Góc Nhỏ •°*”˜ƹӝʒ˜”*°• Tài * Sắc * Một * Thời •°*”˜ƹӝʒ˜”*°•

Thảo luận trong 'Box Thơ & Nhạc - Ảnh & Clip' bắt đầu bởi hugolina, 27/1/13.

  1. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    Năm tháng lưu vong cuối đời của Nam Phương Hoàng hậu tại Pháp – Cô đơn giữa những lâu đài

    [​IMG]

    Hoàng hậu Nam Phương là hoàng hậu cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam, là một giai nhân nổi tiếng trong lịch sử. Hầu hết những người Việt Nam đều biết đến tên tuổi cũng như dung nhan của bà, nhưng có thể ít người biết tường tận về cuộc đời và, đặc biệt là những năm cuối đời.

    Bài viết này xin nhắc về những năm tháng lưu vong xa quê hương của một bậc mẫu nghi thiên hạ.

    [​IMG]

    Nam Phương hoàng hậu tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan, được sinh ra trong một gia đình quyền quý bậc nhất hồi đầu thế kỷ 20, có ông ngoại là ông Huyện Sỹ – Lê Phát Đạt, cha là quận công Nguyễn Hữu Hào. Tiền tài, danh vọng, sắc đẹp là những thứ bà đều có, nhưng đó là những cái sẽ thoáng qua mau, cho đến nay người ta vẫn nhớ về Nam Phương hoàng hậu với vẻ đẹp đoan chính và đức hạnh được nhiều người kính phục.

    [​IMG]

    Danh hiệu Nam Phương của hoàng hậu được vua Bảo Đại ban cho, với ý nghĩa là hương thơm của miền Nam. Tuy nhiên sau này, cựu hoàng viết trong hồi ký như sau:

    “Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương, do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng”.

    [​IMG]

    Nam Phương Hoàng Hậu xuất thân trong gia đình giàu có bậc nhất nhất miền Nam thế kỷ 20, rồi trở thành hoàng hậu An Nam. Đến khi phải rời quê hương để lưu vong nơi đất khách, bà vẫn có cuộc sống sung túc với những khối tài sản đồ sộ mà gia đình để lại, có nhiều bất động sản trên khắp nước Pháp lẫn các đồn điền ở vùng khác, các lãnh địa – lâu đài lớn ở Cannes, Limousin, Paris…

    Sở hữu nhiều lâu đài, đồn điền như vậy, nhưng rốt cuộc Nam Phương hoàng hậu phải sống những những năm tháng cô đơn vò võ lúc cuối đời vì mang phận là vợ của một vị vua nổi tiếng phong lưu.

    [​IMG]

    Năm 1934, sau nhiều lần gặp gỡ, tìm hiểu, vua Bảo Đại quyết định hỏi cưới cô Nguyễn Hữu Thị Lan bởi mến mộ vì tài sắc hơn người của người con gái miền Nam.

    Bất chấp sự cách biệt về tôn giáo (Nhà vua theo Phật Giáo, còn Thị Lan theo Công giáo), cùng với sự cản ngăn gay gắt của đức Từ Cung thái hậu, hai người vẫn đến với nhau.

    [​IMG]

    Đám cưới cử hành ngày 20/3/1934 tại Điện Dưỡng Tâm (Tử Cấm Thành – Huế). Khi đó vua Bảo Đại 21 tuổi, còn hoàng hậu tròn 20. Cuộc hôn nhân của vị vua cuối cùng triều Nguyễn đi kèm với những thỏa thuận trước đó chưa từng có:

    • Thứ nhất là giải tán tam cung lục viện, tuân thủ chế độ một vợ một chồng, không còn chuyện năm thê bảy thiếp như những vị vua trước.
    • Thứ hai, hoàng đế tấn phong hoàng hậu sau khi cưới, chứ không phải là chỉ được phong sau khi hoàng đế qua đời như trước.
    • Thứ ba, con trai sinh ra phải được phong là thái tử.
    [​IMG]

    Sau hơn 10 năm chung sống hạnh phúc, Nam Phương Hoàng hậu sinh cho hoàng đế Bảo Đại 5 người con là Hoàng thái tử Bảo Long, 3 hoàng nữ Phương Mai, Phương Liên, Phương Dung và hoàng tử út Bảo Thăng.

    [​IMG]

    Thời cuộc thay đổi nhanh chóng, những tháng ngày mật ngọt của vua và hoàng hậu kết thúc bắt đầu từ tháng 8 năm 1945, khi vua Bảo Đại thoái vị. Đến ngày 2 tháng 9 năm 1945, ông được mời ra Hà Nội để làm cố vấn tối cao cho chính phủ VNDCCH.

    [​IMG]

    Ngày chia tay của Ông Bà Hoàng một thuở được ông Phạm Khắc Hoè (Đổng lý Ngự tiền văn phòng triều Bảo Đại – là người góp phần thúc đẩy vua Bảo Đại thoái vị) kể lại như sau.

    6 giờ sáng ngày 2-9, Phạm Khắc Hoè và bộ trưởng chính phủ VNDCCH Lê Văn Hiến đến cung An Định:

    “Xe chúng tôi đã vào đậu ngay trước phòng khách mà trong cung vẫn tối tò mò, im phăng phắc – chỉ nghe có tiếng gõ mõ niệm Phật từ trên lầu vọng xuống”.

    Một lát sau Hoàng hậu Nam Phương trong sắc phục màu xanh da trời, từ trong nhà đi ra cùng con trai là Bảo Long và 3 con gái Phương Mai, Phương Liên, Phương Dung. Cựu hoàng Bảo Đại tới hôn vợ, hôn các con với những lời âu yếm. Đây là lần đầu tiên trong đời mình, cựu hoàng đi xa mà không có ai đưa tiễn ngoài vợ con.

    [​IMG]

    Nam Phương với sắc mặt buồn đưa tay trái lên cổ sửa lại sợi dây vàng đeo thánh giá lấp trong áo, tay phải cầm mùi xoa lau nước mắt trong tiếng gõ mõ tụng kinh của đức Từ Cung từ trên lầu vọng xuống đều đều buồn bã. Cựu hoàng – lúc này đã trở thành công dân Vĩnh Thuỵ, sắp sửa thành “ông cố vấn” – khoé mắt hơi ướt, nhưng miệng vẫn mỉm cười, bế Phương Dung lên hôn một lần nữa, rồi bỗng nói to: “Thôi, đi!”.

    Bà Nam Phương mở to mắt nhìn theo như muốn níu chồng lại, nhưng ông không quay lại.

    (Trích lời kể của ông Phạm Khắc Hoè)

     
    Chỉnh sửa cuối: 3/10/20
  2. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    Trong khi bà Nam Phương ở lại cung An Định bên ngoài Hoàng Thành Huế với Đức Từ Cung và các con, thì tại Hà Nội, không lâu sau, cựu hoàng Bảo Đại sống chung với thứ phi Mộng Điệp, phá vỡ lời hứa một vợ một chồng với hoàng hậu năm xưa. Song song với thời gian đó là mối quan hệ với một người đẹp nức tiếng: Lý Lệ Hà.

    Thông tin này đến được tai bà Nam Phương qua giới săn tin thông thạo và trung thành với bà. Thời gian đó ông Hoè và ông Lê Văn Hiến có đề xuất đưa bà Nam Phương và các con ra Bắc đoàn tụ cùng với Bảo Đại, nhưng bà đều từ chối. Không rõ tâm tư thực sự của bà ra sao, nhưng trong một lần nói chuyện với ông Hoè – người vẫn đi đi về về giữa Huế và Hà Nội, bà Nam Phương nói:

    “Ông Hoè này, tôi cũng muốn ra Hà Nội để vợ chồng, con cái cùng ở với nhau cho hạnh phúc. Nhưng tôi ngại hai điều: một là sẽ làm tốn kém thêm cho Nhà nước trong lúc chính phủ đang còn nghèo, lo trăm chuyện, hai là làm cho Hoàng đế đang ‘vui sướng’ trở thành đau khổ, gò bó. Thôi, tôi đành chịu đựng riêng một mình để cho người ta vui sướng”.

    [​IMG]

    Tháng 3 năm 1946, cựu hoàng Bảo Đại được chính phủ VNDCCH cử tham gia phái đoàn sang Trung Hoa công tác, nhưng ông tách đoàn và không trở về nước nữa mà sang Hongkong sinh sống. Lý Lệ Hà nghe tin đã bay sang để sống chung.

    Biết rõ mối quan hệ thắm thiết của chồng mình với cô Lý, Hoàng hậu với tư thế là một “bà cả” đã viết một bức thư gửi “người đến sau” mà hơn 50 năm sau đó Lý Lệ Hà vẫn còn giữ, có nội dung:

    “Em Lý Lệ Hà thân quý! Chị ở xa đức cựu hoàng hàng mấy vạn dặm trùng dương, nhưng chị biết rằng em đang hết lòng hết sức chăm sóc cựu hoàng ở Hongkong. Chị cầu mong lịch sử mai đây không buông rơi cựu hoàng, còn gặp lại nhau. Đức Từ Cung thái hậu và chị trọn kiếp nhớ ơn em. Chị, Nam Phương”.

    [​IMG]

    Tháng 12 năm 1946, tình hình chính trị và quân sự giữa Việt Minh và Pháp rất căng thẳng, trong khi đó thì cựu hoàng đã ở luôn Hongkong nên không còn là “ông cố vấn” cho chính phủ VNDCCH nữa. Cảm thấy ở trong cung An Định không còn được an toàn, bà Nam Phương đưa các con vào tạm lánh trong nhà dòng Chúa Cứu Thế, nơi thuộc quyền quản lý của các linh mục người Canada, trung lập giữa 2 bên Việt Minh và Pháp.

    [​IMG]

    Ở đây một thời gian, bà Nam Phương lại muốn rời đi nơi khác để tránh sự rắc rối có thể xảy ra cho nhà dòng, bà được người Pháp giúp đỡ đến ở tạm trong tầng hầm của nhà băng Đông Dương thời gian ngắn, rồi sau đó lên Đà Lạt ở với người chị ruột để lánh xa khỏi những khói lửa binh biến.

    [​IMG]

    Khi đó thái tử Bảo Long đang ở vị trí quan trọng có thể bị các phe phái chính trị lợi dụng làm con bài chiên lược, bà Nam Phương hẳn là rất lo lắng cho an nguy của những người con dòng dõi hoàng gia này, nên bà đã có một quyết định khó khăn là phải rời bỏ quê hương, đưa các con sang Pháp sống, mở ra một cuộc hành trình xa xứ mà từ đó bà không về lại quê hương một lần nào được nữa.

    Trong hành trình này, bà Nam Phương cùng các con có ghé ngang qua Hongkong để thăm cựu hoàng trước khi sang đến Pháp. Bên dưới là 2 hình ảnh được chụp ở Hongkong:

    [​IMG]

    Hong Kong 1947 – Cựu hoàng Bảo Đại tiếp các đại biểu của Việt Nam tại Hong Kong: Phan Văn Giáo, Trương Vĩnh Tòng, Nguyễn Văn Tâm; Nguyễn Hải Thần; Nguyễn Bảo Toàn; Nguyễn Văn Hải; Trần Văn Lý; Ngô Xuân Tích; Trần Quang Vinh (Cao Đài); Nguyễn Xuân Bảng (thư ký của Nguyễn Văn Tâm); Trần Thanh Đạt; X. (Chủ bút báo Bạn Dân ở Nha Trang. Thân Văn Tuyên; Nguyễn Tường Tam. Ảnh: Sogny-Marien

    [​IMG]
    Bà Nam Phương chụp ảnh cùng các con ngay trước khi sang Pháp năm 1947

    Năm 1947 tới Pháp, trong thời gian đầu, mẹ con bà Nam Phương về Cannes, nơi có toà lâu đài Thorenc thuộc gia sản của cha mẹ bà đã mua trước đó.

    [​IMG]
    Bà Nam Phương và 5 con tại Cannes – Pháp

    Năm 1949, Bảo Đại trở về Việt Nam làm Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam, nhưng bà Nam Phương vẫn ở bên Pháp. Những ngày nghỉ lễ, bà thường đi phố cùng các con để mua đồ chơi cho con, hoặc đi xem chiếu bóng với hoàng tử Bảo Thăng, công chúa Phương Dung là hai người con nhỏ nhất.

    [​IMG]

    Hàng ngày sinh hoạt của cựu hoàng hậu là chăm lo cho các con hay đọc sách báo hoặc ra vườn trồng hoa, tỉa lá. Buổi tối bà thích chơi dương cầm cho các con nghe.

    Cũng có những lúc Bảo Đại về Pháp, nhưng niềm vui ở bên chồng quá ít ỏi, nhất là từ sau năm 1955, quốc trưởng Bảo Đại bị Ngô Đình Diệm phế truất và bỏ đi tứ xứ.

    [​IMG]
    Bà Nam Phương và 5 con tại Cannes – Pháp

    Năm 1958, khi các con đều đã lớn, mỗi người đi một nơi, bà Nam Phương rời Cannes để về sống ở lâu đài Domain de la Perche ở Chabrignac thuộc vùng Trung Tây nước Pháp, cách Paris chừng 400-500 cây số. Nơi này có một trang trại lớn của riêng bà Nam Phương mà trước đây gia đình bà (ông bà Nguyễn Hữu Hào) đã mua cho.
     
