của giàu sang. Vàng ngọc đầy nhà [kim ngọc mãn đường], sao mà giữ nổi ? Nên biết khi nào là đủ [tri túc]. Giàu mà kiêu căng, khoe khoang là tự rước họa vào thân.

    Ba mươi nan hoa cùng qui vào 1 cái bánh, nhưng chính nhờ khoảng trống không trong cái bánh mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nhờ cái khoảng trống không ở trong mà chén bát mới dùng được. Đục cửa, cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà nhà mới dùng được. Vậy ta tưởng cái "có" [bánh, chén bát, nhà] có lợi cho ta mà thực ra cái "không" mới làm cho cái "có" hữu ích.

    Người đời được vinh hay bị nhục thì lòng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì sinh ra rối loạn. Tại sao vinh, nhục thì lại sinh ra rối loạn ? Là vì vinh thì được tôn, nhục thì bị hèn; được thì lòng rối loạn [mừng rỡ mà!]; mất thì lòng rối loạn [rầu rĩ mà!]; cho nên mới bảo là vinh, nhục sinh ra rối loạn. Vậy phải làm sao ? Chúng ta sỡ dĩ sợ vạ lớn là vì chúng ta có cái thân. Nếu chúng ta quên cái thân mình đi, thì còn sợ gì lòng sinh ra rối loạn nữa? Cho nên kẻ nào coi trọng sự hy sinh thân mình cho thiên hạ, thì có thể tin cậy vào kẻ đó được.

    Người nào giữ được đạo thì không tự mãn, không cố chấp, cũng không tự ái. Vì vậy nên mới có thể bỏ cái qua cái cũ mà chấp nhận cái mới được. Khi xem xét sự vật, không được quên mặt đối lập của nó. Nghĩ đến cái hữu hạn thì đừng quên cái vô hạn.

    Ai có thể đang đục mà lắng xuống để từ từ trong ra ? Ai có thể đang hư tĩnh mà phát động để lần lần sinh động lên ? Người nào giữ được đạo ấy thì không tự mãn, không cố chấp, cũng không tự ái. Vì vậy nên mới có thể bỏ cái qua cái cũ mà chấp nhận cái mới được.

    Kẻ đứng 1 chân thì không thể đứng được lâu, kẻ dang chân ra thì không thể đi được, kẻ tự biểu hiện mình thì không bao giờ chói lọi, kẻ tự kể công thì không có công, kẻ tự phụ thì chẳng khuyên bảo được ai, kẻ vẽ rắn thêm chân thì không trường cửu. Thái độ đó được ví như đồ ăn thừa, những ung nhọt ai ai cũng ghét. Thiên bất dung gian.

    Ai cũng cho cái đẹp là đẹp do đó mà phát sinh ra quan niệm cái xấu; ai cũng cho cái thiện là thiện do đó mà phát sinh ra quan niệm về cái ác. Tại sao con người thích cái đẹp mà lại không thích cái xấu ? Là vì "có" và "không" sinh ra lẫn nhau, "dễ" và "khó" tạo nên lẫn nhau, cao thấp dựa vào nhau mà tồn tại ...

    Kẻ biết người là người khôn, kẻ tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được mình là kiên cường. Kẻ biết thế nào là đủ là người giàu; kẻ gắng sức là người có chí. Kẻ nào ko rời bỏ những điều trên thì sẽ được lâu dài, chết mà không mất là trường thọ. Người hiểu đạo làm việc tuân theo quy luật tự nhiên, chỉ làm những việc cần thiết cho bản thân.

    Hồn nhiên, vô tư, vô dục như đứa trẻ mới sanh là có đức dày, ai cũng yêu quý, muốn đạt như vậy không phải là dễ. Đứa trẻ mới sinh độc trùng ko chích, mãnh thú không ăn thịt, ác điểu ko vồ. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt, suốt ngày gào hét mà giọng ko khản, như vậy là khí cực hòa.

    Dứt thánh hiền, bỏ mưu trí dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ; dứt trí khôn bỏ lợi lộc, không có trộm giặc.

    Ba cái đó( mưu trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì là cái văn vẻ bề ngoài không đủ để trị dân nên phải bỏ; khiến cho dân quy về điều này: ngoài thì mộc mạc, trong thì giữ sự đơn giản, giảm tư tâm bớt dục vọng mới là tích cực.

