Bổ SUng các Kiến Thức Cơ Bản Về Tứ Trụ cho anh em

Thảo luận trong 'Phần Mềm Xổ Số - Phát Hiện - Phát Triển' bắt đầu bởi anhhoa22, 25/12/12.

  1. thien long 76

    thien long 76 Thần Tài Perennial member

    xem theo con vật đang đi chung với nhau .từ đó xem trong tuần là có đáp án .:tea::tea::tea::tea:
     
    anhhoa22 thích bài này.
  2. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Cung Quan Lộc

    Cung Quan Lộc
    ( Nguồn tuvilyso.org )


    Cung Quan Lộc có cát tinh miếu vượng địa tọa thủ, như gặp Tả Phù, Hữu Bật và Tử Vi đồng cung, hoặc Tử Vi Hóa Quyền, ắt là nhân vật quan chức cao quý, nếu như cùng lúc có Không Vong Ác Sát tinh thủ, chỉ là chức vị hư huyền, ngoài thì hào hoa mà trong thì hư. Nếu như có Văn Xương, Văn Khúc nhập miếu (cung Tị, Dậu, Sửu) thủ Quan Lộc thì chắc chắn quyền quý. Nếu như đồng thời có hung sát tinh cùng cung, phải phòng quan lộ không thuận sướng, trong cái tốt tiềm ẩn cái xấu. Xương Khúc nhập Quan Lộc chủ điềm cát, thường thuộc hàng quyền quý văn chức, nếu như có Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Tướng và các sao tốt, lại gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền thì đại quý. Cung Quan Lộc có các sao Vũ Khúc, Tử Vi, Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Tả Phù, Hữu Bật thủ chiếu, chủ võ quý, trong quân đội nắm được quyền lớn. Cung Quan Lộc có cát tinh tọa thủ, cung Mệnh tam phương đồng thời có sát, cát, hung tinh thì tốt xấu không đều, nhưng vẫn không làm mất đi cục, nhiều vị là quan lại địa phương, cán bộ cơ tầng, cận kề danh tiếng, theo đuổi thương nghiệp cũng có thể làm một ông chủ nhỏ, nhưng cuối cùng khó thành tựu lớn.

    Các sao ở cung Quan Lộc, nếu như gặp ác tinh như Tứ Sát Không Kiếp, người quyền quý đường quan lộc sẽ bị hạn chế, hoặc thành bại đa đoan. Phải xem miếu vượng lợi hãm và cát tinh nhiều ít ra sao, thì mới có thể biết được người đó sự nghiệp lớn hay nhỏ, thông thuận hay không. (Chú: dịch giả dùng chữ “thông thái” là theo nguyên bản bạch thoại, tiếc là “thông thái” tiếng Việt có nghĩa hiểu biết, nên tôi tạm sửa thành thông thuận, hiểu là hanh thông và tốt đẹp).
    Lưu niên

    Đẩu Quân đến Cung Quan Lộc nguyên thủy, gặp Cát tinh thủ chiếu, người có quan chức chủ đường quan lộc năm đó hanh thông, người bình thường thì chủ sự nghiệp thuận lợi. Gặp hung sát thì chủ năm đó sự nghiệp không thuận lợi, thậm chí có thể vị giáng chức hoặc có chuyện phá tài.


    TỬ VI


    Người có Tử Vi nhập cung Quan lộc, cả đời sự nghiệp tương đối bình ổn. Người này có năng lực xử lí công việc và năng lực độc lập làm việc rất tốt, thường là quan chức chính phủ, lãnh đạo xí nghiệp lớn, chủ doanh nghiệp tư nhân, thương nhân. Tử Vi nhập Miếu Vượng địa, gặp các sao như Xương Khúc, Phù Bật, Khôi Việt, Tam Thai, Bát Tọa củng chiếu thì đường quan lộc hanh thông, quý đến cực phẩm, trung lão niên càng thêm phát đạt. Người có cách cục không tốt bằng, cũng là nhân viên làm cơ quan chính phủ, có chút quyền quý, nếu kinh doanh cũng khá giả. (chú: “phú túc” là khá giả, có của ăn của để thôi, chưa thể gọi là giàu có như bản dịch nguyên thủy). Có Lộc Tồn, Hóa Lộc, Thiên Mã đồng cung hội chiếu, là quan chức cấp cao, đại viên tài chính, cự phú thương nghiệp. Tử Vi Hóa Quyền, tất liên hệ quyền bính, nhiều sao tốt thì đại quý. Tử Vi Hóa Khoa, vinh danh truyền khắp (có tính hư danh), dễ phát triển trong giới chính trị, văn hóa, sự nghiệp công chúng. Phàm có Tử Vi nhập cung Quan Lộc, đại đa số đều hợp với các công việc một mặt. Tử vi nếu như không có Hóa Quyền hoặc Hóa Lộc, Tả Hữu, Xương Khúc, phú quý đều ít.

    Đồng cung với Xương Khúc, Tả Hữu, Khôi Việt, quý về Văn, sự nghiệp thuận lợi. Khôi Việt đồng cung, thường làm việc tại ngân hàng, giữ trách nghiệm tài chính. Sát tinh đồng cung hợp võ chức. Cung mệnh tam phương tứ chính hội nhiều Sát tinh, thì người không phú quý, nếu như Cát Hung hỗn tạp, như có thành tựu thì cũng gian khổ không suôn sẻ, tinh thần bị áp lực nặng nề.

    Thêm các sao ác Tứ Sát Không Kiếp, cả đời sự nghiệp không thuận lợi lắm, hay trải qua khó khăn, nhưng không đến mức quá tai hại, vì Tử Vi có tác dụng hóa giải. Người có nhiều hung tinh thì sự nghiệp bình thường, chẳng có phú quý gì đáng nói, ngược lại gặp khó khăn nghiêm trọng, hoặc ngoài hào hoa trong hư rỗng, danh không đúng thực.

    Tử Vi Thiên Phủ tại Dần Thân, cung Mệnh tất có Vũ Khúc. Gặp cát tinh, được cát hóa thì lợi cả văn lẫn võ, tất là mệnh phú quý, một đời địa vị hiển hách, tài quan đều đẹp. Trong quân đội, chính giới, công thương, xí nghiệp, tài chính, xây dựng v.v… đều nắm được quyền lớn. Nếu không gặp cát tinh thì chỉ là nhân viên bình thường.

    Tử Vi Tham Lang tại Mão Dậu, cung mệnh tất có Vũ Khúc Phá Quân. Là người lắm kỹ xảo đầu cơ, thích mạo hiểm để cầu may mắn. Gặp Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Phù, Bật đồng cung có thể đại phú quý, văn võ đều tốt, quyền quý không ít, trong thực nghiệp và chính giới có thể dương danh. Nếu như gặp Tham Lang Hóa Kỵ, sự nghiệp thăng trầm phong ba, hay gặp cản trở khó khăn. Nếu như không có thêm cát tinh, thì kĩ nghệ lập thân, một đời không thuận lợi.

    Tử Vi, Thiên Tướng tại Thìn Tuất, cung mệnh chắc chắn là Vũ Khúc, Thiên Phủ. Hợp võ chức, theo đuổi chính trị hoặc kinh doanh thương nghiệp, thêm Cát tinh thì có thể là đại thương gia, quan lớn, danh lợi gồm thâu. Nếu không gặp Cát tinh mà gặp Sát tinh, phú quý không nhiều. Dương Đà Hỏa Linh đồng cung, sự nghiệp khó mong hiển đạt, cung mệnh tam phương cũng cũng không có cát tinh thì có cuộc đời bình thường.

    Tử Vi Thất Sát tại Tị Hợi, cung mệnh chắc chắn là Vũ Khúc, Tham Lang. Cả đời sự nghiệp từ đầu đến cuối luôn không được bình yên mấy. Tuổi trẻ không thuận, sau 30 tuổi thì bắt đầu hưng thịnh lên, thích hợp làm kinh doanh. Thêm Lộc Tồn, Tả Hữu có phát triển lớn, làm võ chức thì quý hiển, cung Mệnh gặp Hỏa Linh có thể trở thành người giàu có. Nếu không gặp cát tinh thì bình thường.

    Tử Vi Phá Quân tại Sửu Mùi, cung Mệnh chắc chắn là Vũ Khúc, Thất Sát. Là người sáng tạo hơn người, trong sự nghiệp thì dục vọng, ham muốn vô hạn, lại không hòa thuận với cấp trên. Một đời thành lắm bại nhiều, tuyệt không thuận lợi. Nếu hội nhiều cát tinh thì phát đạt trong cảnh cạnh tranh khốc liệt, nếu gặp Xương Khúc Tả Hữu thì sự nghiệp xán lạn huy hoàng. Nếu không có thêm Cát tinh thì sống cuộc đời khó khăn vất vả.
    THIÊN CƠ


    Thiên Cơ chủ yếu là động, ở cung Quan Lộc sự nghiệp tương đối nhiều biến đổi, tất nhiên trong đời nhiều lần thay đổi công việc, hoặc hay thuyên chuyển, hoặc làm nhiều công việc một lúc, hoặc làm nghề nghiệp tự do. Miếu Vượng địa thì sự nghiệp thành công thuận lợi.
    Tả Hữu đồng cung hoặc hội họp thì giỏi quy hoạch, xử lý những công việc phức tạp, có thể có quyền lực và địa vị, thường kiêm nhiều công việc. Xương Khúc đồng cung hoặc hội họp quý hiển và nổi tiếng, thích hợp với công việc trong các ngành văn hóa, nghệ thuật, khoa học kĩ thuật, có thể có thành tựu tương đối cao. Khôi Việt đồng cung hoặc hội họp, trong công việc hay gặp quý nhân, ít khi gặp phiền phức, rắc rối. Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội họp chủ đại quý, nhất định là quan chức cấp cao, nhân vật chính giới quan trọng, nổi tiếng thiên hạ.


    Thiên Cơ bình hòa tại Tị Hợi, là người không dễ có nghề nghiệp ổn đinh, hay chuyển chức, đổi nghề, thay đổi hạng mục kinh doanh, thiếu tính ổn định.
    Thiên Cơ hãm địa hoặc gặp Hóa Kỵ, hoặc gặp Không Kiếp, địa vị không cao, tất là người không có nghề nghiệp ổn định, thường thất nghiệp hoặc không tìm được công việc. Nếu gặp thêm Sát tinh thì càng xấu hơn, chỉ có thể làm nhân viên cấp dưới, du thủ du thực không nghề nghiệp, không có thành tựu gì, vì vậy mà tất nhiên khốn khổ.


    Thiên Cơ, Thái Âm tại Dần Thân, cung Mệnh tất có Thiên Đồng. Có lợi cho các công việc công chức, phục vụ các cơ quan có tính chất tương đối ổn định, thêm Thiên Mã thì hay phải đi công tác, nếu hội nhiều cát tinh thì tài quan song mỹ. Thiên Cơ hóa Khoa, nhất định làm quan chức quản lí hành chính. Khoa Quyền Lộc hội họp, công danh hiển đạt, đại phú đại quý. Gặp Tứ Sát, Hóa Kỵ, bôn ba đến già, sự nghiệp không thuận lợi.

    Thiên Cơ, Cự Môn tại Mão, Dậu, cung mệnh tất có Thiên Đồng. Sự nghiệp hay có nhiều biến động, ở Mão thì tốt hơn ở Dậu, cung Dậu phúc không dài lâu. Có thể theo đuổi các công việc văn hóa, nghệ thuật, quảng cáo, tiêu thụ…, nếu làm thương nghiệp thì có thể là người quản lý.
    Gặp Văn Xương Văn Khúc, chủ văn chương cái thế. Ba sao Khoa Quyền Lộc hội họp thì cự phú đại quý, nổi danh trong ngoài. Lộc Tồn đồng cung thì phú quý, dễ làm chính trị. Nếu gặp Sát tinh công việc nhiều cạnh tranh, hợp kinh doanh.
    Thiên Cơ Thiên Lương tại Thìn Tuất, cung Mệnh tất có Thiên Đồng, Thái Âm. Cung Thìn tốt hơn cung Tuất. Nếu có Thiên Cơ, Hóa Quyền hoặc Hóa Khoa hoặc hội Lộc Tồn thì có phú quý. Thích hợp đảm nhận các công việc quản lý. Khoa Quyền Lộc gia hội đời sống tất có kỳ ngộ, cự phú đại quý. Mệnh lạc hãm không sao cát thì không kể. Sao cát phù trợ không đủ là nhân viên hạng thường về quản lý, quảng cáo, kinh doanh tiêu thụ. Nếu không có cát tinh, hoặc các hung tinh hội tụ, thì chủ nghèo khó, cả đời gian khổ. Thiên Cơ ở Thìn gặp Hóa Kỵ, lại không có cát tinh thì thay đổi công việc liền liền, không việc gì thành công.


    THÁI DƯƠNG


    Thái Dương chủ về quan lộc, nhập cung Quan Lộc có số nắm quyền, tùy vào miếu hãm mà tình hình khác nhau. Nhập Miếu Vượng địa, gặp các cát tinh như Phù bật, Xương Khúc, Khôi Việt, Khoa Quyền Lộc thủ chiếu, đại quý, là quan cấp tỉnh bộ trở lên, sự nghiệp vĩ đại. Hãm địa gặp các cát tinh thủ chiếu thì không mất đi phú quý, nhưng phú quý không bằng được Miếu Vượng địa, mà phúc không dài lâu. Gặp các sao ác Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp Hóa Kỵ thì chủ địa vị thấp kém, phù hoa mà không thực, không có gì gọi là phú quý hay thành tựu.

    Thái Dương Miếu Vượng địa, gặp Tứ Sát Không Kiếp, chịu gian khổ, bận bịu, không thuận lợi, nhưng vẫn có thể khắc phục nghịch cảnh, có thời phú quý. Thái Dương Miếu Vượng địa có Hóa Quyền, Hóa Lộc là điềm cực cát. Gặp Hóa Kỵ, chủ cạnh tranh, áp lực, thị phi, nếu như Miếu Vượng, có thể gặp thành công ngoài dự kiến. Nếu không Đắc địa hoặc Hãm địa gặp Hóa Kỵ, chủ thất bại nặng nề. Thái Dương và Thiên Hình đồng cung, đại đa số là quân nhân hoặc nhân viên cảnh vụ.


    Thái Dương tại cung Ngọ thủ Cung Quan Lộc, còn gọi là “Nhật lệ trung thiên”, có cái quý của kẻ chuyên quyền, có thể nắm quyền lớn quốc gia, chủ đại phú, có Lộc Tồn đồng cung hoặc hội Lộc Tồn, hoặc gia hội Tả Hữu Xương Khúc, quý không diễn tả được. Nếu không hội cát tinh, chỉ khá giả bình thường thôi. Người này hay kết giao bạn bè, không chuyện gì vẫn bận cuống lên, không có việc thì mua việc vào người.
    Thái Dương Thái Âm tại Sửu Mùi, Mệnh Vô Chính Diệu có đối cung Cự Môn Thiên Cơ, một đời sự nghiệp hay biến đổi, chuyển nghề chuyển nghiệp liền liền. Thêm Xương Khúc Tả Hữu, hoặc Thái Dương Thái Âm có Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền, là quan chức chính phủ cấp cao, nắm quyền lực chính trị quốc gia.


    Thái Dương, Cự Môn tại Dần Thân, Mệnh Vô Chính Diệu đối cung Thiên Cơ Thiên Lương. Hợp với các nghề miệng lưỡi, học nghề chuyên môn thành danh, sự nghiệp thường có danh nhiều hơn lợi, quý nhiều hơn phú.
    Không có Sát tinh hội họp thì có thời phú quý, Thái Dương Hóa Lộc chủ đại quý, Hóa Quyền Lộc hoặc thêm Tả Hữu Xương Khúc cũng chủ đại phú quý, tất là bậc lương đống của đất nước.


    Gặp Tứ Sát Không Kiếp Kỵ thì không đẹp, có thể làm nghề trái (VDTT chú thích: tức nghề khác thường) hoặc y bốc mệnh tướng.


    Cung Dần tốt hơn Thân, cung Dần vận tốt tương đối dài, còn cung Thân thì tiến thoái thăng trầm không ổn định.


    Thái Dương Thiên Lương tại Mão dậu, cung Mệnh tất có Thái Âm. Ở Mão tốt hơn ở Dậu, không gặp hung sát chủ cả đời sự nghiệp hưởng phúc. Gặp Lộc Tồn Xương Khúc cát hóa, chủ cự phú hoặc đại quý, nổi danh thế giới. Ở cung Dậu thì bình thường, hậu vận đuối sức, đẹp mà không thực, chủ hư hoa phù ảo, khó được đại phú quý.
    VŨ KHÚC


    Vũ Khúc nhập Miếu, đồng cung với Xương Khúc Phù Bật, chủ võ chức hiển quý, nắm quyền lớn trong quân đội, cục cảnh sát, hoặc đảm nhiệm những công việc quan trọng tại cơ quan tư pháp, bạo lực.
    Người bình thường kinh doanh, buôn bán, cũng chủ sự nghiệp phát đạt. Nếu hội Khoa Quyền Lộc, có thể là quan về tài chính, đứng đầu trong giới tài chính, người kinh doanh có thể trở thành tỉ phú, lãnh đạo xí nghiệp thương nghiệp.


    Cung Tài Bạch có Vũ Khúc, có không ít người làm việc ở ngân hàng hoặc các bộ môn tài chính khác. Vũ Khúc Miếu Vượng địa nếu không gặp cát tinh cũng chủ sự nghiệp thông đạt, phát triển ổn định từng bước. Vũ Khúc Hóa Lộc, chủ phú quý song toàn. Vũ Khúc Hóa Quyền cực đẹp, hiển thị quyền quý, là nhân vật tay sắt (chú: nắm quyền nghiêm khắc). Vũ Khúc Hóa Kỵ là xấu nhất, sự nghiệp nhiều thị phi, ít nhất cũng một lần đổ vỡ thất bại.


    Gặp các sao ác như Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp Đại Hao thì đa mưu nhưng ít thành công, bị tranh chấp khó khăn, nếu tam phương lại không có cát tinh hội hợp thì địa vị bình thường, không luận là quý hiển. Vũ Khúc hãm địa cũng vậy.

    Vũ Khúc Thiên Phủ tại Tý Ngọ, cung Mệnh tất có Liêm Trinh. Được sao tốt củng chiếu thì phú quý, là người nhiệt tình với sự nghiệp, thích hợp xử lý ngoại vụ, thích hợp kinh doanh xí nghiệp quy mô lớn.
    Đồng cung với Lộc Tồn hoặc Vũ Khúc Hóa Lộc, Hóa Khoa thì sự nghiệp vĩ đại, hoặc thêm Tả Hữu Xương Khúc thì chủ phú quý, thu được cả danh lẫn lợi, nắm quyền lực, đường sự nghiệp hanh thông. Thêm Khôi Việt thì làm việc ở Bộ Tài chính. Thêm các sao ác sát Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì bình thường. Vũ Khúc hóa Kỵ thì sự nghiệp thăng trầm không thuận lợi, người làm quan tất có tai họa về quan.