    Chỉnh sửa cuối: 3/10/20
  3. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
    Cổng vào lâu đài Domain de la Perche

    Nơi ở của bà có rừng bao quanh, gồm 32 phòng, 7 phòng tắm, 5 phòng khách. Về đời sống vật chất thì bà Nam Phương không lúc nào thiếu thốn khi sống ở xứ người. Tài sản riêng do gia đình Nguyễn Hữu Hào tậu cho bà gồm một chung cư lớn tại Neuilly và ở đại lộ Opera. Ngoài ra bà còn nhiều nhà đất ở bên xứ Marocco, Congo… Những bất động sản này bà đã chia cho các con mỗi người một phần riêng và chỉ giữ lại trang trại ở Charbrignac, gồm 160 mẫu đất với một đàn bò gần trăm con và một vườn hồng lúc nào cũng nở hoa.

    [​IMG]

    Nhà của bà ở cách biệt với những nhà dân ở vùng này, vì là làng quê nên mọi người ít có dịp giao thiệp với nhau. Và đã có lần bà Nam Phương ngỏ ý được trở về Việt Nam để được an tang bên cạnh hai mộ cha mẹ ở Đà Lạt nhưng Bảo Đại và các con không đồng ý.

    [​IMG]

    Dân làng Chabrignac kể rằng, bà Nam Phương giàu có, nhưng sống trầm lặng. Bao nhiêu năm chỉ thấy cựu hoàng Bảo Đại về thăm Hoàng hậu mấy lần, lần được nhớ nhất là vào dịp lễ cưới của công chúa Phương Liên kết hôn với chàng trai người Bordeaux. Buồn nản vì tình cảm của mình, bà Nam Phương chỉ sống âm thầm trong ngôi nhà vắng vẻ. Họa hoằn bà mới về thăm Paris vài ngày. Có lẽ vui nhất là dịp nghỉ hè, các con mới có dịp về thăm bà.

    [​IMG]

    Những năm sau này bà Nam Phương ít đi ra ngoài và gặp gỡ ai. Cũng có đôi khi bà Nam Phương đi Paris để thăm các con đang học và làm ăn ở đó. Và ngược lại những dịp hè thì các con có về đây thăm mẹ ở ít ngày cho bà đỡ buồn. Thời gian này bà bị bệnh tim nặng làm khó thở.

    Cho đến cuối đời, bà vẫn sống trong nhung lụa nhờ gia đình cự phú của mình. Tuy nhiên, với bà Nam Phương, tiền không giúp mua được niềm vui. Cựu hoàng hậu sống lặng lẽ với thú vui điền viên trong trang trại Charbrignac, bất động sản duy nhất bà giữ lại cho riêng mình, sau khi chia hết các tài sản khác cho các con.

    [​IMG]
    Điền trang La Perche ở làng Chabrignac rộng 160 ha đã được hoàng hậu mua lại để sống cuộc đời ẩn cư

    Rũ bỏ lớp áo vàng son quyền quý, bà Nam Phương quay lại sống đúng nghĩa cuộc đời an lành, bình dị của một phụ nữ An Nam học thức.

    Hàng ngày, bà dậy rất sớm, thường tự tay trang trí, dọn dẹp nhà cửa và chăm sóc cây cảnh.

    Khi có việc ra ngoài, bà thường tự tay lái chiếc xe hơi hiệu Dauphine, có thêm cô hầu gái hay người quản gia đi theo. Bà nuôi trong điền trang 4 người giúp việc nông, một số người hầu gái và một viên quản gia người Pháp. Tất cả người ăn kẻ ở trong nhà đều được bà đối xử thân tình và gần gũi.

    [​IMG]
    Bà Nam Phương và con trai út Bảo Thăng

    Lucien Boudy – một cựu xã trưởng Chabrignac, cho biết Hoàng hậu Nam Phương “…là một mệnh phụ phu nhân rất duyên dáng, đặc biệt thân thiện rộng rãi với dân làng. Bà cũng rất nhân từ và yêu thương với cả người hầu kẻ hạ trong nhà”.

    Nam Phương Hoàng hậu sống rất cởi mở, quảng giao, thường xuyên đi thăm thú điền trang để gặp gỡ và trò chuyện thân mật với những người nông dân. Vì thế dân làng rất quý mến bà. Từ chỗ xa lạ, sau 5 năm làm dân Chabrignac, bà đã để lại biết bao tình cảm trong tâm trí người dân địa phương. Họ xem bà là một cô-rê-diên (Người địa phương Correze) chính cống.

    [​IMG]

    Có lẽ sự cô đơn và nỗi đau buồn cho cuộc đời tuy vàng son mà bất hạnh của mình khiến hoàng hậu lưu vong mắc bệnh tim. Ngày 14/9/1963, vừa từ thị trấn Brive cách điền trang 30 km trở về, bà Nam Phương đã cảm thấy đau họng. Viên bác sĩ được mời đến đã khám qua loa và kết luận bà bị viêm họng nhẹ, chỉ uống thuốc vài ngày là khỏi. Kỳ thực, bà bị chứng lao hạch tràng hạt, cơn đau tiếp tục hoành hành dữ dội. Trước khi viên bác sĩ thứ hai kịp đến nơi thì Nam Phương Hoàng hậu, 49 tuổi, đã qua đời vì nghẹt thở.

    [​IMG]

    Bà mất vào ngày 15/9/1963. Đám tang của bà rất lặng lẽ. Ngày đưa tang, ngoài hai Hoàng tử Bảo Long (1936), Bảo Thăng (1943) và ba Công chúa Phương Mai (1937), Phương Liên (1938) và Phương Dung (1942) đi bên cạnh quan tài của mẹ.

    [​IMG]
    Nơi ở cuối cùng của hoàng hậu Nam Phương

    Khi được tin bà Nam Phương tạ thế, Bảo Đại trở về ngay và đã mua một chiếc quan tài bằng gỗ sồi, loại gỗ quý giá nhất của người Pháp để an táng người vợ hiền thục, nhân từ và đạo đức mà cho tới tận cuối đời cũng không hề bị ai chê trách hay than phiền. Ngay cả ông Bảo Đại cũng chưa bao giờ dám trách vợ về việc trai gái, vì kể từ ngày ly thân với Bảo Đại, bà Nam Phương không có bất kỳ nhân tình nào, dù là đi khiêu vũ hay đi tắm biển với một người đàn ông khác cũng không. Có lẽ bà Nam Phương được sinh ra trong một gia đình nề nếp nên bà giữ đạo rất nghiêm khắc, ngay cả với các con.

    [​IMG]

    Ngôi mộ của bà Hoàng Hậu Nam Phương, người vợ chính thức đầu tiên của Bảo Đại, rất dễ nhận ra, vì có hai cây tùng trồng hai bên mộ, nay đã cao và to phình. Ngôi mộ có vẻ mới được trùng tu lại, sạch sẽ, đơn sơ. Trên ngôi mộ đơn sơ dựng một tấm bia đá giản dị. Mặt trước tấm bia ghi dòng chữ Hán:

    “Đại Nam Nam Phương Hoàng Hậu chi lăng” (Dịch nghĩa: Lăng của Hoàng hậu Nam Phương nước Đại Nam).

    Nắp đậy huyệt chỉ là một tấm bê tông phẳng phiu, có chạm nổi hình thánh giá và một tấm bia chìm đề hàng chữ tiếng Pháp “Sa Majesté Nam Phuong Impératrice d’Annam 1913 – 1963”. Trên nắp huyệt dựng một tấm bia khác đề rõ hơn một chút “Ici repose l’Impératrice Nam Phuong, née Jeanne Mariette Nguyen Huu Hao, 14.11.1913 – 15.09.1963” (Tại đây an nghỉ Nam Phương Hoàng Hậu, tên gốc Jeanne Mariette Nguyen Huu Hao, 14.11.1913 – 15.09.1963).
     
    Chỉnh sửa cuối: 3/10/20
  4. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    Có một nghịch lý là, hoàng hậu Nam Phương nổi tiếng là một Đệ nhất phu nhân đẹp nhất nước Nam, nhưng thời gian 5 năm bà làm dân Chabrignac và lăng mộ của bà ở Chabrignac, không mấy người Việt ở Việt Nam hay ở ngay trên đất Pháp biết đến. Trong lúc đó người dân Chabrignac hạt Corrèze thì lại rất tự hào khi quê hương họ đã từng là nơi sinh sống 5 năm cuối đời và là nơi an nghỉ của bà Hoàng hậu đẹp nổi tiếng của Việt Nam, với niềm tự hào ấy, người chủ Domaine de la Perche ngày nay đã xây dựng khu nhà cũ và lăng mộ của bà thành một điểm du lịch ở trung tây nước Pháp.

    Vậy là, một cuộc đời oanh liệt của hoàng hậu Nam Phương đã khép lại. Những ngày tháng buồn nhiều hơn vui. Tiền tài, của cải, vật chất, danh vọng, sắc đẹp… thoáng qua đi như bong bóng. Nhưng vẻ đẹp tâm hồn, đức hạnh của bà lại là điều sống mãi, lưu hương lại mãi, như cái tên bà hoàng hậu Nam Phương – Hương thơm từ Phương Nam…

    [​IMG]

    Xin nói thêm về các câu chuyện xung quanh đức tính nhân từ được nhiều người kính nể của Nam Phương Hoàng Hậu, xin trích ra đây những thông tin của nhà nghiên cứu Lý Nhân Phạm Thứ Lang, đó là thi bá Tản Đà đã từng làm thơ tặng cho bà.

    Tản Đà là một người hơi khó tính, không phải ai cũng được ông tặng thơ. Nhưng nhân dịp Nam Phương hoàng Hậu tuần du ra Bắc, Tản Đà đã đại diện sĩ phu Bắc Hà có món quà văn nghệ gửi tặng. Ông nói:

    “Tôi cũng có chút tình kính mến bà Nam Phương. Vì bà là một con người sinh ra trong gia đình gia giáo, bà rất nhân từ, xứng đáng là bậc mẫu nghi thiên hạ nên tôi không nề hà gì mà không sáng tác một áng thơ để nhờ chuyển dâng tới tay bà Nam Phương”.

    Suy nghĩ một vài phút rồi thi sĩ Tản Đà đề nghị: “Tôi sẽ làm một bài thơ theo thơ ca trù (hát nói, ả đào) thời kỳ cận đại”.

    Rồi ông lấy giấy bút ra viết tựa đề:

    Bài Hát Mừng Đức Nam Phương Hoàng Hậu Ra Tuần Du Đất Bắc

    Nam Phương ngự giá Bắc tuần
    Cỏ hoa vùng Bắc tin xuân đón mừng
    Trâm hoa tàn quạt tưng bừng
    Trời Nam quang cảnh ai từnh thấy chưa?

    Năm Đinh Sửu qua Rằm tháng Chạp
    Bạn quần thoa đông họp bốn trăm người
    Đèn văn minh lửa sáng trưng giời
    Góp ngọc nói hoa cười nghênh thánh giá

    Cung duy mẫu đức nghi thiên hạ
    Lạc đồ tiên nhân giáng tự trần
    Bụng từ nhân thương xót kẻ bình dân
    Đạo bác ái ân cần câu diễn thuyết

    Hội Hợp Thiện được nghe lời khuyến thiện
    Lòng hướng dương thêm kiến quyền trung quân
    Bắc Nam đâu cũng thần dân.

    Sau đây, xin đăng lại những hình ảnh của Nam Phương Hoàng Hậu qua các thời kỳ:

    Thời thiếu nữ:

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    Lễ cưới và tấn phong hoàng hậu năm 1934:

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 3/10/20
  5. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    Khi đã trở thành hoàng hậu:

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 3/10/20
  6. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    Chuẩn bị sinh thái tử Bảo Long
    Ảnh chụp cùng các con:

    [​IMG]

    Hoàng gia Bảo Đại – Nam Phương chính thức thông báo với Nam triều ông bà đã có con trai đầu lòng và được Phủ tôn Nhơn ghi vào Tôn phả với danh xưng Bảo Long. Ảnh chụp vào đầu năm 1936

    [​IMG]

    Vua và hoàng hậu chụp cùng đức Từ Cung thái hậu

    [​IMG]

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 3/10/20
  7. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
    Nam Phương Hoàng hậu với Thái tử Bảo Long (trái) và công chúa Phương Mai (phải) dạo chơi trong công viên

    [​IMG]

    Cuộc sống lưu vong:

    [​IMG]

    Năm 1950 tại Pháp, lúc cựu hoàng Bảo Đại vẫn còn là Quốc Trưởng

    [​IMG]

    Bà Nam Phương thăm Vatican năm 1954

    [​IMG]

    [​IMG]

     
    Chỉnh sửa cuối: 3/10/20
  8. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    [​IMG]

    Bài viết được trích theo cuốn sách Nam Phương – Hoàng hậu cuối cùng của tác giả Lý Nhân Phạm Thứ Lang
     
    Chỉnh sửa cuối: 3/10/20
  9. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    Nghệ sĩ tề tựu chiêm ngưỡng 100 bức ảnh để đời của NSND Bảy Nam

    Sáng 15-10, Hội Sân khấu TP HCM đã khai mạc triển lảm ảnh "NSND Bảy Nam - Người mẹ trên sân khấu kịch Miền Nam" tại số 5B Võ Văn Tần, phường 6, quận 3, TP HCM.

    Đây là sự kiện văn hóa chào mừng Đại hội Đảng bộ TP HCM và hướng đến Ngày phụ nữ Việt Nam (20-10) do Ban Lý luận phê bình Hội Sân khấu TP HCM thực hiện.

