ĐÓN TẾT

Thảo luận trong 'Phần Mềm Xổ Số - Phát Hiện - Phát Triển' bắt đầu bởi ABlo, 11/12/14.

  1. ABlo

    ABlo Thần Tài

    Chuẩn bị đón năm mới.
     
  2. TaiThanMT

    TaiThanMT Thần Tài Perennial member

    :128: Chuẩn bị ji đón tết đây kaka..?
     
    ABlo, Cà Rem, SaoBieenr09 and 5 others like this.
  3. ABlo

    ABlo Thần Tài

    T6 23/1/2015 miền Nam VL -BD
    AB lô : 34 , 94
    Xỉu chủ :934,434,334
    994,394,494
    Ba càng :934,434
    Kiến càng :9934,3934,4934
    [​IMG]
     
  4. bank

    bank Thần Tài Perennial member

    B Long An - B Thành Phố.
    26 76 96 .
    Ghép 6 .
     
    ABlo, Cà Rem, SaoBieenr09 and 7 others like this.
  5. Hải Triều

    Hải Triều Thần Tài Perennial member

    đập thằng Nầy nè....khỏi chạy...lót thêm 77 nữa cho chắc
     
    ABlo, Cà Rem, SaoBieenr09 and 5 others like this.
  6. cantiennuoivo

    cantiennuoivo Thần Tài Perennial member

    im lặng mà đập.nói nghe ghê quá hok sợ chạy mí lạ
    GL
     
    ABlo, Phú Quý, Cà Rem and 5 others like this.
  7. cutham125

    cutham125 Thần Tài Perennial member

    934 về TV mất tiu
     
  8. anhba

    anhba Thần Tài

    AB= X4-X8 ( Bộ Mèo), chọn:

    54-58-14-18

    954-958
    514-518
    lót 758

    Chỉ chơi AB-XC-Đá

    Hy vọng là có để có ăn Tết!
     
  9. Hải Triều

    Hải Triều Thần Tài Perennial member

    MB CHỐT ĐÓN TẾT
    AB & lô = 18-58
     
    Cà Rem and ABlo like this.
  10. money yen

    money yen Thần Tài

    Chúc mọi người cuối tuần VUI VẺ - BIG WIN ....Hy vọng hôm nay có LỘC
    Ngày TÂN SỬU ( TIỀN GIANG & KIÊN GIANG )
    AB =18-28-48-58
    hnay Tân Đinh Mậu
    chọn AB = 58
     
    Chỉnh sửa cuối: 25/1/15
    Cà Rem and ABlo like this.
  11. Hải Triều

    Hải Triều Thần Tài Perennial member

    NGÀY KỶ MÃO
    AB = 13-15-16-55-49-57
     
    Chỉnh sửa cuối: 27/1/15
    Cà Rem and ABlo like this.
  12. thoabeo07

    thoabeo07 Thành Viên

    hôm nay em mớ 07 :drunk:
     
    Cà Rem and ABlo like this.
  13. Hải Triều

    Hải Triều Thần Tài Perennial member

    TỔNG KẾT NĂM VỚI ĐỒNG
    NGÀY KỶ MÙI
    AB = 11-44-88
     
    Cà Rem thích bài này.
  14. Mạnh Nhân

    Mạnh Nhân Thần Tài

    T7 ngày 25/4/2015
    Nguồn từ Kimtubinh.net do LeSoi dịch sang tiếng Việt.
    Đây là tác phẩm Mệnh lý huyền cơ tham bí của Bành Khang Dân tiên sinh.
    Trân trọng giới thiệu với anh em trên XSTT này.

    * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * * *



    Mệnh Lý huyền cơ tham bí

    (Nguyên tác: Thái Tích Quỳnh)

    Tác giả: Long đại ca

    Tác giả quyển sách này là Thái Tích Quỳnh tiên sinh, kế thừa Manh sư nỗi tiếng là Bành Khang Dân đại sư, trong lòng rất khoan khoái, vô tư mà hướng về giới Dịch học cung hiến phân tích mệnh cụ thể, lý pháp cùng kỹ pháp đoán mệnh, đề xuất kỹ pháp cụ thể số anh em chị em, giới tính con cái, áo bí trụ giờ, bản chất của sinh khắc hợp xung, mấu chốt suy vượng, tổng hợp mệnh tuế vận phán đoán, ứng kỳ, đường đi huyền cơ thiết nhập mệnh cục, lấy ngôn ngữ thông tục dễ hiểu, giảng thuật nội hàm Dịch học thâm khắc, tin tưởng ở trên kỹ pháp cụ thể, cho thể cung cấp cho các bạn gợi ra cửa Dịch, có thể cung cấp nghiên cứu để mở ra tầm nhìn vậy!

    Mục Lục
    Chương 1, Khởi đếm số anh em chị em trong gia đình.
    Tiết 1, Quy luật về số lượng anh em của mệnh Nam
    (1) Âm thanh kỳ diệu
    (2) Chỗ bắt nguồn chân thành, kiên định
    (3) Thuyết khai hoa Nhật Nguyệt vô quang
    Tiết 2, Đặc trưng một đôi bào thai hiện đại
    Chương 2, Làm sao nắm chắc vượng suy
    Tiết 1, Chân cơ Ngũ hành điên đảo
    (1) Luận biến lý vượng suy
    (2) Giải thích chân cơ ngũ hành điên đảo
    Tiết 2, Nắm chắc đại pháp sinh khắc
    (1) Bản chất quy luật của Xung
    (2) Bản chất quy luật của Hợp
    (3) Đặc điểm dung hợp
    (4) Luận sinh khắc hình - hình thức và kết quả
    Tiết 3, Làm sao nắm chắc mức độ vượng suy
    (1) Phân biệt mức độ Vượng
    (2) Phân biệt mức độ Suy
    (3) Một con đường tắt phán đoán Vượng Suy
    Chương 3, Phần 1:
    Tiết 1, Yết mật của âm dương nam nữ
    Tiết 2, Quyết về cha mẹ ai chết trước chết sau
    Chương 4, Bát tự quy luật tổ hợp đại vận lưu niên
    Tiết 1, Áo bí trụ giờ
    (1) Tin tức ở trụ giờ
    (2) Huyền cơ của trụ giờ
    Tiết 2, Một đường đi huyền cơ Đại vận Lưu Niên thiết nhập Mệnh cục
    (1) Thiết nhập Hợp
    (2) Thiết nhập Xung
    (3) Thiết nhập dung hợp
    (4) Ngoại lực cường đại nhập mệnh cục.
    Chương 5, Phần 2:
    Tiết 1, Tiêu chí Di hoa Tiếp mộc
    Tiết 2, Tiêu chí anh em ruột thịt tổn thất lớn
    Chương 6. Làm sao xem tầng lớp con người
    Tiết 1, Làm sao xem tầng lớp con người
    (1) Từ mệnh, vận, đi xem trên phương hướng thời đại
    (2) Từ Bệnh thần, đi xem trên mức độ mạnh yếu của dụng thần
    (3) Đi xem trên từ Tài Quan Ấn
    (4) Đi xem trên từ khí thế và khí số
    (5) Kết hợp xem từ tạo hóa Hậu thiên
    Tiết 2, Chân ngôn thủ Dụng
    (1) Thủ dụng mệnh cục phổ thông
    (2) Thủ dụng mệnh cục đặc thù
    (3) Định quyết thủ dụng Cùng Thông
    Tiết 3, Làm sao tìm được ứng kỳ cát hung
    (1) Ứng kỳ hôn tai
    (2) Ứng kỳ thương tai
    (3) Ứng kỳ phát tài
    (4) Ứng kỳ thăng học thăng chức
    Chương 7, Phần 3: Luận Trung và Gian
    (1) Đặc trưng mệnh cục Gian thần
    (2) Đặc trưng mệnh cục Trung thần
    Chương 8, Tam thế âm dương căn
    Tiết 1, Phụ mẫu di truyền bát tự
    (1) Vận chuyển khí thế ngũ hành
    (2) Cách cục giống nhau ngày giờ
    Tiết 2, Bổ cứu bát tự vợ chồng
    (1) Dụng thần bổ cứu cho nhau
    (2) Niên căn bổ cứu cho nhau.
    Tiết 3, Phép ưu tiên bát tự tử tức
    Chương 9, Luận hóa giải tai họa, biện chứng và hạ dược
    Tiết 1, Biện chứng
    Tiết 2, Hạ dược
    (1) Hoán vị giờ sai.
    (2) Điều lý phong thủy
    (3) Vâng theo ân sư giảng dạy
    Chương 10, Ví dụ giải thích Nguyệt Đàm phú
    Chương 11, Hai Tham Bí
    Chương 1, Phép khởi đếm số anh chị em ruột

    Mục đích luận mệnh quan trọng nhất, là xem cát hung con người. Mấu chốt để xem cát hung, lại không ly khai xem chuẩn ở Nhật chủ vượng suy. Thân vượng thân suy, lúc phán đoán nói dễ vậy sao? Cao thủ luận mệnh, cũng có đôi khi nắm không chuẩn vượng suy, chẳng qua bọn họ có phương pháp. Giống như thường sử dụng " Phép phản chứng đếm số Huynh đệ", tức là từ số anh em chị em, để hiểu rõ đến bạn là thân vượng hay là thân suy. Đây là mặt sau của phán đoạn cát hung, vốn có đủ tác dụng khá là hữu ích.
    Rất nhiều học giả, phê bình suy đoán số anh chị em, lưu truyền ở giang hồ, hơn nữa căn bản dự trắc là không chuẩn. Tác giả cho rằng, hoàn cảnh thời đại vị trí mỗi cá nhân anh em, hoàn cảnh địa lý, giống nhau hoặc là rất gần nhau, ở trong suy nghĩ lúc được dự trắc, đáp án rất rõ ràng, đối với tình huống anh chị em ruột thịt cũng hiểu rõ nhất. Do vậy, suy đoán đếm số anh chị em trong lục thân, vừa đúng là đều tài tốt để nghiên cứu mệnh vận học bát tự. (Đối với trước kia người thực hiện kế hoạch hóa gia đình) đếm hết số anh chị em ruột có thể dự trắc chuẩn hay không, tôi cũng như độc giả, quá có quá trình hoài nghi.

    (1) Âm thanh kỳ diệu

    Càn tạo: Quý Tị, Nhâm Tuất, Đinh Mùi, Tân Hợi

    Ngũ hành cực số:
    Hỏa: 4 số
    Mộc: 2 số
    Thủy: 3+3 (nạp âm) = 6 số
    Kim: 3 số
    Thổ: 3 số

    Một ngày ở vận 7 năm Mậu Thìn, tôi mang theo càn tạo này, đi tìm một vị Manh nhân truyền kỳ. Truyền thuyết lỗ tai của ông ta đặc biệt rất linh, có thể nghe ra từng tổ hợp can chi va chạm chỗ phát ra âm thanh. Vì thế tôi đứng ngay trước mặt ông ta, trân trọng viết ra bát tự này, muốn xem thử ông ta nghe ra âm thanh gì. Ai dè tôi vừa viết ra, tiên sinh liền đọc một chút có chữ: "Nhâm Thìn Quý Tị Trường Lưu thủy, Nhâm Tuất Quý Hợi Đại Hải thủy, Bính Ngọ Đinh Mùi Thiên Hà thủy, Canh Tuất Tân Hợi Soa Xuyến kim", đang lúc tôi bị ngây người, hoài nghi anh ta không phải là Manh nhân, có thể ở trên thế giới thật sự có sử dụng lỗ tai để nhận ra chữ. Tôi hết sức kinh ngạc hỏi: "Lão tiên sinh, tôi viết lại hai chữ, ông có thể nghe được không? "Tiên sinh cười nói: "Không có nạp âm, tôi nghe sao được? "A, can chi nạp âm đúng thật là kỳ diệu như vậy, đúng thanh âm kỳ quái ". Tôi ngoài miệng nói như vậy, trong tâm rất là không tin hỏi: "Nếu như mỗi nghìn chi đều có thể phát ra âm thanh, tại sao tôi đã học nhiều năm, lại chưa từng nghe qua chứ? Nạp âm rốt cuộc có tác dụng gì, lão tiền bối không có thể đùa chứ ?
    "
    Lão tiên sinh biết có nhiều người khách đến, nên nói: "Bạn hôm nay tìm tôi có chuyện gì, để cho mọi người đợi chút, tôi cũng không có thời gian." Tôi xem đang có nhiều người cần đến tiên sinh, liền vội đưa lên bao tiền nhỏ mà tôi đã chuẩn bị, " Ngưỡng mộ đại danh tiên sinh đã lâu, tên tuổi vang dội, ngày hôm nay mới nhìn tận mắt, quả nhiên là danh bất hư truyền. Tại hạ nghiệp dư rất thích mệnh lý, hôm này đến đây thỉnh giáo, bát tự này xem anh chị em như thế nào?" Tiên sinh hỏi lại tôi nói, "Bạn thấy thế nào?"
    " Bát tự này thân nhược, phải lấy Tỉ Kiếp và Ấn tinh làm anh chị em, can chi trong bát tự tổng cộng có 4 hỏa, 2 mộc tổng cộng là 6 số, lý hẳn là khởi liền mệnh chủ, chỉ có 6 anh chị em."Tiên sinh vẫn không chờ tôi trả lời, liền di chuyển ngón tay, vừa lại niệm một chút từ. Sau cùng nói: " Người này anh chị em tổng cộng có 12 thai, mất 5, còn 7, trong đó có 4 nam 3 nữ."
    "Tiên sinh chỗ ông đoán còn sống lại 7 người, mà là 4 nam 3 nữ, chính xác, nhưng thực tế tốt biết anh em của mệnh chủ, chỉ có 9 thai". Tiên sinh không tranh luận với tôi, chỉ nói: " 12 lần có thai, một chữ không sai, sau này có thể bạn sẽ rõ. Tôi đoán số anh chị em, chưa hề không có nói sai, mà còn không khó khăn mấy." "Thật sự không khó sao?"
    Tôi lại báo thêm càn tạo bên dưới.
    Nhâm Ngọ, Quý Mão, Mậu Dần, Nhâm Tuất

    Ngũ hành cực số:
    Thổ: 4+1=5 số,
    Hỏa: 3 số,
    Thủy: 3+1=4 số,
    Kim: 1+1=2 số,
    Mộc: 2+1=3 số

    Chỉ nghe ông ấy nói: "Người này cùng càn tạo vừa rồi, giống nhau là có 12 thai, hơn nữa còn sống 7, 4 nam 3 nữ, giống anh em ruột thịt." Bên cạnh khách hàng đều nghe thấy được, cảm giác thật là hứng thú. Vội vàng hỏi tôi là có đúng không? Tôi cứ gật đầu, nhưng vẫn không phục liền hỏi: "Lão tiên sinh sao lại chắc chắn rằng là có mất 5 bào thai chứ?" Tiên sinh sử dụng tay thành thục vuốt bao tiền nhỏ, kiên nhẫn nói với tôi: "Phải hiểu rõ phép đoán 12 bào thai anh em này, trước phải biết rõ diệu dụng nạp âm Lục Thập Giáp Tý mới được, ít nhất đối với phép nạp âm phải quen thuộc."
    Đối với phép nạp âm này vẫn còn mơ hồ huyền bí. Tôi ôm trong lòng nghi hoặc khó giải thích, trong lòng bán tín bán nghi, rời khỏi tiên sinh manh nhân. Vội vàng tìm đến mẹ của mệnh chủ, mẹ mệnh chủ nói cho tôi nghe: "Tiên sinh đúng là bậc cao nhân, thực tế là tôi sinh ra 12 thai nhi, trước đại ca của nó đã mất 3 người, sau lại mất thêm 2 người, xếp xuống dưới tới đại ca đứa nhỏ nhất tất nhiên tôi chính là đứa thứ 9."
    (2) Tiên sinh manh nhân thần bí họ Bành, 6 tuổi đôi mắt đã mù. Lúc nhỏ cha của ông từng mời 4 vị tiên sinh xa gần để dạy ông ta học tập Chu Dịch . Ông ấy trời phú có tính thông minh hơn người, không dưới – một năm công phu, toàn văn Chu Dịch đã học thuộc lòng. Vì tương lai kiếm sống, vẫn học nhiều thuyết cổ thư, ngoài 10 tuổi đã học thuộc lòng tam đại danh trứ Hồng Lâu Mộng . Chỉ tiếc là, nhà ở thâm sơn, lại là manh nhân, không có cách nào nhập học. Hoàn toàn dựa vào tư chất bẩm sinh của cá nhân, cuối cùng học được kỹ nghệ tinh xảo. Đầu thời kỳ Giải phóng, được chọn làm Hội trưởng Hội văn nghệ của khu vực bản xứ. Đồng thời, đích thân ông ta đối với mệnh lý học và thực tiễn, cũng chưa từng gián đoạn.

    Địa phương lưu truyền rất nhiều chuyện thần kỳ. Một lần, ông ấy dự trắc cho - vị giáo sư 3 bát tự, dưới 3 điều kết luận:
    1, Mẫu thân của bạn mặc dù nằm giường nửa năm, nhưng không chết, ít nhất cũng còn sống đến 3 năm;
    2, Chú của bạn thân thể có ám bệnh, khó qua nửa tháng;
    3, Bản thân của bạn năm tới có chuyển chính trị.
    Người được phái đến không không vừa ý, cho rằng hoàn toàn sai. Thời gian chưa đến nửa tháng, người này lại đến, vào cửa đã gọi: "Bành tiên sinh đúng là thần, từ lần trước sau khi trở về, mẹ già một ngày liền tốt. Hiện tại đã xuống giường, có thể ăn có thể uống. Tôi chưa hề thấy chú ruột sinh bệnh, liền lễ bái, chú ruột bệnh cấp tính, ở bên ngoài, còn chưa đưa vào y viện đã chết." Sau đó vị lão sư này, cũng chuyển sang làm chính trị là không sai. Bành lão tiên sinh là rất tinh thuật phong thủy, đến nay tôi cũng không thể rõ ông ấy học ở đâu. Năm 1982 ông ấy làm nhà mới, sau đó, ông ấy có 4 người con, đều thuận lợi mà trúng tuyển vào đại học, hiện tại vừa có Công trình sư, cũng có làm thầy dạy học, hiệu trưởng, làm thầy. Mọi người dân ở xa gần cùng với các vị quan quý, không khỏi trông mắt nhìn nhau.
    Từ lúc tôi tìm được mẹ của 2 mệnh tạo, chứng thực từ ngày đó Bành lão tiên sinh suy đoán số anh chị em hết sức thần nghiệm, tôi thật sự tin tưởng ông ấy, vô cùng sùng bái. Đoạn thời gian này tôi ngày đêm tưởng nhớ, cuối cùng đến ngày chủ nhật, sáng sớm tôi liển cưỡi xe đến chỗ ở của ông ấy, liền mở miệng bái ông ấy làm thầy. Vạn lần không nghĩ tới, ông ấy đối diện với tôi càng tăng thêm khiển trách, "Đường đường là giáo sư quốc gia, học cái này làm gì, bạn không biết rằng con tôi muốn học, tôi đều không dạy." Tôi nóng lòng muốn học, cũng cảm nhận được ngày đêm đến già không công bằng đối với Bành lão tiên sinh. Quá kích động nói: "Thời gian nghiệp dư, học tốt Chu Dịch tương lai sau này cũng có thể đền đáp quốc gia, tạo phúc cho nhân dân, có gì là không tốt. Giống như ngài ở trong nhà đã từng bài ưu giải nạn cho mỗi nhà, giáo hóa dân chúng. Việc này còn không phải là to lớn sao?" Bành lão tiên sinh không nói gì, sau cùng nói "Đoán số anh chị em, tất cần phải khảo sát "Nạp âm" cùng "Hợp hóa cùng ngươi ngộ được thông suốt chăng?" Trò chuyện, cũng là hạ lệnh đuổi khách. Lần thứ ba tôi lại đến nhà ông ấy, mặc dù tôi mang đến nhiều lễ vật tốt nhất, nhưng ông ấy đều không gặp tôi, tôi không có cách nào hơn bèn len lén đặt lên lễ phẩm rồi trở về nhà. Thời gian không phụ người có tâm. Lần thứ tư gặp lại đúng là duyên phận. Đối với "Nạp âm" và Hợp hóa, ở lúc suy đoán trong số anh chị em thật là diệu dụng, tôi thật sự không hiểu được, buồn phiền khiến cho tôi thường đi ra ngoài dạo chơi trên đường cái. Một ngày, chợt thấy trên xe buýt đi xuống một đôi lão nhân, trước mắt bỗng nhiên sáng ngời, đây không phải là ngày đêm nhớ đến vị thần tiên sao? Tôi hăm hở tiến ra đón tiếp dìu đỡ Bành lão tiên sinh, lão bạn ông ấy biết tôi, đối diện tôi nói: "Người con cũng ở tại nhà, tôi thấy anh ta trong khoảng thời gian này hàng ngày không thích, đặc biệt đối với bọn họ ở y viện lớn này, để khám bệnh." Tôi - cao hứng, liền nói đưa bọn họ đến y viện lớn tốt nhất, lúc này đã giờ Ngọ, tôi liền kiểm tra tổng quát bọn họ. Sau cùng một vị y sinh không quen biết tôi nói: Cha "bạn' có bị viêm ruột thừa, hiện đang thời tiết tốt nhất có thể làm phẫu thuật." Bành tiên sinh cùng lão bạn ông ấy có chút do dự, tôi liền đi xuống. Ngày thứ ba phẫu thuật hoàn thành thuận lợi . Sau này trong thời gian một tuần, tôi toàn tâm chăm sóc cho Bành lão tiên sinh, đưa trà dâng nước, thành khẩn cam tâm tình nguyện, cho đến lúc con của ông ấy đến để đưa ông ấy về nhà.
    Lúc chia tay, lão bạn ông ấy kéo tay tôi, không có nói lời cảm kích, sau đó chỉ gọi tôi đi chơi hàng ngày.
    Bính Thân ( Mậu Nhâm Canh ) Hỏa: 4+1=5 số
    Kỷ Hợi ( Mậu Giáp Nhâm ) Mộc: 2+2=4 số
    Bính Ngọ ( Đinh Kỷ ) Thủy: 3+1=4 số
    Mậu Tuất ( Tân Đinh Mậu ) Kim: 1 số
    Thổ: 6 số
    Càn tạo này, là ví dụ lần đầu tiên Bành lão tiên sinh dạy tôi vận dụng nạp âm suy đoán số anh chị em. Ông ấy muốn tôi xem trước số anh chị em là nhiều hay ít; tôi nói nhật nguyên Bính hỏa là trung hòa thiên nhược, lấy Tỉ Kiếp là anh chị em. Trong Bát tự Tỉ Kiếp tổng cộng có 4 số, có 4 anh chị em. Lão sư nói: "Ngươi có thể phán đoán nhật can vượng suy trước là rất mấu chốt, là cũng đúng. Nhưng mà, mệnh chủ này thực tế có số anh chị em là 5 người, mất một, còn sống 3 nam 1 nữ." Ông ấy muốn tôi chăm chú đếm một chút, bát tự có ngũ hành trung hòa cuối cùng số có nhiều hay ít. Tôi nói: "Rõ ràng 2 Bính 2 Đinh là 4. Có phải hay không 'Ngọ hỏa' coi là một, trong Ngọ 'Đinh hỏa' lại coi là - trọng, như vậy tổng cộng có 5 hỏa chứ ?
    Ông ấy nói, vấn đề là ở trong chỗ này, các bạn là hết sức gán ghép; bày đặt không cần sử dụng "Bính Thân là Sơn Hạ hỏa". Cái này nạp âm là hỏa, thì giống "Hỏa thạch hoa", hai bên có mộc (Mậu Tuất là Bình Địa mộc) dẫn phát, nó thì có thể đốt. Mặc dù có thể đốt, nhưng ở vào tháng Hợi cũng dễ dàng dập tắt. Ở giữa anh chị em ruột thịt, thì nó chính là âm thanh va chạm của cha mẹ mà phát ra, nó cũng có thể kết khí thành bào thai. Nạp âm có rất nhiều huyền cơ, bạn phải nhận thức nó đúng, còn phải đọc sách xưa quý hiếm. Năm 1990 ngày đó là ngày sinh của Bành lão tiên sinh, là thời khắc tôi khó quên nhất, lão sư cuối cùng mới chính thức nhận tôi làm đồ đệ. Từ đây về sau tôi bắt đầu thâm nhập nghiên cứu.

    (2) Quy luật đếm số anh chị em của Nam mệnh
    Liên quan đến vấn đề từ trong bát tự xem số anh chị em, tôi cho rằng nhiều sách đều không có giảng thấu đạo lý ở trong, có đại sư nói, không thể để lộ ra chỗ "Thiên cơ" này. Tôi xem cũng là không có ngộ thấu đạo lý ở trong đó. Tác giả đã từng được lão sư chỉ điểm, nghiên cứu hết lần này đến lần khác, vô số lần thực tiễn. Cuối cùng quy nạp ra 4 định luật lớn dưới đây:
    + Quy luật 1: Thân trung hòa hoặc là trung hòa thiên nhược, lấy Tỉ Kiếp làm anh em chị em (nạp âm cũng bao gồm con số ở bên trong, giống ở dưới);
    + Quy luật 2: Thân thái nhược, Ấn, Tỉ, Kiếp đều là anh em chị em, kiêm nhìn hợp;
    + Quy luật 3: Thân vượng (Không phải cực vượng) lấy Quan Sát ( bao gồm cả nạp âm ) là anh em chị em;
    + Quy luật 4: Thân cực vượng hoặc là thân cực nhược thì lấy Tỉ Kiếp làm anh em.
    Bốn định luật ở trên, trái lại cũng thành lập.
    Tại sao thân vượng lấy Quan Sát là anh em chị em, thân thái nhược phải lấy Tỉ Kiếp thêm Ấn là anh em chị em chứ? Bởi vì, cổ nhân quy định đối với lục thân, là lấy ngũ hành nhật can ở bát tự định nghĩa ở dưới trạng thái cân bằng là lý tưởng. Còn ngũ hành mệnh cục thực tế, hoàn toàn là thiếu cân bằng. Hơn nữa, bát tự thuộc về cân bằng lưu thông, bất cứ cái gì ở trong đó - hành đều là lực tranh giành khiến cho xu hướng kim, mộc, thủy, hỏa, thổ cân bằng, hoặc khiến cho xu hướng mệnh cục sống động ở một loại, ở trạng thái thuần khiết. Đây là ngũ hành trời phú cho con người, ứng biến hóa thuận theo bốn mùa là quy luật tất nhiên. Lúc ở thân nhược, Tỉ Kiếp để bang phù, lúc thân vượng Quan Sát để chế thân, đều là giới tự nhiên sẽ tự nhiên điều tiết. Cho nên, thân nhược lấy Tỉ Kiếp làm anh em chị em, thân vượng phải lấy Quan Sát làm anh em chị em (lý do xem kĩ thấy ở các tư liệu khác). Về phần thân thái nhược lấy Tỉ Kiếp cộng thêm Ấn làm anh em chị em, hiển nhiên là bởi vì thân thái nhược và thân thiên nhược là có chỗ khác nhau. Không có khó lý giải lúc nhật can thái nhược, Ấn, không chỉ có thể sinh Tỉ Kiếp trợ thân, mà còn có thể hóa tiết Quan Sát, khiến cho xu hướng nhật chủ thuộc về cân bằng tổng thể. Ngoài ra, lúc thân thái nhược, đến gần hợp cùng với nhật can, cũng là một loại trợ lực, cho nên còn phải bao gồm cả hợp.
    Nếu như độc giả đối với định luật ở trên còn cảm thấy hầu như mờ mịt, đó là bởi vì bạn còn không có lý giải đúng hàm nghĩa quy luật này. Bạn nắm đoán chuẩn số anh em chị em, thấy qua là đơn giản.
    Tục ngữ nói: "Không vào hang Hổ, làm sao bắt được Hổ con". Thời gian không phụ người có tấm lòng.

    Để lý giải tốt, mời độc giả trước tiên cẩn thận kiên nhẫn xem 10 điểm thuyết minh dưới đây:
    1, Đây là ở lúc đang nghiên cứu phán đoán một quy luật số anh em chị em của mệnh nam.
    2, Ở trong quy luật chữ "Bản thân", chính là Nhật can ở trong bát tự, hoặc gọi là Nhật chủ.
    3, Tỉ Kiếp, tức là cùng với ngũ hành của nhật can giống nhau là Tỉ kiên và Kiếp tài:
    4, Ấn, tức là Chính Ấn hoặc là Thiên Ấn ( Thiên Ấn còn gọi là Kiêu Ấn ) .
    5, Quan, Sát, tức là Chính Quan và Thất Sát của nhật can ( Thất Sát có thể gọi là Thiên cung ) .
    6, Bất luận chỗ tàng ẩn của địa chi, hoặc là chỗ thiên can thấu ra Ấn, Tỉ, Kiếp, Quan, Sát thậm chí Thực Thương cùng Tài tinh, đều có khả năng đại biểu là anh em chị em của mệnh chủ.
    7, Nạp âm, tức là chỉ nạp âm ngũ hành, như Giáp Tý, Ất Sửu, nạp âm là kim.
    8, Hợp, chuyên chỉ ngũ hợp hoặc địa chi lục hợp cùng đến gần với nhật can.
    9, Thân thái nhược, là chỉ mức độ ngũ hành cường hay nhược, nó so với trung hòa thiên nhược, suy nhược, nhưng so với cực nhược, thì phải mạnh hơn. Đa số thuộc về một loại trạng thái là thiên khô.
    10, Số anh em chị em, là chỉ số anh em ruột thịt chỗ có bào thai, bao gồm cả kết khí thành thai, mà chưa có ra đời cùng với bản thân là có ở bên trong.
    Sử dụng quy luật bên trên phương pháp trình tự là:
    1, Trước tiên xác định nhật can thực tế mức độ vượng suy.
    2, Lại từ mức độ vượng suy để xác định ngũ hành nào là đại biểu anh em chị em ruột thịt.
    3, Đếm rõ tất cả số ngũ hành đại biểu anh em chị em. Sử dụng đúng chỗ khó quy luật ở trên, là ở chỗ chuẩn xác mà phán đoán nhật can ở mức độ vượng suy. Ví dụ như, thái nhược vô căn, căn khinh và căn trọng, các loại mức độ thái nhược khác nhau (xem thêm bài văn Luận Thân Nhược ) " Độc giả ở trong quá trình học tập tìm kiếm quy luật ở trên, tốt nhất là theo mức độ vượng suy dễ dàng nắm bắt, đáp án thiên chân vạn xác là bắt đầu mệnh lệ thực tế. Vậy bạn đến đúng có thể nắm chắc chuẩn xác mức độ vượng suy, vận dụng quy luật này đoán chuẩn số anh em chị em của mệnh nam thì dễ như trở bàn tay.

    VD 1, Càn tạo: Sinh giờ Hợi, ngày 24, tháng 11, năm 1961 âm lịch (Nhằm ngày 31/12/1961). Đây là mệnh của Thái Tích Quỳnh tiên sinh.
    Tân Sửu ( Quý Tân Kỷ ) thổ: 4+2=6 số,
    Canh Tý ( Quý ) thủy: 4+1=5 số,
    Mậu Tuất ( Tân Đinh Mậu ) hỏa: 1 số
    Quý Hợi ( trong Hợi có Mậu Giáp Nhâm )
    Nhật can Mậu tức là " Bản thân". Giả thiết, qua tổng hợp phán đoán bạn cho rằng, Nhật can Mậu mức độ vượng suy thuộc về "Trung hòa hoặc là trung hòa thiên nhược" , là căn cứ quy luật 1: Thân trung hòa hoặc là trung hòa thiên nhược lấy Tỉ Kiếp ( bao gồm cả nạp âm ) làm anh em chị em; đếm ra trong 8 chữ của tứ trụ, biểu thị tất cả ngũ hành thổ là Tỉ kiên, Kiếp tài, tổng cộng có 6 số (trong Sửu có Kỷ thổ, trong Tuất có Mậu thổ, trong Hợi có Mậu thổ và nhật can Mậu thổ, lại thêm 2 trụ năm, trụ tháng nạp âm thổ trọng) . Thì bạn có thể phê đoán anh em chị em mệnh chủ tổng cộng là có 6 người. Giả thiết, qua tổng hợp phán đoán bạn cho rằng, nhật can Mậu thổ mức độ là thái nhược, thì căn cứ định luật 2: Thân thái nhược, lấy Ấn, Tỉ, Kiếp ( bao gồm cả nạp âm ) đều là anh em chị em, kiêm cả hợp. Cũng chính là ngoại trừ đếm ra ở trên ngũ hành 6 thổ, còn phải đếm số Ấn (tức là đếm số Đinh hỏa. Mậu và Quý hợp, cho nên ngũ hành thủy cũng là anh chị em, thủy ở trong bát tự, tổng cộng có 5 số. Cuối cùng làm thêm pháp cộng, 6( thổ )+1( hỏa )+5( thủy)=12, thì bạn có thể phê đoán số anh chị em của mệnh chủ là 12 người.
    Giả thiết, đã tổng hợp phán đoán nhật can Mậu mức độ là "Thân vượng", thì căn cứ định luật 3: Thân vượng (không phải là cực vượng) lấy Quan Sát ( bao gồm cả nạp âm ) là số anh em chị em; đếm số Quan Sát trong bát tự tứ trụ chỉ có ở trong Hợi là Giáp mộc và trụ ngày nạp âm là mộc, 1+1=2, thì bạn có thể đoán anh em chị em mệnh chủ là 2 người. Giả thiết, qua tổng hợp phán đoạn cho rằng mức độ nhật can Mậu là "Cực Vượng" hoặc là "Cực Nhược", thì căn cứ định luật 4: Thân cực vượng hoặc là cực nhược lấy Tỉ Kiếp làm anh em. Đếm số Tỉ Kiếp ở trong bát tự tức là đúng ngũ hành thổ tổng cộng có 4 số ( 3 Mậu, 1 Kỷ ), như vậy, thì bạn có thể phê đoán số anh chị em của mệnh chủ tổng cộng là có 4 người. Nếu như nói độc giả lười biếng chăm chú bỏ đi mức độ thực tế vượng suy phân tích nhật can Mậu thổ, như vậy, thì bạn không thể đoán chuẩn số anh em chị em của mệnh chủ được. Trích Thiên Tủy nói cho tôi biết rằng: Có thể biết chân cơ của Suy Vượng, mới biết áo bí của Tam Mệnh. Nói cho độc giả biết, thời gian sinh ra của mệnh chủ này tuyệt đối chuẩn xác, số anh em chị em, cũng tuyệt đối chính xác. Thực tế anh em ruột có 12 bào thai, trước đại ca chết yểu hết 3 người, sau đại ca, lão tam, lão ngũ chết yểu, hiện chỉ còn có 4 anh em, 3 chị em, bản thân là em trai út.
    Có người hỏi: Bạn ở đây chỗ dựa theo quy luật nói phía sau cộng thêm "Ngược lại cũng thành lập" là ý tứ như thế nào ?
    Đáp rằng: Ví dụ như bát tự ở trên: Tân Sửu, Canh Tý, Mậu Tuất, Quý Hợi, lúc gặp phải rất khó phán đoán khi mức độ nhược, có thể sử dụng trong bát tự: Ấn + Tỉ Kiếp + Hợp được thủy = tổng số 12, vừa đúng hợp với hiện thực số anh em chị em, chứng minh nhật can hẳn phải thuộc về quy tắc "Thái nhược", chỗ này tức là "Phép phản chứng số anh em".
    Có người hỏi: Chỗ này số anh chị em mệnh chủ khẳng định là 12 người, như vậy, những người khác ở trong bát tự chỗ anh em ruột của mệnh chủ . Cũng là phủ - định có tin tức chuẩn xác là 12 người chứ?
    Đáp: Nữ mệnh thì không thuộc loại này. Ví dụ 1 có 3 anh cả bát tự phân biệt như dưới đây, làm vấn đề thuyết minh, chúng ta đừng ngại xem đây là ví dụ cùng mọi người - khởi để phân tích tham thảo.

    VD 2,
    Càn tạo : Nhâm Ngọ, Quý Mão, Mậu Dần, Nhâm Tuất
    Thổ: 4+2=5 số,
    Hỏa: 3 số,
    Thủy: 3+1=4 số.
    Nam mệnh này, Nhật can Mậu sinh ở tháng Mão nơi Tử địa, còn bị tọa dưới Dần mộc khắc. May mắn sinh gặp giờ Tuất, làm cho nhật chủ lập ổn căn cứ. Chi năm Ngọ hỏa coi như cùng với Dần, Tuất hợp cục; nhưng hợp mà không hóa, Tuất lại bị Dần Mão trọng khắc. Lại có thiên can Nhâm, Quý thủy Tài tinh tam thấu làm hao thân, cho nên tổng hợp phán đoán nhật chủ cũng là thái nhược.
    Căn cứ quy luật 2: Thái nhược thì lấy Ấn và Tỉ Kiếp làm anh em chị em, kiêm cả hợp.
    Đếm ngũ hành thổ ở trong bát tự, có 5 số ( bao gồm cả nạp âm thổ ), hỏa có 3 số. Mậu và Quý hợp, thủy ngũ hành cũng là anh chị em, hoàn toàn có 4 số ( bao gồm cả Nhâm Tuất nạp âm là thủy ), tổng cộng có 12 số, vừa đúng anh em chị em có 12 người, thực tế hiện còn 7 người, trước mắt mệnh chủ tổn mất 3 người, sau đó tổn mất 2 người, là lão đại.
    Càn tạo : Kỷ Sửu, Giáp Tuất, Quý Dậu, Bính Thìn
    Nhật can Quý sinh ở tháng Tuất, được tọa dưới Dậu kim sinh thân, ngoại trừ chỗ này, thiên địa đều là một khối khắc tiết hao, tổng hợp phán đoán, Quý nhật can thực tế vượng suy, cũng là ở mức độ thái nhược. Căn cứ quy luật 2: Thái nhược, lấy Ấn và Tỉ Kiếp làm anh em chị em ( bao gồm cả nạp âm ), kiêm cả hợp. Cho nên, thủy, kim, còn có thổ (chỗ Thìn Dậu là tương hợp) đều là anh em chị em của mệnh chủ, số thủy có 3 số, kim có 3+1 = 4 số, thổ có 4+1=5 số, tổng cộng 12 số. Vừa đúng chính là anh em chị em của nhật chủ.
    Càn tạo : Quý Tị, Nhâm Tuất, Đinh Mùi, Tân Hợi
    Nam mệnh này, Nhật can Đinh hỏa, sinh ở trước Lập Đông 4 ngày, đúng lúc đang Mậu thổ nắm quyền. Đinh hỏa nhập mộ địa, còn có tọa dưới Mùi thổ tiết thân, bát tự thiên can là khắc hao hết. Tổng hợp phán đoán, nhật chủ thái nhược. Tra ra là quy luật 2: Lấy Ấn và Tỉ Kiếp làm anh em chị em, kiêm cả hợp. Như vậy thủy, mộc, hỏa đều là huynh đệ, trong bát tự đếm được hỏa là 4 số, mộc 2 số, thủy 6 số, tổng cộng là 12 số, thực tế anh em chị em có 12 người, hiện chỉ còn 7 người.
    Bên trên ví dụ 2 trong ①②③ đều là anh chị em ruột ở ví dụ 1. Trong bát tự đều phản ánh ra có anh chị em là 12 người, tin tức còn sống là 7 người. (Có thể thấy, con người hợp bát tự đích xác là có quy luật, đối với quy luật tự nhiên này, con người có thể đi tìm kiếm nó, tổng kết nó, từ đó lấy được càng nhiều gợi ý hữu ích) . Bởi vì được "Lấy thông căn nhiều ít và thấu can nhiều ít" để phán định ảnh hưởng tập quán vượng suy, rất nhiều độc giả không đồng ý tôi đối với bát tự Tân Sửu, Canh Tý, Mậu Tuất, Quý Hợi và Nhâm Ngọ, Quý Mão, Mậu Dần, Nhâm Tuất định phép xem là thân thái nhược, đối với vấn đề này, độc giả có thể tham khảo luận văn Luận Thân Nhược . Bởi vì phán đoán nhật can mức độ vượng suy thực tế, thuộc về vấn đề rất khó khăn. Ở đây một lúc nói cũng không rõ, cho nên độc giả còn cần phải, tạm thời trở lại vấn đề chính của chúng ta. Là thuyết minh tính chính xác quy luật ở bên trên.
    Lại xem ví dụ:
    VD 3, Càn tạo: Giáp Ngọ, Nhâm Thân, Kỷ Mùi, Ất Hợi ( Mậu Giáp Nhâm ) thổ: 5 số. Nam mệnh này, có nhật can Kỷ thổ sinh ở tháng Thân sau Lập Thu 18 ngày, chính là gặp Canh kim nắm quyền, có lực tiết nhật chủ, là đất bệnh của nhật can. Tuy có tọa ở dưới Mùi thổ cường căn và chi năm Ngọ hỏa chăm sóc, tiếc rằng thiên can không thấu ra Ấn Tỉ, lại thấu ra vượng Tài sinh Quan Sát, lại có Hợi ở địa chi trụ giờ, khiến cho bát tự có xu hướng ở Tài Quan, cho nên thuộc về mức độ vượng suy là thân thiên nhược. Tra quy luật 1: Thân nhược lấy Tỉ Kiếp làm anh em chị em. Trong bát tự số có được 3 Kỷ thổ, 2 Mậu thổ, tổng cộng Tỉ Kiếp có 5 số, mệnh chủ vừa đúng còn có 3 anh em trai 1 em gái tổng cộng là 4 người, lại tổn 1 bào thai.

    Càn tạo: Bính Thân, Kỷ Hợi, Bính Ngọ, Mậu Tuất
    Hỏa: 4+1=5 số,
    Nam mệnh này, nhật chủ Bính hỏa sinh ở tháng Hợi là đất tử tuyệt. Tuy có tọa dưới Ngọ hỏa, can năm thấu hỏa bang thân, nhưng can tháng, giờ thấu ra Mậu Kỷ thổ tiết thân. Tổng hợp phán đoán nhật can cuối cùng là thiên nhược. Căn cứ định luật 1, thân thiên nhược lấy Tỉ Kiếp làm anh em chị em. Đến trong bát tự được 2 Bính, 2 Đinh cộng thêm nạp âm Bính Thân là Sơn Hạ hỏa tổng cộng là 5 số, Bính Thân nạp âm hỏa là chỗ khắc của Hợi thủy, Đinh hỏa là em gái, vừa đúng là 3 anh em trai và 1 em gái, tổn mất 1 người.
    Càn tạo : Nhâm Dần, Giáp Thìn, Bính Thân, Quý Tị
    Hỏa: 3+2=5 số.
    Nam mệnh này, nhật nguyên Bính hỏa sinh ở trước Lập Hạ 6 ngày, chính là gặp Mậu thổ nắm quyền, là đất tiết nhật chủ, năm giờ thấu ra 2 Quan Sát, 1 Giáp mộc Ấn tinh khó mà hóa hết. Cho nên, tổng hợp phán đoán mệnh chủ cuối cùng là thiên nhược. Đồng dạng thích hợp quy luật 1: Thân trung hòa hoặc trung hòa thiên nhược, lấy Tỉ Kiếp làm anh em chị em. Đếm Bính hỏa trong Dần, Tị, nạp âm Giáp Thìn, Bính Thân hỏa tổng cộng là 5 số, thực tế anh em mệnh chủ có 5 thai tổn mất 1.
    Ba mệnh lệ ở bên trên cũng là ba anh em trong một nhà, điều tra mẹ của 3 mệnh trên, bà ta nói với tôi, bà sinh có 5 thai, tổn 1, còn lại 3 người con trai, 1 người con gái. Đến đây, độc giả còn không muốn nóng lòng lấy ra bản thân hoặc là mệnh lệ xung quanh để đối ứng. Ở đây trước hết nghe tôi nói một đoạn bài hát nhỏ. Nói ra nhật nguyệt không có màu ánh sáng, sau khi tôi hiểu được vận dụng nạp âm tính toán số anh em chị em, lão sư lấy ra rất nhiều ví dụ tương quan để kiểm tra tôi. Một lần, tôi mở miệng ra đáp liền 3 ví dụ, lại còn không có sai phạm. Tôi cao hứng, người lộ ra có chút lâng lâng. Ai dè vừa lại gặp một khách hàng đến xin dự trắc, người khách muốn tôi xem cho anh ta là có anh em ruột thịt nhiều hay ít.

    Càn tạo: Đinh Dậu, Quý Mão, Canh Dần, Canh Thìn
    Kim: 3+2=5 số,
    Thổ: 2 số,
    Mộc: 3+1=4 số.
    Tôi xem thân thái nhược, lấy Ấn và Tỉ Kiếp làm anh em chị em, đếm được trong bát tự kim có 5 (chính ngũ hành cộng thêm 2 nạp âm ), thổ có 2, tôi nói tổng cộng có 7 anh chị em. Người khách không có một phản ứng nào, ngẩng đầu lại nhìn Bành lão sư. Tôi hỏi Bành lão sư là không phải 7 người à. Lão sư khẳng định nói "Hiện còn 6 người, mất 5 người, anh em tổng cộng có 11 thai." Người khách kích động đứng dậy, duỗi thẳng ngón tay cái, "Lão tiên sinh quả nhiên như thần, chỗ đoán một điểm cũng không sai, chính là 11 thai tổn mất 5, bằng chứng điểm này, tôi không uổng phí đi đến đây gặp." Sau đó tôi hỏi làm sao đoán được, ông ấy nói "Hợp hóa" so với nạp âm càng hay, bất quá lúc vận dụng là có khó khăn.
    + Thứ nhất: Tất phải cần chú ý mức độ nhật can vượng suy.
    + Thứ hai: Phàm là ngũ hành can chi cùng với trụ ngày tương hợp ( giới hạn ở ngũ hợp, lục hợp ) cũng là anh em chị em. Ví như càn tạo này, nhật can Canh và can giờ Canh kim dung hợp (thấy ở tiết 2, chương 1 " Đặc điểm dung hợp " ) chân thần nguyệt lệnh Ất mộc thông qua trụ giờ cùng với Canh tương hợp, hóa thần cũng là kim là anh em chị em, cho nên trong bát tự ngũ hành có 4 mộc cũng là anh em ruột hoặc là chị em ruột. Bạn nắm tính toán 7 người lại cộng thêm 4 chính là vừa đúng 11 người. Tiếp theo ông ấy lại nói mệnh lệ dưới đây.
    Càn tạo: Kỷ Sửu, Giáp Tuất, Quý Dậu, Bính Thìn.
    Thủy: 3 số, kim 3+1=4 số, thổ: 4+1=5 số. Nhật can Quý thủy thuộc về thái nhược, lấy Ấn, Tỉ, Kiếp làm anh em chị em kiêm cả hợp, phép nhìn kiêm thế nào chứ? Chính là phải xem rõ, chi ngày Dậu và chi giờ Thìn thổ tương hợp, hóa thần là kim. Cho nên trong bát tự ngũ hành có 5 thổ (4 chính +1 nạp âm ) cũng là anh em trai hoặc là chị em gái, đem cộng thêm được tổng số là 12. Đây là bí quyết hơn mười mấy năm qua bí mật mà không truyền, cần phải thận trọng mà nhớ vậy.
    Sau cùng ông ấy giảng đến ở dưới đây phép xem lúc anh em chị em của bát tự thân vượng, hạ thấp giọng lại, vì sợ người khác nghe thấy.