    Vũ Khúc Tham Lang tại Sửu Mùi, cung Mệnh tất là Liêm Trinh Phá Quân. Trong khi làm việc thường có những hành vi vi phạm pháp luật, bất chính, phú quý tất cũng là quan tham ô vô lại hoặc gian thương. Chủ công việc hay biến động, tuổi trẻ thường thăng trầm, không ổn đinh. Được sao cát củng chiếu thì tốt đẹp, kinh doanh có thể thu được lợi lớn. Sợ thêm Sát Kỵ.
    Vũ Khúc Thiên Tướng tại Dần Thân (chú: Bản bạch thoại đánh sai thành Thìn Tuất), cung Mệnh tất có Liêm Trinh Thiên Phủ. Thêm cát tinh thì sớm nắm quyền lớn, sự nghiệp hanh thông, chủ quyền quý, tài quan cả 2 đều đẹp.


    Vũ Khúc Thất Sát tại Mão Dậu, cung mệnh tất là Liêm Trinh Tham Lang. Sự nghiệp hay biến đổi thăng trầm, xa hương lập thân có thể phát triển. Hợp kinh doanh, làm công việc đầu cơ, hoặc công việc có tính chất mạo hiểm, nguy hiểm. Đồng cung với Lộc Tồn, chủ phú quý. Được sao cát quyền quý, lập công danh. Kình Dương cùng thủ thì có tai họa tù ngục.

    Vũ Khúc Phá Quân tại Tị Hợi, cung Mệnh tất là Liêm Trinh Thất Sát. Sự nghiệp có nhiều phức tạp và thay đổi. Thích nhất là Vũ Khúc Hóa Quyền, chủ cả đời quyền quý, Tài Quan đều đẹp. Nếu gặp Thiên Hình, làm quân nhân thì phát đạt. Thêm Quyền Lộc Xương Khúc Tả Hữu thì quý hiển. Nếu không thêm cát tinh thì chủ sự nghiệp bình thường, khó có thành tựu, làm nhân viên bình thường hoặc tiểu thương, hoặc nghề khéo an thân.
    THIÊN ĐỒNG


    Thiên Đồng là phúc tinh, nhập cung sự nghiệp không hoàn mỹ, tính chất cơ bản hợp tự do, không làm việc trong môi trường chịu hạn chế, khó có thể quản lý chỉ huy các thuộc bộ, như làm chức vụ quản lí thì khó có thể phát huy năng lực. Thiên Đồng nhập miếu, văn võ đều được, nếu hội chiếu có Hóa Lộc Hóa Quyền Hóa Khoa thì chủ đại phú đại quý, thiên hạ biết danh tiếng. Nếu Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt đồng cung hoặc gia hội thì sự nghiệp hưng vượng, hay được giúp đỡ, vận khí cực đẹp, chủ thành công và phú quý. Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp đồng cung hoặc gia hội thì đường sự nghiệp tương đối kém, lắm trì trệ không thông, địa vị không cao, là người bình thường. Nếu như Hãm địa lại thêm Tứ Sát Không Kiếp, thì làm việc gì cũng thất bại, không gì là thành công.

    Thiên Đồng ở cung Quan Lộc, không ít người làm ở giới truyền thông, giải trí, văn hóa nghệ thuật. Cục Mệnh thành cách, chủ có đại phú quý. Cục mệnh không thành cách mà không có cát tinh thủ chiếu thì cuối cùng vẫn là người bình thường.

    Thiên Đồng Thái Âm tại Tý Ngọ, Mệnh vô chính diệu, đối cung có Cự Môn Thái Dương. Hai sao này miếu vượng địa ở Tý, kinh doanh buôn bán hay làm công chức đều tốt, có thể có danh tiếng địa vị, gặp Lộc Tồn thì chủ phú quý. Cung Ngọ thì 2 sao này hãm địa, nếu không có các sao tốt thì khó có phú quý, một đời lao khổ.

    Thiên Đồng Cự Môn tại Sửu Mùi, cung Mệnh vô chính diệu, đối cung có Thái Dương Thiên Lương. Hai sao cùng hãm, lúc trẻ sự nghiệp không ổn định, thường hỏng giữa chừng hoặc hay gặp chuyện điều động chuyển việc, trung niên trở ra có thể tự tay lập nghiệp trong gian khổ. Không thêm cát tinh, cát hóa thì cả đời địa vị thấp kém, thành tích có hạn. Bất luận có gặp cát tinh hay không, lòng nhiệt tình tận tâm trong công việc cũng không nhiều.

    Thiên Đồng Thiên Lương tại Dần Thân, cung mệnh tất có Thái Âm. Hợp công chức, đảm nhiệm công việc quản lý. Hội Khoa Quyền Lộc thì trong sự nghiệp là người có vận khí đẹp lạ lùng, anh hùng tái thế, đại phú đại quý, nắm quyền lớn trong quân đội chính quyền nhà nước. Tả Hữu Xương Khúc gia hội thì có thể đạt được thành tựu trên chính trị. Nếu gặp Tứ Sát Không Kiếp, là nhân viên kĩ thuật hoặc hợp kinh doanh.
    LIỂM TRINH


    Liêm Trinh là chủ Quan Lộc, nhập cung Quan lộc đều có cơ hội nắm quyền. Nếu không gặp Sát tinh, thì là người coi trọng hiệu quả công việc, có thể phát huy năng lực trác việt, hợp với công việc quản lý.
    Nếu gặp Dương Đà Không Kiếp thì sự nghiệp không thuận lợi, thị phi không ngớt, làm chuyện gì cũng khó thành.


    Nếu hãm địa lại thêm Sát tinh thì không có công danh, phải đề phòng chuyện thị phi quan chức.


    Liêm Trinh Hóa Kỵ và Thất Sát, Tứ Sát, Thiên Hình đồng cung tại cung Quan Lộc thì có họa ngục tù, bức hại chính trị.


    Liêm Trinh tại Dần Thân, nhập Miếu, cung Mệnh là Tử Vi Thiên Tướng. Chủ quyền quý võ chức, kinh doanh đại quý, hội chiếu cùng cát tinh thì phú quý song toàn. Liêm Trinh Hóa Lộc hoặc đồng cung với Lộc Tồn thì chủ đại phú đại quý. Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh đồng cung thì tuổi trẻ khó thành công lớn, tuổi già vượng phát.

    Liêm Trinh Thiên Phủ tại Thìn Tuất, cung Mệnh tất là Tử Vi. Có năng lực quản lí ưu tú, tuổi trẻ sự nghiệp không ổn đinh, trung niên đến nơi khác thì phát triển, có thể thu được thành công ngoài mong đợi. Được nhiều cát tinh tụ chiếu thì văn võ phú quý. Liêm Trinh Hóa Lộc, Võ chức quý hiển, kinh doanh đại phát. Phù Bật Xương Khúc xung chiếu (VDTT chú: Xung chiếu đây chỉ có nghĩa hội họp), thì làm chính trị, có thể thành quan lớn. Liêm Trinh Hóa Kỵ, phú quý đều ít.

    Liêm Trinh Tham Lang tại Tị Hợi, cung Mệnh tất là Tử Vi Phá Quân. Là người có kĩ năng giao tiếp, có thể là nhân viên công vụ, nhân viên ngoại giao tiêu thụ, tầng lớp cán bộ, cảnh sát, chủ doanh nghiệp tư nhân. Không ít người là quân nhân. Nếu gặp nhiều cát tinh thì kinh doanh hay làm công chức đều được, có thể phát triển được trong môi trường cạnh tranh hoặc thị phi. Nếu thêm Sát tinh thì chức vị nhỏ, hoặc vì vấn đề với người khác phái mà xảy ra tranh chấp, hoặc hành vi bất chính nên bị phạt. Hóa Kỵ thêm Sát tinh thì chắc chắn ngồi tù.
    Liêm Trinh Thiên Tướng tại Tý Ngọ, cung mệnh tất là Tử Vi Thiên Phủ. Hội hợp cát tinh, gia hội Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa thì cự phú đại quý. Gặp Tả Hữu Xương Khúc thì văn võ đều tốt, quyền quý có thời.

    Kình Dương đồng cung chỉ hợp buôn bán. Hỏa Linh đồng cung tất là tham quan ô lại. Không Kiếp Đồng cung, sự nghiệp ngoài đẹp trong rỗng.


    Liêm Trinh Thất Sát tại Sửu Mùi, cung Mệnh tất là Tử Vi Tham Lang. Hợp trong quân đội lập công, nếu có thêm cát tinh thì chủ công danh hiển đạt. Khoa Lộc Quyền hội hợp thì cự phú đại quý. Tả Hữu Xương Khúc đồng cung hoặc gia hội thì văn võ đều tốt, sự nghiệp hưng thịnh.


    Liêm Trinh Phá Quân tại Mão Dậu, cung Mệnh tất là Tử Vi Thất Sát. Sự nghiệp có nhiều khó khăn, nếu gia hội cát tinh thì trong gian khổ có thể lập được đại công. Nếu Tả Hữu, Xương Khúc, Lộc Tồn, Hóa Lộc hội hợp thì văn võ đều tốt, sớm nắm uy quyền, chủ phú quý. Kinh doanh cũng phát hoạnh tài đại quý. Nếu không có cát tinh thì phúc không được lâu dài. Thêm sát tinh thì người bình thường.
    THIÊN PHỦ


    Thiên Phủ vào cung Quan Lộc chủ cát lợi, chỉ cần không gặp Sát tinh thì nhất định sự nghiệp có thành tựu. Nhập Miếu được nhiều cát tinh thủ chiếu là bậc tài năng văn võ, công danh hiển hách, nếu không làm công chức mà làm thương nghiệp cũng luận là phát đạt. Gia Tứ Sát Không Kiếp thì không đẹp, sự nghiệp nhiều trở ngại thăng trầm và hay tranh chấp, nếu hội chiếu nhiều sát tinh thì chủ nghèo khổ, không nghề nghiệp địa vị đáng nói, chung quy thuộc hạng người bình thường.

    Thiên Phủ tại Sửu Mùi, Mão Dậu, gia hội Lộc Tồn Tả Hữu hoặc Xương Khúc, chủ đại phú đại quý.
    Thiên Phủ tại Tị Hợi, có Lộc Tồn, Hóa Lộc, Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt gia hội thì đại phú đại quý, nếu không gặp cát tinh thì trong sự nghiệp là người tương đối cẩn trọng bảo thủ.


    THÁI ÂM


    Sự nghiệp tương đối bình ổn, nhập Miếu luận tốt, được Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa củng chiếu thì chủ quyền quý, không công hầu tất là vương. Đồng cung hoặc gia hội với Xương Khúc Tả Hữu Khôi Việt thì có thể có địa vị cao, một đời có danh tiếng. Thái Âm nhập cung cung bình nhàn (VDTT chú: Nhàn ý là kém, kiểu Việt Nam “ngồi chơi xơi nước”), hội Xương Khúc Tả Hữu cũng là người quan quý. Thái Âm nhập Miếu Vượng, Sát tinh ít, có Tả Hữu gia hội, lại hội Lộc Tồn thì có thể vô cùng giàu có trong công thương nghiệp. Thái Âm hãm địa thì đường sự nghiệp không đẹp, làm nhiều mà thành quả ít, nếu lại gặp Tứ Sát Không Kiếp tất là người bình thường.

    Thích hợp đảm nhiệm các công việc suy nghĩ tư duy, kế hoạch. Đồng cung với Xương Khúc thì có thể đạt được thành công trong công việc văn hóa, học thuật, công chúng. Nếu như lại gặp Long Trì Phượng Các nữa thì có thể nổi danh trong giới nghệ thuật. Tả Phù Hữu Bật tương hội thì có thể phát triển trong giới chính trị. Cùng Thiên Đồng, Thiên Lương, Thiên Cơ tương hội thì có thể làm công chức hoặc làm việc trong những xí nghiệp lớn. Thái Âm Hóa Lộc, không những sự nghiệp thành công mà còn thu được danh lợi, tài vận rất tốt. Thái Âm Miếu Vượng địa có Hóa Quyền, chủ quan quý, thêm Tả Hữu Xương Khúc thì phú quý xuất chúng. Thái Âm Hóa Khoa, tiếng tăm lẫy lừng, có thể theo đuổi nghệ thuật hoặc học thuật, nghiên cứu khoa học.
    THAM LANG


    Cách cục khai sáng, sự nghiệp thăng trầm nhiều biến đổi. Không thích hợp với những công việc ổn định, đơn điệu và bình thường. Hay làm những nghề nghiệp không bị thúc bó, có thể biến hóa, giàu tính đầu cơ, mạo hiểm, có rất nhiều mối quan hệ trong giao tiếp, tiệc tùng mà hình thành công việc, có thể kết giao với người quyền quý, quan chức chính phủ. Nhập Miếu thì sự nghiệp sớm hưng thịnh, có thể đạt được nhiều cơ hội bất ngờ mà thành công. Gặp Hỏa Linh đồng cung, Văn Võ chức quyền quý, đảm nhiệm nhiệm vụ quan trọng, phú quý song toàn. Tam phương tứ chính không có Dương Đà Không Kiếp mà hội Khoa Quyền Lộc thì là nhân vật quan trọng trong giới chính trị hoặc thương gia giàu có. Nếu gặp Tả Hữu Khôi Việt thì sự nghiệp phát triển thuận lợi, cơ hội may mắn nhiều. Tham Lang Bình hòa hoặc Hãm, không có cát tinh đồng cung thì sự nghiệp không bình ổn, làm nhiều mà công lao ít, nếu như tam phương có cát tinh thì có thể phát triển thương nghiệp. Thêm Xương Khúc thì chủ kế hoạch hỗn loạn, chính sự đảo điên. Dương Đà, Không Kiếp đồng thủ, là người bình thường, khó có sự nghiệp, thành công đáng kể.
    CỰ MÔN


    Sự nghiệp vất vả, làm các nghề liên quan đến ăn nói, giao thiệp, kế hoạch, nghiên cứu, kĩ năng học thuật v.v… Nhập Miếu Vượng thì sau khi vất vả phấn đấu có thể đạt thành công, được nhiều cát tinh thủ chiếu thì kinh doanh hoặc làm công chức đều có thể nắm quyền, phát đạt. Cự Môn thích nhất Hóa Quyền, là hiện thân của uy quyền, có tài năng phi phàm, lợi cho việc dương danh trong các giới tư pháp, y học, học thuật. Gia hội các cát tinh Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền thì chủ đại phú hoặc đại quý. Đồng cung hoặc hội chiếu với Tả Hữu, Xương Khúc thì chủ quí hiển hoặc đạt được thành công trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, văn học nghệ thuật, truyền thông đại chúng, y bốc mệnh tướng.

    Cự Môn là Ám tinh, thương gia hay lén lút làm nhiều việc ngầm hoặc kinh doanh không minh bạch, kinh doanh bất hợp pháp, hoặc trốn thuế. Hãm địa thì bôn ba, trong cuộc việc nhiều đối thủ cạnh tranh, khó có ngày thành công, nếu gặp cát tinh thì trung niên trở ra được ổn định. Hãm địa gia Tứ Sát Không Kiếp thì tốn công tốn sức, không chuyện gì thành công. Cự Môn Hóa Kỵ, không hòa thuận với cấp trên, làm việc hay có tranh châp, lời qua tiếng lại, không thuận lợi, phá bại, nếu gặp Tứ Sát Kiếp Không, chủ gặp chuyện quan phi, tố tụng, ngục tù.
    THIÊN TƯỚNG


    Là người phụ tá khá tài năng , sự nghiệp an định, bình ổn ít thay đổi, thường đảm nhận các công việc tại cơ quan công gia, xí nghiệp quy mô lớn, thích hợp với chức phó về hành chính quản lý, thư ký. Không hợp lãnh đạo, hoặc là danh là chính thực là phụ. Thiên Tướng nhập Miếu, đồng cung hội chiếu với Tả Hữu Xương Khúc thì được người kính trọng, chủ phú quý, kinh doanh hoặc làm công chức đều có thành tựu lớn, có thể có lương cao. Hội chiếu Khoa Quyền Lộc, hợp theo đuổi chính trị, làm quan cao lộc hậu, kinh doanh thì là cự phú. Nếu không có thêm cát tinh người thường cũng chủ sự nghiệp ổn đinh, cuộc sống khá giả. Miếu Vượng gia Sát tinh thì chỉ hợp theo nghề buôn. Thiên Tướng hãm địa, thành bại đa đoan, thêm Sát tinh thì không tốt, chỉ là người bình thường.
    THIÊN LƯƠNG


    Là người cẩn thận tỉ mị, giỏi xử lý những vấn đề khó, có thể đảm nhận những chức vụ quan trọng. Thiên Lương ở cung Ngọ nhập Miếu, hội Phù Bật Khôi Việt, kiêm văn võ, hợp làm chính trị, gặp thêm Khoa Quyền Lộc thì chủ đại quý, là nhân vật quan trọng trong giới chính trị. Đồng cung gia hội với Tả Hữu Xương Khúc thì quý hiển, có thể phát huy trong cơ quan hành chính, hệ thống pháp luật, cơ cấu y liệu, xí nghiệp quy mô lớn. Thiên Lương Hóa Khoa, chủ thanh quý, danh nhiều hơn lợi. Thiên Lương Hóa Lộc thì phú quý. Hóa Quyền, là người có thực quyền, nếu hội Lộc Tồn thì có thể là thương gia giàu có. Nhập Miếu Vượng, nếu không có thêm cát tinh, người thường cũng chủ sự nghiệp bình ổn an định, có thể hưởng cảnh sung túc.

    Thiên Lương hãm địa, hội Cát tinh thì cũng không mất phú quý, nếu không gặp cát tinh thì chủ sự nghiệp vất vả bận rộn, thành công nhiều thất bại cũng nhiều. Hội cùng Tứ Sát Không Kiếp thì không có địa vị, công việc khó khăn lao khổ, tai nạn phá hao, khó thành tựu, chỉ là người bình thường.
    THẤT SÁT


    Là cách cục khai sáng, không thích hợp với các công việc ổn định, bình thường, thường chọn các công việc tự do, không bị hạn chế, hoặc theo đuổi các công việc có tính mạo hiểm, hay thay đổi, có tính đầu cơ. Tuổi trẻ sự nghiệp hay thăng trầm thay đổi, thiếu sự an định, trung niên trở ra thì có thể thuận lợi. Nên tha hương xuất ngoại, có thể có cơ hội thành công. Đại đa số tay trắng mà làm nên gia sản, từ không thành có.
    Thất Sát nhập miếu thì đắc cách. Nếu gặp nhiều sao tốt thủ chiếu thì quyền quý không ít. Hợp võ không lợi văn, hội cát tinh thì nổi bật trong giới quân đội cảnh sát, hoặc buôn bán làm ông chủ, nếu kinh doanh thương nghiệp thì có thể giàu có. Thất Sát đồng cung hội chiếu với Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt chủ quyền bính, nắm quyền sinh sát, sự nghiệp hưng thịnh.