    Tham dự có các nghệ sĩ: NSND Minh Vương, NSND Lệ Thủy, NSND Kim Xuân, NSƯT Lê Thiện, NSƯT Thành Lộc, NSƯT - ca sĩ Hồng Vân, NSƯT Hữu Châu, NSƯT Mỹ Uyên, NSƯT Lê Nguyên Đạt, đạo diễn Ái Như, NSƯT Thành Hội, NSƯT Tuyết Thu, Hồng Dung, Mỹ Phượng, Chánh Trực, Hồ Ngọc Xum, Xuân Hương, nghệ sĩ hài Mỹ Chi, ca sĩ Bích Thủy, Hạ Châu, các diễn viên CLB Sân khấu Lạc Long Quân…

    [​IMG]
    NSND Bảy Nam và NSƯT Thành Lộc chụp tại HTV năm 2002 Ảnh: Thanh Hiệp

    Gần 100 bức ảnh quý và tư liệu báo chí về NSND Bảy Nam đã được trưng bày tại Hội Sân khấu TP HCM. Trong đó, nhiều bức ảnh khiến người xem xúc động như bức ảnh NSND Bảy Nam ở tuổi 94 ngồi bên bàn trang điểm, hóa trang cho nhân vật bà Tư trong vở "Lá sầu riêng" - vai diễn để đời của bà. Hoặc bức ảnh bà và cháu nội – bé Gia Vinh năm lên 6 tuổi đóng vai bé Sang trong vở "Lá sầu riêng". Cậu bé bị bắt cóc năm xưa nay đã 47 tuổi.

    [​IMG]
    NSND Bảy Nam và bé Tô Rô (Gia Vinh) trong vở "Lá sầu riêng" năm 1979 (ảnh gia đình cung cấp)

    Bức ảnh mà gia đình Kỳ nữ Kim Cương trân quý chính là NSND Bảy Nam và 3 người con: Kim Cương, Kim Quang, Ngọc Thố. NSND Kim Cương xúc động cho biết sở dĩ quý vì đó là bức ảnh duy nhất có đủ 3 chị em cùng với mẹ, sau này ông Ngọc Thố đã mất khi tuổi đời còn rất trẻ.

    Ngoài ra, còn có những bức ảnh quý của lễ mừng thọ 90 tuổi mà nhiều nghệ sĩ nổi tiếng tham dự, trong đó có NSND Phùng Há.

    [​IMG]
    Lễ mừng thọ NSND Bảy Nam có các nghệ sĩ: NSND Phùng Há, cố nghệ sĩ Ba Xay, cố nghệ sĩ Trương Long, họa sĩ Trang Phượng đến dự và chúc mừng - Ảnh: Thanh Hiệp

    Triển lãm còn trưng bày các bức ảnh đen trắng về những vai diễn của cố NSND Bảy Nam trên sân khấu cải lương (Ngọc Kỳ Lân), phim đen trắng với danh hài Thanh Việt ("Ngọn cỏ gió đùa"), mẹ đưa tiễn con gái sang Pháp (năm 1965 khi NSND Kim Cương cùng GSTS Trần Văn Khê sang Pháp, Đức lưu diễn)…

    [​IMG]
    NSND Bảy Nam hóa trang chuẩn bị hóa thân vai mẹ cô Diệu (vở "Lá sầu riêng") (ảnh Thanh Hiệp)

    Là nữ nghệ sĩ đạt 2 kỷ lục "Nữ tác gia sáng tác kịch bản nhiều nhất" và "Nữ nghệ sĩ đóng vai người mẹ nhiều nhất trên sân khấu kịch và điện ảnh", NSND Bảy Nam đã khắc sâu trong tim khán giả mộ điệu tình cảm thiết tha.

    [​IMG]
    NSND Bảy Nam và NSND Kim Cương trong vở "Lá sầu riêng" (ảnh gia đình cung cấp)

    Nhân dịp này, Hội Sân khấu TP HCM đã tổ chức chuyên đề do NSND Kim Cương trình bày, giao lưu với khán giả để ôn lại những kỷ niệm khó quên đối với NSND Bảy Nam. Các nghệ sĩ tham dự bày tỏ công ơn của NSND Bảy Nam - người nữ nghệ sĩ có nhiều vai diễn để đời, tạo dấu son đậm nét trên sân khấu qua các vai người mẹ.

    "Tôi nhớ khi Sân khấu Vàng ngỏ ý dựng vở "Lá sầu riêng" do soạn giả Lam Tuyền chuyển thể, chúng tôi khi diễn rất nhớ má Bảy Nam. Vai bà tư lúc đó do sầu nữ Út Bạch Lan diễn. Hình ảnh người mẹ của NSND Bảy Nam trên sân khấu mãi mãi là khuôn mẫu cho thế hệ nữ diễn viên sau này noi theo" - NSND Minh Vương nói.

    [​IMG]
    Bức ảnh quý của gia đình: NSND Bảy Nam và ba con: Kỳ nữ Kim Cương, Kim Quang và Ngọc Thố (ảnh gia đình cung cấp)

    Khán giả xem lại các trích đoạn kịch của NSND Bảy Nam trong niềm xúc động, nhất là phóng sự "Những cánh chim không mỏi" khi bà tâm sự về cảm nghĩ rời xa sàn diễn mãi mãi do tuổi già, sức yếu được HTV quay hình tại rạp Hưng Đạo cũ, khiến trái tim người tham dự như tan vỡ.

    [​IMG]
    Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến nhà thăm NSND Bảy Nam (ảnh Thanh Hiệp)

    [​IMG]
    NSND Bảy Nam tiễn đưa Kỳ nữ Kim Cương sang Pháp năm 1965 (ảnh gia đình cung cấp)

    [​IMG]
    Nghệ sĩ Lê Thiện tâm sự về tình yêu nghề dành cho NSND Bảy Nam

    [​IMG]
    NSND Kim Cương và đạo diễn Ái Như ôn lại kỷ niệm về NSND Bảy Nam

     
    Chỉnh sửa cuối: 15/10/20
  10. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
    Nghệ sĩ Lệ Thuỷ, Minh Vương và Kim Cương (từ trái sang)

    [​IMG]
    Nghệ sĩ Kim Xuân và Thành Lộc

    [​IMG]
    NSND Kim Cương luôn nhớ về mẹ - NSND Bảy Nam (giữa)

    NSND Bảy Nam sinh ra tại Tiền Giang. Bà là em ruột của NS Năm Phỉ. Gia đình bà có 11 anh chị em, bà là con thứ 7.

    Vai diễn đầu tiên lúc 14 tuổi đã dẫn bà vào con đường nghệ thuật. 5 năm sau, bà trở thành bầu gánh hát. Giáo sư Hoàng Như Mai từng nhận xét: "Nghệ sĩ sân khấu, nếu thật sự là nghệ sĩ tài năng, là bảo vật vô giá của nhân loại, không vàng ngọc nào sánh được. Nghệ sĩ Bảy Nam là một trong số ấy".

    Hơn 70 năm đứng trên sân khấu, bà không chỉ là diễn viên mà còn là nhà quản lý, trưởng đoàn, tác giả kịch bản, đóng hàng chục phim truyện. Hai vở diễn thành công nhất trong sự nghiệp diễn xuất của bà, đó là vở "Lá sầu riêng" và "Bông hồng cài áo". Chỉ hai vở ấy thôi cũng đủ chứng minh tài năng tuyệt vời, làm rung động biết bao trái tim khán giả.

    Nghệ sĩ Bảy Nam còn là nữ tác giả kịch bản đầu tiên của Sài Gòn với các kịch bản để đời: "Nỗi đau lòng mẹ", "Người đàn bà Việt Nam", "Gươm vàng máu đỏ", "Điều Tam Xuân", "Tiêu Anh Phụng", "Phấn hậu cung"...

    Nghệ sĩ nhân dân Bảy Nam mất ngày 18-8-2004, thọ 91 tuổi.

    Vở kịch nói "Lá sầu riêng" đã trở thành bảo bối của gia đình NSND Kim Cương. Trong những ngày cả nước chào mừng ngày độc lập, kỳ nữ đã chia sẻ nhiều kỷ niệm về vở kịch này.

    "Mỗi năm cứ đến ngày này thì đài truyền hình thường phát sóng vở kịch "Lá sầu riêng". Còn với đoàn kịch nói Kim Cương. Những năm sau ngày đất nước thống nhất, dịp Lễ Quốc khánh 2-9 là đoàn diễn mỗi ngày 4 suất vở "Lá sầu riêng". Khán giả đến xem đông như ngày hội. Trong hậu trường, anh chị em nghệ sĩ mỗi người mang một món ăn do mình chế biến, cùng đem vào góp với bếp ăn nghệ sĩ. Không khí vui như tết. Tôi nhớ má tôi, có một chiếc ghế xếp nhỏ, bà cứ nằm đó nghỉ ngơi, đến lớp diễn thì bước ra cánh gà. Những tràn pháo tay của khán giả như sấm vang khi má tôi bước ra sân khấu. Và suất nào hai má con cũng khóc, khán giả bên dưới cũng khóc nức nở khi thấy cảnh bà mẹ xứt dầu cho con gái, bị bạo hành do nhà chồng ức hiếp. Ngày 2-9, mỗi diễn viên lãnh đến 4 cữ lương, lại có thêm tiền thưởng nên anh chị em diễn viên đều vui mừng hớn hở. Có người đã hỏi vì sao cứ đến 2-9 tôi lại diễn vở "Lá sầu riêng"? Tôi trả lời đó là vở diễn nói lên thân phận của những người nghèo khổ trong một xã hội muốn vươn lên, muốn phá bỏ những xiềng xích cũ" - NSND Kim Cương xúc động chia sẻ.

    [​IMG]
    NSND Kim Cương lúc trẻ

    Vở kịch "Lá sầu riêng" kể câu chuyện về một bà mẹ nghèo sống bằng nghề mò cua bắt ốc, bán tôm cá ngoài chợ, bà có đứa con trai tên Sang mà bà đã cố dành dụm nuôi con, mong được khôn lớn, thành tài. Sau năm 1945, Sang học lấy được bằng bác sĩ, có người yêu xinh đẹp là con gái của một gia đình giàu có. Tính đến chuyện cưới nhau nhưng lo bị gia đình phía người yêu từ chối vì không "môn đăng hộ đối", Sang đã nói dối rằng anh ta vốn là con của một đốc phủ sứ, một quan chức lớn trước đây nhưng cha mẹ đều đã chết.

    Ngày hai người tính đến gặp nhau tại nhà Sang để bàn chuyện đám cưới thì có ông cậu từ quê lại thăm. Anh ta nói với người cậu về chuyện đã lỡ nói dối và thiết tha dặn khi có cô vợ sắp cưới đến, mong ông cậu đóng vai là người quản gia. "Nhân vật ông cậu đã được tôi sáng tạo nhân vật theo hình tượng những người tham gia cách mạng, gầy dựng hàng ngũ nhà nông đứng lên đòi độc lập, giành chính quyền. Vở kịch "Lá sầu riêng" lúc mới ra đời đã từng bị chính quyền Sài Gòn thắc mắc về nhân vật người cậu, nhưng tôi phớt lờ với tuyên ngôn, nơi nào có áp bức thì nơi đó có đấu tranh. Người cậu đứng lên đòi giải phóng chế độ thực dân, đòi quyền cho người dân là chính đáng. Qua từng năm tháng, vở "Lá sầu riêng" được "thêm da đắp thịt", được thăng hoa cảm xúc chính là từ sự hưởng ứng của khán giả. Họ thấy được họ trong đời sống vở kịch" - NSND Kim Cương kể.

    [​IMG]
    NSND Kim Cương xúc động viếng mộ mẹ - NSND Bảy Nam


    Vở kịch "Lá sầu riêng" thành công chính là đề cập đến đạo hiếu mà người Việt Nam coi là có ý nghĩa hàng đầu trong việc tu dưỡng về nhân cách. Vở kịch đã chạm đến trái tim khán giả khi kể về chuyện người con trai suýt bất hiếu với mẹ của mình. Vì mê giàu sang, sợ mất tình yêu mà cậu đã xem thường công ơn của một bà mẹ thuộc dân lao động rất nghèo nhưng hết mực thương con. Và rồi trước tình mẹ, trước dòng nước mắt của mẹ, lương tâm về đạo hiếu, về nghĩa của người mẹ đã thức tỉnh người con trai.

    NSND Kim Cương khẳng định: "Giáo dục đạo hiếu là tâm điểm trong giáo dục về nhân cách làm người. Khuynh hướng sáng tác, dàn dựng của Kịch Kim Cương chính là thể hiện rõ điều này. Tôi nghĩ đất nước mình độc lập cũng từ nếp nhà của mỗi con người Việt Nam. Ai cũng kính yêu cha mẹ, phụng sự tổ quốc, để góp phần đem lại độc lập, tự do cho dân tộc. Vở kịch "Lá sầu riêng" đã thể hiện giá trị đó, để qua thời gian, vở kịch vẫn còn nhận được nhiều tán thưởng đó là điều hạnh phúc của gia đình tôi".

    [​IMG]
    NSND Kim Cương và NSND Bảy Nam trong vở "Lá sầu riêng"

    NSND Đinh Bằng Phi nhận xét: "Vở kịch "Lá sầu riêng" được nhìn nhận là một kịch bản kinh điển của sân khấu kịch nói miền Nam, đặc biệt câu chuyện kịch bám chặt tính đời thường, nói lên tiếng lòng của quần chúng. Còn về nghệ thuật diễn xuất, vở kịch có phong cách diễn xuất "rất Nam Bộ". Tôi biết, để có được tác phẩm này, tác giả đã trăn trở suy nghĩ, đầu tư về trí tuệ để có được một dấu ấn đẹp. Và cứ đến ngày 2-9, tôi lại nhớ không khí của đoàn kịch nói Kim Cương khi khán giả xếp hàng rồng rắn để mua vé vào xem. Mùa trước, chị Kim Cương đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, thật xứng đáng".


