Hình Nghệ Thuật Giải stress

Thảo luận trong 'Box Thơ & Nhạc - Ảnh & Clip' bắt đầu bởi anhhoa22, 6/1/13.

  1. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
     
    xonack thích bài này.
  2. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    xonack and Black_Chocolate like this.
  3. Black_Chocolate

    Black_Chocolate Thần Tài

    T:115:
    :132:Ông này ổng quỡn thiệt :132::125:
     
    xonack thích bài này.
  4. Cỏ Đêm

    Cỏ Đêm Thần Tài

    Chắc xăm con này thì P mới chịu hả ?
    [​IMG]
    :126::134::125:
     
    xonack and Black_Chocolate like this.
  5. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    :126:

    tôi là ARTIST Tattoo đó cưng .. học 3 năm rồi ...

    mà sợ máu nên ko có làm :D ; học ngó ngó cho vui cho có tiếng là Nghệ sĩ xăm nghệ thuật vs ng` ta ...
     
    xonack and Black_Chocolate like this.
  6. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    xonack and Black_Chocolate like this.
  7. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]


    [​IMG]

    [​IMG]

     
    xonack thích bài này.
  8. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
     
    xonack thích bài này.
  9. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    xonack thích bài này.
  10. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]


    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
     
    xonack thích bài này.
  11. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    [​IMG]
    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
     
    xonack thích bài này.
  12. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    THẦN THÁNH TRUNG HOA


    NGŨ LÃO QUÂN
    [​IMG]


    *Ngũ Lão Quân là năm vị Thiên Thần được Đạo Giáo thờ phụng rất sớm. Đó là :-

    - Đông Phương An Bảo Hoa Lâm Thanh Linh Thuỷ Lão Quân (gọi tắt:- Thanh Linh Thuỷ Lão Thương (Thanh) Đế Quân).
    - Nam Phương Phạm Bảo Xương Dương Đan Linh Chân Lão Quân ( Đan Linh Chân Lão Xích Đế Quân ).
    - Trung Ương Ngọc Bảo Nguyên Linh Nguyên Lão Quân ( Nguyên Linh Nguyên Lão Huỳnh Đế Quân ).
    - Tây Phương Thất Bảo Kim Môn Hạo Linh Huỳnh Lão Quân (Hạo Linh Huỳnh Lão Bạch Đế Quân ).
    - Bắc Phương Động Âm Sóc Thiện Hữu Tuyệt Ngũ Linh Huyền Lão Quân (Ngũ Linh Huyền Lão Hắc Đế Quân ).

    1.- *Năm vị thiên thần nầy, có nguồn gốc từ truyền thuyết về Ngũ Đế. Sách “Chu Lễ •Thiên Quan •Đại Tể” thời Chiến Quốc nói :- “Thờ phụng Ngũ Đế”. Giả Công Ngạn đời Đường sớ giải :- “ Ngũ Đế là :- Đông phương Thanh đế Linh Uy Ngưỡng, Nam phương Xích đế Xích Yên Nỗ, Trung ương Huỳnh đế Hàm Xu Nữu, Tây phương Bạch đế Bạch Chiêu Cự, Bắc phương Hắc đế Diệp Quang Kỷ”. Sớ giải nầy căn cứ vào hai quyển sách cuối đời Hán , một là Hà Đồ nói : “Đông phương Thanh đế Linh Uy Ngưỡng, là Mộc đế. Nam phương Xích đế Xích Yên Nỗ, là Hỏa đế.Trung ương Huỳnh đế Hàm Xu Nữu, là Thổ đế.Tây phương Bạch đế Bạch Chiêu Cự, là Kim đế.Bắc phương Hắc đế Diệp Quang Kỷ, là Thủy đế”. Hai là sách “Thi Hàm Thần Vụ” cũng có ghi chép về Ngũ Đế.

    2.- Sau khi Đạo Giáo phát triển, lấy chỗ sơ lược của hai quyển sách trên để nâng cao lên, thành ra Ngũ phương Ngũ Lão vậy. Đầu nhà Tống thời Nam triều, trong sách 《Nguyên Thuỷ Ngũ Lão Xích Thư Ngọc Thiên Chân Văn Thiên Thư Kinh 》, quyển thượng có ghi :-

    “-Đông Phương An Bảo Hoa Lâm Thanh Linh Thuỷ Lão , hiệu là Thương Đế , họ Diêm tên Khai Minh , tự là Linh Uy Ngưỡng . Đầu đội mão ngọc Thanh Tinh, mặc phẩm phục Cửu Khí Thanh Vũ phi y. Thường cỡi rồng xanh, cầm cờ chim Thuần, có thần Giáp Ất theo, binh tướng chín chục vạn người. Trên thì điều hòa khí cho Cửu Thiên, dưới thì làm thông lưu Cửu Tuyền, khiến cho Lưỡng nghi trường tồn, âm dương bền vững …”.
    - Nam Phương Phạm Bảo Xương Dương Đan Linh Chân Lão , hiệu là Xích Đế , họ Động Phù , tên Cực Viêm , tự là Xích Yên Nỗ . Đầu đội mão ngọc Xích Tinh , mặc phẩm phục Tam Khí Đan Vũ phi y . Thường cỡi rồng đỏ, cầm cờ đỏ chu, có thần Bính Đinh theo, binh tướng ba chục vạn người. Trên thì lưu hóa nguyên linh của Thái Thanh Huyền Nguyên, dưới thì dung hòa ba khí, làm cho muôn vật sinh tồn, vận chuyển tinh khí phương Nam.”
    - Trung Ương Ngọc Bảo Nguyên Linh Nguyên Lão , hiệu là Huỳnh Đế , họ Thông Ban , tên Nguyên Thị , tự Hàm Xu Nữu. Đầu đội mão ngọc Huỳnh Tinh, mặc phẩm phục Ngũ sắc phi y. Thường cỡi rồng vàng , cầm cờ vàng, có thần Mậu Kỷ theo, binh tướng mười hai vạn người. Trên thì điều hòa khí tự nhiên, dưới thì xoay chuyển linh khí cho ngũ thổ, khiến cho trời đất không khuyết hãm, âm dương dùng mà không thiếu …”.
    - Tây Phương Thất Bảo Kim Môn Hạo Linh Huỳnh Lão , hiệu là Bạch Đế , họ Thượng Kim , tên Xương Khai , tự Diệu Phách Bảo. Đầu đội mão ngọc Bạch Tinh , mặc phẩm phục Bạch vũ phi y . Thường cỡi rồng trắng, cầm cờ trắng, có thần Canh Tân theo, binh tướng bảy chục vạn người. Trên thì lưu thông hồng tinh của thượng thiên, dưới thì dung hòa tánh linh của chúng sanh.”
    - Bắc Phương Động Âm Sóc Thiện Hữu Tuyệt Ngũ Linh Huyền Lão , hiệu là Hắc Đế , họ Hắc Tiết , tên Linh Hội , tự Ẩn Hầu Cục , tự khác là Diệp Quang Kỷ. Đầu đội mão ngọc Hắc Tinh , mặc phẩm phục Huyền vũ phi y . Thường cỡi rồng mun , cầm cờ đen, có thần Nhâm Quý theo, binh tướng năm chục vạn người. Trên thì lưu thông khí ngũ đế của thượng thiên, dưới thì ban cho sự hòa hợp của chúng sanh, làm cho lưỡng nghi không nghiêng ngã, giữ sinh mệnh muôn vật an ổn”

    3.- Sách “Ngũ Phù Bản Hạnh Kinh” thì ghi chép cách khác, nói rằng :-
    Ngũ Lão Đế Quân đều là thần tự nhiên của Thiên Chân. Cho nên gọi là “Nguyên Thủy Ngũ Lão” (năm lão của nguyên thủy), không phải là lớp sau do tu hành mà nên…”
    4.- Về Đạo Thư , có sách “Xích Thư Ngọc Thiên Chân văn”, gồm năm thiên, nói là sách nầy do Ngũ Lão Quân truyền dạy.
    Một học giả của Đạo Giáo thời Nam Tống là Kim Doãn Trung, lấy lý thuyết “khí hóa” để giải thích về Ngũ Lão như sau:-
    “Ngũ Lão là Thượng Đế , là cội gốc của ngũ khí , là căn bản của ngũ hành, trong thiên văn gọi đó là ngũ tinh , hoặc là ngũ đế tòa . ……
    Khi ngưng kết thành vật chất , thành ra ngũ nhạc , ……đó là vua của ngũ nhạc . ……dưới thì là ngũ hành kim mộc thuỷ hoả thổ , nơi việc thì gọi là đế , nơi người gọi là ngũ tạng , tất cả đều cũng là ngũ khí vậy.”.
    Nên :- “…theo lý mà nói, tùy theo chỗ ngụ của năm khí mà gọi tên, ở trời thì xưng là Ngũ Lão Thượng Đế, trong thiên văn gọi là Ngũ đế tòa hay năm sao của năm phương, trong thần linh xưng là Ngũ Phương Ngũ Đế, trong núi non xưng là Ngũ Nhạc Ngũ Đế, trong thân người thì gọi là thần quân của năm tạng, sao chẳng thông lý mà cho là khác nhau vậy ?”


    Ngũ Tinh Thất Diệu Tinh Quân

    Đạo giáo thờ phụng bảy vị “Tinh Thìn” , là mặt trời, mặt trăng và ngũ tinh. Ngũ tinh là :- Tuế Tinh (sao Mộc), Huỳnh Hoặc Tinh (sao Hỏa), Thái Bạch Tinh (sao Kim), Thần Tinh (sao Thủy), Trấn Tinh (sao Thổ). Ngũ tinh còn gọi là Ngũ diệu, cùng mặt trời mặt trăng hợp thành Thất diệu, tôn tất cả là Tinh Quân nên gọi là “Thất Diệu Tinh Quân”.
    *Việc sùng bái mặt trời mặt trăng và ngũ tinh, đã có từ thời thượng cổ. Trước thời Tây Hán, ở Ung Châu đã có Miếu chuyên thờ tự và cúng tế Thất Diệu rồi.
    -Sách “Sử Ký—Phong Thiện Thư” nói :- “Châu Ung có hàng trăm Miếu thờ nhật, nguyệt, sao Sâm, sao Thìn, Nam Bắc đẩu, sao Huỳnh Hoặc, sao Thái Bạch, Tuế tinh, Điền tinh, nhị thập bát tú …”.
    - Thời Lưỡng Hán, đa số người quan sát tinh tượng để dự đoán cát hung họa phước, hiện còn rất nhiều sách vở ghi chép về vị trí, màu sắc, sự vận hành …của mặt trời, mặt trăng, ngũ tinh …và những lời giải đoán, dự ngôn cho hiện tại và tương lai.
    Từ cơ sở đó, Đạo giáo nâng lên một bước, tạo thành những “Nghĩ Nhân Thần” (AnthropomorNphicGod) (thần mô phỏng theo người ) có tên họ, chức trách đầy đủ.
    -Đạo giáo lấy “mặt trời” làm Thần đại minh, tôn xưng là “Nhật Cung Thái Đan Viêm Quang Hữu Minh Thái Dương Đế Quân” hoặc là “Nhật Cung Thái Dương Đế Quân Hiếu Đạo Tiên Vương”. Dùng hình tượng là người nam, lấy sắc vàng kim để trang sức tượng. Mặt trăng tôn làm Thần dạ minh, xưng là “Nguyệt Cung Hoàng Hoa Tố Diệu Nguyên Tinh Thánh Hậu Thái Âm Nguyên Quân” hoặc “Nguyệt Cung Thái Âm Hoàng Quân Hiếu Đạo Minh Vương”. Dùng hình tượng nữ, lấy sắc bạc ánh trăng để trang sức tượng.
    -《Huyền Môn Bảo Hải Kinh 》nói :- “Tinh hoa của dương là mặt trời. tinh hoa của âm là mặt trăng, lấy chỗ tinh hoa ấy gọi là Tinh Thìn”.
    -Sách “Vân Cấp Thất Thiêm”, quyển 24, phần “Tổng quát các sao” nói :-“Ngũ tinh là chỗ linh căn của nhật nguyệt, là năm tạng của thiên đài, tổng khí của trời đất, có liên quan đến nhật nguyệt nên có ánh sáng. Nêu phương hướng và danh hiệu ngũ tinh như sau:-
    1/- Đông phương là Tuế Tinh Chân Hoàng Quân , tên Trừng Lan , tự Thanh Ngưng . ……
    2/- Nam phương là Huỳnh Hoặc Chân Hoàng Quân , họ Hạo Không , tên Duy Thuần , (tự )Tán Dung . ……
    3/- Tây phương là Thái Bạch Chân Hoàng Quân , họ Hạo Không , tên Đức Tiêu . ……
    4/- Bắc phương là Thìn Tinh Chân Hoàng Quân , tên Khải Hằng , tự Tích Nguyên . ……
    5/- Trung ương là Trấn Tinh Chân Hoàng Quân , tên Tàng Mục , tự Đam Diên

    * Những tên họ nầy còn thấy ở các sách :-《Thái Thượng Ngũ Tinh Thất Nguyên Không Thường Quyết 》và 《Thái Thượng Phi Bộ Ngũ Tinh Kinh 》 .

    *Trong sách “Thái Thượng Động Chân Ngũ Tinh Bí Thụ Kinh” thì lại lấy thẳng năm sao :- kim, mộc, thủy, hỏa, thổ làm Ngũ Tinh Quân. Trang phục và chức năng của năm vị được miêu tả như sau:-
    1/- Đông phương Mộc Đức Tinh Quân, chủ phát sinh muôn vật, làm khô héo thành tươi tốt. Nếu vận khí của người đời gặp năm có Mộc Tinh thì nhiều phước lành tốt đẹp, nên cúng tế mà đón rước . Vị Chân Quân nầy đội mão Tinh Quan, mang giày ngọc châu, mặc phẩm phục “thanh tế bổng”, mang kiếm vàng Thất Tinh, đeo vòng bạch ngọc.
    2/- Tây phương Kim Đức Tinh Quân, chủ về thu gom muôn vật, cất giấu nơi sâu kín, nên người gặp vận hạn nầy hay bị tù tội.
    3/- Nam phương Hỏa Đức Tinh Quân, chủ nuôi lớn muôn vật, soi xét việc lớn nhỏ hay dỡ của người, nên khi gặp vận hạn nầy hay bị bệnh hoạn đau ốm.
    4/- Bắc phương Thủy Đức Tinh Quân chủ về muôn vật được chuyển đổi nối nhau, là thần của sự thai nghén, nên khi gặp vận hạn nầy hay bị cái khổ về sự hạch sách, cáo buộc.
    5/- Trung Ương Thổ Đức Tinh Quân, chủ về bốn mùa nuôi lớn muôn vật, xét việc sai sót tội lỗi của người, nên khi gặp vận hạn nầy hay bị tai ách về hình luật, phải hành thiện để hóa giải.


    *Sách “Thái Thượng Động Thần Ngũ Tinh Chư Tú Nhật Nguyệt Hỗn Thường Kinh” đem ngũ tinh phối hợp với “ngũ thường” (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) của nhà Nho, làm thành một kết luận tốt đẹp.
    Lược nói như sau:-
    1/- Mộc là tinh hoa của Tuế Tinh, tính của nó là “nhân” (thương người), có việc cầu xin, nêu lên rõ ràng, thì đều được như ý.
    2/- Hỏa là tinh hoa của Huỳnh Hoặc Tinh, tính của nó là “lễ” (trật tự), có việc cầu xin, nêu lên rõ ràng, thì đều được người nghe theo.
    3/- Thổ là tinh hoa của Trấn Tinh, tính của nó là “tín” (niềm tin), gặp vận nầy thì con cháu phú quí, tiền tài ngày càng phát triển thêm.
    4/- Kim là tinh hoa của Thái Bạch, tính của nó là “nghĩa” (cứu giúp người), có việc cầu xin, không khi nào thất vọng.
    5/- Thủy là tinh hoa của Thìn Tinh, tính của nó là “trí” (sáng suốt), có việc cầu xin liên quan đến sách vở giấy tờ, đều được thuận lợi.

    *Lại nói :- “Nhật là tinh hoa của Thái Dương, nếu ngộ được bí pháp nầy, tức là được Tiên thuật. Nguyệt là tinh hoa của Thái Âm, có việc cầu xin là được, ngộ bí pháp nầy gọi là được “thuật độ người đời bất tử”.



    [​IMG]

    Lâm Thủy Phu Nhân

    ( Nữ Thần Cứu Sản Trần Tịnh Cô )

    *Lâm Thủy Phu Nhân Trần Tịnh Cô là một trong các vị thần tiên của Đạo Giáo. Các vùng đất phía Nam Trung Quốc như : Mân, Triết, Cám, Đài (Loan) thờ phụng Ngài rất phổ biến. Đặc biệt nhân dân hai vùng Mân và Đài hầu hết đều có thờ phụng Ngài , là vị Thánh bảo vệ thai nhi và cứu giải những tai nạn trong việc sanh nở của người nữ.

    *Việc sanh con nối dòng, làm cho nhân loại ngày càng thêm đông đúc, là nghĩa vụ thiêng liêng cao cả của người nữ. Thời cổ đại, chưa có “người chuyên phụ trách về đở đẻ”, mãi về sau nầy mới có những vị “Tiếp Sanh Bà” (bà Mụ). Thế nên, ngày xưa người ta hay ví von việc sanh nở của người nữ bằng những hình tượng hết sức kinh khủng như :- “xuống địa ngục” hay “đi qua cửa ải quỷ” (quá quỷ môn quan). Bởi vì, khi sanh nở không thuận chèo mát mái, thì chẳng những hài nhi không sống sót mà lắm lúc chính tính mạng người mẹ cũng khó bảo toàn. Từ đó, việc đặt niềm tin vào một vị “thần cứu trợ sinh sản” là lẽ tất yếu, hết sức cần thiết đối với con người. Nữ thần Trần Tịnh Cô, một người bị chết trong khi sanh sản, đã phát tâm cứu giúp thai phụ sau nầy, được mọi người tôn kính thờ phụng.

    *Về thân thế của Bà, có nhiều truyền thuyết khác nhau. Theo sách “Trung Quốc Dân Gian Chư Thần” ( các thần theo dân gian Trung Quốc) thì Trần Tịnh Cô là người sanh vào ngày rằm tháng giêng ở Hạ Độ tỉnh Phước Kiến vào năm Đại Lịch thứ nhất đời Đường (năm 766) . Phụ thân là Trần Xương, làm quan Hộ Bộ Lang Trung. Truyền thuyết kể rằng, năm 17 tuổi, bà thường hay đưa cơm vào núi cho người anh đang ẩn cư học đạo nơi đó. Một hôm, gặp một lão bà chận đường xin cơm, bà liền đưa cơm tặng cho lão bà. Nguyên đó là một Tiên nhân muốn thử lòng bà mà thôi. Duyên may nầy đã giúp cho bà được học pháp thuật với Tiên nhân, sau đắc quả thăng thiên.
    Có lần, hoàng hậu bị nạn khó sanh, liền van vái Bà. Trần Tịnh Cô đã hiển linh vận khí thổi vào hậu cung, trợ giúp hoàng hậu an toàn sanh hạ Thái Tử. Cung nữ tấu trình nhà vua, hoàng đế sắc phong cho Bà làm 「Đô Thiên Trấn Quốc Hiển Ứng Sùng Phúc Thuận Ý Đại Nãi Phu Nhân 」, cho xây Miếu Thờ ở Cổ Điền tỉnh Phước Kiến. Từ đó, dân gian tôn Trần Tịnh Cô là nữ thần “Thôi Sanh Hộ Ấu” (giúp mẹ sanh bảo hộ đứa bé).

    *Thuyết khác, Trần Tịnh Cô là người Bồ Điền, gia đình ở Trúc Lâm Thôn thuộc Lễ Tuyền (nay là sơn thôn Trấn Tượng vùng Tú Dữ) . Bà sanh vào năm Càn Ninh thứ nhất đời Đường (năm 894). Cha là Trần Xương, mẹ là Cát Thị, anh là Trần Ninh Nguyên, tất cả đều là nhà vu thuật (pháp thuật Đạo giáo). Lúc trẻ, Tịnh Cô đã lên núi Lư Sơn để học pháp, đến năm Quang Hóa thứ nhất đời Đường (năm 898) thì học thành, trở về xứ Mân, theo lời dạy của sư phụ Lư Sơn , ra sức trảm yêu trừ tà, trừ bạo giúp dân, giết Xà tinh nơi giếng Lâm Thủy ở Cổ Điền. Sau thu được 36 nữ tướng, 72 ngọc nữ, trở về Tung Sơn ở Lễ Tuyền—Bồ Điền, cất am Núi Tiên Cô tu luyện.
    Truyền thuyết kể rằng, anh của Bà là Trần Thủ Nguyên làm chức Thiên Sư của triều vua Mân là Vương Sưởng, lúc bấy giờ Phước Kiến bị đại hạn, Thiên Sư đã thống suất các đạo sĩ lập đàn đảo vũ nhưng không có kết quả, liền cầu Bà trợ giúp. Khi ấy, bà đã kết hôn với Huỳnh Diễn và có thai mấy tháng , nhưng Bà vẫn quyết tâm “bỏ thai cầu mưa”, lòng thành cảm động ơn trên, mưa xuống cứu dân thoát nạn. Ngay sau đó Bà bị chết. Trước phút lâm chung, Bà mạnh dạn phát nguyện :- “Nếu về sau không cứu giúp cho người nữ gặp nạn khi sanh nở, thề không bao giờ thành thần”. Nhân đó, người Bồ Điền mới lập Miếu Thờ Bà ở Tung Sơn, tôn là Lâm Thủy Phu Nhân. (xem bài Chú Sanh Nương Nương)

    *Cũng do truyền thuyết về thân thế của Bà không giống nhau, nên ngay cả việc các triều đại sắc phong cũng khác nhau. Ngoài danh hiệu Lâm Thủy Phu Nhân nói trên, đời Tống còn phong Bà làm “Thiên Tiên Thánh Mẫu”, “Bích Hà Nguyên Quân”, Thái Ất Tiên Cô”, “Chú Sanh Nương Nương”, “Trần Chân Nhân”. Đời Thanh gia phong “Thuận Thiên Thánh Mẫu”.

    *Dân gian vùng Bồ Điền sùng bái Lâm Thủy Phu Nhân về hai công đức lớn lao là cứu giúp sản phụ, bảo hộ anh nhi. Núi Tung Sơn thuộc thôn Tượng Sơn trấn Tú Dữ , được gọi là Núi Tiên Cô, có tòa miếu vũ xưa được xây dựng từ thời Tống, thờ Lâm Thủy Phu Nhân Trần Tịnh Cô, nhân dân sớm tối hương khói chẳng dứt. Từ xưa, người dân nơi đây có tập quán là, đàn bà trước khi sanh, phải đem treo một bức tượng của Lâm Thủy Phu Nhân ngay tại giường sản phụ, thắp nhang cúng vái . Sau khi sanh xong ba ngày, sắm sửa lễ vật cúng tạ rồi đem đốt (phần hóa) tấm tượng, cho Bà hồi cung. Truyền thuyết nói rằng, người dân vùng nầy, khi sanh nở gặp khó khăn, chỉ cần thành tâm khấn nguyện thầm :- “Trần Tịnh Cô cứu con” là được mẹ tròn con vuông. Lúc đứa trẻ lớn lên, khi bị “làm kinh” (động kinh) cũng vái nguyện Trần Tịnh Cô hiển linh đến “thu kinh” (thâu hết bệnh làm kinh), trăm lần như một, hiệu quả phi thường. Do đó, ai ai cũng một lòng kính ngưỡng Lâm Thủy Phu Nhân về kết quả “có cầu có ứng” nầy.
    Ngày nay, tuy khoa học đã tiên bộ, có nhiều bác sĩ , thuốc men hỗ trợ khi sanh sản, nhưng nhân dân vẫn có niềm tin vào “nữ thần cứu sản” nầy rất mạnh mẽ.

    *Về tín ngưỡng “Thuận Thiên Thánh Mẫu” thì tại Đài Loan được phổ biến rộng khắp. Năm 1986, Thầy Đinh Thủy Long ở Đại Học Thái An dẫn đầu nhóm nghiên cứu, khảo chứng về Bà cho đến 1989. Kết quả công nhận :-
    -Gốc tích xuất sanh và là nơi tu luyện của Trần Tịnh Cô là núi Tung Sơn ở Lễ Tuyền—Bồ Điền (nay là trấn Tú Dữ).
    -Trần Tịnh Cô sanh vào ngày rằm tháng giêng năm Trung Hòa thứ hai đời Đường (năm 887).
    -Cha của Bà sanh ở Kinh Thương Phước Kiến.
    -Núi Tiên Cô ở Tung Sơn có miếu thờ đầu tiên của Lâm Thủy Phu Nhân, đây xem là Tổ Đình của các miếu thờ Lâm Thủy Phu Nhân ở các nơi.
    LỤC ĐINH LỤC GIÁP

    [​IMG]


    *Lục Đinh Lục Giáp cùng với Tứ Trị Công Tào, Nhị Thập Bát Tú, Tam thập lục Thiên Tướng, Thất thập nhị Địa Sát, đều là những “Thần Tướng Hộ Pháp” của Đạo Giáo. Trong các trai nghi, các vị đạo sĩ thường hay triệu thỉnh những vị nầy, để hành pháp “Phong Lôi” hoặc chế ngự quỉ thần.
    Lục Đinh là :- Đinh Mão, Đinh Tỵ, Đinh Mùi (Vị), Đinh Dậu , Đinh Hợi bà Đinh Sửu, đều là những “âm thần”.
    Lục Giáp là :- Giáp Tí, Giáp Dần, Giáp Thìn, Giáp Ngọ, Giáp Thân và Giáp Tuất, đều là những “dương thần”.

    Theo truyền thuyết, Lục Đinh Lục Giáp là những “dịch sứ”(người phục vụ) của Thiên Đế. Họ có năng lực “hành phong lôi, chế quỉ thần” (làm sấm sét, chế phục quỉ thần). Đạo Sĩ có đủ ấn tín, có thể dùng “phù lục” để triệu thỉnh, sai sử họ.


    1/- Lục Đinh (Âm Thần Ngọc Nữ ):-

    ●Đinh Mão Thần Tư Mã Khanh
    ●Đinh Tỵ Thần Thôi Cự Khanh
    ●Đinh Vị (Mùi) Thần Thạch Thúc Thông
    ●Đinh Dậu Thần Tang Văn Công
    ●Đinh Hợi Thần Trương Văn Thông
    ●Đinh Sửu Thần Triệu Tử Ngọc

    2/- Lục Giáp (Dương Thần Ngọc Nam ): -

    ●Giáp Tý Thần Vương Văn Khanh
    ●Giáp Tuất Thần Triển Tử Giang
    ●Giáp Thân Thần Hỗ Văn Trường
    ●Giáp Ngọ Thần Vệ Ngọc Khanh
    ●Giáp Thìn Thần Mạnh Phi Khanh
    ●Giáp Dần Thần Minh Văn Chương


    3/- Tính quan trọng của 【Lục Đinh Lục Giáp】:-

    Lục Đinh Lục Giáp tuy có thần vị thấp nhỏ, nhưng trong Đạo Giáo giữ vai trò hết sức quan trọng, những Đạo sĩ thường phải sai sử nhờ vã họ luôn.