    Đồng cung với Lộc Tồn thì phú quý song toàn. Gia hội Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa thì anh hùng cái thế, vang danh thế giới. Thất Sát Miếu Vượng địa đồng cung với Hỏa Linh thì chủ võ chức uy phong, nhưng thường gặp nguy hiểm, thị phi, kinh doanh có thể giàu có nhưng hay lên voi xuống chó.


    Thất Sát Bình nhàn (VDTT chú: Nhàn thường có nghĩa lạc hãm) lại gia hội Tứ Sát Không Kiếp, thì tầm thường, nếu lại đồng cung hoặc hội Hóa Kỵ chủ họa ngục tù.


    PHÁ QUÂN


    Cách cục khai sáng. Một đời sự nghiệp thăng trầm, gian khổ, chắc chắn không thuận lợi. Hợp những công việc mạo hiểm, công nghiệp, thương nghiệp. Nhập Miếu có Võ chức lớn, được nhiều cát tinh thủ chiếu thì phú quý không ít. Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa cùng chiếu thì là trọng thần quốc gia. Đồng cung hội chiếu với Tả Hữu, Khôi Việt thì có năng lực quản trị, kinh doanh hay làm công đều được, phú quý song toàn. Nếu cát tinh ít thì không quý, chỉ là nhân viên bình thường, hoặc làm kinh doanh cá thể. Đồng cung Văn Xương, Văn Khúc, sự nghiệp vất vả không thuận lợi.
    Đồng cung với Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp Hóa Kỵ thì chủ vất vả, trở ngại, thị phi, phá bại, đa mưu mà ít khi thành, sự nghiệp nhất định gặp phải nhiều lần thất bại lớn, kỵ đầu tư mạo hiểm, hợp kĩ nghệ lập thân. Cung Mệnh nếu không có thêm Cát tinh, cung Quan Lộc Phá Quân đồng cung với Dương Đà thì là người nợ nần, đi khắp nơi xin xỏ, làm gì cũng không thành.


    Văn Xương, Văn Khúc


    2 sao nhập Miếu, có danh tiếng địa vị, gặp Thái Dương, Thái Âm đồng cung hội chiếu thì chủ quyền quý, chức vị cấp tỉnh bộ. Gặp nhiều sao tốt như Tử Vi, Thiên Phủ, Vũ Khúc, Hóa Khoa, Tả Phù Hữu Bật thì là người tài năng văn võ, phú quý bất phàm. Hai sao này cùng với cát tinh đồng thủ thì tăng may mắn tốt đẹp, kỵ gặp Phá Quân. Nếu Hãm địa thì không đẹp, thích hợp phát triển ở các phương diện văn hóa, học thuật, nghệ thuật, tôn giáo, chiêm bốc.
    Tả Phù, Hữu Bật


    Có tài năng quản lý ưu việt, làm việc ổn định chắc chắn, công việc thuận lợi, có thể được đại chúng cổ vũ. Kinh Doanh hoặc làm công chức đều tốt, nếu được cát tinh đồng cung càng tốt, có các sao tốt Tử Vi Thiên Phủ củng chiếu thì văn võ đều giỏi, Tài Quan đều đẹp. Đồng cung với Thiên Đồng, Văn Xương thì là kỳ cách văn chương, nổi danh thiên hạ. Gia Tứ Sát thì thành bại bất nhất, nếu gặp Không Kiếp thì chủ bị giáng chức.
    Thiên Khôi, Thiên Việt


    Trong công việc luôn gặp quý nhân, đặc biệt nhận được sự giúp đỡ của cấp trên, bậc tôn trưởng, gặp khó khăn gì cũng từ hung thành cát. Nếu được nhiều cát tinh thủ chiếu thì chủ quý. Gia Tứ Sát thì thành bại thăng trầm, gia Không Kiếp Hình Kỵ là người bình thường.
    Hóa Lộc


    Là điềm đại cát, là hiện thân của thành công, thịnh vượng, uy quyền, phát đạt, thuận lợi. Một đời sự nghiệp vận khí cực đẹp, có thể duy trì thịnh vượng dài lâu không suy thoái, ít gặp trở ngại hoặc bất toại ý, đồng thời biết cách sử dụng tiền bạc, sự nghiệp phát triển, có thể đạt được thành tựu tương đối cao về tài phú, địa vị, danh tiếng. Sao nào hóa Lộc ở cung Quan Lộc thì dấu hiệu may mắn tốt đẹp của sao ấy tăng gấp bội. Nếu có Lộc Tồn, Thiên mã, Hóa Quyền, Hóa Khoa gia hội thì đại phú đại quý.
    Hóa Quyền


    Là điềm đại cát, là hiện thân của thành công, thịnh vượng, uy quyền, phát đạt, thuận lợi. Một đời sự nghiệp vận khí cực đẹp, là người làm việc cẩn trọng, giỏi về kế hoạch, làm kinh doanh, ít khi thất bại, năng lực quản lí mạnh, có thể có chức vị cao. Sao nào hóa Quyền ở cung Quan Lộc thì tín hiệu tốt của sao đó tăng gấp bội. Gia hội Cự Môn, Vũ Khúc, Hóa Khoa, Hóa Lộc thì đẹp không tả nổi, có thể phát triển ngoài mong đợi, quan vận hanh thông. Gia hội Hóa Lộc, Hóa Khoa thì là bậc lương đống quốc gia, chắc chắn có quý.
    Hóa Khoa


    Là điềm đại cat, là hiện thân của thành công, thịnh vượng, phát đạt, thuận lợi, danh tiếng. Một đời sự nghiệp vận khí cực đẹp. Là người có học thức chuyên môn hết sức ưu tú, với công việc có năng lực tính toán tốt, có tầm nhìn tốt, dễ nhận được sự đánh giá tốt của cấp trên, đồng nghiệp và người ngoài. Sao nào hóa Khoa ở cung Quan Lộc thì tín hiệu tốt của sao ấy tăng gấp bội. Là người có thể danh ghi bảng vàng. Gia hội Hóa Lộc, Hóa Quyền và Xương Khúc thì chắc chắn quý hiển. Hội hợp với Thiên Khôi, Thiên Việt thì nổi danh thiên hạ. Hóa Khoa và Dương Đà, Không Vong, Hóa Kỵ đồng cung là hãm, là có tài năng nhưng khó có thể phát huy.
    Hóa Kỵ


    Là điềm không tốt, công việc hay gặp phải sự cố, trắc trở, thất bại, phá hoại, chắc chắn không thể thuận lợi. Nếu được nhiều cát tinh nhập Miếu Vượng, cát hóa thì có thể hóa giải nhưng cũng không thể khiến những bất lợi do Hóa Kỵ mang lại biến mất hẳn được.
    Lộc Tồn


    Là điềm đại cát, trong công việc có thể nhận được sự trợ giúp về vật chất, là người giỏi quản lý, sử dụng tiền bạc, không thích hoang phí, dễ tích lũy tiền bạc, công việc phát triển thuận lợi, có thể đảm nhận chức vị cao, hoặc kinh doanh xí nghiệp quy mô lớn. Lộc Tồn độc thủ, thường làm trong bộ Tài chính, Ngân hàng, hoặc làm các công việc quản lý tài chính, là quan chức về tài phú. Lộc Tồn nếu được nhiều cát tinh miếu vượng thủ chiếu thì tất là bậc tài năng văn võ, lương đống quốc gia, Tài Quan đều đẹp. Gia Hỏa Linh Không Kiếp thì thăng trầm, tốt xấu bất nhất, đặc biệt kỵ gặp Không Kiếp.
    Kình Dương, Đà La


    Điềm hung, một đời sự nghiệp nhiều trắc trở, hay thay đổi, không thuận lợi, thường gặp phiền phức, dễ đối lập với cấp trên, gây phản cảm với đồng nghiệp, người dưới mà bị ép từ chức hoặc mất việc, hoặc thu nhập thấp. Nhập Miếu thì lợi cho Võ chức hoặc kinh doanh, cũng có thể làm những ngành có tính thay đổi, nguy hiểm hoặc tiêu hao thể lực, không lợi cho các công việc Văn chức. Nếu được nhiều cát tinh thủ chiếu thì chủ có quyền quý.

    Hai sao trên hãm địa thì bôn ba vất vả qua ngày, trong sự nghiệp thường gặp tổn hại, sự cố, làm công việc bình thường, địa vị không cao, chuyển chức, không an định, thu nhập ít, môi trường làm việc khắc nghiệt, một đời làm nhiều mà thành ít, hãm địa gia cát tinh thì chỉ có hư danh, khó có thể phát triển mạnh. Gia Hỏa Linh Không Kiếp chủ người bình thường, nghèo khó.
    Hỏa tinh, Linh tinh


    Điềm không tốt, công việc làm nhiều thành ít, bị đối xử bạc bẽo, môi trường khắc nghiệt, tuy rằng có công việc nhưng khó dài lâu.


    2 sao này nhập miếu thì tuổi trẻ thành bại thất thường, tuổi già công việc toại ý. Hội Tử Vi, Tham lang miếu vượng thì chủ cát lợi. Nhập miếu hội nhiều cát tinh thủ chiếu thì chủ quyền quý hiển hách.

    Hai sao này Hãm địa thì cả đời địa vị thấp kém, sự nghiệp không an định, hay bị chuyển chức, khó được dùng đúng chỗ, thường không hài lòng với công việc hiện tại. Gặp Dương Đà Không Kiếp thì một đời khốn đốn, khó khăn, nhiều phong ba.
    Địa Kiếp, Thiên Không


    Điềm hung về sự nghiệp hư không, một đời công việc không ổn định, thường thay đổi công việc, việc làm chẳng có ít nhiều lợi ích gì đáng nói, thường gặp trở ngại hoặc thất bại, khó có thể thành đại sự đại nghiệp. Mệnh có cát tinh mà gặp Không Kiếp dù có phú quý nhất thời cũng nhất định có thất bại tương đối lớn, hoặc là tiền tài bị phá to, hoặc là đắc tội với cấp trên mà bị trách phạt, hoặc học nhằm cái không dùng được nên khó phát huy. Xấu nhất là 2 sao này đồng cung tại cung Quan Lộc hoặc cùng tại tam phương của cung mệnh. Nếu chỉ gặp 1 trong 2 sao mà trong cung có chính tinh Miếu Vượng thì độ hung tương đối nhỏ.
     
  3. BaoAnhhqq

    BaoAnhhqq Thành Viên Mới

    HOÀNG QUÂN – Cho thuê xe cưới, xe cao cấp, xe tháng hàng đầu Hà Nội
    Địa chỉ: Số 02 Trúc Khê – Đống Đa – Hà Nội
    Tel: 04.66.83.66.07 – 04.62.69.45.42
    Hotline: 0987.999.222 – 0983.838.553
     
  4. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Dương nhận cách (ngoại cách): Trích sách Tử Bình Nhập Môn của Lâm Thế Đức trang 53. Chỉ có Giáp, Canh, Nhâm dương can mới có cách này. Giáp gặp tháng Mão, Canh gặp tháng Dậu, Nhâm gặp tháng Tí mới là Dương Nhận cách.

    Cách cục này tháng chi là Kiếp, thật quá thịnh vượng, nhiều Tài, Sát thì cách cục hoàn mỹ.

    DỤNG THẦN:
    1. Tài nhiều nên lấy Quan, Sát làm Dụng thần.
    2. Quan, Sát nhiều nên lấy Tài làm Dụng thần.
    3. Thực, Thương nhiều nên lấy Tài làm Dụng thần.
    4. Tỷ, Kiếp nhiều nên lấy Quan, Sát làm Dụng thần.
    5. Ấn nhiều nên lấy Tài làm Dụng thần.
    6. Nếu Tài, Quan, Thực, Thương hổn lộn và nhiều nên lấy Ấn làm Dụng thần.

    VẬN HẠN:
    1. Nên lấy Quan, Sát, Tài là vận tốt. Gặp Ấn, Tỷ, Kiếp là vận xấu.
    2. Có nhiều Quan, Sát nên lấy Tài làm Dụng thần. Hạn gặp Tài, Thương, Thực là vận tốt. Gặp Ấn, Tỷ là vận xấu.
    3. Thương, Thực nhiều nên lấy Tài làm Dụng thần. Hạn gặp Tài, Thương, Thực là vận tốt. Gặp Ấn, Tỷ thì xấu.
    4. Có nhiều Tỷ, Kiếp hay Ấn giúp Nhật nguyên nên lấy Quan, Sát làm Dụng thần. Hạn gặp Quan, Sát, Tài là vận tốt. Gặp Ấn, Tỷ là vận xấu.
     
  5. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Chánh quan cách:. Cách cục thành công của cách là:

    1. Nhật nguyên cường (Sinh, Vượng, Quan đới) có Tài tinh sinh Quan tinh.
    2. Nhật nguyên yếu (Thai, Dưỡng, Suy) Chánh quan cường mạnh có ấn sinh Nhật nguyên.
    3. Chánh quan không có Thất Sát lẩn lộn.

    Trường hợp cách cục bị phá hoại khi gặp 1 trong những trường hợp sau:
    1. Có Thương quan nhưng không có Ấn.
    2. Gặp phải Hình, Xung, Hại.
    3. Có Thất sát lẫn lộn. Khi gặp những trường hợp sau thì thái quá (quá nhiều):
    1. Quan tinh mạnh lại nhiều, Nhật nguyên yếu đuối.
    2. Quan tinh mạnh, Nhật nguyên yếu lại thêm nhiều Thực Thương. Khi gặp những trường hợp sau thì bất cập (thiếu thốn):
    1. Nhật nguyên mạnh, Qua yếu, không có Tài tinh.
    2. Nhật nguyên mạnh, Quan yếu, lại thêm nhiều ấn tinh, hoặc có Thương quan khắc Quan tinh.

    VẬN HẠN:

    1. Nhật nguyên yếu có Tài tinh mạnh ắt là giúp cho Quan tinh thì Nhật nguyên bị Quan tinh khắc chế cho nên Dụng thần là Tỷ, Kiếp không có Tỷ, Kiếp thì dùng Ấn như vậy khi hạn gặp Tỷ, Kiếp và Ấn tức là vận tốt, khi vận gặp Tài, Quan ắt là vận xấu, gặp Thương, Thực thì bình thường.

    2. Nhật nguyên yếu trong mệnh cục có nhiều Thực, Thương chế ép Quan tinh thì Nhật nguyên 1 mặt bị Quan ép, 1 mặt bị Thương, Thực xích khí ắt là nguy khốn. Lấy Ấn làm dụng thần nên hành vận gặp Ấn thì Nhật nguyên có Ấn sinh Mệnh lại chế Thương, Thực xích Quan tinh ắt là vận tốt. Kỵ gặp hạn Thương, Thực, Tài ắt là vận xấu.

    3. Nhật nguyên yếu có nhiều Quan, Sát hổn lộn nên Dụng thần là Ấn đi vận gặp Ấn tất nhiên tốt đẹp, nguyên cục có Tỷ, Kiếp cũng nên kỵ gặp Quan, Sát và Tài, vận hạn xấu xa.

    4. Nhật nguyên mạnh Tỷ, Kiếp nhiều giúp cho Nhật nguyên nên lấy Quan tinh làm Dụng thần, đi vận gặp Tài, Quan nên là vận tốt. Kỵ gặp Ấn và Tỷ, Kiếp là vận xấu.

    5. Nhật nguyên cường mạnh Ấn nhiều nên lấy Tài làm dụng thần gặp phải vận hạn là Thực thần hay Tài tinh là vận tốt, gặp vận Ấn, Tỷ, Kiếp là vận xấu.

    6. Nhật nguyên mạnh có nhiều Thực, Thương nên lấy Tài làm Dụng thần, gặp Tài ắt là vận tốt, gặp vận Tỷ, Kiếp ắt là vận xấu
     
  6. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Những điêu không tốt về tài vận trong tứ trụ
    -Có nhiều Quan, năm sinh ở đất Thai, Dưỡng, khi các vận đên lại có Thiên quan thì tài sản bị hao tổn.
    -Có Kiếp, gặp sao Kình dương, khi trụ năm đến có thêm Tài sẽ bị cạnh tranh và phá sản.
    -Có Thiên tài, khi trụ năm đến có Tỷ, Kiếp sẽ bị phá sản hoặc trụ năm bị hành mệnh khắc thì hao tài tốn của.
    -Mệnh niên ở đất vượng, có Ấn thì nên theo cục thổ tránh hao tàn.
    -Có Kiếp ở đất vượng thì hao tài tốn của.
    -Có Tài hay bị tranh chấp, song nếu Tài ở các can tàng địa chi thì lại tốt.
    -Có Thương ,Tài, khi các vận nếu có Quan, Sát ở đất suy sẽ mất tiền của hay mất lộc quan chức.
    -Có Kiêu, Thực, khi các vận đến, gặp thêm Kiêu nữa là mất của.
    -Có Thiên tài, Quan, các vận đến gặp thêm Tài sẽ vì tham của mà mất việc.
    -Có Kiêu, Ấn và địa chi tàng Tài mà không có Tỷ, Kiếp phá sản .
    -Có nhiều Kiếp, khi các vận đến gặp thêm Kiếp thì không nên kinh doanh.
    -Có Tỷ, Kiếp mà Mệnh ở đất vượng sẽ bại sản nghiệp.
    -Có Tỷ, Kiếp, khi các vận đến có thêm Tỷ, Kiếp sẽ phá sản.
    -Có nhiều Tỷ, Kiếp,khi các vận đến gặp Tài nữa là tai họa đến theo.
    -Có Tỷ, Kiếp, Tài, khi các vận đến gặp Tài sẽ xảy ra tranh giành của cải.
    -Có Tài gặp sao Tuần không hay Vong thần đóng ở Tài thì nghèo.
    -Không có Tài thì không giàu có.
    -Có Tài gặp sao Kình dương sẽ mất của, mất người.
    -Có Thực, Kiêu sẽ hao tài, mất của.
    -Có Tài ở đất mộ là có vợ nhỏ nhen, quý của hơn người.
    -Có ngày sinh giống một trong 10 ngày không lộc (Giáp Thìn, Ất Tị...) thì dù giàu có cũng sẽ phá tan sản nghiệp.
    -Ngày sinh ở đất suy bại sẽ bị hại vì tài sản.
    -Trụ giờ ở Thiên tài, khi các vận đến gặp thêm Kiếp hay Tỷ sẽ phá sản,tranh chấp.
     
    congnguyenxike thích bài này.
  7. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Chương 1 quyển 10: Khẩu quyết xem mệnh - Phần 1




    Theo quan điểm của phần này, Nguyệt lệnh là nội dung quan trọng nhất trong tất cả các yếu tố luận mệnh. Ngoài ra, sự trung hòa của ngũ hành, sự biến đổi của vận khí cũng là nội dung đáng chú ý trong luận mệnh. Những trình bày mang tính quy luật này của tác giả bắt nguồn từ sự tích lũy kinh nghiệm thực tế qua nhiều đời, là sự tinh túy và đạo lý quan trọng của luận mệnh.