    Dạ (giọng kính trọng) khác với ơi (giọng xem thường) bao nhiêu? Thiện với ác khác nhau như thế nào? Cái mọi người sợ ta không thể không không sợ. Vũ trụ rộng lớn thay, không thể nào hiểu hết được.

    Mọi người hớn hở như dự bữa tiệc lớn, như mùa xuân dạo chơi; bậc đắc đạo điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ chưa biết gì, thản nhiên mà đi như không có nơi để về. Mọi người có thừa, riêng bậc đắc đạo như thiếu thốn, trong lòng thì trống rỗng! Mọi người đều có chỗ để dùng, riêng bậc đắc đạo luôn bảo thủ. Người hiểu đạo khác người mà quý mẹ của muôn loài (tức đạo).

    Vạn vật tuần hoàn, âm cực dương sinh, lúc sinh lúc tử, trăng tròn trăng khuyết. Vạn vật biến đổi rồi trở lại cái bản thể của nó( trở về với đạo). Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo ra vạn vật. Chúng ta do đâu biết được bản chất vạn vật ? Đó là do đạo.

    Người xưa nói: “Khiêm tốn là gốc của cao quý”. Người khôn ngoan giữ lấy đạo làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải nên mới chói lọi, không tự kể công nên mới là có công, không tự phụ cho nên mới hơn người. Chỉ vì không tranh với ai nên không ai tranh với mình được.
    Người xưa bảo: "Cong (chịu khuất phục) thì sẽ được bảo toàn", đâu phải hư ngôn! Nên chân thành giữ vẹn cái đạo mà về với nó. Trong trời đất có bốn cái vĩ đại là Đạo, tự nhiên, trời đất và con người. Luật con người nên bắt chước tự nhiên, luật tự nhiên bắt chước luật của trời đất, luật trời đất bắt chước Đạo.
    Ít nói thì hợp với đạo. Cho nên gió lốc không thể thổi suốt buổi sáng, mưa rào không suốt ngày. Ai làm nên những cái ấy? Chính là do trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống hồ là con người? Người hiểu đạo biết rằng không ai có thể đoán trước những gì tương lai nắm giữ.

    Vũ khí là vật gây lo sợ, ai cũng ghét cho nên người hiểu đạo không dùng binh khí. Chỉ dùng đến nó khi bất đắc dĩ, khi bảo vệ hòa bình, mà dùng đến thì điềm đạm là hơn cả. Chiến thắng mà vui mừng tức là thích giết người. Thích giết người thì không trị được thiên hạ. Chỗ nào đóng quân thì gai góc mọc đầy. Sau cuộc chinh chiến tất có mất mùa.

    Việc lành thì trọng bên trái, việc dữ thì trọng bên phải. Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng thương tiếc mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử. Thắng mà không bức người, vì vật mạnh thì có lúc suy. Nếu không như vậy thì là trái Đạo. Trái Đạo thì sớm bị tiêu diệt. Trị nước phải được tiến hành cẩn thận, giống như việc nấu cá nhỏ. Người khôn ngoan làm việc mà không bao giờ xảo trá, tư lợi.

    -------
    Lão Tử tức là một nhà tư tưởng vĩ đại của Trung Hoa cổ đại, là người sáng lập trường phái Đạo gia( đạo Lão). Ông tên thật là Lý Nhĩ, tên thường gọi là lão Đam, người làng Khúc Nhân, hương Lệ, nước Sở. Ông làm chức quan giữ sách nhà Chu, học rộng biết nhiều, sau về quê ở ẩn. Tương truyền, trước khi về ở ẩn đến cửa quan Hàm Cốc, viên quan coi cửa là Doãn Hỉ bảo:"Ông sắp đi ở ẩn, rán vì tôi mà viết sách để lại". Thế là Lão Tử viết một cuốn sách chỉ gồm khoảng năm ngàn chữ bàn về "Đạo" và "Đức"( tức Đạo Đức Kinh). Viết xong rồi bỏ đi, về sau không ai còn nghe đến, không biết sống chết ra sao.