    *Theo “Hậu Hán Thư—Lương Tiết Vương Truyện” chép rằng, những Đại Phương Sĩ đời hán đều có pháp sai sử Lục Đinh Lục Giáp . Trước dùng nghi thức lập đàn, kế là triệu thỉnh thần Lục Đinh “có thể tìm biết những vật ở xa, nhờ đó biết được cát hung”. Lương Tiết Vương cũng từng dùng pháp nầy để “giải mộng”.  

    * “Hậu Hán Thư—Lương Tiết Vương Xướng Truyện” viết :- “(Lương Tiết Vương) …tâm tính thông tuệ, nhưng hơi kiêu ngạo, lại chẳng thích tuân theo pháp độ. Sau khi trở về nước, hay nằm thấy ác mộng.Theo Quan Biện Kỵ học được pháp sai sử Lục Đinh, sau giải được ác mộng và giỏi bói cỏ thi (quẻ Dịch)”. Chú giải :- “Lục Đinh là những vị thần Đinh của sáu tuần giáp, như tuần Giáp Tí thì là thần Đinh Mão, tuần Giáp Thìn thì là thần Đinh Tỵ …”
    *Nhà thơ Hàn Dũ đời Đường có viết câu thơ:- “Tiên quan sắc lục đinh, Lôi điện hạ thủ tướng” (quan Tiên ban sắc lục đinh, thần tướng liền hạ thủ sấm sét).
    *Trương Vạn Phúc trong sách 《Truyền Thụ Tam Động Kinh Giới Pháp Lục Lược Thuyết 》có nói :- “Âm dương có đóng mở nên một vạn hai ngàn vật mới có đủ thần (khí). Chủ đó là Lục Giáp . Lục Giáp là tất cả cương kỷ (của vạn vật).

    *Vương Khiết Chân đời Nam Tống viết trong quyển hai sách “Thượng Tinh Linh Bảo Đại Pháp” :- “Đinh Sửu kéo dài tuổi thọ ta, Đinh Tỵ dắt dẫn linh hồn ta, Đinh Dậu chế ngự phách của ta, Đinh Mùi trừ tai nạn của ta, Đinh Tỵ cứu độ nguy hiểm cho ta, Đinh Mão giải tật ách cho ta. Giáp Tí hộ thân ta, Giáp Tuất bảo vệ hình tướng ta, Giáp Thân làm vững bổn mệnh ta, Giáp Ngọ giữ gìn hồn ta, Giáp Thìn trấn giữ tánh linh của ta, Giáp Dần nuôi dưỡng tính chân của ta”.
    *Đến nay, trong Đạo Tạng còn giữ được “Linh Bảo Lục Đinh Bí Pháp” và “Thượng Thanh Chi Giáp Kỳ Đảo Bí Pháp”, nhưng phần “hậu tự” của sách “Linh Bảo Lục Đinh Bí Pháp” lại nói là “Lục Đinh có thể dài, có thể ngắn; có thể có có thể không”.
    *Đạo Giáo cũng có một pháp gọi là “Lục Giáp Phù Lục” dùng để “trừ tà đuổi quỉ”. Sách “Vân cấp Thất Thiêm” quyển thứ mười bốn nói :- “Nếu muốn trừ ác thần, dùng phép Lục Đinh Lục Giáp, đến hô Giáp Dần, thần quỉ đều chạy mất”. Sau nầy, tôn lên làm Thần Lục Đinh Lục Giáp .

    *Sách “Trùng tu sưu thần ký” chép :- “Nguyên Thủy ra mệnh lệnh cho Ngọc Hoàng Thượng Đế ban chiếu, sai Huyền Vũ xỏa tóc dậm chân, mặc áo bào đen, giáp vàng, thống lãnh Đinh, Giáp. Tên Đinh Giáp nguyên là gốc ở thiên can địa chi. Sáu vị thần Đinh là :- Đinh Mão, Đinh Tỵ, Đinh Mùi, Đinh Dậu, Đinh Sửu. Sáu vị thần Giáp là :- Giáp Tí, Giáp Tuất, Giáp Thân, Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần. Sáu vị thần Đinh thuộc âm nên là nữ thần. sáu vị thần Giáp thuộc dương nên là nam thần.

    *《Tục Văn Hiến Thông Khảo 》cũng nói :-“Đinh Mão và cả lục đinh , là Âm Thần Ngọc Nữ . Giáp Tý và cả lục giáp , là Dương Thần Ngọc Nam .”

    4/- Tên của 【Lục Đinh Lục Giáp】:-
    Về tên của các vị Lục Đinh Lục Giáp , sách 《Thượng Thanh Lục Giáp Kỳ Đảo Bí Pháp 》nêu lên như sau:-

    A/- Lục Đinh :-
    - Đinh Mão Thần tên Văn Bá tự Nhân Cao ,
    - Đinh Sửu Thần tên Văn Công tự Nhân Hiền (Quí ),
    - Đinh Hợi Thần tên Văn Thông tự Nhân Hoà ,
    - Đinh Dậu Thần tên Văn Khanh tự Nhân Tu ,
    - Đinh Vị Thần tên Thăng Thông tự Nhân Cung ,
    - Đinh Tỵ Thần tên Đình Khanh tự Nhân Kính ,

    B/- Lục Giáp :-

    - Giáp Tý Thần tự Thanh Công tên Nguyên Đức ,
    - Giáp Tuất Thần tự Lâm Tề tên Hư Dật ,
    - Giáp Thân Thần tự Quyền Hành tên Tiết Lược ,
    - Giáp Ngọ Thần tự Tử Khanh tên Sàn Nhân ,
    - Giáp Thìn Thần tự Duyện Xương tên Thông Nguyên ,
    - Giáp Dần Thần tự Tử Mỵ tên Hoá Thạch .

    *Sách 《Huỳnh Đế Thái Nhất Bát Môn Nhập Thức Quyết 》cũng có tên của Lục Đinh Tướng Quân như sau :-

    - Đinh Mão Thiên Lôi Thượng Tướng Khổng Xương A Minh ,
    - Đinh Sửu Long Lôi Thượng Tướng Vương Chiêu A Cao ,
    - Đinh Hợi Thần Lôi Thượng Tướng Hà Quải A Bình ,
    - Đinh Dậu Địa Lôi Thượng Tướng Thôi Mậu A Thân ,
    - Đinh Vị Thuỷ Lôi Thượng Tướng Cao Hằng A Long ,
    - Đinh Tỵ Liệt Lôi Thượng Tướng Từ Hướng A Kiền .

    *Sách 《Thái Thượng Thuyết Huyền Thiên Đại Thánh Chân Vũ Bản Truyện Thần Chú Diệu Kinh 》quyển 2, có tên của Lục Giáp như sau :-

    - Giáp Tý Thuỷ Tướng Lý Văn Tư ,
    - Giáp Tuất Thổ Tướng Lý Tôn Thông ,
    - Giáp Thân Kim Tướng Lý Thủ Toàn ,
    - Giáp Ngọ Hoả Tướng Lý Thủ Tả ,
    - Giáp Thìn Phong Tướng Lý Thủ Tiến ,
    - Giáp Dần Mộc Tướng Lý Thủ Thiên .

    *Lại trong 《Thanh Vi Nguyên Giáng Đại Pháp 》quyển 16, xưng tên Lục Giáp như sau :-

    - Giáp Tý Minh Lôi Đại Tướng Quân Quản Củng Thần ,
    - Giáp Tuất Hưng Lôi Đại Tướng Quân Khang Phục ,
    - Giáp Thân Liệt Hoả Lôi Đại Tướng Quân Vương Diên ,
    - Giáp Ngọ Truy Lôi Đại Tướng Quân Trương Nguyện ,
    - Giáp Thìn Sách Lôi Đại Tướng Quân Hứa Kế Xương ,
    - Giáp Dần Vận Lôi Đại Tướng Quân Khu Cát.

    *Nhưng quan trọng nhất là trong hai bộ sách sau :《Lão Quân Lục Giáp Phù Đồ 》dữ 《Tam Tài Đồ Hội 》đã nêu tên của thần Lục Đinh Lục Giáp là :-

    *Thần Lục Đinh :-

    - Đinh Mão Thần Tư Mã Khanh ,
    - Đinh Sửu Thần Triệu Tử Nhậm (Ngọc ),
    - Đinh Hợi Thần Trương Văn Thông ,
    - Đinh Dậu Thần Tang Văn Công ,
    - Đinh Vị Thần Thạch Thúc Thông ,
    - Đinh Tỵ Thần Thôi Thạch (Cự )Khanh ,

    *Thần Lục Giáp :-

    - Giáp Tử Thần Vương Văn Khanh ,
    - Giáp Tuất Thần Triển Tử Giang ,
    - Giáp Thân Thần Hỗ Văn Trường ,
    - Giáp Ngọ Thần Vệ Thượng (Vi Ngọc )Khanh ,
    - Giáp Thìn Thần Mạnh Phi Khanh ,
    - Giáp Dần Thần Minh Văn Chương .

    *Đạo Giáo nói rằng, nếu một hành giả trong tâm luôn nghĩ đến Lục Đinh Ngọc Nữ, ý chăm chú vào Lục Đinh Thần Phù, có thển khiến cho nhà cửa phòng ốc tinh khiết (không còn tà khí) , năm độc không dám đến gần, tai nạn không sinh ra. Lại còn có thể cầu Tiên được Tiên, cầu quan được quan, vạn sự như ý.
    *Đạo sĩ lúc tác pháp ở đàn tràng, thường phù lục để triệu thỉnh chư thần Lục Đinh Lục Giáp để “trừ tà đuổi quỉ”.
    Trong các cung quán của Đạo Giáo, tượng Lục Đinh Lục Giáp được an vị hai bên tượng Chân Vũ Đại Đế , làm thần hộ vệ cho Đại Đế . 

    [​IMG]



    *【Lục Đinh Lục Giáp Hộ Thân Thần Chú 】

    “ Đinh Sửu diên ngã thọ , Đinh Hợi câu ngã hồn . Đinh Dậu chế ngã phách , Đinh Vị khước ngã tai . Đinh Tỵ độ ngã nguy , Đinh Mão độ ngã ách . Giáp Tý hộ ngã thân , Giáp Tuất bảo ngã hình . Giáp Thân cố ngã mệnh , Giáp Ngọ thủ ngã hồn . Giáp Thìn trấn ngã linh , Giáp Dần dục ngã chân .”

    * 【Lục Đinh Lục GiápThần Yểm Pháp】

    “Hỗn nguyên ngũ đẩu đồ hồng hắc xích phân linh ←hỗn nguyên đạo khí linh ↓ dương hoá ngô thân linh →xuất u nhập minh linh ↓ hoặc ẩn hoặc hiện linh ↓ linh ←←←←←vạn vật giai thành linh thiên cương sở chỉ , xuất nhập vạn nhân , bất kiến ngô binh , ẩn nặc ngô hình , tặc binh bại vong , ngô quân an ninh cấp cấp như luật lệnh.”.

    ▼ Dụng Pháp :- Vào các ngày lục đinh 、lục giáp , theo đúng pháp họa phù, chân đạp Bộ cương Hỗn Nguyên Vũ Đẩu. Mỗi tối lúc canh ba, tay trái cầm lụa theo màu sắc của Lục Đinh, tay phải cầm bút (lông) chấm châu sa, nhìn về các phương, niệm chú, hớp khí 49 lần, thổi trên lụa, vẽ phù vào.


    ▼Chú Ngữ :- “ Cẩn thỉnh thiên áp thần vương , nhật áp thần vương 、thời áp thần vương 、Lục Đinh Thần tiễn áp vương 、phục vọng văn thỉnh tốc giáng linh nghiệm , trợ áp lệnh ……… (mỗ mỗ) nhân bệnh bất ngữ đông thống , ngô áp pháp đông hành , thụ mộc tồi chiết . Ngô áp pháp nam hành , viêm tiêu diệt , ngô áp pháp tây hành , kim cương liệt khuyết . Ngô áp pháp bắc hành , giang hải thuỷ kiệt , ngô áp pháp thượng hành , vân tinh quang ám , ngô áp pháp hạ hành , địa bì phá liệt , ngô áp pháp đáo thần , thần an thần hoà , ngô áp bất trung 、bất hiếu . khi quốc diệt tộc ......cấp cấp như luật lệnh .”
     
    xonack and Black_Chocolate like this.
  13. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    BÀNH TỔ
    [​IMG]


    *Bành Tổ còn gọi là Bành Khan hoặc Vân, họ Tiên tên Khanh, nổi danh là trường thọ nhất.
    Truyện thần thoại đời Tiên Tần nêu Ngài là một Tiên nhân, sau Đạo Giáo thờ Ngài làm một vị Tiên Chân.

    Những truyện có nói đến Bành Tổ ghi trong sách vở đời Tiên Tần rất nhiều. Quan trọng là trong sách “Luận Ngữ—Thuật Chi” viết :- “Khổng Tử nói :- Chỉ thuật lại chứ không phải tự viết ra, tin mà ham thích điều xưa, thí dụ như Lão Bành của ta vậy”.
    *Về lai lịch của “Lão Bành” thì có nhiều truyền thuyết khác nhau. Một thuyết nói, Lão Bành là một vị quan đại phu của triều nhà Ân, nghiên cứu chuyện xưa có thể nhận ra. “Lão Bành” chỉ thẳng là Bành Tổ, lại có thể hiểu “Lão” để chỉ Lão Tử, “Bành” là chỉ bành Tổ. Bởi trong quyển “Đại Đái Lễ Ký” có nói là Lão Bành, người ở đầu nhà Thương.

    *Trong “Khắc Ý” lại nói: -“Phép hô hấp Xuy Hu (dùng sáu chữ ha, hô, hu, hi, xuy, hư) là để đưa khí cũ ra , nạp khí mới vào, như trạng thái của gấu, thoải mái của chim, là kéo dài tuổi thọ vậy. Phép “Đạo Dẫn” của kẻ sĩ, nuôi dưỡng phần hình con người, là phép sống thọ của Bành Tổ xưa kia vậy”.
    *Ngoài ra, trong “Tiêu Dao Du—Tề Vật Luận” cũng nói đến kỳ nhân Bành Tổ. Sách “Tuân Tử—Tu Thân” còn nêu Ông là người tiêu biểu cho người ứng dụng đúng phép “Trị khí dưỡng thân”.
    *Trong “Thiên Vấn” của Khuất Nguyên có viết :-
    “Bành Khanh châm trĩ, đế hà hưởng—Thụ thọ vĩnh đa, phù hà cữu trường” (Bành Tổ dâng món chim trĩ, vua hưởng ra sao ?—Được tuổi thọ nhiều lâu, biết là dài bao lâu ?”. Ông Vương Phù Chi đời Thanh chú giải là :- “Theo sách xưa nói Bành Tổ dâng thịt chim trĩ nướng cho vua Nghiêu, vua ăn khen ngon, không biết là có thực hay không . Bành, tức Bành Khanh. Có lẽ là Bành Khanh hiến phép Đạo Dẫn cho vua Nghiêu, mà vua đạt tuổi thọ đến tám trăm năm chăng ?”.
    *Trường Sa Mã Vương viết trong sách “Dưỡng Sinh Phương”, kể lại câu chuyện Bành Tổ trả lời cho Vương Tử Xảo (Kiều) hỏi về phép dưỡng sinh, đại khái là lúc đầu, Bành Tổ dạy cho Phép Đạo Dẫn tu thân để kéo dài tuổi thọ, sau lại dạy uống thuốc và luyện tập các pháp tu theo đạo thuật.

    *”Liệt Tiên Truyện” viết :- “Bành Tổ, quan đại phu triều nhà Ân, họ Tiên tên Khanh, là cháu của vua Chuyên Húc. Ông là con trai giữa của Lục Chung Thị, sống từ đời nhà Hạ đến cuối đời nhà Ân, thọ hơn tám trăm tuổi. Ông thường hay ăn món quế chi (cây quế) và giỏi phép hành khí theo Đạo Dẫn. Ở Lịch Dương có Tiên thất của Bành Tổ, ngày trước có đến đó cầu mưa, nhưng không thấy linh nghiệm. Thường thấy có hai con hổ canh giữ hai bên Miếu. Sau miếu sập, chỉ còn lưu lại dấu vết của hổ.Bành Khanh về sau thăng Tiên mà đi”.
    *Đời Hán, các sách nói về “thuật phòng trung” không thấy có liên quan đến Bành Tổ như trong sách “Hán Thư—Nghệ Văn Chí” nêu lên tám vị tiêu biểu nhưng không thấy tên Bành Tổ.
    *Đến đời Tấn, Cát Hồng trong “Bảo Phác Tử nội thiên—Thích Trệ” viết về “hơn mười vị tiêu biểu của pháp phòng trung” mới thấy nêu tên Bành Tổ. Thiên “Vi Chỉ” khi luận về Pháp phòng trung, nói “Pháp của Bành Tổ là một pháp tối quan trọng”.Thiên “Hà Lãm” còn viết đủ một quyển “Bành Tổ Kinh” và trong thiên “Cực Ngôn” cũng có dẫn lời văn nầy.
    *Sách “Thần Tiên Truyện” còn nói thêm, dùng bột Vân Mẫu và sừng nai chế luyện thành Kim đan, là phép kéo dài thời gian trong phòng trung thuật. Quan trọng là đoạn kể chuyện vua nhà Ân và Thái Nữ như sau:-
    “Bành Tổ, có đức tính ôn hòa điềm tĩnh, không màng chuyện thế gian, không ham danh vọng, không ăn mặc xa xỉ, dùng pháp dưỡng sinh để tu thân. Vua Ân nghe tiếng, mời làm quan Đại Phu………….Ông thường ít biến đổi sắc mặt, tính tình điềm đạm, suốt đời không thấy nói đến “Đạo”, cũng không hề nhắc đến “quỉ” hay những chuyện “tác quái của quỉ”. Ông thường di du hành , người đời không biết ông đi đâu, kẻ hầu cận cũng không thấy. Ông có xe , ngựa nhưng ít thấy dùng đến, có khi vài mươi ngày hay cả trăm ngày cũng không thấy ông ăn uống gì, người đời cho là dị thường. Ông thường bế khí, dùng pháp “nội tức” (thở bên trong) đến trọn ngày…………………….Những lúc cảm thấy thân thể bất an mệt mõi, ông dùng pháp “đạo dẫn” để hóa giải………………………….Vua có hỏi nhưng ông không nói, vua ban thưởng tiền bạc châu báu thì ông nhận hết rồi đem cho lại người nghèo, chẳng giữ lại đồng nào. Vua lệnh cho Thái Nữ đến học đạo với ông, Bành Tổ nói :- “Muốn đăng thiên, phải lo bồi bổ “cửa tiên”, dùng kim đan, ………….kế nữa phải bế tinh dưỡng thần. Uống thuốc để được trường sinh, chẳng nên sai sử quỉ thần hay dùng pháp phi hành trên không làm gì. Nếu không thông hiểu “Đạo”, có uống thuốc tiên cũng không ích gì.”. Thái Nữ tiếp nhận yếu chỉ của ông, về dạy lại cho vua. Vua thực hành theo, thấy có kết quả tốt. Muốn giấu bí pháp ấy, truyền lệnh trong nước không ai được phép học đạo của Bành Tổ, có ý muối trừ ông để độc chiếm bí pháp. Bành Tổ biết được, liền trốn đi, không biết về đâu. Hơn bảy mươi năm sau, có người gặp ông ở phía Tâu Lưu Sa…………..Lúc Bành Tổ rời nước Ân, đã ở tuổi bảy trăm bảy mươi rồi, không nghe nói đến cái chết của ông”.

    *Trong Đạo Giáo, việc đánh giá về Bành Tổ có nhiều ý kiến khác nhau. Thời Đông Tấn, xuất hiện phái Thượng Thanh, tuy bài xích thuật phòng trung, nhưng riêng về phương diện “luyện khí” của Bành Tổ thì phái nấy hết sức tán dương, tôn xưng ngang hàng với Tứ Hạo và An Kỳ Sinh.. Trong “Nguyên Thủy Thượng Tiên Chúng Chân Ký” nói :- “ Quảng Thành Tử là Cửu Thiên Chân Nhân ở núi Chung Sơn.Từ đời Hán đã tôn vào hàng Tiên, Bành Tổ nay ở bên cạnh Ngài”.


    *Linh Bảo Phái lại phê phán Bành Tổ “chỉ là một tiên nhân tự cầu đạo” mà thôi. Trong “Thái Thượng Động Huyền Linh Bảo bản hành nhân duyên kinh” nói Bành Tổ thọ tám trăm tuổi, chỉ xếp vào hàng “Địa Tiên”, là người học đạo của đời trước mà thôi. Ý sách nầy nói :- “có làm chút ít việc thiện, nhưng chỉ muốn tự độ cho mình, không có tâm độ người khác”.
    *Ngoài ra, khi khảo cứu về địa danh, có người liên hệ chữ “Bành” trong Bành Tổ là nói đến việc xưa kia Bành Tổ dâng thịt chim trĩ cho vua Nghiêu, được phong đất, sau trở thành địa danh “Bành Thành” theo sự tích sau :- “Bành Tổ từng đi qua bến sông Bành Lãi, du lịch các động núi, câu cá ở trên đài cao, có hai con cá chép hóa thành hai con rồng bay thẳng lên trời…………..” Có chỗ nói :- “Bành Khanh đã “cỡi gió nương khí”, đem thân bay lên không trung. Năm bảy trăm bảy mươi tuổi thì thoát hóa”.
    -Trong “Chân Linh Vị Nghiệp Đồ” xếp Bành Khanh vào vị trí tả vị thứ tư.
    *Trong Đạo Giáo thường lưu truyền sách của Ngài rất nhiều như 《Bành Tổ Dưỡng Tính Kinh 》《Bành Tổ Nhiếp Sinh Luận 》《Bành Tổ Đạo Dẫn Pháp 》《Bành Tổ Đạo Dẫn Đồ 》v.v…

    *Tham khảo :-

    ① 《Thập Tam Kinh Chú Sớ 》quyển hạ, tờ 2481 , Trung Hoa Thư Cục , 1980.
    ② 《Lão Tử Hiệu Hỗ 》(Tu Đính Bản )tờ 1 , Cổ Tịch Xuất Bản Xã , 1956.
    ③④ 《Trang Tử Kim Chú Kim Dịch 》tờ 181 、393 , Trung Hoa Thư Cục , 1983. “Đạm Duy Đâu Lạp Xúc” quyển 5 , tờ 66 , quyển 3 tờ 270 , quyển 24 tờ 671 , quyển 3 tờ 276 , Văn Vật Xuất Bản Xã 、Thượng Hải thư điếm 、Thiên Tân cổ tịch xuất bản xã liên hợp xuất bản , 1988.
    ⑥ 《Cảnh Ấn Văn Uyên Các Tứ Khố Toàn Thư 》quyển 1059, tờ 259 ~261 , Đài Loan Thương Vụ ấn Thư Quán , 1985.

    *PHỤ LỤC :-

    Sự tích Bành Tổ

    Theo sự tích, Bành Tổ là tên một người sống lâu đến nghìn tuổi.
    Sự tích đó như sau:-
    Thời xưa, nhà nọ sinh được một bé trai kháu khỉnh, mặt mũi sáng sủa, đặt tên là Bành Nhi. Có một vị thầy bói đi qua thấy chú bé liền thất kinh nói rằng: "Tội nghiệp, thằng bé đĩnh ngộ thế mà 10 tuổi đã phải chết!"
    Cha mẹ cậu bé hoảng hốt, xin thầy cứu giúp. Thầy liền bảo cha mẹ cậu bé phải làm theo đúng các bước ông chỉ dẫn.
    Sáng hôm sau, Bành Nhi bèn bưng một mâm đào vừa to vừa ngon lên núi, tới nơi thầy bói dặn, thì thấy ở nơi đó suối chảy, hạc bay, mây vờn tùng bách, trên một tảng đá phẳng có hai ông tiên đang ngồi đánh cờ tướng. Bành Nhi rón rén lại gần, nhẹ nhàng đặt mâm đào xuống rồi vòng tay ngồi đợi. Hai ông tiên mải đánh cờ, thấy có đào ngon bèn cứ thế cầm lên, vừa đánh cờ vừa thưởng thức đào.
    Khi đánh xong ván cờ, hai vị thần mới phát hiện ra chú bé dâng đào lấy làm thích lắm, bèn hỏi chuyện. Bành Nhi bèn kể hết mọi chuyện của cậu. Té ra hai vị tiên đó là Nam Tào và Bắc Đẩu, giữ sổ sinh tử trên Thiên đình. Giở sổ ra, hai ông thấy số tuổi của Bành Nhi đến số 10 là hết. Cả hai bèn bàn nhau thêm một nét phẩy lên trên chữ "thập", biến chữ "thập" (十) thành chữ "thiên" (千, hay nghìn). Thế là Bành Nhi được sống đến nghìn tuổi. Từ sự tích này mới có câu "Sống lâu như ông Bành Tổ".

    * Điển cố Văn học:-

    Bành Tổ: Chỉ người sống lâu.
    Theo "Thần tiên truyện" thì Bành Tổ là một người họ Tiên tên Khanh, là cháu xa đời vua Chuyên Húc. Vua Nghiêu phong cho ông đất Đại Thành (tức Bành Thành) vì thế nên gọi ông là Bành Tổ. Trải qua nhà Hạ đến cuối nhà Ân, ông đã 767 tuổi mà vẫn còn khoẻ, được mời ra giữ chức Đại phu. Thuở nhỏ, ông thích điềm tĩnh, không thiết gì công danh phú quý, chủ việc dưỡng sinh. Khi phải ra làm quan, ông thường cáo ốm ở nhà, không dự gì đến chính sự.

    *Tư tưởng Đạo gia :-

    Theo Trang Tử: Thiên địa mạc đại vu thu hào chi mạt, nhi đại sơn vi tiểu; mạc thọ vu thương tử, nhi Bành Tổ vi yểu. Thiên địa dữ ngã tịnh sinh, vạn vật dữ ngã vi nhất.
    Dịch: “Thiên hạ không có gì lớn bằng cái đầu chiếc lông của chim và thú vào mùa thu; còn núi Thái thì nhỏ. Không có gì sống lâu bằng đứa trẻ chết non; còn ông Bành Tổ thì chết yểu. Trời đất với ta cùng sinh ra; vạn vật với ta là một.”

    *Khái niệm khác :-

    Một số tài liệu có nhắc đến Bành Tổ như một tên gọi khác của Bàn Cờ, một người Việt. Họ Bàn đọc là Bàng (Hồng Bàng), nhưng theo lối đọc miền Nam mấy âm đó xuýt xoát nên đọc là Bành. Tương truyền mồ mả ông còn đâu đó trong miền rừng núi tỉnh Quảng Đông, ông mới được đưa vào Trung Hoa đời Tam Quốc trong quyển "Tam ngũ lược kỳ" của Từ Chỉnh và đến đời nhà Tống thì được đưa vào Triết.