    1. NGUYỆT LỆNH LÀ QUAN TRỌNG NHẤT


    Khi xem mệnh, trước hết cần xem trong chi tháng có Tài tinh và Quan tinh hay không, sau đó mới xem tới các nội dung khác. Nguyệt lệnh chính là vận mệnh chính trong mệnh cục, đóng vai trò mang tính quyết định đối với cuộc đời. Xem trụ tháng dựa vào chi thần, xem trụ năm dựa vào thiên can, xem trụ ngày dựa vào thiên can, xem lưu niên dựa vào thiên can, xem đại vận dựa vào chi thần. Xem mệnh lấy tháng làm gốc, tức là nền tảng của con người, lấy ngày làm chính, tức là đại diện cho cơ thể con người. Nếu trong trụ tháng có Chính Quan và Thiên Quan, mà trong trụ giờ lại nhập vào cách cục khác thì chỉ lấy trụ tháng làm chuẩn, còn cách cục khác không có tác dụng gì. Nếu nguyệt lệnh vô dụng mới xem tới cách cục khác. Đây chính là đạo lý được nhắc tới trong "Cổ ca": "Tam cung đới cách hỗn nan tường; Bất hiểu bình thuỳ thị quý phương. Nhất nhiệm tam cung giai đới cách; Trừ phi chỉ đắc dụng đề cương" (Ba cung cách cục lộn xộn, không rõ ràng, không biết dựa vào phương nào là quý. Nếu như ba cung đều mang cách cục, trừ khi chỉ được dùng đề cương).


    Nguyệt lệnh lấy địa chi làm nền tảng để xem mệnh, nếu trong mệnh có Quan tinh thì cần xuất hiện ở trên, dưới, giữa can chi mới là tốt nhất. Quan tinh hiện rõ trong can, không rõ trong chi thì cho thấy người này thông minh, tuấn tú. Song trong mệnh kỵ nhất là can chi của trụ năm tương xung với can chi của trụ giờ. Chi tháng, chi ngày tương xung thì không gây trở ngại gì tới vận mệnh, song sẽ gặp tai nạn nếu đại vận và Tuế quân tới xung chi tháng.


    2. PHÁN ĐOÁN DỰA THEO CHÍNH QUAN, THẤT SÁT VÀ TÀI TINH


    Nếu Tứ trụ trong mệnh chỉ có một Chính Quan là mệnh quân tử, quý nhân, là người đôn hậu, thật thà, quang minh, chính trực. Lại thêm trụ năm, trụ giờ có Ấn thì càng tốt, song nếu Quan nhiều thì lại không tốt, cho thấy là tướng bại; nếu trong Tứ trụ toàn là Quan thì cả đời sẽ chỉ có hư danh làm quan.


    Nếu Tứ trụ trong mệnh cục chỉ có một Thất Sát thì cho thấy người này thông minh lanh lợi; nếu có hai hoặc ba Thất Sát thì lại là người minh mẫn trước mà hồ đồ sau; nếu trong Tứ trụ đều là Thất Sát, Thất Sát được chế phục thì cho thấy là người tôn quý; còn Thất Sát không được chế phục là người nghèo hèn.


    Nếu trong Tứ trụ có một Tài tinh, cần xem liệu có đắc thời không, cũng chính là được Nguyệt lệnh sinh vượng, nếu được giờ Tài sẽ là người phú quý, có thể thành gia lập nghiệp, tuy nhiên sẽ là người tính tình nóng nảy; nếu có hai Tài tinh thì tính nóng nảy sẽ giảm một nửa; nếu có ba, bốn Tài tinh thì khí hao, cơ thể suy yếu. Nếu thân (can ngày) đặc biệt cường vượng thì có thể thành gia lập nghiệp, còn thân yếu sẽ có cuộc sống vất vả, khốn khó.


    Nếu trong Tứ trụ có ấn thì dù là một, hai hay ba, bốn đều tốt, song trong mệnh cục không hợp gặp "Tài phá Ấn". Thông thường nếu hành vận tốt, can ngày làm tổn thương đến can của Tuế quân lưu niên thì gặp tai họa nhẹ; nếu hành vận không tốt, can ngày làm tổn thương can của Tuế quân thì gặp tai họa nghiêm trọng. Nếu tai nạn đã xảy ra thì tử vong là điều chắc chắn.


    3. PHƯƠNG PHÁP KHẮC CHẾ KHI TƯƠNG XUNG


    Thìn, Tuất, Sửu, Mùi trong Bát tự đều có 3 phần dư khí, như hành Ngọ vận tới Mùi có 3 phần Hỏa khí, hành Tý vận tới Sửu có 3 phần Thủy khí thì không thể coi là Thổ hoàn toàn. Nếu là cách cục Dương Nhẫn thì lưu niên và đại vận sợ nhất xung hợp. Nếu can năm hợp với can ngày giờ là Hối khí sát; can chi ngày giờ giống với can chi lưu niên là Chuyển chỉ sát. Chẳng hạn như ngày Canh Thân gặp Thái Tuế Canh Thân hoặc Thái Tuế Canh Dần, nhẹ thì đổ nhà phá sản, nặng thì phải rời bỏ gia đình tới nơi xa.


    Nếu trong trụ năm, trụ tháng, trụ ngày có cát thần thì can chi của trụ giờ phải được ở chỗ sinh vượng; nếu trong trụ năm, trụ tháng, trụ ngày có hung thần thì trụ giờ phải ở chỗ chế phục; nếu trụ giờ có cát thần hoặc hung thần thì cũng cần xem tình trạng của trụ năm, trụ tháng, trụ ngày, cát thì ở chỗ sinh vượng, mà hung thì ở chỗ chế phục. Nếu trụ tháng có dụng thần thì sẽ có được sự giúp đỡ của tổ tiên, nếu trụ giờ có dụng thần thì sẽ có được sự giúp đỡ của con cháu, ngược lại thì sẽ không được như vậy.


    4. VẬN DỤNG THIÊN NGUYÊN VÀ ĐỊA NGUYÊN


    Khi xem mệnh, cần dùng can ngày làm Thiên nguyên, tức là lấy can làm Lộc; đồng thời dùng chi ngày làm Địa nguyên, tức là lấy chi làm mệnh. Ví dụ ngày Nhâm Quý, tháng Kỷ Mùi, trong can chi xuất hiện Tài tinh và Quan tinh; Tài và Quan phải xét đến "nguyên hữu" (vốn có) hay "nguyên vô" (vốn không có), địa chi vốn có Tài Quan, trong thiên can lại không hiển lộ thì không cần xét đến; nếu địa chi không có Tài Quan, chỉ có thiên can hiển lộ ra, thì tuy hành vận tốt, song không làm nên việc gì. Xem lưu niên Tuế quân, chỉ dùng Thiên nguyên. Nếu xem hành vận tuy có chú trọng tới địa chi, song vẫn cần xem đại vận Thiên nguyên nhập mệnh. Nếu trong Tứ trụ hoặc có Quan tinh, hoặc có Thiên Quan, hơn nữa lại bị chế phục quá nhiều mà thiên can của đại vận xuất hiện Quan Sát thì có thể phát; địa chi của đại vận không có Tài, mà thiên can là Tài thì có thể được phúc vận; nếu địa chi của đại vận không có Sát, mà thiên can là Sát thì sẽ gặp họa.


    5. TÀI TINH VÀ QUAN TINH


    Xem mệnh nên lấy tháng sinh của con người làm Nguyên vận, sợ nhất là đại vận và Tuế quân tới xung, mang theo tai họa. Còn cần lấy cái sinh ra Quan tinh làm Lộc nguyên, sợ nhất là bị xung phá. Chẳng hạn như người sinh vào ngày Đinh, lấy Nhâm làm Quan, mà sinh vào tháng Hợi, trong Hợi có Nhâm là Lộc của Đinh, nếu trụ năm và trụ giờ có chữ "Kỷ" thì sẽ xung phá Lộc nguyên. Ngoài ra còn cần lấy cái sinh ra Tài tinh làm Mã nguyên, sợ nhất là cướp đoạt. Chẳng hạn như người sinh vào ngày Canh, lấy Giáp Ất Mộc làm Tài, mà sinh vào tháng Dần, Mão, Giáp Mộc trong Dần là Thiên Tài, Ất Mộc trong Mão là Chính Tài. Nếu trong trụ năm, trụ giờ có chữ "Tân" thì sẽ gặp họa cướp bóc, tranh giành, Tuế vận tới xung cũng suy như vậy. Nếu can năm có Quan tinh của can ngày thì lại được phúc khí dày nhất. Nếu can năm có Thất Sát của can ngày thì đến cuối đời cũng không trừ bỏ được Sát. Quan tinh là Lộc, Tài tinh là Mã, hành Quan vận thì có thể thăng quan, hành Tài vận thì có thể phát tài, Tài tinh và Quan tinh đều không thể thiếu. Nếu trong trụ năm, trụ tháng của mệnh có cả Tài và Quan thì chắc chắn sẽ được sinh trong gia đình phú quý. Dựa vào tài sản tổ tiên để lại mà hành quan lộc vận ngay từ nhỏ. Thông thường sẽ làm quan ngay khi còn ở tuổi ấu thơ, có được công danh từ rất sớm. Nếu trong trụ năm, trụ tháng không có Tài Quan, mà trong trụ ngày, trụ giờ có Tài Quan thì có thể thành gia lập nghiệp dựa vào bản thân.


    Trong mệnh lấy Tài tinh, Quan tinh làm gốc rễ, nếu trong Tứ trụ có Tài tinh hoặc Quan tinh thì có thể phát phúc. Nếu Tứ trụ vốn không có Quan tinh, lại không nhập cách cục khác, can chi trong trụ nhiều Tài, lại hành vận Tài vượng thì cũng có thể thành công. Do Tài vượng thì có thể sinh Quan, song cần thân kiện vượng thì mới có thể thành công. Nếu trong trụ tháng, năm không có Tài, Quan, thì thủa nhỏ không hành vận tốt, thông thường có xuất thân hèn kém, phá bại cơ đồ tổ tiên,làm tổn thương cha, không thể tạo phúc. Nếu trong mệnh Quan, Sát hỗn tạp, Thương Quan hợp thần trùng trùng, là nam thì say mê tửu sắc, là nữ thì cưới xin không qua mai mối.


    6. CAN NGÀY VÀ NGUYỆT LỆNH


    Khi xem mệnh nên phán đoán chủ yếu dựa vào can ngày, lấy đó làm căn cứ chính, lấy thứ được tháng sinh sử dụng làm mệnh, chẳng hạn Nguyệt lệnh lấy Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ làm dụng, song cần phân tích cụ thể dựa vào tiết khí trước sau, mức độ nặng nhẹ nông sâu, bố cục hình thành, phá xung của Nguyệt lệnh; tham khảo dựa vào lục pháp Quan, Ấn, Tài, Sát, Thực thần, Thương thần. Trong mệnh gặp Quan thì xem Tài, gặp Sát thì xem Ấn, gặp Ấn thì xem Quan. Quan, Tài, Sát, Ấn không thiên lệch, sinh khắc chế hoá thì tốt nhất, còn nếu gặp phá, hại, hưu, tù là xấu nhất. Vận trong mệnh có sinh, có khứ là phúc; có trợ giúp, có cướp đoạt là họa. Cũng có dùng chi năm, chi ngày, chi giờ hợp thành cách cục, song cần dùng Nguyệt lệnh. Nếu Nguyệt lệnh dùng Kim thì chỉ dùng Kim, Nguyệt lệnh dùng Hỏa thì chỉ dùng Hỏa. Trong 18 cách cục của mệnh thì chọn ra 6 cách cục làm trọng tâm, dựa vào nguyên lý Ngũ hành tương sinh để định cách hợp cục, suy đoán mức độ nặng nhẹ, nông sâu dựa vào chi năm, ngày, giờ. Ví dụ gặp Quan dùng Ấn không sợ Sát, bởi vì Ấn của Sát cục, thân của Ấn cục là thượng cục có thể chọn dùng. Gặp Ấn xem Sát, tuy nhiên có Quan, Sát tồn tại, mệnh hành tới nơi Quan, Sát thì cũng được luận là mệnh phú quý. Nguyệt lệnh thông Quan, trong trụ gặp Tài, Tài vượng tức có thể sinh Quan, bởi vậy được xem là phú quý. Nếu trong trụ thấy Tài thì cần nhập vận Tài vượng, mới có thể phát phúc. Tuy nhiên, nếu trong trụ xuất hiện một Sát thì lại cần dùng Sát làm trọng tâm phán đoán, không thể phán đoán dựa vào Tài. Nếu hành vận Tài vượng thì phán đoán là nghèo hèn do Tài sinh Sát nhiều. Thông thường, phán đoán cách cục trong mệnh dựa vào Sát là chính.


    7. CAN CHI KHÔNG XÂM PHẠM NHAU


    Khi xem mệnh trước hết cần xem can thần khắc chế hay không, chi thần hình xung hay không, can chi nạp âm có đấu tranh, hàng phục hay không. Ví dụ Giáp lấy Dần làm Lộc, cần xem can ở Dần là gì. Giáp lấy Tân làm Quan thì lại cần xem chi của Tân là gì. Nếu can không phạm vào chi là thiên tôn quý. Chi không phạm vào can là địa nghèo hèn. Ngũ hành không xung hại lẫn nhau thì mệnh thuận lợi. Nếu tứ mạnh Dần, Thân, Tỵ, Hợi không tương hại thì Mã có thể phi nhanh. Nếu can phạm vào chi, chi phạm vào can thì Ngũ hành xung hại lẫn nhau. Cũng cần xem xét bản chủ có khí hay không, có ích hay không, có được cứu hay không, có thành cách cục hay không. Can chi trong Tứ trụ đan xen phức tạp, Ngũ hành biến đổi thì tạo hóa cũng sẽ ở trong đó.


    Nhà mệnh lý học thời Đường Lý Thuần Phong từng nói: Ngũ hành sinh vượng thì có thể nhìn thấy sự qua lại của phúc khí. Ngũ hành tử tuyệt thì lại cần cầu cứu tới sự trợ giúp của cát thần. Ngũ hành can ngày vượng, nạp âm tương sinh, thì dù không có sự trợ giúp của cát thần cũng vẫn sẽ tôn quý. Ngũ hành không có khí, nạp âm xâm phạm lẫn nhau thì dù có cát thần cũng vẫn nghèo hèn.


    8. THIÊN NGUYÊN VÀ ĐỊA NGUYÊN


    Thiên nguyên trong mệnh ưa Địa nguyên có lộc, ví như Giáp Kỷ thích tứ quý, Ất Canh thích Thân Dậu, Bính Tân thích Hợi Tý, Đinh Nhâm thích Dần Mão, Mậu Quý thích Tỵ Ngọ. Địa nguyên trong mệnh lại thích Thiên nguyên có hợp, ví như Tý Sửu thích Mậu; Dần thích Kỷ, Mão Thìn thích Canh, Tỵ thích Tân Quý, Ngọ Mùi thích Giáp Nhâm, Thân thích Ất, Dậu Tuất thích Bính, Hợi thích Đinh. Nếu Thiên nguyên trong mệnh có hợp, Địa nguyên trong mệnh có lộc thì chủ cả đời hưởng phúc khí sâu dày; song nếu trong mệnh Thiên nguyên không hợp, Địa nguyên không có lộc thì cả đời không làm nên trò trống gì. Nếu Thiên nguyên trong mệnh xấu thì cho thấy khó có được danh lợi trước 39 tuổi. Nếu Địa nguyên trong mệnh xấu thì cho thấy phúc khí giảm sút sau 40 tuổi. Nếu Thiên nguyên trong mệnh đẹp thì có thể được lộc của Địa nguyên, như Quý được Tý, Giáp được Dần, không quý thì phú. Địa nguyên trong mệnh kỵ nhất Thiên nguyên tương khắc, như Tý Sửu kỵ Kỷ, Dần kỵ Canh, Mão Thìn kỵ Tân, Tỵ kỵ Giáp Nhâm, Ngọ Mùi kỵ Ất Quý, Thân kỵ Bính, Dậu Tuất kỵ Đinh, Hợi kỵ Mậu. Còn cần xem hợp gì và kỵ gì, chứ không được đoán mệnh chỉ dựa vào một phương diện.


    9. PHÁN ĐOÁN CAN CHI VÀ NẠP ÂM


    Phần này nói rõ, khi xem mệnh có thể phán đoán dựa vào can chi và nạp âm cùng loại. Như Nhâm Tý, Nhâm Ngọ là Chân Mộc, Kỷ Dậu, Kỷ Mão là Chân Thổ, Bính Tý, Bính Ngọ là Chân Thủy, Mậu Tý, Mậu Ngọ là Chân Hỏa, Ất Sửu, Ất Mùi, Canh Thìn, Canh Tuất là Chân Kim; hay như ngày Ất Dậu, giờ Canh Thìn là Tinh Kim, ngày Đinh Tỵ, giờ Bính Ngọ là Tinh Hỏa, ngày Quý Hợi, giờ Nhâm Tý là Tinh Thủy, ngày Kỷ Sửu, giờ Mậu Thìn là Tinh Thổ, ngày Giáp Dần, giờ Đinh Mão là Tinh Mộc, trong mệnh gặp bất cứ loại nào đều đại diện cho mệnh phú quý; nếu người mệnh Hỏa sinh vào ngày Bính, giờ Tân hoặc ngày Tân, giờ Bính, người mệnh Mộc sinh vào ngày Giáp, giờ Kỷ hoặc ngày Kỷ, giờ Giáp, người mệnh Thổ sinh vào ngày Mậu, giờ Quý hoặc ngày Quý, giờ Mậu, người mệnh Thủy sinh vào ngày Nhâm, giờ Đinh hoặc ngày Đinh, giờ Nhâm, người mệnh Kim sinh vào ngày Canh, giờ Ất hoặc ngày Ất, giờ Canh thì tuy đều là Ngũ hành chân quý, song do có sự xâm phạm nghiêm trọng nên phúc khí trong mệnh sẽ giảm đi.