    Đạo Đức Kinh gồm có 81 chương với khoảng 5000 chữ Hán, chia làm 2 phần: Thượng Kinh và Hạ Kinh.


    • Thượng Kinh gồm 37 chương, bắt đầu bằng câu: "Đạo khả Đạo phi thường Đạo". Thượng Kinh luận về chữ Đạo nên được gọi là Đạo Kinh.
    • Hạ Kinh gồm 44 chương, bắt đầu bằng câu: "Thượng Đức bất Đức thị dĩ hữu Đức". Hạ Kinh luận về chữ Đức nên được gọi là Đức Kinh.

    Tương truyền, Khổng Tử qua Chu thăm Lão Tử. Lão Tử cởi trâu ra tận đầu làng đón Khổng Tử. Hai người đàm đạo với nhau trong ba ngày về Đạo. Đến khi chia tay, Lão Tử bảo với Khổng Tử rằng:

    "Những người ông nói đó, thịt xương đều nát cả rồi, chỉ còn lại lời của họ mà thôi. Tôi nghe nói người giàu sang tiễn nhau bằng vàng bạc, người nhân tiễn nhau bằng lời nói. Tôi không phải là người giàu sang, tạm coi mình là người nhân mà tiễn ông bằng lời này: Người buôn giỏi thì giấu kĩ vật quý, xem ngoài như không có gì; người đức cao thì tướng mạo như ngu độn. Ông nên bỏ cái khí kiêu căng, cái lòng đa dục, cái vẻ hăm hở cùng cái chí quá hăng của ông đi, những cái đó không có ích gì cho ông đâu. Tôi chỉ khuyên ông có bấy nhiêu thôi"

    Khổng Tử về đến nhà suốt ba ngày không ra khỏi cửa, bảo với môn sinh rằng:

    "Loài chim, ta biết nó bay được; loài cá ta biết nó bơi được; loài thú ta biết nó chạy được. Chạy thì ta dùng lưới để bẫy, bơi thì dùng câu để bắt, bay thì dùng tên để bắn. Còn loài rồng cưỡi gió cưỡi mây mà bay lên trời thì ta không sao biết được. Nay ta gặp ông Lão Tử; ông là con rồng chăng ?"
    Triết học Lão tử nêu bật cái lý tưởng cao thượng nhất về hòa bình, khoan dung, giản dị và tri túc. Giáo huấn của ông gồm bốn điểm: trí tuệ nên như ngu độn, đời sống nên ẩn dật, xử thế nên nhu nhược và tánh tình nên giản phác.

    Đến đời Tần-Hán, các đạo sĩ thuộc phái Đạo gia thờ Lão Tử nhưng không còn quan tâm nghiên cứu triết học Lão-Trang mà chỉ toàn lo bàn chuyện tu tiên, luyện thuốc trường sinh bất tử. Phái Đạo gia suy dần, tuy nhiên những tư tưởng của Lão Tử thì đã trở nên bất tử với thời gian. Theo các nhà nghiên cứu, tư tưởng của Lão Tử không chỉ là một triết học nhân sinh mà còn là vũ trụ quan tiên báo khoa học hiện đại.

    ( sưu tầm)


    Nguyên Văn Hán Tự

    大 成 若 缺 , 其 用 不 弊 ; 大 盈 若 沖 , 其 用 不 窮 ; 大 直 若 屈 , 大 巧 若 拙 , 大 辯 若 訥 .

    靜 勝 躁 , 寒 勝 熱 , 清 靜 爲 天 下 正 .


    Dịch Hán Việt

    Đại thành nhược khuyết, kì dụng bất tệ; đại doanh nhược xung, kì dụng bất cùng; đại trực nhược khuất, đại xảo nhược chuyết, đại biện nhược nột.

    Tĩnh thắng táo, hàn thắng nhiệt, thanh tĩnh vi thiên hạ chính.

    Dịch nghĩa

    Cái gì hoàn toàn thì dường như khiếm khuyết mà công dụng lại không bao giờ hết; cái gì cực đầy thì dường như hư không mà công dụng lại vô cùng; cực thẳng thì dường như cong, cực khéo thì dường như vụng, ăn nói cực khéo thì dường như ấp úng.

    Tĩnh thắng động, lạnh thắng nóng, thanh tĩnh (Vô vi) là chuẩn tắc trong thiên hạ.