    VD 4, Càn tạo : Đinh Dậu, Tân Hợi, Quý Tị, Bính Thìn
    Thổ: 2+1=3 số (Trong Hợi có Mậu Giáp Nhâm )
    Mệnh nam này có nhật can Quý thủy sinh ở tháng Hợi đắc lệnh, lại có Tân kim lấy Dậu làm căn thấu ra ở can tháng, trụ giờ có Thìn là thấp thổ, khiến cho hối hỏa sinh kim, kim có thể sinh thủy, cho nên thân nhật chủ thiên vượng. Căn cứ định luật 3: thân vượng lấy Quan Sát làm anh em chị em, đếm trong Tị có Mậu thổ, trong Hợi, Mậu thổ trong Thìn, nạp âm trụ giờ tổng cộng có 4 số, vừa đúng mệnh chủ còn anh em trai 3 người, tổn mất 1 em gái chết. Thân vượng lấy Quan Sát làm anh em trai càng là bí mật trong bí mật, lão sư tiết lộ ra thiên cơ này, là vì để cho tôi hiểu rõ hơn mà nghiên cứu phép này.

    Rất nhiều người nói ở thời kỳ mới việc đoán anh em chị em là không chuẩn, bởi vì đã bị kế hoạch hóa gia đình khống chế, đại đa số con người chỉ sinh có một, không cần phải suy đoán. Thực tế cũng không phải vậy. Trước mắt ngay từ đầu tác giả đã nói qua, suy đoán số anh em chị em không phải là mục đích luận mệnh, mấu chốt là thông qua để nhìn một chút hiện thực rõ ràng xem vận mệnh rốt cuộc là có hay không có quy luật, anh em chị em ở thời kỳ đổi mới rõ ràng là có xu hướng giảm đi, như vậy, tùy tiện lựa chọn mệnh tạo người bên cạnh, chỉ cần có thể nắm vững đúng được mức độ thân vượng, thân suy, vận dụng 4 định luật lớn ở bên trên, vậy là có thể đoán chuẩn số anh em chị em người thời nay. Cho dù là nguyên nhân bởi vì kế hoạch hóa gia đình, trong bát tự cũng không khỏi buộc dấu ấn ở bên trên. Như địa chi mang loại hình, bởi vì hành vi con người cũng thuộc về quy luật một bộ phận chứng cứ ở thế giới tự nhiên, nhất định phải chịu sự chi phối của giới tự nhiên. Cải tạo bản thân nhân loại cũng là cải tạo giới tự nhiên, cho nên cũng không thể thoát khỏi sự điều tiết tự nhiên của giới tự nhiên.
    VD 5, Càn tạo:
    Bính Dần, Bính Thân, Bính Ngọ, Giáp Ngọ
    Thủy: 1+1=2 số;
    Ất Hợi, Giáp Thân, Giáp Ngọ, Bính Dần
    Kim: 1+1=2 số;
    Mệnh nam có nhật can Bính sinh ở nguyệt lệnh xứ tử địa, mặc dù bát tự nhiều hỏa, cũng chỉ là thân cường vượng, không phải cực vượng. Cho nên, căn cứ như cũ ở định luật 3: lấy Quan Sát thủy làm anh em, đếm Nhâm thủy ở trong Thân, Bính Ngọ nạp âm là Thiên Hà thủy (nhưng không có thổ khắc) cộng là 2 số, cho nên anh em mệnh chủ có 2 người ( thực tế là một đôi song bào thai ) .
    Mệnh nam có thân vượng lấy kim là anh em, nạp âm kim bị khắc, cho nên chỉ còn một bản thân nhật chủ.
    VD 6, Càn tạo : Kỷ Mùi, Giáp Tuất, Nhâm Tuất, Quý Mão
    Thủy: 2 số ( chính ngũ hành )
    Mệnh nam này có thân cực nhược, căn cứ ở quy luật 4: Lấy thiên can Tỉ Kiếp làm anh em, cho nên mệnh anh em chị em ứng là 2 số, thực tế mệnh chủ có anh em 2 người.
    VD 7, Càn tạo : Giáp Thìn, Mậu Thìn, Giáp Dần, Bính Dần
    Mộc: 6 số ( chính ngũ hành )
    Mệnh nam này, có nhật can Giáp mộc sinh ở mùa Xuân, toàn cục không có kim, lại có ngày giờ tọa lộc và quy lộc, thân cực vượng, thuộc cách thành chuyên vượng. Căn cứ định lý 4: Cực vượng lấy Tỉ Kiếp làm anh em chị em, đếm trong bát tự chính ngũ hành mộc có 6 số, vừa đúng mệnh chủ có 6 bào thai anh em ruột thịt, 5 anh em trai và 1 em gái. Tượng loại mệnh cục này, ở hiện thời giai đoạn kế hoạch hóa gia đình xuất hiện rất nhiều cục chuyên vượng, tại sao số anh em chị em lại rất ít chứ ? Thực tế đa số cho rằng nguyên nhân hợp hoặc xung hoặc hình, các loại tổ hợp đặc thù, hoặc là phá cách. Bởi vì độc giả mới quen tới những loại quy luật này, theo tác giả nhận định trong thực tiễn còn có lúc dự trắc không chuẩn, nhưng không ngoài ở hai loại tình huống dưới đây:
    1, Đối phương bản thân ( mệnh chủ ) cũng không biết rõ anh em ruột thịt của bản thân mình;
    2, Nắm không chuẩn mức độ vượng suy của nhật can mệnh chủ; sau cùng thuận tiện nói câu, số anh em chị em của nữ mệnh cũng có quy luật, nhưng so cùng với nam mệnh phức tạp hơn và khó phán đoán. Độc giả nếu có cao kiến, có thể gửi thư cùng nhau tham khảo. (Nhớ: Trong hiện thực, bát tự thân vượng mà không có Quan Sát, như: Quý Tị, Nhâm Tuất, Mậu Thân, Mậu Ngọ, cùng bát tự có Ấn vượng thân khinh, là nhiều, phép xem số anh em chị em nói thẳng là không khó, khó là phán đoán bát tự ở mức độ vượng suy. Tương quan với nội dung này, ở sau Tư liệu hàm thụ của Thái Tích Quỳnh tứ trụ công khai, học giả thông thạo nắm vững kỹ xảo này, luôn luôn là lá cở đầu trong thực chiến chuyên môn. )
    3) Biết anh em chị em nhiều hay ít, Thân vượng vô Quan tàng kỳ diệu

    Trong bản chính Mệnh lý Huyền cơ tham bí luận thuật đối với số anh em chị em ruột thịt có nói rất kĩ, tiếc là đạo bản biên tập làm mất rất nhiều nội dung trọng yếu. Trong đó có một loại hình như dưới đây: Thân vượng không có Quan Sát, tất lấy Thực Thương làm anh em chị em.

    Càn tạo: Quý Mão, Canh Thân, Canh Tý, Giáp Thân
    Đây là bát tự thân vượng rất rõ ràng, nếu như trong bát tự có Quan Sát, thì lấy Quan Sát làm anh em chị em. Hiện tại trong bát tự người này không có Quan Sát (ngũ hành hỏa là Quan Sát), như vậy, chẳng lẻ nói không có anh em chị em sao? Không phải. Đúng ngũ hành đại biểu anh em chị em là Thực Thương (Thủy là Thực Thương). Đếm số ngũ hành Thủy ở trong bát tự, trụ năm có 1 Quý thủy, trụ tháng trong Thân có Nhâm thủy, chi ngày trong Tý có Quý thủy, trụ giờ trong Thân có Nhâm thủy, lại thêm Giáp Thân nạp âm là Tỉnh Tuyền thủy tất cả là 5 thủy. Tạo này là tôi lần đầu tiên phê đoán, tôi đoán mệnh chủ có 5 thai tổn mất 1, …, rất chuẩn xác sau đó lại muốn tôi tường phê một ví dụ. Tại sao lại tổn mất 1, còn xem ra là 1 lão đại? Thực ra nói ra là rất đơn giản. Tổn chính là do Giáp Thân nạp âm thủy, hai bên Canh Tý Bích Thượng Thổ khắc mất nạp âm thủy này, bởi vì Giáp Thân là lão đại.

    VD 2, Khôn tạo: Bính Tuất, Quý Tị, Mậu Thân, Mậu Ngọ cùng với VD 1 là một dạng, Thân vượng không có Quan Sát. Lấy Thực Thương kim làm anh em chị em, trong trụ chỉ có 3 kim, mệnh chủ trả lời có 3 anh em, tổn mất một em trai.
    VD 3, Càn tạo: Quý Tị, Nhâm Tuất, Mậu Thân, Mậu Ngọ cùng với VD 2 càng giống, là thân vượng không có Quan Sát, có 3 Thực Thương tinh, vừa đúng anh em có 3 người.

    Phán đoán số lượng liên quan với lục thân, trước mắt chỉ phát hiện Mệnh Lý huyền cơ tham bí luận đoán định lượng số anh em ruột thịt gần với khoa học. Trong thực chiến nhất định có nắm chắc chắn. Ở đây giới thiệu một loại phương pháp thực chiến, ở trong thực chiến muốn đoán thần chuẩn, nó có một tiền đề, đó chính là nhất định trước tiên phải định chuẩn cho mức độ bát tự vượng suy. Bát tự nam mệnh, ở trên mức độ vượng suy, thân thái nhược cùng thân trung hòa thiên nhược phân biệt rất nhỏ, trong thực chiến phán đoán rất khó đúng, bởi vì tình huống suy đoán chuẩn xác còn ảnh hưởng lục thân. Sự thực hay nhất, có lúc cũng không nhất định yêu cầu bạn đi tìm thật tỉ mĩ mà phân tích bình đoán, ví dụ như bạn biết người có tầng thứ không thấp, thì có thể trực tiếp phán đoán nó chỉ có thể là trung hòa thiên nhược, mà không có thể là thái nhược. Bởi vì người thái nhược có tầng thứ đa số là rất thấp, cùng với thân phận là không phù hợp.
     
  15. Mạnh Nhân

    Mạnh Nhân Thần Tài

    Chương 2, Làm sao nắm chắc Vượng Suy

    Cổ nhân sáng lập mệnh học, không có tiếp thu chân thật tách rời con người ra khỏi thế giới tự nhiên. Như Hạ Hỏa viêm viêm, Thu Hoàng kim thực, Xuân Mộc phồn vinh, Điểu Ngữ hoa hương, Đông Thủy ngưng hàn, Bách Triết hưu miên. Hiền triết thời xưa, bọn họ sử dụng trí tuệ, những việc này thực tế là hiện tượng tự nhiên, đã qua tổng kết, trừu tượng ra ngũ hành, bát quái. Cũng cho rằng diễn biến con người cùng với tất cả sự vật, đều không ly khai khỏi tác dụng tương hỗ giữa ngũ hành với nhau. Như mộc thì vượng ở mùa Xuân, mộc ở mùa Xuân, tác dụng thủy thổ ở ngày cuối tháng, sinh trưởng mạnh mẽ; sau Lập Đông, mộc được thủy sinh, Hợi thủy không nhiều, cho nên mộc trường sinh ở Hợi. Mùa Hạ hỏa táo, hỏa viêm tiết mộc, bên ngoài tuy là phồn thịnh, bên trong lại là hư nhược. Âm dương (khí và chất) nhị mộc, đúng là tồn tại rực rỡ. Gió Thu xơ xát tiêu điều, tựa như búa như đao, mộc bị phá hại, cho nên là đất tử tuyệt. Ví dụ như mộc loại vượng tướng hưu tù, đều là con người cảm nhận rõ ràng đối với giới tự nhiên. Còn lại các loại ngũ hành khác cũng giống như vậy. Đem những cái này tiếp thu toàn bộ rút ra khai thác, phân thành loại, thì đạt được 10 thiên can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý và 12 địa chi: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Cùng ở trong thực tiễn, lần lượt tìm kiếm quy luật vượng tướng hưu tù tử, cùng lúc chúng nó sinh khắc chế hóa tương hỗ nhau cùng loại hình xung hợp hại thành quy luật phổ biến và quy luật đặc thù. Phát triển đến ngày nay, cho nên trở thành có đủ hệ thống nhất định thuyết Mệnh Lý học. Ở trong thuật ngũ hành Mệnh Lý học, phải chuẩn xác mà suy đoán cát hung con người, thì tất phải cần nắm chắc chuẩn xác tất cả ngũ hành vượng suy trong mệnh cục. Phải nắm chắc chuẩn xác ngũ hành bát tự vượng suy, có điều vừa phải nhất định hiểu rõ quy luật đối với ngũ hành vượng suy. Nhớ kỹ ngay từ đầu lúc tôi tiếp cận kính yêu lão sư học mệnh, lão sư chỉ ra câu nói liền nhắc nhỡ tôi "Nhất định phải tinh thông ngũ hành vượng suy" . Sau này chứng thực thực tiễn câu nói chí lý của lão sư.

    Tiết 1, Chân cơ Ngũ hành điên đảo

    1, Luận biến lý Vượng Suy
    (Ở đây theo chỗ nói vượng suy, là lấy Trích Thiên Tủy làm bản gốc, từ cường đến nhược nghiên cứu chia làm cực vượng, thái vượng, thiên vượng, trung hòa, thiên nhược, thái nhược, cực nhược phân ra làm 3 lớn 9 nhỏ, trung hòa là bao quát cả thiên thượng và thiên hạ) chỉ có bản thân lĩnh hội Bành lão suy đoán thần diệu, mới có thể tin tưởng ông ấy đối với mức độ vượng suy nắm chắc mức độ đến độ tinh xác vô cùng, ông ấy nói " Thầy thuốc biết bệnh nhân sốt cao, tại sao vẫn còn sử dụng máy đo nhiệt độ chứ? Hiển nhiên là thầy thuốc phải biết bệnh nhân bị thiêu đốt đến mức độ nào, chỉ có biết mức độ thiêu đốt này, mới có biện pháp. Chúng ta phải phán đoán mỗi ngũ hành bát tự mức độ vượng suy cũng là cái đạo lý này vậy." " Kinh nghiệm cổ nhân là sử dụng Quyết 12 cung Trường sinh để xem xứ ngũ hành ở trạng thái nào. Nhưng chỉ sử dụng loại biện pháp này xác thực là vẫn hoàn toàn không thể nắm chắc mức độ vượng suy để phán định chuẩn xác. Bởi vì năm, tháng, giờ của mỗi chữ đối với toàn bộ ngũ hành mệnh cục, cũng đều có ảnh hưởng, huống chi hiện tại con người lại đem 12 cung này làm cho lượt ngày như nhau." "Thân vượng, thân suy" đây là trước đây tôi quen sử dụng bát tự để phân tích kết luận. Hiện tại mới rõ kết luận vượng suy như vậy là rất không có chặt chẽ. Nhất định cần phải phân rõ vượng là đến mức độ nào, suy là đến mức độ nào, hoặc là ở trạng thái trung hòa. Bởi vì ngũ hành bát tự vượng suy vừa có thường lý, cũng vừa có biến lý.
    Nguyên chúTrích Thiên Tủy : Vượng thì nên tiết nên thương, suy thì hỉ bang hỉ trợ. Đây chỉ là thường lý, nếu như ở chỗ vượng suy trong biến lý cũng chỉ nói "Thân vượng", thì sẽ xuất hiện vừa "Nên tiết nên thương" lại vừa "không nên tiết không nên thương" hoặc là "Chỉ nên tiết không nên thương" thì kết quả là mâu thuẫn. Lão sư đã từng có chỉ ra lời nói sắc bén rằng: "Cổ nhân chính là vì phân rõ nhật can ở chỗ trạng thái nguyệt lệnh vượng suy như thế nào mới thiết lập ra 12 cung Trường sinh, người hiện đại sử dụng không đúng, cũng không tiện dùng đúng, người hiện đại ở trên sách hiện đại, luôn miệng mà nói "Thân vượng, thân suy", dùng khái niệm này mơ hồ không rõ để khiến cho con người không thông suốt, làm cho con người mê muội, làm cho con người sáng tỏ." Cũng như một bộ phận độc giả, học tập tôi biết ngũ hành, một khoảng thời gian rất lâu, vẫn còn hạn chế ở trong "Ngũ hành tối hỉ cân bằng, phải định trung hòa bát tự" đây cũng chỉ là thường lý, đối với mệnh cục ngũ hành kim mộc thủy hỏa thổ không có thể trung hòa, nói thật chính xác là không thể tồn tại. Tất nhiên, có thường lý thì phải có biến lý. Lão sư đã từng nói với tôi rằng: "Thường lý và biến lý cũng là đối với âm dương, không biết biến lý thì không thể tiến vào cửa đạo âm dương." Chỗ nói biến lý vượng suy: Chính là chỉ ở trong mệnh cục đặc thù, một chút ngũ hành ở xa lệch ra khỏi quỹ đạo mức độ trung hòa, đối với loại ngũ hành này, nhất thiết phải áp dụng biện pháp đặc thù để xử lý. Hoặc là nói: "Trung hòa cân bằng" là thường lý, xa lệch khỏi quỹ đạo trung hòa, cũng chính là vượt ra khỏi quỹ đạo thường lý, như vậy, thì nó là không phải thường lý, tất phải là biến lý. Ví dụ như, hỏa thái vượng, thì chúng ta không thể sai lầm lý giải chỗ cổ nhân nói "Nên tiết nên thương"; hỏa thái nhược, chúng ta cũng không thể tùy tiện nói là "Hỉ bang hỉ trợ" . Nhớ là ý tứ của cổ nhân, trung hòa chính là chỉ ra các loại ngũ hành tương đối ở trạng thái cân bằng. Hai loại thiên vượng, thiên nhược ở mức độ vượng suy cũng đều là tương đối trung hòa mà nói, hai loại thiên lệch này, đều là có thể tu bổ trạng thái thiên lệch đến trung hòa. Cho nên thiên vượng ( hoặc là thiên cường), thiên nhược, hẳn phải trở lại thuộc về trung hòa, chỗ này là phạm vi vượng suy.

    Thực tiễn kiểm nghiệm, mệnh cục thiên vượng và thiên nhược, và mệnh cục trung hòa cân bằng thì chúng nó cùng có một điểm giống nhau. Trong hiện thực, tồn tại ngũ hành so sánh thiên vượng vẫn phải vượng, hoặc là so sánh thiên nhược vẫn phải nhược, chỗ này phải gọi nó là thái vượng hoặc là thái nhược. Thái vượng hoặc là thái nhược, thông thường là khó mà đạt đến trạng thái trung hòa. Chính là bởi vì nó rất khó đạt đến trung hòa, như vậy thì không thể sử dụng biện pháp thông thường là "Tổn kỳ hữu dư bổ kỳ bất túc" để xử lý. Ví dụ như mộc thái Vượng, rất thích hỏa, mộc thái vượng, thấy kim trái lại là làm cho kim khuyết. Nếu như có người nói, nguyên nhân Mộc thái vượng hỉ hỏa, là lấy hỏa tiết mộc mà nói đạt đến cân bằng, như vậy xin hỏi, đang lúc mộc cực vượng, nên sử dụng thủy lại là đạt đến mục đích gì chứ? Biện pháp xử lý mệnh thái vượng, thái nhược, cực vượng hay cực nhược đều là sử dụng biến lý. Biến lý thì là không thể sử dụng tư duy thường lý đi phân tích. Rất nhiều người đều sẽ nói mệnh học cũng là từ trong Dịch học phát triển mà ra, như vậy, biến lý của vượng suy cũng có thể nói chính là một loại Biến Dịch. Không thể vận dụng lý giải, chỗ biến lý này, coi như là hiểu Dịch sao ? Ngũ hành so với thái vượng vẫn phải vượng, so với thái suy vẫn phải suy, chúng ta phân biệt gọi nó là cực vượng, cực suy. Mặc dù tôi nói loại thái vượng và cực vượng, đều thuộc về phạm vi biến lý vượng suy, nhưng cũng không phải là nói chính là bọn nó biến lý. Thực tiễn kiểm nghiệm thì thái vượng rất thích tiết thuận, đối với nhật can mà nói chính là Thực Thương, còn cực vượng thì lại nên sinh phù, tức là dụng Ấn, dụng Thực Thương và dụng Ấn, hoàn toàn cả hai đều trái ngược. Tại sao như vậy? Nguyên là giữa thái vượng và cực vượng lại là biến ở trong biến. Thái suy và cực suy cũng giống như đạo lý này. Phải biết rõ biến lý vượng suy là những thứ rất là khó nhai, tốt nhất là trước tiên phải đọc chương Vượng Suy ở trong nguyên tác Trích Thiên Tủy .
    1. Sau này lại đọc thêm sách Ngũ Hành điên đảo chân cơ giản thích . Tôi đến nay đều không có cách nào miêu tả lão sư phán đoán đối với mức độ vượng suy rất tinh xác, chỉ biết ông ấy mỗi lần suy đoán kinh người, đều không ly khai giảng cứu đối với tất cả lực lượng ngũ hành trong bát tự. Để trợ giúp ông ấy ứng phó khách hàng thi nhau mà đến, đối với tôi biến lý vượng suy có lúc không có cách nào đi thâm nhập mà phân tích, bởi vì ông ấy dạy tôi một phương pháp rất đơn giản —— đó là Phép lưỡng phân.
    + Trạng thái Trung hòa: mức độ vượng suy thiên vượng, thiên nhược (thuộc về thường lý ) { Cách xa trạng thái trung hòa: Thái vượng, thái suy, cực vượng, cực suy (thuộc về biến lý ) cũng khéo léo nhắc tới, kể từ khi phân loại cái này, tôi lại cũng rất ít nói "Thân vượng, thân suy" nói những cái này là mơ hồ không rõ ràng. Có tư duy biến lý, suy đoán mệnh cục cũng dễ dàng đi rất nhiều. Một lần lão sư ra đề thi dưới đây hỏi mức độ nhật can vượng suy, số anh em chị em, vận tốt vận xấu.
    (Chú ý: Bát tự dưới đây là xếp dọc)
    Càn tạo:

    Nạp âm
    Tứ trụ
    Số ngũ hành
    Đại vận
    Kim Bạc Kim
    Nhâm Dần ( Giáp Bính Mậu )
    Thổ: 3+1=4 số
    Nhâm Tý
    Thoa xuyến kim
    Tân Hợi ( Mậu Giáp Nhâm )
    Kim: 3+2=5 số
    Quý Sửu
    Tang Chá mộc
    Nhâm Tý (Quý)
    Thủy: 5 số
    Giáp Dần
    Bích Thượng thổ
    Tân Sửu ( Quý Tân Kỷ )
    Mộc: 2+1=3 số
    Ất Mão
    Hỏa: 1 số
    Bính Thìn

    Tôi nói ra rất nhanh: thân thái vượng,
    Anh em chị em có 4 thai, ít nhất là tổn mất 1 người; Vận Ất Mão tốt nhất; vận Bính Thìn xấu nhất;
    Tại sao vậy ?
    Tôi cho rằng: Nhâm thủy sinh ở tháng Hợi, tọa dưới Dương Nhận cùng với chi giờ Sửu hội thành Bắc phương thủy cục, lại thiên can đều là kim thủy, đối với nhật can chỉ có sinh trợ. Nhưng bởi vì năm tháng có Dần Hợi hợp, ngày giờ có Tý Sửu hợp, cho nên cũng không thể là cực vượng (Nhớ: hiện tại tân phái tất là nói Tòng Cách), mà là thái vượng. Thổ là anh em, nạp âm thổ bị mộc khắc tất có người chết yểu. Thủy thái vượng tối hỉ mộc tiết, đại kỵ thổ khắc thủy, cho nên Sửu thổ là bệnh, Dần Hợi hợp là thủy sinh mộc làm dụng thần. Vận từ Bắc phương chuyển sang Đông cũng là lợi cho mộc, ức chế thổ, tất là quý mệnh. Trong đó, Mão vận Ất mộc khắc Sửu thổ rất có lực, đương nhiên Mão vận là tốt nhất. Vận Bính Thìn, hỏa thổ cùng đến thế nghịch với thủy vượng. Mệnh thư nói: Côn Lôn chi thủy khả thuận nhi bất khả nghịch, cho nên vận Bính Thìn là đại hung. Xem bát tự ngay trước mặt lão sư, thường là nhìn qua nét mặt của lão sư bản thân suy đoán là không sai lầm. Lần này nhìn nét mặt của lão sư, cơ bản là vừa ý. Ông ấy lại hỏi: Thời thần của bát tự này đổi thành cái gì là tốt nhất ? cái gì là xấu nhất? Đang lúc tôi vẫn còn không hiểu rõ trụ giờ, cho nên nhất thời không đáp lại, lão sư đắc ý mà nói: " Chính là giờ Sửu là tốt nhất, giờ Ất Tị là xấu nhất." Vừa tiếp xúc với biến lý vượng suy, trong thực tiễn, gặp đến thái vượng và cực vượng hoặc là thái nhược và cực nhược cần phải phân rõ giờ, thường là khiến cho tôi phát sầu. Do vậy, đối với trên mặt càn tạo này tôi cũng nắm lấy cơ hội hỏi lão sư " Bát tự này ở lúc nào mới có thể trở thành cực vượng chứ ? ", đang lúc lão sư có trả lời nói rất lớn, tôi đã được chỗ rất rõ ràng. Thiên về — khối kim thủy, đối với nhật can Nhâm thủy chỉ có sinh phù không có khắc tiết háo, đã có bộ phận điều kiện cực vượng, nhưng địa chi có Dần mộc, còn có Sửu thổ, bọn nó tất càng có thể tiết thủy khắc thủy, hai mà còn một thì không thể trở thành cực vượng, bát tự này mặc dù toàn cục là kim thủy, nhưng so với cực vượng thì còn kém khá xa. Bởi vì có tồn tại Dần ( trong Dần ám tàng Bính Mậu tính nghịch thủy), mệnh chủ này bất kể ngày hôm ấy sinh ra là giờ nào, đều không thể trở thành cực vượng. Đây là tiêu chuẩn phép xem loại này. Có người không chú trọng phân biệt thái vượng và cực vượng, ông ấy không chỉ nói sinh ở giờ Canh Tý là cực vượng, thậm chí đem nguyên là giờ Sửu mệnh tạo này cũng nói là cực vượng, như vậy là có biện phải gì. Cực vượng tục xưng là cục chuyên vượng, cục chuyên vượng có phân biệt thành cách và phá cách, cực vượng mà thành cách chuyên vượng chính là một loại thuần túy mà tượng trưng cao quý. Mệnh chủ có thể trở thành nhân vật cao quý trên xã hội, thì tinh thể giống như trong giới tự nhiên, cực vượng mà phá cách, thì tương đương như là hòn ngọc có tì vết nhỏ, nếu như có thể rửa sách vết nhơ, chạm khắc tinh luyện thì có thể phát đạt, biến thành tinh phẩm. Cũng bởi vì vậy một chút xíu không đủ mà không vào được cửa hàng tinh phẩm, giống như phế thạch ( hòn đá bị vứt đi) vậy.
    1. Càn tạo

    Tứ trụ
    Đại vận
    Nhâm Dần
    Nhâm Tý
    Nhâm Dần
    Tân Hợi
    Quý Sửu
    Tân Hợi
    Nhâm Tý
    Giáp Dần
    Nhâm Tý
    Tân Sửu
    Ất Mão
    Mậu Tuất
    Bính Thìn


    Tạo này sinh ở giờ Tân Sửu, cộng thêm chi năm Dần mộc (bên trong có tàng Bính Mậu ) tiết thủy, không có cách nào thủy trở thành cách chuyên vượng, chỉ lấy thái vượng mà luận. Sửu thổ hợp khắc Tý thủy tất nhiên không thể khiến cho mệnh cục đến mức độ là trung hòa, cho dù là giờ Mậu Tuất, nhật can Nhâm thủy cũng vẫn là thái vượng, bởi vì lực lượng trụ giờ cũng không giống như trụ tháng có lực (sau này sẽ có phần chuyên luận ), trái lại giờ Mậu Tuất khắc thủy càng tệ hại, trong bát tự lại rất khó mà khử mất Mậu Tuất, chỉ có giờ Sửu mới có thể hội thành thủy cục sinh mộc lại khắc Sửu thổ. Cho nên giờ Sửu là có bệnh mà được dược là giờ sinh tốt nhất. Đương nhiên chỗ giờ Sửu chỉ là đối lập quý tiện mà nói, nếu muốn trường thọ, giờ Sửu vừa là họa hoạn, bất kỳ một giờ tứ khố nào cũng đều là họa hoạn. Tóm lại, phải biết rõ áo diệu ở trong đó bạn còn phải nắm chắc thời gian học tập quy luật tổ hợp bát tự, đặc biệt là phải nắm chắc huyền cơ của trụ giờ.
    1. Có vị bạn hữu nhìn tay của tôi đưa tới bản thảo mệnh tạo dưới đây:

    ( Càn tạo sinh ở giờ Mão, ngày 14, tháng 10, năm 1962 )

    Tứ trụ
    Đại vận
    Nhâm Dần
    9 t, Nhâm Tý
    Tân Hợi
    19 t, Quý Sửu
    Nhâm Tý
    29 t, Giáp Dần
    Quý Mão
    39 t, Ất Mão
    49 t, Bính Thìn

    Tôi phán đoán:
    1, Là người mua bán;
    2, Không có con, không có vợ.
    Bạn hữu thừa nhận tôi phán đoán chính xác. Nhưng anh ta không hiểu rõ, phía trước càn tạo này, đã lấy dụng thần là mộc, như vậy, càn tạo này sinh ở giờ Mão, mộc không phải là càng vượng sao? Tôi đối với bạn hữu đều rất chân thành thẳng thắn, ở trường hợp này tôi tất nhiên có thể chân thành nói phép xem của tôi (thường lúc này tôi cũng bị bạn hữu dẫn dắt). Tôi cho rằng: Mệnh cục này cùng với tạo trước cùng dạng là thân thái vượng, nhưng tạo trước hội Hợi Tý Sửu Bắc phương thủy cục, ám trong Tân kim vẫn có thể khắc mộc, khiến cho nhật can Nhâm thủy có xu hướng về cực vượng cách cục thuần túy. Điểm mấu chốt ở đây là, thủy thái vượng, mục đích dụng mộc, cũng không phải là tiết thủy, mà là vì khơi động Sửu thổ, khiến cho thủy càng chảy sướng thông. Tạo này là giờ Mão, cùng với Dần tổ hợp âm dương sẽ khiến cho mộc ở trong nguyên cục biến thành cường, mộc vượng tiết thủy là lẽ tất nhiên. Như vậy, ý hướng của mộc khó khăn là đem nhật can Nhâm thủy hướng về trạng thái trung hòa chứ? Ở đây, thiên can một khối kim thủy, muốn kéo Nhâm thủy về trạng thái trung hòa, sao không phải lực lượng mộc lộ ra quá ít? Huống chi là trời lạnh đất đóng băng, mộc không thể phát vinh, tiết thủy cũng là không có lực. Thực tế tạo này mặc dù có thọ, nhưng ở trước lúc 59 tuổi chỉ là bình thường, tuyệt đối không có phát triển lớn. Năm giờ gặp Tuần Không, xem ra gia đình không có ngày nào yên lành. Bạn hữu nói, mệnh chủ mua bán rất không chặt chẽ, chi tiền theo học nghề y, học dịch, đã từng có xuất gia đầu Phật. Tôi lại bổ sung — câu nói: "Thân vượng không có Tài, dẫu là xuất gia khó mà thoát tục." (Nhớ: Xem tầng lớp con người, có thể tham khảo một tiết dưới đây "Từ mức độ mạnh yếu của dụng thần xem từ thấp đến cao")
    Giải thích tinh giản " Chân cơ Ngũ hành điên đảo"
    Trích Thiên Tủy nói: Có thể niết chân cơ Vượng Suy, áo diệu ở Tam Mệnh, là nhớ hơn phân nửa vậy. Tại sao nói "Biết chân cơ Suy Vượng"? Nhâm Thiết Tiều chú giải nói: Trường sinh Lộc Vượng, là căn trọng vậy, dư khí mộ khố, là căn khinh vậy; thiên can được 1 Tỉ kiên, không bằng địa chi được 1 dư khí mộ khố;... . Chỗ này đều là chỉ luận bên ngoài vượng suy, là dễ dàng vậy. Lý lẽ Tử bình nói: Vượng thì nên tiết nên thương, Suy thì hỉ bang hỉ trợ. Chỗ này đều là thường lý của vượng suy. Nhưng mà, trong Vượng cũng có tồn tại Suy, trong Suy cũng có tồn tại Vượng, tức là " Chân cơ ngũ hành điên đảo, học giả nên xem xét kĩ huyền diệu trong đó."
    Biến lý vượng suy, lý giải cũng không quá khó. Cụ thể nói, một loại phương pháp xử lý chính xác biến lý chính là đối với ngũ hành thái vượng, cực vượng, thái suy, cực suy.
    Nhâm Thiết Tiều tổng kết lý lẽ Điên đảo có 10 điều:
    + Mộc thái vượng mà giống như Kim, hỉ hỏa luyện vậy; mộc cực vượng mà giống như hỏa, hỉ thủy khắc vậy; hỏa thái vượng mà giống như thủy, hỉ thổ ngăn vậy; hỏa cực vượng mà giống như thổ, hỉ mộc khắc vậy; thổ thái vượng mà giống như mộc, hỉ kim khắc vậy; thổ cực vượng mà giống như thủy, hỉ thổ ngăn vậy; thủy thái vượng mà giống như thổ, hỉ mộc khắc vậy; thủy cực vượng mà giống như Mộc, hỉ kim khắc vậy;
    + Mộc thái suy mà giống như thủy vậy, cần kim để sinh, mộc cực suy mà giống như thổ vậy, cần hỏa để sinh; hỏa thái suy mà giống như mộc vậy, cần thủy để sinh; hỏa cực suy mà giống như kim vậy, cần thổ để sinh; thổ thái suy mà giống như hỏa vậy, cần mộc để sinh; thổ cực suy mà giống như thủy vậy, cần kim để sinh; kim thái suy mà giống như thổ vậy, cần hỏa để sinh; kim cực suy mà giống như mộc vậy, cần thủy để sinh; thủy thái suy mà giống như kim vậy, cần thổ để sinh; thủy cực suy mà giống như hỏa vậy; cần mộc để sinh. (Nhớ: Nguyên tác, là lấy thuộc về nội dung biến lý, hóa giải thành thường lý để lý luận, dụng tâm khổ nhọc, nhưng độc giả khá là khó hiểu)

    Dưới đây lấy ngũ hành mộc làm ví dụ, để giải thích biến lý ngũ hành vượng suy:
    1, Mộc thái vượng mà giống như kim, hỉ hỏa luyện vậy:
    Vốn ý là, mộc thuộc ở trạng thái thái vượng, thì giống như kim ở trạng thái thiên vượng, rất thích dùng hỏa nung luyện.
    Giải thích: Bất kỳ một loại ngũ hành nào, vượng thì phải đến vượng — loại mức độ thuần khiết, thuần khiết là một loại tiêu chí cao quý tự nhiên. Mộc thuộc về mức độ thái vượng, tất là bởi vì một điểm khắc suy nhược, hoặc tiết hoặc hao mà khiến cho nó không thể trở thành cục chuyên vượng. Ước muốn phá hư ngũ hành mộc này là dẫn ra tốt nhất, chính là ngũ hành Kim. Kiểm nghiệm trong thực tiễn, bất luận là chính ngũ hành kim hay là nạp âm ngũ hành kim đều có thể phá hư Nhân Thọ Khúc Trực cách. Như vậy, phàm là người và vận mệnh đối chọi nhau, tất nhiên phải chọn dùng hỏa để nấu chảy sắt đá, không còn trọc khí, cố gắng tiến vào hàng ngũ cao quý. Lý giải không khó, ở dưới cục diện mộc thái vượng, công hiệu của hỏa một là tiết mộc, hai là khắc kim. Chỗ này muốn xem mộc thái vượng là tiếp cận ở trạng thái thiên vượng, hay là tiếp cận ở trạng thái cực vượng, nếu tiếp cận ở cực vượng, sử dụng hỏa khắc kim hoặc là giải trừ băng hàn, thì có thể khiến cho mộc phát vinh mà tiến vào chuyên vượng là tầng lớp đại cát. Nếu là tiếp cận ở thiên vượng, dụng hỏa tiết mộc thì là khiến cho mộc xu hướng về cần bằng, hai loại này mặc dù đều là hỉ hỏa, đều là xu thế nỗ lực hướng về cát, nhưng sử dụng phương hướng hỏa lại khác nhau. Chỉ qua là hướng về phương hướng cát phát dân mà thủ hỏa làm hỉ dụng. Cho nên nói mộc thái vượng mà hỉ hỏa nhất, nhưng mộc thái vượng hỉ hỏa, cũng không phải là chỉ có thể dụng hỏa, vấn đề cụ thể còn phải phân tích cụ thể.
    2, Mộc cực vượng mà giống như hỏa, hỉ thủy khắc vậy:
    Vốn ý là: Mộc vượng đến cực điểm, thì hỏa giống như là trạng thái thiên vượng, rất thích dụng thủy để cứu;
    Giải thích: Mộc vượng đến cực điểm, thì thế mộc tất phải trở thành cục chuyên vượng. Mộc cục chuyên vượng, tục gọi là Nhân Thọ Khúc Trực cách. Dạng mệnh cục này nếu như không bị phá cách ( Thấy Kim tức là phá khắc )
    Kinh nghiệm cổ nhân cho rằng mệnh chủ không có phúc thì là có thọ. Mộc cực vượng tất nhiên là khí mộc đầy xung. Khí ngũ hành, có một quy luật tự nhiên, đó chính là "Khí đầy tự chảy" . Khí mộc sung túc, thì tự nhiên chảy về hướng hỏa. Hỏa quá vượng, khí tiết khí mộc càng nhiều. Mộc đến mức độ cực vượng, ý là bản chất mộc có xu hướng về một loại thuần lương mà cao quý. Nếu sử dụng tính chất, tinh tiết về hỏa, thì mộc là không thể bảo trì bản chất của nó thuộc về tầng lớp tinh thông. Cho nên, lúc mộc cực vượng thích nhất có thủy đến chế hỏa mà dưỡng mộc. Tức là trạng thái "Đầy thỏa mãn" . Điểm cần chú ý là mộc cực vượng không phải là thành cách Nhân Thọ Khúc Trực cách. Tức là làm cho chỉ có một chút thành kim, gặp đến hoàn cảnh ác liệt, khối mộc tốt này cũng sẽ biến chất thành mục nát mà thôi.
    3, Mộc thái suy mà giống như thủy vậy, cần kim để sinh:
    Vốn là ý: Mộc thái suy, thì giống như thủy thiên nhược, thủy thiên nhược đương nhiên là thích dụng ở kim để sinh trợ.
    Giải thích: Thái suy còn gọi là thái nhược, là một loại mức độ vượng suy so với thiên nhược vẫn nhược. Thiên nhược, cần được sinh phù để bổ túc cái chưa đủ, để đạt đến mục đích trung hòa cân bằng. Nhưng thái nhược đã là vượt khỏi quỹ đạo trung hòa, là một loại trạng thái vượng suy rất sẽ khó giúp đỡ. Ngũ hành làm sao mà khó nâng đỡ, biện pháp rất dễ dàng là đem nó bỏ đi. (Nhớ: Không cần phải đem người làm ví dụ, dạng này lộ ra là rất không "Nhân từ" ). Nhật chủ thái nhược, chính là rất muốn phục tùng người khác, ai có khí thế vượng thịnh, thì thuận theo người đó mà đi. Tòng mà được chân chính thì càng cát lợi. Tòng lại không tòng, trái lại là bất định, quyết không phải việc tốt (biểu hiện ở trên nhân sự chính là kẻ tiểu nhân). Chỗ thái nhược và cực nhược khác nhau chính là lý lẽ này. Đang lúc thái nhược có căn, thì rất khó thành tâm thực lòng mà phục tùng người khác. Một khi không phục, thì sẽ phản kháng, phản kháng lại không có thực lực ( vì khí thế là thái nhược), lại tự nhiên là lấy thất bại mà chấm dứt. Tình huống thái nhược vô căn đắc khí, hoặc có trợ giúp, cũng đồng lý như vậy. Mức độ vượng suy là thái nhược ở trong thực tiễn là một loại trạng thái rất khó xử lý.
    Tác giả đã từng ở trong bài văn Luận Thân nhượcchỉ ra, thái nhược có thể phân ra làm 3 loại:
    1, Thái nhược có căn —— tiếp cận ở trạng thái thiên nhược.
    2, Thái nhược vô căn đắc khí;
    3, Thái nhược vô căn có trợ giúp thì tiếp cận ở trạng thái cực nhược.
    Có người nắm thái nhược có căn để phân ra phạm vi thiên nhược. Kiểm nghiệm thực tiễn: Thái nhược có căn, đa số thuộc về thiên khô là không cát. Bởi vì nó và thiên nhược đại đa số là cát lợi, không ăn khớp nhau. Hơn nữa thái nhược có căn, đa số thích bỏ căn mà tòng theo. Cho nên muốn như vậy mà phân ra, đối với bát tự thái nhược có căn, tại sao lúc bỏ căn mà tòng theo, thì thời gian nào sẽ phát đạt; lúc nào vì sinh căn mà vượng thịnh, lúc nào thì là ngũ dậy thấy mình trắng tay (không ở ví dụ chỗ này lại có nguyên nhân cao quý).
    Trong bài văn Luận Thân nhược còn chỉ ra, là thái nhược hay là cực nhược, cũng cần phải khảo sát đặc tính ngũ hành. Ví dụ như Kỷ thổ vô căn, không có trợ giúp lại không đắc khí, nếu như có Giáp mộc tương hợp, Kỷ thổ lại không lo mộc thịnh, vẫn phải lấy thái nhược mà luận. Còn như, Mậu thổ thái nhược, nếu có Quý hợp. Hình thể vẫn mạnh, Chúng ta lại trở về đàm luận mộc thái suy tại sao cần dụng kim. Đây là bởi vì, nếu ngũ hành mộc thái suy thì là đỡ không nỗi, không đỡ dậy nỗi thì phải bỏ đi (trong tự nhiên là vô tình mà lại hợp đạo) . Phỉ bỏ đi mộc quá suy thoái, tất nhiên là cần dụng kim, nhưng cần kim cũng không phải là không được kim.
    4, Mộc cực suy thì giống như thổ vậy, cần hỏa để sinh:
    Vốn là ý: Mộc cực suy thì giống như là thổ thiên nhược, thổ thiên nhược thì nên dụng hỏa sinh.
    Giải thích: Cực suy còn gọi là cực nhược. Là loại mức độ vượng suy so với thái nhược vẫn phải nhược. Mọi người đã biết, nhật can thái nhược rất thích chân tòng. Chân tòng thì cát, Giả tòng đa số đều không tốt. Như vậy, nhật can cực nhược thì không phải là Giả tòng, mà là phải vâng lời tòng tức là Chân tòng. Hoặc giả thuyết là hoàn toàn thuận theo tòng ở thế vượng. Đã là thuận theo thế vượng, như vậy, tức là đã chấp nhận "Đầu hàng", quyết không phải là tầm thường. Ở trước mặt thế vượng nó có thể tồn tại, tất nó có năng lực và công dụng. Cực nhược, có thể tận tình mà lộ ra bản thân tài hoa, mộc tài hoa là cái gì, đương nhiên chính là ngũ hành hỏa, cho nên mộc cực suy rất thích dụng hỏa. Nhưng mà cũng không phải chỉ là có thể dụng hỏa, chỗ này phải xem tình huống mà định. Cực vượng hoặc là cực suy mà thành cách, đều có thể gọi là "Tinh hoa" . Mệnh chủ thuộc về loại trạng thái ngũ hành này, tất là phú quý, cực mà tòng cách, tòng Quan thì quý, tòng Tài thì phú, tòng Nhi thì phúc. (Nhớ: Tòng theo nghĩa mệnh học truyền thống, như vậy chính là chặt chẽ. Luận tòng tất phải có chỗ đối tượng tòng theo rõ ràng).
    Ví dụ về Biến lý vượng suy
    (Nhớ: Biến lý vượng suy ở xưa và nay trong mệnh lệ khắp nơi đều thấy, nhưng bảo cần phải nắm chắc thì chuyện là không dễ dàng chút nào, phía dưới là lấy mệnh lệ từ trong Trích Thiên Tủy để thuyết minh)
    VD 1, Càn tạo: Giáp Thìn, Đinh Mão, Giáp Tý, Mậu Thìn
    Đại vận: Mậu Thìn, Kỷ Tị, Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu
    Nguyên chú: Ngày Giáp Tý sinh tháng Mão, địa chi có 2 Thìn, là dư khí của mộc vậy, lại vừa Thìn Mão Đông phương, Tý Thìn củng thủy, thủy thái vượng thì giống như kim vậy, lấy Đinh làm dụng. Đến Kỷ vận, Đinh hỏa lâm vượng, danh tiếng ở cung thành; hai vận Canh Tân, Nam phương kim bị Tiệt cước, tuy có hình hao, mà không có đại hoạn, Mùi vận khắc khử Tý thủy, ngày trữ để ăn; Ngọ vận Tý thủy xung khắc, thi hương không được; vận Nhâm Thân kim thủy cùng đến hình thê khắc tử, phá hao đủ điều; vận Quý mất lộc.
    Giải thích: Giáp mộc sinh ở tháng Mão nơi đất đế vượng, toàn cục chỉ có một chút Giáp Tý nạp âm là kim. Vừa nhìn thì tòng theo thế lớn, hầu như là Nhân Thọ Khúc Trực cách. Chỉ vì địa chi có 2 Thìn, thiên can Đinh Mậu hỏa thổ tương sinh, trong cục Mậu thổ trở thành có căn ( căn trọng ) có gốc thái nhược. Ở đây, ngăn cản Giáp mộc thành cách là thổ kim. Hỏa vốn có đủ tính hai mặt. Đang lúc có kim xuất hiện, rất thích Đinh hỏa có thể chế kim. Đang lúc không có kim xuất hiện, hỏa thổ chảy đến tiết hao tinh nhật chủ. Tị vận, kim được trường sinh, Đinh hỏa mược thế vận Nam phương phát huy tác dụng. Hỏa chủ văn minh thấu khí là Giáp mộc, cho nên có đủ "Danh tiếng nơi cung thành" ; Canh Tân vận phá mộc cục. Đinh hỏa lại thành cứu mộc, "Có hình hao nhau mà vẫn không có đại họa" ; Ngọ hỏa là trọng dược. Bệnh khinh mà dược trọng, hỏa vượng sinh thổ tiết hao Giáp mộc nhật chủ, mộc muốn thành cách phá diệt, hiển nhiên là "Thi Hương không thành" . Vận Mùi, thổ gặp táo thấp phối nhau, Giáp mộc nhập khố mà thổ càng vượng, nguyên mệnh cục hoàn toàn bị hỏa, thổ kéo phạm vi trung hòa hướng về thiên vượng. Lúc này địa chi tiếp xúc phương thức Dung hợp (Tra: Phần sau có nói về Dung hợp là cái gì) Mùi thổ, tức là một lần nữa cấu thành một loại cục diện khác là Thân vượng Tài vượng, đây là bởi vì nguyên mệnh cục Tài tinh có căn, có sinh phù cho nên không kỵ thổ (Tra cách luận thường lý) . Cho nên, mệnh chủ lại có thể "Hàng ngày có ăn". Đến vận Nhâm Thân, nhật can lại phải quay trở về cục diện ban đầu là thái vượng. Kim vượng hỉ hỏa, nhưng Nhâm thủy khắc hợp Đinh hỏa, Đinh hỏa dụng thần bị khắc, "Mất lộc" thì là tất nhiên. Bát tự này nhật can ngũ hành ở mức độ vượng suy là bốn bề nỗi sóng gió mà biến hóa, dẫn đến mệnh chủ — sinh bất bình trớ trêu.
    VD 2, Càn tạo: Quý Mão, Ất Mão, Giáp Dần , Ất Hợi
    Đại vận: Giáp Dần, Quý Sửu, Nhâm Tý, Tân Hợi, Canh Tuất
    Nguyên chú: Tạo này chi năm đều là mộc, lại gặp thủy sinh, 6 mộc 2 thủy lại không có khí khác. Mộc cực vượng giống như hỏa vậy, tổ nghiệp xuất thân vốn là hưng thịnh. Duy chỉ có Sửu vận là hình thương, Nhâm Tý thủy thế thừa Vượng, Tân Hợi kim không thông căn, chi gặp thủy vượng, 20 năm này kinh doanh, thu lợi hàng vạn đồng; giao vận Canh Tuất, thổ kim cùng vượng, bị phá mà chết.
    Giải thích: Nhật nguyên Giáp mộc sinh ở tháng Ất Mão. Tọa dưới Dần và Hợi hợp hóa thành mộc. Trụ năm lại là Quý Mão, toàn cục là thủy mộc, chính ngũ hành không có kim, hỏa thổ tàng chi bởi vì hợp mà khử mất. Mộc cực vượng là không nghi ngờ, mộc cực vượng tốt nhất là có thể thành Nhân Thọ Khúc Trực cách (Chuyên vượng cách). Nhật nguyên không có kim khắc, không có hỏa tiết, vận thế từ Đông chuyển sang Bắc, vừa đúng có lợi cho mộc cục thành cách. Mệnh phú quý, tốt nhất là thời vận nên ở Hợi vận, thủy vượng mộc được trường sinh. Vận Canh Tuất như thế nào chứ? Xu thế lớn là vận chuyển Tây phương, cho nên mộc bất lợi, nhưng hung không ? Phải xem chất lượng nguyên mệnh cục là tốt hay xấu. Trong nguyên mệnh Quý Mão là Kim Bạc kim, xem ra lực lượng là rất nhỏ, nhưng mộc đúng Chuyên Vượng cách ( tinh hoa thuần khiết) mà nói, nó lại là — một khuyết điểm, có người nói "Ất Hợi là Sơn Đầu hỏa' tại sao lại không khắc Kim Bạc kim chứ? Sao không thấy trung gian ngăn cách 2 Đại Khê thủy. Chính vì một điểm là kim, vận Canh Tuất tây phương đến lâm, Ất Canh hợp nhập mệnh cục, phá Nhân Thọ cách, Nhân Thọ cách bị phá, mệnh chủ không chỉ không thọ, trái lại phải chết. Mộc đa kim khuyết bẻ gãy gân cốt mà chết.