    10. ĐOÁN MỆNH DỰA VÀO NGŨ HÀNH CHÂN KHÍ


    Đoạn này cho thấy, khi xem mệnh có thể phán đoán dựa vào tác động qua lại của Ngũ hành chân khí. Chẳng hạn, người mệnh Tân Hợi Kim được Đinh Tỵ Thổ, có Đinh Nhâm hợp Chân Mộc qua lại, có Bính Tân hợp Chân Thủy qua lại. Người mệnh Đinh Tỵ Thổ được Quý Hợi Thủy, có Mậu Quý hợp Chân Hỏa qua lại, có Đinh Nhâm hợp Chân Mộc qua lại. Hay như Mậu Tuất, Quý Hợi, Đinh Tỵ, Tân Hợi có chân khí giao nhau thì đều là mệnh Tể tướng. Mậu Ngọ Hỏa được Nhâm Tý Mộc, trong đó có Đinh Nhâm Chân Mộc, Mậu Quý Chân Hỏa; Bính Thân Hỏa được Ất Dậu Thủy, trong đó có Bính Tân Chân Thủy, Ất Canh Chân Kim; Canh Dần được Kỷ Mão Thổ, trong đó có Giáp Kỷ Chân Thổ, Ất Canh Chân Kim. Hay như Canh Dần, Kỷ Mão giao nhau là mệnh đại thần hai phủ.





    11. SUY ĐOÁN SỰ BIẾN ĐỔI CỦA VẬN KHÍ


    Khi xem mệnh, trước hết cần suy đoán sự biến đổi của vận khí. Trong "Ngũ vận thiên" cho rằng, nếu lấy Giáp Bính Mậu Canh Nhâm hợp 5 can âm là thái quá (quá nhiều), Ất Đinh Kỷ Tân Quý hợp 5 can dương là bất túc (còn thiếu), giữa thái quá và bất túc lại có sự biến đổi. Trong "Thiên nguyên biến hoá thư" lại phân ngày và đêm, như người lục Giáp sinh vào ban ngày thì dùng Thủy, sinh vào ban đêm lại dùng Thổ, bởi vậy người lục Mậu được Giáp, nếu sinh vào ban ngày là quỷ, còn sinh vào ban đêm lại là Quan. Người lục Ất, sinh vào ban ngày thì dùng Kim, sinh vào ban đêm dùng Mộc. Bởi vậy người lục Kỷ gặp Ất, nếu sinh ban ngày là Quan, sinh ban đêm lại là quỷ. Trong đó chỉ có Lục kỷ, lục Canh là không thay đổi, bởi vậy 5 can dương sinh vào ban ngày là bản thể, sinh vào ban đêm thì suy đoán theo biến hoá. Còn 5 can âm sinh vào ban đêm là bản thể, sinh vào ban ngày thì suy đoán theo sự biến hoá. Sáu loại mệnh dương của nam giới gặp Lộc quỷ, Đảo thực thì cần sinh vào ban đêm để biến hung thành cát, gọi Quỷ là Quan, Đảo thực là hỉ thần tới để phán đoán, tuy nhiên cần sinh vào ban ngày mới thuận. Sáu loại mệnh âm của nam phạm Lộc quỷ, Đảo thực, cần sinh vào ban ngày để biến hung thành cát, còn lại suy luận giống như trên. Tuy nhiên, cần sinh vào ban đêm mới thuận. Nếu là mệnh nữ thì cần làm ngược lại với cách của mệnh nam để cầu lành dữ, họa phúc. Khí tượng ngày đêm như vậy là biểu hiện cụ thể của âm dương phối hợp, cương nhu hòa hợp.


    12. TRỢ KHÍ VÀ ĐẠO KHÍ


    Ngũ hành sinh khắc trong mệnh sẽ phản ánh vận mệnh khác nhau. Nếu Ngũ hành trong mệnh là dưới sinh trên thì gọi là trợ khí, đại diện cho người này cả đời được hưởng phúc khí. Nếu Ngũ hành trong mệnh là trên sinh dưới thì gọi là đạo khí, cho thấy người này cả đời tạo phúc khí cho người khác. Ngũ hành trong mệnh là trên khắc dưới thì gọi là thuận, cho thấy người này có uy thế, có thể lãnh đạo và chỉ huy người khác. Nếu Ngũ hành trong mệnh là dưới khắc trên thì gọi là nghịch, cho thấy người này cả đời ngưng trệ, khó mà làm nên kỳ tích, nếu rơi vào nơi tử tuyệt thì tình hình càng tồi tệ, còn rơi vào nơi sinh vượng thì lập nên thành tích không đáng kể, hơn nữa khá chậm. Nếu nạp âm trong Tứ trụ nhiều Quỷ thì cho thấy tình trạng của bản thân hiện tại là "Quan tinh quá vượng". Nếu nạp âm trong Tứ trụ nhiều Tài thì cho thấy bản thân không có khí, gọi là "Tài nhiều làm hại thân".


    Ngũ hành trong mệnh cục quý nhất là âm dương cân bằng, thái quá và bất cập đều không tốt. Chẳng hạn, lưỡng Kim gặp lưỡng Mộc, lưỡng Hỏa kiêm lưỡng Thổ hoặc gặp lưỡng Thủy thì đều tự thành tượng là cát tượng. Nếu thái quá hoặc bất cực, như tam Thủy nhất Mộc, nhất Thủy tam Mộc đều không thể là mệnh phúc. Nếu người mệnh Kim có Ngũ hành là tam Kim nhất Mộc, Kim khắc Mộc là Tài, tam Kim tranh nhất Mộc, là tranh nhau phúc, đa phần đại diện cho tài vật không được như ý. Nếu là nhất Kim tam Hỏa, Hỏa nhiều Kim ít thì sức nung quá lớn, sẽ đại diện cho cả đời vất vả, lận đận, không lúc nào an nhàn. Hay như người Giáp gặp tam Nhâm tam Kỷ, gọi là "tam thôn tam ngẫu", đại diện cho không may mắn. Nếu gặp lưỡng Kỷ lưỡng Canh là "trọng ngẫu trọng thương", càng dữ hơn "tam thôn tam ngẫu", cho thấy người này cả đời không nghèo đói thì cũng chết yểu. Mọi trường hợp khác cũng suy luận như trên.


    13. TIẾN KHÍ VÀ THOÁI KHÍ


    Phần này đề cập tới cát hung trong mệnh sau khi Quan, Sát, Tài, Ấn gặp nhau, đồng thời nhấn mạnh rằng cần phải phân tích kỹ lưỡng, không thể suy luận cát hung một cách võ đoán. Nếu trong mệnh cục Thương Quan gặp Quan tinh thì mệnh chủ đoản mệnh, chết sớm; nếu Thất Sát gặp Tài tinh thì mệnh chủ chết yểu; nếu Tài tinh gặp Kiếp Tài thì chủ về chết, nếu có lưỡng Tài phá Ấn là hung. Ngũ hành trong mệnh có Thủy vượng mà Mộc yếu thì cuối cùng sẽ chết nơi đất khách quê người. Nếu Thực thần gặp Kiêu thần sẽ chết nơi tù ngục. Nếu Kiếp nặng gặp Tài tử thì sát vượng mà cái gốc lại kém. Nếu gặp Vong thần Thất Sát tương xung hoặc tương hình thì dù không bị đày đi nơi xa thì cũng sẽ bị chết ở chốn lao tù. Nếu Thương Quan, Dương Nhẫn đi liền với nhau thì tuy được toàn thây, song sẽ chết do gặp họa đổ máu. Nếu Tài tinh gặp Dương Nhẫn thì đại diện cho thiệt mạng, hao tài. Sinh vượng tử ở mộ khố, mộ khố tuyệt ở sinh vượng, về già thấy có vận lành tới, vận dữ chưa tới thì suy đoán cái chết ra sao? Có vận dữ tới, vận lành chưa tới thì suy đoán phát phúc ra sao? Cần xem là tiến thần hay thoái thần, đã xảy ra hay chưa xảy ra. Điều sắp tới thì sẽ nhanh chóng tới, điều đã qua thì sẽ quay về. Tuế vận cả đời toàn là năm dữ, cho thấy đoản thọ, chết sớm. Tuần cuối cùng, mệnh tinh ở vào nơi sinh vượng thì tuổi thọ sẽ cao. Tuổi già kỵ ở nơi sinh vượng, tuổi trẻ kỵ ở nơi tử tuyệt. Dương Nhẫn gặp sinh phần nhiều chết thảm, sát có gốc rễ ở nơi đất vượng thì vận dữ sẽ kết thúc. Xuân vượng Hỏa nhiều, nên tới vùng tây bắc có Kim Thủy, tại nơi mộ khố là chốn quay về. Hạ tăm tối Kim vượng, nên tới phía đông nam - nơi đất Quỷ cũng là đất thọ. Tứ Nhẫn tinh nặng, nếu hành đại vận Chính Tài thì chắc chắn sẽ chết. Trong mệnh chỉ có một Quan tinh, gốc rễ nông cạn, trong vận gặp Dương Nhẫn thì khó sống.Tứ trụ đều bị tổn thương thì con người sẽ chết. Người có Kim thần cách nếu hành Thủy vận sẽ gặp họa chết đuối; gặp Dương Nhẫn đảo qua, sẽ làm Quỷ không đầu; gặp Sát tinh chồng chất thì chết không toàn thây. Chế phục đạt tới mức độ trung hòa, song Sát tinh rất đầy đủ thì sẽ chết vì giận dữ. Tứ trụ được sinh trợ quá nhiều, lại gặp hành vận vượng Ấn thì cuộc đời chấm dứt. Thương Quan cách mà hành vận mộ, thì sẽ chết, xem cục thế cuối đời nên xem chỗ này. Nơi dương sinh ra là nơi âm chết đi; nơi âm sinh ra là nơi dương chết đi. Nếu Thất Sát trong mệnh gặp tam hợp, thái quá sẽ đổ. Nên suy đoán dựa vào sự tiêu trưởng của Ngũ hành trong trụ.


    14. NGŨ HÀNH TRONG MỆNH CÂN BẰNG LÀ TỐT NHẤT


    Ngũ hành trong mệnh quá nhiều (thái quá) hoặc quá ít (bất cập) tuy không thể xem là phúc, song cũng sẽ có sự khác biệt nho nhỏ. Như Thủy và Thổ không kỵ tử tuyệt, bởi lẽ trong trời đất ngập tràn nước và đất bất luận là mùa nào thì Thủy và Thổ đều không lo tử tuyệt. Tuy nhiên, cần phân biệt mức độ nặng nhẹ. Chẳng hạn như một giọt nước rơi vào giữa vùng đất rộng thì sẽ nhanh chóng tiêu tan, một nắm đất nhỏ dùng để chặn dòng nước chảy xiết thì sẽ bị nước cuốn trôi. Bởi vậy dù số lượng nhiều ít ra sao, cũng cần phân rõ mức độ nặng nhẹ. Kim không có Thổ thì không sinh, Mộc không có Thủy thì không phát triển. Bởi vậy muốn Kim Mộc sinh vượng thì sợ nhất là gặp tử tuyệt. Nếu Kim tử là bị chôn vùi, Mộc tử sẽ biến thành tro tàn, chúng khác với Thủy và Thổ. Hỏa tàng trong Mộc, ẩn trong Thổ, bởi vậy không tham cầu vượng, bởi lẽ quá vượng sẽ thiêu trụi Mộc; cũng không thích tử, vì tử thì Hỏa sẽ tắt, chỉ có cân bằng mới là tốt nhất. Thủy, Thổ trong Ngũ hành đều cần nương tựa, đặc biệt là mệnh Mộc, Kim, Hỏa.
     
    congnguyenxike thích bài này.
  8. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Chương 1 quyển 10: Khẩu quyết xem mệnh - Phần 2




    15. NGŨ HÀNH THỦ TƯỢNG TRONG MỆNH


    Xét về Ngũ hành thủ tượng. Thứ nhất, tượng chính thì chọn tượng chính, chẳng hạn như, tượng chính của Giáp, Ất, Bính, Đinh là tượng Mộc Hỏa, thì chọn tượng Mộc Hỏa. Thứ hai, tượng hoá thì chọn tượng hoá, ví dụ tượng hoá của Mậu (Thổ), Quý (Thủy), Đinh (Hỏa), Nhâm (Thủy) là tượng Mộc Hỏa, thì chọn tượng Mộc Hỏa.



    16. TƯỢNG KIM THỦY KHÔNG THỂ GẶP THỔ


    Tượng Kim Thủy của Ngũ hành trong mệnh không thể gặp Thổ. Gặp Thổ thì sẽ là "Thổ tạp Thủy hỗn", Kim tự nhiên sẽ không thanh (trong). Người có tượng như vậy nếu Tuế vận gặp Thổ cũng sẽ gặp trở ngại, không thể thuận lợi. Chỉ có Kim Thủy không tạp, sinh vào mùa thu là đẹp nhất. Chẳng hạn như, Tứ trụ của Minh Thánh Tông là Quý Hợi, Tân Dậu, Quý Hợi, Tân Dậu, can chi trong đó đều là Kim Thủy không tạp, bản thân là Quý Thủy, sinh vào tháng Tân Kim, Kim trợ Thủy thanh, nhị Thủy nhị Kim thành tượng. Đây chính là cách cục Kim bạch Thủy thanh, không pha tạp, lại có hai can không tạp, bởi vậy được tôn làm thiên tử. Nếu Tứ trụ là Quý Dậu, Quý Hợi, Canh Tý, Tân Tỵ, bản thân là Canh Kim, sinh vào tháng Tý Thủy, thì Kim sẽ tiết khí, chìm lấp trong Hợi, Tý, bởi vậy sẽ gặp hạn liên quan tới nước.


    17. TƯỢNG KIM THỔ KHÔNG THỂ GẶP MỘC


    Tượng Kim Thổ của Ngũ hành trong mệnh không thể gặp Mộc, bởi vị Mộc khắc Thổ, bởi vậy Thổ không thể sinh Kim, Kim không thể thành tượng. Thổ tích tụ nhiều thì có thể thành Kim, nếu Thổ nhiều Kim ít thì sẽ được phúc lộc dày. Nếu Kim nặng Thổ nhẹ sẽ vô cùng vất vả.


    18. TƯỢNG KIM HỎA KHÔNG THỂ GẶP THỦY


    Tượng Kim Hỏa của Ngũ hành trong mệnh không thể gặp Thủy, Kim Hỏa gặp Thủy thì Hỏa sẽ bị dập tắt, Kim sẽ bị nhấn chìm, bởi vậy không thể luyện thành đồ vật. Nếu Kim nặng Hỏa nhẹ thì sẽ phát đạt muộn, song tuổi thọ khá cao. Nếu Kim nhẹ Hỏa nặng thì phát đạt tuy sớm, song lại cũng nhanh chóng lụi tàn, cũng có người cho rằng như vậy thì mệnh thọ sẽ bị tổn thương.


    19. TƯỢNG KIM MỘC KHÔNG THỂ GẶP HỎA


    Tượng Kim Mộc của Ngũ hành trong mệnh không thể gặp Hỏa, Mộc còn sống thì sợ nhất là gặp Kim, còn gặp Hỏa thì sẽ khai hoa. Mộc chết rồi được Kim chiếu cố tới mới có thể thành tạo hoá. Người tượng Kim Mộc nếu Kim nặng Mộc nhẹ sẽ bị đau xương, còn nếu Mộc nặng Kim nhẹ sẽ tổn thất tiền tài, hoặc cơ thể mắc bệnh phổi, chỉ có Kim Mộc cân bằng thì mới tốt.


    20. TƯỢNG THỦY MỘC VÀ TƯỢNG MỘC HỎA


    Tượng Thủy Mộc của Ngũ hành trong mệnh đẹp và thanh cao, không thể gặp Mão Tỵ, bởi vì Mão Tỵ là nơi tử tuyệt của Thủy. Tượng Mộc Hỏa đẹp và đầy đặn, không thể gặp Kim, bởi vì Kim khắc Mộc, Mộc gặp Kim sẽ bị khắc. Lưu niên gặp Kim cũng sẽ bị nạn.


    21. TƯỢNG THỦY HỎA KHÔNG THỂ GẶP THỔ


    Tượng Thủy Hỏa của Ngũ hành trong mệnh tạo thành Thủy Hỏa Ký Tế là tuyệt vời nhất, hoặc tạo thành tượng Vị Tế cũng được, không nên gặp Thổ. Người Hỏa nhiều tính tình nóng nảy, người Thủy nhiều dễ mắc bệnh về mắt. Hỏa sợ gặp tử, Thủy sợ gặp mộc dục, Thủy Hỏa nhập Dậu thì Hỏa tử Thủy mộc dục, cho thấy người này vất vả cả đời cho tới lúc chết; Tuế vận gặp Dậu thì cũng giống vậy, tượng này kỵ ngày Dậu, giờ Dậu.


    22. TƯỢNG THỦY THỔ KHÔNG THỂ GẶP HỎA


    TượngThủy Thổ của Ngũ hành trong mệnh không thể gặp Hỏa. Nếu tượng này Thổ nặng Thủy nhẹ thì đẹp mà không thực chất; còn nếu Thủy nặng Thổ nhẹ có thể được ghi danh bảng vàng.


    23. TƯỢNG HỎA THỔ KHÔNG THỂ GẶP THỦY


    Tượng Hỏa Thổ của Ngũ hành trong mệnh không thể gặp Thủy. Hỏa hư Thổ tụ không thể thành tài, cũng giống như nước chảy, cho thấy sẽ gặp cảnh ngộ giống như Khuất Nguyên trẫm mình dưới sông Mịch La. Ví như Mậu Tý, Mậu Ngọ, Kỷ Sửu, Kỷ Mùi, Đinh Tỵ, Đinh Hợi, Bính Thìn, Bính Tuất, Bính Đinh và Mậu Kỷ xen lẫn nhau thì chính là Hỏa hư Thổ tụ. Lý Cửu Vạn cho rằng Mậu Tý, Kỷ Sửu, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, Bính Thìn, Đinh Tỵ, Bính Tuất, Đinh Hợi đều là tượng Hỏa Thổ pha tạp, không thể coi liên tiếp là quý. Nếu trụ giờ gặp Nhâm Quý Thủy thì Thổ sẽ bị chèn ép, Hỏa sẽ bị dập tắt, cho thấy người này cả đời vất vả, khốn khó, không thuận lợi, vận mệnh kém may mắn.


    Còn có một cách nói khác: Hỏa Hỏa gặp Thổ thì ảm đạm, không có ánh sáng, Thổ Thổ gặp Thủy thì trống rỗng mà khuyết thiếu. Thổ nhẹ Hỏa nặng thì Thổ khô cằn, chẳng hạn như ngày Kỷ Mão gặp giờ Bính Dần, tức là Thổ nhẹ Hỏa nặng. Hỏa nhẹ Thổ nặng thì không sáng sủa, chẳng hạn ngày Đinh Dậu gặp giờ Mậu Thân, tức là Hỏa nhẹ Thổ nặng. Như Hàn học sỹ: Mậu tuất, Đinh Tỵ, Mậu Tuất, Đinh Tỵ, Hỏa Thổ thành tượng, lại là cách cục phượng hoàng can chi, bởi vậy là tượng quý.