    HUỲNH ĐẾ

    [​IMG]


    *Theo truyền thuyết, Huỳnh Đế là một vị đế vương thời viễn cổ Trung Quốc. Ngài được Đạo Giáo tôn phụng là một vị cổ tiên.
    Nguồn gốc có lẽ Ngài là tù trưởng thủ lĩnh của một bộ lạc lớn lúc bấy giờ, nhưng vì những cống hiến của Ngài đối với sự phát triển của dân tộc Trung Hoa rất lớn, cho nên hậu thến nhiều đời ca tụng tôn thờ.

    Về vấn đề niên đại, vì quá xa xưa nên khó xác định chính xác. Đa số các truyện đều nhằm nói lên tính mê ly hấp dẫn của truyền thuyết, không thể đưa bằng cớ gì được cụ thể cả. Nhất là thời chiến quốc, bách gia chư tử thi nhau biên soạn sách vở, khai thác mọi yếu tố có liên quan đến Ngài, cuối cùng tạo thành một hình tượng đế vương mang tính thần thánh cao độ.

    *Truyền thuyết nói, Huỳnh Đế họ Công Tôn, tên Hiên Viên, là con của Thiếu Điển vua nước (bộ lạc) Hữu Hùng . Ngài đã từng đánh bại Viêm Đế ở Bí Tuyền, đánh đuổi Xuy Vưu ở Trác Lộc, chư hầu đồng tôn lên làm vua, thay thế Thần Nông Thị để làm Huỳnh Đế.
    Sau khi lên ngôi, Ngài bổ nhậm các quan, đặt ra các luật lệ , cho xây dựng cung thất, tạo mẫu y phục, chế tạo các “chu xa”, định lại lịch pháp, văn tự, toán số,âm nhạc …Nói chung, công lao của Ngài đã làm được khiến cho nhân dân “làm ruộng không lấn bờ ranh, đánh cá không tranh vùng, đi đường không lượm của rơi, chợ búa không thách giá …” thành cục diện thịnh vượng.
    *Bách gia tạo hình tượng Ngài là vị đế vương thì một số kinh điển lại tạo Ngài thành một vị Tiên. Trong “Sơn Hải Kinh—Tây Sơn Kinh” nói :- “Lại về phía Tây Bắc xa bốn trăm hai mươi dậm, có vùng núi Khảm Sơn, nơi đây có nhiều bạch ngọc, gọi là “ngọc cao”. Đất đai mênh mông rộng lớn, Huỳnh Đế tha hồ hưởng thụ”.
    *Sách Trang Tử có nói nhiều về việc đi hỏi đạo và luận đạo của Huỳnh Đế. Như trong thiên “Tại Hựu” nói Huỳnh Đế đi đến Không Động Sơn để hỏi đạo với Quảng Thành Tử. Quảng Thành Tử dạy :- “không thấy không nghe, giữ thần yên tĩnh, hình luôn ngay chính, ắt lặng ắt trong, không mệt nhọc với hình nữ, không thất thoát tinh khí với người nữ, là có thể được trường sinh. Mắt không có gì để thấy, tai không có gì để nghe, tâm không có gì để biết, lấy nữ thần tướng để giữ hình, hình nầy có thể trường sinh”.

    *Trong thiên “Từ Vô Quỉ” có nói, Huỳnh Đế đến núi Cụ Tỳ để viếng Đại Ngỗi Quân, dọc đường gặp Mục Mã Đồng Tử dạy cho đạo “trị thiên hạ” rằng :- “ Trị thiên hạ (tức nhân dân) cũng giống như việc chăn nuôi ngựa vậy, tức là làm sao cho ngựa không bị hại (chết) vậy”.

    *Trong “Tri Bắc Du” ghi lại lời giảng đạo của Huỳnh Đế “Không tư (nghĩ) không lự (lo) mới là “biết đạo”, không bỏ không lấy mới là “an đạo”, không theo không nói mới là “đắc đạo” vậy.

    *Lại nói : “ là Đạo thì ngày phải bớt đi, càng ngày càng bớt, đến chỗ vô vi, tuy vô vi (không làm) mà không có gì là chẳng làm”

    *Trong thiên “Đại Tông Sư” nói :- “Phàm là Đạo, tức có tình lại có tính, không làm không hình, ….Huỳnh Đế được như vậy nên thăng lên trời mây”.
    *Các phương si thời Tần Hán tôn xưng Huỳnh Đế là tiêu biểu cho bậc đế vương tu luyện thành tiên, ca tụng “Tần Huỳnh Hán Vũ” (Huỳnh Đế của thời Tần, Vũ Đế của thời Hán) là những nhân vật “thạc đức” cho việc tu đạo trường sinh.
    Lý Thiếu Quân nói về Hán Vũ Đế như sau :- “Không gấp rút thì hiểu được vật, hiểu được vật thì luyện cát có thể thành vàng, vàng có thể làm thành khí để ăn mà tăng tuổi thọ, tăng thọ thì có thể thấy được tiên ở đảo Bồng Lai ngoài biển, thấy rồi thì được phong thiện không chết. Huỳnh Đế là một người như thế”.

    *Công Tôn Khanh thì cố tạo ra thần thoại về một vị vua nổi tiếng được thăng thiên, đã viết :- “Huỳnh Đế vừa chiến đấu vừa học Tiên….ngoài trăm tuổi sau đắc thần thông.” Và “Huỳnh Đế lúc đầu hái thuốc ở trên núi, luyện pháp chú đỉnh ở chân núi Kinh Sơn. Luyện đỉnh thành công, có con rồng râu bạc dài hạ xuống rước. Huỳnh Đế cỡi lên lưng rồng, quần thần và hậu cung lên theo hơn bảy mươi người, rồng bay lên , Số quan nhỏ không được lên lưng rồng bèn níu râu rồng mà đeo theo, râu rồng đứt, bọn ấy rớt xuống, đồng thời cũng rớt luôn cây cung của Huỳnh Đế. Dân chúng ngưỡng nhìn Huỳnh Đế thăng thiên, lưu sự tích về cây cung và râu rồng, nay thành địa danh “Đỉnh Hồ” và cây cung gọi là “Ô hiệu”.

    *Có thể nói, từ Chiến Quốc cho đến đầu nhà Hán, Huỳnh Đế được coi như là một hình tượng đế vương kiêm Tiên nhân.

    Đạo Giáo lúc mới bắt đầu mở, người ta gọi là “Huỳnh Lão Đạo” (đạo của Lão và Huỳnh). Lão để chỉ Lão Tử, Huỳnh tức là Huỳnh Đế, là hai vị Tổ Sư của Đạo Giáo.
    Đến khi Trương Lăng lập ra “Ngũ Đấu Mễ Đạo” mới độc tôn Lão Tử thành Tổ Sư duy nhất, còn Huỳnh Đế chỉ là vị Cổ Tiên mà thôi. Từ đó, sau nầy noi theo dần. Quan điểm Huỳnh Đế là Cổ Tiên được sách vở trong Đạo y cứ và phát triển thêm lên. Cát Hồng trong “Bảo Phác Tử—Nội Thiên” đã viết :- “Huỳnh Lão là bậc huyền thánh, tự có cái biết riêng, mở bí văn ở nơi danh sơn, học kinh tiên nơi thần nhân, từ bỏ bụi bậm chốn trần ai, tìm phương thoát tục lên cao, vàng đá không sánh nổi sự quyết chí của Ngài, rùa hạc không sánh nổi tuổi thọ của Ngài”. Cũng sách trên, thiên “Biện Vấn” nói rằng Huỳnh Đế là bậc thánh nhân độc nhất vô nhị từ xưa đến nay vừa trị nước vừa đắc đạo :- “Tục thường nói Thánh nhân, là chỉ nói thánh nhân trị thế, chứ không ai nói thánh nhân đắc đạo. Duy nhất chỉ có một vị, được gọi là thánh nhân đắc đạo, đó là Huỳnh Đế. Còn thánh nhân trị thế, như là Chu Văn Vương hay Khổng Tử chẳng hạn. Huỳnh Đế trước thì trị thế, sau lại đăng tiên, đó là “cái tài gồm cả hai thứ” (hai trong một) vậy. Thiên “Cực Ngôn” lại kể chi tiết từ khi Huỳnh Đế du lịch các danh sơn, đến lúc Huỳnh Đế đắc đạo. Tóm tắt như sau:-
    “Huỳnh Đế từ khi mới sinh ra, đã có thể nói những lời sai sử trăm họ, lại được trời phú cho cái thể tự nhiên, chẳng nhờ đến ngồi luyện mà thành. Ngài được Đan Kinh (kinh luyện đan tu tiên) nơi cung vua, đến Đỉnh Hồ bay lên để lại hạt châu, đã từng đến Không Động để hỏi (đạo) với Quảng Thành (Tử), đến Cụ Tỳ để phụng sự (đạo) cho Đại Ngỗi, qua núi Đông (Thái Sơn) mà thờ Trung Huỳnh (Đông Nhạc), vào Kim Cốc mà luyện theo Quyên Tử (?). Luận về Đạo đến chỗ huyền (diệu), đạt được pháp “Tố Nhị Nữ” (hai trinh nữ), rành rẽ việc thôi bộ theo pháp Sơn Kê, Lực Mục, giảng giải về “chiêm hậu” (?) đúng theo pháp Phong Hậu, thân thể rèn luyện theo pháp Lôi Kỳ, thường luyện tập pháp Ngũ Âm. Tâm đã đến chỗ “bạch trạch” (không vướng mắc), thân đã đến chỗ “thanh ô” (bất tử) , cứu giúp người bằng thuật “Xuyết Kim Dã” (đúc thành khối không có kẻ hở). Tóm lại, Ngài có thể đến chỗ bí yếu, tới đích tận chân của Đạo,cỡi rồng bay lên cao, sánh vai cùng với trời đất”.
    (Đoạn nầy khó dịch quá, toàn là thuật ngữ của Đạo Gia, ráng bám theo văn mà dịch, chỉ có ai “trong nghề” mới hiểu nổi thôi. Xin cáo lỗi nếu có sai sót—NT)

    *Thời kỳ Nam Bắc triều và Tùy Đường, lại tiếp tục tăng thêm sự tích Huỳnh Đế thành tiên. “Nhất tạp Tử” nói :- “Huỳnh Đế đến Nga My yết kiến Thiên Chân Huỳnh Nhân, lạy ở Ngọc đường rồi hỏi:- Thế nào là “đạo tam nhất” (ba là một) ? Huỳnh Nhân đáp :- “Như khi đã gom lại rồi, nếu còn thấy ba thấy một, chẳng phải là cái sai chết người sao ? ……………..Thánh nhân muốn trị thiên hạ, ắt trước phải tự thân biêt cách “tụ tài” (gom tiền bạc”, đủ tiền để chia sẻ mọi người, thành ra trí, dùng trí đó mà thành đạo nghĩa, từ đạo nghĩa sanh ra niềm tin (tín), làm cho lòng tin của chúng lên cao, dùng số đông ấy mà làm điều nhân (thương người), nếu lòng nhân đã đủ thì gọi là gần đạo, đem cái đạo nầy dạy dỗ mọi người, dạy cho thuần thì thế gian ngay chính. Bấy giờ, dùng lễ để làm yên ổn cái tình của người, tình trở về gốc chính là Đạo Tính. Cái tính ban ra thành Đức, có đức đủ nuôi mệnh, nuôi được mệnh thì yên ổn cuộc sống. Khi ấy thiên hạ tự trị, muôn vật tự phát triển, không cần đến sự lao nhọc (để trị ) nữa, gọi là “chân định” (yên ổn chân chính) vậy”.

    [​IMG]

    *Sách “Huỳnh Đế nội truyện” đã dựa vào “Mục Thiên Tử Truyện” và “Hán Vũ Đế nội truyện” , soạn thành câu chuyện Tây Vương Mẫu giảng đạo cho Huỳnh Đế, có kèm theo hình vẽ, như sau :-
    “Vương Mẫu dạy cho (Huỳnh) Đế thuật “Thất Muội”(bảy thứ tối tăm)
    Đế hỏi:- Thất Muội là sao ?
    -Vương Mẫu đáp :-
    -Tối của mắt là không thấy sáng, tối của tai là không nghe, tối của miệng là không hưởng thụ, tối của mũi là không thông, tối của tay là không vững chắc, tối của chân là không thẳng đứng, tối của tâm là không chân thật…Nhưng tâm không “loạn động” tức là chân, mắt không tối thì thành sáng, tai không tối thì thành thông (nghe rõ)….Điều quan trọng nhất trong bảy thứ tối là, hễ có một cái tối thì sáu thứ kia cũng tối theo, lúc đó là thân không trị rồi, tức là gần với cái chết vậy”.

    *Lại nói :- “Vương Mẫu uống rượu Bích Hà và ăn quả Xích Tinh của Huỳnh Đế xong rồi, liền dạy cho Đế năm hình tượng Bạch Ngọc, nói:-Đây là chân dung của Nguyên Thủy Thiên Tôn. Rồi dạy cho Đế đồ hình của âm dương, lại ban cho 19 viên linh đan. Đế làm lễ nhận, đem về đặt ở chỗ cao trong “cung quán”, thân tự cúng dường mỗi ngày, các hậu phi thần thiếp đều không được bén mãng dòm ngó. Trên cung quán thường có mây và ánh sáng lạ, hương thơm lan tỏa xa đến mấy trăm nhà. Người bấy giờ gọi là “đạo quán”, từ đó có danh xưng ấy cho đến ngày nay.

    * “Vân Cấp Thất Thiêm” quyển 3 nói về “Đạo Giáo sở khởi” cho rằng Huỳnh Đế là truyền nhân của Linh Bảo Kinh như sau :- “Nay truyền cho Linh Bảo Kinh” tức là nói Thiên Chân Huỳnh Nhân ở Nga My Sơn truyền cho Hiên Viên Huỳnh Đế.

    *Năm thứ hai đời Đường Hi Tôn (năm 881), Vương Quán đã chỉnh lý lại truyền thuyết tu tiên của Huỳnh Đế, viết quyển “Quảng Huỳnh Đế bản hạnh ký” và sắp xếp hệ thống tu tiên như sau :- “…Rồi Huỳnh Đế gác lại việc trị vì thiên hạ, đi tầm chân tiên ở ẩn tu hành. Sau tìm được Tiên dạy cho pháp tu, cuối cùng đắc đạo, có con rồng râu dài hạ xuống nghênh đón Huỳnh Đế bay lên trời”.

    *Về sau, Đạo Giáo thờ Huỳnh Đế là vị cổ tiên, trong sách “Chân Linh Vị Nghiệp Đồ” của Đào Hoằng Cảnh xưng Ngài là “ Huyền Bổ Chân Nhân Hiên Viên Huỳnh Đế”, xếp vị trí bên trái ở dưới “đệ tam trung vị Thái Cực Kim Khuyết Đế Quân”.
    *Đa số đạo sĩ thường mượn danh của Huỳnh Đế để viết sách. Ngoại trừ “Huỳnh Đế Nội Kinh” chính thức có ghi trong Đạo Tạng, còn có các sách khác như :- “Âm Phù Kinh”, “Huỳnh Đế Cửu Đỉnh Thần Đan Kinh Quyết” (sách dạy về luyện đan); “Huỳnh Đế Long Thủ Kinh” , “Huỳnh Đế Kim Quỹ Ngọc Hành Kinh”, “Huỳnh Đế Trạch Kinh” (là các sách chiêm bốc); sách luận chọn ngày tốt cho cưới gả như “Huỳnh Đế thụ tam tử Huyền Nữ kinh”; luận về các tạp pháp của tiên thuật có các sách :- “Huỳnh Đế Thái Ất bát môn nhập thức quyết”, “Huỳnh Đế Thái Nhất bát môn nhập thức bí quyết”, “Huỳnh Đế Thái Nhất bát môn nghịch thuận sinh tử quyết” v.v…

    *Ngày trước, một số địa phương có xây dựng Miếu Huỳnh Đế hoặc Miếu Hiên Viên, đa số là xem như cổ tiên để thờ phụng mà thôi.
    -Trong Sơn Tây Thông Chí có nói là nhiều nơi lập miếu thờ Huỳnh Đế “trong số đó, có một miếu ở huyện thành Khúc Ốc, năm Chính Thống đời Minh, người ta khai quật được tấm bia cổ, trong văn bia chép :- “Đạo đức cao cả, lời giáo huấn mênh mông, lâu dài như trời đất, muôn ức năm không dứt”.
    -Các xứ hà Nam, Thiểm tây cũng lập miếu thờ. Trong “Hà Nam Thông Chí” nói :- “Có hai miếu thờ Huỳnh Đế, một ở phía Tây huyện Nghi Dương, một ở Đông nam huyện Văn Hương, đời nói rằng xưa kia Huỳnh Đế làm phép “chú đỉnh” ở đây, nên lập miếu.
    *Trong các cung quán của Đạo Giáo thường có làm điện thờ riêng ra, gọi là Huỳnh Đế Điện hay Hiên Viên Từ. Như ở núi Thanh Thành tỉnh Tứ Xuyên, có một đạo quán đã làm Tam Hoàng Điện thờ :- Phục Hi, Thần Nông , Huỳnh Đế rồi mà vẫn xây thêm Hiên Viên Từ để thờ riêng Huỳnh Đế nữa.


    *PHỤ LỤC 1 :-

    HUỲNH (HOÀNG) ĐẾ

    1/- Hoàng Đế (Trung phồn thể: 黃帝, Trung giản thể: 黄帝, bính âm: huángdì) là một thủ lĩnh huyền thoại và anh hùng văn hoá người Trung Quốc được coi là thuỷ tổ của mọi người Hán. Lưu ý chữ hoàng 黃 ở đây chỉ sắc vàng, gọi nôm na là ông Vua Vàng, khác với hoàng 皇 trong hoàng đế 皇帝 là tên gọi cho vua Trung Quốc kể từ thời nhà Tần (xem Tần Thuỷ Hoàng).

    Hoàng Đế được coi là một trong Ngũ Đế, theo huyền sử Trung Quốc thì Hoàng Đế trị vì trong khoảng 2698 TCN đến 2599 TCN.

    Theo truyền thuyết thì việc Hoàng Đế rút về phía tây tại trận Trác Lộc (涿鹿) đánh thủ lĩnh Xi Vưu (蚩尤) là cái mốc hình thành người Hán.


    2/- Hoàng Đế đánh Xi Vưu :-

    Cách đây hơn 4000 năm, ở lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang có nhiều thị tộc và bộ lạc sinh sống. Hoàng Đế là một trong những thủ lĩnh bộ lạc nổi tiếng nhất trong truyền thuyết.

    Bộ lạc do Hoàng Đế làm thủ lĩnh ban đầu sống ở vùng Cơ Thuỷ thuộc tây bắc Trung Quốc, sau dời tới vùng Trác Lộc bắt đầu định cư, phát triển chăn nuôi và trồng trọt.

    Viêm Đế (Thần Nông) là thủ lĩnh một bộ lạc khác đồng thời với Hoàng Đế, cư trú tại vùng Khương Thuỷ ở tây bắc Trung Quốc. Theo truyền thuyết Trung Hoa thì Viêm Đế có họ hàng thân tộc với Hoàng Đế.

    Còn Xi Vưu là thủ lĩnh bộ tộc Cửu Lê. Họ chế tạo ra các loại vũ khí như đao, kích, cung, nỏ, thường dẫn bộ lạc đi xâm chiếm, cướp phá các bộ lạc khác.

    Có lần, Xi Vưu xâm chiếm vùng đất của Viêm Đế. Viêm Đế đem quân chống lại nhưng thất bại. Viêm Đế đành chạy đến Trác Lộc, xin Hoàng Đế giúp đỡ. Hoàng Đế liên kết các bộ lạc, chuẩn bị lương thực, vũ khí, triển khai một trận quyết chiến với Xi Vưu trên cánh đồng Trác Lộc.

    Về trận đại chiến này, đã có nhiều truyền thuyết hoang đường, khi quân của Hoàng Đế thừa thắng đuổi theo quân của Xi Vưu, trời bỗng nổi cuồng phong, là do Xi Vưu đã được sự giúp đỡ của thần gió, thần mưa. Hoàng Đế cũng nhờ Thiên Nữ giúp đỡ. Cuối cùng, Xi Vưu bị đánh bại. Những truyền thuyết trên chỉ có tính chất phản ánh sự khốc liệt của cuộc chiến.

    Từ đó, Hoàng Đế được nhiều bộ lạc ủng hộ. Nhưng sau đó 2 bộ lạc của Hoàng Đế và Viêm Đế lại nảy ra xung đột, hai bên đánh nhau một trận ở Bản Tuyền, Viêm Đế thất bại. Từ đó Hoàng Đế trở thành thủ lĩnh của liên minh bộ lạc các vùng Trung Nguyên.

    Trong các truyền thuyết cổ đại Trung Quốc, Hoàng Đế rất được tôn sùng. Người đời sau đều cho rằng Hoàng Đế là thuỷ tổ của người Hoa Hạ (tức dân tộc Hán ngày nay) và coi mình là con cháu của Hoàng Đế. Viêm Đế và Hoàng Đế vốn thân thuộc nên sau này hai bộ lạc lại hoà hợp, nên người Trung Quốc thường tự xưng mình là con cháu Viêm-Hoàng. Để kỉ niệm vị tổ tiên chung đó, người ta xây lăng Hoàng Đế ở Kiều Sơn, phía bắc huyện Hoàng Lăng tỉnh Thiểm Tây.


    3/- Phát minh :-

    Thời Hoàng Đế có nhiều phát minh sáng tạo (trong truyền thuyết) của nhiều người nhưng được quy chung cho Hoàng Đế như làm nhà, đóng xe thuyền, may được quần áo ngũ sắc, chế kim chỉ nam, làm lịch, y thuật (Hoàng Đế nội kinh tương truyền là của Hoàng Đế và Kỳ Bá)...

    4/- Lịch cổ Trung Quốc lấy mốc bắt đầu từ Hoàng Đế.

    Cũng theo truyền thuyết Hoàng Đế có người vợ tên là Luy Tổ (累祖) hay Loa Tổ (螺祖), là người đã dạy cho phụ nữ nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa. 累 hay 螺 đều có chữ 糸 mịch tức sợi tơ nhỏ. Tuy nhiên một số người cho rằng các tên trên có thể phiên sai từ 雷祖 Lôi Tổ, nghĩa là bà Tổ Sấm.

    Hoàng Đế còn có một sử quan tên là Thương Hiệt, đã sáng tạo ra chữ viết cổ. Chúng ta chưa được thấy chữ viết thời đó nên không có cách gì chứng minh cho việc này.

    *Source :- “http://vi.wikipedia.org/”

    *PHỤ LỤC 2:-

    PHỤC HY
    Phục Hy (chữ Hán: 伏羲), khoảng năm 2800 trước Công Nguyên, là người đầu tiên trong ba vị vua huyền thoại của Trung Quốc cổ. Ông là một nhân vật văn hóa được cho là người phát minh ra chữ viết, nghề đánh bắt cá, và bẫy thú.
    Kinh Dịch được cho là do ông đọc Hà Đồ (bản đồ sông Hoàng Hà ???). Theo truyền thuyết, một cách sắp xếp của Bát quái (八卦) của Kinh Dịch đã hiện lên trước ông một cách thần bí. Cách sắp xếp này có trước biên soạn Kinh Dịch trong thời nhà Chu. Phục Hy được cho là đã phát hiện cấu trúc Bát quái từ các dấu trên lưng một con long mã (có sách viết là một con rùa) nổi tên từ dưới sông Hoàng Hà. Phát kiến này còn được cho là nguồn gốc của thư pháp. Sách Bạch hổ thông nghĩa (白虎通義) của Ban Cố (班固 - 32 – 92), thời đầu của nhà Hậu Hán, đã viết về tầm quan trọng của Phục Hy như sau:
    Thời đầu, còn chưa có đạo đức hay trật tự xã hội. Người chỉ biết đến mẹ, không biết cha. Khi đói, người ta tìm thức ăn, khi thỏa mãn, người ta vứt đồ còn lại. Họ ăn thịt cả lông, uống máu, và che thân bằng da thú và vỏ cây. Rồi Phục Hy đến, nhìn lên ngắm trời, nhìn xuống ngắm đất. Ông hợp chồng với vợ, sắp đặt ngũ hành, và đề ra luật lệ cho con người. Ông đề ra bát quái, để thu tóm sự thống trị thiên hạ.
    -Ban Cố. Bạch hổ thông nghĩa. trích từ Kinh dịch.
    Phục Hy dạy dân nấu ăn, dùng lưới đánh cá, và săn bắn bằng vũ khí sắt. Ông thể chế hóa hôn nhân và thực hiện buổi tế trời đầu tiên. Một bia đá, niên đại 160 CE, vẽ hình Phục Hy với Nữ Oa - người vừa là vợ vừa là chị em gái của ông.
    Cùng với Thần Nông và Hoàng Đế, Phục Hy còn được cho là người phát minh ra đàn cổ cầm.


    [​IMG]

    Xích Tùng Tử

    *Xích Tùng Tử (Tùng 松= cây tùng) còn gọi là Xích Tụng Tử (Tụng誦= đọc, khen) theo truyền thuyết là Vũ Sư thời vua Thần Nông, có thể vào lửa để tự đốt (mà không sao cả), hay nương theo mưa gió mà lên xuống.

    *Các truyền thuyết về Xích Tùng Tử, có thể thấy sớm nhất trong “Hoài Nam Tử—Tề Tục” và “Liệt Tiên Truyện” . Lưu An nói :- “Nay có Vương Kiều, Xích Tụng Tử, biết pháp hô hấp, tống hơi cũ thay hơi mới, dời hình bỏ trí, giữ sạch trở về chân, du hành đến chỗ huyền diệu, lên thẳng trời mây”.

    *Cao Dụ chú giải :- “Xích Tụng Tử, người Thượng Cốc, nhân bệnh vào núi, tìm được Tiên dạy đạo”.
    *Liệt Tiên Truyện nói :- “Xích Tùng Tử là Vũ Sư thời Thần Nông, dạy Thần Nông phép trị thủy. (Ông ) có thể vào lửa để tự đốt (mà không sao cả) . Thường đi đến đỉnh núi Côn Lôn , dừng lại ở thạch thất của Tây Vương Mẫu , nương theo mưa gió mà lên xuống. Thiếu Nữ của Viêm Đế cầu học đạo, được thành Tiên mà đi. Đến thời Cao Tân thì lại làm Vũ Sư cho đến ngày nay”.