    VD 3, Càn tạo: Ất Sửu, Giáp Thân, Giáp Thân, Tân Mùi
    Đại vận: Quý Mùi, Nhâm Ngọ, Tân Tị, Canh Thìn, Kỷ Mão, Mậu Dần
    Nguyên chú: Tạo này địa chi là thổ kim, chỗ mộc không có đắp căn, can giờ Tân kim, nguyên thần phát thấu. Mộc thái suy mà giống như thủy vậy. Đầu vận Quý Mùi Nhâm Ngọ, sinh mộc chế kim, sớm thấy hình tang, khó có sự che chỡ của bề trên; Tân Tị Canh Thìn, kim phùng sinh địa, tay trắng phát tài hàng vạn đồng; vận Kỷ Mão thổ vô căn, mộc đắc địa, gặp hồi lộc, phá tài hơn vạn đồng; đến Dần vận chết.
    Giải thích: Giáp mộc sinh ở tháng Thân tọa dưới lại là Thân kim, một điểm gặp Mùi là căn gặp Sửu xung tổn. Chỉ vì thiên can năm tháng là Tỉ Kiếp cùng thấu, tuy không có lực, nhưng dựa vào Tỉ trợ thân không đến nỗi thân cực nhược, nên là mức độ thái nhược. Nhật nguyên Giáp mộc thái nhược cần dụng kim, mục đích ở đây là chế khử Tỉ Kiếp làm cho nhật chủ chân tòng. Trong vận Canh Thìn, Tân Tị gặp đúng thổ kim lưỡng vượng, khiến cho nhật chủ có thể tòng thế Tài Quan, vì vậy mà "Tay trắng phát tài bạc vạn" . Là cần nói rõ, mặc dù nguyên cục Tân kim nguyên thần phát thấu, nhưng ở trụ giờ lực nhược, một kim chế không nỗi 3 mộc. Chỉ được kim vận lâm đến, Thìn Tị dẫn động khí kim trong nguyên cục, mới có thể khử mộc thành cách. Dụng thần ở kim, hỉ thần ở thổ, thổ là Tài, cho nên nhật chủ phát giàu. Dần Mão vận, Ất mộc trong Mùi lại sinh căn mộc. Mộc sinh căn, thiên can Giáp, Ất là được khí thế, kết quả thành Kim Mộc giao chiến. Kết quả giao chiến là dẫn đến Tài tinh thổ ngũ hành khắc tiết vô sinh, cho nên ở Mão vận phá tài, Dần vận mà chết.
     
  16. Mạnh Nhân

    Mạnh Nhân Thần Tài

    Tiết 2, Nắm chắc Đại pháp Sinh Khắc
    Phương pháp vận dụng 8 chữ "Sinh khắc chế hóa, hình xung hợp hại" để suy đoán mệnh cục là đại pháp căn bản nghiên cứu vận mệnh học, tên đơn giản là Đại pháp sinh khắc. Nếu như nói thủ chuẩn dụng thần là then chốt đoán mệnh, như vậy sử dụng "Đại pháp sinh khắc" phán đoán chính xác thực tế ngũ hành mệnh cục vượng suy thì càng là trọng yếu. Rất nhiều sách nhập môn đối với "Đại pháp sinh khắc " đều có tinh luận. Nó là công phu nhập môn trọng yếu. Ở đây tác giả không lấy chồng chéo nhắc lại, mà chỉ lấy ra những chỗ khó khăn để làm tham khảo, để hiểu rõ hơn và nhận thức.

    1, Quy luật bản chất Xung
    Xung, còn gọi là xung khắc. Vừa có thiên can tương xung, cũng có địa chi tương xung. Trước tiên phải thừa nhận từ xưa đến nay cùng cho rằng giữa hai tương xung tồn tại một loại quan hệ đặc thù. Lấy Tý, Ngọ làm ví dụ, Tý xung Ngọ, Ngọ cũng xung Tý. Nhớ luận đại pháp sinh khắc, Tý xung Ngọ tức là Tý thủy khắc Ngọ hỏa (Nhớ: Chính xác khắc đảo một phương cũng không dễ dàng), hơn nữa cũng khác nhau ở Hợi thủy khắc Ngọ hỏa, so với Hợi thủy khắc Ngọ hỏa lực lượng lớn hơn. Xung, hoặc gọi là đánh nhau, Tý Ngọ xung, Ngọ cũng có lực đánh nhau với Tý, nên lúc Tý Ngọ đồng thời ở mệnh cục đến gần vị trí xuất hiện, đặc tính Tý Ngọ xung lại lộ ra rõ ràng, ngũ hành khác tương xung cũng giống như vậy.
    Như vậy, tại sao giữa ngũ hành tương xung vốn có đủ lực đánh nhau chứ? Vẫn lấy Tý Ngọ làm ví dụ, ở đây làm một bài toán xử lý. Trước tiên lấy Tý, Ngọ tất cả xem như là một điểm, lại bắt đầu sử dụng" Tuyến" liên kết. Căn cứ đặc tính có thể biết Tý, Ngọ ngũ hành ở trong tự nhiên không có chỗ nào là không tồn tại (lấy con người để dễ so sánh ), điều này tuyến Tý Ngọ tất nhiên là một đường thẳng, đồng thời hướng về hai phương vô hạn. Giả thiết đường trực tuyến này đứng ở trên không gian vũ trụ nhìn địa cầu, tất là một đường đồ thị vòng cung. Độc giả có thể dùng quyển sách địa lý kinh tuyến Tý Ngọ để có thể lý giải. Nên ngũ hành tương xung ở trong mệnh cục lúc đồng nhất xuất hiện, bởi vì chúng nó vận động đứng ở trên một quỹ đạo, cho nên lực tác dụng nhất định không giống với hai ngũ hành khác nhau ở trên quỹ đạo. Đặc biệt là đến gần tương xung, tức là lúc không bị chỗ vật khác cản trở, lực xung khắc càng lớn. Đây chính là hiện tượng xung. Cho nên lúc tương xung, một phương bị khắc cũng không phải là hoàn toàn bị động thụ khắc, chủ lực lượng phương khắc nó cũng có xung động ( hoặc là đánh nhau), hơn nữa lúc song phương ngang nhau, người nào cũng không xung người nào (hoặc khắc không hết). Bởi vậy ngũ hành mệnh cục vận động, tất phải thích ứng ngũ hành vận hành quỹ đạo trong tự nhiên, cho nên trong lúc cục xuất hiện chỉ có một "Tý" , Tý cũng tất nhiên rơi ở trên tự nhiên "Vòng tròn Tý Ngọ". Trong mệnh cục Tý lúc này cũng có lực lượng xung "Vòng tròn" Ngọ (Nhớ: Cổ nhân gọi là Ám Xung ), khiến cho Ngọ phát sinh chấn động. Như vậy, trong lúc mệnh cục vừa đúng có chữ "Dần" "Tuất" hoặc "Mùi" xuất hiện, tất nhiên sẽ cấu thành "Tam hợp" hoặc là "Lục hợp", hiện tượng đây chính là chỗ cổ nhân nói "Phi xuất", "Ám hợp", "Yêu xuất" . Tương xung nếu là cùng chung vật chất trong một quỹ đạo đánh nhau, như vậy lực lượng cùng trước sau tất ưu thắng hơn ở ngũ hành không phải xung. Tương xung có thể làm cho cả hai đều phát sinh chấn động, động tất sinh biến, biến thì kết quả còn tùy hoàn cảnh xung quanh mà định, do đó kết quả cuối cùng vẫn cần tổng hợp mà phán đoán.
    2, Quy luật bản chất Hợp
    Hợp, có thiên can ngũ hợp, địa chi lục hợp, tam hợp. Đặc biệt là thiên can ngũ hợp và địa chi lục hợp, thực chất chính là giữa hai ngũ hành nào đó vốn có đủ xu hướng lực và ngưng tụ lực nào đó phát sinh từ trong nội bộ. Lại ở dưới sự thúc giục từ điều kiện ở bên ngoài, rất dễ dàng hình thành một loại lực lượng mới càng lớn. Đây chính là hiện tượng hợp hóa. Bao gồm cả tam hợp ở bên trong, hạn chế bởi vì điều kiện xung quanh cũng có hợp mà không hóa, nhưng giữa ngũ hành tương hợp rốt cuộc khác nhau ở ngũ hành không có hợp. Giữa ngũ hành tương hợp bất luận hóa hay không hóa đều cùng tồn tại xu hướng lực và ngưng tụ lực phát ra từ một nội bộ. Đây thuộc về một loại hiện tượng đặc thù trong tự nhiên, cũng giống như một đôi nam nữ yêu nhau, được tồn tại trong tự nhiên, Liệu rằng khoa học hiện đại phát đạt cũng giải thích không rõ nguyên nhân.
    Ở trong địa chi lục hợp, chúng ta biết Tý và Sửu hợp, Ngọ và Mùi hợp, Mão và Tuất hợp, Thìn và Dậu hợp …, từ ý nghĩ giải thích Xung đến xem Hợp, ở trên một vòng tròn Tý Ngọ, lại ở trên một vòng tròn Sửu Mùi, nên lúc Tý và Sửu hợp, cùng Ngọ đối ứng vừa cùng với Mùi hợp, cả hai tương xung đều có xu hướng động, cả hai tương hợp lại là có xu hướng tĩnh, cực động thì sinh biến, cực tĩnh cũng sinh biến, có thể thấy hợp và xung cũng không phải là cô lập bất biến.
    Ở trong Đại pháp sinh khắc, hợp, xung tại sao ưu tiên ở sinh khắc chứ ? Đây là bởi vì hợp, xung đều là một loại hiện tượng đặc thù, sinh khắc là hiện tượng ngũ hành phổ biến. Nên lúc xuất hiện ngũ hành tương hợp, thì có lực hấp dẫn lẫn nhau ( có người gọi tên khác là Từ lực ngũ hành ), lúc này đối với ngũ hành khác thường "Không có tâm ham chiến", tức là "Tham hợp vong khắc" hoặc là "Tham hợp vong sinh" . Cho nên, tương hợp ở trong mệnh cục phân tích có quyền ưu tiên nhất. Hợp mà hóa, đều lấy hóa thần mà luận, lúc hợp mà không hóa, giữa so sánh lẫn nhau luận quan hệ sinh khắc bản khí. Nhưng không có luận hóa và cực hóa, lực lượng sinh khắc vốn là sau khi tương hợp tất nhiên có thay đổi. Cũng bởi vì đến gần hợp hoặc tương hợp động tĩnh ( nguyên mệnh cục là Tĩnh cò tuế vận là Động, năm tháng ngày là Tĩnh, giờ là Động), sẽ còn làm cho hợp trong đó cái khác không đánh mất đi bản khí ngũ hành ( như đang lúc Thìn và Dậu hợp, Thìn có thể hóa thành kim hoặc chỉ còn thổ bản khí ngũ hành ), loại hiện tượng này gọi là "Khử bì" . Cụ thể lúc đoán mệnh, hiện tượng khử bì không thể chớ nhìn.

    3, Đặc điểm Dung hợp
    Kinh Dịch • Hệ Từ truyện nói: Phương lấy loại tụ, Vật lấy bầy chia. Phân tích ở nguyên mệnh cục, hoặc tuế vận lúc ảnh hưởng đối với nguyên mệnh cục, thường thấy một khối đồng loại ngũ hành đi đến, như Mậu thấy Mậu hoặc Mậu thấy Kỷ, tức là chỗ nói "Tỉ hòa" . Ngũ hành cùng nhau tỉ hòa, nếu như không tách ra thì tất nhiên là Dung hợp. Làm phép so sánh, thường ngày trong cuộc sống ta thấy đến như dầu mỡ cùng với dầu mỡ thì dễ dàng dung hợp, còn nước với dầu mỡ thì lại không thể dễ dàng tùy tiện mà dung hợp. Điều kiện dung hợp lẫn nhau, hầu như là chỉ cần chạy đến cùng một chỗ, cho nên dung hợp chính là một loại hiện tượng tự nhiên cùng loại ngũ hành, cùng nhau chạy đến cùng một chỗ.
    VD như nam mệnh, sinh vào giờ Tuất, ngày 6 tháng giêng năm 1963
    Nhâm Dần / Quý Sửu / Quý Dậu / Nhâm Tuất
    Tạo này thiên can đều là thủy, tức là thiên can dung hợp. Địa chi Dần chỉ có cùng Mão dung hợp, Dậu chỉ có cùng Thân dung hợp, Sửu và Tuất có thể dung hợp nhưng bị tách ra. Như vậy, dung hợp cùng ngũ hợp hoặc tam hợp, lục hợp có cái gì khác nhau chứ? Điểm căn bản hẳn là phải nói, dung hợp hầu như không có xu hướng lực từ nội bộ, hoàn toàn dựa vào điều kiện bên ngoài. Nhưng chỉ cần giữa chúng nó gắn bó không có bị ngăn cách, thì chúng nó có thể tự nhiên câu thông, so với hai ngũ hành khác quan hệ đặc thù lại khởi đến dễ dàng tính toán kết hợp.
    4, Hình thức và kết quả của Sinh Khắc Hình
    Thiên can sinh khắc chế hóa và địa chi hình xung hợp hại, nó là cơ sở vừa đàm luận quan hệ tổ hợp, cũng là nắm vững mấu chốt của vượng suy. Ở sau có thể rút ra biểu hiện ngũ hành vượng suy, kế tiếp chính là tiến hành xử lý trên một loại tổ hợp, trong đó, hình thức và kết quả sinh khắc hình đáng giá được đặc biệt chú ý. Cũng chính là trên cơ sở trọng yếu nắm chắc thực tế các ngũ hành bát tự vượng suy.
    (1) Hình thức và kết quả của Khắc
    Khắc có 4 loại hình thức dưới đây, tất cả kết quả đều không giống nhau.
    1, Ngũ hành vượng hoặc cường khắc ngũ hành suy hoặc nhược. Kết quả ngũ hành suy nhược là gặp tai ương (Không có tai ương, tất là có cứu ứng. Giống nhau như ở dưới)
    2, Ngũ hành suy hoặc nhược khắc ngũ hành vượng hoặc cường. Kết quả là ngũ hành suy nhược gặp tai ương. Đây là một loại hiện tượng phản khắc. Như mộc đa kim khuyết, thổ đa mộc chiết ...
    3, Ngũ hành cường hoặc vượng khắc ngũ hành vượng hoặc cường. Kết quả phân ra làm 2 phương diện:
    Ngũ hành khác gặp tai ương là bị khắc tiết giao gia .
    Khiến cho bị khắc là có thể sinh kẻ thứ ba mà lưu thông ( không khắc vẫn không thể có sinh chứ ! ) . VD như "Kim mộc tương chiến thổ gặp tai ương" đây là định luật kết quả khắc. Bởi vì mộc khắc thổ, kim tiết thổ, tiến hành đồng bộ, thổ sao có thể mà bình an.
    4, Ngũ hành suy hoặc nhược khắc ngũ hành nhược hoặc suy. Kết quả đối với suy hoặc nhược cả hai đều bất lợi.
    (2) Hình thức và kết quả của Sinh:
    Sinh cũng có 4 loại hình thức, tất cả kết quả đều không giống nhau.
    1, Ngũ hành cường hoặc vượng sinh ngũ hành vượng hoặc cường. Có thể sinh, cũng có thể được sinh. Nhưng kết quả phân ra làm 2 phương diện:
    Khiến cho ngũ hành lưu thông là tượng cát.
    Sau đó khiến cho vượng thái quá, thì có tượng hung.
    2, Ngũ hành cường hoặc vượng sinh ngũ hành suy hoặc nhược. Có thể sinh, nhưng sau đó không nhất định có thể được sinh. Kết quả là ngũ hành cường vượng khích động quá suy nhược khắc khử ngũ hành khác. Như mộc đa hỏa tức, tạo thành mộc khắc thổ.
    3, Ngũ hành suy hoặc nhược sinh ngũ hành cường hoặc vượng. Không nhất định có thể sinh, nhưng có thể được sinh. Kết quả là ngũ hành cường vượng cướp tiết ngũ hành suy nhược. Trước tiên là mầm họa. Như suy mộc sinh vượng hỏa, thì hỏa đa mộc phần.
    4, Ngũ hành suy hoặc nhược sinh ngũ hành nhược hoặc suy. Không nhất định có thể sinh, cũng không nhất định không thể được sinh. Kết quả là cội nguồn sinh trở thành được sinh. Biểu thị được sinh là còn có một đường sinh cơ. (Nhớ: Đối với nhược có chút sinh trợ, mới thật sự là sinh phù. )
    ( 3) Hình thức và kết quả của Hình
    Kế thừa phép xem của Mệnh học truyền thống, Hình có 4 loại hình thức dưới đây, kết quả phức tạp, là hung nhiều cát ít.
    1, Sửu, Mùi, Tuất tam hình. Đây là sau khi 3 thổ dung hợp, kim mộc thủy hỏa chỗ tàng trong các khố tạo thành khắc chiến lẫn nhau. Kết quả là do tất cả các lực lượng ngũ hành từ bên ngoài và bên trong mà định. Tức là lúc gặp đến tam hình này, nếu kim vượng thì khắc Ất mộc ở trong Mùi. Nếu hỏa vượng thì khắc Tân kim ở trong Sửu, Tuất, nếu thủy vượng thì khắc Đinh hỏa, nếu mộc vượng khắc thổ hoặc là lực lượng thủy thái nhược đều là Quý thủy ở trong Sửu gặp họa.
    2, Dần, Thân, Tị tam hình. Đây là quan hệ đặc thù do xung, hợp, khiến cho cả 3 đan xen vào một chỗ, chỗ bên trong tàng ẩn giao chiến lẫn nhau. Kết quả là từ tình huống xung quanh ngũ hành vượng suy mà định. Tức là lúc gặp đến tam hình này, nếu kim vượng ( Tị Thân hợp có xu hướng về kim), thì mộc có họa. Nếu hỏa vượng, thì kim có họa. Nếu thủy vượng (Tị Thân hợp hóa thủy ), thì hỏa có họa. Nếu mộc vượng, thì thổ có họa. Thông thường khỏi cần chú ý đến quá trình hỗn chiến, chỉ cần xem kết quả.
    3, Tý Mão tương hình. Đây là bởi vì Tý thủy sinh Mão mộc chỗ không thuận dẫn đến tổn thương. Kết quả là Tý thủy nhiều ( 2 Tý hoặc là 3 Tý), thì Tý hình Mão, Mão nhiều thì Mão hình Tý. Nếu cả 2 thực chất Hình là tương đối cân bằng, thông thường sẽ không thể hiện ra.
    4, Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi tự hình ( như Ngọ thấy Ngọ tức gọi là Ngọ Ngọ tự hình). Đây là do chỗ cùng một loại ngũ hành quá nhiều mà lại dung hợp ở một lúc, hình thành cục diện thái quá mà tạo thành thương khắc. Kết quả là không có luận ngũ hành nào gặp đến nó, thông thường là đều có nguy hiểm. Như lúc xuất hiện "Ngọ Ngọ" tự hình, thì dễ dàng tạo thành: Hỏa đa Thổ tiêu, Hỏa đa Mộc phần, Hỏa đa Kim tử, Hỏa đa Thủy khô. (thông thường có thể giải cứu Ngọ Ngọ tự hình là lấy thấp thổ ), cái khác tự hình cũng giống như vậy.
    Tóm lại, lúc suy đoán tứ trụ cụ thể, tác giả nắm "Tý Mão tương hình hoặc là tự hình" xem như là một loại "Tượng" . Cũng chính là nói mặc dù ngũ hành thiên can địa chi quá nhiều, kết quả đều có tương tự hai loại hình. Chỉ là bởi vì đặc điểm khác nhau, Tý Mão tương hình cùng Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi tự hình càng linh nghiệm.
    1. Tiết 3, Làm sao nắm chắc mức độ vượng suy (1)

    Càn tạo:

    Tứ trụ
    Số ngũ hành
    Đại vận
    Nhâm Thìn
    Thổ: 6+3=9 số
    Kỷ Dậu
    Mậu Thân
    Hỏa: 2 số
    Tân Hơi
    Mậu Thân
    Thủy: 4 số
    Nhâm Tý
    Đinh Tị
    Mộc: 1 số
    Quý Sửu
    Kim: 3 số
    Giáp Dần


    Phân tích mức độ vượng suy ở trong nguyên mệnh cục nhật can Mậu thổ, phát hiện thiên can địa chi minh ám Mậu Kỷ tổng cộng là 6, lại thêm ở trên nạp âm thổ cộng là 9 số. Tra tỉ lệ có thể nói là thổ ít sao? Nếu sử dụng số lượng nhiều ít, lấy làm tiêu chuẩn vượng suy, thì tạo này chắc chắn thuộc về thân thiên vượng. Lại sử dụng 4 cái đắc địa, đắc lệnh, được sinh, được trợ thì thường sử dụng thước đo để so sánh, phát hiện chi năm có Thìn thổ là đắc địa, can tháng có Mậu thổ là được trợ, can giờ có Đinh hỏa là được sinh, càng phải phán đoán là thân thiên vượng, thậm chí là thái vượng. Nhưng trên thực tế, tạo này là thân thiên nhược (Tra: Vượng suy thực tế thân này là thiên nhược) .
    Dưới đây có 3 phương diện thuyết minh tạo này tại sao nói là thân thiên nhược:
    1, Mậu thổ sinh ở tháng Thân, trước Bạch Lộ là 9 ngày, chính lúc Canh kim dụng sự, dẫn đến trong Biểu Thập thiên can Sinh Vượng Tử Tuyệt, Nhật nguyên Mậu thổ ở xứ Thân là bệnh địa. Thân ở xứ bệnh địa, ý tứ cũng không phải là ở nơi Bệnh viện, mà là tượng người chính là đang ở loại trạng thái Tinh thần sinh bệnh.
    2, Lại xem 2 tổ hợp tháng và ngày.
    Tháng Mậu Thân, ngày Mậu Thân
    Từ 2 tổ hợp ở trên xem trực tiếp ảnh hưởng đến Nhật nguyên Mậu thổ là địa chi trụ ngày Thân kim, lực có ảnh hưởng nhất là thần nắm lệnh Canh kim. Tọa dưới Thân kim và nguyệt lệnh Canh kim cùng đến tiết tinh nhật chủ, nhật nguyên thực sự chịu không nỗi. Trụ giờ Đinh Tị mặc dù là thuốc để dừng tiết, nhưng Đinh ở Thân là đất Mộc dục ( tục gọi là Bại địa ), Tị lại bị Thân hợp, huống chi lực lượng trụ giờ đặc biệt là không có nhiều, nguyên nhân toàn bộ mệnh cục bởi vì tiết mà khiến cho nhật nguyên trờ thành mức độ thiên nhược.
    Nếu như bạn xem thường trụ giờ, xem trọng 3 trụ ở trước, dạng này nếu phân tích nhật nguyên thực tế vượng suy, như vậy, tạo này thân thiên nhược thì không có khó phân tích. Đây cũng là một điểm áo bí trong tổ hợp tứ trụ, ở phía dưới sẽ có giảng giải.
    3, Đối chiếu sự thực để xem:
    Anh em mệnh chủ tổng cộng thai là có 10, tổn mất 4 người. Đúng hợp với thân nhược lấy Ấn Tỉ làm anh em chị em;
    Mệnh chủ thai đầu sinh trai, thai thứ 2 là sinh gái. Trai sinh ở năm Đinh Tị, gái sinh ở năm Kỷ Mùi, trai gái đều thông minh thành tài. Thử nghĩ, nếu mệnh chủ không hỉ hỏa thổ, làm sao có thể thấy Hỉ ở năm hỏa thổ? Hơn nữa sự thực trước sinh trai sau sinh gái, hiện tượng "Trăm hoa làm quả" đúng hợp với thân nhược thì thai đầu là trai. (Mời xem thêm ở dưới bài văn Luận bát tự có hiện tượng Trăm hoa làm quả )
    Mệnh chủ lúc 18 tuổi hành Tuất vận tham gia công tác, bản thân cũng cho rằng trong thời gian này là có sự nghiệp huy hoàng.
    Bởi vậy, phán đoán mức độ vượng suy của nhật can (Tra: Không chỉ là nhật can), nhất định phải bắt tay vào 3 con đường:
    1, Xem rõ chỗ nhật can có nguyệt lệnh ở trạng thái nào; (Tra: Tức là xem Biểu dụng Sinh Vượng Tử Tuyệt)
    2, Xem rõ quan hệ giữa nhật can và chung quanh, đặc biệt là quan hệ cùng tọa dưới chi và tinh nắm lệnh.
    3, Vận dụng Đại pháp sinh khắc rút ra thực tế vượng suy.
    VD như, Càn tạo: Kỷ Dậu / Bính Tý / Quý Mùi / Mậu Ngọ
    Nhật nguyên Quý thủy sinh ở tháng Tý, chỗ đất lâm quan, cũng gọi là được Lộc Vượng. Đây là trạng thái nguyên thủy của nhật can Quý thủy, cũng gọi là biểu hiện vượng suy của nhật can. Quý thủy tọa dưới Mùi thổ (gọi là Tiệt Cước ) là táo thổ, bất lợi cho Quý thủy tích trữ lực lượng, lại thêm ở trên có thiên can khác khắc hao, nhật nguyên cuối cùng chỉ tính toán là thiên nhược. Đây là chỗ tổng hợp được cuối cùng của vượng suy gọi là Thực tế Vượng Suy. Thủ dụng thần, suy đoán mệnh cục, muốn mức độ chính xác chính là chỗ Thực tế Vượng Suy này.
    Trong tứ trụ, cái nào là nắm quyền, từ xưa đến nay hầu như nhất trí cho rằng là "Đắc thời nắm lệnh" là nắm quyền. Ở lúc phân tích tất cả các ngũ hành bát tự vượng suy, bất luận một nguyên tố can chi nào, cùng với ai nắm quyền tác dụng ở trước, cùng với nhật can tác dụng ở sau. Đây là — thứ tự trọng yếu ngang nhau. Hơn nữa bất kể thần nắm lệnh có thấu ra hay không.

    Lại như nữ mệnh, sinh vào giờ Tuất, ngày 29, tháng 4, năm 1961
    Khôn tạo: Tân Sửu / Giáp Ngọ / Bính Tý / Mậu Tuất
    Đại vận: 8 t Ất Mùi, Bính Thân, Đinh Dậu, Mậu Tuất, Kỷ Hợi, Canh Tý
    Phân tích nguyên mệnh cục, không chỉ phải chỉ xem Bính sinh ở tháng Ngọ là đắc lệnh, vẫn phải phân rõ trạng thái vượng suy từng phần kim, mộc, thủy, hỏa, thổ ở tháng Ngọ. Tạo này sinh sau tiết Mang Chủng 6 ngày, Bính hỏa dụng sự.
    + Tân kim: Ở tháng Ngọ lâm đất Bệnh, cùng lệnh tinh Bính hỏa có quan hệ hợp;
    + Giáp mộc: Ở tháng Ngọ xứ Tử địa, cùng lệnh tinh Bính hỏa là tương sinh;
    + Mậu Kỷ thổ: Ở lúc tháng Ngọ là đắc lộc, tiết Bính hỏa;
    + Quý thủy: ở năm tháng xứ Tuyệt địa, cùng Bính hỏa là quan hệ tương khắc.
    Nhật can Bính hỏa, tức là lệnh tinh thấu ra. Bởi vì có Giáp mộc tương sinh, Mậu Kỷ có tác dụng thổ chế thủy, Bính hỏa rất nhiều thế thái vượng. Nhưng có Bính Tân hợp, tọa dưới Tý thủy là tiệt cước, Mậu Kỷ tiết hỏa. Tổng hợp có thể biết nhật can cuối cùng là ở mức độ thiên vượng. Bính nhật can là thiên vượng, thủ Tý thủy làm dụng. Tý, nguyệt phá mà bị khắc, dụng thần bị khắc thì có hung. Năm 1991 mệnh chủ hành Đinh hỏa vượng vận, Mùi và Tuất dung hợp, lưu niên thiết nhập mệnh cục, thành lập Sửu Mùi Tuất tam hình, tạo thành thổ vượng khắc thế Tý thủy ở trong cục. Kết quả chồng mệnh chủ năm đó bị xuất huyết não mà chết, bản thân lại mang bệnh nặng. Tái giá lấy chồng có bát tự là Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Dần, Mậu Thìn, vẫn như cũ là khó tụ. Tóm lại, nhân nguyên nắm lệnh xác định đúng bát tự vượng suy có tác dụng hết sức trọng yếu, nếu coi nhẹ chỗ này, mức độ vượng suy cũng khó mà phán đoán.
    Bởi vì dụng thần là kết quả tổng hợp phán đoán. Tổng hợp phán đoán lại là căn cứ tổ hợp bát tự khác nhau, vận dụng bát tự các hành ở nguyệt lệnh dưới các loại trạng thái tiến hành quá trình tính toán chính xác. Như vậy, giải thích mức độ vượng suy các ngũ hành nguyên mệnh cục, là điều kiện tiên quyết được tiến hành sinh khắc chế hóa phán đoán nhật can thực tế vượng suy. Từ xưa đến nay, mức độ vượng suy khó mà nắm chắc, nguyên nhân chủ yếu có 3 phương diện ở bên dưới :
    1, Tiêu chuẩn vượng suy không có một thống lĩnh;
    2, Không biết tác dụng chân thần nguyệt lệnh;
    3, Thứ tự sinh khắc và phương pháp nắm không chuẩn xác;
    Tác giả căn cứ kinh nghiệm của lão sư, từ trên lý luận đem mức độ ngũ hành vượng suy chia làm mấy loại dưới đây:
    + Mức độ Vượng chia làm: 1, Thiên vượng: 2, Thái vượng: 3, Cực vượng.
    + Mức độ Trung hòa chia làm: 1, Trung hòa thiên dưới, 2, Trung hòa, 3, Trung hòa thiên trên.
    + Mức độ Suy chia làm: 1, Thiên nhược; 2, Thái nhược; 3, Cực nhược.
    Ở đây chân thành nói rõ với độc giả, ở lúc suy đoán cụ thể, phán đoán mức độ vượng suy là dựa vào một loại cảm giác, đây là từ xưa tới nay ở chỗ cẩn thận để mà phân tích bát tự, ở trong thực tiễn một loại cảm giác từng bước được bồi dưỡng. Nguồn gốc nó là ở các vị tiên sinh rất nhiều thành công và thất bại. Đối với phân loại ở trên, đổi lại một góc độ còn có thể dựa theo như phương thức xếp loại dưới đây:
    - Thiên nhược
    - Trung hòa {Trung hòa có thể điều hòa vượng và suy đến trung hòa} thường lý;
    - Thiên vượng
    - Thái vượng
    - Thiên khô { có lúc có thể điều hòa đến trung hòa, có lúc có thể điều đến tòng cách
    - Thái suy
    - Cực vượng
    - Thuần túy { tục gọi là Tòng cách tức là Tòng Nhược hoặc Tòng Cường} biến lý;
    - Cực nhược
    Thực ra, giữa hai chúng nó liền nhau là rất khó phân rõ giới tuyến, lại phải thêm ở trên có nhân tố đại vận lưu động, trên tổ hợp lại có rất nhiều biến hóa. Tác giả cũng không dám nói, bất cứ mức độ ngũ hành mệnh cục vượng suy nào đều có thể phán đoán chuẩn xác.
    Tác giả không muốn định nghĩa chết cho các loại mức độ vượng suy, chỉ muốn thông qua các ví dụ thực tế ở dưới đây, làm cho mọi người từ hai phương diện lý luận và thực tiễn để lý giải, tự giác mà đi thể nghiệm ý nghĩa thực tế các loại mức độ vượng suy, từng bước bồi dưỡng các loại cảm giác này để phán đoán chuẩn xác.
    1. , Phân chia mức độ Vượng:

    Lấy ngũ hành nhật can làm ví dụ xem làm sao nắm chắc mức độ vượng ( ngũ hành khác cũng giống như vậy)
    VD 1, nam mệnh sinh vào giờ Dậu, ngày 10, tháng 2 năm 1963
    Càn tạo

    Quý Mão
    10 t Quý Sửu
    Giáp Dần
    20 t Nhâm Tý
    Đinh Mùi
    30 t Tân Hợi
    Kỷ Dậu
    40 t Canh Tuất
    50 t Kỷ Dậu

    2.
    Nhật nguyên Đinh hỏa sinh ở tháng Dần, đúng lúc Giáp mộc dụng sự, nhật nguyên trong bảng Thập can Sinh Vượng Tử Tuyệt tuy ở xứ Tử địa, nhưng có Giáp mộc chân thần sinh trợ, mệnh thư nói: Đinh hỏa trong nhu, tính chất bên trong dễ dàng dung hòa, ... , như có mẫu điều, khả Thu khả Đông. Tọa dưới Mùi thổ trong đó có tàng Đinh hỏa. Càng hay là, giờ Dậu xung Mão động, có thể cùng với Mùi hợp, sinh Đinh hỏa, hình thành Sát sinh Ấn, cục diện lưu thông có Ấn sinh thân. Tọa dưới Mùi thổ bởi vì ở mùa Xuân là hư nhược, không có lực tiết thân, cho nên nhật nguyên thuộc về trung hòa, Ấn tinh Giáp mộc là thiên vượng. Thiên vượng là bệnh, thủ Tài tinh khắc Ấn làm dụng, Nhâm Quý Quan Sát sinh Ấn là kỵ. Tình huống thực tế, mệnh chủ trước lúc 16 tuổi hành thủy vận, tiết khí kim. Phụ thân chết sớm, trong nhà không chịu nỗi khốn khổ. 16 tuổi hành Sửu vận, sau lưu niên Mùi thi đậu Sư phạm học Giáo dục. Nhâm Tý vận 10 năm lại là hành thủy vận, trong thời gian này cho dù công tác xuất sắc, nhưng bản thân cảm giác là danh lợi đều hư, vô cùng không thoải mái. Sau 30 tuổi nhập vào Tân vận, Tài đến khắc Ấn, văn bút sinh hoa, chỉ cần lấy được một ngày nhận thưởng văn chương được người thưởng thức, trực tiếp đề cập công tác vào làm lĩnh đạo thành phố. Sau đó cứ hai năm liền thăng quan liên tục.
    VD 2, nam mệnh sinh vào giờ Dần, ngày 12, tháng 3, năm 1953
    Càn tạo

    Quý Tị
    7 t Ất Mão
    Bính Thìn
    l7 t Giáp Dần
    Bính Ngọ
    27 t Quý Sửu
    Canh Dần
    37 t Nhâm Tý
    47 t Tân Hợi
    57 7 Canh Tuất


    Bính hỏa tuy không đắc lệnh, nhưng đúng chỗ tháng Thìn Ất mộc dụng sự, lúc hỏa tiến khí. Lại có địa chi Tị Ngọ cường căn, thiên can Bính hỏa trợ lực, nhật can không nhược. Nhưng do ở trong Tị tàng kim, Thìn là thấp thổ hối hỏa, thiên can Canh kim thấu ra, cho nên nhật can chỉ thuộc thiên vượng, cũng không phải là thái vượng, thủ Quan tinh thủy ngũ hành làm dụng. Quả nhiên vận đầu Đông phương đất mộc vượng, kim tuyệt thủy tiết, cô khổ không chịu nỗi, giao vận Quý Sửu Bắc phương đất ẩm thấp, kim thủy thông căn, xuất ngoại làm ăn mua bán phát đại tài. Tạo này cùng một tạo ở trong Trích Thiên Tủy hết sức giống nhau.
    1. VD 3, nam mệnh sinh vào giờ Tị, ngày 13, tháng 2 năm 1938
    Càn tạo:

    Mậu Dần
    7 t Bính Thìn
    Ất Mão
    17 t Đinh Tị
    Ất Tị
    27 t Mậu Ngọ
    Tân Tị
    37 t Kỷ Mùi
    47 t Canh Thân
    57 t Tân Dậu
    67 t Nhâm Tuất

    2.
    Nhật can Ất mộc sinh ở tháng Mão chính là nắm lệnh, địa chi Dần Mão dung hợp thế mộc càng vượng, tọa dưới Tị hỏa cùng chi giờ Tị hỏa liên bích cũng là dung hợp, trong Tị có Bính hỏa ở tháng Mão là xứ đất Mộc dục, Bính hỏa vượng tướng. Do vậy, Tị hỏa tiết nhật can Ất mộc có lực, lại thêm ở trên trụ giờ có Tân kim thấu ra, trụ năm có Mậu thổ thấu ra. Bát tự này không có hỏa thấu ra, quyết định thổ có thể sinh kim. Tân kim tuy nhược nhưng không bị thương hại, ức chế, Ất mộc có thừa có cao ngất. Cho nên, nhật can cuối cùng là mức độ trung hòa thiên vượng. Nhật can vượng không thấy Ấn, mà Bính hỏa không thấu ra, còn lại Tài Quan đều là thiên nhược, cho nên muốn ngũ hành bát tự cân bằng, Tài Quan Thương Thực đều có thể sử dụng. Vận đầu Bính Thìn cùng Dần Mão hội thành mộc cục là kỵ thần, gia cảnh bần khốn. Sau đó một mạch hỏa, thổ, kim tiết háo nhật nguyên đều là đến vị trí dụng thần, cho nên cả đời Tài Quan toại ý, cho đến hiện này tuy tuổi đã quá 60, tinh thần vẫn khỏe mạnh, hầu như phú quý không gì sánh được.
    Giống 3 tạo ở trên, thông thường có thể thông qua khắc tiết hao đem ngũ hành vượng suy điều tiết đến trung hòa, nên chúng ta liền gọi ngũ hành là mức độ thiên vượng.

    Xem ví dụ dưới đây:
    VD 4, nam mệnh sinh ở giờ Dần ngày 24, tháng 3, năm 1964.
    Càn tạo:

    Giáp Thìn
    1 t Kỷ Tị
    Mậu Thìn
    11 t Canh Ngọ
    Giáp Dần
    21 t Tân Mùi
    Bính Dần
    31 t Nhâm Thân
    41t Quý Dậu
    51 t Giáp Tuất


    Tạo này xem sơ qua tựa như cần dụng hỏa, nhưng phân tích cẩn thận mới biết trong đó có khác một phen mùi vị. Giáp mộc nhật can sinh ở tháng Thìn, Ất mộc dụng sự. Có 2 Giáp mộc lấy Dần làm căn có thừa khắc Mậu thổ, can giờ Bính hỏa ở tháng Thìn đất thấp thổ ám mờ không sáng, không có lực tiết thân, thiên can địa chi lại không có kim. Đúng hợp với Nhật Lộc quy thời một Quan tinh, cách thành Quy Lộc tự nhiên là thân cực vượng, thân cực vượng không bị phá cách tất thành quý mệnh, thực tế mệnh chủ năm 1983 đậu đại học, năm 1995 thăng cấp, hiện tại là lãnh đạo đơn vị, rất sáng lạn. (Nhớ : hầu như vận không phối hợp)
    1. VD 5, càn tạo:

    Mậu Thìn
    Kỷ Mùi
    Mậu Ngọ
    Canh Thân
    Mậu Thân
    Tân Dậu
    Kỷ Mùi
    Nhâm Tuất
    Quý Hợi


    Toàn cục tứ trụ hỏa thổ, chỉ vì nặng một Thân kim tọa ở chi có lực tiết nhật can, khiến cho nhật can Mậu mười phần thuộc về thái vượng, cũng không phải cực vượng. Thổ thái vượng dụng kim, nếu là cực vượng trái lại là dụng hỏa. Sự thực ở trên vận Tân Dậu, năm Tân Sửu mệnh chủ trình tự thẳng tiến. Nhâm Tuất hình tang thất bại, đến năm Bính Ngọ mà chết.

    Nắm chắc phân chia mức độ vượng, không ly khai ở trong thực tiễn để thể nghiệm, từ bản chương ngày từ đầu thì chúng ta đã nói đến, thái vượng và cực vượng thuộc về phạm vi biến lý, cần phải sử dụng tư tưởng biến lý để đi phân tích. Tại sao ngũ hành thái vượng rất thích tiết thuận, ngũ hành cực vượng là thích nhất là sinh phù, không thể lấy ý chủ quan mà đo lường, tất cần phải dựa vào chỗ trước mặt mà nói nguyên lý thủ dụng biến lý để vận dụng lý giải, dạng ý thức này tự nhiên có thể bồi dưỡng phán đoán ra chuẩn xác thái vượng và cực vượng cực là khác nhau.
    1. 2. Phân chia mức độ Suy:
    Trước mắt là nói qua, Suy liền phân ra thành 3 mức độ là : Thiên nhược, Thái nhược ( hoặc là thái suy ) và Cực nhược ( hoặc là cực suy), dưới đây lấy ngũ hành nhật can làm ví dụ, để thuyết minh làm sao nắm chắc mức độ ngũ hành Suy.
    VD — Nam mệnh sinh ở giờ Tuất, ngày 10, tháng 2, năm 1942
    Càn tạo:

    Nhâm Ngọ
    7 t Giáp Thìn
    Quý Mão
    17 t Ất Tị
    Mậu Dần
    27 t Bính Ngọ
    Nhâm Tuất
    37 t Đinh Mùi
    47 t Mậu Thân
    57 t Kỷ Dậu


    Nhật can Mậu sinh ở tháng Mão đất Bại địa ( Mộc dục ), Ất mộc nắm lệnh cùng Mậu tương khắc. Tọa dưới Dần mộc, trợ giúp tinh đắc lệnh. Ở đây lý hoàn toàn là Tiệt Cước. Mặc dù, có Dần Ngọ Tuất hợp cục, nhưng thiên can thấu ra 3 Nhâm Quý thủy, hóa hỏa có danh mà vô thực. Chi giờ Tuất thổ là căn nhật chủ, nhưng lực mỏng (Nhớ: Xem ở phía dưới bài văn Áo bí của trụ giờ ), bang trợ nhật can hư mà không thực. Thực tế nhật can Mậu thổ, thuộc về thái nhược có căn. Thái nhược thì thích nhất là Quan Sát ( tức là Tòng Nhược ). Thực tế chúng ta xem mệnh chủ tình huống như thế nào: Mệnh chủ lúc nhỏ gia đình giàu có, cá nhân đọc sách thông minh, Giáp vận có ít danh khí, Thìn vận bởi vì thành phần gia đình cao, không thể học thêm, Bính Ngọ bắt đầu dạy dân, gia đình khốn khổ không chịu nỗi, thẳng đến Mùi vận bắt đầu chuyển tốt, vận Mậu Thân về sau gia đình giàu có, nhưng thân thể cá nhân không tốt, năm Nhâm Thân mắt trái mất sáng. Xem cảnh về già, thiếu tinh thần, ngày càng thê lương.
    1. VD 2, Càn tạo:

    Nhâm Tý
    Giáp Dần
    Quý Sửu
    Ất Mão
    Bính Ngọ
    Bính Thìn
    Giáp Thìn
    Đinh Tị
    Mậu Ngọ
    Kỷ Mùi

    2. Nhật can Bính hỏa, không đắc lệnh, lại Quan Sát quá nhiều. Tọa chi Ngọ hỏa là căn bản khí, Nguyệt lệnh chi giờ bản khí đều là thổ, có công ngăn thủy, cho nên nhật can ở đây chỉ là thiên nhược, tại sao lại không phải là thái nhược chứ? Cùng với tạo trước lấy so sánh với tạo này xác thực là dễ dàng phán đoán nhật can Bính là thái nhược. Nhưng mấu chốt lại ở tại Bính bị thủy khắc mới biến nhược, còn thủy ở tháng Sửu thổ nắm lệnh, chi giờ Thìn là thủy khố mà thu nhận thủy, thủy không phiếm lạm thì không khắc Bính hỏa. Cho nên nhật can Bính hỏa không là thái nhược. Nhật can thiên nhược rất thch1 sử dụng Ấn, tạo này Ấn là mộc tiết thủy sinh hỏa, vừa giải trừ thiên can khắc chiến, lại làm cho địa chi thấp thổ không có lực làm mờ hỏa. Sự thực mệnh chủ ở vận Giáp Dần, Ất Mão nhiều việc thuận lợi, giao vận Bính Thìn, gia tài mất hết, đến năm Thân, hợp Thân Tý Thìn thủy cục xung mất Ngọ hỏa mà chết.
    VD 3, Càn tạo:

    Quý Dậu
    Quý Hợi
    Giáp Tý
    Nhâm Tuất
    Mậu Tý
    Tân Dậu
    Mậu Ngọ
    Canh Thân
    Kỷ Mùi
    Mậu Ngọ

    l, Xem nhẹ trụ giờ ( Lại có phân biệt dựa theo tính chất ngũ hành) ;
    2, Xem trọng tác dụng chân thần;
    3, Xem trọng tác dụng tọa chi;
    4, Phân tích toàn cục các ngũ hành vượng suy.