    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

     
    Chỉnh sửa cuối: 15/10/20
  11. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    Cuộc đời và sự nghiệp của nhạc sĩ Lam Phương

    [​IMG]

    Nhạc sĩ Lam Phương là một trong những tên tuổi nổi bậc nhất của làng nhạc Sài Gòn trước năm 1975. Từ phòng trà sang trọng cho đến những xóm nghèo nhập cư, từ sân khấu kịch nghệ đến chιến trường khốc liệt đều vang lên những khúc ca về tình yêu, quê hương và người lính của nhạc sĩ Lam Phương. Những ca khúc của ông đa dạng và có sức sống mạnh mẽ, dễ đi và lòng người, dễ dàng lan toả đến với mọi giới nghe nhạc.

    Nhạc của Lam Phương được đánh giá là không có bài nào mang triết lý sâu xa, mà đều là những ca khúc được viết với cảm xúc chân thành từ tấm lòng đôn hậu, thật thà của một người được sinh ra trên đất miền Tây.

    [​IMG]


    Nhạc sĩ Lam Phương tên thật là Lâm Đình Phùng, sinh ngày 20 tháng 3 năm 1937 tại tỉnh Rạch Giá, nay là thành phố Rạch Giá, Kiên Giang. Ông chọn bút danh Lam Phương là từ cái tên thật Lâm Phùng của mình, nhưng cũng mang ý nghĩa là phương trời màu xanh, mong muốn hướng tới những điều tốt đẹp.

    Ông là hậu duệ 7 đời của một người Minh Hương di cư sang Việt Nam để trốn nhà Thanh bên Trung Quốc. Ông cố của nhạc sĩ Lam Phương là danh tướng Lâm Quang Ky, là phó tướng của anh hùng Nguyễn Trung Trực. Cái tên Lâm Quang Ky lừng lẫy này đã được ghi ơn bằng việc đặt tên cho một con đường ở thành phố Rạch Giá hiện nay.

    Tuy là hậu duệ của một gia tộc danh tiếng nhưng đến đời của Lam Phương thì cuộc sống rất khổ cực. Ông là con đầu lòng trong gia đình có 6 người con, vốn chỉ được gánh vác bởi một mình người mẹ tần tảo vì người cha đi biệt không về trong nhiều năm. Hình ảnh người mẹ hiền thuở thơ ấu đó đã đi vào nhạc Lam Phương sau này trong các ca khúc nổi tiếng Đèn KhuyaKiếp Nghèo.

    Cuộc sống mưu sinh của gia đình rất khó khăn, nhưng Lam Phương vẫn may mắn được đến trường học chữ nhờ sự giúp đỡ của người dượng bên ngoại. Những kiến thức căn bản đó đã hình thành nên một nhạc sĩ Lam Phương tài hoa sau này.

    Dù nhà không có nhiều điều kiện nhưng Lam Phương vẫn được mẹ gửi lên Sài Gòn để học tiểu học năm ông 10 tuổi, sống ở nhà người bác ruột trên đường Đinh Công Tráng ở Dakao.

    Ngày ngày trên đường đi học về, cậu bé Lâm Đình Phùng thường khi ấy thường đi ngang qua các quán cafe, rồi bị hút hồn bởi các giai điệu bài hát Tây phương được phát ra từ máy hát trong quán. Ông trở nên thích thú, tự tìm hiểu âm nhạc bằng cách mua tờ nhạc về xem, rồi tìm theo học tại tại nhà của một thầy giáo không tên tuổi ở Tân Định. Thấy người cháu đam mê học nhạc, ông bác cũng đầu tư mua sắm các nhạc cụ cơ bản như guitar và mandoline. Hiện nay cây đàn guitar đầu tiên của Lam Phương này vẫn còn được lưu giữ tại Sài Gòn.

    Lam Phương theo học người thầy vô danh từ những nốt nhạc đầu tiên, với tài liệu học chính là những tờ nhạc bài hát của những nhạc sĩ thành danh thời tiền chiến là Phạm Duy, Lê Thương. Người thầy thấy cậu học trò nghèo đam mê nhạc nên tình nguyện dạy miễn phí.

    [​IMG]

    Đến đầu năm 1950, Lam Phương may mắn gặp nhạc sĩ Hoàng Lang, khi đó mới 20 tuổi, và người nhạc sĩ này đã khơi nguồn cảm xúc âm nhạc cho Lam Phương, giúp Lam Phương hình thành nên những giai điệu đầu tiên của sáng tác đầu tay mang tên Chiều Thu Ấy ngay từ năm 1950, khi Lam Phương vẫn còn là một cậu bé mới 13 tuổi. Đó là 1 ca khúc nói về chuyện tình dang dở, có giai điệu phảng phất cái chất của dòng nhạc tiền chiến. Hai năm sau, Lam Phương quyết định tự in và phát hành năm 1952.

    [​IMG]

    Để in tờ nhạc ca khúc này, Lam Phương đã phải đi vay bạn bè 200 đồng, rồi tự đi bán lẻ nhạc ở khắp Sài Gòn. Nhưng lúc đó chưa ai biết đến tên tuổi Lam Phương nên không thể bán được, phi vụ in tờ nhạc đầu tay vì niềm đam mê này đã làm cho ông phải ôm món nợ người bạn 200 đồng. Thời gian này Lam Phương lại đi làm thuê để kiếm tiền trả nợ, rồi lại sáng tác và vay tiền in nhạc, số nợ to dần, lên đỉnh điểm là 600 đồng. Số tiền nợ này chỉ được trả hết vào năm 1954, khi Lam Phương thành công với bài Khúc Ca Ngày Mùa được hầu hết các trường học ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long chọn để dạy cho học trò ca múa, bài hát đã vén bức màn để đưa tên tuổi của Lam Phương ra ánh sáng trước công chúng.

    [​IMG]

    Vào những năm đầu của sự nghiệp (1953-1954), ký ức về vùng quê thanh bình năm xưa vẫn luôn đau đáu trong lòng, nhạc sĩ Lam Phương đã sáng tác hàng loạt những ca khúc về quê hương với sự khuyến khích của nhạc sĩ Phạm Duy và sự hướng dẫn thêm từ nhạc sĩ Lê Thương: Khúc Ca Ngày Mùa, Trăng Thanh Bình, Hương Thanh Bình.

    Trong khoảng thời gian sau năm 1955, với những cảm xúc khi được chứng kiến từng đoàn người di cư vào Nam sau hiệp định Geneve, ông đã sáng tác Chuyến Đò Vỹ Tuyến, Nhạc Rừng Khuya, Đoàn Người Lữ Thứ, Nắng Đẹp Miền Nam… và đều trở nên nổi tiếng, được yêu thích cho đến ngày nay.

    [​IMG]

    Cũng trong khoảng thời gian này, ông sáng tác Kiếp Nghèo và ca khúc này đưa tên tuổi của Lam Phương lên một tầm cao mới trong làng nhạc. Nhờ ăn khách và bán rất chạy, ca khúc Kiếp Nghèo thực sự đã giúp tác giả thoát xa cảnh nghèo.

    Năm 1958, khi được 21 tuổi, nhạc sĩ Lam Phương vào quân ngũ, thực hiện trách nhiệm công dân. Trong thời gian này, những sáng tác nổi tiếng về lính của Lam Phương có thể kể đến là Chiều Hành Quân, Bức Tâm Thư, Tình Anh Lính Chiến…

    [​IMG]

    Trong quân ngũ, Lam Phương gia nhập đoàn văn nghệ Bảo An, khi đoàn này giải tán, ông tham gia ban văn nghệ Hoa Tình Thương và sau cùng Biệt đoàn Văn nghệ Trung ương cho đến năm 1975.

    [​IMG]

    Lam Phương lúc trong quân ngũ

    Năm 1959, nhạc sĩ Lam Phương lập gia đình với nữ kịch sĩ Tuý Hồng. Ông đã sáng tác ca khúc Ngày Hạnh Phúc để mừng cho ngày vui lứa đôi của chính mình, và ca khúc này trở thành nhạc hiệu Chương Trình Gia Binh của đài phát thanh quân đội phát vào mỗi buổi sáng sớm trong suốt thập niên 1960.

    [​IMG]


    Từ thập niên 1960, Lam Phương viết rất nhiều bản nhạc nổi tiếng, mang lại cho ông rất nhiều cả về danh tiếng lẫn tiền bạc. Đặc biệt chỉ 1 ca khúc Thành Phố Buồn đã mang đến cho ông số tiền 12 triệu đồng, một con số rất lớn thời đó, bằng với thu nhập trong 20 năm của 1 đại tá quân đội. Nếu tính ra tiền USD thời điểm đó thì bài Thành Phố Buồn có giá trị gần nửa triệu đô la, một con số quá lớn đối với 1 bài hát.

    [​IMG]

    Cũng trong thời gian này, dù đã có vợ nhưng Lam Phương vẫn có những mối tình thoáng qua, hoặc cảm xúc đơn phương với 1 số nữ ca sĩ tài sắc như Minh Hiếu, Bạch Yến, Hạnh Dung, trở thành cảm hứng cho những ca khúc nổi tiếng lần lượt ra đời: Tình Bơ Vơ, Chờ Người, Biển Tình, Phút Cuối, Em Là Tất Cả, Tình Nghĩa Đôi Ta Chỉ Thế Thôi, Biết Đến Bao Giờ, Tình Chết Theo Mùa Đông…






     
    Chỉnh sửa cuối: 31/12/20
  12. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    Là một nhạc sĩ thành công bậc nhất của Sài Gòn lúc đó, tài sản trong nhà băng của Lam Phương rất lớn. Tuy nhiên đến ngày 30 tháng 4 năm 75, ông và gia đình di tản trên con tàu Trường Xuân với 2 bàn tay trắng. Khi ở trên boong tàu, ông đã sáng tác ca khúc Con Tàu Định Mệnh để viết về chuyến tàu nổi tiếng này.

    [​IMG]

    Thời gian sau này, Lam Phương cũng sáng tác nhiều ca khúc khác để mô tả lại thời khắc kinh hoàng đó, nổi tiếng nhất là Chuyện Buồn Ngày Xuân:

    Trùng dương sóng gào đưa anh vào tương lai mờ tối
    Em biết anh vì xôn xao trong phút giây kinh hoàng

    Đời anh đâu muốn phụ phàng
    Nhưng tình vẫn ngăn đôi
    Khi bước chân lên tàu

    Là ngàn năm ta chia phôi…

    [​IMG]

    Sang đến Hoa Kỳ, gia đình Lam Phương – Tuý Hồng định cư tại Virginia. Nhưng ông lại chuyển về Texas, rồi về California. Để có tiền nuôi vợ con, Lam Phương phải làm đủ thứ nghề, từ lau sàn nhà, dọn dẹp cho hãng Sears, đến những việc nặng nhọc như thợ mài, thợ tiện,… Sau khi cuộc sống nơi xứ người dần ổn định, cứ mỗi cuối tuần ông cố gắng thu xếp thuê một quán ăn làm sân khấu ca nhạc kịch để bạn văn nghệ gặp nhau.

    [​IMG]

    Tuy nhiên số mệnh buồn và tan vỡ lại đến với Lam Phương khi cuộc hôn nhân với Tuý Hồng tan vỡ năm 1979. Chán nản với cuộc đời, ông sáng tác một loạt ca khúc buồn chỉ có 1 chữ: Điên, Buồn, Mất, Tiếc, Say, và nổi tiếng nhất là Lầm với những lời hát cay đắng:

    Anh đã lầm đưa em về đây,
    cho tâm hồn tan nát từng ngày…

    [​IMG]

    Một lần nữa, ông lại trắng tay rời Hoa Kỳ để sang Paris – Pháp vào năm 1980, theo như lời ông nói là để “tị nạn ái tình”.

    Tại Paris, thời gian đầu Lam Phương làm những công việc chân tay như quét dọn, khuân vác… sau đó về làm quản lý cho nhà hàng Như Ánh của người em gái út là Lâm Thị Minh Khai. Nhà hàng có một sân khấu nhỏ để Lam Phương chơi đàn hàng đêm, được gặp gỡ nhiều người. Và một trong những người mà ông gặp gỡ tại đây đã trở thành người vợ thứ 2 của ông: bà Cẩm Hường.

    [​IMG]

    Theo lời nhạc sĩ Lam Phương kể thì bà Cẩm Hường rất đẹp, từng là hoa hậu tại Pháp. Ông cũng nói rằng 10 năm chung sống với Cẩm Hường là 10 năm hạnh phúc nhất của mình. Đây cũng là thời điểm mà sức sáng tác của Lam Phương trở lại mạnh mẽ với hàng loạt ca khúc vui tươi yêu đời, ca khúc nào cũng đều ăn khách: Bé Yêu, Thiên Đàng Ái Ân, nổi tiếng nhất là Bài Tango Cho Em viết dành tặng Cẩm Hường: “Từ ngày có em về, nhà mình toàn ánh trăng thề…”

    Ngoài ra còn có bài Mùa Thu Yêu Đương với câu hát “Đường vào Paris có lắm nụ hồng”, “hồng” ở đây là xuất phát từ tên Hường của người vợ.