    *Cũng trong sách nầy nói thêm:- “Mênh mang Xích Tùng, phiêu phiêu Thiếu Nữ, nắm tay dắt lên, cả hai bay bổng, thân nương gió lớn, như chắp cánh huyền, hết đông đến bắc, làm bậc vũ sư”.
    *Ngoại trừ Liệt Tiên Truyện, nói việc Thiếu Nữ của Viêm Đế theo Xích Tùng Tử tu thành tiên, còn có chuyện Huỳnh Sơ Bình gặp được Xích Tùng Tử tu đạo thành tiên, chép trong “Kim Hoa Xích Tùng Sơn Chí” của Tống Nhân Nghê , kể chuyện Huỳnh Sơ Bình từng gặp Xích Tùng Tử ở núi Xích Tùng, theo tu trong thạch thất, biến đá thành dê, lấy nước giếng để trị bệnh, sau ngồi mà thoát hóa (chết).
    *Những chuyện Xích Tùng Tử tu luyện thành tiên có rất nhiều truyền thuyết trong sách vở xưa nay.Quách Phác nói :- “Thủy ngọc như băng, chứa ánh sáng soi suốt động sâu, Xích Tùng dùng nó, nhẹ nhàng như mây, hít thở lục khí, thăng lên cửu thiên”. Cát Hồng cũng nói :- “Có loại cỏ tên là Hỏa Chi, thường hái vào mùa hạ, lá màu đỏ, rễ màu xanh, Xích Tùng Tử ăn nó, thường ở trước Tây Vương Mẫu, nương theo gió mà lên xuống, bay khắp đông tây”.

    *Sách “Nghệ Văn Loại Tụ” nói :- “Xích Tùng Tử thích ăn quả của cây bách và những loại rong rêu mọc trên đá”.
    Qua những căn cứ trên, ta có được kết luận chính xác là “Xích Tùng Tử nhờ ăn (hoặc uống) tiên dược thảo mà thành tiên”.

    *Các đạo sĩ về sau, thường mượn danh Xích Tùng Tử để viết sách, như là :-

    -Xích Tùng Tử Trung Giới Kinh.
    -Xích Tùng Tử Chương Lịch.
    Hai sách nầy theo nghiên cứu của người đời nay thì thấy có lẽ được viết vào thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều. Trong “Đạo Tạng Đề Yếu” viết :- “Xích Tùng Tử Trung Giới Kinh là sách xưa thời Lục triều, còn Xích Tùng Tử Chương Lịch có lẽ viết vào thời Nam Bắc Triều”.
    *Còn các sách 《Thượng Thanh Thái Thượng Đế Quân Cửu Chân Trung Kinh 》, 「Nguyên Đề Thái Hư Chân Nhân Nam Nhạc Thượng Tiên Xích Tùng Tử Truyện 」;《Thượng Thanh Cửu Chân Trung Kinh Nội Quyết 》「Nguyên Đề Xích Tùng Tử Thuật 」là do Thượng Thanh Phái trước tác vào lúc bắt đầu lập phái, cũng vào khoảng thời kỳ Nam Bắc Triều mà thôi.


    *Tham khảo :-

    ①②③ 《Đạo Tạng 》quyển 28 tờ 84 , quyển 5 tờ 64, Văn Vật Xuất Bản Xã 、Thượng Hải thư điếm 、 Thiên Tân cổ tịch xuất bản xã liên hợp xuất bản , 1988 .
    ④ 《Sơn Hải Kinh Đồ Tán 》
    ⑤⑥ 《Nghệ Văn Loại Tụ 》quyển 98 dẫn theo 《Bão Phác Tử 》(Dật Văn )
    ⑦ 《Đạo Tạng Đề Yếu 》tờ 136 、443 .

    -------------------------------
    *PHỤ LỤC :-

    Ngày Xích Tòng Tử giáng hạ

    Xích Tòng Tử là vị tiên từ đời Huỳnh Đế . Ngày Xích Tòng Tử giáng hạ là những ngày xảy ra biến cố lớn trên thế giới do lửa tạo nên như: động đất, núi lửa phun phún xuất thạch, cháy rừng, nổ máy bay, nổ bom...

    *Ba chục câu thơ dễ nhớ sau đây cho chúng ta biết những ngày đó: -

    ”Mùng 7, 11 tháng Giêng, Xích Tòng giáng hạ cử kiêng những ngàỵ
    Mùng 9, 19 tháng Hai, Ai mà phạm phải thiệt tài đâu xa
    15, 16 tháng Ba, Cất nhà ắt bị phá vì thiên tai
    Tháng Tư, mùng 9, 22, Bán buôn sẽ bị bay đi vốn nằm.
    Mùng 9, 14 tháng Năm, Tháng Sáu cũng vậy nhằm 10, 20.
    Tháng Bảy, mùng 8, 23, Xuất quân thì chỉ đi ra không về.
    Tháng Tám cũng ở cận kề, 18, 29, ê chề đớn đau
    Khai trương thì hãy cùng nhau, Mùng 2 tháng Chín tránh mau đừng dùng.
    30 tháng Chín lung tung, Mùng 1, 14, trong khung tháng Mười
    Cưới gã thì chớ có lười, Mùng 2, tháng Mười Một muốn cười không ra
    21 (tháng) Mười Một đi xa, Tháng Chạp, mùng 1, cùng là 30.
    Sáng hôm nói tới tươi cười, Tối hôm ắt bị cắt mười, xẻ năm.
    Làm thầy nên nhớ nằm lòng, Xích Tòng giáng hạ chất chồng cử kiêng.
    Muốn cho thoát khỏi ưu phiền, Xích Tòng giáng hạ, cử tiên phong đầu.”

    *Ngày xưa sách viết có câu: 'Tin thời nên cử, khỏi sầu về sau'.

    Ý bài thơ cho biết mỗi tháng kỵ hai ngày “Xích Tùng Tử hạ giáng” như sau:
    - Tháng Giêng: Mùng 7, 11
    - Tháng Hai: Mùng 9, 19
    - Tháng Ba: 15, 16
    - Tháng Tư: Mùng 9, 22
    - Tháng Năm: Mùng 9, 14
    - Tháng Sáu: Mùng 10, 20
    - Tháng Bảy: Mùng 8, 23
    - Tháng Tám: 18, 29
    - Tháng Chín: Mùng 2, 30
    - Tháng Mười: Mùng 1, 14
    - Tháng Mười một: Mùng 2, 21
    - Tháng Chạp: Mùng 1, 30


    [​IMG]

    DUNG THÀNH CÔNG

    *Dung Thành Công là vị thần tiên theo truyền thuyết được thờ phụng vào thời kỳ phát triển của Đạo Giáo. Sự xuất hiện của Dung Thành Công có liên quan đến sự truyền bá trực tiếp của “Phòng Trung Thuật”.

    Cát Hồng viết trong “Thần Tiên Truyện” xưng là Dung Thành Tử, tự Tử Huỳnh, người ở Đạo Đông, đã từng đến Thái Mụ Sơn để luyện dược, thọ hai trăm tuổi.

    《Quảng Huỳnh Đế Bản Hạnh Ký 》nói :- “Huỳnh Đế mộ đạo của Dung Thành Tử, đã cho xây dựng năm thành mười hai lầu để cúng dường Ngài”. Các nhà phòng trung từ sớm đã học theo các thuật của Dung Thành Công. “Liệt Tiên Truyện—Dung Thành Công” nói :- “Dung Thành Công, tự xưng là thầy của Huỳnh Đế, thấy có mặt ở đời Chu Mục Vương, giỏi về phép dạy “Bổ” và phép giữ tinh trong “huyền tẫn”. Tóc bạc rổi đen lại, răng rụng rồi mọc lại. Đồng thời với Lão Tử và truyền thuyết nói là thầy của Lão Tử”.

    * “Huyền Tẫn” và “Cốc Thần Bất Tử” xuất hiện ở chương 6 của sách “Lão Tử”, từ đó trở thành thuật ngữ của các “phòng trung gia”. “Liệt Tiên Truyện—Lão Tử” có câu :- “Nuôi tốt tinh khí, đón tiếp mà chẳng làm”.

    * Lý Hiền trong “Hậu Hán Thư—Phương Thuật Truyện” dẫn dụng trong phần chú giải như sau :- “Đây là thuật của đàn bà trong cung, cố giữ chặc lại không cho xuất ra, gọi là hoàn tinh bổ não”.

    *Đời Chiến Quốc trăm nhà mượn danh Huỳnh Đế rồi thêm vào “Thầy của Huỳnh Đế” là Dung Thành Công, đó là thời kỳ mà các nhà thần tiên, nhà phòng trung được tôn sùng.
    Đến đời Hán, thì lại có thuyết cho rằng Dung Thành Công và Lão Tử nhờ pháp “phòng trung” mà được thọ, Dung Thành Công trở thành thầy của Lão Tử. Ngoài ra, Ngài còn là một vị “âm dương gia”.

    * 《Hán Thư •Nghệ Văn Chí 》trừ ra phần 《Dung Thành Âm Đạo 》hai mươi tám quyển, xếp ra ngoài phòng trung gia, còn mười bốn quyển của “Dung Thành Tử” thì đều xếp vào âm dương gia, cùng đường lối với nhóm Trâu Diễn.

    *Thời kỳ Hán Tấn, thuật phòng trung được truyền bá rộng rãi, danh vọng của Dung Thành Công được đề cao. Theo “Hậu Hán Thư—Phương Thuật Truyện” nói thì vào cuối đời Hán, nhương phương sĩ đạo gia như Cam Thủy, Đông Quách Diên Niên, Phong Quân Đạt, Linh Thọ …đều thực hành “Dung Thành Công ngự phụ chi thuật” để “tồn tinh dưỡng khí”. Cát Hồng thời Đông Tấn viết trong “Thần Tiên Truyện” là những vị ấy đã “làm theo đạo huyền tố, kéo dài tuổi thọ đến vô cực”. Đạo huyền tố là cách nói khác của thuật phòng trung, điều nầy trong “Bảo Phác Tử nội thiên—Thích trệ” có nêu lên hơn mười vị chuyên về thuật phòng trung, trong đó Dung Thành Công là vị đứng đầu.

    *Trong bộ “Hà Lãm” có một quyển “Dung Thành Kinh” , điều đó nói lên rằng sau đời Hán vẫn còn hiện tượng mượn danh Dung Thành Công để viết sách. Nhưng Dung Thành Pháp dần dần bị Bành Tổ Pháp thay thế. Bởi vì, các phái Đạo Giáo mới như Thượng Thanh, Linh Bảo ra đời, hết sức phê phán thuật phòng trung, Dung Thành Công trở thành vi Tiên bị đem ra tranh luận dữ dội. Nhưng đến đời Nam Tống, Tăng Tháo khi viết quyển “Đạo Xu” lại dành ra một thiên để ca tụng “ngự nữ chi thuật”.

    *Tóm lại, những truyền thuyết có liên quan đến Dung Thành Công thì chỉ có quyển “Liệt Tiên Truyện—Dung Thành Công” là đáng tin hơn cả.
    Đến đời Nguyên, có sự thống kê các vị thần tiên để viết thành sách “Lịch Thế Chân Tiên Thể Đạo Thông Giám” . Trong đó, người viết sách là Triệu Đạo Nhất đã có nhận định khá chính xác rằng :-“Pháp luyện tinh Huyền Tẫn mà Dung Thành Công sở đắc, thực ra không phải là thuật phòng trung. Hậu thế không tìm ra bí pháp ấy, đã nắn bóp nó thành ra “ngự nữ chi thuật” , rồi tuyên truyền là pháp dạy đạo của Dung Thành Công , quả thất là sai lầm to lớn vậy !”.

    TÔN TẪN

    [​IMG]

    Tôn Tẫn (孫臏, khoảng thế kỷ 4 TCN), người nước Tề, là một quân sư, một nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng thời Xuân Thu-Chiến Quốc. Tương truyền, Tôn Tẫn là cháu của Tôn Tử, cùng với Bàng Quyên là học trò môn binh pháp của Quỷ Cốc Tử. (Ngoài Tẫn và Quyên, học trò Quỷ Cốc Tử Vương Hủ còn có Tô Tần và Trương Nghi học môn du thuyết.)

    Bàng Quyên là bạn học với Tôn Tẫn, vì ham công danh phú quý nên xin Quỉ Cốc tiên sinh xuống núi trước để tìm công danh. Bàng Quyên làm tướng nước Ngụy, vì ghen ghét tài học của Tôn Tẫn đã mượn pháp luật mà trị tội chặt 2 chân, chạm vào mặt để Tẫn phải giấu mình không lộ diện. Sứ giả nước Tề đến đất Lương (Nguỵ), Tôn Tẫn lén gặp thuyết phục sứ giả. Sứ giả nước Tề cho là kỳ lạ bèn mang trộm Tôn Tẫn lên xe về Tề. Tướng Tề là Điền Kỵ phục tài, tâu với Tề Uy Vương phong Tẫn làm thầy, cùng với Kỵ đem quân đánh Nguỵ. Tẫn ngồi trong xe kín, bày mưu kế cho Kỵ đánh Nguỵ phải kiệt quệ.

    Mười ba năm sau, Nguỵ và Triệu đánh Hàn. Hàn cáo cấp với Tề, Tề lại sai Điền Kỵ làm tướng, Tôn Tẫn làm quân sư đi cứu Hàn. Tôn Tẫn dùng kế "vây Ngụy cứu Triệu" khiến cho tướng Nguỵ là Bàng Quyên nghe vậy phải rời bỏ Hàn quay về. Tẫn lại dùng kế giảm số bếp trong quân lừa Bàng Quyên đuổi theo, rồi sau đó sai quân cung nỏ mai phục hai bên đường Mã Lăng, lấy một khúc gỗ to cạo sạch vỏ, lấy than khắc lên dòng chữ: "Bàng Quyên sẽ chết dưới cây này". Sau đó dặn quân lính hễ thấy ánh lửa nổi lên là bắn thẳng vào chỗ đó. Bàng Quyên đuổi đến nơi, thấy có chữ bèn sai quân thắp đuốc lên để đọc. Quyên đọc xong, thất kinh vội sai quân rút nhưng đã muộn. Quân Tề mai phục thấy ánh lửa đốt lên vội bắn như mưa về phía đó. Bàng Quyên bị tên bắn ngã ngựa, sợ bị quân Tề làm nhục vội rút gươm tự tử".

    * Trích đoạn trong Đông Chu Liệt Quốc:-

    “ Tôn Tẫn lúc nào cũng sai người dò thăm tin tức, quân do thám bảo là quân Ngụy đã qua núi Sa Lôc, đi luôn đêm ngày, gấp đừờng mà tiến . Tôn Tẫn tính nhẩm hành trình, biết thế nào chiều tối ngày hôm ấy Bàng Quyên cũng đến Mã Lăng, chỗ này là một thung lũng sâu và hẹp, có thể phục binh . Ven đường cây cối um tùm, Tôn Tẫn chỉ để lại một cây rõ to, còn đều sai chặt ngã xuống ngổn ngang giữa đuờng để chặn lối đi, rồi lại sai cạo sạch vỏ ngoài mặt đông cái cây to kia, dùng than viết sáu chữ lớn rằng: "Bàng Quyên chết dưới cây này", mặt trên viết ngang dòng chữ "Lời truyền của Tôn quân sư", sai bộ tướng là Viên Đạt và Độc Cô Trần kén năm nghìn quân cung nỏ, mai phục ở hai bên tả hữu, dặn hễ khi thấy dưới gốc cây có ánh lửa, thì nhất tề bắn nỏ ra; lại sai Điền Anh dẫn một vạn quân, mai phục ở nơi cách Mã Lăng ba dặm, đợi khi quân Ngụy đã qua rồi, thì theo sau chặn giết . Tôn Tẫn phân phát đã xong, cùng Điền Kỵ dẫn quân đến phía bắc đồn Viễn để dự bị tiếp ứng.

    Lại nói Bàng Quyên dò biết quân Tề đi qua chưa xa, giận không thể một bước theo kịp được, nên luôn luôn thúc giục quân lính đi thật nhanh . Khi đến đường Mã Lăng, thì mặt trời đã lặn, bấy giờ là hạ tuần tháng mười, trời không có ánh sáng trăng, tiền quân quay lại báo có nhiều cây chặt để nằm ngổn ngang trên mặt đường, khó đi lên được. Bàng Quyên mắng rằng:
    - Đó là quân Tề sợ quân ta đuổi theo, nên lập ra kế ấy.
    Nói xong, Bàng Quyên bèn ra lệnh cho quân lính khuân gỗ mở đường, nhưng bỗng ngẩng đầu thấy chỗ thân cây đẽo trắng, thấp thoáng lại có nét chữ, nhưmg vì là đêm tối khó nhận rõ, nên sai một tên lính châm lửa soi xem. Bàng Quyên đọc thấy hai câu viết ở trên rất rõ ràng, bèn giật mình nói:
    - Thôi ta mắc mưu thằng què rồi!
    Liền hạ lệnh cho lui mau.
    Bàng Quyên nói chưa dứt thì hai toán phục binh của Viên Đạt và Độc Cô Trần trông thấy lửa sáng, đều giương cung nỏ bắn loạn, Bàng Quyên mình bị trọng thương, liệu không thể thoát được mới than rằng:
    - Ta giận không giết chết được thằng què ấy!
    Nói xong, liền rút thanh kiếm đeo bên mình, tự đâm cổ mà chết. Bàng Anh cũng bị tên nỏ bắn chết, còn quân sĩ bị giết không biết bao nhiêu mà kể. Khi Bàng Quyên hạ sơn, Quỉ Cốc tiên sinh đã có nói sẽ vì lừa người mà lại bị người ta lừa; Bàng Quyên dùng bức giả thư để lừa chặt chân Tôn Tẫn, nay cũng bị Tôn Tẫn lừa lại bằng cái kế giảm bếp. Quỉ Cốc lại nói gặp ngựa thì hỏng, quả nhiên Bàng Quyên phải chết ở Mã Lăng. Tính ra từ khi Bàng Quyên đến làm quan ở nước Ngụy cho đến lúc bị chết trận vừa mười hai năm, ứng vào cái triệu cành hoa có mười hai lá. Bấy giờ thái tử Thân ở phía sau, nghe tiền quân bại trận thì sợ hãi, đóng quân lại không dám đi, không ngờ lại có một đạo quân Điền Anh, từ mặt sau kéo đến, quân Ngụy sợ quá không ai dám đánh đều bỏ chạy tán loạn cầu thoát lấy thân . Thái tử Thân thế cô sức kém, bị Điền Anh bắt sống trói lại để trong xe, Điền Kỵ và Tôn Tẫn thống suất đại quân tiếp ứng, đánh giết quân Ngụy thây nằm ngổn ngang đầy đồng, bắt được hết các xe lương thực và quân khí . Điền Anh đem thái tử Thân dâng công, Viên Đạt, Độc Cô Trần cũng đem nộp thi thể cha con Bàng Quyên. Tôn Tẫn tự tay chém đầu Bàng Quyên, treo ở trên xe. Quân Tề đại thắng, cùng nhau hát mừng kéo về. Đêm ấy thái tử Thân sợ nhục cũng đâm cổ mà chết . Đại quân đi đến núi Sa Lộc, gặp bộ quân của Bàng Thông, Tôn Tẫn sai người giơ cái đầu Bàng Quyên báo cho biết; đạo quân ấy không đánh tự vỡ, Bàng Thông vội vàng xuống xe đập đầu xin nộp mạng, Điền Kỵ muốn giết nốt, Tôn Tẫn nói:
    - Làm ác chỉ một mình Bàng Quyên, đến con đẻ còn không nên bắt tội, nữa là cháu.
    Bèn đem thi thể thái tử Thân và Bàng Anh giao cho Bàng Thông, bảo về báo ngay cho vua Ngụy biết, mau mau dâng biểu triều cống, nếu không, quân Tề lại đến, thì tôn xã không còn . Bàng Thông dạ dạ rồi đi ngay . Điền Kỵ đem quân về nước”.

    TỨ ĐẠI THIÊN SƯ


    [​IMG]

    (Trương Thiên Sư)​




    [​IMG]
    (Tát Thiên Sư)​



    [​IMG]

    Tứ Đại Thiên Sư

    * Tứ Đại Thiên Sư , tức là bốn vị Trương Thiên Sư Trương Đạo Lăng , Hứa Thiên Sư Hứa Tốn , Tát Thiên Sư Tát Thủ Kiên , Cát Thiên Sư Cát Huyền , Đạo Giáo tôn làm Tứ Đại Thiên Sư .

    1/- TRƯƠNG THIÊN SƯ :-

    * Trương Thiên Sư được xem là người sáng lập Đạo Giáo , còn xưng là “Hàng Ma Hộ Đạo Thiên Tôn”, “Cao Minh Đại Đế”, “Chính Nhất Chân Nhân” hay “Tổ Thiên Sư”.

    *Trương Đạo Lăng bổn danh là Trương Lăng (34—157), tự là Phụ Hán, hiệu là Thiên Sư, trong Đạo gia tôn là Trương Đạo Lăng. Ngài sáng lập ra “Ngũ Đẩu Mễ Đạo” vào cuối thời Đông Hán. Về sau Đạo Giáo tôn làm “Thủy Tổ” khai sáng tôn giáo nầy. Chính Nhất Chân Nhân là danh hiệu được Thái Thượng Lão Quân phong cho.
    *Xem bài “Ngũ Đẩu Mễ Đạo” ở:-
    http://www.hoangthantai.com/forum/index.php?topic=1352.0
    (Phần trả lời 4)

    *Trong “Thanh Vi Tiên Phả”, “Lịch Đại Thần Tiên Thông Giám” và “Liệt Tiên Truyện” đều nói rằng Ngài là cháu tám đời của Hán Lưu Hầu Trương Lương ở nước Bái (nay là huyện Phong tỉnh Giang Tô). Thân phụ của Ngài là Trương Ế, tự Thái Thuận, từng ở Thiên Mục Sơn. Thân mẫu của Ngài nhân nằm mộng thấy Bắc Đẩu Khôi Tinh hạ giáng, mùi thơm khắp nhà, sau đó có thai Ngài. Trở về nước Bái vào niên hiệu Kiến Vũ ( 25—56). Bà sinh Trương Lăng vào đêm mười tám tháng năm , năm Giáp Ngọ. Lúc sinh ra, mây vàng tỏa đầy nhà, khói tía lan khắp sân, trên không sáng như ban ngày. Trương Đạo Lăng từ thuở nhỏ đã hết sức thông minh dĩnh tuệ. Lên bảy tuổi gặp Hà Thượng Công dạy cho “Đạo Đức Chân Kinh” , thông hiểu năm ngàn lời tinh vi nghĩa lý. Khi thành niên, tướng mạo hết sức kỳ dị :- thân mình cao chín thước hai tấc (3,68 m) , mày to trán rộng, đỉnh đầu đỏ mắt xanh sáng, mũi to cao má vuông lớn, mắt có hai góc. Ngài thông hiểu tứ thư ngũ kinh, rành thiên văn địa lý, hà đồ lạc thư. Từng được vào Thái Học Đường, học qua tất cả kinh sách. Năm hai mươi sáu tuổi đậu khoa thi “Cử Hiền Lương Phương Chính Cực Gián”.

    [​IMG]

    *Thời vua Minh Đế Đông Hán (58—76) từng được bổ nhậm làm “Ba Quận Giang Táp Lệnh” (đứng đầu Ba Quận, nay thuộc tỉnh Trùng Khánh) . Sau từ quan ở ẩn tu đạo trường sinh bất tử ở phía Bắc Mang Sơn (nay là Bắc Lạc Dương tỉnh Hà Nam). Truyền thuyết nói Ngụy Bá Dương từng học được bí chỉ và đạo đồ của Ngài. Triều đình chiếu phong cho Ngài làm Bác Sĩ, nhưng Ngài cáo bệnh không nhận. Đời Hòa Đế (89—105) chiếu phong làm Thái Phó, chức Huyện Hầu của Phong Ký, nhưng xuống chiếu ba lần mà Ngài không nhận.
    *Ngài hết lòng tu luyện, đạt thành “Cửu đỉnh đan pháp” của Huỳnh Đế. Sau đưa đệ tử về ở Vân Cẩm Sơn tu đạo “Huyền Huyền”, luyện đại đan “long hổ”.Kế đến Tung Sơn tu pháp “tĩnh tâm minh tư” , gặp được “Tam Hoàng Nội Văn ” và “Cửu đỉnh Thái Thanh Đan kinh ” nên tìm danh sơn ẩn tu chân đạo.

    [​IMG]

    *Đời Thuận Đế (126—144), nhân vì hai lẽ, một là người dân ở Tứ Xuyên chân chất thật thà, hai là những rừng suối khe thác núi non vùng Ba Thục đầy sức hấp dẫn, Ngài liền đến Tứ Xuyên, tại núi Hạc Minh (còn có tên Thước Minh, nay ở huyện Đại Ấp, Tứ Xuyên) để lập “lò luyện cửu đỉnh thần đan”, trải qua ba năm thì thành công. Ngài uống vào thì được “cãi lão hoàn đồng”, kế đi về hướng Tây để tìm nguồn cội Tiên. Duyên được quyển “Ngũ Nhạc Nhiếp Thiệu Vạn Linh Thần Quy Bí Văn” , Ngài tinh tu pháp thuật đạt đạo lực vô biên, thế nhân khó lường.
    Theo “Liệt Tiên Truyện”, Trương Đạo Lăng chuyên dùng phù chú trị bệnh, viết sách truyền đời. Sau lại được “Thái Thượng Lão Quân Chính Nhất Minh Uy Bí Lục”, “Tam Thanh Chúng Kinh 、Phù Lục Đan Táo Bí Quyết”, được ấn kiếm và pháp phục. Từ đó, Ngài có sức sai sử Bát bộ quỷ thần nơi đất Thục, Lục thiên ma vương. Ban mệnh lệnh cho quỷ thần của “ngũ phương, bát bộ, lục thiên” tập hợp lại ở Huỳnh Đế Đàn nơi núi Thanh Thành. Ngài cai trị cả quỷ thần, khiến cho tất cả lao ngục của quỷ thần biến thành nhị thập tứ phước đình ( 24 đất phước).Tức chia địa phương nơi Ngài ở thành ra 24 “trị”, mỗi trị lập một vị Âm Quan, một vị Tiên Quan, chưởng quản họa phước của con người.
    Sau Ngài đến núi Vân Đài huyện Thương Khê tu luyện môn “Cửu Hoàn Thất Phản Chi Công” để chuẩn bị thăng thiên. Nhưng vì Ngài đã vì chúng sanh sát quỷ trừ tà quá nhiều, nên việc thăng thiên bị trở ngại. Thái Thượng Lão Quân bảo Ngài phải lưu lại nhân gian thực hành pháp “tu chân” để giải trừ sát nghiệp. Ngài trở lại núi Hạc Minh, trước tác hai mươi bốn quyển Đạo Thư, sáng lập ra “Ngũ Đẩu Mễ Đạo”, người sau xưng là Thiên Sư Đạo hay Chính Nhất Đạo. Kế Ngài dẫn đệ tử đi khắp các danh sơn để tu hành tạ tội. Khi công thành quả mãn, Ngài được Thái Thượng Lão Quân cho thăng thiên, triều bái Nguyên Thủy Thiên Tôn, phong cho làm “Chính Nhất Bình Khí Đại Pháp Sư”, rồi cho trở lại nhân gian, khuyến hóa được những người thượng căn đến chỗ “ngộ đạo”. Ngài đã trở thành vị Thiên Sư cõi người, giảng pháp, trừ tà quỷ. Chỉ cần thấy pháp lệnh của Ngài là các quỷ đều chạy trốn mất.
    *Đời Vĩnh Thọ (155—158) , năm thứ hai (156) Ngài công thành đạo mãn, thiên thần đến nghênh tiếp, bạch nhật thăng thiên.
    *Sau, con cháu của Ngài nối tiếp đạo pháp Thiên Sư, nhiều triều đại đều có sắc phong như là :-
    -Niên hiệu Thiên Bảo (742—756) đời Đường, năm thứ sáu (747) sắc phong cho Ngài làm Thái Sư.
    -Đường Hy Tông phong Ngài làm “Tam Thiên Phù Giáo Phụ Nguyên Đại Pháp Sư” .
    -Đời Tống Lý Tông sắc phong cho Ngài làm “Tam Thiên Phù Giáo Phụ Nguyên Đại Pháp Sư Chính Nhất Tĩnh Ứng Hiển Hựu Chân Quân”.
    -Đời Nguyên Thành Tông gia phong Thiên Sư làm “Chính Nhất Xung Nguyên Thần Hoá Tĩnh Ứng Hiển Hựu Chân Quân”.
    -Đời Minh Cung Vũ (1368—1375) năm thứ nhất (1368) cải phong Ngài làm Chân Nhân.