     
    Chỉnh sửa cuối: 28/7/13
    cantiennuoivo and hoangthuyduong like this.
  14. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    Nguyên Văn Hán Tự

    爲 學 日 益 , 爲 道 日 損 .

    損 之 又 損 , 以 至 於 無 爲 .

    無 爲 而 無 不 爲 .

    取 天 下 常 以 無 事 , 及 其 有 事 , 不 足 以 取 天 下 .

    Dịch Hán Việt

    Vi học nhật ích, vi đạo nhật tổn.

    Tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi.

    Vô vi nhi vô bất vi.

    Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự, cập kì hữu sự, bất túc dĩ thủ thiên hạ.

    Dịch nghĩa

    Theo học (hiểu theo nghĩa thường)) thì mỗi ngày (dục vọng và tinh thần hữu vi) một tăng; theo đạo thì mỗi ngày (dục vọng và tinh thần hữu vi) một giảm.

    Giảm rồi lại giảm cho tới mức vô vi, không làm.

    Không làm mà không gì là không làm.

    Trị thiên hạ thì nên vô vi, còn như hữu vi thì không trị được thiên hạ.
     
    cantiennuoivo thích bài này.
  15. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
     
  16. [​IMG]

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]

    1. Lười biếng

    Có sự khác biệt lớn giữa người cần nghỉ ngơi với kẻ lười biếng. Bạn luôn yên vị với một công việc nhàn hạ rồi mong muốn có được mức lương cao ngất. Trong khi thực tế, những đồng nghiệp mà bạn cho rằng giàu có hơn mình luôn tận dụng thời gian để làm việc, kiếm thêm thu nhập. Có khi bạn thấy họ nghỉ ngơi, nhưng đó là lúc họ chuẩn bị cho kế hoạch đầy bận rộn sắp tới.

    Vì vậy, muốn giàu có, hãy kiếm công việc bận rộn hơn, có nhiều cơ hội tăng lương hơn. Đừng mong sự giàu sang sẽ đến khi bạn chỉ thích nằm trong “chăn ấm nệm êm”.

    2. Thiếu kiên nhẫn

    Bạn nghe theo lời khuyên của đồng nghiệp, lập ra kế hoạch kiếm tiền khả thi, nhưng thực hiện chưa xong bước đầu tiên, bạn đã nản chí và muốn chuyển sang hướng khác. Trong khi đồng nghiệp của bạn luôn quyết chí với dự án kiếm tiền đã đề ra.

    Lời khuyên cho bạn là hãy kết thân và học tính kiên nhẫn của những đồng nghiệp mà bạn cho rằng họ hội đủ những tố chất có thể… làm giàu


    3. Nhát gan

    Không phải ngẫu nhiên mà mọi người thường nói: “Có gan làm giàu”. Nhưng khi đồng nghiệp rủ bạn hùn vốn làm ăn, bạn lại lo sợ nguy cơ khiến bạn có thể trắng tay. Vậy là bạn chọn cách cất tiền vào ngân hàng. Thực sự đó là cách bạn đang vứt tiền đi, đặc biệt là khi lạm phát lớn. Bạn đang từ chối cơ hội giúp mình quay vòng tiền nhanh hơn.

    Việc làm nào cũng cần dự tính rủi ro. Khi dấn thân, thường tất cả mọi người ít nhiều đều phải trả chi phí cho những sai lầm mình có thể mắc phải. Cũng nhờ thế mà bạn nâng cao được chất lượng công việc. Nếu không dám dấn thân thì làm sao bạn biết mình có đi đúng hướng không?

    4. Đua đòi

    Bạn đua đòi với các thói quen tiêu xài của đồng nghiệp. Bạn mua sắm tất cả những món đồ không cần thiết chỉ để cho bằng họ! Sự thật là bạn đang hao phí của cải chỉ vì những lý do không đâu. Và nếu cứ hoang phí như thế, khi cần vốn liếng, bạn sẽ tìm ở đâu? Bạn có biết rằng tích lũy của cải cũng là một cách để làm giàu không?

    5. An phận

    Nhiều người nói rằng không quan tâm về tiền bạc, và ưu tiên cho những điều họ nghĩ rằng quan trọng hơn. Những người đó đã bỏ đi cơ hội làm giàu cho chính mình.