    Đây là phương pháp tôi quen sử dụng phán đoán nhật can vượng suy. Tạo này nhật chủ trên Mậu Tý sinh ở tháng Tý, tọa dưới lại là Tý thủy. Lại có trụ Ngọ Quý Dậu kim thủy thông nguyên, 3 trụ phía trước có thể nói là thế thủy cuồn cuộn. Trụ giờ Mậu Ngọ và nhật can Mậu thổ có thể nghịch thủy, nhưng cùng Quý hợp. Trụ giờ địa chi Ngọ hỏa bị Tý thủy xung phá. Trụ giờ có chính ngũ hành cùng nạp nạp âm ngũ hành đều là hỏa, Giáp mộc thiên về thấp, không sinh khởi Ngọ hỏa, nhưng lại có lực lượng khắc Tuất thổ. Mậu thổ ở đây thủy cuồn cuộn dưới tình huống có mộc khắc cuối cùng không đỡ nỗi được. Thân cực nhược mà Tòng Tài. Tạo này Trích Thiên Tủy ghi lại là mệnh chủ ở vận Tân Dậu, Canh Thân 20 năm phát đại tài.
    1. VD 4, Nam mệnh sinh ở giờ Hợi, ngày 16, tháng 9, năm 1953
    Càn tạo:

    Quý Tị
    Tân Dậu
    Nhâm Tuất
    Canh Thân
    Đinh Mùi
    Kỷ Mùi
    Tân Hợi
    Mậu Ngọ
    Đinh Tị

    Nhật can Đinh hỏa, sinh ở tháng Tuất xứ nuôi dưỡng, đang lúc Mậu thổ nắm lệnh. thiên can Nhâm Quý thủy âm dương phối hợp, ở Tuất, xứ đất Lâm quan, lại bị Mậu thổ chỗ chân thần chế, lực lượng Nhâm khắc nhật can không lớn. Chỉ vì tọa ở dưới Mùi thổ cùng Mậu thổ lệnh thần, tiết thân thái quá, lại không có mộc khắc thổ sinh hỏa, nhật can Đinh hỏa thuộc mức độ thái nhược, đây là thái nhược có căn, tiếp cận thiên nhược, ngoại trừ có thể tòng theo Thực Thương, thì lại hỉ Tỉ Kiếp bang phù. Thực tế mệnh chủ ở vận Canh Thân có tên tuổi, về sau vận Mậu Ngọ rất tốt, hiện tại là giáo sư cao cấp .
    Từ trong VD 2,3 ở trên, chúng ta còn có thể rõ ràng chứng kiến, thủ chuẩn dụng thần không chỉ phải xem mức độ vượng suy của nhật can, mà còn tốt nhất là tìm ra ngũ hành tối vượng và tối suy ở trong cục. Tổng hợp mức độ vượng suy của các ngũ hành, cuối cùng là thủ lấy dụng thần sao cho tốt.
    Nắm vững chuẩn xác mức độ vượng suy các ngũ hành trong nguyên mệnh cục, đồng thời phán đoán mức độ vượng suy của ngũ hành nhật can, vừa trọng lại vừa phức tạp. Hoàn thành nhiệm vụ này không chỉ phải có hiểu cơ sở về ngũ hành vững chắc, còn phải tập luyện thành thục nắm chắc Đại pháp sinh khắc, cùng với quy luật sinh khắc giữa các loại tổ hợp. Tượng tiết này — bắt đầu từ một mệnh tạo: Nhâm Thìn, Mậu Thân, Đinh Tị, nếu như chỉ theo ở trên số lượng hoặc là chỉ theo một phương diện nào đó để xem, thì nắm không chuẩn mức độ vượng suy.
    Các bạn có thói quen sử dụng mức độ vượng suy để thủ dụng, bất luận mức độ vượng suy của các ngũ hành trong bát tự khó phán đoán như thế nào, cuối cùng bạn vẫn phải muốn làm — chia ra mức độ. Suy đoán sai lầm, chính là cũng thường bắt đầu phát sinh từ chỗ này. Quá khứ mỗi khi gặp vấn đề này, tôi luôn muốn nếu như có một căn giống như dụng cụ " Biểu đo ôn độ" vậy, có thể sử dụng để quan trắc mức độ các ngũ hành vượng hoặc suy ở trong bát tự, thật là tốt biết bao! Rất nhiều người chính là bởi vì nắm mức độ vượng suy không chuẩn, không có cách nào hướng về phía suy đoán, mới bất đắc dĩ chỉ dựa vào mấy cái Thần Sát để kết luận. Hiển nhiên, chỉ sử dụng Thần Sát để đoán mà không khảo sát mức độ vượng suy, càng là không nắm chắc đoán chuẩn xác. Như vậy, rốt cuộc làm sao phân biệt mức độ Vượng và mức độ Suy chứ? Trước đó đã nói qua, trong thực tiễn tác giả chủ yếu dựa vào một loại cảm giác, cũng đã từng sử dụng ngôn ngữ để biểu đạt ra loại cảm giác này, nhưng hiệu quả cũng không có lý tưởng. Nay lại tiếp tục đem ra thử nghiệm, chỗ từ ngữ không đạt ý mời độc giả xem:
    (1) Tổng thể từ ở trên phán đoán là vượng hay là suy, tạm thời rất khó phán đoán là Trung Hòa.
    (2) Ngũ hành rõ ràng thuộc về vượng, lại có thể trải qua khắc tiết hao, định là Thiên Vượng. Hoặc là nói, nắm vượng có thể sử dụng khắc tiết hao điều tiết đến trung hòa, gọi là Thiên Vượng.
    (3) Ngũ hành rõ ràng thuộc về vượng, hơn nữa không thể khắc hao, chỉ có thể tiết thuận tức định là thái vượng. Hoặc là nắm ngũ hành vượng tối hỉ tiết thuận, gọi là Thái Vượng.
    (4) Ngũ hành rõ ràng thuộc về vượng, hơn nữa tối hỉ là sinh trợ thì gọi là Cực Vượng.
    (5) Nếu rõ ràng thuộc về nhược, hơn nữa có thể sinh trợ, làm cho điều tiết đến trung hòa, gọi là Thiên Nhược.
    (6) Nếu rõ ràng là thuộc về nhược, mà còn tối hỉ là bị khắc khứ, không thể sinh phù, thì gọi là Thái Nhược (Nhớ: Thái nhược có căn cũng hỉ là sinh trợ, rất khó phân biệt ) .
    (7) Nếu rõ là ẩm thuộc về nhược, mà còn tối hỉ tiết thuận, và không thể sinh phù, gọi là Cực Nhược.
    Nhắc nhỡ cho độc giả, đây chỉ là kinh nghiệm nắm chắc mức độ vượng suy, cũng không phải là định nghĩa. Cực vượng, Thái vượng, Thiên vượng đến Trung hòa, Thiên nhược, Thái nhược, Cực nhược, giữa chúng nó, rõ ràng là tồn tại giai đoạn quá độ, bất kể bạn chia ra như thế nào, thời kỳ vượng suy của giai đoạn quá độ, nói chung làm cho bạn khó mà phân biệt, bởi vì lúc phân biệt mức độ vượng suy là do con người làm ra quy định, chỉ có thể phân chia làm ra nguyên tắc, từ trên vi mô bọn họ là liên tục không thể phân rõ. Trên hiện thực, bất luận là ở — bên trong phân biệt loại mức độ, lại tồn tại phân chia mức độ nhỏ là khác nhau. Như bên trong phép nói "Trung hòa" lại luôn phân ra trung hòa thiên nhược, trung hòa thiên vượng ( hoặc là thiên thượng, thiên hạ). Lại như ở bên trong Thái Vượng, vẫn có thể phân nhỏ ra. Cụ thể lúc phán đoán, thường không ly khai thực tế để thử nghiệm làm tham khảo, không có tham khảo thử nghiệm trực tiếp hoặc gián tiếp để phán đoán vượng suy, chỉ có thể dựa vào suy đoán theo kinh nghiệm trước kia.

    Dưới đây là đưa ra vài ví dụ thuyết minh đối với phương pháp phân chia ở mức độ vượng :
    VD 1, Nam mệnh sinh ở giờ Dần, ngày 24, tháng 3, năm 1964.
    Càn tạo: Giáp Thìn / Mậu Thìn / Giáp Dần / Bính Dần

    Cổ nhân đối với cục Chuyên Vượng là có tiêu chuẩn: Tức là mộc vượng không có kim; hỏa vượng không có thủy; thổ vượng không có mộc; kim vượng không có hỏa; thủy vượng không có thổ. Khái quát mà nói chỉ cần một ngũ hành nào đó vượng mà không có chế, tức là có thể gọi — Ngũ hành là Chuyên Vượng, chuyển đến ở mức độ vượng suy, thì thuộc về mức độ là Cực Vượng ( thông thường có thể là nói như vậy ). Mệnh tạo này chính là Giáp mộc vượng mà không có kim, lão sư lấy là Nhân Thọ Khúc Trực cách xem, đối chiếu cùng với sự thực, mệnh chủ hỉ thủy mộc, phù hợp lý luận là cực vượng cần sinh phù, nhưng trước đây tôi có phép xem khác nhau, bởi vì là Thân Tài lưỡng đình, Thân thiên nhược thủ Ấn hao Tài dừng tiết làm dụng, không biết phép xem của độc giả là như thế nào.
    1. VD 2, Càn tạo:

    Quý Mùi
    Giáp Dần
    Ất Mão
    Quý Sửu
    Giáp Tý
    Nhâm Tý
    Kỷ Tị
    Tân Hợi
    Canh Tuất
    Kỷ Dậu

    2.
    Xem 3 trụ ở trước là Quý Mùi, Ất Mão, Giáp Tý, chính ngũ hành là mộc can không có kim, trụ giờ nếu như không có kim (cũng bao gồm cả nạp âm), tứ trụ mộc cực vượng thì tự nhiên là dễ xem. Nhưng tạo này có trụ giờ là Kỷ Tị, trong Tị có tàng ẩn thổ kim, Địa Chi phú nói: "Chân thực giờ là nơi dẫn biến", chính là thế của trụ giờ thổ kim trong Tị nghịch thời với ba trụ thủy mộc, phá mất Nhân Thọ Khúc Trực cách. Như vậy, tác giả chuyển sang phân biệt mức độ vượng suy, tạo này rốt cuộc ngày không có vượng suy thuộc về loại nào ở mức độ vượng chứ? Độc giả có thề trước tiên phán đoán thử xem. Tôi kết luận hoàn coi như mộc cực vượng, thuộc về phá cách Chuyên Vượng cách. Thực tế mệnh cục này hỉ thủy mộc, kỵ kim vận và lưu niên kim. Nếu muốn lý giải đúng suy đoán loại này, tất cần phải xem trong Chương 4 ở phía dưới một tiết Áo bí của trụ giờ. Nếu như tạo ở trên trụ giờ là Canh Ngọ, sắp xếp bát tự là: Quý Mùi, Ất Mão, Giáp Tý, Canh Ngọ. Nhật can Giáp mộc chính là mở mức độ Thái Vượng. Canh kim đối nhau mà nói có thể phán thành Thái Nhược. Bất luận Giáp mộc là thái vượng, hay là Canh kim thái nhược đều phải thủ hỏa làm dụng.

    VD 3: Nam mệnh sinh ở giờ Thìn, ngày 24, tháng giêng, năm 1990.
    Càn tạo:

    Canh Ngọ
    5 t Kỷ Mão
    Mậu Dần
    15 t Canh Thìn
    Ất Mão
    25 t Tân Tị
    Canh Thìn
    35 t Nhâm Ngọ
    45 t Quý Mùi
    55 t Giáp Thân

    Tạo này cho dù địa chi bát tự hội mộc cục, nhưng thiên can có 2 Canh 1 Mậu, Ất mộc chỉ là Thiên Vượng. Giả như hoán đổi thành giờ Kỷ Mão hoặc Đinh Hợi sắp xếp bát tự sẽ là: Canh Ngọ, Mậu Dần, Ất Mão, Kỷ Mão hoặc là Canh Ngọ, Mậu Dần, Ất Mão, Đinh Hợi, do ở tính của đặc thù tổ hợp, Canh kim nếu mà không có tổn thương, lại cùng nhật can có tình tương hợp, y như cũ phải đoán Ất mộc nhật can là Thiên Vượng. Đây là thuyết minh nếu như phải làm cho tạo này nhật can Ất mộc phải trở thành mức độ thái vượng hoặc là cực vượng, không thể không nên đánh ngã triệt để Canh kim. Canh kim nguyên là có Tỉ có trợ vẫn khó mà đánh ngã, có căn không có tổn thương càng không thể nào đánh ngã được. Nói đến đây tác giả lại phải nói một chút, căn bản phán đoán mức độ vượng suy, không rời khỏi nắm chắc đại pháp sinh khắc cùng quy luật tổ hợp bát tự. Chỉ có thể đem quy luật phổ biến và quy luật đặc thù của thiên can địa chi sinh khắc chế hóa hình xung hợp hại cũng giống như ngón tay và bàn tay, mới có hi vọng nắm chắc chắn mức độ vượng suy.
    Ở trong quá trình phán đoán mức độ vượng suy, thường nắm chắc khó nhất là bởi vì chỗ quan hệ tổ hợp, đây cũng là nguyên nhân căn bản mà chỗ cổ thư đã nói: "Đắc lệnh không vượng, thất thời không nhược" . Không phải vậy, đắc lệnh tại sao lại không vượng chứ? Thất thời tại sao lại là không nhược chứ? Bởi vì tính đặc thù của tổ hợp, phán đoán mức độ vượng suy, thực tế biến thành phán đoán mức độ cường nhược. Một quan hệ tổ hợp luận mệnh khác nhau, là không thể nắm đúng mức độ các ngũ hành cường nhược hoặc vượng suy của bát tự.
    1. Lại như:
    VD 4, Càn tạo: sinh vào giờ Thân, ngày 19, tháng 5, năm 1976.

    Tứ trụ
    Số ngũ hành
    Đại vận
    Bính Thìn
    Thổ: 5+1=6 số
    Ất Mùi
    Giáp Ngọ
    Mộc: 3+1=4 số
    Bính Thân
    Kỷ Hợi
    Hỏa: 2 số
    Đinh Dậu
    Nhâm Thân
    Kim: 1+2=3 số
    Mậu Tuất
    Thủy: 4 số
    Kỷ Hợi
    Canh Tý

    2. Kỷ thổ sinh ở tháng Ngọ, hỏa dụng sự. Năm tháng toàn là hỏa thổ, trạng thái nhật can Kỷ thổ ở tháng Ngọ, hiển nhiên là đắc lộc là vượng, theo ngũ hành cường nhược toàn cục để xem nhiều hay ít, mức thấp nhất nhật can là thiên vượng không có nghi ngờ, nhưng mà bởi vì năm tháng hỏa thổ vượng, Giáp mộc lại sinh hỏa, Kỷ thổ âm can là "Tòng thế vô tình nghĩa" . Nhờ Giáp Kỷ hợp nhất, ra sức tưởng như hóa thổ, thế nhưng Giáp mộc có căn ở trong Thìn, có khí ở trong Hợi, có Nhâm thủy sinh, nói là không có tâm hợp Kỷ hóa thổ, hiện thực này, tìm cách để tình nguyện cùng ở chung nhà với Kỷ thổ là cách xa quá lớn. Kỷ thổ có vẻ như lực lượng thái nhược. Ở đây nói nhật can vượng suy, chính là nói đây là thực tế vượng suy, cũng là một đối lập với vượng suy, mà không phải là nhằm vào một loại tình huống nào đó mà nói. Mệnh chủ này vận Bính là vận rất may mắn, vận Thân không may, anh em chị em có 12 thai tổn mất 4 người.

    VD 5, Càn tạo sinh ở giờ Hợi, ngày 24, tháng 11, năm 1961

    Tứ trụ
    Số ngũ hành
    Đại vận
    Tân Sửu
    Thổ: 4+2=6 số
    Kỷ Hợi
    Canh Tý
    Thủy: 4+1=5 số
    Mậu Tuất
    Mậu Tuất
    Hỏa: 1 số
    Đinh Dậu
    Quý Hợi
    Kim: 4 số
    Bính Thân
    Mộc: 1+1=2 số
    Ất Mùi
    Giáp Ngọ


    Nhật can Mậu tọa Tuất thổ cường căn, còn có trụ năm Sửu thổ phù trợ. Nói nhật can trung hòa hoặc là trung hòa thiên nhược hầu như là không có sai, nhưng độc giả lại không để ý đến trụ ngày Mậu Tuất là Khôi Cương. Mệnh thư nói: Khôi Cương tối hỉ sinh vượng, đại kỵ Tài Quan sợ thân suy. Tiêu chuẩn sử dụng Khôi Cương lại phải xem mệnh cục, xung quanh hoàn toàn là Thực Thương, Tài cục, từ yêu cầu nhật chủ mà nói, sao không phải là thái nhược. Đối với thực tế phép xem vượng suy nói đến đây, tác giả đã xem bí quyết của lão sư hoàn toàn dấy lên mà ra. Mệnh chủ này gặp Giáp, Ất là tốt nhất, Bính Đinh cũng được, địa chi năm nào tốt nhất thì rất ít người biết được.
    3, Một đường tắt để nắm chắc vượng suy:

    Tác giả ở chỗ luận mệnh không phải là thần tiên, không có ai dám nói là họ đối với bất cứ ngũ hành vượng suy nào của bát tự, có thể nắm chắc được không sai một chút nào. Bởi vì:
    1, Bản thân lý luận mệnh học là không hoàn thiện;
    2, Dễ dàng phát sinh là có sai lầm ở trên tính toán ;
    3, Nhân tố Hậu thiên (chỉ ra xung quanh hoàn cảnh giờ sinh) lực ảnh hưởng tồn tại đối với mức độ vượng suy .
    Cho nên lúc suy đoán cụ thể, nếu như sự thật được kết hợp dự trắc phát sinh đã qua quá khứ, để trợ giúp phân tích mức độ vượng suy, người mới học cũng không thể xem là một con đường tắt nắm chắc chắn vượng suy. Nếu như sử dụng "Phép phản chứng đếm số anh em chị em" chính là tác giả thường sử dụng một chút kiểm nghiệm phán đoán vượng suy phải chăng là phương pháp chuẩn xác.
    VD 1, Càn tạo: sinh ở giờ Thìn, ngày 10, tháng 8, năm 1961
    Bát tự: Tân Sửu / Đinh Dậu / Ất Mão / Canh Thìn
    Đại vận: Bính Thân, Ất Mùi, Giáp Ngọ, Quý Mão, Nhâm Thìn , Tân Mão, Canh Dần
    3 13 23 33 43 53 63
    Có người nói có Đinh hỏa chế Sát, thân thiên vượng. Quả đúng nói là thân thiên vượng, tất cần lấy Sát làm anh em chị em, tính như vậy số Quan Sát =2+1+2 =5 số; có người nói là thân trung hòa, nếu nói thân trung hòa, thì lấy Kiếp làm anh em chị em, như vậy, tính toán số Tỉ Kiếp =2 (trụ ngày) +1 (trụ giờ) =3, có người nói là thân thiên nhược gần như là thái nhược, thì lấy Ấn cộng thêm Tỉ Kiếp làm anh em chị em, như vậy tính toán số Ấn, Tỉ Kiếp = 1 (trụ năm) +3 (trụ ngày) +2 (trụ giờ) =6, trên sự thực mệnh chủ có 5 anh em trai và 1 chị gái. Cho nên, chúng ta sẽ thông qua đếm số anh chị em ruột, để suy ngược mức độ thực tế vượng suy của nhật chủ là thân thiên nhược (lộc bị xung, thực ra một cao thủ xem chính là biết nó là thân thiên nhược, ở đây chỉ là lấy nói làm ví dụ thuyết minh phép này là có hiệu lực vậy).
    VD 2, Càn tạo: Giáp Ngọ / Nhâm Thân / Kỷ Mùi / Ất Hợi
    Đại vận: Quý Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Ất Mão
    Nếu sử dụng nhật can vượng suy đếm số anh chị em để phân tích tạo này, số Quan Sát = 4, còn số Tỉ Kiếp = 5, bởi vì hiện thực anh em ruột của mệnh chủ có 5 thai tổn mất 1, cho nên phải đoán nhật can trung hòa thiên nhược. Đối chiếu tình huống thực tế của mệnh chủ, chính xác phép xem nhật can thuộc trung hòa thiên nhược. Ví dụ như, mệnh chủ đến vận Quan Sát xa không bằng đến vận Tỉ Kiếp thuận lợi.
    VD 3, Càn tạo có bát tự: Ất Mão / Bính Tuất / Ất Mão / Mậu Dần
    Đại vận: Ất Dậu, Giáp Thân, Quý Mùi, Nhâm Ngọ, Tân Tị, Canh Thìn
    9 19 29 39 49 59
    Ất mộc sinh ở tháng Tuất, xứ đất tử tuyệt; nhật can tuy có thiên can Ất mộc và 2 địa chi Mão 1 Dần bang phù, biểu hiện xem là mộc nhiều mà cường, thực tế là bởi vì:
    Chính ngũ hành không có thủy, tức là hoạt mộc điêu khô không có gốc;
    Thiên can trụ tháng thấu ra Bính, Mão Tuất có thể hợp mà hóa hỏa;
    Cho nên, nhật can Ất mộc rốt cuộc mức độ vượng suy là trung hòa. Hỉ Canh kim và Tý thủy, kỵ hỏa thổ. Tình huống thực tế, mệnh chủ béo phì, sắc mặt hồng hào. Vận Giáp Thân, năm Bính Tý, mệnh chủ cảm giác là tốt nhất, năm này không chỉ phát tài, mà còn sinh một con trai. Năm Đinh Sửu, trái lại là bất thuận.

    Tiểu kết: Quá trình rèn luyện nắm chắc chuẩn xác mức độ vượng suy cần phải có một thời gian là tương đối dài. Muốn làm thần tiên, thì khẳng định không phải là thần tiên. Cho nên, dũng cảm trải qua thực tiễn, được lắng nghe dự trắc trải qua thực tế phản hồi. Hoặc hỏi một chút tin tức cố định, để bang trợ bồi dưỡng cảm giác chuẩn xác phán đoán mức độ vượng suy, là một quá trình hết sức trọng yếu, đây là để có đề cao đúng như chỗ có ích lợi tương xứng.
    Chương 3,
    Tiết 1, Yết mật thai đầu là âm dương nam nữ

    Tinh hoa sinh mệnh con người nhất thiết là ở trong giới tự nhiên, con người kéo dài chính là con cái của bản thân. Con người chịu bởi ngũ hành mà sinh ra, thuận ngũ hành mà lâu dài, ngũ hành đi mà biến. Nhưng mà, ngũ hành bát tự con người, không có thể thoát ly được ngũ hành trong tự nhiên. Bởi vì nó là ngũ hành phát triển tự nhiên ghi lại đến một giai đoạn nào đó, nó đã có dấu vết quỹ đạo Tiên thiên, cũng có xu thế quỹ tích của Hậu thiên. Chỗ "Tiên thiên" này giống như xu thế chỉ ra sinh mệnh đã có sẵn, là không thể thay đổi. "Hậu thiên" là chỉ ra sử dụng thay đổi lực không chế con người (có thể và không thể là trái ngược nhau). Thay đổi Hậu thiên có lực khống chế từ bên trong và lực khống chế từ bên ngoài. Ví dụ như nói, bản thên con người thời hiện đại không muốn sinh con nhiều, chính là lực khống chế từ bân trong, giai đoạn chính sách kế hoạch hóa gia đình không cho sinh con nhiều, chính là lực khống chế từ bên ngoài. Nhưng mà thai đầu trai gái âm dương, chắc chắn nói rằng hầu như là không có lực khống chế (có tình huống thông thường thì đương nhiên là có tồn tại tình huống đặc thù ). Cho nên thai đầu âm dương trai gái hẳn phải nói chủ yếu là do chỗ nhân tố Tiên thiên quyết định. Hoặc là thai đầu âm dương trai hay gái là trong mệnh đã chú định, do tác giả phán đoán thai nhi đầu tiên, tỷ số chuẩn xác có thể được chứng minh giới tính.
    Trước kia trong sách mệnh lý, hầu như đều có phép xem liên quan tới thai đầu trai gái âm dương, nhưng tỷ số chuẩn xác cực thấp. Đây là bởi vì bọn họ không có điểm mấu chốt nói ra mệnh lý ở trên ( hoặc căn bản là không muốn nói ra). Như "Nam mệnh can giờ khắc can ngày, thai đầu tiên là dương" đã có ứng nghiệm, cũng không có ứng nghiệm. Nhưng mà, một độc giả có đầu óc khoa học, quyết sẽ không cho rằng có tình huống không ứng nghiệm thì vứt bỏ nghiên cứu đối với nó, càng sẽ không đi ngôung cuồng thêm phê bình bác bỏ. Chúng ta đừng ngài theo trong ví dụ ứng nghiệm đi phân tích tổng kết tính thực chất quyết định nhân tố cuối cùng là ở đâu. Trước tiên, nam là dương, nữ là âm, vượng là dương, suy là âm, ... . Hơn nữa, vượng sẽ không vượng lâu, suy sẽ không suy lâu, âm và dương, dương và âm nói chung là ở biến hóa mà thay thế nhau. Sau là, có thể căn cứ quy luật thực vật sinh sống để làm ví dụ phân tích. Tôi cho rằng dương là quả, âm là hoa, trong giới tự nhiên tùy thời có thể thấy thực vật đều tồn tại xem tượng "Phồn hoa làm quả". Tức là làm ra cây nhiều kết quả, cây mập lại nở hoa nhiều (Thấy ở phần sau tác giả luận văn Luận bát tự Hiện tượng phồn hoa làm quả ), như vậy, giống như xem tượng sinh mệnh con người thuộc về thế giới tự nhiên sao có thể ngoại lệ chứ?
    Phân rõ âm dương nam nữ, trước tiên phải nắm hiện tượng "Phồn hoa làm quả" để xem tổng thể tượng âm dương nam nữ.
    Trong sách mệnh lý từ xưa đến nay, luôn nói nam lấy Thất Sát là con trai, Quan tinh làm con gái, đây là vì sao chứ?
    Tác giả ở lúc xem, cho rằng Quan Sát đều là vật khắc chế nhật chủ, chỉ là mức độ khắc chế khác nhau. Thất Sát và Nhật chủ là đồng tính, Quan tinh và nhật can thì là dị tính tương khắc, hiển nhiên đồng tính tương khắc so với dị tính tương khắc gay gắt hơn, khắc kịch liệt thì có thể làm cho thân càng "Làm" . Lại sử dụng một hiện tượng "Phồn hoa làm quả" để đối chiếu, tất nhiên là lấy Thất Sát làm con trai, Quan tinh dị tính làm con gái. Lai6 vì Thực là chế Sát, Quan sợ Thương, cho nên Thực, Thương người nào cường cũng có thể sử dụng tham khảo để đoán .
    Nói chung, nam lấy Thất Sát là con trai, Quan tinh là con gái. Đem Quan và Sát vượng suy ở trong nguyên mệnh cục bát tự, tính toán nhiều lần chính là phương pháp căn bản phán đoán nam mệnh âm dương nam nữ. Cùng dạng đạo lý, nữ mệnh lấy Thực thần là nữ, Thương quan là nam; Lại vì Ấn chế Thương, Kiêu đoạt Thực, cho nên đem Thực Thương vượng suy ở trong mệnh cục bát tự tính toán nhiều lần, chính là cơ bản để phán đoán nữ mệnh thai đầu là nam hay nữ (Ấn Kiêu tham gia đoán vào cũng là bởi vì Thực Thương ) .
    `Chẳng qua lúc tính toán vượng suy, hiện tượng "Phồn hoa làm quả" là điều kiện tiên quyết lớn, cân đo vượng suy cũng trải qua thực tế vượng suy sau khi xử lý phương pháp sinh khắc .
    Khái quát mà nói, dưới đây có mấy bước như sau:
    1, Nói chung nắm hiện tượng "Phồn hoa làm quả" giống như ở trong lòng;
    2, Nam mệnh nắm Quan tinh và Thất Sát tính toán vượng suy nhiều lần, lúc cần thiết có thể sử dụng Thực, Thương mà đoán thêm;
    3, Nữ mệnh nắm Thực thần và Thương quan tính toán vượng suy nhiều lần, lúc cần thiết có thể dùng Chính Thiên Ấn để đoán thêm;
    Dưới đây là ví dụ chứng minh:
    VD 1, nam mệnh: Tân Mão / Đinh Dậu / Ất Sửu / Kỷ Mão
    Nữ mệnh: Ất Mùi / Ất Dậu / Quý Mùi / Bính Thìn
    Đây là một đôi vợ chồng, xem từ Nam mệnh, Tân kim là con trai, do ở 2 Mão xung 1 Dậu, động căn của Tân, Đinh hỏa lại cái đầu Dậu, có lực khắc Tân, Kỷ thổ tọa Mão, cách bởi Ất mộc, không có lực cứu Tân can năm, Sửu Dậu bán hợp lại không hóa. Cho nên Tân kim Thất Sát tuy có như không, ngoài ra nhân tố ở giờ Mão làm cho nhật chủ biến vượng, tức là có tượng "Phồn hoa", cho nên chỉ có sinh 2 đứa con gái. Xem từ nữ mệnh, Thực thần Ất mộc 2 thấu 2 tàng, can chi không thấy một chút Giáp mộc Thương quan, cho nên so sánh thì có kết luận Thực thần so với Thương quan hơi vượng, cho nên thai đầu hai thai đều là âm.

    VD 2, nam mệnh: Bính Ngọ / Đinh Dậu / Kỷ Mão / Nhâm Thân
    Nữ mệnh: Canh Tuất / Kỷ Mão / Mậu Tuất / Nhâm Tuất
    Đây cũng là một đôi vợ chồng. Xem từ nam mệnh, Ất mộc Thất Sát là con trai, trong cục không có Giáp mộc chì có Ất mộc. Do ở Mão bị Dậu, Thân kẹp khắc, cho nên vẫn không thể lập tức đưa ra kết luận, lại xem Thực thần và Thương quan, hiển nhiên Dậu kim có Đinh cái đầu, Ngọ hỏa khắc, trong Thân Canh kim có Nhâm thủy hộ vệ, cho nên Thương quan thắng hơn Thực thần, lại trở về tính toán Giáp, Ất mộc Quan tinh Thất Sát, cuối cùng vì có Mão không có Giáp, cứu cánh là Thất Sát mạnh hơn Quan tinh, thai đầu là dương. Thực tế thai đầu là sinh con trai, sự thực thuyết minh chỉ xem quan hệ giữa can ngày và can giờ, kết luận thai đầu âm dương nam nữ quyết không phải hoàn toàn chính xác. Xem từ nữ mệnh, 1 Canh 3 Tân, Thương nhiều hơn Thực, lại do bởi Nhâm thủy có thể tiết khí Canh kim, địa chi Tân kim trái lại mà có thể được Tuất thổ sinh, cho nên cân đo Canh Tân cuối cùng là Thương nhiều hơn Thực, cho nên thai đầu là dương.
    VD 3 nam mệnh: Tân Sửu, Đinh Dậu, Ất Mão, Canh Thìn
    Nữ mệnh: Nhâm Dần, Đinh Mùi, Giáp Tý, Giáp Tuất
    Đây vẫn là một cặp vợ chồng, xem từ nam mệnh, Quan Sát lưỡng thấu, Quan nhiều cũng lấy Sát luận. Hơn nữa Ất mộc nhật can thuộc nhược, cho nên có tượng "Làm quả" , cho nên thai đầu là dương. Xem từ nữ mệnh, 1 Bính 3 Đinh, hiển nhiên Thương Quan vượng hơn Thực thần, có người nói Đinh Nhâm hợp, Thương quan Đinh hỏa có tổn thương, thực ra là Đinh Nhâm hóa mộc, mộc lại sinh hỏa. Cho nên cuối cùng vẫn là Đinh hỏa vượng ở Bính hỏa, huống chi Nhâm ở trên Bính, Bính hỏa khó xuất đầu, cho nên thai đầu là dương. Tình huống thực tế mệnh chủ năm 1986 sinh đôi bào thai nam.

    VD 4 nam mệnh: Tân Sửu, Canh Dần, Canh Thìn, Đinh Hợi
    Nữ mệnh: Tân Sửu, Quý Tị, Quý Hợi, Nhâm Tuất
    Đây là đôi vợ chồng, trong đó nam mệnh có Bính hỏa tàng ở nguyệt lệnh, thấu Đinh ở can giờ. Đinh hỏa Quan tinh và Bính hỏa Thất Sát cường nhược vẫn là khó phân rõ. Nhưng hiển nhiên đều là thân vượng, tức là béo phì, sử dụng hiện tượng "Phồn hoa làm quả" , tất thai đầu tiên sinh gái. Nhưng quyền hành toàn diện, xem từ nam mệnh, cân đo Bính Đinh, 1 tàng 1 thấu, lại có Dần và Hợi hợp, đối với Bính Đinh ảnh hưởng không lớn. Để nhìn thận trọng, lại đem Nhâm thủy và Quý thủy so sánh, Nhâm thủy vượng hơn Quý thủy. Lại kết luận do Nhâm vượng hơn Bính, suy lý đi đến ở trên Bính Đinh, cuối cùng Đinh vượng hơn Bính, cho nên thai đầu là âm. Xem từ nữ mệnh, cân đo Giáp, Ất, mặc dù trong bát tự có Giáp không có Ất, nhưng Tị Hợi xung, kim nhiều không có hỏa, cho nên Giáp mộc bị hắc nghiêm trọng. Tình huống thực tế là mệnh chủ sinh một đôi bào thai, hơn nữa là 1 nam 1 nữ, thai đầu nữ thuận lợi, thai sau nam nguy hiểm.

    VD 5, nam mệnh: Canh Thìn, Kỷ Sửu, Canh Thìn, Mậu Dần
    Nam mệnh này có ngày giờ tàng 2 Ất mộc đều bị chỗ thiên can Canh kim khắc hợp, nhưng chi giờ lại thấy Thiên Tài. Tình huống thực tế là mệnh chủ không có vợ, bạn gái thân nơi nào cũng có. Con đâu ?
    Đương nhiên cũng không có con chính thức, chỉ vì trụ giờ Bính hỏa ở trong Dần là Thất Sát là con trai, cho nên mệnh chủ trước mắt nghiền có một cháu. Có thể thấy có Thê Tài có con, đoán thai đầu âm dương nam nữ, cũng không khỏi không suy nghĩ điểm này.
    Đoán thai đầu âm dương trai gái, nam lấy Quan Sát đo lường, nữ lấy Thực Thương đo lường, kiêm xem hiện tượng "Phồn hoa làm quả" có thể là bách trúng bách phát, nhưng hai chữ "Đo lường" nói dễ vậy sao?
    Đặc biệt là bát tự có gặp loại hợp, xung quan hệ tổ hợp đặc thù, sử dụng không thể khinh suất, ví dụ như:
    VD 6, nam mệnh: Nhâm Ngọ, Quý Mão, Mậu Dần, Nhâm Tuất
    Nam mệnh này có nhật can Mậu thổ, lấy Giáp mộc làm con trai, Ất mộc làm con gái. Tất cả Giáp, Ất — trọng tàng ở trong địa chi Dần Mão. Như vậy, Giáp, Ất mộc ai cường? Tất cần phải xem tổng cộng kết quả giữa sinh khắc chế hóa, hình xung hợp hại lẫn nhau, đây chính là đo lường nhiều lần.
    Nếu muốn vừa nhìn biết ngay, đó không phải là một chuyện dễ dàng. Bởi vì tạo này lực lượng Dần Ngọ Tuất hợp cục, lớn hơn Mão Tuất hợp, cho nên Giáp mộc bị hợp, lực lượng giảm bớt, Mão lại là nguyệt lệnh, cho nên Ất mộc vượng hơn Giáp mộc, vì vậy thai đầu là âm. Tạo này trước mắt qua phân tích, Nhật can Mậu ai yếu, tựa hồ như cùng với "Phồn hoa làm quả" là mâu thuẫn. Thực ra tạo này Nhâm, Quý thủy, thấu 3 Tài tinh. Tài là nguồn dưỡng mệnh, sử dụng thực vật làm ví dụ, bón phân quá nhiều, cũng dễ dàng làm cho quả thực khó kết thành mà chỉ nở ra hoa.
    Điểm này ở phần sau trong bài vănLuận Hiện tượng Bát tự Phồn hoa làm quảcó tường luận. Thực tế mệnh chủ trướ đó liên tục sinh 4 thai nữ, thai thứ 5 là năm chết yểu, đến thai thứ 6 ở năm Nhâm Tý mới được thai nam.

    VD 7, mệnh nam: Nhâm Dần, Đinh Mùi, Bính Thìn, Bính Thân
    Nhật can Bính, Nhâm là Thất Sát, Quý là Quan tinh, xem từ Nhâm thủy thấu mà còn trường sinh ở Thân, Thân tàng thủy lại là Nhâm. Nhưng Đinh Nhâm hợp nhất, Dần Thân xung, Nhâm thủy khoảnh khắc hóa thành số không, thực tế là Quý thủy vượng hơn Nhâm thủy. Lại kết hợp thân vượng là tượng phồn hoa, cho nên khẳng định thai đầu là âm. (thực tế chỉ có một nữ nhi )

    VD 8, nam mệnh : Quý Mão, Mậu Ngọ, Nhâm Dần, Đinh Mùi
    Nhâm nhật can, Mậu là Thất Sát, Kỷ là Quan tinh. Đo lường Mậu Kỷ thổ, không chỉ Kỷ thổ vượng hơn Mậu thổ, mà còn Quý và Mậu tương hợp, Tài tinh lại trọng. Cho nên thai đầu là âm. Năm Kỷ Mão, Mão Mùi hợp tiến nhập mệnh cục, Kỷ khắc Quý thủy, Mậu thổ trái lại mà có lực, cho nên lại sinh 1 nam.

    VD 9, nữ mệnh: Tân Sửu, Ất Mùi, Giáp Tý, Giáp Tý
    Giáp nhật can, nữ mệnh lấy Đinh hỏa Thương quan là con trai, trong bát tự chỉ có Mùi trong có 1 trọng Đinh hỏa, không có Bính hỏa Thực thần. Nếu như không lấy thực tế lượng suy đo lường, chắc chắn cho rằng Đinh vượng hơn Bính. Thực ra không phải vậy, Sửu Mùi xung, Đinh hỏa chính bị Quý thủy khắc, sao có thể nói Đinh nhất định vượng hơn Bính. Lại xem mộc thiên can được Giáp Ất tương trợ, địa chi đắc khí, cho nên thân vượng. Cho nên thai đầu khó mà tải nam, con đầu là nữ.
    VD 10, nam mệnh: Bính Ngọ, Đinh Dậu, Nhâm Ngọ, Quý Mão
    Nữ mệnh: Kỷ Dậu, Kỷ Tị, Ất Tị , Canh Thìn
    Đây là dôi vợ chồng, xem từ nam mệnh, Kỷ thổ Quan tinh là nữ, trong Ngọ có Kỷ thổ sẽ không bị thương. Lại có hỏa là Tài, thiên can lưỡng thấu, địa chi lưỡng trùng, Tài khá trọng. Cho nên thai đầu là âm, cùng sự thực là phù hợp. Xem từ nữ mệnh, Ất nhật can Bính hỏa Thương quan là con trai, chi tháng Tị hỏa bị hợp, nhưng chi ngày Tị hỏa lại không bị tổn thương. Hiển nhiên Bính hỏa vượng hơn Đinh hỏa. Đo lường Thực và Thương tuyệt đối là Thương quan vượng hơn Thực thần, như vậy sao thai đầu không sinh con trai? Nhưng chỉ cần kết hợp hiện tượng "Phồn hoa làm quả" để so sánh phân tích, chúng ta có thể xem ra nữ mệnh này:
    l, Tài nhiều ( Mậu Kỷ thổ là Tài, Kỷ thổ lưỡng thấu, trụ giờ lại là thổ ) quyết định sinh nữ.
    2, Thân vượng ( Ất mộc lấy ở trong Thìn có Ất mộc làm căn, sinh ở tháng Tị đúng là cành nhiều lá tốt. Tường kiến bài văn Luận Ất mộc vượng suy ) quyết định sinh nữ.
    3, Bính so với Đinh vượng, quyết định sinh con trai.
    Điều kiện sinh nữ nhiều hơn sinh nam, cho nên thai đầu sinh nữ. Cùng thai đầu cô ấy sinh nữ là phù hợp. Ví dụ này thuyết minh lúc suy đoán phải đo lường nhiều lần, sử dụng tất cả các loại nhân tố tổng hợp phán đoán, mới có thể đúng bách phát bách trúng.
    Phụ: Luận Hiện tượng "Phồn hoa làm quả" trong bát tự

    Mọi người cần phải chú ý đến, thực vật trong giới tự nhiên tồn tại hiện tượng "Phồn hoa tố quả" . Phàm là thực vật lá cây cỏ hoa mập mạp, luôn nở nhiều hoa, phàm là luôn là kết quả nhiều thành cây. Bởi vì nắm ngũ hành mà sinh, cũng là sản vật trong giới tự nhiên, ở trong mệnh lý học thừa nhận ngũ hành bát tự đối với sinh mệnh con người hiện tượng làm ghi chép lại chuẩn xác. Như vậy, sinh mệnh con người cùng thực vật cũng giống nhu có đủ hiện tượng tự nhiên này. Nắm nhật can bát tự vượng gọi là "Phồn hoa", nhật can nhược chính là "Tố" . Sinh con gái sánh như nở hoa, sinh con trai chính là kết quả. Nhật can vượng, thai đầu sinh con gái; nhật can nhược, thai đầu sinh con trai, đây chính là hiện tượng "Phồn hoa tố quả" trong bát tự .
    VD như:
    Nam mệnh: Tân Sửu, Canh Tý, Mậu Tuất, Quý Hợi;
    Nữ mệnh: Canh Tý, Mậu Dần, Nhâm Thìn, Đinh Mùi.
    Đây là một cặp vợ chồng, đều là thân nhược, cho nên thai đầu sinh trai. Thực tế có hai đứa con trai.
    Ngoài ra, trong bát tự Tài là nguồn dưỡng mệnh, Tài tinh quá nhiều nuôi dưỡng quá thịnh, giống như thực vật bón phân quá nhiều, "Hoa" nhiều quả, đây là một hiện tượng đặc thù Phồn hoa tố quả.
    VD như, Nam mệnh: Nhâm Dần, Quý Sửu, Mậu Thìn, Nhâm Tuất, thủy là Tài, thiên can thấu ra 3 Nhâm Quý lại ở tháng Sửu, cho nên Tài vượng, thai đầu sinh con gái. Thực tế thai đầu là nữ, thai thứ hai là nam.
    Lại như Nam mệnh: Kỷ Dậu, Giáp Tuất, Giáp Tuất, Giáp Tuất, Tài đa thân nhược, thai đầu sinh nữ.

    "Phồn hoa làm quả" là một đại thủ pháp xem con cái từ trong bát tự, tình huống Tài đa cũng thuộc loại Phồn Hoa. Nhưng nếu muốn đoán được tinh diệu, còn cần phải kết hợp tình huống cung Tử Nữ, độc giả có hứng thú có thể đọc tiếp Mệnh lý Huyền cơ tham bí .
    Tiết 2, Quy luật cha mẹ chết trước hay sau

    Nam mệnh lấy Thiên Tài là cha, Chính Ấn là mẹ; Nữ mệnh lấy Chính Tài là cha, Kiêu Ấn là mẹ; cha mẹ chết trước hoặc chết sau có thể tuân theo Khẩu quyết dưới đây:
    1, Nam mệnh ( hoặc Nữ mệnh ) lấy Thiên Tài ( hoặc Chính Tài ) tinh và Chính Ấn (hoặc là Thiên Ấn ) tinh đo lường nhiều lần, thực tế người suy nhược, chết trước.
    2, Phụ Mẫu tinh bị khắc nghiêm trọng ( Khắc, bao gồm chỗ có hình xung hợp loại nguy hại ) là chết trước, chỉ suy nhược mà khó bị tổn thương là chết sau.
    3, Phụ Mẫu tinh thái vượng, lại trước đó hành vận sinh vượng là chết trước. ( nếu như mức độ thực tế vượng suy có thể nắm chuẩn xác 100%, như vậy căn cứ 3 điểm ở trên để phán đoán chắc chắn vạn lần không mất một ) .
    Anh em cha mẹ chết trước hay sau đều không có sai. Như vậy, trong bát tự của mọi người, Phụ Mẫu tinh mức độ vượng suy hoặc bị khắc ở sau khi cân đo kết quả thực tế đáng lẽ có kết luận giống nhau. Phải chăng là đúng như thế chứ ?
    Mời xem ví dụ dưới đây:
    VD 1 nam mệnh:
    Nhâm Ngọ / Quý Mão / Mậu Dần / Nhâm Tuất
    Quý Tị / Nhâm Tuất / Đinh Mùi / Tân Hợi
    Tân Sửu / Canh Tý / Mậu Tuất / Quý Hợi
    Ba nam mệnh ở trên là 3 anh em ruột, có nhật can đều là Mậu thổ, Nhâm thủy Thiên Tài là cha, Đinh hỏa chính Mão là mẹ. Đo lường vượng suy Nhâm thủy và Đinh hỏa, mức độ cường nhược cùng bị khắc, có Đinh hỏa đều tàng ở trong Tuất khố, mặc dù thiên can địa chi thủy không ít, nhưng trong trụ không có Thìn thổ xung Tuất, bởi thế thủy nhiều khó mà hại Đinh. Lại xem Thiên Tài Nhâm thủy, thiên can thấu rõ 3 Tỉ là cường, Mậu thổ có thể khắc Nhâm thủy hợp Quý thủy nhưng một lúc khử không hết thiên can cường thủy. Trong Nhâm thủy đắc lộc ở Hợi, còn có Hợi Tý Sửu hội thủy cục, thủy càng vượng. Thiên can chỉ có Mậu Quý hợp ( trong hợp có khắc ) . Do đó cha mẹ đều cao thọ. Nhưng nhất định lại có — người chết trước. Xem mệnh tạo ở vận hạn Tuất (56 —— 64 tuổi ) ; mệnh cố ở vận hạn Tuất (32 —— 40 tuổi ) đều là Mậu thổ nắm vượng, có lực khắc hợp Nhâm Quý thủy, kết quả năm 1998 Mậu Dần cha chết trước. Lại xem từ trên phương hướng lớn hai tạo xác định là Đinh hỏa dài âm u, Nhâm Quý thủy trái lại mà đều bị mậu thổ đến hợp khắc, tức là trải qua nhiều lần đo lường mới biết Thiên Tài bị thương vượt hơn Chính Ấn, cho nên mẹ 80 tuổi vẫn khỏe mạnh. Lại xem mệnh thứ , nhật can Đinh, Tân kim Thiên Tài là cha, Giáp mộc Chính Ấn là mẹ. Tân kim thấu can gặp Đinh hỏa khắc, Tuất trong có Tân kim cũng bị Mùi thổ hình khắc. Còn Chính Ấn Giáp mộc tàng ở trong Hợi, mặc dù nhược, nhưng giờ Hợi xa gốc, có thể hóa kim sinh Giáp mộc. Cho nên mệnh số phản ứng giống như bình thường thân thể mẫu thân nhiều bệnh, kết quả lại là cha chết trước.
    VD 2 dưới đây anh em 3 người trong bát tự cũng đều có — tin tức cộng đồng, tức là Thiên Tài tinh thực tế vượng suy nhược hơn Chính Ấn.
    Nam mệnh bát tự: Giáp Ngọ / Nhâm Thân / Kỷ Mùi / Ất Hợi
    Nhật can Kỷ thổ có Thiên Tài là Quý thủy, Bính hỏa là Chính Ấn, trong nguyên mệnh cục cả hai đều không có, như vậy thấu ra Nhâm thủy Chính Tài đại biểu là phụ thân, địa chi chỗ tàng Đinh hỏa Thiên Ấn là mẫu thân, đo lường vượng suy cường nhược của Nhâm thủy và Đinh hỏa, Nhâm thủy thấu ra thiên can, gặp mộc thổ giao chiến Nhâm thủy rất không an toàn, trái lại, địa chi Đinh hỏa khó bị thủy khắc, thiên can không có kim, khiến cho thủy không có gốc mà mộc không bị thương, cuối cùng Đinh hỏa kéo dái âm u ở Nhâm thủy, cho nên năm 1977 (Đinh Tị) cha chết trước, năm 1996 (Bính Tý) mẹ mới chết.