    [​IMG]

    *Tên Thiên Sư thấy xuất hiện đầu tiên trong “Trang Tử •Từ Vô Quỷ” có viết :- “Huỳnh Đế lại cúi đầu bái lạy Thiên Sư mà thối lui”. Quả thật đây là một từ hết sức tôn kính , nên danh xưng Thiên Sư mới dành riêng cho Ngài.

    *Lý Ưng trong Thục Ký nói rằng Trương Lăng vào núi Hạc Minh, tự xưng Thiên Sư.
    -Đời Bắc Ngụy có Khấu Thiên Sư (Khấu Khiêm Chi).
    -Đời Lưu Tống có Lục Thiên Sư (Lục Tu Tĩnh).
    -Đời Đường có Đỗ Thiên Sư (Đỗ Quang Đình)
    -Đời Nam Tống có Tát Thiên Sư (Tát Thủ Kiên)
    v.v…

    *Danh hiệu “Thiên Sư” của Ngài được thấy đầu tiên ở sách “Tấn Thư—Hách Siêu Truyện” nói :- “ (người tên ) Âm trước theo Đạo Thiên Sư, sau phụng sự Phật”. Tức là nói đạo của Ngài Trương Lăng là “Thiên Sư Đạo”.
    -Đến đời Minh thì triều đình không cho phép dùng danh xưng Thiên Sư Đạo nữa. Nhưng thế gian vẫn quen dùng danh xưng Thiên Sư cho đến ngày nay.

    [​IMG]

    *Kết luận:- Trương Đạo Lăng là vị sáng lập ra Đạo Giáo, Ngài có đạo pháp cao thâm, hàng ma phục yêu, thần thông quảng đại, giữa ban ngày phi thăng lên trời thành Tiên, nên trong Đạo Giáo Ngài có địa vị rất cao.
    Trong Đạo Giáo thì nhiều đời tôn sùng, ảnh hưởng của Ngài đối với dân gian vô cùng mười phần to lớn, thờ phụng Trương Thiên Sư không gián đoạn đến tận ngày nay.

    2.- HỨA THIÊN SƯ :-

    *Hứa Thiên Sư tức là Đại Đạo Sĩ Hứa Tốn đời nhà Tấn, tự Kính Chi, người ở Nam Xương (nay là Giang Tây), còn xưng là Hứa Chân Quân.

    [​IMG]

    *Theo “Thập Nhị Chân Quân Truyện” nói :- “Hứa Chân Quân tên là Tốn, tự Kính Chi, vốn là người gốc ở Nhữ Nam. Nội tổ tên là Diệm, thân phụ tên là Túc, đều là những người trọn đời sùng đạo.”
    *Trong “Tam Giáo Nguyên Lưu Sưu Thần Đại Toàn” thì nói :- “Hứa Tốn sinh vào niên hiệu Xích Ô (238—251) đời Ngô năm thứ hai (239) , ngày hai mươi tám tháng giêng .
    Truyền thuyết kể rằng, mẹ ông nhân nằm mộng thấy rồng vàng ngậm hạt châu rơi trúng bụng , có thai sau sinh ra Ngài.
    Đến tuổi “đội mão” (gia quán) đến học đạo với Đại Động Chân Quân Ngô Mãnh, được pháp Tam Thanh, thông suốt kinh sử, giỏi thiên văn, địa lý, lịch thuật, ngũ hành, kinh sách sấm giảng …nhưng thích nhất vẫn là tu luyện theo “Đạo Thần Tiên”.
    *Theo sách “Vân Cấp Thất Thiêm” viết :- “Lúc trẻ, có lần Hứa Tốn đi săn . Bắn trúng vào bụng của một con nai mẹ đang có thai , khiến nó sanh ra nai con. Mặc dù sắp chết mà nai mẹ vẫn ráng cho nai con bú xong rồi mới ngã ra chết. Thấy cảnh ấy, Hứa Tốn chấn động tâm can, xót thương loài vật khôn xiết, bèn bẻ cung tên vất đi, thề không săn bắn nữa. Nhờ duyên đó mà sau nầy ông phát tâm tu theo đạo thần tiên”.
    *Niên hiệu Thái Khang (280—290) đời Tấn, năm thứ nhất (280), Hứa Tốn đậu Hiếu Liêm, được bổ nhiệm làm quan Huyện Lệnh của huyện Tinh Dương đất Thục, lúc ấy, ông được bốn mươi hai tuổi. Trong suốt thời gian làm quan, ông hết sức công chính liêm minh, người dưới cũng như dân chúng đều kính mến. Đến nổi nhân dân cảm ơn đức của Ngài, lập Miếu thờ và gọi Ngài một cách thân thiết là “Hứa Tinh Dương”. Về sau, nhà Tấn bị loạn lạc, ông bỏ quan đi về hướng Đông để ngao du giang hồ, tầm cầu đạo lớn. Lúc ấy, ông cùng Ngô Quân đến vùng Giang Tả, kết giao với Quách Phác chống lại với quan cai trị vùng Âm Chỉ là Ngũ Đôn rất tàn ác. Quách Phác bị Ngũ Đôn bắt được xử tử hình, ông cùng Ngô Quân chạy trốn đến vùng Lư Giang Khẩu. Phúc duyên gặp được Thuyền Công hóa độ cho, dạy cho các đạo thuật thần tiên.
    Sau lại được Thượng Thánh Chân Nhân truyền cho “Thái Thượng Linh Bảo Tịnh Minh Pháp” là pháp thuật trảm tà trừ yêu. Không lâu sau, đến Dự Chương, gặp một thiếu niên tên là Thận Lang. Nguyên tên nầy là con yêu tinh “sấu thần” biến hóa ra. Thận Lang hãm hại vô số đàn bà con gái, lại dâng nước làm ngập lụt cả vùng Giang Tây. Ngài làm phép hóa thành “con trâu nước đen” để đánh nhau với sấu tinh, kết quả giết được sấu, giải trừ tai họa hồng thủy cho Giang Tây. Từ đó, danh tiếng của Hứa Tốn nổi lên khắp nơi, chúng đệ tử theo học rất đông.

    *Niên hiệu Ninh Khang (373—376) đời Đông Tấn, năm thứ hai (374), Ngài cùng gia đình bạch nhật thăng thiên ở vùng Tây Sơn của Dự Chương (nay là Tây Sơn thuộc Nam Xương tỉnh Giang Tây). Người làng và thân tộc chung sức xây Miếu Thờ.

    III.- TÁT THIÊN SƯ :-

    *Tát Thiên Sư , còn gọi là Tát Chân Nhân hay Sùng Ân Chân Quân .

    -Ngài là vị đạo sĩ nổi danh đời Tống, tên là Tát Thủ Kiên, hiệu Toàn Dương Tử.

    [​IMG]

    Một thuyết nói Ngài là người ở Tây Hà (nay ở phía Tây huyện Sùng Ninh Tứ Xuyên), một thuyết nói Ngài là người ở Nam Hoa ( có hai tên núi Nam Hoa, một ở phía Nam huyện Khúc Giang Quảng Đông, một ở phía đông nam huyện Đông Minh vùng Kim Sơn) . Triệu Đạo Nhất đời Nguyên trong “Lịch Thế Chân Tiên Thể Đạo Thông Giám” nói rằng “…(Ngài)…tự xưng Phần Dương Tát Khách”.
    *Tát Thủ Kiên lúc sinh thời là một thầy thuốc, nhân vì tay nghề không giỏi, vô tình làm chết người, nên bỏ nghề mà đi tu. Theo học đạo với Hư Tĩnh Tiên Sinh, Lâm Linh Tố và Vương Thị Thần là những vị truyền thừa đời thứ ba mươi của Đạo Thiên Sư .
    *Theo sách “Tam Giáo Sưu Thần Đại Toàn” quyển thứ nhì, “Liệt Tiên Toàn Truyện” quyển thứ tám, “Lịch đại Thần Tiên thông giám” quyển thứ hai mươi, đều có ghi :- “Hư Tĩnh Tiên Sinh truyền dạy Ngài môn Chú Tảo Bí Thuật, Vương Thị Thần dạy Ngài môn Lôi Pháp, Lâm Linh Tố dạy Ngài môn Bảo Phiến Nhất Bả”.
    -Tát Thủ Kiên học xong các pháp thuật trên, đã ra sức cứu nghèo thoát khổ cho dân chúng, dùng Lôi Pháp để trị kẻ gian thần, dùng Bảo Phiến để báo oan cho nhân dân. Do đó, đạo pháp của Ngài vang danh khắp nơi, dương quan âm quỷ đều khiếp sợ. Sau được tôn xưng làm “Súng Ân Chân Quân”, lại được Ngọc Hoàng Đại Đế phong làm “Thiên Xu Linh Vị Chân Nhân”.

    *Truyền thuyết nói rằng, Ngài đã từng thi thố “pháp trận” với Ngọc Xu Hỏa Phủ Thiên Tướng Vương Linh Quan, thu phục vị nầy làm bộ tướng, truyền dạy cho vị nầy Phù Lục Bí Quyết.
    Nhưng trong dân gian thì thanh danh của Vương Linh Quan cũng không kém Ngài.
    -Đời Vĩnh Lạc (1403—1425) nhà Minh đã cho xây dựng cung quán của Tát Thủ Kiên và Vương Linh Quan, thờ phụng thịnh hành lúc bấy giờ.
    *Trong Đạo Giáo, Tát Thủ Kiên cùng Trương Đạo Lăng, Cát Huyền, Hứa Tốn được tôn xưng làm Tứ Đại Thiên Sư.

    IV.- CÁT THIÊN SƯ :-

    *Thiên Sư họ Cát tên Huyền, tự là Hiếu Tiên, người ở Câu Dung, Đan Dương (nay là thành phố Câu Kháo tỉnh Giang Tô).
    -Nài là phương sĩ thời Tam Quốc, theo “Bão Phác Tử” nói Ngài đã từng theo học đạo với Tả Từ, tu luyện đạo thuật, được truyền thụ các bí quyết của “Cửu Đỉnh Đan Kinh, “Thái Thanh Đan Kinh”, “Kim Dịch Đan Kinh” v.v…Sau Ngài truyền lại cho Trịnh Ẩn.

    [​IMG]

    *Tương truyền Ngài đã từng tu đạo ở núi Các Tạo , Giang Tây. Ngài sở trường môn “tịch cốc” (nhịn đói), giỏi dùng phù chú pháp thuật trị lành nhiều bệnh hiểm cho dân.
    Đạo Giáo tôn Ngài làm “Cát Tiên Công , còn gọi “Thái Cực Tả Tiên Công”.
    *Đào Hoằng Cảnh trong “Chân Linh Vị Nghiệp Đồ” xếp Ngài vào địa vị ở “hàng thứ ba”.
    *Truyền thuyết về Ngài thì trong Đạo Giáo cũng như dân gian có nói rất nhiều.
    Như là :- Ngài có thể thổi những hạt cơm trong miệng ra thành đàn ong bay liệng đầy trời. Có thể sai khiến cho “cát bay đá chạy”. Ngài cũng có thể ra lệnh cho tất cả côn trùng, bò cạp , chim sẻ chim én …tấu lên những bản nhạc và nhảy múa. Lại còn có phép múc nước giếng lên chuyển hóa thành rượu ngon đãi khách, họa phù cầu mưa hiệu nghiệm cứu dân. Những câu chuyện Ngài thi thố pháp thuật trừ yêu trảm quỷ nơi tửu điếm, giải trừ “xà tinh” quấn thân mình của Nhất Tú, đốt cháy những tà miếu đuổi quỷ. Có truyền thuyết Ngài từng theo Ngô Tôn Quyền đi tuần du miền sông nước, trầm mình ở đáy sông hàng mấy tuần lễ mới lên mà không hề hấn gì . Có truyền thuyết khác kể chuyện Ngài cấp tiên đan cho hai cô gái nhà họ Khuất và dạy hai cô nầy tu luyện thành Tiên. Có truyền thuyết kể chuyện khi Ngài nấu thuốc tiên ở Thạch Bích, khi lấy thuốc vô ý làm rơi một viên linh đan ra ngoài, có con chim sà xuống mổ nuốt, hóa thành “tiên hạc” bay lên trời…Truyền thuyết chót là khi công thành quả mãn, Ngài được Đông Hoa Đế Quân cho vào sổ “Tiên Tịch” . Tóm lại, có vô số câu chuyện thần thoại xung quanh hành trạng của Ngài, lưu hành rộng rãi trong dân gian, không thể thống kê hết.

    *Niên hiệu Sùng Ninh (1102-1107 ) đời Tống, năm thứ ba (1104 ) sắc phong Ngài làm 「Xung Ứng Chân Nhân 」. Đến niên hiệu Hằng Thuần (1241-1253), năm thứ ba (1243 ) gia phong làm 「Xung Ứng Phù Chân Quân 」.

    *Trong Đạo Giáo đã tôn Ngài cùng với Trương Đạo Lăng 、Hứa Tốn 、Tát Thủ Kiên làm Tứ Đại Thiên Sư .


    TAM MAO CHÂN QUÂN

    [​IMG]


    *Tam Mao Chân Quân là ba vị Tiên được Đạo Giáo thờ phụng. Đó là :-Mao Doanh, Mao Cố và Mao Trung. Đời Tông được sắc phong là Chân Quân.

    *Tên Mao Doanh thấy xuất hiện lần đầu quyển sách lớn đời Hán là “Thượng Thư Đế Nghiệm Kỳ”, nói rằng :- “Đất nước của Tây Vương Mẫu ở Tây Hoang, phàm những người đắc đạo đều phải đến cung khuyết của Ngài ở núi Côn Lôn để triều bái……….. Mao Doanh cùng với Tây Thành Vương Quân, Nghệ Bạch Ngọc, đến đài tiên để ra mắt Vương Mẫu, cầu học đạo trường sinh. Vương Mẫu ban cho Kinh Huyền Chân và những bảo thư khác”.

    * Cát Hồng trong 《Thần Tiên Truyện 》quyển năm 《Mao Quân 》nói :「Mao Quân tên là Doanh , tự Thúc Thân , người ở Hàm Dương , cao tổ phụ tên là Mông, tự Sơ Thành , học đạo ở Hoa Sơn , Đan Thành , cỡi rồng đỏ mà thăng thiên vào thời Tần Thuỷ Hoàng . Có bài đồng dao ca rằng :
    " Thần tiên đắc giả doanh sơ thành , giá long thượng thiên thăng Thái Thanh , thời hạ Huyền Châu hí Xích Thành , kế thế nhi vãng tại ngã doanh , đế nhược học chi lạp gia bình . "
    (khi thành được thần tiên, cỡi rồng lên trời vào cung Thái Thanh, lúc ấy Huyền Châu đùa giỡn Xích Thành, đời sau đến với ta, vua nên học đi săn ở Gia Bình)
    *Tần Thủy Hoàng nghe xong, nói :- “Họ của ta (Doanh) phù hợp với lời sấm, chắc chắn được thăng thiên, ta sẽ xuống chiếu cải niên hiệu lại là Gia Bình” .
    *Mao Quân năm mười tám tuổi vào ní học đạo, trải qua hai mươi năm, thành đạo trở về. Khi ấy cha mẹ hãy còn sống, thấy ông giận nói :-“Thắng con bất hiếu, không chịu ở nhà phụng dưỡng cha mẹ lại đi tầm cầu tà mị khắp cả bốn phương !” Liền giơ gậy lên đánh ông. Ông vẫn quì ở đó, cha nổi giận đánh ông lia lịa , nhưng gậy liền gãy thành mười đoạn. Cha ngạc nhiên hỏi :-“Mày nói là đã đắc đạo, có thể cứu người chết sống lại hay không ?”. Ông thưa :- “Nếu người chết mang nhiều trọng tội chết đi, thì không thể cứu sống được. Còn nếu như muốn làm cho cây gậy nầy liền trở lại, thì con có thể làm được”. Theo Thần Tiên Truyện thì ông đã làm được việc ấy.
    Sau đó, ông từ biệt cha mẹ, lên xe có mái che bằng lông chim mà đi, đến ở tại núi Câu Khúc. Người ở dưới chân núi, lập miều thờ ông. Người ờ xa gần nghe tiếng đồn tài đức của ông, đến nhờ cứu giúp, thoát khỏi vô số tai nạn nặng nề. Người bấy giờ gọi tên núi ấy thành Mao Sơn.

    *Người em của Ngài tên là Cố, tự Quí Vĩ ; em chót tên Trung, tự Tư Hòa, làm quan đời Hán đến chức “hưởng lương hai ngàn thạch” (tương đương nhị phẩm sau nầy)
    [Sau, hai người em đã già, bảy tám mươi tuổi, hết làm quan. Liền qua sông tìm đến anh (Mao Quân), anh cho uống mỗi người uống bốn gói thuốc bột, liền cải lão hoàn đồng. Ở trong động tu luyện bốn mươi năm, đều được “thành chân”.]

    *Thái Thượng Lão Quân sai sứ giả là Ngũ Đế xuống ban cho Ngài “lệnh bài Cửu Tích”, phong làm “Thái Nguyên Chân Nhân Đông Nhạc Thượng Khanh Tư Mệnh Chân Quân”, cầm giữ “sổ sống chết” của nhân gian hai vùng Ngô Việt. Sau lại sai sứ giả đem sắc phong “tử tố” (màu tía) xuống phong làm “Định Lục Quân” tức Bảo Mệnh Quân ở ngôi trung vị, đều liệt vào hàng “thượng chân”, nên có hiệu là “Tam Mao Chân Quân”.

    *Sách “Thái Bình Quảng Ký” quyển thứ mười ba và 《Quảng Hà Hãn Duẫn La Phương Duẫn 》,《Thần Tiên Truyện 》đều viết “Truyện Mao Quân” là :- “Mao Quân, người U Châu, học đạo ở nước Tề”, chắc đây là chỗ nhầm lẫn của các sách nói trên vậy !

    *Trong “Vân Cấp Thất Thiêm” quyển một trăm lẻ bốn , phần “Thái Nguyên Chân Nhân Đông Nhạc Thượng Khanh Tư Mệnh Chân Quân Truyện”, bên dưới có ghi
    “Trung Hầu Tiên Nhân Lý Đạo tự An Lâm soạn”. Theo sự khảo cứu của Trần Quốc Phù tiên sinh trong sách “Chân Cáo” quyển tám , chín và mười một thì, vào đời Tấn mới có sự xuất hiện quyển “Mao Tam Quân Truyện”. Quyển tám ghi :- [Lý Trung Hầu tên là Tuân, là người soạn ra sự tích “Mao Tam Quân”] . Như vậy tác giả quyển Thái Nguyên Chân Nhân Đông Nhạc Thượng Khanh Tư Mệnh Chân Quân Truyện là Lý Tuân. Nhưng trong “Vân Cấp Thất Thiêm” lại ghi là Lý Đạo, vậy là có sự lầm lẫn. Lại xem trong quyển thứ mười một , phần cuối truyện có ghi câu [ …xuất xứ từ “trường sử” (chú của người dẫn ý nói là bí mật), như thế có nghĩa là sách nầy xuất xứ từ đời Tấn].

    *Tóm lại, những truyền thuyết về Tam Mao Chân Quân là do các đạo sĩ phái Thanh Thành viết ra, dựa vào sự kiện gốc trong “Thần Tiên Truyện” của Cát Hồng mà mở rộng thêm.

    *Phần nói thêm :-

    1.- Về tông tổ của Tam Mao, có ghi thêm lý lịch như sau :-

    [ Cao tổ phụ tên húy là Mông, tự Sơ Thành…..thấy nhà Chu đã suy, không chịu làm chư hầu nữa, nên đến phương Bắc theo thầy là Quỷ Cốc Tiên Sinh để học, sau ở ẩn trong núi Hoa Sơn ……………. Tằng tổ phụ tên húy là Yển, tự Thái Năng, là đệ tử của (Ngài) Mông, ở đời Tần Chiêu Vương, làm xá nhân của Thiên Xa Kỵ tức Hiệu Úy Trường Bình Cung Hầu …………. Tổ phụ tên húy là Gia, tự Chính Luân, làm Quảng Tín Hầu của vua Tần Trang Vương. Khi Tần Thủy Hoàng lên ngôi, gia thăng làm Đức Tín Hầu ………….. thân phụ tên húy là Tộ, tự Ngạn Anh, không đi học không làm quan, chỉ theo nghề nông mà sống ]
    2.- Sự tích về việc học đạo của Mao Doanh có nói thêm :-
    [ Mao Doanh năm mười tám tuổi, lìa bỏ gia đình cha mẹ vào núi Hằng Sơn, học Đạo Đức Kinh của Lão Tử và Chu Dịch Truyện, hái trái cây trên núi ăn để sống. (Mao) Doanh ở Hằng Sơn sáu năm, một lòng vì đạo, được cảm ứng bí mật. Trong “Thần Cáo Chi” viết :- “Ở Tây Thành có Vương Quân đắc đạo, là bậc thầy của vua. Có người tên Minh Thần nghe tiếng, đến Tây Thành cầu học với Vương Quân. Sau hai mươi năm, cùng với Vương Quân về núi Quy Sơn để bái kiến Tây Vương Mẫu. Ngài Tây Vương Mẫu dạy cho (Mao) Doanh đạo pháp “Ngọc Bội Kim Đang” và quyển kinh “Thái Cực Huyền Chân”.

    *Trong sách “Mao Quân Chí” quyển hai mươi, thu thập tài liệu của đạo sĩ phái Thượng Thanh là Trương Dịch để viết bài văn bia “Cửu Tích Chân Nhân Tam Mao Quân Bi” vào năm Phổ Thông thứ ba (522)đời Lương . Nội dung có những điểm khác biệt với những điểm đã nêu trước.

    *Trong sách “Tập Tiên Truyện •Đại Mao Quân” nói :- “Đời Hán năm thứ hai niên hiệu Nguyên Thọ, vào tháng tám (tháng Kỷ Dậu) Nam Nhạc Chân Nhân Xích Quân, Tây Thành Vương Quân và các đạo đồng theo Tây Vương Mẫu hạ gáng xuống tịnh thất của Mao Doanh. Chốc lát sau, Thiên Hoàng Đại Đế , Thái Vi Đế Quân, Thái Thượng Đại Đạo Quân, Kim Khuyết Thánh Quân phái sứ giả ban cho Mao Doanh áo mão, ngọc tỉ (ấn ngọc), kim linh (linh vàng), cỏ tiên linh chi và tước vị, rồi bảo (Mao) Doanh :- “nếu ăn bốn cộng cỏ “tứ tiết ẩn chi” sẽ thành Chân Khanh, ăn cỏ “ kim khuyết ngọc chi” sẽ thành Tư Mệnh, nếu ăn hết cả, thọ ngang trời đất, làm Tư Mệnh Thượng Chân, Đông Nhạc Thượng Khanh, cai quản thần tiên hai châu Ngô, Việt, quản lý hết các núi khu vực Giang Tả …… Năm vị Đế Quân sai sứ giả mang hết phẩm vật để đầy sân, truyền mệnh lệnh sắc phong của Thái Đế , ban cho “miếng ngọc tía”, sách vàng có khắc bài văn “cửu tích”, cho (Mao) Doanh làm “Đông Nhạc Thượng Khanh Tư Mệnh Chân Quân Thái Nguyên Chân Nhân”. Ở phần cuối có nói thêm, “Vương Mẫu ra lệnh cho Thượng Nguyên Phu Nhân dạy dỗ Mao Doanh những bí pháp trong 《Thái Tiêu Ẩn Thư 》《Đan Cảnh Đạo Tinh 》v.v…Công việc xong, Tây Vương Mẫu thăng thiên trở về ngôi cũ”.

    *Đến đây thì sự tích của Tam Mao Chân Quân đã đủ cơ sở tồn tại. Về sau, Triệu Đạo Nhất đời Nguyên viết trong các sách 《 Lịch Thế Chân Tiên Thể Đạo Thông Giám 》quyển 16 có phần 《Mao Doanh Truyện 》、Trương Vũ trong sách 《Huyền Phẩm Lục 》quyển hai có 《Tam Mao Quân Truyện 》、《Mao Sơn Chí 》quyển năm , 《Tam Thần Kỷ 》v.v… cứ y theo nội dung đó mà nêu lên sự tích của Tam Mao Chân Quân, không dám thêm bớt.

    *Đến đời Tống, Tam Mao Chân Quân mới được chính thức phong hiệu.
    *Năm thứ nhất Sùng Ninh(1102) đời Tống Huy Tông sắc phong :-
    1.- Đại Mao Quân làm Thái Nguyên Diệu Đạo Chân Nhân Đông Nhạc Thượng Khanh Tư Mệnh Thần Quân.
    2.- Trung Mao Quân làm Định Lục Hữu Cấm Xung Tĩnh Chân Nhân.
    3.- Tiểu Mao Quân làm Tam Quan Bảo Mệnh Xung Huệ Chân Nhân.

    * Năm thứ chín Thuần Hựu (1249) đời Tống Lý Tông, gia phong :-

    1.- Đại Mao Quân làm Thái Nguyên Diệu Đạo Xung Hư Chân Quân Đông Nhạc Thượng Khanh Tư Mệnh Thần Quân .
    2.- Trung Mao Quân làm Định Lục Hữu Cấm Chí Đạo Xung Tĩnh Đức Hựu Chân Quân.
    3.- Tiểu Mao Quân làm Tam Quan Bảo Mệnh Vi Diệu Xung Huệ Nhân Hựu Chân Quân.

    *Tổng xưng là Tam Mao Chân Quân.