    [​IMG]

    Cũng trong thời gian này, nhạc sĩ Lam Phương đã sáng tác những ca khúc nổi tiếng nhất trong sự nghiệp: Cho Em Quên Tuổi Ngọc, Em Đi Rồi, đặc biệt là bài Một Mình. Đó là năm 1990, khi ông vẫn đang sống hạnh phúc với người vợ thứ 2, thì thật kỳ lạ, như là một dự cảm về cuộc đời mình, Lam Phương đã viết những câu từ tiên đoán chính xác số phận đời ông thời gian sau đó:

    Sáng trưa khuya tối, nhìn quanh một mình
    Đường quen không tới, tìm nhau ngại ngùng
    Chỉ vì đời mình, chưa có bình minh…

    [​IMG]

    Vài năm sau, cuộc hôn nhân thứ 2 tan vỡ, không ai trong 2 người nói rõ nguyên nhân vì sao.

    Năm 1995, nhạc sĩ Lam Phương lại quay trở lại Hoa Kỳ, lại trải qua một cuộc hôn nhân thứ 3 nữa, nhưng cũng nhanh chóng bị đổ vỡ.

    [​IMG]

    Từ năm 1996 đến 1998, ông cộng tác với các trung tâm ca nhạc và đi lưu diễn. Riêng trung tâm Thuý Nga đã thực hiện rất nhiều chương trình nhạc Lam Phương. Tiền tác quyền thu được trong thời gian này đủ để nhạc sĩ không phải sống chật vật như thời sau 1975.

    [​IMG]

    Đến năm 1999, tai họa ập đến trong đời khi ông bị tai biến, liệt nửa người. Người em gái út phải bỏ công việc kinh doanh nhà hàng bên Pháp để sang Hoa Kỳ chăm sóc anh trai. Từ đó đến nay, nhạc sĩ Lam Phương vẫn sống tại Hoa Kỳ với sự chăm sóc tận tình của người em gái và người cháu.








     
    Chỉnh sửa cuối: 31/12/20
  13. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    Vào năm ngoái (2019), nhac sĩ Lam Phương tâm sự trên Người Việt TV rằng một ngày hiện nay đối với ông chỉ là quanh quẩn trong 4 góc phòng. Tuổi cao, không ngủ được, buổi sáng dậy thật sớm nằm nghe lại những bản nhạc của chính mình, rồi coi TV đến trưa, cố đếm thời gian qua thật nhanh nhưng đêm về lại trằn trọc với những nỗi niềm xa xứ và chống chọi những cơn đau do bệnh. Tình cảnh hiện tại của ông khiến người ta liên tưởng đến một sáng tác rất nổi tiếng trước năm 75 của ông: Xin Thời Gian Qua Mau.

    [​IMG]


    Nhạc của Lam Phương, bao gồm cả sáng tác trước và sau năm 1975, có rất nhiều ca khúc thuộc dạng nằm lòng đối với nhiều thế hệ yêu nhạc. Tuy có 1 điều ít người biết là từ năm 1975 đến 2011, tất cả các bài hát của ông đều bị cấm lưu hành ở trong nước.

    Từ năm 2011, công ty Bến Thành Audio ở trong nước đã chủ động liên lạc với nhạc sĩ Lam Phương và qua trực tiếp bên Mỹ để mua bản quyền nhạc Lam Phương tại Việt Nam. Sau đó hãng này đã xin phép cơ quan chức năng để được phép lưu hành nhạc Lam Phương ở trong nước.

    Cho đến nay, có khoàng 120 ca khúc của nhạc sĩ Lam Phương được phép lưu hành trong địa phận Việt Nam.


    Đôi điều về “Thành Phố Buồn” – Ca khúc ăn khách nhất trong lịch sử âm nhạc Việt Nam

    [​IMG]

    Năm 1959, nhạc sĩ Lam Phương lập gia đình với nữ kịch sĩ Tuý Hồng khi 22 tuổi và có một cuộc sống hạnh phúc. Tuy nhiên khoảng thời gian sau đó, ông đã có những mối tình thoáng qua với 1 số nữ ca sĩ xinh đẹp như Minh Hiếu, Bạch Yến và Hạnh Dung. Từ những mối tình này, ông đã có cảm hứng để sáng tác nhiều ca khúc nhạc vàng bất hủ. Viết cho Bạch Yến là các ca khúc Tình Bơ Vơ, Chờ Người, Tiễn Người Đi, Thu Sầu,… viết cho Minh Hiếu có Biển Tình, Em Là Tất Cả, Biết Đến bao Giờ… với ca sĩ Hạnh Dung là các ca khúc Phút Cuối, Tình Nghĩa Đôi Ta Chỉ Thế Thôi và Thành Phố Buồn.

    Trong số đó, có lẽ bài Thành Phố Buồn nổi tiếng và được yêu thích hơn cả. Nhạc sĩ Lam Phương nói rằng trong số những bài hát của ông thì Thành Phố Buồn được thu âm nhiều nhất. Một ca khúc không có chữ Đà Lạt nào, nhưng khi thưởng thức bài hát, cả một không gian Đà Lạt mờ sương lãng đãng đã vây tràn cảm xúc của người nghe nhạc.

    Bài hát này được ông viết khi đang trải qua chuyện tình với cô ca sĩ Hạnh Dung, vốn không nổi tiếng vì chỉ hát trong Biệt đoàn văn nghệ trung ương, nơi nhạc sĩ Lam Phương đang công tác.

    Hoàn cảnh sáng tác của bài Thành Phố Buồn được kể lại rằng trong một lần ông đi công tác trên Đà Lạt mà không có người yêu đi cùng, rồi ray rứt nhớ lại kỷ niệm xưa, đã nhiều lần ông hẹn hò cùng Hạnh Dung ở thành phố sương mù này. Vào một buổi chiều, khi đồng nghiệp đã ra ngoài ăn cơm, một mình Lam Phương ngồi trong căn nhà trọ lưng chừng đồi nhìn xuống thung lũng, phong cảnh hữu tình làm ông tha thiết nhớ người yêu và có cảm xúc để viết thành ca khúc:

    “Thành phố buồn nhớ không em
    Nơi chúng mình tìm chút êm đềm



    Quỳ bên em trong góc giáo đường
    Tiếng kinh cầu dệt mộng yêu đương
    Chúa thương tình, sẽ cho mình, mãi mãi gần nhau”.

    [​IMG]

    Lam Phương cũng cho biết rằng cái cớ nhớ người yêu chỉ là một trong những yếu tố cảm xúc, lý do chính tạo nên cảm hứng của sáng tác Thành Phố Buồn là ông gặp được phong cảnh nên thơ lãng mạn của thành phố sương mù, rồi tưởng tượng thêm những hình ảnh về một đôi tình nhân quỳ trong góc giáo đường, xa cách nhau vì nàng trốn phong ba để làm dâu nhà người.

    Trong bài hát này, có câu hát nhạc sĩ Lam Phương viết như sau:

    Rồi từ đó TRỐN phong ba, em làm dâu nhà người.

    Tuy nhiên, hầu hết các ca sĩ Việt Nam đều hát ‘CHỐN phong ba em làm dâu nhà người’.

    Sự việc này đã được ca sĩ Phương Dung đính chính nhiều lần trên báo đài. Tuy nhiên, vẫn có nhiều thính giả không đồng ý và cho rằng lời đúng của bài hát phải là “chốn phong ba” mới đúng. Để làm rõ hơn về câu chữ này, chúng ta có thể lật lại tờ nhạc gốc do chính tác giả phát hành trước năm 1975, và thấy tờ nhạc ghi rõ là “TRỐN phong ba”. Xem hình bên dưới:

    [​IMG]

    Ngoài ra, chính xác nhất là hỏi trực tiếp nhạc sĩ Lam Phương xem ông sử dụng chữ nào trong sáng tác của mình. Vào 3 năm trước, ca sĩ Huỳnh Phi Tiễn đã phỏng vấn nhạc sĩ Lam Phương và đưa ra câu hỏi về vấn đề này, ông đã trực tiếp nói như sau:

    Bởi vì TR và CH gần giống nhau nên nhiều ca sĩ họ nghe không rành, vì không có bản gốc để đối chiếu nên họ tưởng tôi viết là “chốn phong ba”, nhưng thật ra là TRỐN, “trốn tránh phong ba” để đi làm dâu người ta. (Lam Phương)

    Mời các bạn xem buổi phỏng vấn này ở bên dưới (xem từ phút 3(cat)0)

    [​IMG]

    Nếu như chính tác giả đã xác nhận từng câu chữ thì không còn lý do nào để tranh cãi nữa.

    Vào năm ngoái, trong cuộc nói chuyện trên báo Người Việt, nhạc sĩ Lam Phương cho biết cuộc đời ông, ngoài người vợ Tuý Hồng, còn có 4 mối tình sâu đậm khác là Bạch Yến, Minh Hiếu, Hạnh Dung và người vợ thứ 2 tại Pháp là Cẩm Hường.

    Tuy nhiên ông cũng tránh nhắc thêm chi tiết về những cuộc tình này vì muốn giữ riêng làm kỷ niệm, và ai cũng đều đã có cuộc sống gia đình riêng.

    [​IMG]

    [​IMG]

    Ca khúc Thành Phố Buồn mang lại cho tác giả nguồn thu nhập rất lớn vì bản nhạc tờ được bán rất chạy, trở thành 1 trong những ca khúc ăn khách nhất trong lịch sử âm nhạc Việt Nam. Số tiền thu được từ Thành Phố Buồn ước tính lên đến 12 triệu đồng.

    Để hình dung con số 12 triệu đồng khi đó lớn như thế nào, hãy cùng xem lại phần phân tích của tác giả Nguyễn Thanh Nhã trong cuốn Lam Phương – Trăm Nhớ Ngàn Thương như sau:

    Tiền VNCH thập niên 1970 quy đổi sang USD là 1 USD = 27,5 đồng, vậy 12 triệu đồng tương đương 436.000 USD, tức gần nửa triệu đô la.

    Để dễ hình dung, môt chiếc xe hơi hiệu La Dalat của hãng Citroen sản xuất tại Nam Việt Nam vào năm 1971 có giá khoảng trên dưới 650.000 đồng. Vậy tiền thu được từ ca khúc Thành Phố Buồn có thể mua được gần 20 chiếc xe hơi.

    Theo nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn, tiền lương của một vị đại tá quân đội khi đó 50.000 đồng/tháng, tính cả trợ cấp. Như vậy chỉ viết một bài hát, Lam Phương đã có thu nhập bằng 20 năm cống hiến trong quân ngũ của 1 đại tá.

    Đó là một điều vô tiền khoáng hậu trong lịch sử âm nhạc Việt Nam.

    Nhắc tới Thành Phố Buồn thì không thể không nhắc tới giọng hát Chế Linh, cũng là người hát bài này đầu tiên trước năm 1975. Mời các bạn nghe lại bản thu âm này:

    [​IMG]


    Một điều ít người biết rằng ca sĩ Hạnh Dung – nhân vật chính trong bài hát này cũng chính là ca sĩ Kim Dung, sau năm 1975 trở thành người vợ thứ 2 của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh.






     
    Chỉnh sửa cuối: 31/12/20
  14. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    Hoàn cảnh sáng tác và ý nghĩa của ca khúc “Nắng Đẹp Miền Nam” (Lam Phương) – Đây quê hương thân yêu miền Nam…

    [​IMG]

    Trong khoảng thời gian sau năm 1955, với những cảm xúc khi được chứng kiến từng đoàn người di cư vào Nam sau hiệp định Geneve lịch sử, nhạc sĩ Lam Phương đã sáng tác những bài hát Chuyến Đò Vỹ Tuyến, Nhạc Rừng Khuya, Đoàn Người Lữ Thứ, Nắng Đẹp Miền Nam… để nói về quê hương miền Nam trù phú, xinh đẹp và tràn đầy tình bác ái. Đặc biệt là ca khúc Nắng Đẹp Miền Nam (lời của Hồ Đình Phương) vẽ nên một bức tranh thanh bình của một vùng thôn quê:

    Đây trời bao la ánh nắng mai hé đầu ghềnh lan dần tới đồng xanh.
    Ta cùng chen vai đem tay góp sức tăng gia cho người người vui hòa
    Đường cày hôm nay lên tràn bông lúa mới ôi duyên dáng đồng ơi
    Đến mai sẽ là ngày muôn hạt chín lả lơi
    mình ngắm nhau cười.

    [​IMG]

    [​IMG]

    Nhạc sĩ Lam Phương kể lại là lúc ông 7 tuổi, khi quân đội Pháp trở lại chiếm miền Nam năm 1944, ông phải theo mẹ đi tản cư về miền đồng quê. Từ thời gian đó ông mới được nhìn thấy cảnh đồng quê thực sự, như cảnh gặt lúa, cấy lúa, giã gạo…, và những hình ảnh đẹp đó đã đeo đuổi trong trí nhớ đến 10 năm sau, rồi được ông đưa vào trong các nhạc phẩm đầu đời của mình, điển hình là 2 ca khúc mang tên Khúc Ca Ngày Mùa, Nắng Đẹp Miền Nam.

    [​IMG]


    Kìa đàn chim quê chim tung bay về đâu
    mang tin rằng giờ đây ta sống với bình minh.
    Tiếng ca trong lành tiếng ngát lừng trời xanh
    đẹp biết bao tâm tình.