    Nam mệnh bát tự: Nhâm Dần, Giáp Thìn, Bính Thân, Nhâm Thìn
    Nhật can Bính hỏa sinh ở tháng Thìn, thổ nắm lệnh, hỏa tiến khí. Nhưng bởi vì thấu ra 2 Nhâm thủy, địa chi Thân Thìn củng thủy, còn thấp thổ làm mờ hỏa, cho nên nhật can cuối cùng là thiên nhược. Đo lường vượng suy Thiên Tài Canh kim và Chính Ấn Ất mộc , Dần xung Thân, Bính cái đầu, lại gặp năm Đinh Tị là đủ tam hình, hỏa tối vượng, đương nhiên Canh kim khó có sinh cơ. Trái lại, Ất mộc sinh ở tháng 3, thiên can thấu Giáp. Trích Thiên Tủy nói: Đằng la hệ Giáp, khả xuân khả thu. Cho nên cuối cùng Ấn vượng hơn Tài. Cùng là cha chết trước, mẹ chết sau.

    VD 3 nam mệnh :
    Mậu Thân, Giáp Tý, Nhâm Tuất, Tân Sửu
    Tân Sửu, Đinh Dậu, Ất Mão, Canh Thìn
    Nam mệnh nhật can Nhâm thủy, Bính hỏa Thiên Tài không thấy. Chính Tài Đinh hỏa tàng ở trong Tuất khố, chỉ vì Sửu Tuất đến gần tương hình dung hợp, nhật can mượn Thân Tý bán hợp đủ vượng thủy, tùy thời có thể thiết nhập trong Tuất khố. Cho nên Đinh hỏa không chỉ bị khắc, mà còn nghiêm trọng. Còn Tân kim Chính Ấn tọa Sửu thổ, thiên can địa chi thổ kim đều vượng, cuối cùng Chính Ấn vượng hơn Thiên Tài.
    Nam mệnh có nhật can Ất, thổ là Tài, thủy là Ấn, địa chi Mão Dậu xung chiến, thổ gặp họa nhất. Còn Quý thủy Chính Ấn tàng ở trong Sửu Thìn, trong bát tự không chỉ không có Mùi xung Tuất, mà còn gặp chữ Dậu đến hợp kim sinh thủy, cho nên thủy tuy là nhược mà gốc chạy dài xa. Có thể thấy anh em hai tạo có Chính Ấn vượng hơn Thiên Tài. Kết quả, năm 1997 cha chết, mẹ vẫn khỏe.

    VD 4, nam mệnh sinh ở giờ Thìn, ngày 18, tháng 2 năm 1957
    Bát tự: Đinh Dậu / Quý Mão / Canh Dần / Canh Thìn
    Đại vận: Nhâm Dần, Tân Sửu
    Mộc là Tài tinh thái vượng, vận đầu lại hành vận thủy mộc, can giờ Canh kim thấu xuất, Tiên thiên lại có huyền cơ khắc cha, cho nên Dần vận cha gặp họa, thực tế năm Đinh Mùi cha chết, mẫu thân 85 tuổi vẫn khỏe mạnh.
     
    Bahoian thích bài này.
  17. Mạnh Nhân

    Mạnh Nhân Thần Tài

    Chương 4, Quy luật tổ hợp bát tự, đại vận, lưu niên

    Tiết 1, Áo bí trụ giờ

    Thứ nhất,lúc đọc Trích thiên tủy , tôi hỏi thầy tôi: Tại sao ở Tiết "Giờ Sinh" không có đưa ra ví dụ ?
    Thầy trịnh trọng trả lời tôi rằng: "Trụ giờ khắp nơi đều là thiên cơ, thiên cơ sao có thể tiết lộ ư?" Cho tới bây giờ, tôi mới thấu hiểu thật sâu, phú quý bần tiện con người, cát hung phúc họa, mức độ ở trên là rất lớn, trụ giờ kèm theo có ký hiệu của Tiên thiên. Từ xưa đến nay có thuyết luận mệnh "Biết năm không bằng biết tháng, biết tháng không bằng biết ngày, biết ngày không bằng biết giờ" . Lại hay nói: Hợp thời, nghịch thời, sinh không gặp thời hoặc là sinh được gặp thời …, đây chẳng phải là thuyết minh trụ giờ ở trong bát tự là rất quan trọng hay sao? Mọi người đều biết, Nguyệt lệnh quyết định lớn tất cả khí hậu ngũ hành, nhưng không thể nào luôn là mùa xuân chứ. Tuyệt đại đa số cảm giác con người, đều cho rằng mùa Đông Thái Dương là vật báu quý nhất, đêm tháng mùa Hạ thật càng quý hóa. Nhưng Mặt Trời, Mặt Trăng cũng không quyết là sẽ không có lúc xuất hiện vô độ, mặc cho bạn tùy theo lòng mình. Đối với con người có cảm giác vui vẻ chính là hưởng phúc, có cảm giác đau khổ chính là bị họa. Ở dưới rất nhiều tình huống, chính là một lúc gặp thời hoặc là nghịch thời mà tự mang lại họa và phúc.
    Tuyệt đại đa số con người hiện tại có dưới điều kiện là hoàn toàn bị tự nhiên chi phối, con người sáng tạo tuyệt đối ít có hoàn cảnh tốt. Cho nên, tuyệt đại đa số con người đều là ở dưới điều kiện rất tự nhiên giáng sinh ở nhân gian. Giờ sinh ra chính là phân chia giới tuyến Tiên thiên và Hậu thiên của mệnh chủ. Ở đó tuy rằng không đủ ở trong thời gian là 120 phút đồng hồ, mệnh chủ từ một thế giới đi vào một thế giới khác. Ở lúc hoàn cảnh tự nhiên lần đầu tiên tiếp xúc với cơ thể bên ngoài của mẹ, có thể biến hóa không giống bình thường. Chúng ta từ trẻ sơ sinh tình huống phát dục biến hóa có thể nhìn được, giai đoạn ra đời là mỗi ngày mỗi dạng. Theo chỗ này mà suy luận, trong nháy mắt ra đời đó, biến hóa càng là không giống như tầm thường. Có thể nói, bất luận thủ đoạn khoa học khác như thế nào, đối với trẻ sơ sinh ghi lại nhân tố Tiên thiên, đều không bằng nhớ rõ thời gian ngũ hành ( bát tự nhân mệnh). Phú cho bản chất. Từ góc độ mệnh lý mà xem, trụ giờ chính là phân giới tuyến tiên hậu thiên con người, nó vừa bao hàm gien Tiên thiên của cha mẹ, cũng quyết định được cơ sở hậu thiên của mệnh chủ. Một người không tin vận mệnh, vừa lúc bị chỗ vận mệnh an bài. Cả đời cát hung của nó, biết một chút không tồi mà xem quy luật vận mệnh thực hành từng việc. Cũng không phải đoán mà tu luyện rất khó suy đoán, cùng với lúc điều chỉnh khí ngũ hành mệnh tạo của bản thân .
    Theo ở trên xem lịch sử phát triển mệnh học, trước đây triều Đường Lý Hư Trung là lấy ba trụ năm tháng ngày luận mệnh, mà còn có tỷ lệ khá là chuẩn xác. Có thể thấy xác định ba trụ phía trước, mệnh chủ chắc chắn thành thục, kế tiếp chỉ là chọn chuẩn thời gian tiến vào " Bể khổ" . Ba trụ phía trước lấy nhật can làm chủ thể, ứng thuộc bộ phận nội chất của bát tự. Trụ giờ là do cơ sở này mà phát sinh bộ phận tầng ngoài, hai bộ phận hợp thành nguyên mệnh cục tức là của bát tự. Thực tiễn nói cho chúng ta, cát hung họa phúc đều có thể ở trong bát tự tìm đến căn nguyên toàn bộ Hậu thiên, mà trụ giờ phản ứng là rất rõ ràng. Ba trụ trước của bát tự gọi là bộ phận nội chất của bát tự, trụ giờ gọi là bộ phận tầng ngoài của bát tự, đây là trọng điểm tác giả tham khảo quan hệ một loại tổ hợp. Nó tồn tại và ứng dụng, cũng không phủ nhận quan hệ những tổ hợp khác tồn tại và ứng dụng. Là làm cho ta thuận lợi mà nói tiếp thêm, tạm thời vẫn yêu cầu độc giả tiến vào trạng thái tư duy một loại tổ hợp. Là thuyết minh trụ giờ ba trụ phía trước, hoặc là nói tồn tại quy luật tổ hợp đặc thù của tầng ngoài và nội chất của bát tự, mời trước tiên xem ví dụ thực tế dưới đây:
    1, Tin tức ở trụ giờ
    ( 1 ) Dấu hiệu cát hung:
    VD 1, cháu trai của tác giả, sinh ở giờ Tý, ngày 27, tháng 8, năm 1974.
    Càn tạo: Giáp Dần, Giáp Tuất, Bính Tuất, Mậu Tý.
    Đại vận: Ất Hợi, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tị.
    Ba trụ phía trước, thổ táo không có thủy, thấu 2 Giáp mộc có thể sinh nhật can Bính hỏa, nhật can thiên vượng. Kỳ diệu là ở trụ giờ, chân thần nguyệt lệnh thấu ra Mậu thổ, chi giờ Tý thủy nhuận thổ, sinh kim, dưỡng mộc. Toàn bộ trụ giờ trở thành vật cần cho ba trụ trước, chính xác là sinh đắc phùng thời. Thực tế mệnh chủ 19 tuổi trực tiếp bước lên đại học, 24 tuổi đứng đầu bảng thi đậu nghiên cứu sinh Bác sĩ Thú Y Hoa Nam. Là người không chỉ có chỉ số thông minh cao, mà còn thương trẻ kính già khắp nơi, còn trẻ mà có phẩm đức cao thượng.
    Đúng lúc vừa có một cháu trai cùng năm, cùng tháng, cùng ngày nhưng khác giờ sinh.
    Càn tạo: Giáp Dần, Giáp Tuất, Bính Tuất, Ất Mùi.
    Chỉ vì chi giờ không có thủy, táo thổ không thể sinh kim, không có kim gọt mộc, mộc đa hỏa tức, cho nên mệnh chủ đi học sơ trung không tốt nghiệp, hiện tại dựa vào quan hệ làm việc ở trạm thú y, hoàn cảnh không tốt.

    VD 2, Càn tạo: Nhâm Thìn, Đinh Mùi, Tân Sửu, Giáp Ngọ.
    Càn tạo: Nhâm Thìn, Đinh Mùi, Tân Sửu, Nhâm Thìn
    Đại vận: Mậu Thân, Kỷ Dậu, Canh Tuất, Tân Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu
    Đây là 2 ví dụ xưa, bát tự đều lấy Đinh hỏa làm dụng, tạo trước chỉ vì sinh ở giờ Giáp Ngọ, trợ giúp hỉ dụng (mộc, hỏa), cho nên nhập vận Hợi có ứng danh dương hiển quan. Tạo sau sinh ở giờ Nhâm Thìn, địa chi thấp thổ và địa chi ba trụ phía trước dung hợp, khắc khứ căn Đinh hỏa trong Mùi, 2 thiên can Nhâm là cùng Đinh hợp, đúng là khắc. Đinh hỏa cùng dụng thần bị thương, cho nên nhập vào vận Hợi, xung quân ba vạn dặm, chết bất ngờ. Tuy nhiên hai tạo chỉ có cách nhau một giờ, kết quả lại là một trời một vực (trích từ Mệnh Lý chính tông trang 40 ), đạo lý là ở đâu ? Hiển nhiên là trước hợp trụ giờ Giáp Ngọ làm hỉ dụng, khiến cho mệnh cục trở thành phẩm chất rất tốt, hoặc là nói Giáp Ngọ một người đóng cửa, vạn người chớ có mở ra. Tuế vận bất lợi rất khó ảnh hưởng đến nguyên mệnh cục " Phần chất" ( ba trụ ở trước là Chất ). Còn tạo sau trụ giờ lại làm cho nguyên mệnh cục từ bên trong nội chất đến tầng bên ngoài là thông suốt ( tác dụng dung hợp), lúc này đại vận lưu niên hỉ dụng hoặc là kỵ thần thì dễ dàng thiết nhập ( cắt vào) nguyên mệnh cục. Đây chính là chỗ nguyên nhân điềm trụ giờ cát và hung. Trụ giờ hoặc gọi là "Bộ phận tầng ngoài" của bát tự không chỉ là vấn đề tăng giảm đối với hỉ kỵ của ba trụ phía trước " Bộ phận Nội chất" , mà còn là chỗ mấu chốt ngăn cản hoặc là tiếp nhận đại vận, lưu niên hỉ kỵ. Đây cũng là một mặt sau đường đi sinh khắc sắp sửa nói. Thì tạo trước giờ Giáp Ngọ đã làm cho nguyên mệnh cục có đủ một khí lực khỏe mạnh, cho nên, là làm cho trong vận Nhâm Tý, đại vận lưu niên có cơ hội thiết nhập mệnh cục, nhưng nguyên mệnh cục cũng vẫn là không dễ dàng bị tổn hại. Trừ phi đến khi về già nội bộ hoàn toàn lão suy.
    2) Dấu hiệu thọ yểu:
    VD 1, Khôn tạo: Canh Dần, Mậu Tý, Bính Dần, Canh Dần
    Đại vận: Đinh Hợi, Bính Tuất, Ất Dậu
    6 16 26
    Nhật can Bính hỏa sinh ở tháng Tý, không đắc lệnh. Thủy ngũ hành đắc lệnh lại không thấu, lại bị Mậu thổ cái đầu. Địa chi có 3 Dần tiết thủy thái quá, là bệnh. Cho nên, thủ kim sinh thủy làm dụng, 2 trụ năm và giờ lại đều tọa ở tuyệt địa. Đặc biệt là trụ giờ Canh Dần, địa chi và chi ngày dung hợp là kỵ thần gia tăng thêm lực. Nạp âm mộc lại sinh trợ hỏa cho tháng và ngày, trụ giờ hoàn toàn là lấy dẫn hỏa bát tự, cho nên là điềm hung. Ứng ở khi nào chứ? Nhập vận Bính Tuất, hỏa thổ cùng đến, lại thiên gặp lưu niên Bính Ngọ, Dần Ngọ Tuất hợp hỏa cục tiến nhập mệnh cục, 2 thiên can Bính thuận thế thiết nhập mệnh cục khắc 2 Canh, Ngọ lại xung mất Tý thủy, hỉ dụng đều tổn thương. Cho nên năm đó mệnh chủ bị hỏa thiêu mà chết.

    VD 2, Nam mệnh: Sinh vào giờ Dần, ngày 20, tháng 10, năm 1916.
    Bát tự: Bính Thìn, Kỷ Hợi, Bính Thìn, Canh Dần
    Đại vận: Canh Tý, Tân Sửu, Nhâm Dần, Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Tị
    Đây là một mệnh tạo người dân bình thường, cuộc sống bình thường cơm ra hàng ngày, làm nông cũng không mất, căn bản chưa nói tới nuôi dưỡng thân thể, cho đến năm 83 tuổi, tình trạng sức khỏe rất là tốt. Nghiên cứu mệnh lý nguyên nhân là do đâu chứ? Tôi xem nhật can Bính hỏa được trợ được sinh, nhưng ở tháng Hợi là nơi tuyệt địa, lại có 2 Thìn thổ tiết địa, nhật can thiên nhược. Chỉ vì địa chi trụ giờ, nạp âm đều là mộc sinh Bính hỏa, gọi là Tuyệt xứ phùng Sinh, hoặc gọi là Khí quán sinh thời, hoặc nói Dần và Hợi hợp hóa kỵ thành hỉ. Cho nên mệnh chủ cao thọ áo diệu hoàn toàn đều ở ngay trụ giờ. Theo tác giả suy đoán vận Thân năm Giáp Thân, đại vận lưu niên đền xung chi giờ, Hợi thủy đến lúc không chỉ bị giải hợp, mà còn được trường sinh dẫn đến thủy vượng khắc hỏa, khi đó khó mà qua khỏi cửa ải sinh tử. (Chú: chết vào năm Giáp Thân)
    ( 3 ) Dấu hiệu quý tiện:
    VD 1, Nam mệnh sinh ở giờ Mão, ngày 14, tháng 11, năm 1924.
    Bát tự: Giáp Tý, Bính Tý, Quý Hợi, Ất Mão
    Đại vận: Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tị, Nhâm Ngọ, Quý Mùi.
    Ba trụ trước nhiều thủy, mộc hỏa tuy nhược, nhưng đều thấu ra là hỉ dụng thần của bản mệnh cục. Trụ giờ Ất Mão, hợp Hợi hóa mộc sinh hỏa, khử bệnh nhiều thủy ở trong cục. Cho nên cả đời gặp hung hóa cát, mặc dù năm Mậu Tý một độ phiêu lưu hải ngoại, nhưng đến hiện nay thần thái hồng hào, tinh thần quắc thước, phú mà còn quý. Thảo nào cổ nhân nói "Bát tự quý hữu bệnh, vô thương bất thị kỳ, cục trung như khứ bệnh, tài lộc lưỡng tương tùy." Thảo nào mọi người vẫn thường cảm thán "Sinh phải gặp thời" .

    VD 2, Nam mệnh sinh ở giờ Tị, ngày 7, tháng 4, năm 1944 .
    Bát tự: Giáp Thân, Kỷ Tị, Nhâm Thìn, Ất Tị
    Đại vận: Canh Ngọ, Tân Mùi, Nhâm Thân, Quý Dậu, Giáp Tuất
    Nhâm thủy sinh ở tháng Tị, không đắc lệnh. Mà thiên can lại không có sinh trợ, chỉ dựa vào ở chi năm Thân kim, cùng Quý thủy ở trong Thìn làm căn. Ba trụ trước có Nhâm thủy nhược mà còn bị khắc là bệnh, thiên gặp trụ giờ hỏa vượng, sinh thổ, khắc kim, đối với nhật can càng thêm có hại. Tổng hợp tứ trụ xem nhật can Nhâm ứng là thái nhược, chỉ có thể bỏ đi, không thể sinh trợ, cho nên vận đầu hỏa thổ, hoàn toàn tính là y thực không thiếu, cũng tiến vào học ở trường. Nhâm Thân, Quý Dậu, nhật can phùng sinh trợ mệnh chủ bần bệnh giao cách mệnh gia, hiện tại vẫn chỉ là anh trai độ nhật, ngu tiện bất kham.

    VD 3, Càn tạo: Đinh Mão, Giáp Thìn, Mậu Ngọ, Quý Hợi
    Ba trụ trước có Sát vượng không có chế, trụ giờ không thấy Canh, Thân, Tân, Dậu, trái lại gặp Quý Hợi, thủy vượng mộc được trường sinh, đã vậy trụ giờ tương ứng với biểu tầng bên ngoài, như vậy, trụ giờ Quý Hợi có khắc Đinh hỏa, sinh Giáp mộc, tác dụng khắc Ngọ hỏa, đối với nhật can Mậu giống như trên tuyết lại thêm sương, trợ trụ là ngược. Cho nên mệnh chủ — sinh bần làm khất cái.
    ( 4 ) Dấu hiệu bần phú:
    VD 1, càn tạo: Kỷ Tị, Tân Mùi, Giáp Ngọ, Mậu Thìn
    Đại vận: Canh Ngọ, Kỷ Tị, Mậu Thìn, Đinh Mão, Bính Dần, Ất Sửu
    9 19 29 39 49 59
    Ba trụ phía trước có địa chi hội hỏa cục, bản khí nguyệt lệnh lại là táo thổ. Giáp mộc nhật can cần gấp thấp thổ để bồi căn, vừa đúng gặp trụ giờ Mậu Thìn, bồi đắp cho Giáp mộc, khử hao táo khí ở trong Mùi, cuối cùng làm cho nhật chủ dễ chịu. Tổng hợp xem, Thân nhược Tài vượng, lấy mộc làm dụng, thủy có thể sinh mộc khử viêm là hỉ. Cho nên nguyên mệnh cục bát tự bởi vì điều kiện Thìn mà cấu thành phú, chỉ có lấy tuế vận phù thân, thực tế mệnh chủ sau 43 tuổi có Mão Mùi hợp cục bang thân, phú quý cùng đến. Vận Bính Dần mặc dù Giáp mộc lâm vượng địa, nhưng Dần Ngọ hóa hợp thành công, Tuế quân không bang thân trái lại nối giáo cho giặc. Đến năm Canh Thân, hỏa kim tương chiến dụng thần mộc ngũ hành chỗ đất khắc tiết vô sinh, mệnh chủ bị hại (căn cứ Dần vận không trợ giúp Giáp mộc, mà lại trợ giúp hỏa. Có thể suy đoán mệnh chủ chết oan uổng) , chỗ này là mệnh tạo của Tấn thư Thông hội Sở Tái Thạch Sùng.

    VD 2, càn tạo: Nhâm Thìn, Tân Hợi, Giáp Tuất, Bính Dần
    Đây là một vận đến Nam phương, một phú mệnh phát như sấm. Nhân tố mệnh lý chính là ở trụ giờ "Bính Dần" . Ba trụ trước có Giáp sinh tháng Hợi là Tướng địa, nhưng địa chi thổ khắc thủy, thiên can Tân Nhâm Giáp. Tọa Tuất cướp lực làm hao Giáp mộc, chỗ này mà nói là bộ phận nội chất ( ba trụ trước), Giáp mộc thiên nhược. Chỉ bởi vì trụ giờ là Bính Dần, Dần là Nhật Lộc, Bính và Tân có công hóa thủy, cho nên nhật can bởi do trụ giờ mà từ nhược chuyển sang cường. Tổng hợp phán đoán thủ can giờ Bính hỏa làm dụng, mộc là hỉ thần, toàn bộ mệnh cục chi giờ Dần mộc nghìn cân gánh nặng trên đôi vai, cho nên giao vận Giáp Dần bắt đầu phát triển, sau đó một mạch thuận phong, cuối cùng trở thành phú mệnh.

    Áo bí của trụ giờ không ngừng tiếp cận vài loại điềm báo ở trên (điềm báo cũng không chỉ là chỉ có ở trụ giờ). Tương tự ví dụ thực tế ở bên trên, tin tưởng độc giả trong sinh hoạt cũng nhất định gặp chỗ này là không thiếu, như vậy áo diệu của trụ giờ rốt cuộc là ở đâu chứ ?
    Tiết 2, Đường đi một huyền cơ của Đại vận, Lưu niên thiết nhập Mệnh cục

    Bát tự trong Mệnh lý học, là ghi lại ngũ hành sinh mệnh của con người phát triển đến một giai đoạn đặc thù nào đó. Thai nhi giáng sinh ở thế gian, giống như đem hạt giống tung ra khắp mặt đất, hạt giống có thể phân ra làm hai bộ phận là nội chất và tầng bên ngoài. Nội chất hạt giống tốt, lại còn có lớp võ bên ngoài tốt để che chỡ bảo vệ, hạt giống không xấu là thượng thừa. Nội chất có khuyết điểm, lớp bì bên ngoài tốt đối với hạt giống đích xác là có tác dụng bảo hộ, thì tình huống thông thường có thể che dấu cái khuyết điểm, hoặc nói là có thể đề phòng ngăn ngừa phá hư độ sâu từ bên ngoài. Biểu bì bị phá tổn hoặc là trên cơ bản không có tầng ngoài để bảo hộ hạt giống, nội chất lại tốt, cuối cùng có xâm nhập và tấn công từ bên ngoài. Bát tự nguyên mệnh cục thì cùng với hạt giống là như nhau, có thể phân thành bộ phận nội chất và bộ phận tầng ngoài, ba trụ phía trước là bộ phận nội chất (chỉ nói tương đối ), trụ giờ tức là bộ phận tầng ngoài. Từ hạt giống thực vật để xem phát sinh và bệnh họa, thông thường đều cần phải trải qua từ tầng ngoài. Thời kỳ sinh trưởng phát dục cũng luôn bởi vì điều kiện thành thục từ bên ngoài, thúc đẩy nội chất đột phá tầng bên ngoài mà ra; thông thường phát sinh bệnh tật là do điều kiện từ bên ngoài đáng lớp vỏ bên ngoài lại làm tổn thương đến nội chất mà gặp tai ương. Từ trong luận thuật phía trước có liên quan đến kết cấu của bát tự, chúng ta đã nói rõ một chút tác dụng của trụ giờ, một tiết này chủ yếu là đem luận thuật đường đi một huyền cơ của Đại Vận, Lưu Niên thiết nhập Mệnh Cục —— Trụ giờ. Mọi người đã biết, đại vận lưu niên không ngừng mà vận chuyển, vận động lại có lực lượng. Tất cả các ngũ hành nguyên mệnh cục là cá thể, lực lượng thuộc thứ tầng thấp, mà giữa các ngũ hành nói chung thứ tầng cao đối với thứ tầng thấp phát sinh loại tác dụng tính quy luật sinh khắc chế hóa, hình xung khắc hại. Do vậy, 6 trụ 12 chữ đan chéo nhau rất phức tạp, ngũ hành sinh khắc tuần hoàn không ngưng. Cho nên, ở lúc thực tiễn cụ thể, nếu như không giảng bất cứ điều kiện nào, như vậy sinh khắc, thì là vĩnh viễn chỗ tuần hoàn là không có ngừng, nhưng mà rõ ràng là không có phù hợp với thực tế.

    Từ xưa đến nay rất nhiều sách mệnh chỗ giảng giải ngũ hành sinh khắc, thực tế là một loại quy tắc phổ biến, ở trong quá trình suy đoán cụ thể, thì phải nhường chỗ cho quy luật đặc thù, phải từ đặc thù đến thông thường. Ở đây quy luật đặc thù cũng chính là liên hệ đặc thù ở giữa can chi. Ở dưới tình huống thông thường, tương đối mà nói, quan hệ Hợp là vị trí đứng đầu. Hai ngũ hành tương hợp có tốc độ kết hợp rất nhanh đến thành một khối, rất là kiên cố. Xung là xếp vị trí thứ hai. Dung hợp xếp là vị trí thứ ba. Hình cũng là một loại liên hệ đặc thù, còn sinh khắc là bình thường, ứng thuộc về vị trí thứ năm. Đương nhiên, điều kiện lúc phát sinh biến hóa, thông thường quan hệ cũng có thể tăng lên thành quan hệ đặc thù, tức là lại có thể hình thành qua lại đường đi mới. Ở lúc nghiên cứu dưới đây "Trụ giờ" điều này là tuyến đi huyền cơ, chúng ta thủ trước tiên thì hẳn là biết rõ trình tự sinh khắc trọng yếu này, lại xem vị trí đặc thù này như thế nào từ trụ giờ, lập cục nhân mệnh.
    1, Thiết nhập Hợp
    Nếu lúc can chi đại vận, lưu niên và trụ giờ tương hợp, can chi đại vận, lưu niên mới gọi là bởi vì hợp mà thiết nhập nguyên mệnh cục, đơn giản gọi là Thiết nhập Hợp.

    VD 1, Nam mệnh sinh ở giờ Thân, ngày 6, tháng 8, năm 1918;
    Bát tự: Mậu Ngọ, Tân Dậu, Canh Thân, Giáp Thân
    Đại vận:
    Nhâm Tuất, Quý Hợi, Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị.
    9 19 29 39 49 59 69 79
    Năm: 1927 1937 1947 1957 1967 1977 1987 1997
    Bát tự kim thái vượng, rất rõ là dụng thủy. Năm 1997 đúng 79 tuổi, nhập vận Kỷ Tị. Kỷ Tị và trụ giờ Giáp Thân, là thiên hợp địa hợp, trụ giờ đại biểu bát tự là da bên ngoài, bởi vì hợp mà phá hư. Tức là làm cho hợp mà không hóa, nhưng do ở hỏa, thổ đều vượng, trong Thân có Nhâm thủy bị "Khử bì", dụng thần bị thương đương nhiên là bất lợi. Nhưng năm 1997 Đinh Sửu, Tị, Sửu cũng có thể giải cứu Nhâm thủy ở trong Thân (Sửu và Thân, cùng với Tị có xu hướng ở kim ) . Cho nên, tuy tiến vào vận kỵ thần, nhưng không thấy hung. Tiến vào Mậu Dần, lưu niên, đại vận cùng giờ đến hình khắc chi giờ Thân kim, lúc này Nhâm thủy Thực Thần hoàn toàn bị Mậu thổ Kiêu thần đoạt. Thân hợp Tị lại cũng không giải cứu Nhâm thủy dụng thần, cho nên mệnh chủ ở năm 1998 tháng Mậu Thìn bỏ vợ. Quay trở lại xem một chút mệnh chủ ở vận Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn như thế nào? Mệnh chủ ở năm 1967 tiến vào vận Bính Dần, Dần xung phá trụ giờ Thân kim, các lưu niên thuận thế tiến nhập mệnh cục. Cho nên, 10 năm này mệnh chủ cát hung là rõ ràng, do bởi dụng thần đa số bị khắc, cho nên là chủ 10 năm bất thuận. Năm mới tiến vào vận Đinh Mão, lưu niên gặp đúng Đinh Tị, dẫu cho lưu niên đại vận đều là hỏa vượng, nhưng Tị Thân hợp, đúng giải xung Dần Thân. Mão thay thế Dần, xem ra đều là mộc, nhưng thực chất có phân biệt khác nhau. Nguyên nhân Mão và Thân không có quan hệ đặc thù, trong Thân có Nhâm thủy lại không dễ dàng bị thương, trái ngược với vận Bính Dần mà nói là dụng thần thoải mái hơn nhiều. Cho nên 10 năm này mệnh chủ bình thuận. Trong đó từ năm Đinh Tị đến năm Kỷ Mùi Quan tinh ngẫng đầu, dụng thần không tổn thương, mệnh chủ trước sau có 2 đứa con bắt đầu đi học, một nữ đi làm công xưởng. Sau năm 1982 gia cảnh chuyển tốt triệt để. Lại xem lưu niên Kỷ Tị, mệnh chủ đúng đến vận Mậu Thìn, Kỷ Tị hợp phá trụ giờ, đại vận Mậu Thìn thuận thế tiến vào mệnh cục, chi Thìn vừa khắc thủy cũng vừa cùng với Thân củng thủy ( chi ngày còn có 1 Thân ). Cho nên mệnh chủ có nhiều bệnh tâm đập mạnh lo sợ, cũng có hỉ sự xuất hiện cho con trái. Năm này — có thể nói là cát hung cùng lộ ra rõ ràng. Ví dụ thuyết minh ở trên, nếu như đại vận phá trụ giờ, ở lưu niên 10 năm cát hung; nếu như lưu niên phá trụ giờ, cát hung năm đó sẽ hiện rõ; ứng cát hoặc hung là do đại vận lưu niên hợp lại mà đoán. Cũng chỉ có sau lúc đại vận, lưu niên thiết nhập nguyên mệnh cục, 6 trụ mới một lúc khởi luận sinh khắc. Cũng không phải tùy tiện thời khắc gia giảm ngũ hành 6 trụ, càng không phải là chỉ có nắm can chi tháng ngày giờ trong đại vận hoặc là lưu niên tùy tiện nạp nhập nguyên mệnh cục mà luận sinh khắc.
    2, Thiết nhập Xung
    Đang lúc can hoặc chi đại vận, lưu niên cùng với trụ giờ lúc tương xung, can chi đại vận, lưu niên mới gọi là bởi vì xung mà thiết nhập nguyên mệnh cục, đơn giản gọi là Thiết nhập Xung.
    VD 2, Nam mệnh sinh ở giờ Thân, ngày 20, tháng 7, năm 1968.
    Bát tự : Mậu Thân / Canh Thân / Ất Mão / Giáp Thân
    Đại vận: Tân Dậu / Nhâm Tuất / Quý Hợi / Giáp Tý / Ất Sửu / Bính Dần
    8 18 28 38 48 58
    Bát tự kim thái vượng, lấy thủy thông quan làm dụng. Mệnh chủ 28 tuổi hành vận Quý Hợi lại đi đến bờ biển Nam phương, cho nên xu thế lớn là chuyển tốt. Nhưng năm 1994 Giáp Tuất mệnh chủ cảm giác chỉ là bình thường, thẳng đến năm 1996 Bính Tý cùng với địa chi trụ giờ tương hợp, dụng thần, Hợi Tý thủy mới thuận thế tiến nhập mệnh cục, năm này mới đúng Tài Quan song mỹ. Năm 1998 Mậu Dần cùng với trụ giờ Giáp Thân là thiên khắc địa xung, tức là lấy phương thức địa chi xung mà thiết nhập mệnh cục, nói là hỉ nhưng là Dần và Hợi hợp, Mậu và Quý hợp, Quý Hợi thủy tiến nhập mệnh cục toàn bộ bị lưu niên hợp chắc mà không thể đúng thông quan. Còn lấy Thái tuế một là hậu trường, cường vượng khởi đến kích chiến cùng trong nguyên cục kim cường vượng, kết quả là thổ gặp tai ương. Cho nên năm này mệnh chủ đại phá tài ( thổ là Tài ), công việc nguy hiểm bị công chức chen vào mất. Nói chung, đến Bính Tý, Mậu Dần một cát một hung là hết sức rõ ràng. Tương xung thiết nhập mệnh cục có ví dụ rất nhiều, cũng khá là linh nghiệm. Ở đây ví dụ đưa ra không nhiều nguyên nhân là phía sau có rất nhiều ví dụ thực tế suy đoán có nhiều luận thuật, có đủ để độc giả tham khảo.

    3, Thiết nhập Dung hợp
    VD 3, càn tạo: sinh vào giờ Thân, ngày 19, tháng 2, năm 1957.
    Bát tự: Đinh Dậu / Quý Mão / Tân Mão / Bính Thân
    Lưu niên: Năm 1992 Nhâm Thân, năm 1998 Mậu Dần
    Mệnh chủ là một mệnh quan, cũng hiểu mệnh, mới đến cửa, vừa ngồi xuống đã nói ra bát tự ở trên, nói là mộ danh mà đến. Tôi xem hình dáng và bát tự cơ bản của anh ta là không ổn định, liền nói thẳng " Bạn sinh ra là ngày 19 tháng 2, nói giờ không sai chứ, năm 1992 đại tai, năm 1998 cũng có việc", anh ta hỏi "Việc gì chứ ?". Tôi nói "Bị người ám toán" . Mệnh chủ một tiếng không nói, xem ra, thì dựa vào hai câu nói mệnh chủ hạ xuống phong cách làm quan, bắt đầu hướng về tôi nói hết nỗi lòng. Thực ra là, tôi trong khoảng thời gian ngắn vội vàng bấm ngón tay tình ngày sinh, căn bản thì không có thâm nhập để phân tích. Vậy làm sao dám chắc hai năm 92, 98 là có chuyện, mấu chốt là tôi nhìn thẳng giờ Bính Thân, Nhâm Thân và Bính Thân địa chi dung hợp (tức là Tỉ hòa) đây gọi là lấy phương thức lưu niên dung hợp thiết nhập mệnh cục. Mậu Dần và Bính Thân có địa chi tương xung, đây gọi là lấy hình thức lưu niên tương xung thiết nhập mệnh cục. Đang lúc lưu niên bất luận lấy phương thức nào thiết nhập mệnh cục, trong năm này, ngũ hành trong tự nhiên thì theo bốn mùa trực tiếp biến hóa cùng với ngũ hành nguyên mệnh cục bát tự phát sinh chạm nhau, mùa Xuân mộc vượng, mùa Hạ hỏa vượng, mùa Thu kim vượng, mùa Đông thủy vượng. Tất cả ngũ hành trực tiếp đối với bát tự sản sinh hiệu ứng. Trong năm này mệnh chủ cát hay hung thông thường là rất rõ ràng. Kết qua ứng cát hay là ứng hung, thì phải dựa vào hỉ kỵ mà định. Thực tế mệnh chủ năm 1992 có tai thương. Đường Quan thất ý. Năm 1998 cảm giác công tác xuất sắc, đôi mắt chở thăng quan, lại bị người khác hãm hại. Bản thân anh ta dùng cấu nói "Chớ nói anh ta thăng quan cuối cùng cũng thăng quan... ."
    4, Ngoại lực xông vào mạnh mẽ
    Hay là dùng hạt giống thực vật để so sánh. Mặc dù là có nội chất và biểu bì hạt giống đều tốt, nhưng nếu nó ở trong chỗ nước sâu lửa nóng, hiển nhiên cũng tất là có tai họa. Đây chính là nói tồn tại một đại vận, lưu niên nào đó có lực lượng quá là mạnh mẽ, giống như nướng bốc hơi vậy. Cũng có thể đột phá trụ giờ mà nhập mạnh vào mệnh cục. Ở trong thực tiễn có thể phát hiện nắm chắc loại phương pháp này thiết nhập mệnh cục mấu chốt vẫn là phải trở lại làm sao phải nắm chắc vượng suy là chủ đạo. Còn phải thuyết minh, lúc cường lực mạnh mẽ nhập vào mệnh cục, không hề chỉ là đối với trụ giờ mà nói, hầu như là phải đồng thời cùng vớ tứ trụ phát sinh tác dụng, quan hệ đặc thù hay là như cũ mà tiến.

    VD 4, Càn tạo: Nhâm Thìn / Quý Sửu / Quý Dậu / Bính Thìn
    Đại vận: Đinh Tị / Mậu Ngọ
    Năm 1997 bắt đầu đến vận Mậu Ngọ, Thái tuế Đinh Sửu và ( trụ giờ) Bính Thìn dung hợp thiết nhập mệnh cục. Bởi vì Thìn Dậu tương hợp, kỵ thần Mậu Ngọ đối với dụng Thìn Dậu kim chỉ có tác dụng uy hiếp, cũng không thể có đủ thành thương hại triệt để.
    Năm 1998 Mậu Dần, Ngọ hỏa được trường sinh, tăng cường lực uy hiếp, Dậu kim bị khắc, cho nên năm đó mệnh chủ bản thân không chỉ có công tác bất thuận, mà còn vợ bị đại bệnh. Năm 1999 Kỷ Mão, lực lượng Ngọ hỏa không chỉ có tăng mà không có giảm, lại còn biến thành tà dâm. Thêm chi Mão xung Dậu động, giải cứu Thìn Dậu hợp, Ngọ hỏa hoàn toàn chế khắc mất Dậu kim, Dậu kim lại cũng không thể sinh trợ nhật chủ. Dụng thần gốc hoàn toàn sụp đổ. Cho nên, cuối cùng mệnh chủ có ứng vào tháng 2 năm Kỷ Mão chết.
    Mọi người đều biết rõ, ở lúc suy đoán cụ thể, gặp hình dễ dàng ứng cát hung, hơn nữa hung nhiều cát ít. Ví dụ như Tý Mão tương hình, thực chất chính là Tý nhiều thấy Mão liền hình Mão, Mão nhiều thấy Tý liền hình Tý, đây là kết qủa thực tế lực lượng khác xa nhau. Lại như Thìn thấy Thìn, Dậu thấy Dậu … cũng là tập kết lực lượng tạo thành cường lực mà thiết nhập mệnh cục, còn có Sửu Mùi Tuất tam hình, lại là thổ vượng tùy thời có thể mạnh mẽ mà nhập vào mệnh cục. Đương nhiên, đã là hình tất cũng có tính đặc thù khác, như phương pháp thuyết minh Dần Tị Thân thiết nhập mệnh cục còn có tồn tại rất nhiều phương pháp khác thiết nhập mệnh cục. Phương thức đại vận, lưu niên thiết nhập mệnh cục chính xác là có nhiều dạng, bên trên chỉ có vài loại mà tác giả ở trong thực tiễn tổng kết ra, đồng thời ở trong quá trình phân tích thực tế mà suy đoán. Thường là đại vận lưu niên không nhất định là một loại phương thức thiết nhập riêng lẻ, do vậy, tất phải cần đối diện các loại phương thức ở trên bao gồm cả thiết nhập hình đều phải tham khảo cùng sử dụng, mới có thể cơ bản ứng phó tình huống càng thêm phức tạp .
    Chương 5, Tiết 1, Tiêu chí Di hoa Tiếp mộc

    Từ xưa đến nay, có khối người cho làm con nuôi hoặc là gửi rễ, ở trên xã hội gọi nó là "Di hoa tiếp mộc" . Nhớ lại thuở nhỏ có bốn vị thầy đoán mệnh trước sau đã từng nói nó là ở rễ nhà khác. Khi đó chúng ta cũng chỉ là bán tín bán nghi, sau khi học mệnh tôi mới có hứng thú đối với chỗ này, một ngày tôi cầm đến bốn bát tự cho lão sư xem, hỏi bốn người này có đặc trưng gì là chung, lão sư xem một lúc, mở miệng nói "Đều là Di hoa tiếp mộc", lão sư suy đoán chuẩn xác khiến cho tôi chấn động. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho tôi càng tin quy luật tồn tại khách quan bát tự mệnh con người —. Hiện tại tôi ở trong thực tiễn từng bước tổng kết tìm kiếm quy luật, cuối cùng là trong đó thấy rõ một điểm huyền cơ, ở đây cung hiến cho bằng hữu có duyên. Mọi người đều biết, trụ tháng là cung huynh đệ, can ngày là đại biểu bản thân, nếu như năm mệnh hoặc là can ngày và cung huynh đệ không hài hòa. Tự nhiên khó cùng huynh đệ dung hoà tương xứ. Nguyệt lệnh địa chi lại là môn hộ, nếu lúc môn hộ bị khắc hoặc bị xung phá, thì khó mà trú ở trong nhà. Lại có Nguyệt Đàm phú nói: Năm xung Nguyệt lệnh cuối cùng là xa rời tổ tông. Tức là nói môn hộ mệnh chủ va đất tổ tông là không hài hòa. Ở trên phương diện Thập Thần, Ấn tinh ở trong lục thân đại biểu là trưởng bối, mẫu thân. Ở vật đại biểu là chỗ ở của bản thân, phải chăng là xa tổ tông ra khỏi nhà, nhân tố Ấn tinh là cũng nên suy tính. Nguyệt Đàm phú lại nói: "Nam gặp Tài đa thân nhược là xa rời tổ tông mà cầu hôn, nữ gặp Ấn vượng Quan khinh, ngồi ở nhà mà ghẹo chồng." Có thể thấy Ấn suy và vượng có thể quyết định mệnh chủ đi hay ở. Chẳng qua mức độ chuẩn xác còn phải biết rõ vượng suy. Bởi vì đến cực điểm vẫn còn hướng đi mặt trái. Nhân mệnh sinh biến, hẳn là nói cùng giới tự nhiên thực vật sinh trưởng có giống nhau lý lẽ âm dương. "Di hoa tiếp mộc" là một loại tượng trưng đối với một loại thực vật nào đó biến hóa, ở lúc "Di" hoặc "Tiếp", khó tránh bản thể sẽ có vết thương nhất định. Cho nên trong bát tự tất có hình thương cũng là một tiêu chí trọng yếu.

    Tổng hợp lại để nói, tiêu chí Di hoa Tiếp mộc hẳn phải là có đủ 3 điểm sau:
    1, Đề cương bị khắc. ( Địa chi năm, có ngày cùng giáp khắc càng ứng nghiệm )
    2, Ấn tinh cực suy, vượng.
    3, Địa chi mang hình.

    Đưa ra ví dụ dưới đây để thuyết minh:
    VD 1, Nam mệnh sinh ở giờ mão, ngày 30, tháng giêng, năm 1958.
    Bát tự: Mậu Tuất / Ất Mão / Ất Mùi / Kỷ Mão
    Địa chi năm tháng Mão Tuất hợp mà không hóa, ngày, tháng, giờ lại có thể hóa mộc thành công. Trụ năm chính ngũ hành là thổ nạp âm là mộc, lại có Mùi Tuất tương hình, kết quả là thổ và mộc bất hòa, lại có Ấn tinh hoàn toàn không có, tức là cha mẹ duyên phận kém, thực tế mệnh chủ cho người khác làm con nuôi.

    VD 2, Nam mệnh sinh ở giờ Dần, ngày 22, tháng 6, năm 1988.
    Bát tự: Mậu Thìn / Kỷ Mùi / Tân Mão / Canh Dần
    Bởi vì Dần, Mão, Thìn hội mộc cục, lại khắc nguyệt lệnh Mùi thổ, cho nên môn hộ bị phá, trong địa chi năm tháng Ấn tinh đều bị hợp hóa. Cho nên cùng với thân sinh cha mẹ là vô duyên, thực tế nhật chủ ra đời liền bị người nhận đi, là con người khác họ.
    1. Chương 6, Làm sao xem thứ tầng của con người

    Bát tự phải nói là nhân tố kỷ lục Tiên thiên đối với một con người, vừa có thể nhìn đến bộ phận xu thế nhất định, lại vừa có thể phân tích thêm xu thế ngẫu nhiên. Nghiên cứu ý nghĩa mệnh lý thì đang ở phân tích loại xu thế này, sử dụng lực ý chí con người nắm trong tay loại xu thế này, đem tiềm năng tốt đẹp của con người phát huy đến đỉnh điểm.