    Duy trì sự cân bằng trong cuộc sống là cần thiết, nhưng chắc chắn không đồng nghĩa với an phận. Bạn có thể vừa làm công việc mình yêu thích, vừa kiếm tiền và sắp xếp thời gian cho gia đình.

    Nếu xưa nay bạn an phận với công việc nhàn hạ nơi công sở, ngay bây giờ hãy thêm nhiều mục tiêu lớn hơn cho quá trình kiếm tiền của bạn. Khi đặt ra những mục tiêu lớn lao như vậy, bạn sẽ nhìn vào con số chi phí dự toán và không thể tin nổi số tiền cần đầu tư quá lớn. Tuy nhiên, “phát hiện” này cũng giúp bạn nhận ra rằng, công việc bàn giấy không thể giúp bạn giàu. Đến lúc bạn cần có những bước phát triển mới, những dòng thu nhập mới, và hãy quên đi những suy nghĩ an phận của mình.

    6. “Gà mờ”

    Bạn muốn làm giàu, bạn lăn xả vào những nơi nghe nói có “mùi tiền”, nhưng bạn lại “gà mờ” trong công cuộc kiếm tiền. Hãy nhớ tiền bạc không tự dưng và không dễ dàng rơi vào tay những người thiếu bản lĩnh, không tài năng hay không thực sự “biết mình biết người”.

    Nếu muốn đầu tư vào lĩnh vực nào đó, hãy hỏi thăm kinh nghiệm và sự hiểu biết của đồng nghiệp, bạn bè, người thân. Kiếm tiền theo kiểu “té nước theo mưa” chỉ chứng tỏ bạn không biết gì trong việc quản lý dòng tiền. Nó chẳng khác mấy so với việc bạn mua vé số và suốt ngày lẩm bẩm cầu may.


    Niệm Phật để làm gì?
    ******************
    1. Niệm Phật để tâm hồn thanh thản.

    2. Niệm Phật để an trụ tâm. Đang nóng nảy, niệm Phật lòng dịu hẳn xuống. Đang thù hận, niệm Phật hận thù hóa giải. Đang tham lam, niệm Phật bớt tham…

    3. Niệm Phật để không cho niệm ác nảy sinh. Nếu niệm ác đã nảy sinh thì không cho nó phát triển.

    4. Niệm Phật để giữ gìn thân-khẩu-ý.

    5. Niệm Phật là phương thuật giữ gìn Chánh niệm.

    6. Niệm Phật tới vô niệm chính là Thiền.

    7. Niệm Phật để nuôi dưỡng lòng Từ bi.

    8. Niệm Phật để trở thành Phật chứ không phải trở thành nô lệ hay tôi tớ cho Phật.

    9. Niệm Phật cũng là phép trị liệu, bảo vệ sức khỏe.

    10. Niệm Phật để giải trừ bớt ác nghiệp gây tạo trong quá khứ.

    11. Niệm Phật để lúc lâm chung chẳng còn lo sợ, chẳng cần phải nhờ ai cứu rỗi, một mình thẳng tiến lên Cực lạc của Phật A Di Đà.

    12. Càng niệm Phật đầu óc càng sáng suốt, lòng dạ thảo ngay, tâm tính hiền từ.

    13. Kẻ ác khẩu, nói năng hung dữ chuyên niệm Phật sẽ giải trừ được khẩu nghiệp.

    14. Niệm Phật khiến lời nói dịu dàng, khiếm tốn do đó không gây thù chuốc oán, không bị "vạ miệng".

    15. Mặt mày hung dữ, niệm Phật trở nên hiền từ, dễ coi. Niệm Phật để chuyển nghiệp.

    16. Niệm Phật khiến đi đứng dịu dàng, cử chỉ khoan thai.

    17. Niệm Phật có thể ngăn chặn được cám dỗ điên cuồng.

    18. Chán nản, thất vọng não nề, cùng đường không lối thoát muốn tự tử chết cho rồi, niệm Phật khiến tâm địa bình ổn từ đó mà tìm ra giải đáp hợp lý.