    *Tham khảo :-

    ① 《Trùng Tu Vĩ Thư Tập Thành 》quyển hai , tờ 67, Nhật Bản Minh Đức Xuất Bản Xã , Chiêu Hoà 50 niên
    ② 《Cảnh ấn Văn Uyên Các Tứ Khố Toàn Thư 》quyển 1051 tờ 280 ~282 , Đài Loan Thương Vụ ấn Thư Quán , 1983.
    ③ 《Tứ Khố Toàn Thư •Thần Tiên Truyện 》
    ④ 《Đạo Tạng Nguyên Lưu Khảo 》quyển thượng tờ 9 ~10, Trung Hoa Thư Cục , 1963.
    ⑤⑦  《Đạo Tạng 》 quyển 22 tờ 707 ~710 , quyển 5 tờ 561 ~562 , 572 ~573 , Văn Vật Xuất Bản Xã 、Thượng Hải Thư Điếm 、Thiên Tân Cổ Tịch Xuất Bản Xã Liên Hợp Xuất Bản , 1988.
    ⑥ 《Thái Bình Quảng Ký 》quyển 1 tờ 78~79 , Trung Hoa Thư Cục , 1961.


    VƯƠNG LINH QUAN



    [​IMG]


    *Vương Linh Quan được Đạo Giáo thờ phụng như là Thiên Tướng của Lôi Bộ và Hỏa Bộ, hay Thần Hộ Pháp.

    *Ta thấy danh xưng nầy sớm nhất trong 《Minh Hiếu Tông Thực Lục 》 và 《Minh Sử •Lễ Chí 》 . Trong 《Minh Hiếu Tông Thực Lục 》quyển thứ mười ba nói :- “ Nước Sở có vị Sùng Ân Chân Quân và Long Ân Chân Quân. Đạo gia nói rằng Sùng Ân Chân Quân họ Tát tên Thủ Kiên, người Tây Thục. Thời vua Vị Tông, cùng với Vương Thị Thần, Lâm Linh Tố đi học pháp thuật có kết quả. Long Ân Chân Quân tức là Ngọc Xu Hỏa Phủ Thiên Tướng Vương Linh Quan, thường truyền phù pháp cho Tát Chân Quân . Trong niên hiệu Vĩnh Lạc, gặp Chu Tư Đắc liền truyền thụ “Linh Quan Pháp” cho y, (Tát Chân Quân ) đến phía Tây của Câm Thành xây dựng Miếu Thiên Tướng và Điện Tổ Sư. Niên hiệu Tuyên Đức cải danh Miếu thành ra quán Đại Đức, sắc phong hai vị Chân Quân. Đến đầu đời Thành Hóa, lại cải thành cung Hiển Linh. Pháp của Tát Chân Quân là do Vương Linh Quan thực hành , pháp của Vương Linh Quan là do Chu Tư Đức rộng mở. Những pháp ấy ngày nay do hậu bối của Lâm Linh Tố tiếp tục phát huy”

    *Như vậy, Vương Linh Quan là học trò của đạo sĩ Tát Kiên (hay Tát Thủ Kiên), lại được Vương Thị Thần (tức Vương Văn Khanh) và Lâm Linh Tố truyền thêm. Tên Tát Thủ Kiên thì có nhiều sách nói đến, còn tên Vương Linh Quan mới thấy lần đầu ở đây.
    *Câu :- “pháp của Vương Linh Quan là do Chu Tư Đức rộng mở” là do sự kiện sau :- [ Niên hiệu Vĩnh Lạc xây dựng Miếu Thiên Tướng, từng thờ hai mươi sáu vị thiên tướng, trong đó Ngọc Linh Quan là đứng đầu. Triệu Dực đời nhà Thanh viết trong “Cai Dư Tùng Khảo” quyển thứ ba mươi lăm phần “Vương Linh Quan” như sau :- [ Tôn Quốc Mị trong “Yên Đô Du Lãm Chí” nói rằng niên hiệu Vĩnh Lạc có Ngài Chu Tư Đắc, đã đem pháp của Vương Nguyên Soái truyền dạy. Vương Nguyên Soái tức là Vương Linh Quan, đứng đầu hai mươi sáu vị thiên tướng. Đời vua Văn Hoàng (Thành Tổ) cầu đảo có ứng nghiệm, nên lập miếu thờ ở phía Tây thành. ]

    *Căn cứ vào hai bộ sách “Minh Hiếu Tông Thực Lục” và “Minh Sử—Lễ Chí Tứ ” thì tên Thiên Tướng Vương Linh Quan, nói đầy đủ là “Ngọc Xu Hỏa Phủ Thiên Tướng”, cho nên có nơi gọi Ngài là Hỏa Thần.
    Lưu Đồng, đời Minh, trong quyển “Đế Kinh Cảnh Vật Lược” quyển một, phần “Hỏa Thần Miếu” có viết :- “Miếu Hỏa Đức Chân Quân ở phường Nhật Trung phía Bắc kinh thành . Miếu xây năm Trinh Quán đời Đường, năm Chí Chính thứ sáu đời Nguyên sửa chữa lại. Tính đến nay là năm Vạn Lịch đã trải qua ba mươi năm, sửa lại mái ngói và tường vách, lầu các. Tiền điện gọi là “Long Ân”, hậu các gọi là “Vạn Tuế Cảnh Linh Các”, tả hữu gọi là “Phụ Thánh” và “Bật Linh” tất cả là sáu điện.
    *Long Ân, chỉ cho Long Ân Chân Quân, tức là danh hiệu năm Tuyên Đức sắc phong cho Vương Linh Quan. Điều nầy chứng minh rằng miếu thờ Hỏa Thần Vương Linh Quan”.
    *Trong các truyện ký viết về Tát Thủ Kiên và Vương Linh Quan, xuất hiện vào thời Minh Thanh, có nói :- “Vương Linh Quan là họ Vương, tên Tiễn, trước là vị tà thần hay là Thành Hoàng của huyện Tương Âm, sau được Tát Thủ Kiên thu làm bộ tướng. Thành Thư đời Nguyên và Tăng Toản đời Minh , trong bộ sách “Tam Giáo Sưu Thần Đại Toàn” quyển hai có viết:- “Tát Thủ Kiên Chân Nhân đến xứ Phù Lương huyện Tương Âm, thấy nhân dân ở đó dùng “đồng nam đồng nữ” để “tế thần” trong Miếu thờ của bổn xứ. Ngài bảo :- [ “Đây là tà thần, mau đốt bỏ ngôi miếu đi”. Nói xong, bổng có lửa từ trên không bay xuống thiêu đốt rụi ngôi miếu, dân chúng ở đó không cách nào cứu hỏa kíp. Xãy nghe trên hư không có tiếng “Nguyện pháp lực (của Ngài) được như hôm nay”. Từ đó, không có ai sửa chữa lại ngôi miếu cả].
    *Chân Nhân đi đến phủ Long Hưng, rửa chân ở mé sông, trông thấy dưới nước có bóng dáng một vị thần, mặc huỳnh cân kim giáp, tay trái che trong tay áo, tay phải cầm cây roi. Ngài hỏi:- “Ngươi là thần nhân phải không ?”. Đáp :- “Tôi là Vương Thiện, thần ở Miếu Tương Âm. Sau khi Chân Nhân đốt cháy ngôi miếu ấy rồi, mười hai năm nay, tôi quyết theo báo thù, nhưng công hạnh của Ngài quá cao, tôi không làm gì được, Cầu xin thu nhận tôi làm bộ tướng cho Ngài”. Chân Nhân nói :- “Ngươi quá hung ác, nếu ở trong pháp của ta e gây tổn thất”. Vị thần liền quì xuống lập thệ bỏ ác tùng thiện, thề không dám trái lời. Chân Quân tâu lên Ngọc Hoàng, xin cho thu phục thần đó , sai bảo rất tốt”.
    *Vương Thế Trinh đời Minh, trong “Liệt Tiên Toàn Truyện” quyển tám, viết về lời tự thuật của thần “Ta , Vương Thiện, là Thành Hoàng của huyện Tương Âm”

    *《Lịch Đại Thần Tiên Thông Giám 》quyển hai mươi cũng nêu việc giống như trên, nhưng phần tự xưng là :「Ta, Tiên Thiên Đại Tướng Hoả Xa Linh Quan Vương , hầu hạ nơi Điện Linh Tiêu , phụng sắc chỉ Ngọc Đế xuống cai quản Miếu Tương Âm , để thanh trừ lũ gian ác」vân vân …

    *《Trà Hương Thất Tục Sao 》quyển mười chín, phần 「Vương Linh Quan 」cũng kể chuyện như trên, nhưng tự xưng「Ta là Vương Thiện , thần cai quản Miếu Tương Âm」.
    *Trong “Tây Du Ký” thì nói Vương Linh Quan là thần tướng của Lôi Bộ. Hồi thứ bảy viết :- “Hầu Vương đánh đuổi đến điện Thông Minh, bên ngoải Điện Linh Tiêu, gặp Tá Sứ của Tá Thánh Chân Quân là Vương Linh Quan trực ở điện, hai bên quần thảo với nhau dữ dội. Một bên là Thái Ất Lôi Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn, một bên là yêu quái khỉ vượn Tề Thiên Đại Thánh”.

    *Các cung quán Đạo Giáo thời kỳ Minh Thanh, thường lấy Vương Linh Quan làm Thần Hộ Pháp, giống như hai vị Già Lam , Vi Đà bên Phật Giáo vậy.
    Khi làm tượng thờ Vương Linh Quan ở trong cung hay ngoài cửa sơn môn, thường là mặt đỏ, ba mắt, mặc áo giáp, tay cầm roi.
    *Ngày nay, ở cung Thanh Dương tại Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên, phía trong sơn môn là điện Linh Quan , treo tấm biển đề “Lôi Hỏa Tổng Ty”, thờ một tượng Vương linh Quan, tay cầm cây roi đồng, một tay che cặp mắt sáng rực như lửa. Trước mặt có bài vị ghi “Tiên Thiên Vương Linh Tổ Sư”, xem là thần trấn thủ sơn môn ở đây.



    THÁI CỰC CHÂN NHÂN

    [​IMG]

    1.- Sự tích 1:-

    Thái Cực Chân Nhân có thế danh là Đỗ Xung, tự Viễn Dật, người Hạo Kinh.

    Theo sách “Vân Cấp Thất Hy” nói :- “Đỗ Xung vốn là tiên nhân thời cổ đại. Đời Chu Thiệu Vương, nghe nói Ngài Văn Thủy Chân Quân Doãn Hỉ đã đắc đạo thành tiên, Đỗ Xung đến xin ở nơi am cỏ của Doãn Hỉ để tu đạo. Khi ấy , gặp hậu nhân của Doãn Hỉ là Doãn Trát cũng ở nơi ấy, cùng nhau ở chung tu hành.”. Vua Chu Mục Vương có lần đến am cỏ ấy, lấy trọng lễ “bái Tiên” để ra mắt hai vị đạo sĩ nầy.
    Do đó, Ngài rời bỏ am cỏ vào chốn rừng sâu, nghiên tầm đọc tụng Lão Tử Đạo Đức Kinh suốt hai mươi năm.

    Ngày nọ, Doãn Chân Quân dẫn theo hai vị tiên từ không trung bay xuống chỗ ấy, trao cho Ngài một quyển sách dạy về pháp luyện linh đan. Thái Thượng Lão Quân và Doãn Chân Quân vì cảm lòng chí thành của Ngài, ban thêm cho Tiên Kinh.
    Từ đó, Ngài siêng năng y cứ theo đó mà tu luyện, trải qua mấy năm thì thành đạo. Thân mình Ngài phát ra kim quang, ngũ tạng rắn chắc tươi tốt. Sau có Chân Nhân Lý Quân lại đến, truyền cho sách 《Thái Thượng Tố Linh Động Nguyên Đại Hữu Diệu Kinh 》. Ngài y theo thực hành, ngồi trong động mà thấy khắp nơi, sai khiến hổ báo, kêu gọi trăm linh, thông suốt cõi trời xuống đến U Minh.
    Năm Kỷ Hợi đời vua Đồng Ý, Thượng Thanh Tiên Quân cho Tiên Quan giáng lâm, nghênh tiếp Ngài thượng thiên, phong làm Thái Cực Đỗ Chân Nhân. Do vì ngày trước có ở nơi lâu quán (của Ngài Doãn Hỉ), nên được tôn làm Tổ Sư đời thứ ba của Lâu Quán nầy. (am cỏ sau thành lâu quán)

    2.- Sự tích thứ hai :-

    Hoài Nam Vương Lưu An, người ở đất Phong, huyện Bái (nay là huyện Tô Phong) .
    Theo sách 《Sử Ký •Chuẩn Nam Hành Sơn Liệt Truyện 》nói rằng :- “Ông là cháu của vua hán Cao Tổ Lưu Bang, theo chức cha mà thụ phong Hoài Nam Vương, thông minh mẫn tiệp. Hiểu biết vượt trội người, ham thích đọc sách, giỏi đàn “cổ cầm”, xuất sắc về văn chương. Nơi xứ Hoài Nam, rộng tiếp đón tân khách. Phương sĩ giỏi pháp thuật, danh sĩ hiền tài tập hợp cả ngàn người. Những người có danh tiếng như :- Tô Phi, Lữ Thượng, Tả Ngô, Điền Do, Lôi Bị,Mao Bị, Ngũ Bị, Tấn Xương, cùng các nho sĩ hai phái Đại Sơn, Tiểu Sơn …hợp sức trong hai mươi mốt năm, hoàn thành bộ sách nổi tiếng “Hoài Nam Hồng Liệt” còn gọi là “Hoài Nam Tử”. Sách nầy đề cao học thuyết của các đạo gia trong Đạo Giáo (Lão), kiêm cả những pháp gia, tư tưởng các âm dương gia và các học thuật thế gian của Nho giáo.

    *Ngoài ra, Ngài còn cho soạn riêng ba quyển “Hồng Bảo Vạn Niên”, luận về đạo biến hóa. Lúc còn vua Hán Vũ Đế, rất trọng đãi ông. Những sách về lẽ thắng bại của chính trị, được vua xem học kỹ lưỡng; sách về biện luận các phái, cũng rất sâu sắc, được vua xem và khuyến khích các quan nên đọc kỹ.

    *Theo Cát Hồng nói trong “Thần Tiên Truyện” thì :- “Hoài Nam Vương ham thích đạo thần tiên, lại thường cùng số đông tân khách đi đây đi kia. Một hôm , có Bát Công đến vương phủ, môn nhân thấy tám vị già lão đang đứng trước cửa, bổng chốc biến thành tám vị thanh niên, vội vào bẩm báo. Hoài Nam Vương lật đật không kịp mang giày, chạy ra tiếp nghênh, thỉnh tám vị vào trong đài, Lưu An day mặt về hướng Bắc mà lễ bái theo nghi thức đệ tử ra mắt thầy, thành tâm cầu thỉnh tám vị xót thương chỉ giáo. Bát Công liền hiện trở lại tám vị Tiên già, thi thố pháp thuật, như là kêu mây gọi gió hô mưa …tất cả đều linh nghiệm. Kế đó, truyền trao cho “Đan Kinh” và “Ba mươi sáu phép luyện thủy ngân ”. Sau ba năm thì luyện thành tiên dược , nhưng chưa kịp làm lễ tế, thì có việc không may xãy đến. Số là Lưu An có người con trai tên Lưu Thiên, có việc bất hòa với quan Lang Trung là Lôi Bị, thách nhau đấu kiếm, Lưu Thiên bị thương, giận tìm cách trả thù Lôi Bị, y oán giận cáo với Vũ Đế là Lưu An mưu phản. Vua cho quan Chính Trị Tiết Trừng điều tra. Lưu An cùng với Bát Công lên núi lập đàn tế cáo trời đất, chôn vàng dưới đất, họ Lư uống tiên dược của Bát Công, liền bạch nhật thăng thiên, Gia quyến vợ con của Lưu An, hơn ba trăm người, kể cả gà chó, đều uống tiên dược nấy, tất cả cũng được thăng thiên hết.”.
    Do sự tích nầy mà sau nầy mới có thành ngữ :- “Nhất nhân đắc đạo, kê khuyển thăng thiên” (một người thành đạo, gà chó cũng lên trời).
    Tương truyền sau khi Lưu An luyện thành pháp thuật “Hồng Bảo Vạn Niên” nầy, thăng thiên được phong làm Thái Cực Chân Nhân.

    3.- Sự tích thứ ba :-

    Cũng theo sách “Vân Cấp Thất Hy”, trong quyển thứ ba là “Linh Bảo Lược Kỷ”
    nói :- “…Ba vị Chân Quân lập thành trận thế, Thái Thượng ra lệnh cho Thái Cực Chân Nhân Từ Lai Lặc tức Hiếu Tiên giữ địa vị pháp sư nơi ba động…”.
    Từ đó, Từ Lai Lặc có hiệu là Thái Cực Chân Nhân.

    ĐÔNG HOA ĐẾ QUÂN VƯƠNG HUYỀN PHỦ


    [​IMG]


    ĐÔNG HOA ĐẾ QUÂN VƯƠNG HUYỀN PHỦ


    *Đế Quân họ Vương tên Huyền Phủ (xem bài Đông Vương Công).
    Trong Đạo Kinh xưng Ngài là “Thiếu Dương Đế Quân”.

    *Sách “Kim Liên Chính Tông Ký” nói Ngài là truyền nhân của Thái Thượng Lão Quân (Thái Thượng Kim Mẫu Bạch Vân Đế Quân) , hiệu là Đông Hoa Tử, tôn là “Đông Hoa Đế Quân” hay “Tử Phủ Thiếu Dương Đế Quân”. Ngài là vị Tổ thứ nhất của Bắc Ngũ Tổ, dân gian xưng là Hán Đại Nhân. Khi sinh ra có nhiều điềm lạ, từ bé đã am hiểu huyền phong, tư chất tuyệt vời. Được Bạch Vân Thượng Chân (Thái Thượng LQ) thương mến, đưa Ngài vào trong núi, đem các môn Thanh Phù Ngọc Triện , Kim Khoa Linh Văn , Đại Đan Bí Quyết , Chu Thiên Hoả Hầu , Thanh Long Kiếm Pháp truyền dạy cho. Sau Ngài truyền lại cho Chính Dương Chân Nhân Chung Ly Quyền.

    *Trong “Kim Liên Chính Tông Tiên Nguyên Tượng Truyện” thì nói là Ngài họ Vương, không biết tên, năm sinh và nơi sinh cũng không biết. Sau khi được đạo pháp của Thái Thượng, Ngài ẩn cư trong núi Côn Lôn để tu, xưng hiệu Đông Hoa Đế Quân. Lại đến Tử Phủ động thiên núi Ngũ Đài, xưng “Tử Phủ Thiếu Dương Đế Quân” . Sau Ngài hiển linh ở động Ngưng Dương núi Chung Nam để dạy đạo cho Hán Chung Ly.

    *Còn “Lịch Thế Chân Tiên Thể Đạo Thông Giám” thì nói thêm nhiều chi tiết hơn.
    [Thượng Tiên họ Vương tên Huyền Phủ, người đời Hán ở Đông Mai (nay là phía Tây Liên Vân Cảng, Giang Tô), thờ thầy là Bạch Vân Thượng Chân (Thái Thượng LQ) , sau đắc đạo. Ngài có hiệu là “Hoa Dương Chân Nhân”. Sinh vào ngày rằm tháng sáu, đăng tiên ngày mười sáu tháng mười. Truyền đạo lại cho Chung Ly Quyền tức Chính Dương Chân Nhân. Ngài có lưu lại tập thơ là “Côn Thành Tập”. Trong đó có bài thơ viết :-

    Hoa dương sơn lí đa chi điền ,
    Hoa dương sơn tẩu phục diên niên .
    Thanh tùng nham bạn ly kha hạ ,
    Bạch vân đôi lý cố phi tuyền .
    Bất hàn bất nhiệt thần đãng đãng ,
    Đông lai tây vãng khí miên miên .
    Tam thiên công hạnh hảo qui khứ ,
    Hưu hướng nhân gian thuyết động thiên .

    *Dịch:-

    Trong núi Hoa Dương lắm cỏ tiên,
    Ông già uống nó, trẻ xuân liền.
    Tùng xanh sườn núi cành che bóng,
    Mây trắng lưng đèo suối chảy thiêng.
    Lạnh ấm không màng , thần bất động,
    Đông tây chẳng quản , khí an nhiên.
    Ba ngàn công hạnh , về ngôi cũ,
    Xa chốn nhân gian lắm lụy phiền.

    *Tông phong của Ngài chủ trương, muốn đắc đạo thành tiên, phải trải qua quá trình tu tập từ người chuyển thành thần, tức tinh khí thần hợp nhất để tu luyện.
    Trước chỉ là người bình thường nhưng nếu biết công phu tu luyện, gắng công hết sức thì cũng có ngày thành.

    *Trong “Tiên Truyện Đài Di” của Đỗ Quang Đình viết:-
    “Đế Quân vốn là khí thanh dương (dương trong) , ở trước muôn thần. Ngài ở trong cung Thái Thần, có mây tía làm lộng, mây xanh làm thành bao phủ. Ngài cai quản muôn ngàn chúng tiên. Lại giữ sổ sách tiên tịch, có người đăng tiên thì bẩm báo cho Thái Thượng, cho nên tôn Ngài làm Vương Tiên, địa vị rất cao quí. Đạo hạnh của Ngài cao siêu không thể tả, công đức giáo hóa của Ngài lớn lao chẳng thể nghĩ bàn”. Điều đó cho thấy, từ đời Đường trở đi, địa vị của Ngài mười phần hiển hách !

    *Đời Nguyên Thế Tổ , niên hiệu Chí Nguyên (1264—1295), vào tháng giêng năm thứ sáu (1269), có chiếu sắc phong cho Ngài làm 「Đông Hoa Tử Phủ Thiếu Dương Đế Quân 」. Sau đời Nguyên Vũ Tông lại gia phong làm 「Đông Hoa Tử Phủ Phụ Nguyên Lập Cực Đại Đạo Đế Quân 」

    CHÍNH DƯƠNG ĐẾ QUÂN CHUNG LY QUYỀN

    [​IMG]

    *Đế Quân họ Chung Ly, tên là Quyền, tự Vân Phòng (xem bài Bát Tiên), hiệu là Chính Dương Tử, người đời Ngũ Đại, đất Hàm Dương , Kinh Triệu (nay là Hàm Dương , Thiểm Tây) , có thuyết nói là ở Yên Đài (nay là Bắc Kinh).

    Ngài có nét mặt hiền từ phúc hậu, thân thể khôi ngô tráng kiện, văn võ toàn tài. Mình cao tám thước bảy tấc, rây dài quá bụng, mắt chiếu thần quang. Ngài là vị Tướng Quân thời Hán, vì xuất binh không kết quả, sợ vua bắt tội nên trốn vào trong núi Chung Nam để tu hành. Đó là duyên lành đưa đẩy cho Ngài trở về ngôi vị cũ. Nơi đây, Ngài đã được Đông Hoa Đế Quân truyền thụ cho Xích Phù Ngọc Triện , Kim Khoa Linh Văn , Đại Đan Bí Quyết , Chu Thiên Hoả Hầu , Thanh Long Kiếm Pháp.

    Được bí pháp, Ngài ẩn cư nơi núi Dương Giác, Tấn Châu, cách xa thế tục để tu luyện. Ngày tháng miệt mài khổ luyện, ăn trái cây, uống nước suối, chằm lá cây làm y phục, tự xưng là 「Thiên Hạ Đô Tán Hán Chung Ly Quyền 」( người nhà Hán tên Chung Ly Quyền xa lánh thiên hạ). Sau thành đạo, được Thái Thượng ban cho hiệu Thái Cực Thái Cung Chân Nhân. Ngài thường du hành chốn nhân gian, biến hóa vô cùng, độ người vô số.
    Người đời có lúc gặp Ngài, làm thơ khen rằng :-

    Sinh ngã chi môn tử ngã thanh ,
    Kỷ cá tinh tinh kỷ thập ngộ ;
    Dạ lai thiết hán tế tầm tư ,
    Trường sinh bất tử tự nhân tố .

    *Dịch:-
    Sinh ở cửa ta, chết tiếng ta,
    Bao nhiêu gặp gỡ, bấy nhiêu xa.
    Đang đêm thiết hán suy cho kỹ,
    Bất tử trường sinh ấy chính là …


    *Ngài có viết “Phá mê chứng đạo ca” và “Linh Bảo Tất Pháp” lưu truyền ở đời.
    Hiện nay ở Động Ngưng Dương núi Chung Nam có Truyền Đạo Quán là nơi gặp gỡ giữa Ngài và Đông Hoa Đế Quân. Còn cung Chính Dương ở Chu Khúc Loan, Hàm Dương là nơi ở xưa kia của Ngài.

    *Trong “Bạch Vân Tiên Biểu” nói , Tằng Tổ Chính Dương Đế Quân tên húy là Phác, đạo danh là Thủ Đạo, tên phụ là Nguyên. Ngài là người lập nhiều công với đất nước cuối đời Hán. Ngài ít chú ý đến văn học, mà chỉ quan tâm đến đạo thánh. Thân cao tám thước bảy tấc, làm quan đến chức Gián Nghị Đại Phu. Nhân vì dâng biểu tâu về việc Lý Kiên ở biên giới trái ý nhà vua, nên bị giáng xuống làm lính ở Nam Khang. Sau nhà Hán mất, ông được mời làm quan ở triều Tấn, cùng với Tướng Quân Chu Xử giữ việc binh, thất bại nên trốn đến Loạn Sơn, duyên gặp Đông Hoa Đế Quân, bỏ quan mà tu hành.”

    *Trong “Tuyên Hòa Thư Phả” quyển mười chín nói :- “Thần Tiên Chung Ly Tiên Sinh tên là Quyền, không biết người thời nào, truyền thuyết nói là sinh vào đời Hán. Lữ Đồng Tân thờ Ngài làm thầy.”.

    *Trong “Phá mê chứng đạo ca” của Ngài Chung Ly Quyền, chủ trương việc tu đạo cốt yếu là lấy “một khí tiên thiên” làm gốc, rồi :-
    “Một khí tuần hoàn không trở ngại,
    Sinh ra muôn vật với thân người”
    Khi tu luyện đến chỗ :- [ Kim mộc hợp giao, diên hống giao kết, long hổ hợp hoan, tử mẫu tương hội, thần nhất qui căn, hợp với cái “CHÂN” lúc còn hỗn độn chưa phân, gọi là “đan thành” ] . Pháp ấy gọi là “sinh thai Tiên”, tức là luyện thành thể thuần dương. Tính chất của nó là :-

    “ Hợp lại thành hình,
    Tan ra thành khí.
    Trở lại gốc nguồn,
    Thái Hư cùng vị”.
    Ngài cũng nhấn mạnh vào việc tu luyện pháp dưỡng sinh nội đan, việc làm sao tạo ra được thuốc quí nội đan, cách tiếp thu nó, cùng các lý luận về hỏa hầu, trừng thanh khử trược, làm cho nội đan phát khởi v.v…

    *Toàn Chân Giáo tôn Ngài làm Tổ thứ hai của Bắc Phái.
    *Đời Nguyên Vũ Tông gia phong Ngài làm 「Chính Dương Khai Ngộ Truyền Đạo Thuỳ Giáo Đế Quân
     
    xonack thích bài này.
  14. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    THUẦN DƯƠNG ĐẾ QUÂN LỮ ĐỘNG TÂN

    [​IMG]

    *Đế Quân họ Lữ tên Nham, tự Động Tân, hiệu Thuần Dương Tử (xem bài Bát Tiên) . Đời xưng là Lữ Tổ hoặc Thuần Dương Tổ Sư.