    Tiết 1, Làm sao xem thứ tầng của con người

    1, Xem từ thời vận sinh mệnh đi đến phương hướng tự nhiên
    Mệnh là cái gì, nhân mệnh xác định từ ba trụ năm tháng ngày, sinh mệnh của mệnh chủ cơ bản là trưởng thành. Cho nên nắm ba trụ trước gọi là bộ phận nội chất (bộ phận nhân tốt Tiên thiên), đơn giản gọi là Mệnh. Thời tức là trụ giờ, can chi đều có tác dụng trọng yếu. Vận tức là Đại vận, thuộc về quy luật hoạt động ngũ hành của mỗi người. Chúng ta phải học sẽ từ phương hướng tự nhiên thời vận sinh mệnh để xem tầng lớp con người.

    VD Nam: sinh ở giờ Thân, ngày 16, tháng 6, năm 1962 .
    Càn tạo :

    Thập thần:
    Sát
    Kiếp
    Nhật nguyên
    Tỉ
    Tứ trụ:
    Nhâm Dần
    Đinh Mùi
    Bính Thìn
    Bính Thân
    Tàng can:
    Giáp Bính Mậu
    Ất Kỷ Đinh
    Ất Mậu Quý
    Mậu Canh Nhâm
    Kiêu Tỉ Thực
    Ấn Thương Kiếp
    Ấn Thực Quan
    Thực Tài Sát
    Địa thế :
    Trường sinh
    Suy
    Quan đới
    Bệnh
    Nạp âm:
    Kim Bạc Kim
    Thiên Hà Thủy
    Sa Trung Thổ
    Sơn Hạ Hỏa

    2. (Ngày Không vong Tý, Sửu)
    + Tiết khí: Tiểu thử: 22 h 52 ph, ngày 7 tháng 7 năm 1962; Lập Thu: 8 giờ 34 phút ngày 8 tháng 8 năm 1962.
    + Khởi vòng tuổi đại vận: 7 tuổi 2 tháng 21 ngày, mỗi ngày giao năm đại vận là ngày 8 tháng 10 bắt đầu khởi vận (theo dương lịch).
    + Xếp đại vận:

    Thập thần
    Thực
    Thương
    Tài
    Tài
    Sát
    Quan
    Kiêu
    Ấn
    Đại vận
    Mậu Thân
    Kỷ Dậu
    Canh Tuất
    Tân Hợi
    Nhâm Tý
    Quý Sửu
    Giáp Dần
    Ất Mão
    Địa thế
    Bệnh
    Tử
    Mộ
    Tuyệt
    Thai
    Dưỡng
    Trường sinh
    Mộc dục
    Số tuổi
    8
    18
    28
    38
    48
    58
    68
    78
    Năm
    1969
    1979
    1989
    1999
    2009
    2019
    2029
    2039



    Nhật can Bính thiên vượng, thủ Quan Sát là dụng, do ở mệnh cục ba trụ trước trụ năm có Nhâm Dần nạp âm là kim, cho nên mệnh không chỉ cường mạnh, chi giờ Tài sinh Quan mà Thân Thìn củng thủy thêm lực lượng cường Quan, cho nên Sinh đắc phùng thời. Đại vận một đường kim thủy, ngoại trừ năm vận Tuất đường quan bất lợi một đường thuận phong, hiện là Hiệu trưởng, năm 1999 hành nhập đại vận Tân Hợi, đến vị trí dụng thần mệnh chủ còn phải thăng cao.
    1. 2, Xem tầng lớp con người từ mức độ lực của Bệnh thần, Dụng thần

    Hữu bệnh phương vi quý, là mấu chốt xem Dụng thần. Quý khí chân chính là ở Dụng thần, người có sử dụng tất có tài năng, có tài năng mới có thể làm ra cống hiến cho xã hội, cống hiến càng lớn công đức càng cao, công đức càng cao thì tầng lớp cũng càng cao (quan lớn không phải là tầng lớp liền cao). Mức độ lực của Bệnh thần, Dụng thần là quyết định tầng lớp con người là một nhân tố trọng yếu. Trương Thần Phong nói: Bệnh mà có dược là đại phú đại quý, bệnh nhẹ có dược thì hơi phú hơi quý, không có bệnh không có dược thì không phú không quý. Cần phải thuyết minh là quá cực vượng không thể khắc, quá cực suy thì không thể sinh.

    VD Nam : sinh ở giờ Tý, ngày 22, tháng 10 năm 1965.
    Càn tạo:

    Thập thần:
    Thương
    Tài
    Nhật nguyên
    Kiêu
    Tứ trụ:
    Ất Tị
    Đinh Hợi
    Nhâm Thân
    Canh Tý
    Tàng can:
    Canh Bính Mậu
    Giáp Nhâm
    Mậu Canh Nhâm
    Quý
    Kiêu Tài Sát
    Thực Tỉ
    Sát Kiêu Tỉ
    Kiếp
    Địa thế :
    Tuyệt
    Lâm quan
    Trường sinh
    Đế vượng
    Nạp âm:
    Phật Đăng Hỏa
    Ốc Thượng Thổ
    Kiếm Phong Kim
    Bích Thượng Thổ

    2. (Ngày Không vong Tuất, Hợi)
    + Tiết khí: Lập đông: 23h7ph ngày 7 tháng 11 năm 1965; Đại Tuyết: 15h46ph ngày 7 tháng 12 năm 1965.
    + Khởi vòng tuổi đại vận: 2 tuổi 5 ngày, mỗi lần giao khởi đại vận là ngày 19 tháng 11 (theo dương lịch).
    + Xếp đại vận:

    Thập thần
    Tài
    Thương
    Thực
    Kiếp
    Tỉ
    Ấn
    Kiêu
    Quan
    Đại vận
    Bính Tuất
    Ất Dậu
    Giáp Thân
    Quý Mùi
    Nhâm Ngọ
    Tân Tị
    Canh Thìn
    Kỷ Mão
    Địa thế
    Quan đới
    Mộc dục
    Trường sinh
    Dưỡng
    Thai
    Tuyệt
    Mộ
    Tử
    Số tuổi
    3
    13
    23
    33
    43
    53
    63
    73
    Năm
    1967
    1977
    1987
    1997
    2007
    2017
    2027
    2037


    Nhật can Nhâm thủy ở trong cục vượng mà còn phùng sinh, kim là bệnh, thủ thổ là dụng, hỉ thần là hỏa. Đinh tiệt cước còn bị Nhâm khắc hợp, lại gặp Tị Hợi xung, Đinh không có lực hóa mộc sinh thổ, Ất mộc Canh kim đối diện nhìn chằm chằm vào dụng thần, bát tự hỉ dụng đều vô lực, cho nên mệnh chủ là người tầm thường. (Năm 1993 đi Nam phương làm công, năm Tuất phát ít tài, năm 1995 Ất Hợi phá tài, nằm Đinh Sửu lại phát tài thập vạn, các năm 98, 99 do cha bị bệnh lại hao phí vạn nguyên).
    1. 3, Xem tầng lớp con người từ trên Tài Quan Ấn

    Hà tri kỳ nhân quý, Quan tinh hữu lý hội. Thân vượng Quan nhược có Tài sinh Quan, thân nhược Sát vượng có Ấn hóa Sát, Thương quan thái vượng sợ thấy Quan tinh, mệnh vận vừa đúng không thấy Quan tinh …, đều là Quan tinh hữu lý hội. Ở dưới điều kiện khi phân tích dụng thần lại phải kết hợp quan hệ Tài Quan Ấn và Nhật chủ trong mệnh cục, cũng là một phương diện xem tầng lớp con người.

    VD Nam: sinh ở giờ Tị ngày 3 tháng 10 năm 1965.

    Thập thần:
    Thực
    Tài
    Nhật nguyên
    Tài
    Tứ trụ:
    Ất Tị
    Bính Tuất
    Quý Sửu
    Đinh Tị
    Tàng can:
    Canh Bính Mậu
    Tân Đinh Mậu
    Quý Tân Kỷ
    Canh Bính Mậu
    Ấn Tài Quan
    Kiêu Tài Quan
    Tỉ Kiêu Sát
    Ấn Tài Quan
    Địa thế :
    Thai
    Suy
    Quan đới
    Thai
    Nạp âm:
    Phật Đăng Hỏa
    Ốc Thượng Thổ
    Tang Tùng Mộc
    Sa Trung Thổ

    2. (Ngày Không vong Dần, Mão)
    + Tiết khí: Hàn lộ: 20h11ph ngày 8 tháng 10 năm 1965; Lập Đông: 23h7ph ngày 7 tháng 11 năm 1965.
    + Khởi vòng tuổi đại vận: 5 tuổi 10 tháng 12 ngày, mỗi năm giao đại vận vào ngày 7 tháng 9 khởi vận (theo dương lịch).
    + Xếp đại vận:

    Thập thần
    Thực
    Thương
    Tỉ
    Kiếp
    Kiêu
    Ấn
    Sát
    Quan
    Đại vận
    Ất Dậu
    Giáp Thân
    Quý Mùi
    Nhâm Ngọ
    Tân Tị
    Canh Thìn
    Kỷ Mão
    Mậu Dần
    Địa thế
    Bệnh
    Tử
    Mộ
    Tuyệt
    Thai
    Dưỡng
    Trường sinh
    Mộc dục
    Số tuổi
    7
    17
    27
    37
    47
    57
    67
    77
    Năm
    1971
    1981
    1991
    2001
    2011
    2021
    2031
    2041


    Nhật can Quý thủy thiên nhược, Quan Sát tuy không thấu ra nhưng vẫn là vượng, có hỉ địa chi kim nhiều dụng Ấn hóa Sát sinh thân là rõ ràng, đặc biệt hỉ tọa chi Sửu thổ không chỉ tích thủy mà còn cùng với chi giờ Tị hỏa củng kim sinh thân, gọi là được ở trên là một đoàn thanh khí. Cho nên cuối cùng mệnh chủ là tốt nghiệp chính qui, hiện là Chủ nhiệm hành chính tổng hợp trung học. Tạo này đầy đủ Tài Quan Ấn, tiếc là hoàn toàn dựa vào Sửu thổ tích trữ hóa sinh, nhưng Sửu dù sao cũng là thổ, thông quan hóa sinh có giới hạn, cho nên tầng lớp thứ hạng vẫn cần nỗ lực nâng cao ở Hậu thiên .
    1. 4, Xem từ trên tạo hóa Hậu thiên

    Tạo hóa Hậu thiên hầu như không phải như chỗ tải của Tiên thiên, nhưng hành vi con người vậy có tuyệt đối thuần chỗ Hậu thiên làm nên chứ. Hậu thiên gây nên nghiệp chướng hoặc là tu hành không khỏi làm nên dấu ấn ở trên Tiên thiên. Vừa đọc Hậu thiên có thể biết cục diện cuộc sống ảnh hưởng đến sau này. Nhưng từ bát tự cũng có thể xem ra ảnh hưởng bởi Hậu thiên gây ra đối với con người. Giáo dục mà có thể cuối cùng không phải là hạng hạ phẩm.

    VD Nam: sinh ở giờ Mùi ngày 11 tháng 10 năm 1934 âm lịch (nhằm ngày 17/11/1934 DL).

    Thập thần:
    Thực
    Thương
    Nhật nguyên
    Tài
    Tứ trụ:
    Giáp Tuất
    Ất Hợi
    Nhâm Thìn
    Đinh Mùi
    Tàng can:
    Tân Đinh Mậu
    Giáp Nhâm
    Ất Mậu Quý
    Ất Kỷ Đinh
    Ấn Tài Sát
    Thực Tỉ
    Thương Sát Kiếp
    Thương Quan Tài
    Địa thế :
    Quan đới
    Lâm quan
    Mộ
    Dưỡng
    Nạp âm:
    Sơn đầu hỏa
    Sơn đầu hỏa
    Trường lưu thủy
    Thiên hà thủy

    2. (Ngày Không vong Ngọ, Mùi)
    + Tiết khí: Lập Đông: 10h27ph ngày 8 tháng 11 năm 1934; Đại Tuyết: 2h57ph ngày 8 tháng 12 năm 1934.
    + Khởi vòng tuổi đại vận: 6 tuổi 10 tháng 8 ngày, mỗi lần giao đại vận vào ngày 25 tháng 9 thì khởi vận (theo dương lịch).
    + Xếp đại vận:

    Thập thần
    Tài
    Tài
    Sát
    Quan
    Kiêu
    Ấn
    Tỉ
    Kiếp
    Đại vận
    Bính Tý
    Đinh Sửu
    Mậu Dần
    Kỷ Mão
    Canh Thìn
    Tân Tị
    Nhâm Ngọ
    Quý Mùi
    Địa thế
    Đế vượng
    Suy
    Bệnh
    Tử
    Mộ
    Tuyệt
    Thai
    Dưỡng
    Số tuổi
    8
    18
    28
    38
    48
    58
    68
    78
    Năm
    1941
    1951
    1961
    1971
    1981
    1991
    2001
    2011


    Đây là tạo Bành Khang Dân lão sư, mệnh chủ lúc 6 tuổi đôi mắt đã mù lòa, sợ Canh kim (Canh hợp Ất, chế Giáp mộc, Quan Sát không có chế nên không cát), mỗi khi gặp năm Canh thì coi chừng xẩy ra. Năm 1980 Canh Thân nên không khống chế được mê mẫn, con trai nhận khoán nhà máy gạch, bởi vì không đủ kinh nghiệm thất bại thảm hại. Năm 1990 Canh Ngọ trải qua 10 năm tu luyện, hoàn toàn thay đổi cục diện, hành động giải mệnh ở nhà, danh truyền Đại Biệt Sơn (dãy núi ở ranh giới ba tỉnh Hồ Bắc, An Huy và Hà Nam nước Trung Hoa Dân Quốc).
    Tiết 2, Nói thẳng thủ dụng

    Tầng lớp con người bất luận cao thấp, thông thường bát tự có Bệnh thần, giải trừ ngũ hành Bệnh thần gọi là Dược. Ngũ hành trị đúng bệnh tức gọi là Hỉ thần hoặc là Dụng thần. Tất nhiên ngũ hành tứ trụ lưu thông thế gian cũng có quý mệnh, nhưng rất ít. Có dụng thần thuần túy có lực, có thể trực tiếp từ mức độ Bệnh hoặc Dược quyết định tầng lớp con người
    Có dụng thần bỏ đại bệnh lại sinh tiểu bệnh, đây là biểu hiện dụng thần vô lực. Còn có ngũ hành ở trong mệnh hoặc tuế vận bỏ tiểu bệnh sinh đại bệnh, căn bản là không có cách thủ được dụng thần thích hợp. Mọi người đều biết, then chốt đoán mệnhlà ở thủ chuẩn dụng thần, "Nắm chuẩn Bệnh thần, xem bệnh mà dùng Dược." Là một câu châm ngôn thủ dụng.
    Một loại bệnh luôn luôn trị tốt, nhiều loại bệnh tổng hợp lại chứng bệnh là khó trị. Tức là phải hiểu rõ các loại tổng hợp căn nguyên bệnh, lại phải nắm chuẩn chứng bệnh cấp tính trước mắt. Cấp chứng không giải nhười khó nhận, tổng căn không trừ bệnh khó trị. Như phía trước giảng qua một nam mệnh: Tân Mão, Đinh Dậu, Ất Sửu, Kỷ Mão, thủ Thực chế Sát là dụng, thủ Ấn hóa Sát là dụng hoặc nói lấy Thất Sát là dụng hầu như đếu có lý. Tôi kết luận là dụng thổ, gặp năm Sửu tài khí khá tốt. Mệnh chủ trả lời năm 1985 tài khí tốt, nhưng năm 1994 không tốt. Sửu thổ là căn Kỷ thổ, Mão Dậu giao chiến, Sửu thổ khắc tiết giao gia là có họa, Kỷ thổ hư nhược bị Ất khắc, Đinh hỏa sinh trợ có cách trở, bởi vì Kỷ thổ nhược không nhận sinh. Năm Giáp Tuất hầu như địa chi thổ tăng thêm lực, nhưng tình huống thực tế là: Tuất thổ là Mậu thổ mà không phải là Kỷ thổ, Cùng trụ giờ Kỷ Mão là thiên địa hợp lại không thể thành hóa, Mậu Kỷ thổ bị khắc như cũ. Tôi nói năm này đúng Kỷ thổ phải là có chút giải thoát, thực tế mệnh chủ năm 1994 cùng với vợ phân ly đi xa, năm 1997 mới trở lại.
    Mệnh tạo ở tầng lớp khá cao, mệnh cục hoặc vận cục tất có dụng thần, thủ chuẩn dụng thần đối với suy đoán là thập phần trọng yếu. Nhưng cả đời mệnh tạo là không có đại phú quý lại không có tai nạn lớn, muốn từ trong bát tự tìm ra dụng lực dụng thần rất khó, nếu như trước đó tìm đúng Bệnh thần lại căn cứ bệnh thần kết hợp đại vận xem lưu niên, như vậy thì đang nắm giữ trong lưu niên tốt xấu ( bản thân mệnh chủ cảm nhận).
    Bất luận tầng lớp con người cao thấp, tuế vận xấu tốt đánh giá ứng bản thân mệnh chủ cảm nhận là tiêu chuẩn (không nhất định chỗ nói ngoài miệng). Ở trong tâm sinh lý con người, bệnh nặng gặp lương y giống như hạn lâu gặp nước cam lộ, cảm giác tốt nhất định khó mà quên, trái lại là hung lúc khổ cũng làm cho con người khó nhớ. Suy đoán vận mệnh, khử bệnh tự nhiên đại vận lưu niên là cát, tuế vận thêm bệnh ít dược tất nhiên là không tốt. Có hay không đoán chuẩn, mấu chốt là ở lúc xem bệnh mà có dược.
    1, Thủ dụng mệnh cục thông thường

    VD 1, Nam mệnh: Canh Tý, Kỷ Mão, Quý Mão, Tân Dậu
    Tý thủy là căn Quý thủy, bị chỗ 2 Mão hình là bệnh, kết quả hình là 2 Mão hấp không Tý thủy, Quý thủy càng nhược Mão mộc càng vượng; bát tự khuyết hỏa cũng là một loại bệnh (họa vô duyên); kim ở bát tự tuy là không vượng, nhưng không có hỏa khắc, nguyên cục không tính là có bệnh; lại xem Kỷ thổ là Thất Sát của nhật can, bởi vì qua Mão thì Thìn thổ gặp tiến khí, "Tiến khí bất tử", Mão vượng khắc thổ lại không có hỏa thông quan, cùng với nó bệnh hầu như là ứng chứng bệnh cấp tính; cho nên thủ hỏa, thổ, kim đều có thể làm dụng thần, tối hỉ là kim khắc mộc sinh thân, đại bệnh tiểu bệnh cùng bỏ đi một lúc, thực tế mệnh chủ hành sớm Nam phương vận khoa giáp liên đăng, nhập vào Tây phương kim vận chế trụ bệnh thần, vị trí lên ngôi tướng.

    VD 2, Nữ mệnh: Tân Tị, Kỷ Mùi, Ất Dậu, Nhâm Ngọ
    Ất mộc sinh ở địa chi tháng 6, Tị Ngọ Mùi hội hỏa cục là không nghi ngờ. Mùi thổ không sinh Dậu kim lại trợ giúp thế hỏa khắc Dậu kim là bệnh, Nhâm thủy can khô nhưng có can năm Tân kim làm nguyên lưu, thủy suy nhược cũng là bệnh, xem ra dụng kim sinh thủy bệnh lớn nhỏ cùng bỏ một lúc. Thực tế mệnh chủ lúc hành vận kim thủy thì sinh tử mà bình an, vận khác đều không tốt.

    Bên trên đều là ví dụ tuyển chọn từ trong sách, tác giả thủ dụng, không phải chỉ nhìn vào nhật can, mà là dựa vào bốn kỹ thuật để xem toàn cục bát tự, khái quát mà nói:
    1, Trước tiên xem chuẩn các ngũ hành thực tế vượng suy, cân đo lẫn nhau, tối vượng tối suy đều là bệnh. Lại căn cứ mức độ suy vượng để thủ dụng thi hành dược .
    2, Sử dụng Đại pháp sinh khắc, dựa vào quy luật tổ hợp, tổng hợp phân tích từng ngũ hành, nếu mà bị khắc hoặc là vượng mà gặp sinh đều là bệnh cấp tính, thủ dụng thi hành dược với chữa trị cấp bệnh là hàng đầu.
    Bởi vì trong cuộc sống thực tế bát tự có chỉ nhìn nhật can thì là vượng không vượng suy không suy, trọc khí thái trọng, phân tích lên chỉ làm cho người ta sinh phiền, cho nên chỉ có xem toàn bộ, cân đo lẫn nhau ngũ hành thực tế vượng suy, mới có thể nắm chuẩn cấp bệnh và bệnh căn mà thủ dụng thi hành dược.
    2, Thủ dụng mệnh cục đặc thù

    Phương pháp thủ dụng cục Chuyên Vượng và thiên can nhất khí là mệnh cục đặc thù cùng với mệnh cục thông thường có chỗ phân biệt, phải biết mệnh cục thông thường sau lúc thủ dụng cũng nhất định có thể xem chuẩn mệnh cục đặc thù. Bởi vì bản thân xem chuẩn mệnh cục đặc thù thì hoàn thành quá trình thủ dụng.

    VD 1, Nam mệnh: Ất Tị, Bính Tuất, Kỷ Hợi, Giáp Tý (sinh giờ Tý ngày 18 tháng 9 năm 1965)
    Đại vận: Ất Dậu, Giáp Thân, Quý Mùi, Nhâm Ngọ, Tân Tị, Canh Thìn (1 tuổi là khởi vận)
    Nhật can Kỷ thổ và Giáp mộc tương hợp, lúc điều kiện xung quanh (mệnh cục và tuế vận) thành thục thì lấy hợp hóa mà luận. Lúc điều kiện không thành thục thì lấy Giáp mộc khắc Kỷ thổ, Kỷ thổ tiết hao Giáp mộc mà luận. Hợp mà thành hóa là một loại Chân tượng, hợp mà không hóa là một loại Giả tượng. Bảo hộ ngũ hành Chân tượng hoặc là khiến cho Giả tượng chuyển hóa thành ngũ hành Chân tượng chính là dụng thần loại mệnh cục này. Trong ví dụ này nguyệt lệnh Bính Tuất thổ thúc giục rất nhiều khiến cho mệnh hóa tượng thành công, cho nên mệnh chủ ở thứ tầng là không thấp, nhưng ở vận Ất Dậu, Giáp Thân lực lượng bên ngoài là kim mộc giao chiến thì thổ gặp tai ương, hiển nhiên là bất lợi cho Giáp Ất thành tượng hóa thổ, kết quả là biểu hiện ra là mất cha, hiện thực là bệnh bao tử. Sau 21 tuổi vận chuyển Nam phương hỏa đất thổ vượng, đặc biệt là vận Mùi bản khí là Kỷ thổ, cho nên mệnh chủ 26 tuổi trên công việc có hỉ thăng chức, bệnh bao tử cũng chuyển tốt.

    VD 2, Nam mệnh: Ất Dậu, Kỷ Sửu, Giáp Thìn, Nhâm Thân (sinh giờ Thân ngày 28 tháng 12 năm 1945.)
    Đại vận: Mậu Tý, Đinh Hợi, Bính Tuất, Ất Dậu, Giáp Thân, Quý Mùi (8 tuổi là khởi vận)
    Nhật can Giáp mộc và can tháng Kỷ thổ tương hợp, trên lý luận là Giáp Kỷ hợp thành tượng hóa thổ. Hóa hay không hóa chứ?
    Chúng ta có thể lấy so sánh:
    Nhân tố có lợi hóa thổ:
    1, Nguyệt lệnh Kỷ thổ, bản khí Kỷ thổ vượng còn thấu ra chân thần.
    2, Mệnh chủ sinh trước Lập Xuân 5 ngày Kỷ thổ dụng sự.
    3, Địa chi tứ trụ có Thìn thổ và Sửu thổ dung hợp, lực lượng thổ trở thành tăng trưởng gấp bội.
    Nhân tố bất lợi hóa thổ:
    1, Trụ giờ thấu Nhâm Thân thủy lại còn Thân Thìn củng thủy, khiến cho Giáp mộc căn thâm.
    2, Sửu Dậu bán hợp địa chi kim phân lượng lớn khiến cho thổ tiết khí.
    3, Tổng hợp xem mệnh này Giáp Kỷ hợp thổ có tượng là Giả hóa, sách < Trích thiên tủy > nói: Giả hóa thân cũng có thể phát. Mệnh chủ năm nào có thể phát chứ? Trương Thần Phong nói: Hữu bệnh phương vi quý. Thì Giáp Kỷ hợp thổ mà nói hiển nhiên là tồn tại: Sửu Dậu bán hợp khiến cho thổ biến chất, Nhâm thủy sinh Giáp mộc khiến cho Giáp mộc không tòng theo thổ; đồng thời bệnh tật. Năm 1983 tiến vào vận Ất Dậu, Thân Dậu dung hợp thiết nhập mệnh cục, Thìn Dậu hợp, lực lượng kim tăng lớn, bởi vì một phương diện hợp mà khử Ất mộc trong Thìn, mà giải Thân Thìn củng thủy, có lợi đối với Giáp Kỷ hóa thổ, một phương diện Thìn Dậu hợp kim càng phá chất thổ. Huống chi thiên can Nhâm thủy vẫn như cũ có thể sinh Giáp mộc, phân tích như vậy, tức là ngũ hành dược tốt có giải hợp lại khử Nhâm thủy. Năm 1987 năm Đinh Mão, Mão Dậu xung khiến cho Thìn Sửu hoàn lại nguyên gốc là chất thổ tốt, Đinh Nhâm hợp khiến cho Giáp mộc bỏ nguồn gốc, Đinh Mão Lô Trung Hỏa đối với Giáp Kỷ hóa thổ đem tăng thêm một lực, cho nên mệnh chủ năm đó ý nguyện thực hiện lớn nhất là được vào biên chế chính thức.

    Chúng ta lại xem năm 1986 năm Bính Dần tại sao lại không được như ý nguyện chứ? Giáp mộc ở Dần đất lâm vượng địa, Dần mộc không có khá năng giải hợp, Bính hỏa không khử được Nhâm thủy. Giáp sinh mùa Đông là Thoát thai yếu hỏa, Bính hỏa lại trợ thế Giáp mộc sinh trưởng. Thì Giáp Kỷ hợp thổ mà nói là bản thân Giáp mộc phá mất việc tốt, đương nhiên là sẽ không thành.

    VD Nam mệnh: Canh Tuất, Bính Tuất, Giáp Dần, Canh Ngọ (Chu Hi Nam Tống)
    Đại vận: Đinh Hợi, Mậu Tý, Kỷ Sửu, Canh Dần, Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị (4 tuổi là khởi vận)
    Nhật can Giáp mộc tọa Dần là có cường căn, địa chi tam hợp hỏa cục, mượn thế thiên can nguyệt lệnh Bính hỏa và chi giờ (tầng biểu ngoài) Ngọ hỏa hóa tượng thành công. Thiên can không có thủy, thiên can thấu 2 Canh kim vừa đúng bổ mộc dẫn hỏa, cho nên cổ nhân gọi là tượng Mộc Hỏa tề huy. Hỏa chủ văn minh, cho nên cả đời người theo tài văn chương, phát sáng chiếu lịch sử.
    Mệnh cục tức thành hỏa tượng, nhật can tức lấy hỏa xem, kim là Tài của hỏa, thủy là Quan của hỏa, mộc là Ấn của hỏa. Hỏa đại vượng, các ngũ hành khác đều bất lợi, cho nên 14 tuổi năm Quý Hợi mất cha, 47 tuổi tang vợ, mộc là Ấn, dần vận hỏa càng vượng mà mất mẹ, Thìn vận 62 tuổi năm Tân Hợi mất con trai trưởng, bản thân cũng là vận Quý thủy bãi chức về vườn. 71 tuổi Tị vận năm Thân mất.
    Mệnh cục tức thành hỏa tượng, thủ dụng thần thì hẳn phải tòng theo thế hỏa, xem từ trên sự thực, gặp thủy vượng nghịch hỏa là tuế vận mệnh chủ đều có chuyện bất thuận. Gặp tuế vận hỏa vượng chứ? Vận Mậu Tý năm Đinh Mão, Mậu Thìn, Mậu thổ khắc Tý thủy bệnh và dược đều đủ, sao lý không có phú quý. Sách ghi mệnh chủ lúc 18 tuổi Đinh Mão đậu Hương Cống, 19 tuổi năm Mậu Thìn đậu được Tiến sĩ, sau văn chương tỏa sáng bốn phương đều là ở năm hỏa thổ, có thể thấy tạo này dụng thần là hỏa thổ, thổ khắc thủy, kim khắc mộc cũng là hỉ thần, nhưng dụng thổ kim là có điều kiện.
     
    Bahoian thích bài này.
  18. Mạnh Nhân

    Mạnh Nhân Thần Tài

    Tiết 3, Làm sao tìm được ứng kỳ cát hung
    Tìm đúng được quy luật mệnh vận từng người, thì có thể ứng dụng được ý nguyện xu cát tị hung của con người. Tuyệt đại đa số có người có cơ duyên, có thể suy đoán chuẩn xác ra quá khứ bản thân phát sinh những sự việc và thời gian cát hung, trên cơ bản là nắm chắc quy luật biến hóa tự nhiên của mệnh tạo này. Dựa vào đây suy đoán những chuyện cát hung và thời gian xảy ra hẳn là rất chuẩn. Đối với người có đức thì có thể chỉ điểm ra biện pháp hóa giải xu cát tị hung, ý nghĩa phê mệnh cũng ở chỗ này.
    Như thế nào là tìm ra được tin tức và ứng kỳ cát hung chứ? Trước tiên xem mệnh lệ, nhưng chỉ từ mệnh vận bát tự suy ra thời gian cát hung thì không nhất định là chuẩn xác 100%. Ở tác giả nghiên cứu, công việc sự nghiệp của mệnh chủ thuận lợi huy hoàng đều là tính chất sự nghiệp cùng mệnh lý là phù hợp nhau, trong sự thất bại của con người là có 90% tính chất sự nghiệp và mệnh lý là không phù hợp. Tóm lại, chúng ta phải thừa nhận sự nỗ lực Hậu thiên đối với quy luật mệnh vận là có lực ảnh hưởng.

    1, Ứng kỳ tai họa hôn nhân
    VD Nam mệnh: sinh giờ Mão ngày 1 tháng 1 năm 1962.
    Càn tạo: Nhâm Dần/ Nhâm Dần / Giáp Tuất / Đinh Mão
    Đại vận: Quý Mão, Giáp Thìn, Ất Tị, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân
    Nguyên mệnh cục không có Chính Tài tinh, trụ ngày Giáp Tuất cộng thêm Thê cung Thê tinh Mậu thổ bị Dần Mão hợp khắc, cho nên vận Giáp Thìn hôn tai là rõ ràng. Tác giả đoán mệnh chủ năm 1985 kết hôn, năm 1991 ly hôn, năm 1997 lại kết hôn. Mệnh chủ kinh ngạc nói cho tôi biết là chỗ tôi dự trắc một điểm không sai. Hiển nhiên không thể là ở trong mấy phút chỗ nắm rõ bát tự mệnh vận tuế ngũ hành sinh khắc chế hóa là xem rõ, như vậy là làm sao phân tích mà suy đoán chứ?
    1, Xác định đại vận Giáp Thìn, cũng chỉ là có một bước chết là có họa hôn nhân.
    2, Năm Ất Sửu, Hồng Loan tinh cao chiếu, mà Tuế lâm Chính Tài, cho nên là năm hôn khánh.
    3, Năm Tân Mùi, nhìn như Mùi thổ Chính Tài lâm đại tuế là hỉ, thực tế Mùi và Mão tương hợp thiết nhập mệnh cục, lúc này không chỉ có Dần Mão Thìn hội cục, mà còn có Mão mộc cũng sẽ hợp khử Mùi thổ, mộc vượng vô cùng, lại có thiên can lưu niên Tân cùng nhật nguyên Giáp tuyên chiến, kết quả là thổ ngũ hành khắc tiết vô sinh, thổ là Tài là Thái Tuế, cho nên có họa ly hôn.
    4, Năm Đinh Sửu hành Tị vận tình huống cùng với năm Ất Sửu là tương tự, cho nên có hỉ hôn khánh.
    Ở trong đó tìm ra năm Tân Mùi có họa hôn tai, trình tự là:
    A, Vận Giáp Thìn sau khi cưới chỉ có 3 năm Dần, Mão, Mùi cùng trụ giờ là có cơ hội dung hợp, tương hợp thiết nhập mệnh cục; năm Sửu, Thìn, Tị cùng trụ giờ Đinh Mão không có thiết nhập vào mệnh cục.
    B, Mộc vượng khắc thổ, rất sợ thấy sẽ kích mộc, mà vận này chỉ có hai năm Canh Ngọ, Tân Mùi thiên can là kim.
    C, Đã kết tóc với vợ là Chính Tài (vợ chính), cũng chỉ có Kỷ thổ trong Sửu Mùi là Chính Tài.
    Mà chỗ ba điều kiện mấu chốt này là ở Mão Mùi bán hợp, nó không chỉ thiết nhập mệnh cục, mà còn Kỷ thổ ở trong Mùi có cơ hội dẫn phát Chính Tài tinh bị khắc, đây là đối với học giả thông thường phải gọi là chỗ huyền cơ.

    2, Ứng kỳ thương tai
    VD Nam mệnh: Mậu Tuất, Tân Dậu, Quý Sửu, Kỷ Mùi (sinh giờ Mùi ngày 21 tháng 8 năm 1958)
    Đại vận: Nhâm Tuất, Quý Hợi, Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão
    Mệnh này thân nhược Ấn vượng, dụng Tài chế Ấn, gặp năm giờ thấu ra 2 Quan Sát, cho nên ở nhà không có chí tiến thủ. Do bởi trùng 2 Đinh hỏa tàng ở địa chi, đối với dụng thần Đinh hỏa có ích hay vô ích thì phải xem trọng điểm là ở địa chi. Vừa đúng năm năm ngày giờ có đủ Sửu Mùi Tuất tam hình. Bởi vậy bản thân mệnh cục phá tổn, Tài tinh Tiên thiên bị khắc, lại Chính Tài tinh không hiện, cho nên duyên vợ là mỏng manh. Năm 1990 tiến vào vận Ất Sửu xung khắc trụ giờ, nhập mạnh mẽ vào mệnh cục, bởi vì năm đó Ngọ Mùi tương hợp, là hỉ mà không là kỵ (sinh một con trai). Năm Nhâm Thân, theo Sửu Mùi tương xung tiến nhập mệnh cục, lại cấu thành Thân Dậu Tuất hội kim cục, khử Đinh hỏa ở trong Tuất. Việc là ở lưu niên thủy vượng tác dụng khử mất Đinh hỏa, hỏa khố bị hình khai, 3 Sửu cùng đến hỏa bị thủy chìm ngập, cho nên năm đó vợ uống thuốc độc tự sát. Như cũ ở vận Ất Sửu năm Đinh Sửu, mệnh chủ không nghe lời khuyên, vì nữ nhân mà bị chém 3 nhát đao, suýt nữa là mất mệnh.
    Ở VD này tìm ra ứng kỳ phát sinh hung tai có thể phân ra ba bước sau:
    A, Đinh hỏa là dụng thần, tàng ở trong Mùi Tuất, Hợi Tý thủy vận tuy khắc hỏa, nhưng chưa có thể mở ra cửa khố Mùi Tuất.
    B, Thê cung là Sửu cùng Mùi Tuất tương hình, chính là mấu chốt để mở cửa khố, nhưng chỉ có nguyên cục một Sửu thổ khó mà hại nỗi Mùi Tuất trùng 2 Đinh hỏa, hợp so với Dậu Sửu bán hợp cục thì có tác dụng giải hình.
    C, Vận Sửu, năm Sửu lại thêm mệnh cục Sửu thổ thành 3 Sửu tụ lực, mới có đủ phá mở kho Mùi Tuất khử mất Đinh hỏa.
    Chương 7, Luận Trung và Gian

    To lớn như Hoàng Đế, nhỏ như ông chủ, bản thân không khỏi hi vọng bề tôi hoặc là thủ hạ đối với bản thân là phải hết sức trung thành. Cho nên lựa chọn loại Tòng là hết sức trọng yếu.
    Mặc dù phẩm hạnh con người là từ Hậu thiên có thể được thay đổi, nhưng hành động con người không khỏi buộc có dấu ấn ở Tiên thiên, đức tính Trung và Gian ở trong bát tự cũng có thể tìm ra đặc trưng ở Tiên thiên. Trước mắt ông chủ là ở đức hạnh cao thượng hoặc là thủ hạ của ông chủ có phẩm hạnh thấp hèn, Trung và Gian cũng không thể dựa vào theo cảm giác của chủ nhân mà định. Do vậy, nắm chắc quy luật mệnh vận bát tự, tuyển chọn đúng nhân viên tốt là có giá trị khá lớn.

    1, Đặc trưng Gian thần:

    + Bát tự trung nhược Quan là dụng thần, thiên can không thấu Thực Thương mà thấu Ấn, hơn nữa Thực Thương thâm tàng, tức là tiêu chí trọng yếu của một mệnh tạo Gian thần.
    + Quan tinh nhược thuyết minh ông chủ nhu nhược, thì có đất sinh sôi nuôi dưỡng Gian thần. Quan tinh là dụng, Thực Thương chính là kỵ thần, thiên can không thấu Thực Thương mà thấu Ấn, Ấn là gốc hộ Quan, là biểu hiện người ở 8 mắt khắp nơi lung linh. Quan nhược hỉ Ấn hộ, ông chủ hỉ hoan ấn chỉ là bảo hộ cho bản thân. Đây là hình thành một loại tuần hoàn ác tính.
    + Quan tinh là dụng rất sợ Thực Thương, Thực Thương tàng mà không lộ, rõ ràng là lòng lang dạ thú. Cho nên một khi tuế vận thấu ra Thực Thương, thì Gian thần sẽ nhất định lộ ra nguyên hình, đây chính là điểm căn bản tính chất Gian thần cuối cùng là có nguy hại. Chẳng qua cũng có tình huống Quan tinh vượng mà không thể khắc mất, đây chính là dấu hiệu tốt tạm thời Gian thần vẫn chưa có bộc lộ hoặc là tuy có bộc lộ mà có chỗ thay đổi.

    VD 1, Nam mệnh: Tân Dậu, Bính Thân, Tân Sửu, Kỷ Hợi (Trương Bang Xương nhà Tống )
    VD 2, Nam mệnh: Canh Ngọ, Kỷ Sửu, Ất Mão, Nhâm Ngọ (Tần Cối nhà Tống )
    VD 3, Nam mệnh: Canh Tý, Kỷ Mão, Quý Mão, Tân Dậu (Nghiêm Tung nhà Minh)

    Trong đó hai tạo 1, 3 đều là Quan tinh nhược mà là dụng thần, can giờ thấu Ấn hộ Quan, Thực Thương là kỵ thần đều thâm tàng ở địa chi không lộ ra. Cho nên là mệnh Gian thần, hơn nữa cuối cùng là bộc lộ. Tạo 2 không có luận tòng, xem bát tự vẫn là xem theo sự thực, đều là địa đạo Gian thần, mà lại còn Quan tinh không nhược, cho nên sau khi chết mới bộc lộ ra nguyên hình.
    2, Đặc trưng Trung thần:

    Bát tự Thực Thương là dụng. Mọi người đều biết, bề tôi hoặc là nhân viên thì Quan tinh chính là Hoàng Đế hoặc là ông chủ, đã lấy Thực Thương là dụng, như vậy khắc chế Quan tinh chính là dễ phòng trừ mao bệnh. Con người đang ở trên đời không ai là không có khuyết điểm? Đặc trưng của Trung thần, xem từ bát tự có 2 điểm: 1, Đang lúc lực độ Thực Thương khắc chế Quan Sát vừa đúng chỗ tốt chính là lương tướng Trung thần. 2, Đang lúc Thực Thương khắc chế Quan Sát quá mức, thì dễ dàng kích nộ Quan tinh, Trung mà có nguy hiểm. Từ cảm nhận thiết thân ông chủ mà nói, dụng Ấn hóa Sát nói chung so với Thực Thương chế Sát thì dễ chịu hơn nhiều.

    VD như mệnh tạo Chu Ân Lai chính là Thương quan thương tẫn, cho nên là tuyệt đại lương thần. Bát tự Trung và Gian thông thường lấy Thực Thương làm hỉ kỵ để phân chia, không có Thực Thương có thể cân nhắc từ Quan Sát hoặc là Tài Ấn để so sánh, hiệu quả lợi cho Dụng thần thì là Trung thần, nếu không, cùng một dạng là Gian thần.
    Chương 8, Luận hóa giải tai họa, Biện chứng và Hạ dược

    Nếu như nói con người hoàn toàn đều do ông trời an bài, vốn là không thể thay đổi vận mệnh, như vậy, tai nạn không chỉ không thể hóa giải, thậm chí ngày cả học mệnh vận cũng nói không có giá trị nghiên cứu. Vận dụng loại tư tưởng này là nhờ người khác toán mệnh giải tai, tự nhiên sẽ rơi vào cạm bẩy công kích của thuyết duy vật, đúng là tự sụp đổ. Thực tế có hay không Thượng đế đã an bài vận mệnh của bạn? Tôi tin tưởng rằng "Ông trời nếu có tình trì ông trời cũng già" . Hẳn phải nói là ngũ hành tự nhiên, mỗi thời mỗi khắc đều phát sinh tác dụng đối với sinh mệnh con người. Là tổn hay là ích, là sinh hay là khắc, hành vận rất có quy luật. "Ngũ hành" rốt cuộc là vật gì chứ? Đúng như chỗ Lão Tử nói, Danh khả danh, phi thường danh, đạo khả đạo, phi thường đạo. Ngày nay gọi "Ngũ hành", ngày sau có thể có danh từ là càng chính xác, nhưng nó thật là vật đến từ cảm giác con người, nó đúng ý nghĩa, lại rất xa không thể sử dụng hai chữ này khái quát.

    Tiết 1, Biện chứng

    Ở trong phạm vi ngũ hành nhân mệnh mà nói, tai nạn con người đều là do chỗ dẫn đến ngũ hành không cân bằng (nghiêm khắc mà nói là ban đầu phá vỡ cân bằng lẫn nhau). Trong cuộc sống hàng ngày có rất nhiều hiện tượng đều quy về loại này. Như ranh giới đến với tai nạn, cảm giác con người, có thần trí không rõ ràng, tâm tình có cuống lên, có trên tâm lý, sinh lý vô tri vô giác phát sinh nhiều sai lầm. Mà cùng dạng một người, thời điểm nó ở vận khí tốt, sức sống mạnh mẽ, đối với người đối với việc mọi sự đều thông thuận.
    Ngũ hành đã không cân bằng là căn nguyên phát sinh tai nạn, như vậy, hóa giải tai nạn, tất cần phải từ căn nguyên ở trên mà ra. Nó có khả năng có 3 điểm dưới đây:
    1, Chỉ cần ghi lại đúng thời gian sinh ra của con người, như vậy nhân tố ngũ hành Tiên thiên của người này, thì thể biết rõ ràng, đây chính là biện chứng.
    2, Ngũ hành tự nhiên, là dựa vào thời không biến hóa mà định, ngũ hành vận mệnh con người, là dựa vào chỗ dẫn của Tiên thiên, tải cùng ngũ hành tự nhiên thích ứng nhau. Nên sau khi hiểu được ngũ hành sinh mệnh của con người như thế nào cùng với ngũ hành tự nhiên không thích ứng, con người có thể thay đổi tiếp xúc thời không ngũ hành tự nhiên. Bởi vì chỉ có con người mới có loại năng lực này, thông qua chỗ loại lực ý chí đặc biệt này của con người, lực khống chế, khả năng khai thác đoạn đường nguy hiểm phát sinh tai nạn, là hoàn toàn có thể làm được.
    3, Bất kỳ một loại vật thể trong tự nhiên (sống càng có linh tính), cũng đều thuộc về phẩm chất của ngũ hành, đều tồn tại ở trường hành khí, hoặc nhiều hoặc ít có thể phát sinh lực tác dụng của ngũ hành. Theo nhận biết sâu sắc đúng tri thức về ngũ hành, hoàn toàn có thể nhờ vào hiệu ứng vật thể ngũ hành trong tự nhiên, hóa bỏ bất lợi chuyển thành có lợi. Ví dụ như năm nay không lâu, thằng cháu nhà tôi khi ở nơi ông nội của hắn, đột nhiên phát sinh ngang ngược, mấy ngày liền cải nhau ầm ĩ không ngừng, tôi sau khi tra ra biết hoàn cảnh sinh hoạt của bọn họ, yêu cầu bọn họ thay đổi một chút vị trí bếp lò hướng về kính phong thủy " Quẻ Khảm", sau đó quả nhiên không còn ầm ĩ nữa. Tôi và lão sư tham gia thảo luận qua vấn đề này, lão sư giảng: "Thiết kính" hướng về phía hỏa lò, ở trên vô hình hình thành nên Thủy Hỏa tương chiến, con trai của bạn có Kim là dụng thần, hai ngũ hành đều bất lợi cho con trainhi tử, cho nên có mới họa nhỏ như vậy. Thực tế bất kể hoán động một chút "Thiết kính" hoặc là hỏa lò đều được. Thực tiễn chứng minh, ở xung quanh nơi sinh hoạt, hoàn toàn có thể căn cứ đặc điểm ngũ hành của mỗi người để tiến hành điều tiết. Chỉ cần đối chứng phương pháp các loại động vật, xếp kính, tuyệt đối là có hiệu nghiệm.
    Người có tai họa, thì nhất định có thể giải cứu sao? Không nhất định vậy, nay muốn xem loại hình nào tai họa, giống như bệnh của con người, phải cem được bệnh nào. Thầy thuốc chữa bệnh, quan trọng nhất là nắm chuẩn chứng trạng, phân biệt phải rõ là mắc bệnh gì, sau đó mới có thể tùy bệnh mà hốt thuốc. Khiến cho người ta giải tai nạn, nhất định là phát hiện triệu chứng trước khi xảy ra tai nạn, hoặc là đầu mối sau đó sẽ xuất hiện tai nạn. Như vậy không chỉ cần nắm chuẩn chứng trạng tai nạn, mà còn phải tìm ra căn nguyên phát sinh ra tai nạn. Như vậy tùy bệnh mà hốt thuốc, mới có thể giải trừ tai nạn.
    Phải nói là có 3 loại tai nạn là không thể giải được:
    + Loại thứ nhất , là không có tai bị nói thành có họa. Cá biệt cực độ người muốn gạt người tiền bạc hoặc là tiên sinh toán mệnh nào đó dễ dàng đi lầm vào bước này. Phải biết rằng, ngôn ngữ con người là có năng lượng, vài người nếu như đồng thời nói người kia mắc bệnh, sau vài ngày, người này đúng là mắc bệnh, thậm chí một khi bệnh không dậy nỗi. Đặc biệt là dân chúng hiền lành tin tưởng không nghi ngờ, bạn bịa đặt, hại tính mệnh con người, sao mà thoát khỏi ông trời khiển trách bạn. Cho nên, loại hành vi thiếu đạo đức này là không thể tha thứ.
    + Thứ hai là người không tin tưởng bạn, đúng lúc có họa thì không thể nào giải được. Họ không tin tưởng bạn, hoặc là giấu bệnh sợ thầy, bạn lại vô tri vô giác thay thế cho hắn mà giải trừ tai họa, thì họ sẽ nghi ngờ bạn chỉ là tên lừa gạt, bạn càng quan tâm chỉ có hao phí tâm trí mà làm gì chứ? Ngẫm lại cổ nhân suy đoán cát hung, đa phần sử dụng châm ngôn, vậy phải xem duyện phận của bạn.
    + Thứ ba, là bệnh nan y. Tai họa là chạy trời không khỏi nắng, không nên đi giải trừ cho hắn, cũng giải không được, thuận theo tự nhiên là tốt.
    Nói tổng quát là cùng với người giải tai họa, tất cần phải là vô tư thực hiện dưới điều kiện sau đây:
    1, Người khác thật sự có thể giải tai họa.
    2, Người khác phải thật sự là tin tưởng bạn.
    3, Vì nước vì dân, người có đủ lực là cao thiện cao đức.
    Người anh hùng yêu nước Lâm Tắc Từ Tăng nói: "Muốn vì ích nước lợi nhà mà sinh tử, sao vì họa phúc mà tránh chứ?". Giống như vậy xem nhẹ khen ngợi cá nhân, một tâm vì nước vì dân mưu cầu con người hạnh phúc, thì hẳn phải là hướng về bọn họ mà học tập, có năng lực chờ làm hóa giải tai họa tinh anh, thì không thể nói là có một chút giá trị nào, đây phải là đúng nghĩa vụ của một nhân tài Dịch học, thì công đức quả là vô lượng.
    Cho người ta giải tai nạn, mấu chốt là ở chỗ biện chứng. Nếu như chứng trạng không có phân biệt rõ ràng, làm sao thuốc có hiệu quả chứ?
    Có người nói tôi rằng phương pháp của lão sư rất linh, thực ra phải nói là lão sư nắm rất rõ chứng bệnh. Thông thường chỉ cần lung lay đầu ngón tay, vài câu nói sẽ khiến cho bạn ngẩn người ra, bạn vẫn không tin ông ấy là thần sao? (đây là thể hiện bạn có duyên tiếp nhận ông ấy hóa giải. Tôi cũng từng chứng kiến lão sư ở trạng thái dường như là si mê điên cuồng, thường khiến cho một vài gia đình quan quý hoặc là những kẻ lưu manh côn đồ hoàn toàn thất vọng bỏ ông ấy mà đi. )
    Ở lúc giúp cho người ta hóa giải tai nạn, lão sư sử dụng quẻ kiểm nghiệm chứng bệnh rất nhiều ví dụ thực tế, ở đây là bởi vì căn cứ bát tự biện chứng, chi nên chỉ nói từ bát tự phân biệt rõ ràng chứng trạng của tai nạn cùng phương pháp điều tra căn nguyên.
    1, Dụng thần gặp Tuế Vận hóa thành kỵ thần là tai nạn.
    VD 1, Bát tự vợ tôi: Canh Tý, Mậu Dần, Nhâm Thìn, Đinh Mùi
    Đại vận: Đinh Sửu, Bính Tý, Ất Hợi, Giáp Tuất, Quý Dậu, Nhâm Thân
    10 20 30 40 50 60
    Năm này là vận Ất Hợi là năm thoát vận, lưu niên Kỷ Mão cùng với trụ giờ, đại vận hợp thành Hợi Mão Mùi mộc cục, cùng thiết nhập vào trong mệnh. Chỗ này vẫn còn là, còn có một tổ hợp Dần Mão Thìn, cũng sẽ thành bốn phương, địa chi Thìn không hoàn toàn bị hợp hóa thành Thương quan kỵ thần. Năm ngoái tôi đối diện với vợ nói: "Năm tới phải làm tốt tư tưởng bất lợi, đặc biệt là phương diện công tác."
    Đương nhiên cũng mời lão sư chỉ điểm phép giải tai nạn, hi vọng chúng tôi là chuyện lớn hóa nhỏ, đối với công việc là sinh mệnh của vợ tôi, đối với chỗ này không dám tin là đúng, tôi cũng cầu may tai nạn đừng phủ xuống vận mệnh. Năm sau trải qua nhiều phương nỗ lực, ở năm này (Kỷ Mão) trên tháng 3 âm lịch trong tốp chiêu sinh cuộc thi, với 0. 2 phần nhỏ bé bị ép khoảng cách dưới tốp (ở tốp thứ 10, thành tích của cô ấy vừa vặn là tên thứ 11), may mà tôi đã tiên đoán trước đây, vợ tôi than ngắn thở dài không làm gì khác hơn là theo mệnh, toàn bộ hi vọng đều ký thác ở tôi và trên thân hài tử, cũng xem như trong lòng có chỗ thăng bằng vậy.