    19. Lâm vào vòng lao lý, tù tội, mỗi tối nên ngồi ở tư thế "bán già", xoay mặt vào tường niệm Phật khoảng nửa tiếng đồng hồ, sẽ thấy tâm hồn thanh thản, thời gian ở tù qua nhanh, không phạm thêm tội lỗi, may mắn ân xá, giảm án sẽ tới. Nhờ niệm Phật mà sau khi ở tù ra lấy lại tự tin để xây dựng cuộc đời mới.

    20. Niệm Phật khiến ta bình tĩnh, không lao vào chuyện thị phi, khiến sau này hối không kịp.
     
  17. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    Ác khẩu, mãi mãi đừng để nó thốt ra từ miệng chúng ta, cho dù người ta có xấu bao nhiêu, có ác bao nhiêu. Bạn càng nguyền rủa họ, tâm bạn càng bị nhiễm ô, bạn hãy nghĩ, họ chính là thiện tri thức của bạn.


    Trích: 66 Câu Phật Học Cho Cuộc Sống


    [​IMG]
     
  18. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member



    [​IMG]

    Cách ngôn của người xưa

    Đức Khổng Tử khuyên : Điều gì không muốn xảy đến với mình thì đừng làm cho người khác

    Trình Di tiên sinh nói : Bụng người quân tử muốn cho người ta cũng hay như mình,bụng kẻ tiểu nhân thì chỉ muốn người ta dở hơn mình

    Ngài Dục Tử nói : Biết hay mà không tin gọi là dại,biết dở mà không chừa gọi là mê

    Chu Trang Công nói : Ẩn ác dương thiện là bậc thánh,thích thiện ghét ác là bậc hiền ,tách bạch thiện ác quá đáng là hạng người tầm thường,đảo lộn thiện ác để sướng miệng gièm pha là hạng tiểu nhân hiểm ác

    Hứa Hành tiên sinh thì nói : Kẻ biết trách mình,có thể làm được điều hay cho người;kẻ chỉ hay đi trách người,thật là thêm cái dở cho mình

    Cổ Ngôn có câu : Làm thiện như cỏ vườn xuân,không thấy lớn mà ngày càng lan ra.Làm ác như đá mài dao,không thấy mòn mà ngày càng hao mãi

    Thầy Trang Tử nói : Kẻ trước mặt người hay nịnh hót thì khi vắng mặt người tất hay chê bai

    Thư Kinh có câu : Làm điều thành thật thì bụng yên ổn và ngày một hay.Làm điều gian dối thì bụng băn khoăn và ngày một dở

    Thân Hàm Quang nói : Người quân tử ta nên thân song không nên quá chiều.Kẻ tiểu nhân ta nên tránh song không nên ruồng rẫy như kẻ thù

    Tăng Quốc Phiên đời nhà Thanh nói : Muốn bỏ thói lười trước hết đừng sáng dậy trưa,muốn bỏ thói kiêu trước hết đừng xem thường thiên hạ

    Thầy Mạnh Tử nói : Tự mình khinh mình trước,người ngoài mới khinh mình sau

    Tuân Sinh Tiêu nói : Đem thói khinh bạc đối đãi với người quân tử thời tự mình làm cho mình thất đức.Đem thói khinh bạc đối đãi với kẻ tiểu nhân thời tự mình hại mình

    Văn Trung Tử nói : Nghe lời chê bai mà tin là làm ngòi cho người ta gièm pha,nghe lời khen ngợi mà mừng là làm mồi cho người ta nịnh hót
     
  19. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Dân trí) - Từng có trong tay hơn 1,8 triệu bảng Anh, tương đương gần 60 tỷ đồng, nhưng đến nay, Roger Griffiths đã đánh mất cả gia đình lẫn tiền bạc. Giờ anh cảm thấy trúng số không khác nào một ly rượu độc với cuộc đời mình.

    Đã có thời điểm, chỉ cần mỗi sáng thức dậy Roger có thêm tới 340 bảng Anh tiền lãi (tương đương hơn 10 triệu đồng) trong tài khoản. Vậy nhưng một loạt quyết định chi tiêu không đúng đắn đã khiến khối tài sản của anh không cánh mà bay.