    Tình là tình nồng thắm
    buộc lòng mình vào núi sông: tình mến quê hương.
    Ngàn bóng đêm phai rồi
    vầng dương lên soi đời làng ta nay rạng ngời…

    [​IMG]

    Bóng đêm của ngày xưa đã lùi xa, trong ngày mới này những người cần lao đã được sống dưới vầng dương rạng ngời. Bài ca thể hiện niềm tự hào của những người nông dân khi được sống trong một bầu không khí hân hoan với một bình minh đang hé rạng, họ buộc tình mình vào với núi sông với tình yêu mến quê tha thiết, và mong đàn chim nhỏ kia bay đi loan tin cùng khắp thế gian, cho những mảnh đời còn đang phải chìm trong u tối.

    Khi người lính chiến đã đấu tranh hiến hoà bình cho Đồng Tháp Cà Mau
    Ta người nông thôn quên sương gió góp gian lao lo được mùa mong cầu
    Nhờ tình quân dân gây bao niềm thương ấm cúng non sông đón bình minh
    gắng lên với ngày này ta cùng tưới đồng xanh
    rồi sống no lành.

    [​IMG]


    Ở đoạn cuối là sự tri ân của nhạc sĩ đối với những người đang gian lao tranh đấu để giữ lấy sự yên bình cho những thành thị thôn quê. Nhiệm vụ của những người chốn nông thôn có thể ít vất vả hơn, nhưng cũng rất quan trọng là ở trên ruộng đồng cho những vụ mùa bội thu, góp sức dựng xây quê nhà. Đó là tình quân nhân gắn kết để cùng vui sống dưới ánh bình mình của non sông.

    [​IMG]

    Đây quê hương thân yêu miền Nam
    nắng lên huy hoàng đẹp mùa vui sang…

    Với nhạc phẩm Nắng Đẹp Miền Nam này, nếu nghe qua thì tưởng như chỉ là một bài nhạc đồng quê thông thường. Nhưng nếu xét về bối cảnh sáng tác, thì bài hát còn mang những thông điệp lịch sử về một giai đoạn có nhiều biến đổi lớn của đất nước, là tiếng hát vang lừng cất lên từ thôn quê, nơi có những người dân lành chân chất luôn mong cầu có được một đời sống bình yên để an tâm chuyên việc đồng án và góp sức dựng xây quê hương.

    [​IMG]

    Ca khúc này được nhạc sĩ Lam Phương sáng tác khoảng năm 1957. Hơn 60 năm sau, Nhà xuất bản Tinh Hoa Hải Ngoại mua bản quyền bài hát này để tái bản tờ nhạc, và đây cũng là ấn phẩm đầu tiên mà nhà xuất bản này thực hiện, với hình bìa mang phong cách trước năm 1975:

    [​IMG]

    [​IMG]








     
    Chỉnh sửa cuối: 31/12/20
  15. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    Bài hát “Xin Thời Gian Qua Mau” của nhạc sĩ Lam Phương và những dự cảm về cuộc đời

    [​IMG]

    Cách đây nhiều năm, khi được nghe Hoàng Oanh hát Xin Thời Gian Qua Mau trong một phiên bản thu hình trên Asia năm 1999, tôi tưởng rằng đây là một sáng tác sau năm 1975, thời điểm mà người Việt hải ngoại phải bôn ba xứ người, và luôn mang tâm thức “ngày về ôi xa quá, cánh nhạn còn miệt mài…”

    Ngoài ra, trước khi hát, cô Hoàng Oanh còn ngâm 4 câu thơ của Thanh Nam trích trong bài Mưa Đêm Trừ Tịch viết năm 1983 tại Hoa Kỳ như sau:

    Ôi cố hương xa nửa địa cầu
    Nghìn trùng kỷ niệm vẫn theo nhau
    Đêm nay ta đốt sầu lưu lạc
    Trong khói men nồng hạnh phúc xưa…

    [​IMG]


    Có lẽ ai cũng phải công nhận nhạc sĩ Lam Phương một nhạc sĩ tài ba, nhưng liệu có thể gọi ông là một thiên tài bị đầy ải? Cuộc đời tài hoa của ông đã trải qua nhiều biến cố thăng trầm, nhưng rồi cuối cùng là những năm ông phải chịu cảnh đời đúng như trong lời nhạc ông đã viết: “Sơm trưa khuya tối nhìn quanh một mình” trong bài hát Một Mình. Thật cô đơn và quạnh quẽ biết bao.

    Tương tự, ca khúc Xin Thời Gian Qua Mau được sáng tác trước năm 1975, nhưng tưởng như là được nhạc sĩ viết cho hoàn cảnh của chính mình từ năm 1999, khi ông lâm vào bạo bệnh, liệt gần nửa người.

    Ông từng tâm sự về quãng thời gian sau đó là cả ngày chỉ là quanh quẩn trong bốn góc phòng. Tuổi cao khó ngủ, buổi sáng ông dậy thật sớm để nằm nghe lại những bản nhạc của mình, rồi coi tivi đến trưa rồi cố đếm thời gian qua thật nhanh. Nhưng đêm về lại trằn trọc với nỗi niềm xa xứ, lại phải chống chọi với những cơn đau bệnh…

    [​IMG]


    Buồn nào hơn đêm nay
    Buồn nào hơn đêm nay
    Khi ngoài kia bão tố đầy trời

    Từng cánh lá cuốn gió
    Rơi vào lòng đêm thâu
    Thương thầm mối tình Ngâu…

    Ngày về ôi xa quá
    Cánh nhạn còn miệt mài
    Trong nắng hồng mê say

    Lạc bầy chim chíu chít
    Hai phương trời cách biệt
    Đêm chờ và đêm mong…

    Lúc viết ca khúc này, nhạc sĩ Lam Phương vẫn còn trẻ, đang ở đỉnh cao của cuộc đời và sự nghiệp, có trong tay cả danh tiếng lẫn rất dư dả về tài chính chỉ với một nghề duy nhất là sáng tác nhạc.

    Có tuổi trẻ, có danh vọng, có tiền bạc, thông thường những người như vậy sẽ mong có thật nhiều thời gian để tận hưởng cuộc sống. Nhưng Lam Phương thì ngược lại, ông mong thời gian qua nhanh. Có lẽ thời gian đó đã xảy ra một biến cố tình cảm lớn lao đối với ông, và bây giờ đọc lại từng chữ của bài hát này, dù kiểu nào thì vẫn thấy rằng Lam Phương như đang viết cho đời mình vào tận 30 năm sau đó, khi “bôn ba trên xứ người” và chưa một lần về lại đất mẹ.

    Đó có phải là một dự cảm về tương lai, hay là âm nhạc đã vận vào cuộc đời của người nhạc sĩ?

    [​IMG]


    Click để nghe Dạ Hương hát trước 1975
    Ta đã quen, quen từng hơi thở
    Quen tiếng cười và sóng mắt đưa tin
    Tám mùa đông cây rừng khô trụi lá
    Chưa bao giờ một phút sống xa nhau

    Thương những đêm trăng tà soi xóm vắng
    Đưa em về anh viết thành bài ca
    Thương những khi trưa hè nghiêng nắng đổ
    Hắt hiu buồn tiếng võng nhè nhẹ đưa

    Tôi chưa từng được diễm phúc gặp nhạc sĩ để hỏi ông rằng “tám mùa đông” trong đoạn này có ý nghĩa như thế nào, chỉ đoán rằng đó là mốc thời gian quan trọng trong đời của ông cùng với một người đặc biệt nào đó, là thời gian được ở bên cạnh, thân cận và gần gũi, quen cả từng hơi thở và chưa từng một phút sống xa nhau. Bài hát này được nhạc sĩ Lam Phương sáng tác vào giữa thập niên 1960, với lời đề tặng ghi trên tờ nhạc là: “Viết cho T. những ngày nhớ em”. Không rõ T là người đẹp nào mà để lại cho nhạc sĩ vết thương lòng sâu sắc đến như vậy.

    Trong giây phút chỉ còn một mình trong đêm để tự sự với chính mình, người đàn ông u buồn kia bỗng nhớ về kỷ niệm, với những đêm đưa nhau về dưới trăng tà soi xóm vắng, hoặc là những trưa hè nghiêng nắng đổ hắt hiu buồn.

    [​IMG]

    [​IMG]

    Buồn nào hơn đêm nay
    Buồn nào hơn đêm nay
    Khi tình xuân đã úa bụi đời

    Nhiều lúc biết trách móc
    Hay giận hờn vu vơ
    Chỉ làm phí ngày thơ

    Dù rằng sau mưa bão
    Gió hiền hòa lại về
    Vẫn thấy lòng hoang vu

    Cuộc đời là hư vô
    Bôn ba chi xứ người
    Khi mình còn đôi tay…

    Rồi thời gian qua đi, khi tình xuân đã úa tàn, cũng giống như một cơn bão băng ngang qua đời, để lại một người đang ngồi gặm nhấm nỗi buồn vô hạn trong những đêm vơ vơ và chỉ muốn thời gian qua thật nhanh, để mong đón gió hiền hòa về lại bình an bên mình…

    [​IMG]

    Nhạc của Lam Phương, dẫu là nhạc vui tươi hay là nhạc mang nỗi buồn sâu thẳm, thì hiếm có bài nào mang triết lý sâu xa, mà đều là những ca khúc được viết từ cảm xúc chân thành, như thể mọi niềm vui, nỗi buồn đều được hiển hiện trên từng khuông nhạc. Và những lời nhạc mà ông viết năm xưa lại vận vào chính cuộc đời đơn độc của ông trong những năm về sau này.







     
    Chỉnh sửa cuối: 31/12/20
  16. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    Cảm nhận âm nhạc: Cỏ Úa (nhạc sĩ Lam Phương) – Cứ cúi mặt đi để nghe đời lầm lỡ…

    [​IMG]

    Ca khúc Cỏ Úa là một trong nhiều bài ca thất tình của nhạc sĩ Lam Phương, vốn là một nhạc sĩ tài hoa và đào hoa vào bậc nhất của miền Nam trước 1975. Có nhiều bóng hồng đã đi qua đời ông, rồi khi duyên kiếp không thành đã để lại tiếc nhớ buồn thương và cũng là cảm hứng trong nhiều sáng tác của nhạc sĩ, trong đó có bài Cỏ Úa:

    Còn nhớ tên nhau xin gọi trong giấc mộng
    Còn chút thương yêu xin đưa vào dư âm
    Có phải còn yêu vì đôi lần thầm nhớ
    Mình đã thật quên cớ sao lòng vẫn chờ.

    [​IMG]

    Đường đời trăm vạn lối, ai khiến xui cho hai người gặp nhau trên một khúc đường tình ngắn ngủi rồi ngậm ngùi chia tay. Đôi khi chợt nhớ đến nhau chỉ “xin gọi trong giấc mộng” (Nhạc sĩ thời trước thường trân trọng cuộc tình và người tình của mình, nên trong sáng tác âm nhạc thường dùng từ “xin gọi”, như “Xin Còn Gọi Tên Nhau” của nhạc sĩ Trường Sa hoặc “Xin Gọi Nhau Là Cố Nhân” của Hàn Sinh).

    “Còn nhớ tên nhau xin gọi trong giấc mộng”, nghe như nỗi nhớ còn vương nỗi xót xa thương cảm về cuộc tình đã mất, mơ hồ tiếng gọi tên nhau nửa tiếc nuối, nửa se thắt cuối giấc mê đã khép cổng thiên đường.



    “Còn chút thương yêu xin đưa vào dư âm”. Dư âm của tiếng đàn buông tiếng tơ sầu hay dư âm của tháng ngày hoa mộng cũ? Dư âm nào cũng là chuỗi kỷ niệm đẹp long lanh ngấn lệ tiếc nhớ sầu thương

    Tâm tư của một người nhớ một người đôi khi trở nên ngơ ngẩn tự hỏi một đôi lần thầm nhớ như thế có phải là mình còn yêu hay không? Đã nhiều lần “cố quên” đi nhưng làm sao quên được khi lòng vẫn còn chờ hình bóng của ai đó chỉ trở về trong những giấc mơ đẹp trên đời.

    Từ lúc em đi trong rượu cay men nồng
    Màu trắng khăn tang quanh căn phòng cô đơn
    Bão tố triền miên ngày em về nhà đó
    Buồn hắt buồn hiu ngõ đêm sầu cô liêu

    Càng xây đắp mộng đẹp cao vời thuở ban đầu càng đớn đau khi mộng tình tan vỡ. Em đi trong pháo đỏ rượu hồng tiệc vui ngày cưới, cũng là đi trong men rượu nồng cay đắng riêng anh. Cuộc đời trở nên hoang vu tẻ lạnh và căn phòng anh cô đơn rợn người trong màu trắng khăn tang. Như sau mùa vu qui là những mùa buồn hắt hiu tiếp nối, người ở lại ôm nỗi thất tình nghe bão tố triền miên, qua từng chiều quạnh hiu cô độc, từng đêm sầu lẻ bóng cô liêu.

    [​IMG]

    Một chiều trên đồi em làm thơ
    Cỏ biếc tương tư vàng úa
    Mộng dệt theo đàn bên người mơ
    Mới biết mình yêu bao giờ.

    Thuở ban đầu đẹp như thế làm sao mà quên cho được: “Một chiều trên đồi em làm thơ”

    [​IMG]

    Khi em làm thơ cũng là khi em đang thả ước mơ tình yêu trên đồi chập chùng sương mây mơ mộng. Khi em làm thơ, cỏ biếc kia cũng tương tư đến vàng úa, huống chi anh là kẻ đa tình đa cảm làm sao mà không tương tư “người mơ” đến úa cả lòng. Người mơ không đến trong giấc mơ mà đến với một chiều có thật, cho anh mộng dệt theo đàn buông cung điệu ước mơ từ ngày ban đầu đẹp như thế đó.