    24. CÁCH XÁC ĐỊNH NGŨ HÀNH THỦ TƯỢNG


    "Kinh" nói, Kim Thủy thành tượng thường thanh cao; Kim Thổ thành tượng thường đôn hậu, bởi lẽ chúng có mối quan hệ tương sinh. Kim Hỏa thành tượng thường cương cường; Kim Mộc thành tượng thường chính trực, bởi lẽ chúng có mối quan hệ tương khắc. Hỏa Thổ thành tượng thường ác độc; Hỏa Mộc thành tượng thường thông minh; Hỏa Thủy thành tượng thường tối tăm; Hỏa Kim thành tượng thường sáng sủa. Mộc Hỏa thành tượng có tài văn chương; Mộc Thủy thành tượng thì thanh cao kỳ lạ; Mộc Kim thành tượng thì chính trực, thẳng thắn; Mộc Thổ thành tượng thì độc ác, đáng sợ. Thủy Hỏa thành tượng thì thông minh, sáng suốt; Thủy Mộc thành tượng thì trí tuệ, nhân từ; Thủy Kim thành tượng thì xinh đẹp; Thủy Thổ thành tượng thì ô trọc. Tất cả những điều kể trên đều được suy luận dựa theo Ngũ hành.


    25. MỆNH KỴ ĐỒNG LOẠI TỔN HẠI LẪN NHAU


    Trong mệnh kỵ nhất là đồng loại tàn phá lẫn nhau. Ví như, Kỷ Mùi gặp Giáp Thìn, Giáp Thìn gặp Kỷ Sửu, Kỷ Sửu gặp Giáp Tuất, Giáp Tuất gặp Kỷ Mùi. Nếu ở bốn vị trí xung, nạp âm cùng loại thì đếm ngược lại hai vị trí. Dần Thân Tỵ Hợi, Tý Ngọ Mão Dậu cũng chọn theo cách này, phàm là gặp phải thì cho thấy người này cả đời không giàu có, đa phần không thể thành công. Trong "Đạo kinh"có nói, Tỉnh Lan công phá lẫn nhau thì không có thuốc nào chữa nổi, nếu gặp Không Vong còn có cơ may, Tuế vận cũng kỵ xung phá cùng loại.


    26. TRONG MỆNH KỴ NHẤT QUỶ KHẮC


    Bất luận là can năm hay can ngày, trong tất cả các mệnh, gặp Tuế vận thì không thể gặp tử, ví như Bính Dần Hỏa kỵ Ất Mão Mộc, Tân Tỵ Kim kỵ Đinh Dậu Hỏa, Giáp Thân Thủy kỵ Kỷ Mão Thổ, Tuất Thân Thổ kỵ Nhâm Ngọ Mộc, Kỷ Hợi Mộc kỵ Giáp Tý Kim, đây cũng giống như con người sinh ra thì sợ chết Nếu can năm và can ngày là sinh tử cùng đường thì lại không phải kỵ.


    Trong mệnh kỵ nhất là Quỷ khắc, trong các loại Quỷ thì Quỷ trong tổ (khòa quỷ) là ác độc nhất. Như Bính Tý Thủy gặp Canh Tý Thổ, Đinh Sửu Thủy gặp Tân Sửu Thổ. Do trong tổ là ở vị trí tương khắc nên độc nhất. Có Quỷ trong mộ (mộ trung quỷ), như Nhâm Thìn Thủy gặp Bính Thìn Thổ, Bính Thìn Thổ gặp Mậu Thìn Mộc. Có Quỷ cách vách (cách bích quỷ), như Canh Tý Thổ gặp Quý Sửu Mộc Có Quỷ Không Vong, như Giáp Tuất gặp Giáp Thân, Ất Dậu. Các loại Quỷ kể trên đều có hại, mức độ hại từ nặng đến nhẹ lần lượt là Quỷ trong tổ, Quỷ trong mộ, Quỷ cách vách, Quỷ Không Vong. Nếu người mệnh Mộc gặp tháng Hỏa, ngày Kim, giờ Kim, trong mệnh cục có Hỏa khắc Kim thì Kim không làm thương Mộc, đây là ngự Quỷ (chống quỷ), gặp tình trạng này thì Quỷ không gây hại. Nếu người mệnh Thủy, trong Tứ trụ có Hỏa Thổ, Thổ khắc Thủy, Hỏa lại sinh Thổ là trợ Quỷ (giúp quỷ), vô cùng hung ác. Can chi thông dụng, trong đó nạp âm là quan trọng nhất, gặp ngự Quỷ thì cả đời lập nghiệp vất vả. Gặp trợ Quỷ thì xương thịt tan tác. Nếu trong Quỷ có Quỷ thì gọi là Quỷ khiếu (Quỷ hú), ví như người mệnh Thổ sinh vào tháng Mộc, ngày Kim, giờ Kim thì chính là Quỷ khiếu, Mộc khắc Thổ, Kim khắc Mộc gốc rễ yếu ớt nên hung, nếu mệnh chủ có thân cường vượng thì lại không kỵ. Như Kỷ Mùi, Ất Hợi, Bính Dần, Tân Mão, gặp tam hợp sinh, lại gặp Dần Mão là Kỷ nhập nơi Quan, Bính hợp Tân, vốn là người đại quý. Tuy nhiên Kỷ là âm Mộc gặp Ất Mộc thành quỷ, lại gặp Tân thành Quỷ của ất Mộc, biến Quan của Dần Mão thành Quỷ Kỷ Thổ. Tại vị trí tam hợp Hợi Mão Mùi, toàn là Quỷ khắc, phạm vào Quỷ khiếu, bởi vậy người này sẽ chết đột ngột.


    Trong "Kinh" nói: Ngũ hành vô cùng kỵ dưới trộm trên, nếu gặp thì cả đời sống thiếu thốn, không thuận lợi. Còn nói: Cách cục Quỷ tiếu rất xấu, lại thêm hình sát thì tai hoạ vô cùng, dù trước đó gặp phú quý thì về sau vẫn chết yểu.


    27. SUY ĐOÁN MỆNH SANG HÈN


    Trong mệnh lấy thai, sinh, vượng, khố làm tứ quý; tử, tuyệt, bệnh, bại làm tứ kỵ, còn lại là tứ bình. Khi xem mệnh lấy can Thái Tuế làm chính, phối hợp với Ngũ hành, dựa vào vị trí tứ quý, tứ bình và tứ kỵ để phân chia và suy đoán người này có mệnh sang hay mệnh hèn. Gặp được quý thì đa phần là mệnh sang, gặp phải hèn thì đa phần là mệnh hèn. Trong tứ quý, thì tứ vượng khố là tốt nhất, tiếp đến là thai. Nếu thai, ngày sinh, giờ sinh, tháng sinh trong mệnh gặp tam quý, thiên can nhận được trợ giúp hoặc là Chính lộc, Chính Quan, Chính Ấn, là mệnh làm quan lớn đến tam công. Nếu mang Chính Thiên Ất, như người tuổi Sửu, Mùi, giờ, ngày, tháng có Giáp Mậu Canh; nếu mang Bản gia lộc, như người tuổi Dần, giờ, ngày, tháng mang Giáp, gọi là "phúc hội". Có trường hợp Thiên Ất quý hợp hai lần cũng là mệnh tam công. Nếu trong mệnh cục, tam quý có trên dưới hợp, hoặc là một Quan một Ấn, và một Chính Thiên Ất hoặc một Bản gia lộc, hai, ba vị quý nhân, hợp với những điều nói ở trên thì chính là mệnh Tể tướng. Nếu trụ ngày và trụ giờ gặp hai quý nhân, lại hợp với những điều nói ở trên thì cũng là mệnh Tể tướng. Nếu trong mệnh gặp các thần như Tai sát, Địa sát, Vong kiếp, Dương Nhẫn, sẽ được nắm giữ binh quyền, cho thấy là mệnh sang được làm quan. Nếu tháng mang thai, tháng sinh, ngày giờ sinh gặp quý nhân Thai Khố, song lại có Chính Thiên Ất trên dưới hợp, hoặc Thiên Ất quý hợp với Bản gia lộc, Chính Quan, Chính Ấn, Bản gia lộc có khí, hoặc quý nhân mang tiền kiện lộc can, thì cũng là mệnh tể tướng cửu khanh. Nếu tháng gặp kỵ thần mà ngày gặp quý nhân hoặc ngày gặp kỵ thần mà giờ gặp quý nhân thì sẽ không hại lẫn nhau, cho thấy người này giữ chức vụ cao, có kẻ hầu người hạ. Nếu ngày tháng đều gặp quý nhân, mà giờ lại gặp kỵ thần là người bình thường.


    28. TỨ KỴ TƯỢNG TRƯNG CHO BẦN TIỆN


    Tứ kỵ trong mệnh lý đại diện cho bần tiện, song có phân chia mức độ nặng nhẹ, trong đó tử, bại, tuyệt là nặng, còn bệnh là nhẹ. Ba vị trí Ngũ hành Dần, Ngọ, Tuất Hỏa, người Bính Đinh gặp được là quý, mức độ tôn quý giống với 3 vị trí trong tứ quý. Chỉ thiếu vị trí quý thai, phúc khí được biểu thị trong quý, cũng giống với tứ quý. Lộc dương quý ở lâm quan, lộc âm quý ở đế vượng. Nếu lộc dương gặp đế vượng, lộc âm gặp lâm quan tuy ở vị trí chính, song phúc sẽ giảm đi một nửa. Nếu thân vượng không có Lộc tinh, như Bính Dần được ngày giờ Mậu Ngọ, lại thêm bản mệnh mang hình sát thì cho thấy người này dâm đãng, ngu ngốc và nghèo hèn. Đôi lúc gặp một, hai vị quý nhân, song lại là hung sát hình hại, tàn phá nghiêm trọng, điều này cũng đại diện cho không có lộc. Thẩm Nghệ nói: Ngũ hành lấy sinh vượng làm vua, lâm quan làm tướng. Nếu nạp âm là Mộc, giờ, ngày, tháng gặp Dần Mão; hoặc nạp âm là Kim, giờ, ngày, tháng gặp Thân Dậu; nạp âm là Thủy, giờ, ngày, tháng gặp Hợi Tý; nạp âm là Hỏa, giờ, ngày, tháng gặp Tỵ Ngọ; nạp âm là Thổ, giờ, ngày, tháng gặp Thìn Tuất Sửu Mùi đều là mệnh quý.





    29. NGŨ HÀNH TRONG MỆNH TRƯỜNG SINH


    Khi xem mệnh, cần phân biệt rõ sinh, vượng, tử, tuyệt của Ngũ hành. Ví như Giáp Thân, Bính Dần, Kỷ Hợi, Tân Tỵ, Mậu Thân đều là Ngũ hành có thể tự trường sinh. Điều này không cần tham khảo sự biến đổi của bốn mùa, bởi lẽ nó đã tách hẳn ra khỏi bốn mùa, có được đạo lý tự sinh. Trong mệnh cục nếu hội tụ những điều này thì cho thấy người này vô cùng thông minh, tài giỏi. Người mệnh sang được nó thì đường công danh rộng mở; người mệnh giàu được nó thì sẽ được hưởng vinh hoa phú quý.


    30. NGŨ HÀNH TRONG MỆNH TỰ VƯỢNG


    Ví như, Bính Tý, Mậu Ngọ, Tân Mão, Quý Dậu, Canh Tý đều là Ngũ hành tự vượng. Không cần dựa vào bốn mùa, bản thân có thể khiến mình khoẻ mạnh, dồi dào, có được sức mạnh phúc khí to lớn không gì bằng.


    31. NGŨ HÀNH TRONG MỆNH GẶP MỘ KHỐ


    Ví như Quý Mùi, Nhâm Thìn, Bính Thìn, Giáp Tuất, Ất Sửu đều là mộ khố của bản thân Ngũ hành. Đây là thời điểm Ngũ hành quy căn phục mệnh (trở về cội nguồn để phục mệnh). Hễ nơi nào có sự tổn tại của mộ khố thì nơi đó nên có vật tích tụ để cho khố (kho) được đầy. Chẳng hạn, Nhâm Thìn Thủy mong có nhiều nước chảy về, sẽ được vượng. Có Kim tới tương sinh, sẽ có quyền hành lớn. Tuy nhiên nếu Thủy ức chế Hỏa, Hỏa ức chế Kim, lại thêm Thiên trung tới thì sẽ không gánh vác nổi Ấn, lại chủ về nghèo hèn.


    32. NGŨ HÀNH TRONG MỆNH GẶP TỬ


    Ví như Ất Mão, Đinh Dậu, Nhâm Ngọ, Giáp Tý, Kỷ Mão đều là nơi tử của Ngũ hành. Khi còn sống, phải lao động vất vả, sau khi chết mới được nghỉ ngơi, đạo lý này vô cùng rõ ràng. Không có nơi tử thì sự vật không có chỗ để về. Cái gọi là tự tử chính là hòa hợp vào vạn vật mà có chốn về thực sự. Trong mệnh gặp được điều này thì chủ thông minh, lanh lợi, sáng suốt, nổi trội, tuy thông minh song thiếu phúc phận.Tốt nhất nên sống đạm bạc, không nên dựng nghiệp. Chỉ có thể học đạo thần tiên, vượt ra khỏi cánh cửa sinh tử.
     
    congnguyenxike thích bài này.
  9. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Chương 1 quyển 10: Khẩu quyết xem mệnh - Phần 3



    33. NGŨ HÀNH TRONG MỆNH TỰ TUYỆT


    Ví như Quý Tỵ, Ất Hợi, Canh Thân, Nhâm Dần, Đinh Tỵ đều là Ngũ hành tự tuyệt. Quy luật vận hành theo tự nhiên thì không thể tuyệt. Nếu can chi trong mệnh vừa hay gặp Tỵ tuyệt thì sẽ sống lại. Trong mệnh gặp phải, là vui là buồn vẫn không thể xác định. Ví như Quý Tỵ tuyệt Thủy, nếu có được Quý Dậu vượng Kim trợ giúp thì sẽ là "tuyệt Thủy gặp sinh", vô cùng tốt lành.



    34. NGUYỆT LỆNH PHÂN BIỆT TRONG ĐỤC


    Nếu trong mệnh có tượng tử, tuyệt, sinh, vượng, khố, mộ thì không thể dựa vào đó để phán đoán là hung, còn cần xem Nguyệt lệnh để phân biệt thanh, trọc. Thanh (trong) là có chế phục, chẳng hạn Thủy sợ gặp Thổ, gặp Thổ thì đục, song nếu không dùng Thổ để xây dựng đê điều thì Thủy sẽ chảy mãi không dừng. Đã dừng, thì Thủy sẽ Dần dần trở nên trong. Trọc (đục) là khi không có chế phục, nếu Thủy nhiều mà không có Thổ thì sẽ tràn lan, không quy tụ, mà Thủy đạt tới cực điểm thì sẽ sinh Mộc, đây chính là "cực tất biến, biến tất thông". Ngũ hành thích sự thay đổi, không thích ở mãi một trạng thái, Ngũ hành chú trọng đặc tính ẩn giấu bên trong, mà không coi trọng sự vật lộ ra ngoài. Nếu tử tuyệt được cứu thì gọi là "hoàn hồn" thông thường coi là quý. Nếu sinh vượng bị khắc thì gọi là "tán khí", cho thấy người này phúc mỏng. Nếu hai bên tương sinh, thuận sinh thì sẽ có ích cho bản thân, nghịch sinh thì sẽ cướp đoạt khí của bản thân. Nếu hai bên tương khắc, thuận khắc thì thế mạnh, mà nghịch khắc thì bị tổn thương.


    35. NGŨ HÀNH TRONG MỆNH KỴ YẾU KHẮC MẠNH


    Trong "Kinh" nói: lấy nhỏ lấn át lớn thì sẽ tự chuốc họa về mình, lấy yếu thắng mạnh thì sẽ tự gây ra tai ương. Ví như một Thủy khắc ba Hỏa thì chính là lấy yếu thắng mạnh. Lấy âm thắng dương, tuy có họa nhưng không rõ ràng, lấy dương thắng âm, tuy có hại nhưng không nghiêm trọng. Hai dương cản trở nhau thì sẽ gặp họa khôn lường. Hai âm tình địch nhau thì không được yên. Ví như Ất Tỵ Hỏa khắc Nhâm Thân Kim, là lấy âm thắng dương, Nhâm Thân Kim khắc Kỷ Tỵ Mộc, là lấy dương thắng âm. Âm dương hữu tình, bởi vậy không gây hại lớn. Hay như, Đinh Mão gặp Quý Dậu là hai âm tình địch nhau, Mậu Ngọ gặp Giáp Tý là hai dương cự tuyệt nhau. Dương là cương, âm là nhu, cùng tính thì kháng cự nhau, chắc chắn phải đánh thắng mới chịu thôi, nên là họa hại. Trong "Thái Ất" nói: Trời đất biến chuyển, âm dương tiêu trưởng đều là vì âm gọi dương, dương gọi âm, mới khiến trời đất hợp với chính đạo, khí Ngũ hành dung hòa. Nếu dương chỉ theo dương, âm chỉ theo âm thì âm dương không cân bằng, động tĩnh rối loạn, nên phúc họa đều có. Nếu âm dương không cân bằng thì tạo hoá không thành Ngũ hành. Ví như Hỏa nhiều Kim ít, khiến Kim tụ hay tán đều không thể thành hình. Hỏa ít Kim nhiều thì Kim không dễ bị nung chảy, sẽ gây họa dập tắt lửa. Tương tự suy ra các trường hợp khác


    36. MỆNH CẦN ĐỊNH NGŨ HÀNH, THỂ DIỆN VÀ CỤC THẾ


    Phần này chủ yếu nói rằng, khi xem mệnh thì trước hết cần xác định ra Ngũ hành, thể diện và cục thế, sau đó xem xét hợp kỵ, tốt xấu và vượng tướng hưu tù. Chẳng hạn, người mệnh Kim có Canh Tân hoặc Thân Dậu là thể diện, có tam hợp Tỵ Dậu Sửu là cục thế, hợp chế phục Hỏa, có Thổ trợ giúp, kỵ Kim Thủy lạnh. Sinh vào mùa thu hoặc các tháng 3, 6, 9 và 12 là vượng tướng, còn sinh vào mùa xuân, mùa hè là hưu tù. Tương tự suy ra các trường hợp khác.