    Ngài sinh vào ngày mười bốn tháng tư năm Bính Tí (796) niên hiệu Trinh Nguyên (785—805) đời Đường Đức Tông, tại làng Chiêu Hiền, trấn Vĩnh Lạc, huyện Bồ Bản tỉnh Sơn Tây.(nay là huyện Tế tỉnh Sơn Tây). Lúc trẻ, Ngài cũng mong mỏi đi theo hoạn lộ, nhưng đi thi mấy lần mà “có tài nhưng không đậu”.
    Sau Ngài đi du lịch sông núi, cơ duyên gặp được Chính Dương Tử, được giác ngộ qua giấc mơ “Mộng kê vàng” của Chính Dương Tử hóa hiện, Ngài nhận ra được lý vô thường của cuộc đời , tính phù phiếm của công danh hoạn lộ, nên thành tâm theo thầy học đạo.
    Ngài được Thầy Chính Dương Tử truyền thụ công phu Thái Ất nên về ở ẩn trong núi Lư để tu tiên và đắc đạo.

    *Ngài thường đi du phương khắp chốn , xưng là “Hồi Đạo Sĩ” (chữ Hồi 回 gồm hai chữ Khẩu 口xếp theo trong ngoài, còn xếp theo trên dưới sẽ thành chữ Lữ 呂), lúc ẩn lúc hiện, không ai xác định được hành trạng của Ngài.

    *Thời đó có bài thơ :-

    Tróc đắc kim tinh tác mệnh cơ ,
    Nhật hồn đông bạn nguyệt hoa tây ;
    Ư trung luyện tựu trường sinh dược ,
    Phục liễu hoàn đồng thiên địa tề .

    *Dịch:-

    Bắt được kim tinh mới vững nền,
    Âm dương thuận chỗ thực là nên
    Công phu trong đó, trường sinh thuốc,
    Trời đất sánh đồng, trẻ tuổi tên.

    *Những di tích còn lưu lại ngày nay như :- ban cho Lư Sinh chiếc gối ở Nghịch Tuyền, Hàm Đan; bài thơ viết trên vách nhà của họ Thẩm xóm Đông. Còn những di tích theo truyền thuyết thì có vô số …

    *Theo 《Kim Liên Chính Tông Tiên Nguyên Tượng Truyện 》thì nói rằng Ngài sinh vào niên hiệu Trinh Nguyên (785—805) đời Đường, năm Bính Tí (796). Đến năm thứ ba (862) niên hiệu Hàm Thông (860—874) được sáu mươi bảy tuổi, thi đậu Tiến Sĩ, dạo chơi ở quán rượu Trường An (nay là trước cửa Bát Tiên Cung ở Đông Quan, Tây An) gặp được Chung Ly Quyền, trải qua mười lần tranh luận cùng nhau , Ngài không thể thắng nổi Chung Ly, liền theo vị nầy học đạo. Được thầy truyền thụ cho Đại Đạo Thiên Độn Kiếm Pháp, bí văn của Long Hổ Kim Đan. Ngài siêng năng tu luyện đắc đạo, đến trăm tuổi mà vẫn sắc mặt vẫn còn như thanh niên, nên 《Tống Sử •Trần Trì Truyện 》nói :- “bước đi nhanh nhẹ, chớp mắt được vài trăm dậm”.

    *Sách “Lịch đại Thần Tiên thông giám” nói :- “Tằng tổ của Ngài húy là Diên Chi, làm chức Đông Liêm Sứ ở Chung Tích; ông nội tên Vị, giữ chức Lễ Bộ Thị Lang; thân phụ tên Nhượng, con trai thứ của Thái Tử Hữu, giữ chức Thích Sử ở Hải Châu. Thân mẫu là phu nhân Vương Thị, vào giờ Tỵ ngày mười bốn tháng tư năm Bính Ngọ (646) niên hiệu Trinh Quán (627—650) đời Đường, có nhạc trời trổi lên, một con chim hồng trắng to như con hạc, bay vào bụng bà mà sinh ra Ngài. Trước có tên là Thiệu Tiên, ở góc lông mày có nốt ruồi đen, lúc đầu to bằng đầu mũi tên, sau biến thành màu đỏ.
    Vừa tròn năm thì Ngài đã tụng đọc được kinh sách. Lên năm tuổi thì sách vở của trăm nhà Ngài đều thông suốt. Năm hai mươi tuổi, cưới con gái của Lưu Lăng Úy làm vợ, nhưng cả đời không gần gũi vợ. Khi trưởng thành, thân hình Ngài cao tám thước hai tấc, gò má vàng lợt.
    THUẦN HỮU ĐẾ QUÂN VƯƠNG TRÙNG DƯƠNG


    [​IMG]

    (Vương Trùng Dương)​


    [​IMG]


    (Vương Trùng Dương và Toàn Chân Thất Tử)​

    *Vương Trùng Dương (1112—1170) là đạo sĩ đời nhà Kim, Trung Quốc. Là vị sáng lập ra Toàn Chân Đạo (thuộc Lão giáo) .

    Ngài có tên là Trung Phu, tự Doãn Khanh. Sau cải danh là Thế Hùng, tự Đức Uy. Vào đạo lại cải danh là Triết, tự Tri Minh, hiệu Trùng Dương Tử.

    Gốc gác là người ở thôn Đại Ngụy, Hàm Dương, Thiểm Tây, sinh trong một gia đình địa chủ giàu có. Sau dời về thôn Lưu Tưởng huyện Chung Nam.
    Từ bé, Ngài đã ham đọc sách, sau vào học trong phủ, thi đậu Tiến Sĩ, là Học Tịch đất Kinh Triệu. Niên hiệu Thiên Quyến năm thứ nhất (1138), đi thi ngành võ, đậu Giáp khoa, nên cải danh là Thế Hùng.

    *Năm bốn mươi bảy tuổi, nhân cảm ngộ hai câu:-

    “Lẫy lừng văn võ công danh,
    Chỉ trong phút chốc đã thành khói mây”

    Nên từ chức quan, vào ở ẩn trong rừng núi.

    *Niên hiệu Chính Long năm thứ tư (1159), rời bỏ gia đình đi du phương, tự xưng Cam Hà Chân. Duyên may gặp dị nhân (tương truyền là hai vị tiên Chung Ly Quyền và Lữ Động Tân) truyền thụ nội đan chân quyết, nên quyết tâm xuất gia. Niên hiệu Đại Định năm thứ nhất (1161), Ngài tự đào một cái hang huyệt lớn, vào ở trong đó, đặt tên chỗ ấy là “Hoạt tử nhân mộ” (mộ của người như chết mà vẫn còn sống), lấy hiệu là “Hành Thủ”, chuyên tâm tu trì suốt hai năm.
    Qua năm thứ ba thì tu học thành công, dời về ở thôn Lưu Tưởng. Trong bảy năm Ngài một mình đi khất thực, xa đến phía Đông là Đồng Quan, rồi sau đến Bố Giao, Sơn Đông thành lập ra “Toàn Chân Đạo”.
    Từ đó, Ngài tùy duyên giáo hóa chúng sinh, hoặc dùng thi từ ca khúc khuyến đạo , hoặc dùng thần cơ diệu toán chinh phục lòng người, khiến ai cũng nễ phục.

    *Ngài tuyên giảng giáo pháp hai vùng Sơn Đông và Trử Hải. Đồng thời, thu nhận một số đệ tử như :- Mã Ngọc 、Tôn Bất Nhị 、Đàm Xử Đoan 、Lưu Xử Huyền 、Khâu Xử Cơ 、Hách Thái Thông 、Vương Xử Nhất và tuyên bố thành lập giáo đoàn. Bảy vị ấy, đời sau gọi là “Toàn Chân Thất Tử” hay “Toàn Chân Giáo Thất Chân Nhân”. Mười năm sau, mang bốn đệ tử là Mã Ngọc, Đàm Xử Đoan, Lưu Xử Huyền, Khưu Xử Cơ trở lại Quan Trung.(Trung Nguyên)

    *Vương Trùng Dương chủ trương bình đẳng cả ba tôn giáo :- Nho, Lão, Phật. Đồng thời đưa ra tôn chỉ “Tam Giáo Hợp Nhất” với học thuyết “Ba giáo xưa nay một Tổ phong”. Toàn Chân Đạo lấy các kinh “Đạo Đức Kinh”, “Hiếu Kinh”, “Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh” làm kinh điển chủ yếu. Ngài cho rằng :- Tu đạo tức tu tâm, trừ bỏ thất tình lục dục, tồn tư định tĩnh khiến cho đất tâm trong lặng là mục tiêu chân chính thẳng mau của người tu. Vì thế, Toàn Chân Đạo không đề cao “bùa chú”, không đi theo thuật luyện tiên đan.

    *Niên hiệu Đại Định năm thứ chín, vào tháng mười, cùng với bốn đệ tử Mã Ngọc, Đàm Xử Đoan, Lưu Xử Huyền, Khưu Xử Cơ trở về hướng Tây.
    Năm sau, vào tháng giêng, Ngài mất ở Đại Lương (nay là Khai Phong, Hà Nam).
    An táng tại am Cố, thôn Lưu Tưởng, Chung Nam (nay là am Tổ, huyện Hộ, Thiểm Tây).
    Đời Chương Tông nhà Kim ban cho danh hiệu của am là “Linh Hư Quán”.
    Đời Nguyên Thế Tông gia phong là “Trùng Dương Vạn Thọ Cung”. Trong Toàn Chân Đạo thì gọi là “Tổ am” hay “Tổ đình”.
    *Niên hiệu Chí Nguyên năm thứ sáu (1269) sắc phong cho Ngài làm “Trùng Dương Toàn Chân Khai Hoá Chân Quân”, đến năm 1310 gia phong làm “Trùng Dương Toàn Chân Khai Hoá Phụ Cực Đế Quân”.

    *Toàn Chân Đạo tôn Ngài là một trong Bắc Ngũ Tổ.
    *Ba năm sau khi Ngài mất, Toàn Chân Đạo phát triển rộng ra các vùng Quan Trung, Hà Nam, Hà Bắc, Sơn Đông , đối tượng tín đồ bao gồm mọi giai tầng trong xã hội. Đến đây thì Toàn Chân Đạo đã định hình vững vàng về hai phương diện tổ chức và lý luận.

    *Sách vở trước tác của Ngài gồm :- “Trùng Dương Toàn Chân Tập” trong đó ghi lại hơn ngàn bài đạo thi. Ngoài ra còn có “Trùng Dương Lập Giáo Thập Ngũ Luận”, “Trùng Dương Giáo Hóa Tập”, “Phân Lê Thập Hóa Tập”, tất cả đều được đưa vào “Chính Thống Đạo Tạng”.
    *Tôn chỉ của Toàn Chân giáo là quên mình phục vụ xã hội cứu giúp chúng sinh, tôn trọng sự thật (toàn chân) nên nhân dân rất kính trọng. Học trò tìm đến ông rất đông, nhưng ông dạy dỗ nghiêm khắc, thường đánh đập để thử thách nên cuối cùng chỉ còn lại bảy người. Nhóm bảy đạo sĩ này được gọi là Bắc Thất Chân hay Toàn Chân Thất Tử :-
    1. Mã Ngọc (馬鈺) là đệ nhị chưởng môn, đạo hiệu là Đan Dương Tử.
    2. Khâu Xử Cơ, (1148 - 1227) người nổi tiếng nhất trong Bắc Thất Chân, đạo hiệu là Trường Xuân Tử. Về sau sáng lập Toàn Chân Long Môn phái.
    3. Ngọc Dương Tử Vương Xử Nhất
    4. Trường Sinh Tử Lưu Xử Huyền
    5. Trường Chân Tử Đàm Xử Đoan
    6. Quảng Ninh Tử Hách Đại Thông
    7. Thanh Tĩnh Tản Nhân Tôn Bất Nhị

    VƯƠNG LINH THIÊN QUÂN

    [​IMG]

    *Khi vào một cung quán của Đạo Giáo, chúng ta thấy điện đầu tiên ngay cửa vào là Linh Quan Điện. Trong đó thờ một vị thần mặt đỏ, râu dài đẹp, thân mặc áo bào đỏ, giáp vàng, có ba con mắt , lộ vẻ hung quang. Tay trái cầm bánh xe lửa, tay phải cầm roi sắt, hình tượng cực kỳ uy vũ dũng mãnh. Rõ là một vị thần tiên khiến người nhìn phải khiếp sợ. Đó chính là vị Hộ Pháp của Đạo Giáo , thần tướng Vương Linh Quan, còn gọi là “Hoả Xa Linh Quan Vương Nguyên Soái”, hay 「 Khoát Lạc Hoả Xa Vương Linh Quan 」、「Ngọc Xu Hoả Phủ Thiên Tướng Vương Linh Quan 」、「Long Ân Chân Quân 」. Tượng Ngài Vương Linh Quan
    Thường được đặt phía trong cửa chính của cung quán, có ý nghĩa “trấn thủ đạo quán”, tương tự như vị Hộ Pháp Vi Đà bên Phật giáo vậy.

    *Theo sách “Tân Sưu Thần Ký” nói rằng, Vương Linh Quan bổn danh là Vương Bồ, người thời vua Tông Huy Tông (1100—1125). Còn theo sách “Liệt Tiên Truyện”, quyển tám thì nói :- “Vương Linh Quan nguyên là vị Thành Hoàng của đất Tương Âm (nay là Hoài Âm, Giang Tô). Khi Ngài Tát Chân Nhân tu hành đắc đạo, một lúc nọ có dịp đi qua vùng Tương Âm, vào trú tạm ở Miếu Thành Hoàng. Mấy hôm trôi qua mà công việc chưa xong nên Ngài vẫn còn lưu lại Miếu. Quan Thái Thú Tương Âm nằm mộng thấ Thành Hoàng về báo là , hãy đến Miếu để mời Ngài Tát Chân Nhân rời khỏi Miếu. Quan Thái Thú liền y lời mà thực hành. Tát Chân Nhân đi cách Miếu chưa xa, thấy có một hương dân mang cái đầu heo đến Miếu cúng trả lễ. Ngài đưa cho người làng ấy một bó hương thơm, bảo hãy đốt hết cả bó nhang khi cúng tế thì mời được thần chứng giám. Hương dân nghe theo, bổng nhiên ngọn lửa từ bó nhang bốc lên cao, thiêu đốt cháy trọn ngôi miếu. Đó là vì Tát Chân Nhân phạt tội Thành Hoàng dám vô lễ xua đuổi Ngài, làm cho Thành Hoàng không cón nơi nương tựa.

    *Lại có một truyền thuyết khác, trong sách “Tân Sưu Thần Ký” quyển hai, nói rằng khi Tát Chân Nhân đi qua miếu Thành Hoàng, thấy hương dân đang bắt hai đứa đồng nam đồng nữ mang đến miếu cúng tế. Ngài nổi giận nói :- “Đây quả là Tà Thần, ta sẽ đốt bỏ ngôi Miếu nầy”. Nói xong, bổng có lửa từ trên không trung bay xuống, thiêu rụi ngôi miếu, dân làng không sao cứu chữa được.

    *Sau vụ việc ấy, Tát Chân Nhân đi du hành bốn phương, cứu dân độ thế rất nhiều. Căn cứ vào 《Lịch Đại Thần Tiên Thông Giám 》quyển hai mươi mốt chép, sau đó mười năm, Tát Chân Nhân đến phủ Long Hưng, xuống mé sông rửa chân, thấy dưới nước hiện ra một vị thần , mình mặc áo bào mang giáp vàng, tay trái cầm bánh xe lửa, tay phải cầm roi sắt, nhìn Chân Nhân nói rằng :- “Tôi nguyên là Thiên Tiên đại tướng hỏa xa Linh Quan Vương, phục vụ ở điện Linh Tiêu. Vâng mệnh lệnh của Ngọc Đế xuống ở Miếu Tương Âm để trừ tà ác giúp dân. Từ khi Chân Nhân đốt ngôi miếu ấy, tôi đã theo Ngài suốt mười hai năm, nay thấy Ngài công hạnh cao siêu, sẽ được lên Thiên Đình nhận chức. Tôi xin theo Ngài làm bộ tướng, phụng hành pháp chỉ của Ngài”. Như vậy, ta biết được Vương Linh Quan vốn là vị đại tướng coi sóc điện của Ngọc Hoàng Thượng Đế.
    *Nhưng căn cứ vào 《Minh Sử •Lễ Chí Tứ 》 nói rằng:- “Thời Tống Huy Tông, vua thường hay cùng với Tát Thủ Kiên truyền bá phù pháp” “Linh Quan thụ pháp với Tát Thủ Kiên, lại thụ pháp với Lâm Linh Tố, mà Lâm là một đạo sĩ giỏi về văn thơ” . Những tư liệu ấy cho biết là, Vương Linh Quan đã từng là đệ tử của các đạo sĩ Tây Thục như Tát Thủ Kiên, học những đạo phù bí lục, rồi sau đó lại làm đệ tử của Lâm Linh Tố.

    *Niên hiệu Vĩnh Lạc (1403—1425) đời Minh, ở Hàng Châu có vị đạo sĩ tên Chu Tư Đức, nhân học được pháp thuật của Nguyên Soái Vương Linh Quan mà thanh danh nổi lên tận kinh sư. Theo 《Tân Sưu Thần Ký •Thần Khảo 》「Vương Linh Quan Điều 」chép rằng:- “Chu Tư Đức thực hành những pháp của Linh Quan, biết trước việc họa phúc.. Vua Chu Lệ mấy lần kiểm nghiệm đều không sai. Lại có tài cầu mưa rất linh nghiệm, trừ tà trị quỷ tài tình, cứu những bệnh nguy khốn.. Vua Vĩnh Lạc cho xây dựng ngôi Thiên Tướng Miếu và Tổ Sư Điện ở phía Tây kinh đô để thờ phụng Vương Linh Quan và Tát Chân Nhân. Trong miếu có tạo tượng của hai mươi sáu vị thiên tướng, mà Vương Linh Quan là vị đứng đầu. Không lâu sau đó, vua Vĩnh Lạc lại cho làm bức tượng Vương Linh Quan bằng dây mây rất nhẹ, cho mang vào trong tẩm cung, cúng tế sáng chiều, kính trọng như khách quí. Vua Vĩnh Lạc là vị vua có tài thao lược, chinh chiến rất giỏi.

    *Từ đời Minh , Thanh đến nay, trong cả nước lập ra rất nhiều Miếu Linh Quan, các cung quán Đạo giáo đều có xây dựng Điện Linh Quan, tượng thờ thì mỗi nơi mỗi khác. Trong số đó, nổi tiếng nhất là các tượng ở Bạch Vân Quán Bắc Kinh, Thiên Luật Nương Nương Cung, Trường Xuân Quán ở Vũ Hán, Huyền Diệu Quán ở Tô Châu, Nguyên Hòa Quán ở núi Vũ Đang. Đặc biệt trong núi Vũ Đang ở Hồ Bắc, phổ biến truyền thuyết về “Năm trăm vị Linh Quan”. Ở Thiên Ất Chân Khánh Cung (còn gọi là Nam Nham Thạch Điện) lại có đến năm trăm tượng bằng đồng mạ vàng Linh Quan, những tượng nầy có hình thái phong cách rất “ấn tượng”.

    *Căn cứ theo 《Thái Hoà Sơn Chí •Thánh Tích 》chép rằng :- “Thái Tử của Tịnh Lạc Quốc Vương (sau nầy là Chân Vũ Đại Đế) lúc ở núi Vũ Đang tu luyện, nhà vua nhớ đến Thái Tử, bảo năm trăm vị đại thần đến Nam Nham để thăm viếng thay vua. Nhưng khi đến nơi, biết được thành quả tu hành của Thái Tử, cả năm trăm người nầy đồng thanh nói : “Nguyện theo Thái Tử mà học đạo”. Nhân đó mà tất cả đều ở lại trong núi để tu. Sau Thái Tử thành tiên, cả năm trăm vị nầy cũng được đăng tiên, nên về sau, dân gian tạo thành năm trăm tôn tượng để cúng tế”.
    Ngoài ra, Vương Linh Quan cũng từng được sắc phong làm “Ngọc Xu Hỏa Phủ Thiên Tướng”, dân gian tín ngưỡng Ngài làm vị “Hỏa Thần” nên có số tượng của Ngài lại mô phỏng theo hình thức hỏa thần mà tôn tạo, rồi còn xây dựng những ngôi Miếu Hỏa Thần để thờ phụng nữa.

    *Trong Đạo giáo có thuyết nói Vương Linh Quan là Vương Bồ đời Tống Huy Tông, lại có sách nói tên là Vương Ác đời Đường Thái Tông. Trong “Tam Giáo Sưu Thần Đại Toàn” quyển bốn, thì nói :- “Ngài tên là Bỉnh Thành, thân phụ là Thần, mất sớm. Thân mẫu là Thiệu Thị, sinh ra Ngài vào giờ Thân, ngày Canh Thân tháng bảy (tháng Bính Thân) năm Bính Thân niên hiệu Trinh Quán (627—650). Ngài mồ côi sớm, thất học nhưng lại có sức khỏe đặc biệt, tính thẳng thắn nhưng hơi cương bạo. Có công lớn với đất nước, nên khi mất, được xây miếu thờ phụng”. Ngài từng đốt một cái miếu tà thần ở ven sông, bị yêu quái tạo gió thổi tắt. Sau được Tát Chân Nhân trợ giúp, làm phép phản phong mới trừ được tà quái. Dân chúng địa phương sống yên ổn. Ngọc Hoàng Thượng Đế sắc phong cho Ngài làm “Khoát Lạc Vương Nguyên Soái”, ban cho ấn vàng, chức vụ chưởng quản việc giám sát , bảo vệ điện Linh Tiêu.

    *Tóm lại, Vương Linh Quan là vị thần cương mãnh chính trực, ghét tà ác như kẻ thù. Có chức năng trừ tà khử ác từ thiên thượng đến nhân gian, được dân gian trăm họ xưng tán rằng:-

    “Ba mắt nhìn suốt việc thiên hạ,
    Một roi tỉnh ngộ người thế gian”.

    Dược Vương

    *Dược Vương là những vị danh y tài giỏi về y thuật thời cổ đại, được dân gian thần thánh hóa, trở thành những vị Thần Thánh , Tổ Sư của ngành Y.
    Có ba vị được thờ phụng là:-

    1.- BIỂN THƯỚC:-

    [​IMG]
    (Biển Thước)​

    Là vị danh y thời Chiến Quốc, rất tài giỏi về chẩn mạch và trị liệu. Ngài họ Tần, tên Việt Nhân, người ở quận Bột Hải (nay là Nhậm Khâu, Hà Bắc) .
    *Căn cứ theo sách “Ẩm Trường Tang Quân Dược” nói rằng, Ngài biết sâu về các chứng ngũ tạng uất kết, giỏi các phương dược thần bí và các cấm phương (thuốc cấm kỵ). Ngài từng đi khắp nơi để hành y cứu đời. Ở nước Tề, Ngài lấy hiệu là Lư Y , ở nước Triệu lấy tên Biển Thước. Lại giỏi đủ các khoa ngành trị liệu. Qua đất Hàm Đan (Triệu), Ngài thi thố khả năng “Đái Hạ Y” (phụ khoa); đến Lạc Dương (Chu) Ngài thực hành khoa “Ngũ Mục Tý Y” (khoa ngũ quan cơ thể); ở Hàm Dương (Tần) thì trị liệu “Tiểu Nhi Y” (nhi khoa)…Tài y thuật của Ngài nổi tiếng khắp thiên hạ. Sau Ngài bị quan Thái Y của nước Tần là Lý Hy kỵ tài tìm cách sát hại chết. Người sau tôn là vị Tổ khời xướng về “Mạch Học”. Trong “Sử Ký” phần “Chiến Quốc Sách”, ngoài những việc ghi chép về sự việc chính trị, còn có phần ghi chép về các bệnh án, những địa điểm Biển Thước trị bệnh. Những địa danh nầy quá xa cách nhau, nên có người cho rằng, Biển Thước không phải là tên chỉ cho một cá nhân nào, mà là tên gọi chung tất cả những danh y thời cổ đại. Cũng theo sách nầy, cho rằng Biển Thước là người ở Việt Nhân nước Tần.

    *Sách “Hán Thư—Nghệ Văn Chí” có ghi tên tác phẩm chính của Ngài là “Biển Thước Nội Kinh—Ngoại Kinh”. Lại có quyển “Huỳnh Đế Bát Thập Nhất Nạn Kinh” gồm bảy quyển, có lẽ do người đời sau mượn danh của Ngài là Tần Việt Nhân mà viết ra.

    ÔN THẦN

    (Ngũ Ôn sứ giả)​



    [​IMG]
    (Binh Tướng của Ngũ Ôn sứ giả)​

    *Ôn Thần còn gọi là “Ngũ Ôn Sứ Giả”, là một tín ngưỡng của dân gian Trung Quốc từ thời cổ đại, về vị thần gây ra những bệnh ôn dịch (lây lan truyền nhiễm dễ chết người.

    *Gồm có :-
    -Thần Ôn dịch mùa Xuân:- Trương Nguyên Bá .
    -Thần Ôn dịch mùa Hạ :- Lưu Nguyên Đạt .
    -Thần Ôn dịch mùa Thu:- Triệu Công Minh .
    -Thần Ôn dịch mùa Đông:- Chung Sĩ Quí .
    -Tổng quản Trung Ôn :- Sử Văn Nghiệp .

    *Ôn dịch theo người xưa gọi tắt là “Ôn” hay “Dịch”, là những bệnh cấp tính, lại lây nhiễm nhanh, phát triển rộng, gây nguy hiểm chết chóc nhiều người. Thời xưa, trình độ dân trí có giới hạn, điều kiện khả năng trị liệu chưa cao, chưa biết cách đề phòng, nên sợ hãi cho rằng nguyên nhân của bệnh là do các vị thần “Ôn dịch” gây ra. Vì vậy, phải cầu khẩn xin xỏ những thần linh nầy mới tránh được tai họa.
    Từ đó, xuất hiện ban đầu là niềm tin vào ba vị thần linh, theo truyền thuyết sau:-
    -Theo sách “Lễ Khể Mệnh Chinh” nói :- [ Chuyên Húc có ba người con trai, mới sanh liền chết, thành ra quỷ gây dịch. Đó là:- một ở sông, gọi là “ngược quỷ” hay “hạt quỷ”; một ở dưới nước, gọi là “võng lượng”; một ở chung với người, hay quấy phá gây bệnh cho trẻ con, gọi là “tiểu quỷ”.]
    *Theo sách “Sự Vật Kỷ Nguyên” quyển tám dẫn theo “Lễ Vĩ”, nói về ba hạng quỷ trên, cho rằng là con của Cao Dương. Trong “Long Ngư Hà Đồ” có nêu tên của “Ngũ Kinh Quỷ” và cách trừ như sau:- “Vào đêm giao thừa, lúc canh tư, lấy hai mươi hạt đậu, hai mươi bảy hạt mè, bỏ lên đầu của người trong nhà, trộn hai thứ lại, đi đến chỗ có giếng nước, khấn vái thần giếng rồi bỏ tất cả đậu mè xuống giếng. Làm như thế, suốt năm người trong nhà không bị bệnh thương hàn hay bệnh ôn dịch.