    Hỡi cố nhân ơi chuyện thần tiên xa vời
    Tình đã như vôi mong chi còn chung đôi
    Cứ cúi mặt đi để nghe đời lầm lỡ
    Đừng níu thời gian cho thêm sầu vương mang.

    Rồi màu cỏ biếc trên đồi ngày nào đã thành màu “Cỏ úa” từ lúc em đi, ngày hồng thắm yêu thương đã hóa thành ngày tím hoen màu sầu nhớ. Chuyện ngày xưa mỗi lần nhớ lại như chuyện thần tiên xa vời theo tháng ngày vời vợi… Tình đã bạc trắng như vôi thì còn thầm mong thầm nhớ chi nữa hỡi cố nhân ơi!

    “Cứ cúi mặt đi để nghe đời lầm lỡ”. Tại sao là “đời lầm lỡ” chứ không phải là “tình lầm lỡ” hay là “mình lầm lỡ”? Có lẽ đây là lối dụng từ của nhạc sĩ có dụng ý: không trách móc người mình đã yêu thương, đã xin gọi tên nhau trong những giấc mộng đẹp nhớ về.

    Có trách chăng là tự trách mình… “chưa thật quên” nên tình vương vấn mãi thời gian tuyệt đẹp thuở ấy em làm thơ và anh soạn nhạc, càng lưu luyến càng sầu nhớ vương mang. Mà mấy ai mà không nương níu trong tâm tưởng cái khoảng thời gian đẹp nhất của đời người ấy được, vì: “Cái phút ban đầu lưu luyến ấy. Nghìn năm hồ dễ mấy ai quên”.

    Cỏ Úa là một trong những sáng tiêu biểu nhất của nhạc sĩ Lam Phương thời kỳ sau năm 1975 và đã có rất nhiều ca sĩ hát, nhưng tôi vẫn ấn tượng nhất với bản song ca của Don Hồ và Lâm Thúy Vân với bản hoà âm rất tuyệt vời của trung tâm Asia sau đây:

    [​IMG]


    “Nhạc Rừng Khuya” và “Đoàn Người Lữ Thứ” – Những bài ca hùng tráng của nhạc sĩ Lam Phương


    [​IMG]

    Trong gia tài đồ sộ của sự nghiệp âm nhạc đầy vinh quanh của nhạc sĩ Lam Phương, chúng ta có thể thấy được tính đa dạng, đa sắc màu trong đó. Từ ca khúc đầu tay là Chiều Thu Ấy mang đẫm tinh thần lãng mạn của nhạc thời kỳ tiền chιến, đến sau đó là những bài hát ngợi ca quê hương như Khúc Ca Ngày Mùa, Trăng Thanh Bình, Nắng Đẹp Miền Nam, những ca khúc viết về thân phận như Kiếp Nghèo, Đèn Khuya, cho đến hằng hà sa số những bài tình ca cả vui lẫn buồn, chúng ta có thể tìm thấy những ca khúc hùng tráng có thể được xếp vào thể loại hùng ca của nhạc sĩ Lam Phương, đó là Nhạc Rừng Khuya (sáng tác năm 1955) và Đoàn Người Lữ Thứ (sáng tác năm 1957). Những ca khúc này đều được nhạc sĩ sáng tác khi tuổi chưa tròn đôi mươi, nhưng được đánh giá rất cao cả về giai điệu lẫn ca từ, đã trở thành những bài hát bất tử cùng thời gian.

    Ca khúc Đoàn Người Lữ Thứ được nhạc sĩ Lam Phương sáng tác khi đang đi trên một chuyến xe lửa dự trại hè liên trường từ Sài Gòn ra đến Nha Trang. Đi dọc theo những nẻo đường đất nước, ông xúc động nhìn cảnh núi rừng hùng vĩ, vừa thơ mộng, và khi đoàn tàu đến ga Nha Trang, ca khúc Đoàn Người Lữ Thứ cũng được hoàn thành.

    [​IMG]


    Nhà văn Võ Hiếu Nghĩa cùng đi với nhạc sĩ Lam Phương trên chuyến xe lửa này, đã kể lại trong hồi ký như sau

    “Xe lửa bắt đầu khởi hành từ 7h30 tối đến khoảng 9h30 – 10h khuya, hai anh em ra ngồi ngoài hành lang giữa hai toa xe, chỗ đó là nơi rộng rãi nhất (xe lửa bây giờ thì đã bị ngăn chặn lại và đóng lại bằng các cửa ngang để tránh việc đeo bám xe trốn phí và cũng tránh hiểm nghèo cho hành khánh, có thể bị té xuống đường). Anh Lam Phương có đem theo cây đàn guitar vừa nhìn phong cảnh rừng cây hai bên đường vừa hát lên theo hứng một khúc nhạc, về sau anh mới đặt tên cho nó là Đoàn Người Lữ Thứ”.

    [​IMG]


    Còn đối với ca khúc Nhạc Rừng Khuya, được nhạc sĩ Lam Phương sáng tác lúc mới 18 tuổi. Ở cái tuổi còn rất trẻ như vậy, với cảm nhận tinh tường về hoàn cảnh đất nước, và với nhạc cảm của một thiên tài, Nhạc Rừng Khuya với nhịp điệu hùng tráng như là lời kêu gọi thức tỉnh cho tinh thần của dân tộc trong thời nguy biến:

    Lửa cháy hăng lửa dục lòng dân đoàn kết
    Lửa reo vang lửa gào lòng ta nguồn sống
    Lửa Tự Do muôn năm vẫn reo rừng ơi…

    [​IMG]


    Sau đây, xin trích lại bài viết của tác giả Mạc Kim Sa đăng trên một tờ báo năm 1955, chỉ vài tháng sau khi ca khúc này ra đời, phân tích tinh thần của bài hát Nhạc Rừng Khuya vào thời điểm đó:

    Lam Phương phụ diễn tinh thần tranh đấu của Việt Nam trong bản Nhạc Rừng Khuya mô tả sự lạnh lẽo về đêm của núi rừng và đoàn người chiến sĩ vượt qua đấy. Lời ca hùng tráng, họ chống với rét, với mệt nhọc, lúc nào cũng nung nấu tình yêu nước.

    “Rừng căm hờn ngày nào thù lan tràn khắp
    Rừng oán thù ngày nào giặc sang tàn phá”

    Nói tới rừng khuya, Lam Phương không quên đống “lửa hùng” tượng trưng niềm hy vọng ca cả và mãnh liệt của một dân tộc khát tự do và lúc nào cũng tin tưởng nơi sự làm việc và cố sức chiến đấu gan lỳ và dẻo dai.

    “Lửa cháy hăng lửa giục lòng dân đoàn kết
    Lửa reo vang lửa gào lòng ta nguồn sống”

    Và không quên, Lam Phương tán dương tinh thần đoàn kết của loài người đối với núi rừng.

    [​IMG]


    Giữa một đêm sương lạnh lẽo với núi rừng, các chiến sĩ dũng cảm thấy ấm cúng một phần nào khi liên tưởng đến gia đình, nghĩa gia tộc, hay người cô phụ lúc đêm trường.

    Lam Phương lại lặp đi lặp lại hai chữ “nhạc rừng” để nhấn mạnh sự hùng vĩ, to rộng bao la của nó cũng như lòng chiến đấu mãnh liệt của dân tộc Việt Nam khi ôm một hoài bão rửa thù cho quê hương.




     
    Chỉnh sửa cuối: 31/12/20
  17. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    Hoàn cảnh sáng tác và cảm nhận về ca khúc “Kiếp Nghèo” của nhạc sĩ Lam Phương

    [​IMG]

    Ca khúc “Kiếp Nghèo” được nhạc sĩ Lam Phương sáng tác vào khoảng năm 1954 khi ông mới 17 tuổi, và ca khúc này luôn được xếp trong danh sách những bài nhạc điệu tango hay nhất của tân nhạc Việt. Trong hai thập niên 1950 và 1960, dù đã được nhiều ca sĩ hát, nhưng có lẽ Kiếp Nghèo được yêu thích nhất qua tiếng hát Thanh Tuyền kể từ bản thu thanh vào đầu thập niên 1970.

    [​IMG]


    [​IMG]

    Hồi năm 1997, nhạc sĩ Lam Phương kể lại hoàn cảnh sáng tác của ca khúc này trên chương trình Paris By Night số 40 như sau:

    “Tôi viết bài Kiếp Nghèo trong hoàn cảnh hoàn toàn thật của tôi lúc đó. Viết bằng rung động chân thành, và lần đầu tiên tôi viết bài Kiếp Nghèo bằng những giòng nước mắt… Lúc đó tôi còn trẻ lắm, khoảng 1954, sau khi tôi bán được bài Trăng Thanh Bình đầu năm 1953, tôi để dành được một số tiền, mua một chiếc xe đạp để di chuyển trong lúc đi học.

    Nhà tôi ở Dakao. Thường thường muốn về Dakao phải đi qua con đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ). Con đường Phan Thanh Giản cây cối um tùm. Khoảng ngang trường Gia Long không có một căn nhà nào… Đêm đó, tôi chẳng may gặp một trận mưa rất to, không có nơi để trú mưa, đành phải đi dưới mưa để tìm ‘thú đau thương’.

    Lúc đó, tôi thấy mình thật cô đơn, thấy mình bé nhỏ và hình như bị đời ruồng rẫy đến vô tình. Tôi đi mãi cho tới khi về nhà, không kịp thay quần áo, ôm cây đàn và cứ thế viết về Kiếp Nghèo, về phận bạc của mình”.

    [​IMG]

    Có thể nói nội dung bài hát Kiếp Nghèo cũng chính là tiếng lòng thật sự của nhạc sĩ Lam Phương ở thời điểm ông vừa đi học, vừa phải vất vả mưu sinh trong hoàn cảnh thiếu thốn. Sau khi được ra mắt, ca khúc Kiếp Nghèo rất ăn khách và tờ nhạc xuất bản bán rất chạy, mang lại một nguồn thu tài chính lớn cho nhạc sĩ Lam Phương, đủ cho ông trả hết nợ trước đó, lại còn dư thêm được một ít vốn.

    Một ca khúc viết về thân phận nghèo, lại có thể giúp cho tác giả vượt thoát ra được những tháng ngày khó khăn túng thiếu tại Sài Gòn.



    Bài hát có lối gieo vần như một bài thơ, điệu tango dồn dập cùng với ca từ có vần, có điệu rất xuôi tai và dễ ghi dấu ấn trong lòng khán giả.

    Đường về đêm nay vắng tanh
    Rạt rào hạt mưa rớt nhanh
    Lạnh lùng mưa xuyên áo tơi
    Mưa chẳng yêu kiếp sống mong manh

    Lầy lội qua muôn lối quanh
    Gập ghềnh đường đê tối tăm
    Ngập ngừng dừng bên mái tranh
    nghe trẻ thơ thức giấc bùi ngùi.

    Sài Gòn xưa với những lối hẻm quanh co, lầy lội, ngoằn ngoèo, như chính phận đời của những người cần lao từ chốn quê xa tìm lên thành đô để mưu sinh. Đó là những xóm lao động nằm ngay trong nội ô Sài Gòn thời thập niên 1950, nhiều nơi vẫn chưa có điện, nên đó là những lối đi còn tăm tối và gập gềnh.

    [​IMG]

    Trong không gian đó, có một cậu bé nghèo mặc áo tơi đang một mình trong mưa ướt lạnh, lững thững đi vào sâu trong hẻm tối khi bóng đêm đang phủ xuống dần. Ngập ngừng dừng chân trước một căn nhà mái tranh, cậu bỗng nghe tiếng em bé khóc khi thức giấc canh 2.

    Êm êm tiếng hát ngân nga, ôi lời mẹ hiền ru thiết tha
    Không gian tím ngắt bao la như thương đường về quá xa
    Mưa ơi có thấu cho ta lòng lạnh lùng giữa đêm trường.
    Đời gì chẳng tình thương không yêu đương.

    Ở nơi mà mọi thứ đều đang chìm vào một cõi u tối, thảm thê, cậu bé bỗng nhiên được chứng kiến trong mái tranh nghèo kia một sự sáng loà lên của thứ âm thanh kỳ diệu được vọng ra ngoài, là một hình tượng đẹp và rực rỡ đến vô cùng: “Êm êm tiếng hát ngân nga, ôi lời mẹ hiền ru thiết tha…”

    [​IMG]


    Đối lập với sự ấm áp và êm dịu đó, bên ngoài đang có một người phải bơ vơ lạnh lùng giữa đêm trường đi trong mưa gió. Cậu bé nhìn vào khe cửa thấy khung cảnh đầm ấm kia nên thấy xót xa cho mình vì phải chịu cảnh thiếu tình thương bao lâu, mà đường về quê cũ vẫn còn mịt mờ xa tắp. Nỗi buồn này chắc là chỉ có những giọt mưa lạnh đang thấm sâu vào tận trong tim là có thể thấu hiểu được mà thôi.

    Dường như đó không phải là tâm trạng riêng của người cậu bé kia, mà là của chung những số phận cần lao khác trong xã hội, bởi vì “Mưa chẳng yêu kiếp sống mong manh…”

    [​IMG]

    [​IMG]

    Thương cho kiếp sống tha hương, thân gầy gò gửi cho gió sương
    Đôi khi muốn nói yêu ai nhưng ngại ngùng đành lãng phai
    Đêm nay giấy trắng tâm tư gửi về người chốn mịt mùng
    Đời nghèo lòng nào dám mơ tình chung.