    37. NGŨ HÀNH, THỂ DIỆN VÀ CỤC THẾ CỦA NGƯỜI MỆNH KIM


    Nếu người mệnh Kim gặp Canh Thân, Tân Dậu là Ngũ Ly sát, nếu sinh vào mùa thu gặp Thủy thì có thể giải được độc hại của Kim, biến thành Kim bạch Thủy thanh. Nếu trong mệnh gặp Hỏa thì chế phục tính cương của Kim, có thể luyện thành vũ khí sắc nhọn. Trong Tứ trụ đã không có Hỏa, lại cũng chẳng có Thủy là Kim ngoan cố, cho thấy người này từ trẻ đã chìm đắm trong tửu sắc, cuối cùng chết vì bệnh tật. Nếu ngày, giờ của mệnh này là Mậu Dần thì chính là nơi cương gặp sinh, mệnh chủ sẽ được hưởng cả phúc lẫn thọ.


    38. NGŨ HÀNH, THỂ DIỆN VÀ CỤC THẾ CỦA NGƯỜI MỆNH MỘC


    Người mệnh Mộc nếu gặp Thổ thì gốc rễ sẽ được bao bọc, che chắn và nuôi dưỡng; nếu gặp Thủy thì cành lá sẽ mọc tốt tươi; nếu gặp Kim thì lại bị chặt đứt, có thể trở thành nguyên liệu. Người mệnh Mộc nếu gặp Dần Mão, lại sinh vào mùa xuân là tốt nhất. Nếu tam hợp hội tụ, cục diện toàn Mộc thì không cần sinh vào mùa xuân cũng vẫn sẽ nhân từ và sóng thọ. Mộc bị Kim chế phục, Kim khí bị Hỏa chế phục chính là cương nhu chế phục lẫn nhau. Nếu Hỏa quá nhiều thì Mộc sẽ bị thiêu trụi, Kim quá nhiều thì Mộc sẽ bị tổn thương, Thổ hư rỗng thì không thể chăm bón gốc rễ của Mộc, Thủy tràn lan thì Mộc ngập úng, không thể mọc tốt tươi, tốt nhất là mọi thứ đều cần trung hòa.


    39. NGŨ HÀNH, THỂ DIỆN VÀ CỤC THẾ CỦA NGƯỜI MỆNH THỦY


    Người mệnh Thủy lấy Hợi Tý làm cuội nguồn, lấy Dần Mão Thìn Tỵ làm nơi tàng ẩn. Can của nó bắt nguồn từ phương bắc, dù trải qua bao khúc quanh uốn lượn cuối cùng vẫn thường chảy về hướng đông, bởi vậy người mệnh Thủy hợp với hướng đông, Thủy chảy về hướng đông sẽ bình lặng, yên ả. Thủy cần Thổ tới xây dựng đê điều, nếu người mệnh Thủy gặp Hợi Tý, nhiều Thổ sẽ gặp may mắn. Thủy ở hướng đông, gặp Thổ cũng là tượng cát, song không nên quá nhiều Thổ. Nếu lại gặp thêm quý nhân, tài lộc là tướng quý. Nếu ngày giờ gặp Canh Thân, Tân Dậu, do Thủy kỵ chảy về phía tây, nên nếu gặp phải thì e rằng tuổi thọ không cao. Người mệnh Thủy sinh vào mùa thu hoặc đông, sinh vượng mà trong trẻo, Nhâm Quý gặp Hợi Tý cho thấy người nàỵ có tài văn học. Nếu nạp âm lại là Thủy thì Thủy quá nhiều, nếu trong trụ không có Thổ tới làm đê thì sẽ không có con nối dõi. Chỉ có theo học nghệ thuật hoặc xuất gia đi tu thì mới cát, nếu lại xuất hiện Cách giác trùng phùng thì chắc chắn sẽ đại diện cho hình khắc. Thủy vào mùa xuân sẽ cạn khô, vào mùa hè sẽ tràn lan, người mệnh Thủy nếu trong trụ không có Thủy trợ giúp thì sẽ không quý.


    40. NGŨ HÀNH, THỂ DIỆN VÀ CỤC THẾ CỦA NGƯỜI MỆNH HỎA


    Người mệnh Hỏa bản thân là Dần Mão, nếu sinh vào mùa xuân thì Mộc tú Hỏa minh, chủ cuộc sống cả đời vinh hoa phú quý. Nếu sinh vào mùa hè thì lại quá nóng, nếu trong trụ không có Thủy thì chắc chắn sẽ chết yểu, nếu có Thủy thì lại sớm gặp quý. Nếu sinh vào mùa thu là Hỏa tử Kim thành, ánh sáng tàng ẩn chiếu ở bên trong, ngày giờ chỉ cần gặp chút khí vượng thì cũng cát. Do Thủy và Hỏa không kỵ tử tuyệt nên chỉ cần sống thanh đạm sẽ có phúc khí. Nếu sinh vào mùa đông, trong trụ lại không có Hỏa trợ giúp thì lại là tượng làm tan sương tuyết, sưởi ấm núi sông, cổ nhân từng nói, mùa đông đáng yêu, mùa hè đáng sợ, chính là đạo lý này.


    41. NGŨ HÀNH, THỂ DIỆN VÀ CỤC THẾ CỦA NGƯỜI MỆNH THỔ


    Người mệnh Thổ nếu gặp tứ quý toàn Thổ thì sẽ là thượng quý. Nếu can chi nạp âm toàn Thổ, trong Tứ trụ lại có chữ "Dần" thì gọi là Càn sơn, đây cũng là mệnh quý. Thổ sâu dày có thể chứa đựng vạn vật, là nơi vạn vật sinh sôi và phát triển, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa đều cần Thổ, bởi vậy nói cả 4 hành này đều cần dựa vào Thổ.


    42. NGŨ HÀNH TRONG MỆNH QUY VỀ TRUNG HÒA


    Phần này nhấn mạnh rằng Ngũ hành trong mệnh tốt nhất là quy về trung hòa, như vậy mới có thể được hưởng phúc trạch. Vận dụng Ngũ hành nhiều mà linh hoạt, hơn nữa hòa hợp trong mệnh cục là tốt nhất, nhiều thì thừa, ít thì thiếu, dù là khí hay số nếu thừa hay thiếu thì đều gây ra tai hoạ. Nhiều thì dìm xuống, mà ít thì nâng lên, cần làm cho trung hòa thì mới có thể thành phúc trạch. Thành công nên lui về ở ẩn, mà tương lai quý ở sự hưng thịnh. Ngũ hành tụ ở chỗ vượng, gọi là "thành công", Ngũ hành ở chỗ vượng, hơn nữa được nghỉ ngơi thì gọi là "lui về ở ẩn". Ngũ hành ở chỗ quan đới thai dưỡng, khí của nó không đủ hay không dồi dào thì gọi là "tương lai", bởi vậy nên có mẹ con tương sinh để tăng thêm khí, như vậy sẽ có được sự hưng thịnh và phấn chấn. Nếu thời gian xuất hiện Mộc không hợp, suy thì cành rời khỏi cây, tử thì khô héo. Kim quá vượng, thì sẽ động mà gây ra tai hoạ. Hỏa quá vượng thì tốt nhất nên dập tắt Hỏa, không dập tắt được Hỏa thì sẽ gây ra hoạ tự thiêu; Thủy quá tràn lan thì tốt nhất nên làm Thủy dừng lại, nếu không sẽ gặp hoạ chết chìm.


    43. QUAN HỆ NGŨ HÀNH SINH KHẮC CỦA MỆNH HỎA VÀ MỆNH THỦY


    Hành Hỏa trong Ngũ hành ở phương nam thỉ sẽ hoá thành sức nóng, nếu quá vượng thì thế Hỏa vô cùng mãnh liệt, sẽ thiêu trụi mọi thứ, tới vị trí Dậu, Hợi, do ở nơi âm nên sẽ thu lại sức mạnh, mà khiến vạn vật trở nên ấm áp. Thủy tới phương bắc sẽ hoá thành khí lạnh, nếu quá vượng thì sẽ giết chết vạn vật, tới vị trí Mão, Tỵ, do ở vào nơi dương, có thể tiêu tan giá lạnh, tiếp đến có thể khiến vạn vật sinh sôi. Ngoài ra còn có sinh mà không sinh, vượng mà không vượng, là mệnh cục “hung do cát trước”; còn có tử mà không tử, tuyệt mà không tuyệt, là mệnh cục “cát do hung trước”. Ví như Thủy gặp Mậu Thân Thổ chính là mệnh sinh mà không sinh, gặp Canh Tý Thổ chính là mệnh vượng mà không vượng, gặp mệnh này thì đa phần có rất nhiều thành tựu, song cuối cùng vẫn thất bại, là do quá vui mừng trước thành công nên lại gặp hoạ. Thủy gặp Quý Mão Kim là mệnh tử mà không tử; gặp Tân Tỵ Kim là mệnh tuyệt mà không tuyệt, đây chính là Ngũ hành khí tận được tái sinh nhờ đức của bố mẹ, gặp được vận này thì trong nguy có phúc, từ nghèo khổ, bần hàn trở nên giàu có, từ uốn cong trở nên duỗi thẳng. Nếu trong mệnh sinh vượng quá nhiều thì trong phúc có hoạ, tử tuyệt quá nhiều thì phúc không thể tới. Nếu tử tuyệt gặp sinh thì dù có xảy ra tai nạn vẫn tránh được, mệnh Hỏa có thể tránh đầu tiên, tiếp đến là mệnh Thủy và mệnh Thổ, Hoạ ở vào nơi tuyệt mà được Thổ thì gọi là “duệ” Thổ ở vào nơi tuyệt mà được Kim, là tử mà Không Vong, gọi là "vong hồn"; Kim tuyệt được Thủy thì gọi là "kế thể"; Thủy gặp tuyệt mà được Mộc thì tinh thần hưng phấn trở lại; Nếu Mộc gặp nơi tuyệt mà được Hỏa, Hỏa bốc cao thì Mộc sẽ hoá thành tro tàn, cuốn bay theo gió, bởi vậy Mộc gặp nơi tuyệt mà có Hỏa là mệnh hung. Mộc đại diện cho gan trong ngũ tạng của con người, đại diện cho mật trong lục phủ của con người, thấy Mộc tử là hung. Trong "Kinh" nói: mệnh Thổ gặp Hỏa thì dần dần phát triển, có lợi cho sinh mệnh; mệnh Thủy được Kim trợ giúp thì sẽ hưởng thọ cao; trong mệnh Kim nếu Kim quá nhiều thì cần Hỏa trợ giúp mới có thể thành danh; trong mệnh quá nhiều Mộc thì cần Kim trợ giúp, có thể khiến Mộc uốn cong hay thẳng tắp tuỳ ý. Thủy chảy không ngừng thì cần Thổ tới ngăn chặn. Hỏa quá nhiều, bốc cháy ngùn ngụt thì chỉ có Thủy mới giúp được. Dùng Ngũ hành đúng đắn thì dù có tương khắc vẫn được phúc khí, nếu dùng sai thì dù có tương sinh cũng sẽ gặp tai hoạ.


    44. NGŨ HÀNH TRONG MỆNH NHIỀU SẼ GÂY HẠI LẪN NHAU


    Phần này chủ yếu nói về Ngũ hành trong mệnh cục quá nhiều thì sẽ cản trở, tàn phá lẫn nhau. Chẳng hạn, Lộc vốn đại diện cho tước vị và bổng lộc, song trong mệnh nhiều thì sẽ khó khăn cả đời; Mã vốn đại diện cho hành động nhanh nhẹn, mau lẹ, song trong mệnh nhiều Mã thì lại bệnh tật triền miên, khó khăn chồng chất. Trong mệnh nhiều Ấn thì lại chủ cô độc, nhiều khố thì lại chủ trở ngại. Sinh vượng nhiều thì không có chốn trở về, tử tuyệt nhiều thì không có lúc nào sôi nổi. Ngũ hành trong mệnh cục cũng không thể quá thuần tuý, quá thương tổn lẫn nhau. Nếu là quý nhân Mà nhiều sẽ được thăng chức; còn người thường Mã nhiều thì cả đời vất vả, lận đận. Ngũ hành gặp phá thì cần xuất hiện thương hoạ, Ngũ hành gặp Không thì cần Không tận. Thứ mà mệnh hợp thì không thể phá hoại, thứ mà mệnh kỵ thì không thể ở nơi vượng; kỵ trước hợp sau trong cục mệnh là phúc khí, hợp trước kỵ sau là tai hoạ; Ngũ hành hợp nhiều không phát là tốt, Học đường nhiều thì lại không có thành tích gì; Quý nhân nhiều lại tự ti nhu nhược mà mất đi ý chí, Lộc Mã quá rõ lại không thể suy đoán là quý nhân; Quý nhân trong ngoài đầy đủ thì lại không thể suy luận là thường dân; Ngũ hành Tứ trụ đều là dương là người khẩu xà tâm Phật; Ngũ hành Tứ trụ đều là âm là người tâm địa nham hiểm. Trong mệnh có củng thì cần củng Mã, củng Lộc, củng Quý, củng phúc thần, còn không nên củng hình, cùng họa, củng Tuế, củng giờ. Âm dương Ngũ hành trong mệnh cục quý ở chỗ cân bằng và hòa hợp, mang bệnh thương thì cần có khắc chế.


    45. TAM KỲ VÀ TAM HỢP TRONG TỨ TRỤ


    Nếu Bính Tân, Nhâm Quý trong mệnh cục gặp Mậu Tuất là Mậu Thổ nắm quyền, mang hoạ sát thương và gặp trắc trở. Nếu Tứ trụ là Nhâm Tý, Bính Ngọ, Bính Ngọ, Nhâm Tý là Thủy Mộc hoạt bát, âm dương thuần tuý. Dù không có sự trợ giúp khác, cũng vẫn là người phi thường; nếu lại thêm sau đó lộ khí thì liều lĩnh không sợ gì, đại đức, khoan dung độ lượng, là bậc đại trượng phụ. Mão, Dậu là nơi mặt trời mọc và lặn; Tý, Ngọ là cung phân chia âm dương, nếu trong mệnh gặp được sẽ khiến con người không vững vàng, chắc chắn, Tuế vận gặp phải cũng tương tự như vậy. Tỵ, Hợi là hai cực âm dương, trời đất xoay chuyển, Dần, Thân là phương tam đình, trao đổi qua lại, nếu trong mệnh gặp được thì đa phần không thể ổn định. Sửu, Mùi chậm chạp, Thìn, Tuất nhanh chóng, trong mệnh gặp được thì sẽ khiến con người cố chấp, bảo thủ. Thìn, Tuất có khí mới có thể lập nên đại nghiệp. Người Bính Tý nếu Tứ trụ có Nhâm Dần là Nhâm nhập Bính gia, sẽ bị phá không tốt. Người Canh Tý nếu Tứ trụ gặp Canh Ngọ, là Ngũ Quỷ lâm môn; người Mậu Dần nếu Tứ trụ gặp Giáp Dần, Giáp khắc Mậu, Mậu Dần khắc Giáp Dần, là can chi nạp âm trên dưới không hòa hợp, trừ khi có phúc thần khác tới giúp thì mới có thể hưởng phúc. Người Quý Dậu nếu Tứ trụ gặp Mậu Dần, trong đó Mậu Thổ khắc Quý Thủy, lại thêm Kim khí bay về nơi tuyệt, kiếp sát nguyên thần ở bên trong thì trừ phi trong nguyệt lệnh có khí tú thì mới có ích, tuy nhiên về lâu về dài vẫn không tốt. Canh Ngọ, Đinh Dậu cùng vượng cùng phá, thuộc về "trong vượng có phá", không thể suy đoán toàn bộ là phúc. Người Kỳ Mùi, Tân Dậu tuy là Thực thần, song trở về nơi tử, cuối cùng vẫn không tốt. Người Ất Sửu, Ất Mùi, Canh Thìn, Canh Tuất gặp Mậu Dần thì cát, vận thế cũng sẽ cát. Trong "Kinh" nói: "Nếu được Canh Kim trợ giúp Mậu Dần, mong tuyệt không tuyệt thành có phúc". Ví như người Ất Mão gặp Mậu Dần hoặc người Mậu Dần gặp Ất Mão đều là mệnh rất tốt.


    46. MỆNH CÓ TAM KỲ VÀ TAM HỢP LÀ MỆNH CỰC TỐT


    “Đan dương thư”có nói: "Trong Tam Kỳ còn có hư thanh; trong tử tuyệt còn có sinh vượng". Có nghĩa là nếu tam hợp, Tam Kỳ không tương hợp với tháng thì không quý, chẳng hạn như Giáp, Mậu, Canh gặp Tý, Ngọ mới quý; Ất, Bính Đinh gặp Dần, Mão mới quý.Trong "Thiên nguyên biến hoá thư" nói: "Ất, Bính, Đinh hợp Dậu, Hợi thì xem nạp âm có liên quan với nhau hay không", còn nói: "Phàm là Tam Kỳ, tam hợp mang khí tú trong nguyệt lệnh thì có thể nhập cách cục quý, song cũng không tránh khỏi mệnh là con vợ bé hoặc là con nuôi, ở rể". Hơn nữa, phàm là trong mệnh gặp tam hợp,Tam Kỳ, mà trong năm lại không gặp, sinh vào tứ mạnh, lại gặp tháng, ngày giờ tứ trọng, tứ quý thì tứ trọng, tứ quý suy luận giống nhau; ngày, tháng mang thai hoán đổi cho nhau, mệnh này lại không có can hợp hoặc lục hợp, đều được gọi là "điệu Thái Tuế", mệnh này đa phán chủ phải tự lập, không được nhờ vào tổ tiên, không có ai giúp đỡ. Tuy nhiên lại thích hợp chuyển chỗ ở, lập thân nhờ vào bạn đời, mệnh quý lại được dựa dẫm nhiều mà thăng quan tiến chức, có chí tiến thủ. Hễ là người trong Tứ trụ có Tam Kỳ, tam hợp thì dù bản thân không phải là con nuôi hay con vợ lẽ thì sau này con cháu chắc chắn sẽ là con nuôi, con vợ lẽ hoặc con theo mẹ. "Cổ thư” nói: "Tam hợp và Tam Kỳ đẹp đẽ, sáng sủa, phong phú và dồi dào, không là con nuôi cũng là con theo mẹ" cũng chính là ý này.