    [​IMG]
    Vợ chồng Roger Griffiths từng sung sướng khi trúng độc đắc

    Chia sẻ với tờ Sun của Anh, ông bố 42 tuổi với 2 con này chua chát thừa nhận trúng độc đắc không khác nào “một ly rượu độc” sau khi nó khiến gia đình anh tan vỡ và cả ngôi nhà cũng không giữ được.

    Tất cả bắt đầu từ năm 2005. Khi đó Roger đang là một nhân viên IT và đã trúng độc đắc hơn 1,8 triệu bảng Anh. Ngay lập tức anh và vợ từ bỏ công việc và bắt đầu cuộc sống xa hoa từ khoản tiền “trên trời rơi xuống”.

    Họ mua một căn nhà mới có giá tới 670.000 bảng Anh, chi 20.000 bảng/năm tiền học phí cho con học trường “xịn” và không ngần ngại đi du lịch tới những nơi nổi tiếng đắt đỏ như Florida, Mỹ hay Dubai ở UAE.

    Sẵn tiền, Griffiths còn chi tới 25.000 bảng Anh để ghi âm một đĩa nhạc với ban nhạc cũ mình từng tham gia ở trường đại học. Nhưng rút cuộc họ chỉ bán được 600 đĩa.

    [​IMG]
    Griffiths “nướng” tiền vào nhà hạng sang và ô tô đắt tiền

    Tất cả bắt đầu lao dốc khi cặp vợ chồng trẻ đem 200.000 bảng Anh đầu tư vào một tiệm chăm sóc sắc đẹp ở Boston Spa, West Yorkshire. Khi ấy họ hy vọng rằng doanh thu từ kinh doanh sẽ giúp họ tiếp tục cuộc sống vương giả. Thế nhưng cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra đã phá tan mọi dự định.

    Mỗi tháng cửa tiệm thua lỗ tới 4000 bảng Anh. Nhưng do Griffiths đã thế chấp nhà để vay tiền, họ cho rằng cần phải cố gắng duy trì cửa tiệm.

    Đến năm 2010, một vụ hỏa hoạn đã thiêu rụi ngôi nhà của hai vợ chồng và là giọt nước tràn ly khiến cuộc hôn nhân kéo dài 14 năm tan vỡ. Roger chuyển tới sống ở một ngôi nhà từng được mua với dự định để đầu cơ và còn phải bán đi hầu hết các tài sản để trả nợ.

    “Tôi từng có tất cả nhưng giờ đã mất hết”, Roger chia sẻ với tờ Sun. “Thậm chí tôi còn đang phải vay tiền bố mẹ, tình hình tệ đến vậy đấy. Tôi cảm thấy xấu hổ khi nói ra điều này nhưng đúng là tôi không đủ khôn ngoan. Tôi đã nghĩ rằng mình là người thông minh, có bằng cấp, được giáo dục và khá hoạt bát. Tôi nghĩ có thể khiến mọi việc theo ý mình và rồi thất bại ”.

    [​IMG]
    Griffiths giờ đây đang phải đi làm để trả nợ và hối hận vì trúng độc đắc

    Giờ đây anh lại phải quay trở lại làm việc với tư cách một nhân viên tư vấn tuyển dụng tự do, nhưng hầu hết thu nhập đều phải dành để trang trải cho những món nợ một thời vung tay quá trán. “Tôi thích là người giàu có”, anh nói tiếp. “Đã có lúc tôi không thèm nhìn vào bảng giá và điều đó thật là điên rồ, ngu ngốc – nhưng tôi thích vậy”.
    Những trường hợp như Griffiths tại Anh không phải là hiếm. Năm 2002, Michael Carroll, người từng tự phong mình là “Vua của Chavs” từng trúng độc đắc tới 9,7 triệu bảng Anh khi mới 19 tuổi. Thế nhưng sau đó “ông vua” này đã bị tuyên bố phá sản và phải quay sang xin trợ cấp xã hội do nướng hết tiền vào ma túy và gái điếm.

    Tương tự, Callie Rogers năm nay 26 tuổi từng trúng độc đắc 1,9 triệu bảng Anh năm 2003 khi mới 16 tuổi. Cô đã “ném” tới 250.000 bảng Anh vào cocaine và giờ phải sống trong căn nhà đi thuê ở Workington, Cumbria.
     
    cantiennuoivo and hoangthuyduong like this.