    “Cậu bé” kia chính là nhạc sĩ Lam Phương, một người quê gốc nhiều đời ở vùng Rạch Giá, nay phải sống tha phương để mưu sinh giữa những gió sương của chốn thành đô hoa lệ. Phận nghèo nên dù có thương ai thì cũng chỉ giấu kín trong lòng rồi đành để tình lãng phai mà không dám mơ về một cuộc tình thuỷ chung son sắt.

    Trời cao có thấu, cuối xin người ban phước cho đời con
    Một mái tranh yêu, một khối tình chung thủy không hề phai
    Và một ngày mai mưa không nghe tiếng khóc trong đêm dài
    Đây cả nỗi niềm biết ngày nào ai thấu cho lòng ai!

    [​IMG]
    Tranh: Phạm Ánh

    Nội dung bài hát này, từ đầu đến cuối đều là tâm sự của một kẻ nghèo. Sau này, vào khoảng đầu thập niên 1970, có rất nhiều “bài hát nghèo” khác được ra đời, thường là có nội dung kể kể và than thân trách phận với cách hát rền rĩ nhằm làm tăng thêm phần bi đát của phận số, thí dụ như bài Đám Cưới Nghèo, Hai Bàn Tay Trắng, Nhẫn Cỏ Cho Em…

    Tuy nhiên, ở giữa những ca khúc nghèo thông thường đó, bài Kiếp Ngèo của nhạc sĩ Lam Phương mang một giá trị khác biệt, từ cả lời ca lẫn giai điệu. Với giai điệu tango nhanh, dồn dập, cùng với ca từ có cách gieo vần như thơ làm cho bài Kiếp Nghèo đỡ mang tính bi lụy hơn. Nội dung bài hát cũng có mang nhiều lớp nghĩa, không đơn thuần chỉ là mô tả tâm trạng của người nghèo như các bài hát khác.






     
    Chỉnh sửa cuối: 31/12/20
  18. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
    Tranh: Phạm Ánh
    Ngoài ra, có thể nói ca khúc Kiếp Nghèo như là một bức tranh thu gọn sống động về một xóm nghèo ngày xưa trong những hẻm dài quanh co và heo hút.


    Vài cảm nhận về ca khúc “Khóc Thầm” – Bài hát buồn nhất của nhạc sĩ Lam Phương

    [​IMG]

    Trước năm 1975, nhạc sĩ Lam Phương nổi tiếng với các tình khúc ăn khách bật nhất, đưa tên tuổi của ông trở thành 1 trong những nhạc sĩ được mến mến nhất thời bấy giờ: Thành Phố Buồn, Phút Cuối, Duyên Kiếp, Tình Bơ Vơ… Trong số các tác phẩm nổi tiếng nhất và hay nhất của ông viết về tình yêu, có thể kể đến ca khúc Khóc Thầm.

    “Khóc Thầm” được nhạc sĩ Lam Phương sáng tác vào khoảng đầu thập niên 1970 và được nhiều danh ca thu thanh trước năm 1975 là Thanh Thúy, Chế Linh và Hương Lan. Trong những bài hát tình yêu đôi lứa của nhạc sĩ Lam Phương thì Khóc Thầm có thể xem là ca khúc buồn, nức nở và đau thương nhất. Bài hát dễ đi vào lòng người vì có ca từ chân thật, là nỗi lòng chung của biết bao nhiêu cô gái đã trải qua tâm trạng thất tình trên cõi đời này, có thể vì vậy mà cho đến nay “Khóc Thầm” vẫn là một trong những ca khúc tiêu biểu của dòng nhạc vàng Việt Nam.



    Nội dung bài hát “Khóc Thầm” là lời tâm tình của cô gái gửi cho người yêu sau khi chia tay một cuộc tình đầy day dứt, nhiều kỷ niệm. Hình dáng người con gái nhỏ bé, lẻ loi độc bước về gác trọ dễ gợi lòng thương cảm:

    Tiễn anh đi rồi em về gác lạnh buồn hiu
    Ngoài trời trăng tỏ mà sao ướt đôi tay mềm?
    Bóng đêm ngỡ là người em yêu, khép đôi mi lại càng thương nhiều
    Trời ơi thương nhớ bao năm mặn nồng bây giờ lìa nhau…

    Đêm trăng tỏ, bầu trời đầy những vầng sáng huy hoàng, nhưng với nàng thì xung quanh đây chỉ còn là nỗi quạnh vắng. Úp đôi bàn tay nhỏ để giấu gương mặt thiếu nữ với những giọt nước mắt ngắn dài. Đôi tay mềm yếu này của nàng làm sao mà níu kéo được cuộc tình mới vừa qua? Nhìn bóng đổ dài trên đường, hình với bóng thì gắn liền với nhau, vì sao bóng kia không phải là người em yêu? Nàng đau đớn, khép đôi mi vẫn còn đang ngỡ ngàng để hồi tưởng quá khứ đẹp đã không còn đâu nữa. Trời ơi, chỉ còn lại một vùng thương nhớ mà thôi…

    Đoạn điệp khúc của bài là lời bày tỏ tâm sự của đôi nhân tình đã phải xa cách sau bao năm chung hình chung bóng không hề rời phút giây nào.

    [​IMG]

    [​IMG]

    Em thương anh, từ đây cách biệt nụ cười,
    đường xa gió lạnh mưa nhiều
    và đời anh đắng cay trăm chiều.

    Bao năm rồi một ngày chưa sống xa nhau,
    ngọt bùi chia sớt cho nhau,
    mà giờ này sao lắm thương đau.

    Khi hai người không còn chung lối nữa, người con gái vốn đa sầu đa cảm hơn sẽ ôm trong lòng nỗi buồn thương vô hạn. Dù chia tay rồi, cô gái nặng tình kia vẫn lo chàng sẽ bị “đường xa gió lạnh mưa nhiều” và “đắng cay trăm chiều”, bởi vì đã cách biệt nụ cười nên không còn có thể chia sớt cho nhau niềm vui nỗi buồn nữa, cuộc đời còn lại có thể chỉ còn là những thương đau mà thôi.

    [​IMG]

    Mấy đêm qua rồi nghe từng lá rụng ngoài song
    Từng hồi chuông đổ càng thêm tái tê trong lòng
    Vắng anh cô phòng càng quạnh hiu
    Nhớ anh nhớ từng làn hơi thở
    Giờ đây mới biết xa anh sẽ làm chết cả đời em.

    Từ xa cách nhau để nay chỉ là “mấy đêm”, nhưng đó là những đêm trôi qua như đã nhiều năm rồi, nàng không thể ngủ yến giấc và chỉ nằm để nghe từng chiếc lá rụng ngoài song cửa. Ngoài xa là từng hồi chuông đổ chỉ càng làm cho cõi lòng thêm phần thê thiết, não nề. Ở chốn cô phòng quạnh hiu, nàng thấy nỗi nhớ ngập tràn không gì ngăn nổi. Không chỉ là nhớ gương mặt, nhớ bóng hình, mà nhớ cả những làn hơi thở, là thứ vô hình không nắm bắt được. Cũng giống như cuộc tình không thể nào giữ lại được bằng đôi tay nhỏ bé.

    Khi nỗi nhớ dâng lên tới tột cùng, nỗi lòng yếu đuối của nàng mới nhận ra rằng người yêu đã là tất cả trong cuộc sống, và xa nhau rồi thì cuộc đời đã không còn gì ý nghĩa nữa. Tự cổ chí kim, phận nữ nhi thường bị thua thiệt nhiều hơn trong những cuộc tình dở dang. Và có lẽ chỉ những ai từng yêu thật lòng, từng dồn hết hy vọng và lẽ sống vào tình yêu thì mới đồng cảm được những giây phút yếu lòng đó của cô gái trong ca khúc Khóc Thầm.

    [​IMG]

    Phần lớn các tác phẩm nổi tiếng của nhạc sĩ Lam Phương đều được ông viết cho một “bóng hồng” có thật nào đó từng xuất hiện trong cuộc đời của ông, và có lẽ “Khóc Thầm” cũng không ngoại lệ. Nhạc của nhạc sĩ Lam Phương thường man mác một nỗi buồn, nhưng Khóc Thầm không như vậy, mà đây là một ca khúc rất buồn, và có thể xem là ca khúc nhạc vàng buồn nhất. Vì buồn nên được những khán giả thích nhạc buồn yêu chuộng cho đến ngày nay.

    [​IMG]





     
    Chỉnh sửa cuối: 31/12/20
  19. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    Giới thiệu ca khúc hay nhưng lạ: Bãi Nắng (nhạc sĩ Lam Phương) – “Bãi nắng vàng phương Nam có làm em ấm áp…”

    [​IMG]

    Trong âm nhạc nói chung và nhạc vàng nói riêng, có rất nhiều ca khúc viết về mưa, nhưng hiếm thấy nhạc có nội dung về nắng. Nếu nhìn lại dòng nhạc trữ tình, số lượng bài hát nổi tiếng viết về nắng chỉ đếm được trên lòng bàn tay: Nắng Thủy Tinh, Tóc Em Chưa Úa Nắng Hè, Ru Nắng, Nhạt Nắng, Nắng Chiều, Nắng Đẹp Miền Nam…

    Có lẽ rằng mưa thường buồn và gợi nhiều cảm xúc, dễ đi vào nhạc. Còn nắng thì không như vậy, ngoại trừ ca khúc Bãi Nắng được nhắc tới trong bài viết này, có giai điệu và ca từ gợi một nỗi buồn miên man, lắng đọng, nhất là qua giọng hát rất đặc biệt của ca sĩ Lưu Hồng.

    [​IMG]

    Bãi Nắng là một ca khúc không được nhiều người biết đến của nhạc sĩ Lam Phương, được giới thiệu lần đầu bằng tiếng hát Lưu Hồng trong CD nhạc của trung tâm Mây phát hành đầu thập niên 1990, với phần hòa âm của Trúc Hồ. Không hiểu vì sao, trước đó và sau này, không thể tìm thấy một ca sĩ nào khác hát ca khúc mang đúng chất nhạc của nhạc sĩ Lam Phương này. Khi nghe giai điệu, lời ca của Bãi Nắng, chúng ta có thể liên tưởng đến các bài hát khác vốn đã quen thuộc của Lam Phương là Như Giấc Chiêm Bao, Một Mình, Nghẹn Ngào…

    [​IMG]

    Ca sĩ Lưu Hồng có một chất giọng rất đặc biệt, mặc dù cô đã giải nghệ đã lâu nhưng vẫn luôn nhận được sự yêu mến của nhiều khán giả. Nhiều người nói rằng giọng hát Lưu Hồng là sự pha trộn giữa chất giọng sang cả của Lệ Thu và phong cách nức nở, nghẹn ngào của Giao Linh, điều đó được thể hiện rõ nét qua ca khúc Bãi Nắng, mời bạn nghe ở video bên dưới.



    Bãi Nắng - Lưu Hồng hát

    Có lẽ vì Lưu Hồng đã trình bày quá trình công bài này, khó tìm được một giọng hát khác thích hợp với ca khúc này hơn nữa, nên không thấy có ai hát lại Bãi Nắng? Hy vọng sau này, chúng ta sẽ được thưởng thức ca khúc này bằng một hoặc nhiều giọng hát khác nữa.

    Lời bài hát giống như là một bài thơ 5 chữ, được nhạc sĩ Lam Phương xếp có vần, có điệu, gợi luyến tiếc về một cuộc tình đã trở thành quá khứ. Bãi Nắng được nhạc sĩ Lam Phương viết thời kỳ sau năm 1975 ở hải ngoại. Trong bài có những ca từ như:

    Tình vui là lúc em về
    Ai đem trăng thề nhốt vào biển khơi…

    Làm gợi nhớ đến ca khúc Bài Tango Cho Em: “Từ ngày có em về, nhà mình toàn ánh trăng thề…” được nhạc sĩ viết cho cuộc hôn nhân thứ 2 của ông ở nước Pháp. Có thể Bãi Nắng đã được ông viết khi cuộc hôn nhân này kết thúc?

    Ngoài ra, trong ca khúc Bãi Nắng, nhạc sĩ Lam Phương có nhắc đến cụm từ “phương Nam” và “phương Bắc”, không phải ý nhắc đến vùng miền ở Việt Nam, mà có thể ý nói đến việc người vợ này đã rời bỏ ông Paris (phương Bắc của nước Pháp) để về phương Nam sinh sống.

    [​IMG]

    Lời bài hát:
    (được chép lại khi nghe từ nhạc, có thể không chính xác)


    Bãi nắng vàng phương Nam có làm em ấm áp
    Những giọt mưa đầu mùa có làm em bùi ngùi
    Có làm em nhớ tới những ngày mình còn chung đôi
    Như lúc tình còn vui

    Tình mình thế là xong
    Em xa dần quá khứ
    Chân bước đi rã rời
    Em thay cả cuộc đời
    Sao suối lệ tuôn rơi

    Hay em còn tiếc nuối
    cho những ngày đẹp đôi

    Tình vui là lúc em về
    Ai đem trăng thề nhốt vào biển khơi
    Để phương Bắc chết trong tình côi
    Em đã đi rồi
    Hoa cỏ thương nhớ đá mòn chờ mong

    Dù mai này tình đổi dời
    Mình thay trăm áo mới

    Biết tìm đâu
    Anh biết tìm đâu
    mùi hương nồng
    Mùi áo cũ ngày xưa…





     
    Chỉnh sửa cuối: 31/12/20
  20. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member








     
    Chỉnh sửa cuối: 31/12/20