    2, Gặp họa đại vận hoặc lưu niên dẫn đến khiến cho ngũ hành hết sức không cân bằng
    VD 2, viết đến đây, lại là mồng một tết âm lịch đã tới, trước mắt nói qua một ví dụ:
    Nam: Tân Mão, Đinh Dậu, Ất Sửu, Kỷ Mão
    Mệnh chủ năm qua Mậu Dần phá tài, thương bệnh, tai họa liên miên, ở năm nay Kỷ Mão ranh giới Lập Xuân, tôi cho nhà anh ta dùng Quẻ "Khảm" điều trị, lại khuyên mệnh chủ rời khỏi nhà. Gần đây mệnh chủ trở về rất cao hứng mời tôi uống rượu, cùng hi vọng nhờ tôi xem năm tới anh ta nên hành động như thế nào.
    Đối với bát tự này, tại sao lại phải tuyển dụng Quẻ Khảm để điều trị chứ? Mệnh chủ nói vốn là anh ta còn có chút không thông, tin tưởng tôi mới dũng cảm tiếp nhận. Thực tế so sánh năm nay với năm vừa qua, Quẻ Khảm khẳng định là dùng đúng. Tôi giải thích nói, thông thường con người cho là, thủy sinh mộc, mộc càng vượng mà khắc chủ, thổ là Tài, định không cát. Đặc biệt là Kỷ Mão, lại có thể tiến nhập mệnh cục, 3 Mão xung 1 Dậu, sao không thể sợ. Thực ra năm Kỷ Mão có tai họa là tất nhiên, căn nguyên tai họa cũng là ở 3 Mão xung 1 Dậu. Mão Dậu giao chiến thổ sẽ gặp tai ương, đây cũng là định luật. Nhưng Dậu là nhược, chỉ cần Dậu thuận theo Mão, không đi kích động Thái tuế Mão, thì không có vấn đề lớn. Huống chi trong mệnh cục bát tự, nguyên bản vốn không có thủy, đại vận Nhâm Thìn thì Nhâm thủy và Đinh hỏa hợp hóa mộc là kỵ là không tốt. Thông thường mà nói, sẽ xuất hiện Dậu kim xung khắc Thái Tuế là cục diện nguy hiểm. Làm sao giải quyết một vấn đề then chốt này chứ? Sử dụng cân nhắc Bát Quái, rốt cuộc không bằng dùng thủy ngũ hành quẻ Khảm, từ đó nói tốt, bởi vì chỉ cần Thái Tuế không phẫn nộ đi khắc Tài, có thiên can Kỷ thổ là Tài. Sự thực thuyết minh xem chuẩn chứng bệnh, là tự nhiên có thuốc trị đúng bệnh.
    3, Tai họa do Thoát vận Tiến vận
    Câu thường nói: Thoát vận Tiến vận, cả hai không yên tĩnh. Thoát vận Tiến vận, hiển nhiên là khí vận ngũ hành biến hóa của con người thích ứng ở trong tự nhiên giai đoạn quá độ. Ở đây biến đổi đoạn ở trên, cổ nhân căn cứ thực tế phát sinh dưới hung tai, tổng kết ra rất nhiều hung thần ác sát. Ngày nay thích dùng Thần Sát, có lúc cũng có thể có một câu nói đúng, nguyên nhân ở đây phát sinh sự kiện cát hung tương đối nhiều.
    VD 3, Nữ mệnh sinh ở giờ Hợi ngày 24 tháng 2 năm 1974.
    Bát tự: Ất Mão, Mậu Dần, Tân Tị, Kỷ Hợi
    Đại vận: Canh Thìn, Lưu niên: Mậu Dần, Kỷ Mão
    Năm 1998 Mậu Dần, Thổ bạn nam mệnh chủ có mời tôi dự trắc dùm mệnh tạo này, tôi nghiệm năm Kỷ Mão đúng vừa gặp thoát vận Canh tiến vào vận Thìn, mộc vượng mà khắc thổ, cho nên nói có hai điểm mà đối phương không cảm thấy hứng thú lớn, đó là: 1, Năm tới (Kỷ Mão) mùa Hạ mẹ có họa sinh tử; 2, Năm tới (Kỷ Mão) cô gái này vào tháng 6 có phát sinh bệnh đau. Ai dè đối phương chỉ có quan tâm bạn gái đối với bản thân là như thế nào mà thôi, không có lấy chỗ tôi nói mà bàn. Chỗ năm nay nói ứng nghiệm từng việc, mới vội vàng tìm tôi, bất luận là như thế nào muốn toi6 tìm ra biện pháp điều trị bệnh cho mệnh chủ. Tôi sử dụng đơn thuốc dân gian của lão sư cho, lúc bạn trai mệnh chủ này gần đến giờ lấy thuốc hoài nghi hỏi thầy thuốc. Thầy thuốc nói là không nghe qua loại thuốc phòng bệnh này, còn nói đoán mệnh trị bệnh, hẳn là sử dụng phương pháp mê tín. Đáng tiếc, bệnh tình càng ngày càng kéo dài, lại tiếp tục mời tôi điều trị bệnh làm sao mà dám chứ? Có thể thấy, chữ "Tin" là trọng yếu như thế nào chứ!

    VD 4, Nam mệnh: Mậu Thìn, Kỷ Tị, Tân Dậu, Nhâm Thìn
    Đại vận: Bính Dần. Lưu niên: Mậu Dần, Kỷ Mão
    Đây là mệnh tạo của một vị thầy phong thủy. Năm 1998 Mậu Dần vẫn còn ở vận Bính, mới vừa vào tháng 12 âm lịch năm này thì bắt đầu đại bệnh không dậy nỗi, trong mấy ngày không thấy chuyển tốt, người nhà anh ta vội hỏi tôi xem có chết hay không. Tôi sử dụng bát tự kết hợp với xem quái tượng, cho rằng đại bệnh không ngại, chỉ cần uống hai loại thuốc điều trị, Lập Xuân có thể khỏi bệnh. Tháng 11 năm Kỷ Mão bệnh cũ phát lại, mặc dù anh ta kiên trì không ngã xuống, có thể anh ta giữ cho ta coi hai con số "5, 7" là điềm không may, Quẻ Phong Sơn Tiệm, tượng nhập mộ, đến với tôi đang lúc gần kết thúc bản thảo sách, anh ta đã từ giã cõi trần. Ở trong hai lần bệnh hoạn, lần trước có thể trị thì trị (trị bệnh trước tiên phải dùng dương trị), lần sau không cần trị, vì trị cũng vô ích.
    Tiết 2, Hạ Dược

    Sau khi biết rõ chứng trạng, tiếp theo chính là dùng Hạ Dược."Dược" là cái gì? Hạ là cái gì chứ? Tục thuyết nói: "Nghìn thầy dạy nghìn phép", phép hữu hiệu cho người khác nhưng đến tay bạn không nhất định là hữu hiệu. Cho nên ở đây chỉ nói mang tính phổ biến căn bản vài loại phương pháp hữu hiệu.

    1, Hoán đổi vị trí lệch giờ
    Sau khi nắm chuẩn ngũ hành mang đến chứng bệnh, thì sẽ tính toán đúng thời gian có khả năng phát sinh tai họa. Có điều kiện có thể thay đổi phương vị không gian của bản thân, thoát được thời gian hung họa. Không có điều kiện có thể yên lặng đợi hành động. Cuối cùng nên phải ở trong một khoảng thời gian tương ứng khống chế tâm tình của bản thân, khống chế hành động của bản thân, không thể làm bậy.
    Thực tế cao thủ có cao tới đâu cũng không có nắm chắc cầm tính toán được thời gian đột phá không có một chút sai lầm, bởi vì khí trường của ngũ hành đối với người bất lương ảnh hưởng phải nói không phải là chuyện trong nháy mắt, cho nên vận dụng phương pháp hoán vị sai giờ, mấu chốt là phải có lực khống chế rất mạnh mẽ.
    Như mùa xuân năm 1997, một vị đồng sự cảm giác vận trình bản thân không thuận, mời tôi tra xem lưu niên cho anh ta. Tôi sử dụng hai loại phương pháp Bát Quái và Bát tự, cho anh ta định ra hai thời gian nguy hiểm, cũng dặn anh ta hai ngày không thể ra đường làm bậy. Anh ta rất tin tưởng tôi nói, đem ghi lại trên giấy thời gian nguy hiểm, đặt ở phòng làm việc dưới tấm kính, bản thân cam đoan mỗi ngày đều có thể nhắc nhở bản thân. Sau này vị đồng sự này nói với tôi:
    Ở trong thời gian đó gần một tháng, cảm giác rất khó chịu, đặc biệt là ngày đầu tiên mà ông nói cho tôi biết trong hai thời gian này, đúng lúc ngày chủ nhật, sáng sớm tôi dự định ra cửa, may mắn vợ tôi ở trong nhà, ngăn cản tôi nói: Anh không nhớ hôm nay là ngày mấy hay sao? Thật lâu tôi mới nhớ đến lời khuyên của ông, vào phòng vừa nhìn, đúng là cửa khẩu nguy hiểm. Cứ như vậy cho tới trưa đều không dám ra khỏi cửa, nói thật ra, tôi lúc ở trong nhà đứng ngồi không yên, hết sức muốn đi. Buổi chiều mời con trai đánh bóng bàn, nghĩ rằng không ra khỏi cửa là không có chuyện. Ai ngờ một quả banh đánh chưa xong, cái vợt trên tay tôi đánh trật banh ba lần, lần cuối cùng tự đánh vào trên trán tôi, suýt chút nữa là chảy máu.
    Anh ta nói xong chỉ ngón tay cho tôi nhìn. Mùa xuân năm 1998 vị đồng sự này lại nhờ tôi xem giúp, tôi nói sau này sẽ không có chuyện gì lớn. Cho đến hiện tại anh ta đã điều trị gần hai năm, cũng không nghe nói anh ta có chuyện gì lớn.

    2, Điều lý Bát Quái
    Ở đây nói hiệu dụng một chút của Bát Quái. Cổ nhân từ trong thể nghiệm đối với thế giới tự nhiên, khái niệm ra 8 loại phù hiệu Càn Khôn Chấn Đoài Khảm Ly Cấn Tốn, phân biệt đại biểu các loại sự vật trong thế giới tự nhiên. Ý khái quát là đúng với vũ trụ bao la, chính là khái quát phân loại ngũ hành. Dưới tác dụng ý lực của con người, chỗ này mỗi một quẻ đều có thể tương ứng ở không gian phát sinh khí thế ngũ hành nhất định. Như dụng quẻ Ly, cũng bôi lên màu đỏ, con người không chỉ có ý thức đối với phát sinh tượng một loại hỏa, chính là đối với người nhà cũng có thể dẫn phát sản sinh hỏa dạng cảm giác ấm áp. Người có ngũ hành bát tự hỉ hỏa (cảm giác con người không nhất định là yêu thích màu đỏ) đặt đúng nó ở bên người, đương nhiên là có lợi. Đây chính là thông qua Hậu thiên bát quái ngũ hành đối với mệnh người tiến hành điều lý Bát Quái. Có người sẽ hỏi, loại tượng quẻ này, tại sao lại có hiệu dụng lớn như vậy chứ? Khí thế ngũ hành của nó là từ đâu tới chứ? Tác giả lý giải có thể không toàn diện. Tôi cho rằng phù hiệu vật Bát Quái và 6 trụ (bát tự, đại vận và lưu niên) đều là giống nhau đến hình dáng (luồng ý thức là ở trên hình thể), luồng đối ứng giống nhau các loại các dạng vật chất. Ví dụ như can chi đại vận, can chi lưu niên nói ở trước mắt cầm thuyết duy vật, bên nào không phải là hư vô mờ ảo. Nó và tên của con người là như nhau, nhưng xem tên thì đơn giản chỉ có mấy chữ. Chính là mấy chữ này, luôn có đủ lực lượng phi phàm, phát sinh hiệu quả phi thường (huyền diệu chính là ở chỗ này). Con người có ý thức, thông qua tác dụng ý thức, phù hiệu kích thích hướng dẫn, thì câu thông với không gian tự nhiên không lúc nào không có chỗ nào là không có mặt ngũ hành trong tự nhiên . Hoặc là nói, ý thức là tùy theo con người, đột nhiên sẽ phát sinh một loại trường năng lượng. Vậy thì mức độ nhận thức xem chỗ phù hiệu đại biểu nội dung thực tế và sử dụng đối với phù hiệu .
    Điều lý Bát Quái lại phân ra 8 quẻ thuần và 64 quẻ điều lý. 8 quẻ thuần sử dụng đơn giản, nhưng thiên tượng 64 quẻ điều lý, chỉ cần tinh tế nội hàm sẽ nói cho ta biết sử dụng giao tượng, đối với bệnh chứng như thế nào sẽ phát sinh tác dụng, như vậy, hiệu quả so với 8 quẻ thuần phải rõ rệt hơn.
    Điều lý Bát Quái sợ nhất chính là sử dụng không tin tưởng hoặc là người trong nhà không có thành tâm. Giống như không biết đọc một quyển thiên thư, giá trị to lớn lại không có cách nào thể hiện ra.
    3, Động vật Vật thể hoạt động, bố trí gương
    Động vật là chỉ vật dụng thực tế có thể di động, mục đích cũng là thay đổi trường khí ngũ hành. Bố trí gương là chỉ ở vị trí thích hợp, đặt gương pha lê hoặc là gương thủy tinh. Bất luận là bày loại gương nào, tác dụng chủ yếu là hóa sát, đồng thời cũng là một loại điều lý. Nguyên lý chủ yếu chính là vận dụng công năng gương phản xạ và chiết xạ, thay đổi một chút trường khí ngũ hành vật thể sản sinh. Ở trong loại phương pháp Hạ Dược giải tai nạn, bí quyết của lão sư rất có linh nghiệm, từ trên thực tiễn xem gần giống như mê tín, thực ra đều không phải là mê tín. Bởi vì thầy truyền đặc sản, uy tín không dám lỗ mãng, hi vọng độc giả tha thứ. Chẳng qua là tôi có thể đem một chút đạo lý cá nhân chân thành ngộ ra mà nói cho độc giả biết, các bạn có thể dũng cảm đi kiểm nghiệm một thời gian. Lúc gặp phải vận xấu đến, không chỉ là vận mệnh ở trên có can chi ghi lại phù hiệu, càng quan trọng hơn là hoàn cảnh cuộc sống của bạn phát sinh biến hóa, phần lớn phong thủy ở vào một loại bất lợi. Phàm là học giả chăm chỉ nghiên cứu qua quan hệ giữa hoàn cảnh chỗ ở và vận khí biến hóa, đều rõ ở chỗ điểm này. Nếu như ngũ hành thủy bất lợi đối với bạn, lúc khi bạn ở hành vận xấu, vừa đúng dễ hành đến phương vị thủy nhiều hoặc là xung quanh bỗng nhiên trở nên ẩm ướt. Nếu như thổ ngũ hành bất lợi đối với bạn, lúc hành thổ vận, vừa vặn dễ dàng hành đến đất thổ nhiều, hoặc là xung quanh bạn lập tức trở nên khô táo và nhiều thổ. Nó thì cũng như vậy. Vậy, người tinh thông mệnh lý và phong thủy, thì có thể chú ý hoàn cảnh có vài nhân tố bất lợi, phân biệt vật nào có thể động thì di động vật đó, cũng có thể thay đổi vị trí của bản thân. Tức là sử dụng loại hành vi lực Hậu thiên, thay đổi khí trường không tốt, để bổ túc chỗ thiếu khuyết của Tiên thiên, đây là lẽ đương nhiên chẳng phải là nhóm kỹ thuật hạng nhất thực tế.

    4, Tuân theo lời dạy của ân sư
    Bất luận là ở trên đại đạo học dịch, học mệnh lý, hay đang là ở bản thân, là người ở trên tiểu xảo giải tai nạn, tôi đều được dạy dỗ từ ân sư. Ở con mắt người bình thường, thầy tôi cũng chỉ là người rất bình thường."Đói thì cho ăn cơm, lạnh thì cho áo mặc." Thực ra thế giới "Thần tiên" cũng đều truyền ra như vậy. Chỉ là luồng khiến cho "Tiểu tặc tử" cao hứng mà đến, mất hứng mà bỏ đi. Là lão sư đoán không chuẩn cho bọn họ hay sao? Không! Tôi nghĩ rằng, ở trong điện thần tiên có biết bao người bụng dạ khó lường, lão sư mong muốn đối với những người này a dua nịnh hót sao? Ở bên cạnh lão sư, tôi thường cảm thán Lão Tử nói thiên chân vạn xác: "Là do chỗ thánh nhân hướng đến vô vi, dạy nghề không nói." Loại này lão sư ở đức hay không đức, đúng là công đức vô lượng vậy.
    Lão sư dạy: Làm người hóa giải tai nạn, sự tình bản thân là người bệnh, chúng ta chỉ là khởi lên giới thiệu tác dụng, bệnh nhân đầu tiên phải có lời lực thề nguyền, thứ hai là phải có lực ngũ hành, thứ ba là phải có lực hành vi. Không có ba lực này, tai họa sao có thể mà giải được.
    Lão sư dạy: Thành tâm sám hối, kỷ luật vô vi, trị bệnh cứu người, tu luyện vô vi.
    Tiên sư dạy: Tin là thiện, thiện là tin, thầy thuốc, bệnh nhân đều tin, họa có thể giải.
    Bành Khang Dân lão sư dạy: Giải tai dựa vào lương tâm, tin thì có thu vào.
    Dật Phong cư sĩ dạy: Đúng là khoa học, có đúng mệnh lý, khoa học là dương, mệnh lý là âm, âm dương điều phối, sao có tai hại.


    Riêng chương 8 và chương 10 thì chương 8 không thấy có trong sách, còn chương 10 Nguyệt Đàm phú đã có dẫn ở bài riêng, độc giả có thể xem thêm tham khảo ở đó.
    Chương 11, Ghi chép lại hai Tham Bí
    Hệ luận Thể Dụng bát tự
    (1) Không thể quên Thể tượng
    Ở trong quá trình vận dụng phép Tử Bình luận mệnh, tôi và đại đa số bạn hữu giống nhau, chú trọng quan hệ ngũ hành sinh khắc, nắm chuẩn nắm chắc dụng thần đoán việc. Nhưng đáng nói là vấn đề Thể Tượng của bát tự. tại sao gọi là Thể Tượng bát tự chứ? Mọi người đều biết, thiên can trụ ngày là đại biểu mệnh chủ, đang lúc là bạn quây quanh ngũ hành nhật can suy đoán mệnh chủ cát hung, hình tượng ngũ hành nhật can chính là Thể Tượng, nhưng nếu bạn chỉ có quây quanh ngũ hành nhật can chỗ lúc tòng hoặc là chỗ hóa luận mệnh chủ cát hung, hình tượng ngũ hành chỗ tòng hoặc chỗ hóa gọi là tượng khí cục, là Thể tượng. Trích Thiên Tủy cho rằng: Đạo có Thể Dụng, không thể lấy chấp nhất mà đoán luận vậy, phải xem ở phù ức được thích hợp. Nhâm Thiết Tiều giải thích nói: Thể, là hình tượng khí cục vậy, như không có hình tượng khí cục, tức là lấy nhật chủ làm Thể. Có thể thấy, cổ nhân không chỉ xem trọng Thể tượng biến hóa, mà còn nắm hình tượng khí cục bát tự địa vị thể tượng này rất quan trọng đặt ở Thể Dụng luận. Tác giả ỡ trong thực tiễn cũng đã nhận thức đến, luận mệnh là chỉ có trước tiên xác định đúng Thể tượng mệnh cục, mới có hi vọng lấy chuẩn dụng thần bát tự, Thể tượng khác nhau quyết định phương pháp thủ dụng khác nhau. Cho nên nhất thiết phải xem trọng Thể tượng. Ví dụ như đoạn ngữ: "Thân vượng Tài vượng phát tài, thân vượng Quan vượng thăng quan" rất linh nghiệm, chính là bởi vì đều có đủ "Thân vượng" chỗ này lấy Thể tượng làm điều kiện tiên quyết, thiết tưởng không để ý đến Thể tượng vượng suy, vẫn có thể đoán chuẩn Tài vượng phát tài, Quan vượng thăng quan sao?
    Đại sư mệnh lý thời xưa chính là thấy rõ thủ dụng thể tượng đặc thù như là Tòng tượng hoặc Hóa tượng … và thủ dụng thông thường thì lấy nhật can là thể tượng, ỡ trên phương pháp tồn tại sai biệt rất lớn, cho nên mới nắm một phương pháp thủ dụng đặc thù gọi là " Chân cơ ngũ hành điên đảo, rất là huyền diệu" . Thực ra, chúng ta học phổ thông chỉ cần một lần nữa nhận thức một chút Thể tượng bát tự, bắt tay vào phân tích tự mức độ ngũ hành nhật can vượng suy, học từng bước sẽ phán đoán chuẩn xác thể tượng rõ ràng của mỗi bát tự, tôi nhìn tham thấu chân cơ, bước vào cửa huyền diệu cũng là không xa.

    (2) Thủ dụng Thể Tượng đặc thù
    Luận Thể Tượng không thể lấy một mặt nhật can mà luận, tối thiểu bát tự vẫn còn hình tượng khí cục tồn tại Thể tượng như Tòng tượng, Hóa tượng … , đối với phương pháp thủ dụng Thể tượng đặc thù này, Trích Thiên Tủy cho rằng: "Cũng phải tổn ức cho thích hợp" . Tác giả thì cho là, hoàn toàn ở trên "Giữ gìn Hình Tượng khí cục này". Hình tượng Khí cục thành thì cát, phá thì hung.
    VD 1, Nam mệnh (xưa) có bát tự: Đinh Mão, Nhâm Dần, Quý Mão, Bính Thìn
    Phân tích nguyên mệnh cục, thủy nhược không có kim, mộc vượng thấu hỏa, cách thành khí tượng Tòng Nhi. Thủ dụng thì phải thuận tòng khí thế này, lấy Mộc Hỏa làm dụng, kim thủy là kỵ, trong sách có ghi, can tháng Nhâm thủy là bệnh, nếu Đinh Nhâm hợp hóa mộc sinh hỏa, là đại cát. Đến Thân vận hỏa, mộc tuyệt địa mà mất lộc. Đúng chỗ nói: "Tòng mà không kể thân cường nhược" .
    VD 2, Nam mệnh xưa bát tự: Đinh Mão, Ất Tị, Đinh Mão, Ất Tị
    Phân tích nguyên mệnh cục, mộc hỏa lưỡng khí thành tượng, bất kể nhật can Đinh hỏa vượng đến mức độ nào, thủ dụng đều chỉ có ở trên khí thể hộ giá mộc hỏa "Nhị nhân đồng tâm". Trước vận Tân Sửu, vì đến Đông phương mộc vận, mộc hỏa đồng huy, cho nên Quan vận hanh thông, Tân vận năm thủy mộc hỏa bị thương mà không thể khỏi gặp họa.
    VD 3, Nam mệnh sinh vào giờ Tý ngày 18 tháng 9 năm 1965.
    Bát tự: Ất Tị, Bính Tuất, Kỷ Hợi, Giáp Tý
    Đại vận: 1 tuổi khởi Ất Dậu, Giáp Thân, Quý Mùi, Nhâm Ngọ, Tân Tị
    Phân tích nguyên mệnh cục, nhật can Kỷ thổ sinh ở tháng Bính Tuất, chi năm lại là Tị hỏa, thân thiên vượng. Đúng ra nên thủ thủy mộc Tài Quan làm dụng. Thực tế Giáp Kỷ hóa thổ thành tượng, thủ dụng tất phải chỉ có hộ theo hóa tượng. Đang lúc thủ lấy hỏa thổ là dụng thần, thủy mộc trái lại là kỵ thần. Tra đại vận, trước 26 tuổi vào Mùi vận, lưu niên vừa đúng gặp Tân Mùi, song trùng Mùi thổ cùng khắc Hợi Tý thủy, Tân kim lại khắc thiên can Giáp, Ất mộc, tòng hóa thành công, cho nên mệnh chủ năm đó quan chức thăng cao. Còn năm Canh Ngọ đại vận gặp Quý, Canh xung Giáp, hóa tượng không chân cho nên có thể nói là không tốt.
    (3) Liên quan với Dụng thần biến hóa
    Bát tự thủ dụng trước tiên phải xác định Thể tượng. Cuối cùng là lấy ngũ hành nhật can làm Thể hay là lấy hình tượng khí cục làm thể để phán đoán là rất không phải dễ dàng. Bởi vì ở trong quan hệ đến "Mức độ thực tế Vượng Suy" ngũ hành bát tự là vấn đề rất khó khăn. Tác giả ở trong một quyển sách Mệnh lý Huyền cơ tham bí lấy ngũ hành vượng suy phân chia làm 9 mức độ nhỏ trong 3 điểm lớn đó là: cực nhược, thái nhược, thiên nhược, trung hòa thiên hạ, trung hòa, trung hòa thiên thượng, thiên vượng, thái vượng, cực vượng. Nên lúc có thể phán đoạn chuẩn xác trong bát tự các ngũ hành thuộc về giữa các mức độ vượng suy, Thể tượng bát tự thì có thể dựa vào chiếu theo nguyên tắc xác định tương ứng như dưới đây:
    1. Nếu như trong nguyên mệnh cục các mức độ ngũ hành vượng suy ở trong phạm vi là thiên nhược đến thiên vượng, đồng thời nhật can và thiên can thiên trụ tháng cùng can giờ không có hợp hóa, thì như vậy ứng với lấy nhật can làm Thể tượng;
    2. Nếu như trong nguyên mệnh cục tồn tại ngũ hành cực vượng hoặc là cực nhược, như vậy sẽ ứng lấy hình tượng khí cục làm Thể tượng (đa số là Tòng tượng)
    3. Nếu như trong nguyên mệnh cục tồn tại ngũ hành thái nhược hoặc thái vượng, như vậy, vừa có thể lấy nhật can làm Thể, vừa có thể lấy hình tượng khí cục làm Thể. Loại tình huống Thể tượng như vậy phải dựa theo tình huống tổ hợp mệnh cục mà định.
    4. Nếu như nhật can và can tháng hoặc là can giờ có tương hợp, bất luận mức độ vượng suy như thế nào, đều thủ hóa tượng làm Thể, chỉ có lúc hợp mà không hóa, lại dựa vào 3 điển nguyên tắc ở trên mà xác định Thể tượng. Tức là "Lúc hóa đắc chân chỉ luận hóa" .
    Tóm lại, có hay không bắm chắc Thể tượng chuẩn xác, mấu chốt là ở phân tích bát tự các mức độ ngũ hành thực tế vượng suy. Nên lúc ngũ hành nhật chủ trung hòa hoặc xuất hiện thái nhược hoặc thái vượng, hoặc lại có hiện tượng hợp hóa, Thể tượng rất dễ dàng theo đại vận lưu niên phát sinh mà biến hóa, Thể tượng nếu biến đổi, thì dụng thần đương nhiên phải biến hóa theo.

    (4) Phân biệt hỉ "Dụng"
    Mọi người đều biết, đang lúc một ngũ hành nào đó đối cới Thể tượng bát tự mang đến chỗ có ích, thì tự nhiên trực tiếp hoặc là gián tiếp mà ảnh hưởng đối với mệnh chủ sản sinh cát. Trên thói quen không rõ ràng mà gọi bọn nó là Hỉ Dụng thần, cũng có người trước tiên xác định đúng Dụng thần, lại nắm ngũ hành sinh Dụng thần gọi là Hỉ thần. Nhưng nếu lúc Hỉ thần không chỉ là một loại ngũ hành, loại thuyết pháp này hiển nhiên là có nghi vấn. Tôi cho rằng Dụng thần là do Thể tượng mà xác định, là ngũ hành đối với Thể tượng chỗ có ích lợi nhất, mà giữ gìn ngũ hành Dụng thần này an toàn thì là Hỉ thần, hoặc là nói, Hỉ thần là dụng thần của Dụng thần, Hỉ thần nói chung là lấy Dụng thần làm Thể.
    Cổ nhân ở lúc giảng phương pháp thủ dụng bát tự, cũng thường đề cập đến " Phép Bệnh Dược" . Tác phẩm Mệnh lý Huyền cơ tham bí đem một phương pháp này từ trên lý luận mở rộng, khái quát tất cả các phương pháp thủ dụng. Đây là hạt nhân lý luận là "Thể tượng có Bệnh, Dụng thần là Dược; Dụng thần có Bệnh, Hỉ thần là Dược." Thực tiễn kiểm nghiệm phép này là rất hữu hiệu.

    (5) Phép luận Bệnh Dược
    "Thể tượng có Bệnh, Dụng thần là Dược; Dụng thần có Bệnh, Hỉ thần là Dược." Từ trong bát tự suy đoán cát hung con người thì là giống như xem bệnh, bốc thuốc, bệnh là bệnh trên thân thể, dược là dược trị bệnh. Chỉ có xem được chuẩn bệnh, mới có thể nắm được thuốc chuẩn.
    Mọi người đều biết, thường sử dụng phương pháp thủ dụng có phép Phù Ức, phép Điều Hậu, phép Bệnh Dược, phép Thông quan …, tác giả cho rằng các loại phương pháp này đều có thể khái quát thành phép Bệnh Dược. Lý do là: Phù, là bởi vì có bệnh nhược; Ức, là bởi vì có bệnh vượng; Điều hậu, là bởi vò có bệnh táo thấp hoặc là hàn noãn; Thông quan, là bởi vì có bệnh khắc chiến .., đây là " Phép Bệnh Dược" hoàn toàn có thể làm nguyên tắc chung là thủ dụng thần trong thực tiễn, đối với thủ dụng mệnh cục thông thường, tác phẩm Mệnh lý Huyền cơ tham bí là tự thuật như sau:
    1, Vượng là bệnh, dựa vào mức độ vượng để lấy dược;
    2, Nhược là bệnh, dựa vào mức độ nhược để lấy dược;
    3, Vượng mà phùng sinh là bệnh cấp, thủ trảm kỳ vượng căn làm dược;
    4, Nhược mà bị khắc là bệnh cấp, thủ chế khắc thần làm dược;
    5, Cản trở kỳ khí thế là bệnh, khai thông đường đi là dược;
    6, Bởi vì hợp (hoặc xung) là bệnh ứng lấy giải hợp (hoặc giải xung) là dược.
    Bệnh có hàng trăm bệnh, khó mà xem chuẩn, có cách lấy dược, kỹ xảo là ở linh hoạt. Thực tiễn kiểm nghiệm, phép Bệnh Dược không chỉ có thể sử dụng ở trong dự trắc tứ trụ, mà còn ở trong dự trắc học bất kỳ có cái khác có liên quan đến ngũ hành sinh khắc đều có thể phát huy hiệu dụng.

    (6) Ứng dụng phép Bệnh Dược
    Nam mệnh, sinh vào giờ Thân ngày 15 tháng 4 năm 1955.
    Bát tự: Ất Mùi, Tân Tị, Đinh Dậu, Mậu Thân
    Đại vận: 10 tuổi khởi Canh Thìn, Kỷ Mão, Mậu Dần, Đinh Sửu, Bính Tý.
    Nhật can Đinh hỏa sinh ở trước tiết Mang Chủng 1 ngày, hỏa đúng nắm vượng. Dẫu có xem toàn cục không có tượng hợp hóa, không có tòng tượng, nên lấy ngũ hành nhật can làm Thể. Do ở địa chi có Tị và Dậu, Tị và Thân đều có quan hệ hợp, bất kể thiên can không có thủy, nhưng can năm Ất mộc cũng khó mà lấy sinh Đinh hỏa. Cho nên nhật can Đinh hỏa thực tế vượng suy là thiên nhược, kim ngũ hành trái lại mà tiếp cận mức độ thái vượng. Lại xem can giờ Mậu thổ đều có lực tiết hỏa, sinh kim, khắc thủy, hao mộc. Đối với cục diện hỏa nhược, kim vượng, thủy ít, Mậu thổ đúng chính là bệnh cấp vậy. Như vậy, thủ mộc ngũ hành khắc thổ (đồng thời cũng có thể sinh hỏa) là không nghi ngờ, là thuốc tốt để trị bệnh, đây là dụng thần chứ không phải hỉ thần, còn thủy tiết kim sinh mộc mới là hỉ thần. Tế luận hiệu quả thực tế là âm dương thủy mộc, bát tự hỉ nhất Nhâm thủy và Giáp mộc. Sự thực có làm bằng chứng:
    + Thìn vận, năm Nhâm Tý mệnh chủ chính thức ở công tác Công ty Mua bán nhà, năm Giáp Dần lần thứ nhất gửi văn kiện thăng Quan;
    + Mão vận, năm Nhâm Tuất mệnh chủ được bồi dưỡng chuyên môn, năm Giáp Tý lại lần thứ 2 gửi văn kiện được thăng làm Chủ nhiệm;
    + Dần vận, năm Nhâm Thân mệnh chủ điều động đảm nhận Công ty kinh doanh mua bán nhà, năm Giáp Tuất điều động thăng làm Tổng Giám đốc Công ty.
    + Vận Đinh Sửu đến nay hơn 3 năm hỏa thổ lâm vượng địa, xui xẻo, phá tài có thể nói là không có chút việc nào tốt (năm Đinh Sửu càng nặng. Ngoài ra mệnh chủ năm Canh Thân tang cha, năm Bính Dần tang mẹ cũng có thể mượn thủy mộc làm chứng phân biệt là hỉ dụng thần. Mệnh chủ là bạn thâm giao với tôi, tình huống vận trình kể trên là có thật.

    (Hết)
     
    Bahoian and NAM CHINH like this.
  19. Mạnh Nhân

    Mạnh Nhân Thần Tài

    Tiếp theo là bài Luận vượng suy vẫn cùng dịch giả LESOI ,tác giả Thái Tích Quỳnh là học trò của Bành Khang Dân tiên sinh.



    Bành thị chú giải Trích thiên tủy
    Tiết 17, Luận Vượng Suy

    Tác giả: Thái Tích Quỳnh

    Có thể biết chân cơ suy vượng, áo diệu ở tam mệnh, là nhớ hơn phân nửa vậy.
    Nguyên chú: Vượng thì nên tiết nên thương, suy thì hỉ bang hỉ trợ, lý Tử Bình vậy. Nhưng trong vượng có tồn suy, không thể tổn vậy; suy cũng có tồn vượng, mà không thể ích. Vượng có thể tổn, lấy tổn ở trong đó; cực suy là chỗ không thể tổn mà tổn, trái lại thành hung; thực ra chỗ nên ích mà ích, lại là hại, chỗ này là chân cơ, đều có thể biết, khó là làm sao khảo sát tường tận ở nhiều chỗ áo diệu nhỏ bé chứ?

    Nhâm thị viết: Đắc thời đều là luận vượng, thất lệnh liền lấy suy xem, tuy là chí lý, nhưng cũng là tử pháp vậy. Nói về khí ngũ hành, lưu hành ở bốn mùa, tuy nhật can có chuyên lệnh, mà thực ra ở trong chuyên lệnh, cũng có cùng tồn tại, như mùa xuân mộc nắm lệnh, Giáp Ất tuy vượng, mà lúc này Mậu Kỷ hưu tù, cũng không hết tuyệt ở trời đất vậy; mùa đông thủy nắm lệnh, can Nhâm tuy vượng, đa số lúc này Bính Đinh hưu tù, cũng không biến mất ở trời đất vậy. Vật lúc đang giảm sút, không dám tranh lên trước, còn mùa xuân thực ra thì thổ làm sao không thể sinh vạn vật, mùa đông làm sao mặt trời làm sao không chiếu sáng trên vạn đất nước chứ? Huống chi bát tự tuy lấy nguyệt lệnh làm trọng, mà vượng tướng hưu tù, trong năm ngày và giờ, cũng có quyền tổn ích, cho nên tháng sinh thì không nắm lệnh, cũng có thể gặp năm gặp ngày gặp giờ, sao có thể chấp nhất mà luận? Cũng như xuân mộc tuy cường, kim thái trọng mà mộc cũng nguy; can Canh Tân mà chi Thân Dậu, không có hỏa chế mà không phú, gặp thổ sinh mà tất yểu, là đắc thời mà không vượng vậy. Thu mộc tuy nhược, mộc căn thâm thì mộc cũng cường, can Giáp Ất mà chi Dần Mão, gặp Quan thấu mà có thể nhận, gặp thủy sinh mà thái quá, là thất thời không nhược vậy. Là do nhật can bất luận nguyệt lệnh hưu tù, chỉ cần tứ trụ có căn, thì có thể nhận Tài Quan Thực thần mà nhận Thương quan Thất Sát. Trường sinh lộc vượng, là căn trọng vậy; mộ khố dư khí, là khinh vậy. Thiên can được một Tỉ kiên, không bằng địa chi được một dư khí mộ khố. Mộ, như loại Giáp Ất gặp Mùi, Bính Đinh gặp Tuất, Canh Tân gặp Sửu, Nhâm Quý gặp Thìn vậy. Dư khí, như loại Bính Đinh gặp Mùi, Giáp Ất gặp Thìn, Canh Tân gặp Tuất, Nhâm Quý gặp Sửu vậy. Được hai Tỉ kiên, không bằng trong chi được một trường sinh lộc vượng, như loại Giáp Ất gặp Hợi Dần Mão vậy. Bởi Tỉ kiên giống như bằng hữu giúp nhau, thông căn giống như có ký thác ở trong nhà, can nhiều không bằng thông căn, lý lẽ là tất nhiên vậy. Người ngày nay không biết lý này, là thấy xuân thổ hạ thủy thu mộc đông hỏa, không hỏi có hay không có căn,, liền cho là nhược: Là thấy xuân mộc hạ hỏa thu kim đông thủy, không nghiên cứu khắc nặng hay nhẹ, liền cho là vượng, lại có loại Nhâm Quý gặp Thìn, Bính Đinh gặp Tuất, Giáp Ất gặp Mùi, Canh Tân gặp Sửu, không lấy là thông căn núi khố, thậm chí cầu hình xung để mở ra, càng không nghĩ hình xung là thương tổn khí bản căn của ta. Loại này là luận sai lầm, tất cần phải loại trừ vậy. Nhưng chỗ này đều luận mặt phải của suy vượng, là Dịch, ở chỗ này lại có tồn tại lý lẽ điên đảo, có 10 lý lẽ: Mộc thái vượng mà tựa như kim, hỉ hỏa luyện vậy; mộc cực vượng mà tựa như hỏa, hỉ thủy khắc vậy. Hỏa thái vượng mà tựa như thủy, hỉ thổ ngăn vậy; hỏa cực vượng mà tựa như thổ, hỉ mộc khắc vậy. Thổ thái vượng mà tựa như mộc, hỉ kim khắc vậy; thổ cực vượng mà tựa như thủy, hỉ hỏa luyện dã. Kim thái vượng mà tựa như hỏa, hỉ thủy cứu vậy; kim cực vượng mà tựa như thủy, hỉ thổ ngăn vậy. Thủy thái vượng mà tựa như thổ, hỉ mộc chế vậy; thủy cực vượng mà tựa như mộc, hỉ kim khắc vậy. Mộc thái suy mà tựa như thủy, cần kim để sinh; mộc cực suy mà tựa như thổ vậy, cần hỏa để sinh. Hỏa thái suy mà tựa như mộc vậy, cần thủy để sinh; hỏa cực suy mà tựa như kim vậy, cần thổ để sinh. Thổ thái suy mà tựa như hỏa vậy, cần mộc để sinh; thổ cực suy mà tựa như thủy vậy, cần kim để sinh. Kim thái suy mà tựa như thổ, cần hỏa để sinh; kim cực suy mà tựa như mộc vậy, cần thủy để sinh. Thủy thái suy mà tựa như kim vậy, cần thổ để sinh; thủy cực suy mà tựa như hỏa vậy, cần mộc để sinh. Chỗ này là chân cơ ngũ hành điên đảo, học giả cần nên tường tận lý lẽ huyền diệu.
    1. Bành thị giải thích: Hiểu được đạo lý biến hóa ngũ hành vượng suy, đối với áo bí của nhân mệnh thì đã biết hơn phân nửa rồi. Vượng suy có thường lý cũng có biến lý, bên trên chỗ luận của Nhâm thị xem sơ qua là thập phần tuyệt vời, nào ngờ, đem biến lý xoay mạnh lấy thường lý mà nói, dĩ nhiên là lấy thật mà giả, vẫn như cũ không nhập vào chính đạo vượng suy.
    Hỏi: Vượng suy sao biết là thường lý? Sao biết là biến lý?
    Thầy đáp: Lấy cân bằng làm mục đích trung hòa, vượng hỉ khắc tiết hao, suy dụng sinh phù tức là thường lý. Lấy thuần túy mà không phải là trung hòa, là mục đích đo lường thuận thế mà đi, vượng là không thể khắc, nhược mà không thể phù tức là biến lý ngũ hành vượng suy.
    Thường lý dễ biết, biến lý khó nói. Chỗ khó nói hoàn toàn dựa vào giác ngộ, cửa huyền vi có trăm chỗ then chốt, không bằng một chữ "Ngộ" . Lĩnh ngộ là tiến vào đạo. Lấy mộc ngũ hành làm ví dụ biến lý, trước tiên là nói mộc thái vượng, mộc thái vượng có hai hướng đi, một là xu hướng ở cân bằng trung hòa, hai là xu thế ở thuần túy chuyên vượng. Trung hòa thuần túy là cát lợi.
    + Mộc thái vượng lúc xu thế ở cân bằng trung hòa, vẫn dùng như cũ là khắc tiết hao, thuộc về phạm vi thường lý. Cùng phân biệt ở thiên vượng dùng khắc hoặc tiết hoặc hao, thái vượng bản thân là thiên khô, chỗ dụng khắc tiết hao, đều thập phần miễn cường, cuộc sống gặp nhiều thăng trầm, cuối cùng vẫn là mệnh thiên khô.
    + Mộc thái vượng xu hướng ở lúc thuần túy chuyên vượng, tất là vì tồn tại một điểm chỗ dẫn đến kim ngũ hành khắc mộc, mục đích dụng hỏa không phải là xu hướng cân bằng tiết mộc, mà là ở chỗ khử kim. Đây chính là chỗ căn bản mà Nhâm thị đã nói "Mộc thái vượng mà giống như kim, hỉ hỏa luyện vậy" . Hiểu rõ đạo lý này, không cần lặp đi lặp lại.
    Lại nói mộc cực vượng, mộc cực vượng đã đạt tiêu chuẩn chuyên vượng, điều kiện là mộc vượng không có kim. Thuần túy là cát mệnh. Mộc cực vượng, tối kỵ hỏa đến cướp tiết khí mộc. Mục đích dụng thủy, một là dưỡng, hai là đề phòng hỏa đến cướp tiết khí mộc. Bảo trì trạng thái "Duy trì hoàn toàn", không tiết cái tinh hoa, mục đích là mộc ngũ hành trở thành chuyên vượng. Đây chính là hàm nghĩa chân thực chỗ Nhâm thị nói câu "Mộc cực vượng mà tựa như hỏa, hỉ thủy khắc vậy" . Thông ngũ hành là chân lý tự nhiên, cuộc sống đa số con người là truy cầu kiến lập công danh. Ngũ hành mộc thuần túy chuyên vượng, mục đích là ở nhân thọ, không phải là công danh lợi lộc. Nếu là không hợp công danh lợi lộc, không ít hi sinh nhân thọ.
    Mộc thái suy cũng có hai hướng đi, một là xu thế ở cân bằng trung hòa, hai là xu thế ở cực suy tòng theo thế nhược. Trước có nói dụng sinh phù thuộc về thường lý. Sau là dụng kim, khiến cho phục tùng triệt để. Dụng kim, có thể mộc thái suy phục tùng theo thế mạnh, để đạt mục đích là tòng theo thế nhược. Thứ tầng là cao hơn xa so với dụng sinh phù xu thế ở cân bằng. Đây chính là đạo lý "Mộc thái suy mà tựa như thủy vậy, cần kim để sinh".
    Lại nói tiếp mộc cực suy, điều kiện mộc cực suy có thể nói là mộc không có căn khí. Sớm phục tùng triệt để ở đối phương. Mộc cực suy, so sánh như là một tù nhân, lộ ra duy nhất không phải sử dụng phản kháng, mà là sử dụng tài hoa, bản thân thi triển tài hoa nói mới là con đường duy nhất an thân lập mệnh. Đây chính là hàm nghĩa câu nói "Mộc cực suy mà tựa như thổ vậy, cần hỏa để sinh " .
    2. Liên quan ở biến lý vượng suy, đơn giản chính là làm sao xử lý thái vượng thái suy, cực vượng cực suy. Ngũ hành khác xũng giống như vậy, không cần nói thêm.
    VD 1, của Nhâm thị

    Tứ trụ
    Đại vận
    Giáp Thìn
    Đinh Mão
    Giáp Tý
    Mậu Thìn
    Mậu Thìn
    Kỷ Tị
    Canh Ngọ
    Tân Mùi
    Nhâm Thân
    Quý Dậu

    3.
    Ngày Giáp Tý sinh tháng Mão, địa chi có 2 Thìn, là dư khí của mộc vậy, lại có Thìn Mão đông phương, Tý Thìn củng thủy, mộc thái vượng mà tựa như kim vậy, lấy Đinh hỏa làm dụng. Đến Tị vận, Đinh hỏa lâm vượng, danh liệt cung tường; hai vận Canh Tân, kim ở nam phương là tiệt cước, tuy có hình hao, mà không có đại hoạn; Mùi vận khắc khử Tý thủy, kho lương thực tích trữ hàng ngày; Ngọ vận Tý thủy xung khắc, thi hương không thành; vận Nhâm Thân kim thủy cùng đến, hình thê khắc tử, phá hao lắm điều; Quý vận chết.
    VD 2, của Nhâm thị

    Tứ trụ
    Đại vận
    Quý Mão
    Ất Mão
    Giáp Dần
    Ất Hợi
    Giáp Dần
    Quý Sửu
    Nhâm Tý
    Tân Hợi
    Canh Tuất
    Kỷ Dậu

    1. Tạo này có tứ chi đều là mộc, lại gặp thủy sinh, 6 mộc 2 thủy, khí khác đều không có. Mộc cực vượng, tựa như hỏa vậy, xuất thân tổ nghiệp hưng phong. Duy chỉ có Sửu vận hình thương, Nhâm Tý thế thủy thừa vượng, Tân Hợi kim không thông căn, chi gặp thủy vượng, ở đây 20 năm kinh doanh, thu lợi hàng vạn đồng; vừa giao vận Canh Tuất, thổ kim cùng vượng, phá tài mà chết.