    Sau đó, có số sách khác cũng nói về quỷ ôn dịch, có chỗ nói ba, chỗ nói năm tên. Mở đầu là Can Bảo trong “Sưu Thần Ký”, quyển năm, nói về ba tên quỷ đại ý như sau:- “Thượng Đế sai ba tướng quân là Triệu Công Minh, Chung Sĩ Quí, và một người ẩn danh, xuống nhân gian để thu thập thêm số lượng lớn quân sĩ để làm công việc của thiên đình giao phó…” Đoạn truyện nầy nói lên được tên của ba quỷ là Triệu Công Minh, Chung Sĩ Quí và một ẩn danh, có nhiệm vụ thu giữ hồn phách của người thế gian, bắt họ đi theo phục vụ (vì thế mới gây ra bệnh dịch…) .

    *Còn theo Đào Hoằng Cảnh đời Lương viết trong “Chân Cáo—Hiệp Xương Kỳ ” thì nói đến việc Thượng Đế ban lệnh xuống cho Triệu Công Minh phải chọn người để phục vụ ở Âm Cung, phải là người tài giỏi chứ không được chọn bừa bãi (ý nói gây bệnh tràn lan). Ở đây cũng nói đến năm vị thần chưởng quản công việc cõi âm, trong đó chỉ nêu tên Triệu Công minh, còn bốn thì ẩn danh.

    *Theo sách “Thái Thượng Động Uyên Thần Chú Kinh” xuất hiện thời kỳ Lưỡng Tấn, Nam Bắc Triều, quyển mười một, nêu lên nhiều tên là :- Lưu Nguyên Đạt 、Trương Nguyên Bá 、Triệu Công Minh 、Lý Công Trọng 、Sử Văn Nghiệp 、Chung Nhiệm Quí 、Thiếu Đô Phù và hai mươi lăm vạn “ngũ thương quỷ tinh” chuyên truyền ra bệnh ôn dịch.
    *Đoạn trên nêu lên bảy thần chủ về ôn dịch, nhưng về sau, minh định lại , cuối cùng chọn ra năm người, lấy tên Chung Sĩ Quí thay thế cho hai người là Lý Công Trọng và Thiếu Đô Phù.
    *Sau nữa , trong 《Chính Nhất Ôn Ty Tích Độc Thần Đăng Nghi 》(nghi thức về việc cúng trừ bệnh ôn dịch) có nói:-
    “ Chí tâm qui mệnh :Đông Phương Hành Ôn Trương Sứ Giả , Nam Phương Hành Ôn Điền Sứ Giả , Tây Phương Hành Ôn Triệu Sứ Giả , Bắc Phương Hành Ôn Sử Sứ Giả , Trung Ương Hành Ôn Chung Sứ Giả .”
    Đoạn nầy minh xác cho việc xưng Ngũ Ôn Thần làm Ngũ Ôn Sứ Giả, họ Trương, họ Triệu thì gần giống với quan niệm về Ngũ Ôn ngày nay, nhưng điểm khác biệt là lấy năm phương thay cho bốn mùa. Thêm nữa, là lấy Nam Ôn là họ Điền chứ không phải họ Lưu, họ Chung và họ Sử lại ở hai vị trí khác với quan điểm ngày nay. Đây là bộ sách có giá trị chính thống trong Đạo giáo, xuất hiện vào khoảng Tùy Đường.

    *Đến thời Nam Tống, Thiên Tâm Phái có sách 《Vô Thượng Huyền Nguyên Tam Thiên Ngọc Đường Đại Pháp 》quyển mười ba, chương 《Trảm Ôn Đoạn Dịch Phẩm 》luận về các Ôn Thần và đưa ra cách thức giải trừ. Có nói đại ý như sau:-
    “Nay là thời mạt thế, ly loạn nhiễu nhương, lòng người bạc ác, năm tình dấy động, nên Đông phương Thanh Ôn quỷ Lưu Nguyên Đạt, chủ phần Mộc, lãnh một vạn tên quỷ, gieo truyền các chứng bệnh phong ác; Nam phương Xích Ôn quỷ Trương Nguyên Bá, chủ về Hỏa, lãnh một vạn tên quỷ đi gieo truyền các bệnh về nhiệt độc; Tây phương Bạch Ôn quỷ Triệu Công Minh, chủ về Kim, lãnh một vạn tên quỷ đi gieo truyền các bệnh về thời khí; Bắc phương Hắc Ôn quỷ Chung Sĩ Quí, chủ về Thủy , lãnh một vạn tên quỷ đi gieo truyền các bệnh về ác độc; Trung ương Huỳnh Ôn quỷ Sử Văn Nghiệp , chủ về Thổ, lãnh một vạn tên quỷ đi gieo truyền các bệnh về mục nhọt, ghẻ lở, phù thũng”. Lại nói thêm:- “Nếu biết được tên của quỷ ôn nầy, thì quỷ sẽ không dám làm hại, chỉ cần hô to ba lần tên của quỷ, thì chúng tự trốn mất !”

    *Tăng Toản trong “Tam Giáo Sưu Thần Đại Toàn” đời Nguyên , cũng nói đến Ngũ Ôn Thần giống như thế. Nhưng ở quyển bốn, phần Ngũ Ôn Sứ Giả nói thêm:-

    [ Xưa, thời Tùy Văn Đế , niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười một, vào tháng sáu, có năm vị Lực Sĩ hiện thân bay lên không trung năm bảy trượng, mình mặc áo bào, mỗi vị tay cầm một vật. Một người cầm ống sáo, một người cầm kiếm, một người cầm quạt, một người cầm quả chùy, một người cầm bầu lửa. Vua hỏi quan Thái Sử là Cư Nhân rằng:- “Những vị thần nầy chủ về họa hay phước vậy ?”. Trương Cư Nhân tâu :- “Đây là Ngũ Phương Lực Sĩ, ở trên trời thì gọi là Ngũ Quỷ, dưới đất gọi là Ngũ Ôn, có tên là “Ôn Thần”. Gồm có:- -Thần Ôn dịch mùa Xuân:- Trương Nguyên Bá .-Thần Ôn dịch mùa Hạ :- Lưu Nguyên Đạt .-Thần Ôn dịch mùa Thu:- Triệu Công Minh .-Thần Ôn dịch mùa Đông:- Chung Sĩ Quí .-Tổng quản Trung Ôn :- Sử Văn Nghiệp . Ngày nay hiện ra ở đây, là báo trước cho biết nhân dân sắp bị bệnh ôn dịch. Vua hỏi có cách nào để giải trừ không, Cư Nhân tâu :- “Đây là lệnh của Thượng Đế ban xuống để trừng phạt người hung ác ở trần gian, không có cách nào hóa giải được”. ] . Quả nhiên, ít lâu sau, số dân chúng bị bệnh dịch chết rất nhiều. Nhà vua cho người lập miếu thờ vào ngày hai mươi bảy tháng sáu, sắc phong làm “Ngũ Phương Lực Sĩ Tướng Quân”. Vị mặc áo xanh phong làm Hiển Thánh Tướng Quân, vị mặc áo đỏ phong làm Hiển Ứng Tướng Quân, vị mặc áo trắng phong làm Cảm Ứng Tướng Quân, vị mặc áo đen phong làm Cảm Thành Tướng Quân, vị mặc áo vàng phong làm Cảm Uy Tướng Quân. Hai đời Tùy, Đường đều lấy ngày mùng năm tháng năm để cúng tế. Về sau, Khuông Phụ Chân Nhân đi đến Miếu nầy, ra oai thu phục Ngũ Ôn Thần về làm bộ tướng. ].

    *Ngày trước, các địa phương đều có xây Miếu Thờ Ôn Thần, có nơi xưng là Ôn Tổ Miếu. Ngày cúng tế thì mỗi nơi mỗi khác. Theo “Tam Giáo Sưu Thần Đại Toàn” thì lấy ngày mùng năm tháng năm. Trần Nguyên Tịnh đời Tống trong sách “Tuế Thời Nghiễm Ký” quyển bảy, dẫn theo “Tuế Thời Tạp Ký”, thì lấy ngày đầu năm (Tết Nguyên Đán) để cúng, viết rằng :- “Ngày mùng một tháng giêng bày lễ vật cúng tế thần Ngũ Ôn, gồm có rượu thịt gạo muối …Cúng xong, mang bỏ ra bên ngoài tường nhà”.

    *Lại trong 《Chư Thần Thánh Đản Nhật-- Ngọc Hạp Ký Đẳng Tập 》có nói lấy ngày mùng ba tháng chín, là ngày đản thần (sinh nhật) của Ngũ Ôn để cúng tế Ngũ Ôn.

    *Sách tham khảo:-

    ①② 《Trùng Tu Vĩ Thư Tập Thành 》quyển ba, tờ 35 , quyển sáu tờ 96 , Nhật Bản Minh Đức Xuất Bản Xã , Chiêu Hoà năm thứ 53.
    ③ 《Sưu Thần Ký 》tờ 63~64 , Trung Hoa Thư Cục , 1979 , thì nói “mỗi vị lãnh một số binh quỷ ”, còn trong 《Thái Bình Nghiễm Ký 》lại nói “mỗi vị lãnh một vạn binh quỷ”.
    ④⑤⑥⑦⑧ 《Đạo Tải 》quyển 20, tờ 550 , quyển 6, tờ 41 , quyển 4, tờ 39~40 , Văn Vật Xuất Bản Xã 、Thượng Hải Thư Điếm 、Thiên Tân Cổ Tịch Xuất Bản Xã Liên Hợp Xuất Bản , 1988.
    ⑨ Diệp Đức Huy cho khắc bản in sách “Bút Ký Tiểu Thuyết Đại Quan” niên hiệu Tuyên Thống năm thứ nhất. AB dẫn theo sách nầy, bộ thứ 20, quyển bốn, tờ 2255. Đài Bắc Tân Hưng Thư Cục,1984.

    XÍ THẦN

    [​IMG]


    *Truyền thuyết thời cổ đại Trung Quốc nói về nhà xí (cầu tiêu) tin cũng có thần , gọi là “Tử Cô”. Nhưng các truyền thuyết phổ biến trong dân gian có nhiều thứ, nội dung không giống nhau.

    -“Bạch Trạch Đồ” nói :- “Tên sạch sẻ của Xí là Y Ỷ”.
    -“Tạp Ngũ Hành Thư” nói :- “Xí thần tên là Hậu Đế”.
    -Lưu Kính Thúc thời Nam Tống viết trong “Dị Uyển” cũng như vậy. Quyển thứ năm kể chuyện Đào Khản Như đi tiêu, gặp Xí Thần Hậu Đế chỉ bảo cho việc vị lai.
    -Ngu Tăng Nhụ đời Đường trong “U Quái Lục” nói “Xí Thần tên Quách Đăng”.
    Như vậy, cho đến thời Lục Triều, Xí Thần chưa có cái tên thống nhất.

    *Về sau, trong dân gian thì tín ngưỡng về Tử Cô lưu hành rộng rãi và phổ biến hơn cả, dần dần đa số công nhận Tử Cô là Xí Thần.
    -Truyền thuyết về Tử Cô, ta thấy xuất hiện sớm nhất trong “ Dị Uyển” của Lưu Kính Thúc, quyển thứ năm nói :- “Thế gian có vị thần tên là Tử Cô. Xưa nay truyền lại là, có một người đàn bà tên Tử Cô, làm thiếp (vợ bé) cho gia đình nọ, bị người vợ lớn ganh ghét, sai bắt cô ta phải làm những công việc ô uế hàng ngày. Cô ta quá uất ức nên đến ngày rằm tháng giêng, xúc động quá mức mà chết. Người trong làng lấy rơm bện thành hình của cô, ban đêm đem đến chỗ nhà xí hay bên cạnh chuồng heo, khấn vái “Con cái chẳng có, cúng tế không ai, bà lớn đi rồi, bà nhỏ ra thôi”, bày ra rượu thịt để cúng vái. Nếu nhấc hình nộm thấy nặng, thì là “thần nhập”, có thể đặt câu hỏi về những việc vị lai. Nếu đúng, tốt, thì hình nộm gật đầu, nếu sai, xấu, thì lắc đầu. Phần nhiều, khi hỏi về việc trồng dâu nuôi tằm, trồng lúa thả câu ,lưới bắt cá … nếu hình nộm nhảy múa loạn xạ thì là tốt, còn đứng yên thì là xấu.”.
    -Tiếp theo “Dị Uyển”, có Đông Dương Vô Nghi đời Nam Tống, viết trong “Tề Hài Ký”; Tôn Lẫm đời nhà Lương , viết trong “Kinh Sở Tuế Thời Ký”; Đỗ Đài Khanh đời nhà Tùy, viết trong “Ngọc Chúc Bảo Điển” …đều có nhắc đến sự tích Tử Cô.
    -“Tề Hài Ký” viết :- “Vào giữa tháng giêng…dọn tiệc mời cúng Tử Cô để xem bói…”.
    -“Kinh Sở Tuế Thời Ký” thì nói :- “…Đêm bày tiệc để cúng Tử Cô là đêm rằm tháng giêng, có thể hỏi bói về việc vị lai như:- trồng dâu nuôi tằm hay những việc gia đình, gia đạo v.v…”.
    -“Ngọc Chúc Bảo Điển” viết :- “…Vào đêm hôm ấy (rằm tháng giêng), nghênh tiếp Tử Cô để hỏi bói nhiều việc…”.

    *Những sách nói trên, ngoài việc dẫn theo sách “Dị Uyển” như đã nêu, còn dẫn thêm các sách khác như :- “Đỗng Lãm”, “Tạp Ngũ Hành Thư” nói về Xí Thần Là Hậu Đế (con gái của Đế Khốc), và sau cùng, đề nghị thống nhất “Tử Cô và Hậu Đế làm một”.

    *Như vậy, ta thấy từ đầu Nam Triều đến đời Tùy, tập tục nghênh đón Tử Cô để xem bói (tổ chức ở chỗ nhà xí) đã đồng hóa dần với tín ngưỡng Xí Thần là Hậu Đế rồi. Đến thời nhà Đường thì Tử Cô chính thức trở thành Xí Thần. Từ đó, bắt đầu xuất hiện nhiều câu chuyện có liên quan đến thân thế của Tử Cô.
    Như trong “Trà Hương Thất Tục Sao” quyển mười chín, dẫn theo “Đông Pha Tập” trong có một “tắc” kể về cuộc hỏi đáp giữa Tử Cô và thi hào Tô Đông Pha, như sau:-

    [ Đông Pha Tập có kể chuyện :-

    Trong một lần “phò cơ” (cầu cơ Tiên) , ta (Đông Pha) hỏi Tam Cô (tức Tử Cô), nàng là thần hay là Tiên ?
    -Tam Cô đáp:- “Thiếp là thần Mạn Khanh”. (Khanh 阬 :- hầm, hố)
    Muốn hỏi rõ về lai lịch, Tam Cô bảo:- “Thiếp vốn là người ở Thọ Dương, họ Hà tên Mị, tự Lệ Khanh. Thân phụ thiếp thường nói, ngươi sanh ra có tướng lạ, về sau ắt thành người quí. Cha đưa thiếp đến Châu Nhân để học hỏi, chỉ vài tháng là thiếp thông suốt chín kinh. Khi cha mất, mẹ gả thiếp cho một nhạc sư, chỉ vài tuần lễ là thiếp rành rẽ âm luật nhạc điệu tiết tấu. Khi ấy có lần quan Thích Sử địa phương mở tiệc, gọi vợ chồng thiếp đến tấu nhạc giúp vui. Quan Thích Sử thấy thiếp có nhan sắc, lại đàn hay, nên cưỡng chiếm bắt về làm vợ bé, thường gần gũi với thiếp nhiều hơn. Phu nhân thấy thế, ghen tức, hôm nọ Thích Sử đi vắng, bà sai đầy tớ bắt thiếp , đè thiếp gục đầu xuống hố xí mà chết. May sao lúc ấy có Thiên Phù Sứ Giả đi ngang qua, thấy như thế mới đưa hồn thiếp về tâu trình Thượng Đế, Ngài thương xót, cho thiếp làm thần chốn nhân gian.”
    -Hỏi :- “Nàng là người thời nào ?”.
    -Đáp:- “Người đời nhà Đường”.
    -Hỏi:- “Quan Thích Sử tên gì ?”
    -Đáp:- “Sau lên tới chức Tể Tướng”.
    -Hỏi:- “Đó là đời vua nào ?”
    -Đáp:- “Đời vua (Võ) Tắc Thiên”. ]

    * “Trà Hương Thất Tục Sao” của tác giả Du Việt nói :- “Xét sự việc như thế, thế gian trước nay có tập tục nghênh đón Tử Cô vào đêm rằm tháng giêng. Vậy Tam Cô chính là Tử Cô, tức là Xí Thần vậy”.

    * “Thiên Trung Ký” của Trần Diệu Văn, quyển thứ tư, dẫn theo “Hiển Dị Lục” cũng có nói đến tên của Xí Thần như sau :- “Đời nhà Đường có thần Tử Cô, người ở Lai Dương. Họ Hà tên Mị, tự là Khí Khanh (bỏ vào hầm) [ sách trên nói Lệ Khanh ). Từ nhỏ nàng giỏi đọc sách, nổi tiếng thi thư. Năm thứ ba niên hiệu Biền Củng (678), quan Thích Sử (quận trưởng) Thọ Dương tên Lý Cảnh nạp làm “thiếp”. Vợ ông ghen ghét sai người giết cô Mị ở nhà xí vào ngày rằm tháng giêng. Về sau, cô hiển linh , được nhân gian tôn làm Xí Thần”.

    *Thời Nam Tống cũng có xuất hiện câu chuyện tương tự như trên, nhưng không nói rõ tên họ và trú xứ của quan Thích Sử . Có lẽ sách nầy mô phỏng theo sách trước mà nói thôi. Chỉ sửa đổi chỗ “Cô quá uất ức mà chết…” thành ra “Bà vợ lớn ghen ghét sai người giết …”. Cách nói nầy có lẽ phù hợp với tâm lý quần chúng hơn, nên được mọi người chấp nhận.

    -Du Chính Nhiếp đời Thanh trong “Độc Sưu Khước Cảo” cũng nói giống như Hiển Dị Lục.

    -Các sách 《Đạo Tạng •Sưu Thần Ký 》và 《Tam Giáo Sưu Thần Đại Toàn 》cũng sử dụng tư liệu nói trên để viết về Xí Thần. Nhưng trong “Sưu Thần Ký” lại nói thêm:- “Vợ của quan (chỉ Lý Cảnh) ghen ghét sai người giết, bỏ xác tại hầm xí. Hồn phách của cô không siêu thoát, nêm đêm đêm có tiếng than khóc tại nhà xí, lại có tiếng vũ khí va chạm nhau, mọi người cho là sự quái dị”.

    *Thời xưa, tập tục cầu cúng Tử Cô rất phổ biến ở nhiều địa phương, thống nhất vào đêm rằm tháng giêng, nhưng khác nhau về cách thức tổ chức.
    Trong 《Dị Uyển 》và 《Tề Hài Ký 》thì nói :- “Đêm mười lăm tháng giêng, tạo thành hình Tử Cô, cho mặc áo vải thô xấu, đem đến nhà xí hoặc chuồng heo mà cầu cúng …”

    -《Khể Thần Lục 》thì nói :- “Đêm rằm tháng giêng, phong tục ở Giang Tả, sắp bày cơm canh, quần áo , son phấn … để trước bàn trang điểm mà cầu bói…”.
    -“Du Hoạn Kỷ Văn” thì nói :- “Muốn thỉnh Tử Cô, thì dùng son hay than vẽ hình trên bàn mà cầu bói …”.

    * Trong “Đế Thành Cảnh Vật Lược” của Lưu Đồng đời Minh, nói :- [ Đêm trước hoặc sau rằm, phụ nữ lấy rơm cỏ bện thành hình nhân, lấy giấy làm mặt và quần áo, xưng đó là Cô Nương (tức Tử Cô). Hai bên có hai hình cô gái theo hầu. Vật cúng tế là “phân ngựa” , họ tụ họp , đánh trống và hát bài “Mã Phấn Hương” (bài ca phân ngựa) …]

    *Về địa điểm tổ chức thì tuy có khác biệt nhưng đại đa số đều lấy chỗ “nhà xí”, nên danh xưng cũng theo đó mà thành. Như là :-
    -Huyện Trâu ở Sơn Đông gọi là “Yêu Xí Cô”.
    -Quảng Đông thì gọi là “Thỉnh Xí Khanh Cô”.
    -Hàng Châu nói “Triệu Xí Cô”.
    -Tô Châu, Thiệu Hưng thì nói “Khanh Tam Cô Nương”. Thiệu Hưng còn có thêm tên “Hôi Tiếp Cô Nương”. Tô Châu thì có thêm “Môn Giác Cô Nương”.

    *Còn về chất liệu tạo hình cũng khác nhau, nên sinh ra tên gọi khác nhau:-

    -Giang Tây dùng trái bầu, trái dưa làm hình tượng, nên gọi là “Qua Biều Cô Nương”. (dưa, bầu)
    -Chiết Giang Ninh Ba thì gọi “Sao Cơ Cô Nương”. (rổ, rá)
    -Chiết Giang Hải Ninh gọi “La Đầu Cô Nương” (đầu bằng nấm), cũng gọi “Thiều Trửu Cô” (cây chổi), “Châm Cô” (cây kim), “Vi Cô” (cỏ lau).
    - Hồ Bắc , Giám Lợi, Thiểm Tây , Phượng Tường …các nơi thì gọi là Tử Cô.
    *Tóm lại, danh xưng mỗi nơi có khác biệt, nhưng thống nhất về địa điểm là “nhà xí”.

    *Về mục đích, tất cả các nơi tổ chức cầu bái Tử Cô không ngoài hai mục đích:-

    1.- Hỏi về công việc làm ăn, lành dữ, tốt xấu:- Thần gật đầu là “tốt”, “lành” “đúng”; không gật là “xấu”, “dữ”, “sai”.
    (Sách “Đế Thành Cảnh Vật Lược” có nói rõ điểm nầy).
    Địa phận Phước Kiến rất thịnh hạnh tập tục cầu bái Tử Cô nầy. Trong “Mân Tạp Ký” của Thi Hồng Bảo đời Thanh nói :- [ Theo phong tục ở Mân (Phước Kiến), đa số phụ nữ đều hay sử dụng cách thức cầu bái Tử Cô. Có hai lần tổ chức, “kỳ thượng” là vào ngày rằm tháng bảy, xưng là “Cô Cô” ; “kỳ hạ” là vào ngày rằm tháng giêng, xưng là “Đông Thi Nương”. Lại có tập tục dành cho những thiếu nữ trẻ tuổi, vào “kỳ hạ” (rằm tháng giêng) , thường lấy những tấm thiếp hay câu đối dán trước cửa nhà mình trong những ngày Tết, đem đến trước mặt Tử Cô (lúc cầu nhập về) để đốt và khấn nguyện Tử Cô phù hộ cho về sau lấy được chồng có học hành chức phận.].

    2.- Diễn trò “Xạ-Câu” (bắn tên và câu cá). Cách thức tổ chức cụ thể ra sao thì không biết, vì ngày nay không còn nữa. Nhưng theo ghi chép trong các sách “Dậu Dương Tạp Trở” và “Mộng Khê Bút Đàm”, thì có nói đến việc , thỉnh Tử Cô ban cho những bài thơ, toa thuốc trị bệnh, viết thư pháp, đánh đàn, đánh cờ v.v….

    *Tóm lại, phong tục tập quán các nơi tôn sùng Tử Cô với tư cách là một vị thần gần gũi, thân thiết với con người, coi sóc việc nhà cửa, nhất là hầm cầu, hố xí (là nơi tuy bẩn nhưng lại rất quan trọng và tối cần cho con người). Thêm nữa, là hai mục đích : đoán biết việc tốt xấu, lành dữ trong gia đình, cùng những trò giải trí khác.

    HÌNH TƯỢNG THỜ QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN

    Tam quốc chí diễn nghĩa (TQC, tr. 10) tả Quan Công “mình dài chín thước, râu dài hai thước (một thước Tàu dài khoảng 0,36m), mặt đỏ như gấc; môi thắm như son; mắt phượng, mày ngài”. Lưu hành từ đời Thanh (Trung Quốc), kinh Minh Thánh (MT) tả: Ngọa tàm mi bát tự. Đan phụng mục song tinh. Ngũ long tu bãi vĩ. Nhứt hổ ngạch dao thân. (Mày tằm hình chữ bát. Mắt phượng sáng như sao. Râu rồng rõ năm chòm. Trán hùm thân lẫm liệt.)

    [​IMG]

    (Tượng ba ông)​

    Dựa theo miêu tả trên, tranh thờ Quan Công (Quan Đế) có hai kiểu thông dụng.

    Tượng ba ông: Quan Công ngồi giữa, tay vuốt râu (đôi khi vẽ tay kia cầm kinh Xuân thu). Sau lưng là Quan Bình giữ ấn (trái), Châu Thương cầm đao Thanh Long (phải).

    Châu Thương (cũng gọi Châu Xương, Châu đại tướng quân). Theo TQC (tr. 459, 460, 568), Quan Công đưa hai chị dâu (vợ Lưu Bị) tìm Lưu. Gần tới núi Ngọa Ngưu thì gặp tướng cướp Châu Thương, mặt đen, râu xồm, cao lớn, hình dung dữ tợn. Châu bỏ lâu la đi theo Quan. Nghe tin Quan Công và Quan Bình bị Tôn Quyền chém, Châu đâm cổ tự vẫn. Châu được tôn thờ là Cương trực Trung dũng Đại thiên tôn. Kinh MT tả: Phù thiên dũng tướng. Sát địa mãnh thần. Thiết tu ngân xỉ. Hắc diện châu thần. (Tướng khỏe phụ giúp trời. Thần khỏe trông coi đất. Râu sắt răng bạc. Mặt đen môi đỏ.)

    Quan Bình. Theo TQC (tr. 446-468), sau khi gặp Châu Thương, Quan Công tiếp tục tìm Lưu Bị và Trương Phi. Đến Hà Bắc, gặp ông lão Quan Định có con thứ là Quan Bình biết võ, 18 tuổi, bèn xin Bình làm con nuôi. Kinh MT và các chùa thờ Quan Đế tôn Bình là Quan thái tử, tôn xưng là Cửu thiên Uy linh Hiển hóa Đại thiên tôn...
     
    xonack thích bài này.
  15. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    [​IMG]
    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
     
    xonack thích bài này.
  16. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
     
    xonack thích bài này.
  17. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    [​IMG]
     
    xonack thích bài này.
  18. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
     
    xonack thích bài này.
  19. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    xonack thích bài này.
  20. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]
     
    xonack and iumainhe like this.