    Bành thị giải thích: cả hai ví dụ này đều có tồn tại khí thế mộc ngũ hành, nhưng đều không có hội hợp phương cục, khí thế tán loạn, có thể theo tượng cục không lớn. Tạo trước có hỏa thổ thấu can, mộc thái vượng, xu thế ở cân bằng trung hòa, cũng không phải là xu thế ở cực vượng, nhất là một trụ Đinh Mão Lô Trung hỏa, thế hỏa thịnh vượng, không cách nào dập tắt, thủ hỏa thổ làm dụng, năm Giáp là kỵ, Canh Tân kim là hỉ. Nguyên nhân vận Nhâm Thân phá là do Thân Tý Thìn hợp cục làm tổn hại dụng thần Đinh hỏa. Tạo sau không có hỏa thổ thấu can mới là xu thế ở cực vượng. Nhưng cả hai đều ám tàng ở một trụ nạp âm kim, đều không có đủ tiêu chuẩn là Nhân Thọ cách. Tạo sau vì không có hỏa khử kim, trái với tạo trước mà nói là có minh ám hỏa chế kim, tạo sau phá cách càng tệ hại. Cho nên mới nói tạo sau có họa "Phá tài mà chết".
    2. VD 3, thời nay
    Càn tạo:
    Quý Ất Mậu Ất
    Hợi Mão Mão
    Tạo này mộc ngũ hành có 4 trong lại có ám hợp Hợi Mão là 5, mộc thành khí thế, nguyên cục không có kim, là Nhân Thọ cách. 87 tuổi thân thể vẫn rất mạnh khỏe, lão nhân hiền lành. Mộc ngũ hành thành thế, mặc dù là Nhân Thọ, nhưng khó có đại phú quý. Lão sư xuất thân, trung niên trở thành chuyên nghiệp. Hiện tại thân phận là một nông dân. Năm Tân Mão do điều kiện gia đình kém, bệnh nhẹ mà không có tiền chữa trị, an nhiên qua đời.
    VD 4, thời nay
    Càn tạo:
    Quý Ất Mậu Bính
    Mão Mão Dần Thìn
    Tạo này thế mộc nhiều lực mạnh, nếu không phải Quý Mão nạp âm kim phá cách, tất thị người cao thọ. Hiện có kim Quý Mão, ngày giờ thấu ra hỏa thổ, so với tạo ở trên biểu hiện đều là càng có thành tựu. Nhưng thành tựu ở đây không phải là quan quý, cùng lắm là có thể phát tài. Hiện tại chính hành Tây phương vận, tài càng phát mãnh liệt, thì càng phát sinh việc không tốt, hiện là năm Nhâm Thìn, giữa bản thân hoặc là con cái tất có tai ứng.
    VD 5, của Nhâm thị

    Tứ trụ
    Đại vận
    Ất Sửu
    Giáp Thân
    Giáp Thân
    Tân Mùi
    Quý Mùi
    Nhâm Ngọ
    Tân Tị
    Canh Thìn
    Kỷ Mão
    Mậu Dần


    Tạo này địa chi thổ kim, xứ mộc vô căn, can giờ Tân kim, nguyên thần phát thấu, mộc thái suy, tựa như thủy vậy, đầu vận Quý Mùi Nhâm Ngọ, sinh mộc chế kim, sớm thấy hình tang, tí ấm khó thịnh; Tân Tị Canh Thìn, kim gặp sinh địa, tay trắng phát tài hàng vạn; vận Kỷ Mão thổ vô căn, mộc đắc địa, gặp hồi lộc, phá tài hơn vạn; đến Dần vận mà chết.

    Bành thị giải thích: Tạo này do Sửu Mùi tương xung, căn khí mộc bị nhổ, nhưng có năm tháng Giáp Ất âm dương mộc tương trợ, chỉ là thái suy, luận theo Tài Sát. Thổ kim là hỉ dụng. Tạo này nếu bốn can đều là Giáp Ất, thì thiên can mộc thành khí thế, lại không thể lấy thái suy mà luận dụng thổ kim.
    1. VD 6, của Nhâm thị

    Tứ trụ
    Đại vận
    Kỷ Tị
    Kỷ Tị
    Ất Dậu
    Bính Tuất
    Mậu Thìn
    Đinh Mão
    Bính Dần
    Ất Sửu
    Giáp Tý
    Quý Hợi

    2.
    Tạo này địa chi đều gặp khắc tiết, thiên can lại thấu hỏa thổ, hoàn toàn không có thủy khí. Mộc cực suy, tựa như thổ vậy. Đầu vận giao Mậu Thìn Đinh, nhận được ấm tí phong hậu, nhiều cảnh tốt đẹp; Mão vận cha mẹ cùng chết; Bính vận toại nguyện kinh doanh lớn, thu lợi vạn kim; Dần vận khắc thê phá tài, lại gặp hồi lộc; Ất Sửu hoàn toàn là kim cục, tiết 2 hỏa thổ, gia nghiệp hao tán; Giáp Tý bắc phương thủy địa, tất chết vậy.

    Bành thị giải thích: Tạo này Ất mộc không có Tỉ không có trợ không có căn khí, mộc cực suy dụng hỏa. Chỗ này Ất vô căn, cũng không phải là mộc đống lương, nguyên nhân là ở Ất mộc không cường tráng. Ví như cây cỏ chết, dụng hỏa đốt hết, cũng tính toán là chỗ này Ất mộc phát huy tốt nhất. Đầu tiên đến Bắc phương thủy đất hỏa tử, đương nhiên sẽ không còn sức sống. Tạo này Mão vận không có ưu lo, thực ra là tượng Ất mộc cường tráng. Ất lộc ở Mão, không ở Dần. Dần vận là cường tráng quá, bang phù mà không tòng, tượng phá cách.

    VD 7, của Nhâm thị

    Tứ trụ
    Đại vận
    Ất Sửu
    Nhâm Ngọ
    Bính Tuất
    Giáp Ngọ
    Tân Tị
    Canh Thìn
    Kỷ Mão
    Mậu Dần
    Đinh Sửu
    Bính Tý



    Tạo này nhật nguyên Bính Tuất, tháng giờ có 2 Nhận, Nhâm thủy vô căn, lại gặp mộc tiết. Hỏa thái vượng, tựa như thủy vậy. Đầu vận Canh Thìn Tân Tị, kim phùng sinh địa, chỗ người không có phụ trợ, thân và bè đảng thiếu tình chiếu cố; được gặp Kỷ Mão, Mậu Dần toàn hội hỏa cục, cùng Đinh Sửu 20 năm, phát tài 4 đến 5 vạn, đến vận Tý chết.

    Bành thị giải thích: Tạo này hỏa nhiều cùng thấy Giáp Ất sinh trợ, hỏa thái vượng mà có xu thế ở cực vượng, hỏa cực vượng cần phải thành cục, tán hỏa là vô tình, lò lửa hữu dụng. Tạo này lấy hỏa thành cục làm dụng, mộc thổ là hỉ, kim thủy là kỵ.
    Đổi một góc độ, lấy Nhâm thủy làm thể để luận hỉ dụng, kết quả như nhau. Nhâm thủy tọa Ngọ, không thấy kim đến sinh phù, thủy khí ở trong Sửu bị Tuất táo thổ san bằng. Nhâm thủy cực suy, vẫn là kết quả hỉ dụng mộc hỏa thổ, kỵ kim thủy.
    Nhâm thị còn rất nhiều ví dụ, có thể tham khảo, không nói thêm nhiều.

    Nhâm thị tổng kết, bên trên là 20 tạo, ngũ hành cực vượng cực suy, không được khí trung hòa. Nguyên chú nói: "Trong vượng có suy tồn tại, trong suy có vượng tồn tại", hai câu này, tức là thái vượng thái suy vậy. "Cực vượng là không thể tổn, cực suy là không thể ích", hai câu này, tức là cực vượng cực suy vậy
    1. Luận Thân nhược

    Luận Thân nhược
    T/g: Thái Tích Quỳnh

    1. Định nghĩa Thân nhược
    Ở tác giả cho rằng, "Thân nhược" là khái niệm mức độ vượng suy cực kỳ mơ hồ. Trong thực chiến luôn luôn cần chúng ta phải cầm nhật can vượng suy, phân tích cụ thể đến thiên nhược, thái nhược, cực nhược là thuộc về một loại mức độ thân nhược. Nếu không thì không thể đủ tốt mà vận dụng lý luận vượng suy để hướng dẫn bạn suy đoán mệnh cục.
    Thực ra, tôi nhìn mệnh cục, vẫn không phải là chỉ xem nhật can vượng suy cường nhược. Cơ bản là tôi phân tích các bước là:
    + Thứ nhất, nhìn thế khí toàn cục (lấy địa chi làm chủ);
    + Thứ hai, nhìn khí số nhật can (lấy thiên can làm chủ);
    + Thứ ba, nhìn thiên can tháng, giờ cường hay nhược;
    + Thứ tư, quyết định nhật can vượng suy.
    Hôm nay ở đây tôi muốn bàn một chút về chuyên môn, lúc nhật can thuộc về phạm vi nhược, phép xem của tôi đối với bát tự là như thế nào.
    Bởi vì nhật can ở mức độ thuộc phạm vi nhược có ba loại là thiên nhược, thái nhược, cực nhược, phân biệt cho rõ ràng mà đối ứng với bát tự gặp cát hung, cho nên chỉ cần bạn định chuẩn nhật can của bát tự thuộc về mức độ một loại nhược nào đó, thì cũng có thể trước tiên từ trên tổng thể nắm chắc tốt cát hung bát tự. Phân tích được mệnh cục chính là suy đoán mệnh cục chuẩn xác, cũng chính là căn cứ nhật can ở những mức độ vượng suy phân biệt ở bên trong đó, có thể xác định cơ bản cát hung của mệnh cục, cho nên mới có phân chia lý luận loại này có hiệu quả. . . .

    2. Phân loại Thân Nhược
    Thân nhược là một khái niệm mơ hồ thường hay đề khởi ở trên mệnh thư thông thường, lúc cao thủ phân tích mệnh cục, thực tế không phải chỉ mơ hồ dừng lại ở trên một giai đoạn.
    VD như nữ mệnh: sinh giờ Tý, ngày 28 tháng 1 năm 1971 dương lịch ( Nhằm ngày 2 tháng giêng năm 1971 âm lịch, giờ Tý). Bát tự:

    Thập thần
    Ấn
    Sát
    Nhật
    Kiếp
    Tứ trụ
    Canh Tuất
    Kỷ Sửu
    Quý Sửu
    Nhâm Tý
    Đại vận
    Mậu Tý
    Đinh Hợi
    Bính Tuất
    Ất Dậu
    Giáp Thân
    Quý Mùi
    Nhâm Ngọ
    Tân Tị
    Tuổi vận
    7 tuổi
    17 tuổi
    27 tuổi
    37 tuổi
    47 tuổi
    57 tuổi
    67 tuổi
    77 tuổi
    Năm
    1978
    1988
    1998
    2008
    2018
    2028
    2038
    2048


    Vấn đề:
    1, Trình độ văn hóa: a, trung học b, đại học c, thạc sĩ
    2, Gia cảnh: a, phụ mẫu quan quý b, phụ mẫu phú ông c, phụ mẫu bình dân
    3, Lưu niên ly hôn: a, năm 2000 b, năm 2002, c, năm 2003
    (đáp án trả lời của mệnh chủ: 1, b đại học 2, c phụ mẫu bình dân 3, c năm 2003 )

    Phân loại Thân nhược:
    { Thiên nhược —— Mức độ một loại vượng suy đã qua sinh phù có thể điều tiết đến trung hòa.
    {{ Thái nhược —— Mức độ một loại vượng suy rất khó điều tiết đến trung hòa lại không đủ tòng nhược .
    { Cực nhược —— Mức độ một loại vượng suy thuộc về tòng nhược.

    Thiên nhược, thái nhược, cực nhược là phân chia đối với một loại nhược như trên, từ xưa đến nay đều không có một xác minh tìm ra ranh giới. Từ góc độ cát hung tiến hành phân loại, trong đó thiên nhược và cực nhược là cát (cả hai không thể kiêm được), thái nhược là hung. Tác phẩm Mệnh Lý huyền cơ tham bí đã nói rất rõ ràng, ở đây không nói nữa. Dưới đây phân tích mức độ ba loại khác nhau theo ví dụ ở trên.
    Khôn tạo: Canh Tuất, Kỷ Sửu, Quý Sửu, Nhâm Tý
    Tạo này có nhật can Quý thủy sinh ở tháng Sửu là đất quan đái, tọa dưới cũng là Sửu thổ, thời thượng đắc lộc, can năm thấu ra Canh kim, Kỷ thổ lại là thấp thổ, giữ thủy mà không khắc thủy. Nhưng dù sao cũng là Kỷ thổ nắm lệnh, đặc biệt là Tuất thổ và Sửu thổ tương hình, khiến cho gốc Quý thủy bị cản trở nghiêm trọng. Ngũ hành cường nhược và nguyên đầu rất có quan hệ, gốc có thủy, hơn nữa cũng không có khô kiệt; gốc có thủy, chỉ cần không có tổn thương nguyên đầu, cuối cùng không lấy thái nhược luận. Tạo này nguyên đầu chủ yếu phát ra ở Tân kim tọa dưới Sửu. Cộng thêm điều kiện bang phù nó, cho nên nhật can Quý thủy cuối cùng là thuộc về mức độ thiên nhược. Năm tháng Sửu Tuất tương hình, đối với kim thủy trong nguyệt lệnh Sửu thổ tạo thành tổn hại, đây đã quyết định thực tế nhật can cường nhược, cũng quyết định cha mẹ mệnh chủ có địa vị thấp. Nhưng nhật can ngoại trừ bị đến Kỷ thổ Chính Quan ước thúc, ở trong hai trụ ngày giờ lại thấy không đến một chút không đến một chút tổn thương, đây vừa nói rõ nhật can không có thể là cực nhược, vị vậy, nhật can lại thuộc về mức độ vượng suy là thiên nhược. Thân bát tự thiên nhược lấy cát xem, cho nên địa vị mệnh chủ khá cao. Do vậy, mệnh chủ thì không có thể có học lực là bậc trung học. Chi ngày tọa dưới Sửu thổ tác dụng đối với Quý thủy là trọng đại, bởi vì trong Sửu có Tân phát nguyên thủy, nếu như Tân kim ở trong Sửu không còn tồn tại, vậy thì xuất hiện thổ trực tiếp khắc thủy. Cho nên năm Quý Mùi, Mùi xung Sửu thổ mà ly hôn.

    VD 1,
    Tiêu đề: Hắn năm nay muốn đầu tư, xem phù hợp không?
    Càn tạo: Ất Tị, Mậu Dần, Tân Mão, Giáp Ngọ (Ngọ Mùi không vong)
    Khởi vận: Mệnh chủ lúc sau khi sinh ra 0 năm 8 tháng 16 ngày 4 giờ là khởi vận.
    Giao vận: Mệnh chủ ở 16 giờ ngày 22 tháng 10 năm 1965 DL là giao vận.
    Đại vận: khởi vận lúc 0 tuổi, Đinh Sửu, Bính Tý, Ất Hợi, Giáp Tuất, Quý Dậu, Nhâm Thân, Tân Mùi, Canh Ngọ.
    Bởi vì Mậu thổ thấy Tị hỏa là đắc lộc, Tị hỏa không tổn thương, Mậu thổ sẽ không lấy nhược luận, nhưng đối với nhật can Tân kim mà nói, ở trên lý luận Mậu thổ là gốc của Tân kim, là có căn không tòng. Nhưng ở trên thực tế cũng không phải là đơn giản như vậy, Mậu là táo thổ, Trích Thiên Tủy nói: Thổ táo vật bệnh, thổ nhuận thì sinh. Chính là chỉ Mậu thổ là một loại có đặc tính hỉ thấp mà kỵ táo. Cho nên ở đây Mậu thổ cũng không sinh Tân kim. Tạo này cũng có người phân tích nói là bởi vì Mậu thổ bị Ất mộc khống chế, xuân thổ hư nhược không sinh Tân kim. Cả hai phân tích kết quả là giống nhau, nhưng ở trên đạo lý, trước mới là chính lý, bởi vì bản chất đặc trưng của ngũ hành, là yếu tố thứ nhất. Chúng ta trở lại xem tiếp nhật nguyên Tân kim ở mức độ vượng suy. Trong nguyên cục Mậu thổ không thể sinh nhật can Tân kim, cũng không phải là tuyệt đối, nên lúc Mậu thổ biến thành thấp nhuận, Mậu thổ lại có thể sinh Tân kim. Huống chi địa chi tất lại còn tồn tại 2 kim (trong Tị có Canh kim và Giáp Ngọ nạp âm là kim). Đã sau khi tổng hợp phân tích, trên cơ bản có thể thấy rõ chỗ đặc điểm của tạo này: Nhật can Tân kim đã có nguyên đầu lại không thành nguyên đầu, đã có căn lại khó lấy căn, cho nên tôi phán đoán mức độ nhật nguyên Tân kim là thái nhược. Ngoài ra, từ tâm tính mệnh chủ mà xem, mệnh chủ không đoán là quân tử độ lượng, cũng không đủ người có bẩm tính là tòng cách, đây cũng là một loại bằng chứng.
    Nên lúc nhật can chỗ ở mức độ vượng suy là thái nhược, cần phải xử lý như thế nào? Trước tôi đã nói qua trong sách Tham Bí , mới vừa rồi còn qua học tập. Ở đây lặp lại lần nữa: Ngũ hành Thái nhược có hai hướng đi, hoặc là dụng Tài Sát khiến cho nó biến thành cực nhược (tức là tòng nhược); hoặc là sử dụng sinh phù trợ giúp bản thân khiến cho nó trở thành thiên nhược. Bởi vì cực nhược và thiên nhược đều là phạm vi thuộc hai loại vượng suy cát lợi, thái nhược thì thuộc về phạm vi thiên khô không cát. Suy nghĩ một chút, nỗ lực con người ai mà không muốn khiến cho bản thân được trở thành gia đình càng hạnh phúc tốt đẹp chứ?
    Lại xem một chút về tạo này trả lời thực tế: Vận Ất Hợi thi vào trường Sư Phạm chuyên khoa, năm Ất Hợi thăng chức phó hiệu trưởng nhà trường, năm 1998 thăng làm hiệu trưởng. Hai năm này mệnh chủ không nhận lục thân, đặc biệt là quan hệ kém với cha mẹ, nhất là thái độ đối với mẫu thân rất không tốt, năm 2000 giáng chức, sau đó năm 2001 vì vượt kế hoạch hóa gia đình mà phá tài. Tạo này tôi nắm nhật can định là thái nhược thiên khô, cùng số anh em của người này là ăn khớp: Cha mẹ tổng cộng sinh 8 thai, còn sống 6 anh em, hắn là một em trai duy nhất, còn lại là 5 đều là chị em gái. (tổn hết hai đều là anh em trai, là tại sao chứ? )
    Thái nhược, chính là trạng thái vượng suy ở giữa một loại thiên nhược và cực nhược chưa quyết định. Nguyên cục là thái nhược, nhân phẩm hoặc tầng lớp địa vị thì sẽ không rất cao. Nên lúc đại vận hoặc lưu niên sinh phù nhật can biến thành thiên nhược, thì sẽ có chút chuyện cát lợi; nên lúc gặp đến nguyên đầu bị chặn, thì nhổ cỏ tận gốc, thì trở thành cực nhược mà là tòng cách. Như vậy thì sẽ có biến hóa rất lớn, hơn nữa đa số là đại cát. Đây chính là nguyên nhân mệnh lý tân phái vì sao động hay không động lấy tòng cách để luận.
    Lại xem một tạo:
    VD 2, Khôn tạo: Mậu Thân, Ất Sửu, Giáp Ngọ, Canh Ngọ
    Đại vận: 4 tuổi khởi vận Giáp Tý, Quý Hợi, Nhâm Tuất, Tân Dậu, Canh Thân, Kỷ Mùi, Mậu Ngọ, Đinh Tị.
    Tạo này Giáp mộc sinh ở tháng 6, thiên can Ất mộc thấu ra có ý hướng phù Giáp mộc. Như vậy, nhật nguyên phải tính là thiên nhược hay là thái nhược hoặc là cực nhược chứ? Hiện tại mọi người muốn nắm tư tưởng nhận thức đuổi theo thiên nhược và cực nhược là cát, thái nhược là thiên khô không cát. Tạo này bạn cho rằng thuộc về mức độ loại vượng suy nào chứ? Tôi kết luận là thân thái nhược, thuộc mệnh cục thiên khô không cát. Tạo này ở trong trụ còn có một Ất mộc, Ất mộc vượng suy cũng là thái nhược. Nhưng mà Giáp ở cùng trong một bát tự này, 2 Ất mộc, chúng nó lại có phân biệt rất lớn. Ở đây có 2 nguyên nhân, thứ nhất là tính chất nhu nhược của Ất mộc, thứ hai là Ất mộc tọa dưới Sửu thổ, có thể được Quý thủy sinh phù. Chỗ này mặc dù Giáp, Ất đều là ngũ hành mộc ở trong một bát tự, nhưng cả hai ở mức độ vượng suy lại không giống nhau, Ất mộc thuộc về thái nhược không tòng, Giáp mộc thì là có thể tòng thái nhược. Ất mộc thấy Giáp là chỗ nói trong Trích Thiên Tủy : là dựa vào Đằng la hệ giáp. Trái lại Giáp mộc thấy Ất, là một loại tình cảnh như thế nào mọi người có thể tưởng tượng. Mọi người sử dụng biện pháp phân biệt hai loại này so sánh hết khác nhau, chính là công trực tiếp Ất mộc được căn khí, mà Giáp mộc thì không được căn khí. Ở chỗ này tôi chia ra mức độ vượng suy của Giáp Ất mộc, có người có thể vẫn không biết ý nghĩa ở trong đó. Như vậy tình huống thực chiến xem dưới đây thì bạn sẽ cảm thấy có hứng thú.
    Đoán: Cha mẹ tốt, tổ thượng hơi kém;(sự thực đúng là như vậy)
    Bản thân không tệ, con cái hơi kém. (bản thân vẫn chưa có con cái, không biết đúng không?)
    Mệnh chủ là trụ cột trong nhà, xin đẹp tài năng (trước mắt là chính xác)
    Năm ngoái năm nay tài vận không tốt, cha chồng chết sớm (đúng năm nay rất xấu, cha chồng sau này 10 năm trước đã qua đời)
    Có một em trai rất bất hạnh (bệnh chết)
    Bên trong dấu ngoặc đơn là nội dung trả lời, dưới đây có ba điều cùng chúng tôi thảo luận nội dung liên quan. Không biết mọi người có còn nhớ hay không, công thức lục thân ở trên, Kiếp tài đại biểu là người nào? Nữ mệnh Kiếp tài đại biểu là anh em trai, cha chồng. "Mệnh chủ là trụ cột trong nhà, xin đẹp có tài" là bởi vì chỗ Giáp mộc nhật can, có đủ hai đặc điểm ở dưới đây:
    1, Giáp mộc tọa tử địa, can gặp Canh kim tương khắc; tử mộc vốn là vô dụng, gặp khắc hoặc là gặp mộ khố thu tàng trái lại là hữu dụng. (thấy giải thích ở trên 12 cung trường sinh)
    2, Giáp mộc không được căn khí; đại vận có thể khiến cho Giáp mộc cực nhược mà tòng theo. Thái nhược có thể tòng chính là cát cách, thứ tầng cát cách đương nhiên là không thấp. Xinh đẹp là bởi vì "Giáp gặp kim khắc thì dung mạo như hoa"
    "Cha chồng chết sớm" và "Có một em trai rất bất hạnh" là bởi vì Ất mộc Kiếp tài thuộc mức độ vượng suy là thái nhược không tòng, tất nhiên là thiên khô không cát. Vận chuyển Tây phương, là thân suy gặp quỷ, đương nhiên thì sẽ có hung. "Năm ngoái năm này tài vận không tốt" là bởi vì năm ngoái là Nhâm Ngọ còn năm nay là Quý Mùi, Giáp mộc sinh căn, thì sẽ không dẫn đến tòng.
    Thái nhược chân chính thuộc về bát tự cực nhược mà tòng theo cũng không khó xem. Mọi người nhất định đã biết trong Trích Thiên Tủy có một câu nói " Tượng Chân tòng có mấy người, Giả tòng thân cũng có thể phát" . Bát tự chúng ta thường thấy, đa số là Giả tòng.
    Bởi vì bát tự cực nhược mà tòng lại có nhiều loại nhiều dạng hình thức, ở đây thường thấy giới thiệu có ba loại:

    1, Thái nhược đắc khí
    Khôn tạo: Tân Dậu, Nhâm Thìn, Bính Thìn, Nhâm Thìn
    Bính sinh tháng ba vị trí quan đái, giờ Thìn lại là Thái Dương ở ranh giới lên cao. Cho nên tạo này phải thuộc về được khí mà tòng. Ở trong Tòng Nhược cụ thể mà nói là có Tòng Sát, Tòng Tài, Tòng Nhi, nhưng tạo này rốt cuộc là tòng cái gì? Đã từng có học viên nói Tòng Quan Sát, cũng có học viên nói Tòng Tài, rất í cho rằng là Tòng Nhi. Thực ra chúng ta suy nghĩ một chút, cài nào khí thế tối vượng thì là tòng theo nó. Rõ ràng là thiên can Sát lộ Sát trọng, thì khí thế can mà nói phần lớn phải là Tòng Sát. Nhưng địa chi có 3 Thìn thổ, Thực thần càng nặng. Sau khi cân nhắc tạo này phải là Tòng Nhi, Quan Sát và Tài tinh đều là Hỉ thần. Còn có một đường có thể trợ giúp cho chúng ta rõ lý một chút. Bính hỏa dù sao cũng là được khí mà tòng, lúc hành vận Nam phương, Bính hỏa sẽ khởi lên vượng, nếu như Tòng Tài, Tòng Sát chính là mệnh chết yểu. Chỉ có Tòng Nhi, đúng hợp chỗ nói trong Trích Thiên Tủy : "Tòng nhi bất quản thân cường nhược" hành hỏa thổ vận trái lại là cát. Từ tình huống thực tế mệnh chủ mà xem, mệnh chủ là học sinh đại học chính quy, đối với Dịch học hết sức có hứng thú, rất thích biểu diễn tài hoa bản thân, đối với chỗ quyền thế không có trông mong, đặc biệt là thiếu niên hành hỏa vận lại thông minh vô cùng.

    2, Thái nhược được trợ giúp
    Càn tạo: Canh Tý, Mậu Tý, Kỷ Mão, Quý Dậu
    Đại vận: 6t Kỷ Sửu, 16 t Canh Dần, 26 t Tân Mão, 36 t Nhâm Thìn, 46 t Quý Tị
    Bạn hữu không chỉ một lần hỏi đến tạo này tình huống vượng suy. Tôi cũng suy nghĩ rất lâu, cuối cùng cho rằng, vượng suy phải phân ra giai đoạn mà luận. Cuối cùng vẫn phải xem lấy cực nhược mà tòng. Tạo này thuộc về thiên khô cực nhược, nguyên nhân là nguyên mệnh cục có Mậu thổ trợ thân. Cực nhược tất là có chỗ tòng theo, như vậy, nhật can Kỷ thổ, tòng theo ai mà đi chứ? Phép xem của tôi là, lúc nhỏ Tòng Tài mà đi, 32 tuổi đến 40 tuổi cơ bản là không tòng, sau 40 tuổi Tòng Sát mà đi. Sau 48 tuổi lại phải Tòng Thực Thương mà sinh Tài. Khi tôi sử dụng một quan điểm biến hóa này để phân tích suy toán nó đã trải qua trước kia, kết quả chuẩn xác suất rất cao. Bởi vậy, tạo này không có luận tòng theo cái gì đều là không thuần, biểu hiện ở trên tư tưởng mệnh chủ rất là tạp loạn, lúc nhỏ Tòng Tài, không phát tài, mà là có nhân duyên với bạn gái rất tốt, bản thân hắn thấu lộ trước 32 tuổi, liền lợi dụng chức vụ, chơi đùa hơn 10 nữ nhân, đa số là tiểu cô nương còn trẻ xinh đẹp. 32 tuổi sau 8 năm (chính ở vận Tân Mão), đột nhiên thay đổi rất nhiều, giai đoạn này biến động rất lớn, có thể gặp gỡ từ năm xưa là tốt rồi, gặp gỡ không theo lại đỡ thân không dậy nỗi thì lưu niên không cát. Ví dụ như năm 1994 Giáp Tuất có không cát, năm 1995 Ất Hợi và năm 1996 Bính Tý thì rất tốt, năm 1997, 1998 tài vận tốt. Nhưng năm 1999 không hạ chức vẫn phá tài. Từ năm 2000 bắt đầu cho đến hiện tại, dựa vào vợ sinh nhai cũng rất tốt. Vợ mệnh chủ có chức, chức vụ không thấp, đối với anh ta cũng khá quan tâm, thậm chí xưng mệnh chủ là quý nhân. Bởi vì ở đây là nói đến thân nhược, thực ra phép xem đối với tạo này, chỉ xem từ trên góc độ vượng suy, rất là khó nắm chắc chắn. Tôi bắt đầu đoán tạo này cũng không có xuất phát từ vượng suy, mà là từ góc độ bệnh dược mà xem, tính chuẩn xác xa so với từ góc độ vượng suy.
    Tạo này tại sao từ trên bệnh dược đi xem là khá dễ dàng chứ? Nguyên nhân chính là ở tạo này là thân nhược đan xen giữa thái nhược và cực nhược, thuộc về bát tự thiên khô là có bệnh. Ngoại trừ kim ngũ hành là tuyệt đối không tốt, còn ngũ hành khác đều có đủ tính hai mặt. Mậu thổ bang phù nhật chủ, khiến cho nhật can không tòng, không phải là chuyện tốt, nhưng Mậu thổ chế thủy, cũng có thể khống chế Tý Mão tương hình, khiến cho Mão mộc có thể căn bám sâu. Tạo này tổng hợp hết toàn cục mà xem, mao bệnh lớn nhất là ở Tý thủy thái trọng. Từ ở trên góc độ vượng suy xa hơn không bằng xem từ trên góc độ bệnh dược nhanh hơn mà lại chuẩn. Một ngày năm Quý Mùi tháng Tân Dậu, tôi đem tạo này phân tích cho mệnh chủ nghe, mệnh chủ vốn là người hiểu dịch học, hiểu được tôi nói rất có đạo lý.
    Thái nhược có căn
    Ở trong luận đoán lấy nhật can vượng suy làm tiêu điểm, thái nhược có căn và thiên nhược là rất khó phân biệt. Tôi cho rằng, lúc này phải xem một chút căn khí, ở nguyên cục phải chăng là có trải qua thụ thương hoặc là bị khắc hết. Chỉ cần không khắc hết, đều có khả năng được sinh mà biến thành thiên nhược không tòng. Nguyên mệnh cục đã quyết định mức độ vượng suy của nhật can, cũng quyết định mệnh chủ tầng lớp phú quý. Đại vận lưu niên cát hung đa số là thể hiện ở trong nguyên mệnh cục có sẵn.
    Khôn tạo: Đinh Mùi, Canh Tuất, Nhâm Tuất, Giáp Thìn
    Đại vận: 5 tuổi khởi vận Tân Hợi, Nhâm Tý, Quý Sửu, Giáp Dần, Ất Mão, Bính Thìn.
    Khôn tạo này nhật nguyên Nhâm thủy, được Canh kim phát nguyên là có căn, ngoại trừ chỗ này ra trên cơ bản đều là khắc tiết háo. Loại tình huống này tức là thuộc về mệnh thái nhược có căn. Chỉ vì mệnh cục thuộc về thiên khô thái nhược, cho nên thứ tầng là không cao, chức nghiệp là y sinh tầm thường. Nhưng từ khi ra đời đến nay vận khí một mực tốt, chứng minh bát tự hỉ sinh phù, mượn đại vận sinh trợ, nhật nguyên đã là thuộc mức độ trung hòa thiên nhược. Chỉ hai năm Nhâm Ngọ Quý Mùi hỏa thổ trọng, mệnh chủ như thế nào đây? Thực tế chỉ có người nhà là có chút bất thuận, cá nhân vẫn là rất tốt. T6oi đoán hắn Giáp Dần Ất Mão thằng đến vận Bính Thìn đều không xấu, nguyên nhân tạo này chỗ hại không phải là vấn đề thân vượng thân suy, mà là thổ quá nhiều, thấy mộc thì có công. Huống chi Giáp Dần Ất Mão nạp âm cũng là thủy, cho nên trước 65 tuổi đếu phải lấy cát mà đoán. Đương nhiên Mão vận ở lục thân bất lợi như vậy là một chuyện khác. Tạo này nguyên mệnh cục là thái nhược thiên khô, chỉ quyết định thứ tầng của mệnh chủ là không cao. Đây chính là chỗ cổ nhân nói: Phú quý là ở bát tự, cùng thông là ở vận hạn.
    Khôn tạo: Bính Thân, Giáp Ngọ, Canh Ngọ, Đinh Sửu
    Đại vận: 8 tuổi khởi vận Quý Tị, Nhâm Thìn, Tân Mão, Canh Dần, Kỷ Sửu
    Tạo này nhật nguyên Canh kim, chi năm đắc lộc, trong Ngọ còn có Kỷ thổ sinh thân, hiển nhiên nhật chủ là có căn. Tạo này ngoại trừ vận Nhâm Thìn có không cát, còn lại một mực đều không xấu. Nhất là vận Dần, không chỉ không có hung sự, trái lại là thăng quan. Tạo này thái nhược có căn lại cần lấy tòng cách luận. Vận Canh Dần sinh bệnh đại tràng, còn lại đều tốt, nhưng người này là phong cách bất chính, tôi đoán cô ta vận Kỷ Sửu tất mất chức, thậm chí có họa sinh tử.
    Còn có một thân nhược đặc thù đều phải chú ý. Ví dụ như ba tạo dưới đây:
    + Càn tạo: Quý Sửu, Giáp Dần, Đinh Dậu, Đinh Mùi
    + Càn tạo: Quý Mão, Giáp Dần, Đinh Mùi, Kỷ Dậu
    + Càn tạo: Quý Tị, Giáp Tý, Đinh Dậu, Giáp Thìn
    Hai tạo trước đều là Ấn vượng thân khinh, quan chức không rất cao. Tạo sau là nhân vật nào mọi người có thể đi nghiên cứu thử xem, ở đây là chỉ đàm luận vấn đề vượng suy. Nhưng ba tạo này mặc dù đều là mệnh cục thiên nhược, dụng thần đều không ở Tỉ Ấn, mà ở dụng Tài tinh phá Ấn, hoặc là nói đều phải sử dụng Canh kim bổ mộc sinh hỏa. Năm nay là năm Quý Mùi, tạo Quý Sửu là cán bộ chuyên nghiệp chính quy, tạo Quý Mão là cán bộ cấp cục, tạo Quý Tị là bậc đế vương đã mất. Hai tạo sau đều là vận Canh trở nên giàu có, cho nên tôi dám khẳng định, tạo Quý Sửu vận Canh Tuất cũng tất nhiên trở nên giàu có.
    Giảng đến chỗ này, mệnh cục thân nhược cũng không giảng đến toàn bộ. Nếu như nói rõ ràng tổng thể, tôi cho rằng cũng tính là một tiến bộ. Ở lúc chỗ này kết thúc, chúng ta lại khái quát tổng kết một chút: Thân nhược mơ hồ cũng không phải là khó xem, nhưng ở trong quá trình dự trắc thực tế, tuyệt đối không thể là chuyện đơn giản như vậy. Chung ta tất cần xem cho rõ mức độ thân nhược và nguyên nhân thân nhược. Dễ dàng phân biệt thân nhược, đa số chính là thiên nhược hoặc là tòng nhược, biện pháp xử lý cũng đơn giản. Rất khó phân biệt thân nhược, đa số là nó có nguyên nhân, chúng ta cần phải tìm con đường xử lý vấn đề. Ở trong tòng nhược, còn phải phân rõ tòng cái gì, ví như có câu nói "Tòng Nhi bất kể thân cường nhược, chỉ cần Nhi ta lại được Nhi" thì chúng ta phải cân nhắc cho kĩ. Trên lý luận, chúng ta nắm đan xen mức độ vượng suy giữa thiên nhược và cực nhược gọi là thái nhược. Trong thực tiễn, chúng ta lại cũng không thể điều tiết bát tự đến thiên nhược, lại không thể điều tiết đến tòng nhược các loại này ở tình thế khó xử, định là mệnh cục thái nhược thiên khô. Đương nhiên nhất định theo chỗ này mà luận, thứ tầng của mệnh chủ cũng liền xuất hiện. Lặp lại một lần nữa: Thiên nhược là cát, thái nhược thiên khô là không cát, tòng nhược là đại cát.
    Hết bài luận vượng suy .


    Các bạn xem ở T/g Thái Tích Quỳnh luận thân nhược như thế nào? Các bạn nếu xem chỗ này mới thấy rõ chỗ tìm ra số anh em ruột thịt của một mệnh, căn cứ chỗ này các bạn sẽ càng xác định chuẩn xác thủ dụng cho bát tự. Từ chỗ này chúng ta nhìn lại cách lấy dụng thần so với trước đây là hết sức thú vị, ở đây họ Thái dùng phép Tử Bình một cách rất linh hoạt chứ không phải nghĩ là đơn thuần thân nhược hay thân vượng mà cứ chọn lấy dụng thần!
    dụng thần biến hóa....,
    Thiên nhược: thì sinh phù /Thiên vượng: thì khắc tiết....quan trọng là xác định được " là thiên nhược được hoặc sẽ thiên nhược đươc thông qua kết hợp bát tự + đại vận"
    Cực nhược : thì tòng nhược/ Cực vượng : thì tòng vượng/ cường .......quan trọng là " Cực nhược được hoặc sẽ cực nhược được thông qua kết hợp bát tự + đại vận
    Do vậy dụng thần cho bát tự không nhất định là cố định mà biến hóa theo đại vận.
    Sinh ,phù/ khắc, tiết/ điều hậu làm cho ngũ hành trong bát tự cân bằng....thì như bệnh được đúng thuốc! Bát tự có bệnh mới quí,quí là được thuốc.....bệnh ở đây là "thiên nhược"
    Còn như cực nhược/ cực vượng khồng thể lấy ngũ hành cân bằng làm mục tiêu được nữa.....phe/ phái rõ ràng lệch hẳn về 1 hoặc 2 hành thì.....Tòng theo mà an thân.
    trích theo Trích Thiên Tủy :
    Lời xưa: “Yếu tại phù chi ức chi đắc kỳ nghi”, dễ nhận thấy dụng thần là dụng, tức chân dụng thần. Vượng tất nên ức, nhược tất nên phù, tuy không thay đổi chi pháp, nhưng mà bên trong có biến đổi, chỉ có điều quyết định tại ba chữ: “nên thích hợp” . Vượng nên ức nhưng không thể ức, phản lại nên phù; nhược nên phù nhưng không thể phù, phản lại nên ức. Chỗ này là mấu chốt chân lý của mệnh lý. Ngũ hành đảo điên nhưng diệu dụng vậy. Cực cường vượng bị ức mà có hại, tất nên tòng cường mà phù cường; cực nhược được phù, phù mà uổng công vô dụng, tất nên tòng nhược mà ức nhược. Đúng là không thể lấy một phương diện mà luận vậy.

    Gemini vẫn biết dụng thần nên thích hợp nhưng, biến hóa từ thân nhược ,cần thuốc sang thành cách Tòng , có khoản cách quá lớn nếu không phải như bậc cao nhân mệnh lý " Thái Tích Quỳnh " luận thì khó mà các bạn nguyên cứu mệnh lý khác đồng tình...., cái khó của môn này là ở mực độ "ngộ" cao thấp...., cộng với một hệ thống tư liệu phong phú thì sự học trong môn này còn gian trân quá.
    Gemini cũng chia sẽ thêm tính cách linh hoạt+ ứng biến cũng thay đồi theo quốc gia/ hệ thống luật của 1 quốc gia., và theo đặc tính con người từng nơi
    Chẳng hạn thế giới chia ra làm 2 hệ thống :
    1 Luật dùng " án lệ" được phương Tây , Mĩ dùng rất rộng rãi: Sử dụng " nguyên tắc" theo từng tình huống cụ thể là phân xử....dựa trên cách xử trước đó với các tình huống tương tự... người phân xử là " chánh án" sử đụng đánh giá, đối chiếu, xuy xét mà xử. và linh hoạt cập nhật các tình huống chưa có trong luật, liên tục phát triến
    2 Luật dùng " văn bản hành văn" được các nước như Pháp, VN, TQ và các quốc gia khác dùng. Sử dụng từ ngữ " áp dụng/ tuân thủ" chứ không phải " đánh giá, suy xét, đối chiếu", để vận dụng luật, không nằm trong luật thì chờ luật được ban hành.... có phần thụ động khô cứng nhưng đưa ra một khuôn khổ rõ ràng để theo đó mà xử..... nhưng vai trò của " Chánh án" chỉ là đọc , chiếu theo luật mà xử.....mất đi tính linh hoạt, suy xét giữa tình và lý...

    Ở đây ý Gemini nói đến chính là người xem mệnh cũng là 1 chánh án, phán quyết cuộc đời của mình, của người thông qua kiến thức. nhưng đa phần là áp dụng theo " luật hành văn" chứ ít người " vận dụng được nguyên tắc".
    Thái Tích Quỳnh chính là 1 chánh án theo hệ thống luật "án lệ", có suy xét những vĩ dụ kinh điển trước đó + kiến thức uyên thâm + kinh nghiệm đánh giá, suy xét của bản thân mà thành một mệnh sư " thực thụ" .
    Những chương/ trích lục được đưa lên cũng chính là " án lệ" mà các bạn học mệnh lế khác soi theo mà luyện tập.
    Hiểu được câu này thì bạn là người nắm chắc nguyên tắc vượng suy đó. Nhưng không dễ dàng như vậy đâu.́. Bạn cũng biết là luận mệnh một con người là cực kỳ khó, nó khó đến mức mà Quỷ Cốc Tử tiền bối còn phải than thở huống chi là chúng ta.
     
    Chỉnh sửa cuối: 25/4/15
    Bahoian thích bài này.
  20. Mạnh Nhân

    Mạnh Nhân Thần Tài

    feq

    Tôi có xóa mất 1 dòng ngắn vài chữ trong đoạn chót:"Hiểu được câu này thì bạn là người nắm chắc nguyên tắc vượng suy đó. Nhưng không dễ dàng như vậy ...."

    ,vì thấy không liên quan hay không cần thiết phải để lại trên XSTT,không ảnh hưởng tới nội dung bài luận của tác giả Thái Tích Quỳnh.
     
    Chỉnh sửa cuối: 26/4/15
    NAM CHINH thích bài này.