    47. TIỀN NGŨ THẦN TRONG MỆNH TƯỢNG TRƯNG CHO TRẠCH XÁ


    Phần này đề cập tới Tiền ngũ thần trong mệnh lý tượng trưng cho trạch xá, nếu có khí hoặc có cát thần tới thì cho thấy gia trạch rất tốt, sẽ là gia đình lớn, quyền thế danh giá, con cháu vinh hoa phú quý, địa vị hiển hách. Nếu là người Giáp Thân, trạch xá tại Sửu, sinh tháng 12, được Thiên Ất quý thần tới nhà là cát. Nếu nơi ở không có khí hoặc có hung thần tới thì cho thấy gia trạch bị tổn hao, phá hoại, không hoàn chình, người này sẽ không giữ được gia sản của tổ tiên để lại. Nếu là người Canh Ngọ, trạch xá tại Hợi, tuần Giáp Tý, Hợi chính là ở nơi Không Vong, lại gặp Kiếp sát tới nhà là hung. Các trường hợp khác suy luận tương tự như vậy. Chi đứng sau mệnh một vị trí là phá trạch sát, nếu ở tại phá trạch sát thì cho thấy người này không được kế thừa sản nghiệp của tổ tiên hoặc phải chết nơi đất khách quê người. Còn cần xem trạch nạp âm, nếu tương sinh với nạp âm của mệnh chủ là cát, tương khắc với nạp âm của mệnh chủ có thể được gia trạch tốt; nạp âm của mệnh chủ khắc với nạp âm của trạch xá thì phá tài. Nếu Giáp Tý Kim lấy Kỷ Tỵ Mộc làm trạch xá, sinh vào tháng 2, thuộc trạch vượng, tuy là trạch tốt, song thân Kim lại khắc với trạch Mộc, nên về sau chắc chắn nhà cửa sẽ tan nát. Nếu Mậu Ngọ Hỏa lấy Quý Hợi Thủy làm trạch, sinh vào tháng 9, thuộc về trạch quan đới; sinh vào tháng 10, thuộc về trạch kiến; sinh vào tháng 11, thuộc về trạch vượng, lại thêm nạp âm của trạch khắc với nạp âm của mệnh chủ thì chắc chắn sẽ có gia trạch tốt. Nếu nạp âm của trạch sinh trong khắc vượng, có Quan tinh thì cát, không có Quan tinh thì hung. Mọi mệnh lộc tuy có hưu có vượng, song quan trọng vẫn là quan sát xem tình trạng của trạch ra sao để phán đoán cát hung. Thẩm Nghệ nói: "Trạch kỵ phạm phá". Nếu người Giáp Tý lấy Kỷ Tỵ làm trạch, nếu gặp Hợi thì trạch sẽ bị phá hoại, mệnh sẽ mỏng. Nếu gặp năm xung Thái Tuế thì cũng phạm phá, phải ở phương vị trưởng lão mới có thể đoán định. Người Bính Tý lấy Tân Tỵ Kim làm trạch, nếu gặp lưu niên Ất Hợi thì phạm phá, dù là mệnh tốt cũng cần chấn hưng, di động mới có thể ứng nghiệm.


    48. HẬU NGŨ THẦN TRONG MỆNH TƯỢNG TRƯNG CHO ĐIỀN VIÊN


    Hậu ngũ thần trong mệnh cục tượng trưng cho điền viên, nếu mệnh chủ ở vào nơi có khí, lại có phúc thần tới thì cho thấy ruộng vườn rộng mênh mông, nhà kho đầy ắp. Nếu là người Giáp Tý, điền viên tại Mùi, sinh vào tháng 6 thì Thổ nhận vượng khí, lại gặp Thiên Ất tới nhà là cát. Nếu ở nơi không có khí, lại có hung thần tới nhà thì cho thấy người này ruộng vườn ít ỏi, nhà kho trống rỗng. Nếu là người Mậu Tý, điền viên tại Quý Mùi, sinh vào tháng 6, tuần Giáp Thân, vừa hay Mùi ở vào nơi Không Vong, các trường hợp khác đều suy luận tương tự.


    49. THẦN SÁT TRONG MỆNH


    "Quỷ Cốc di văn" có nói: Mã vô hại (tức là mã không bị hình phá làm tổn hại), Lộc vô Quỷ (tức là lộc không bị Quỷ khắc), Thực vô Vong (tức là Thực thần không gặp phải sát Không Vong), chi hợp vô Nguyên (tức là chi hợp không gặp sát Nguyên thần), can hợp vô ách (tức là can hợp không phạm vào sáu ách), vượng vô Táng (tức là thân vượng không thể gặp Táng môn sát), suy vô Điếu (tức là thân suy yếu không gặp Điếu khách sát), thê vô Nhẫn (tức là cung vợ không gặp Dương Nhẫn sát),Tài vô Phi (tức là Tài tinh không gặp Phi Liêm sát), mạnh vô Cô (tức là sinh vào tháng mạnh - tháng đầu tiên của mỗi mùa, không phạm vào Cô Thần), quý vô Quả (tức là sinh vào tháng quý - tháng cuối của mỗi mùa, không phạm vào Quả Tú). Thân mạnh thì cần có Quỷ, Lộc nhiều thì cần có Quan. Cung chồng cần tươi sáng, thanh khiết không hỗn tạp thì cung vợ tất vượng. Cát thần cần hiện rõ, hung thần cần ẩn kín. Can chi không hòa hợp mà tắc không thông thì vợ chồng thất thời mà sinh hoạ hoạn. Tứ trụ chủ bản, Lộc Mã vãng lai, cần phân biệt là kiến hay là phá, có Thiên Ất Quý Nhân trợ giúp hay không, có tương xung với Đức hay không, tiếp đến phân biệt sang hèn. Có gốc mà không có mầm thì tuy thiếu thốn tiền bạc, song vẫn được ăn ngon mặc đẹp; bản thân khí tuyệt mà hoa sinh sôi, thì dù con cháu có thể thành danh, song cũng vẫn sống trong cảnh thiếu thốn, ăn uống đạm bạc Nếu được quý thần đương vị, các sát tàng phục, tam nguyên Thiên, Địa, Vận đều là vượng tướng thì không thể suy đoán chỉ theo thần sát. Dùng sát trong mệnh dựa vào Ngũ hành là chính, nếu Ngũ hành đắc địa, thì dù trong mệnh cục không hiện rõ sát quý thì cũng là mệnh quý, tuy có ác sát, song không gây hại gì; nếu Ngũ hành không đắc địa thì dù trong mệnh có cát sát trợ giúp, cũng sẽ không phát đạt dài lâu, sẽ chỉ giống như đoá hoa nở trong ngày đông lạnh giá mà thôi.


    50. GIÀU NGHÈO CÓ SỐ


    Nạp âm là quy luật vận hành của đất trời. Dịch Mã, Học đường trong mệnh lý cần ở vào chỗ trường sinh; Tài năng, quan chức cần ở vào nơi vượng tướng; văn chương, phú quý cần ở vào chỗ Ấn khố, nếu chúng ở vào nơi suy bại thì phúc khí trong mệnh sẽ giảm đi 1/3; nếu ở vào nơi tử tuyệt thì giảm đi một nửa. Quan trọng nhất là kỵ có sát Không Vong tới xung khắc và hình hại chiếm đoạt Thực thần. Bởi vậy nói, cùng nguồn gốc có thể tương thành thì trời đất giao hòa, gốc rễ và bản thân đều tráng kiện; cùng loại tương thương thì chi thần tán khí, không thể tái hợp. Quản Lộ nói: "Nếu Ngũ hành đều vượng, tuy phạm xung song khí vẫn toàn vẹn; nếu Ngũ hành tương khắc, tuy tương hợp song khí lại phân tán", cũng chính là đạo lý này.


    Có người hỏi rằng: "Đời người có khởi đầu, có kết thúc, có công danh phú quý. Vậy thì vì sao mỗi người lại có số phận khác nhau? Có người đột nhiên phát đạt, bỗng dưng trở nên giàu có; có người khởi đầu và kết thúc đều xấu, mà ở giữa lại rất tốt; có người nửa đời người đầu thì gặp khó khăn gian khổ, mà nửa đời người sau lại rất thành công". Xin trả lời rằng: "Tất cả đều là vì mệnh cục. Người phú quý cả đời là do thân trong Tứ trụ chủ rất vượng, luôn dùng cát thần, hoặc Quan tinh, Ấn tinh, Tài, Thực đều mang Lộc đắc lệnh, không thiên lệch không khuất lấp, cũng không có hình xung khắc hại, hễ ra khỏi cửa thì đều gặp may mắn, bởi vậy có thể thành tài, làm nên kỳ tích, có thể kế tục cơ nghiệp của người đi trước, xây dựng nên công danh cho bản thân, hơn nữa sẽ không gây ra chuyện thị phi, không bị làm tổn hại. Người có thể duy trì phú quý cả đời là vì có mệnh sinh vượng, thứ gì cần cũng có. Có người đột nhiên phát đạt, trở nên giàu có, là vì dùng được mọi quý thần trong Tứ trụ, nhận được vượng khí, hơn nữa lại hợp cách, song nhật chủ vô lực, không thể gánh vác nổi phúc cho người này, bởi vậy cả đời nghèo khổ, rơi vào khó khăn, đột nhiên gặp được mệnh tốt thì can ngày trở nên có sức mạnh, lúc này nguyên mệnh dụng thần mới là thứ mà người này cần, người này sẽ dựa vào đó để trỗi dậy, phút chốc đã trở nên phú quý. Đây là thiên khí hài hòa, suy khí cũng gặp được chốn vượng, bởi vậy gặp cát mà phát, trước sau khác biệt rất xa. Cũng có nhật chủ cường vượng, Ngũ hành thần sát thuần khiết không hỗn tạp, song vốn không có chế phục nên khó mà phú quý. Chỉ khi có vận tới chế phục, Sát thần hoá quyền bính thì mới công thành danh toại, tài giỏi xuất chúng. Còn có chế thần sức vượng, phát phúc phi thường, bởi vậy có thể đột nhiên hưng thịnh. Từ bần hàn tới cực phẩm đều là do hành vận đắc địa, mới có thể được hưng vượng, nếu vận không đến thì sẽ là người bình thường. Người có khởi đầu và kết thúc phát đạt mà ở giữa lại tăm tối, đó là vì nhật chủ chủ kiện vượng, dụng thần cũng vượng, hai bên tương đương, sẽ là người con tài giỏi sinh trong nhà quyền quý, lớn lên lập nghiệp, cần gặp Cát tinh, nếu Đại vận tới nguyên mệnh, gặp Tài mà cướp Tài, gặp Quan sẽ làm tổn Thương Quan, gặp Ấn mà phá Ấn, gặp Thực thần mà giết Thực thần thì gặp hoạ nhiều không kể xiết, bởi vậy, người mệnh này gặp năm thịnh thường bị thụt lùi, không thể phát đạt; Nếu vận ác vừa qua đi, lại gặp vận tốt trợ giúp thì sẽ có dụng thần mới, sẽ giống như là mầm cây héo khô gặp mưa rơi, bừng bừng trỗi dậy; hồng mao gặp gió, tung bay khắp nơi, thịnh vượng không thể khống chế. Còn có người nửa đời người đầu khó khăn, nghèo khổ, nửa đời sau lại rất thành công, là vì thân trong Tứ trụ mạnh mẽ, Dương Nhẫn và Tỷ Kiên lại tranh vượng, Tài, Quan, Sát thần đều hư vô, suy yếu, không có sức mạnh khiến mệnh chủ thành công. Ra khỏi cửa vận hành lại không ở nơi phúc, bởi vậy cả đời cơ cực, lao động vất vả mà chẳng được là bao, tới cuối đời, đột nhiên gặp vận tốt trợ giúp, Tài, Quan, Sát thần đang suy yếu được bổ sung, lại mượn Sát làm quyền, chế phục Dương Nhẫn, lúc này hoặc có được quyền quý mà ngẩng cao đầu, hoặc có được tiền của mà phát phúc". Còn phán đoán như thế nào thì cần tuân thủ theo sự trong đục của Ngũ hành, lần lượt đoán định dựa vào từng mệnh gặp phải. Giàu nghèo có số, phú quý tại trời, đến cả Khổng Tử cũng từng nói như vậy, lẽ nào trí tuệ của con người có thể làm thay đổi được đạo lý này?


    51. MỆNH CỤC HƯNG VONG SINH TỬ CỦA CON NGƯỜI


    Từng có người hỏi hưng vong sinh tử của con người là thế nào? Xin trả lời rằng: Phàm là trong mệnh cục có Sát là dụng thần, Sát thần không được chế phục là người vô cùng nghèo khổ. Cũng có người trở thành phú ông giàu có bậc nhất, song cần gặp vận chế phục, mượn Sát để hưng thịnh, dù thế nào cũng không thể thoát khỏi chế phục. Đại vận vừa gặp chốn Tài, do Tài có thế kết hợp với Sát, lại gặp lưu niên thì Tài Sát sẽ hỗ trợ lẫn nhau, hợp lực trở thành hoạ hoạn. Người này nhất định phải sống cô đơn, nghèo khổ. Khắc hại nhẹ thì khuynh gia bại sản, bị hình phạt lưu đày; khắc hại nặng thì sẽ chết nơi đất khách quê người, bị hành hình đến chết. Nếu Sát thần gặp hợp thì cũng sẽ gây ra hung như vậy. Vận gặp Dương Nhẫn, suy đoán giống như Sát thần, lại có thêm Nguyệt lệnh trong trụ có chính khí Quan tinh thì cho thấy cả đời phú quý, chỉ có gặp Tài tinh, Ấn tinh mới có lợi. Quan tinh thích hợp sinh ở nơi Tài vượng, được Ấn vượng bảo vệ. Nếu Quan tinh có Tài tinh tương sinh, Ấn tinh tương hộ, thì sẽ hành nhân nghĩa, ban ân đức, trị vì đất nước, quyền trọng tước cao. Nếu Sát thần đắc vị, Thái Tuế và Sát thần cùng tới, Quan hoá thành Quỷ thì sẽ mất mạng. Có Quan mà không hành Sát vận hoặc hành Thương Quan vận, lại không có Ấn Thụ chế phục sẽ khiến Thương Quan đắc địa, quý lộc bị tổn thương, đây là mệnh giết vợ khắc con, mất chức tước, gặp tai nạn; Nếu lại gặp lưu niên cùng kết đảng thì người này sẽ phải chết thảm. Nếu học thức uyên thâm, biết được điểm mấu chốt của tiến thoái tồn vong thì có thể bảo vệ được thân thể, dù không gặp hoạ chết bất ngờ, thì cũng sẽ chết vì bệnh tật không chữa trị nổi. Còn có người dụng thần trong Tứ trụ không Quan, không Sát, không có khí, chỉ có Thiên Tài, Chính Tài ở nơi đất vượng, đây là Tài thần đương đạo, có thể duy trì sự hưng vượng dài lâu, tích tụ được rất nhiều của cải. Tuy nhiên ít có quan cao lộc dày, còn cần xem hành vận ra sao. Nếu gặp Quan, Lộc ở vào nơi vượng là người phú quý song toàn; nếu gặp bất hạnh, trong mệnh cục không thấy Tài thần mà lại gặp Dương Nhẫn, lại thêm lưu niên xung hợp Dương Nhẫn thì Tài thần tổn thương, Nguyên mệnh suy tuyệt, do Dương Nhẫn mà sinh tai hoạ thì chắc chắn bại vong. Là sinh hay là tử thì cần xem cách cục, nếu Ấn Thụ gặp Tài, lại hành Tài vận, có thêm tử tuyệt thì chắc chắn về nơi suối vàng. Nếu trong Tứ trụ có Tỷ Kiên thì may ra sẽ được hoá giải. Nếu Chính Quan gặp sát tinh và Thương Quan tới hình, xung, phá, hại, Tuế vận lại tới xung hợp chắc chắn sẽ chết. Nếu cách cục của Thương Quan, Tài vượng thân yếu, Quan sát hỗn loạn tới xung Dương Nhẫn, Tuế vận lại gặp xung thì sẽ phải chết. Nếu có chế phục thì sẽ gặp hoạ thương tích. Nếu trong mệnh cục có củng Lộc, củng Quý, điền thực, lại gặp Quan sát, Kiếp vong xung Nhẫn, nếu Tuế vận lại gặp lần nữa thì sẽ tử vong. Cách cục Nhật Lộc quy thời gặp phải hình xung phá hại, gặp Thất Sát, Quan tinh, Không Vong xung Nhẫn thì chắc chắn tử vong. Sát Quan đặc biệt kỵ Tuế vận hợp, nếu hợp thì sẽ chết. Mệnh cách còn lại đều kỵ Sát thần và điền thực, nếu Tuế vận cùng tới thì chắc chắn sẽ chết. Nếu gặp hung thần ác sát, như Câu Giảo, Nguyên thần, Vong thần, Kiếp sát, Điếu khách, mộ, bệnh, tử là "một phần sống, 9 phần chết". Tài tinh và Quan tinh quá nhiều, thân yếu; Nguyên mệnh phạm Thất Sát, thân nhẹ, như một người có can ngày là Bính Đinh, giờ, tháng, năm Canh Tân gặp vận Dậu hoặc năm Canh Tân thì chắc chắn sẽ tử vong; hay như một người có can Giáp Ất, giờ, tháng Canh Tân đan xen, lưu niên và đại vận gặp Canh Tân thì cũng sẽ phải chết. Nếu được cứu là cát, không được cứu thì hung. Thần sát trong Ngũ hành nhiều Kim thì cho thấy chết yểu, nhiều Thủy thì cho thấy lang thang, phiêu bạt, nhiều Mộc thì cho thấy chết yểu, nhiều Thổ thì cho thấy đần độn, nhiều Hỏa cho thấy ngu ngốc, gàn dở. Nếu quá nhiều hoặc quá ít thì khi vận dụng suy đoán cần nhớ kỹ: thứ nhất, không thể câu nệ cố chấp, không biết ứng biến linh hoạt; thứ hai, cần mạnh dạn quyết đoán. Sinh tử của một người rõ ràng quyết định ở sinh tử của Ngũ hành, ví như ngày Nhâm sinh vào tháng 12, hành vận Thân, tức tử; sinh vào tháng 7, hành vận Mão tức tử. Đây là "gặp sinh sợ tử, đã tử sợ sinh", tạo hoá tự nhiên cũng giống như con người và sự vật, cần kết hợp lại để phân tích kỹ lưỡng.


    52. SINH TỬ CỦA ĐỜI NGƯỜI ĐỀU ĐÃ ĐƯỢC ĐỊNH TRƯỚC


    Từng nghe nói rằng việc sinh tử của đời người đã được định trước vào giờ, ngày, tháng, năm cụ thể. Dưới đây là một số ví dụ cho thấy rõ: Trương Dịch Kim người Định Hưng, vào giữa mùa thu năm Khang Hy thứ 2, do con dâu sắp sửa lâm bồn nên đã tới chùa Linh Bảo Tuyền cầu thần khấn Phật phù hộ, trong mơ ông lần lượt gặp chó vàng, gà ngọc, dê vàng, chó xanh, sau này sinh ra Dũng Cửu Hoài Vương, Bát tự quả thật là Mậu Tuất, Tân Dậu, Kỷ Mùi, Giáp Tuất. Cháu chín đời của Hoài Vương là Ung Thất Công tướng, cũng coi bói về việc sinh con nối dõi tại miếu Giang Văn Thông. Đầu tiên mơ thấy chó đỏ mệt mỏi, rồi thấy chó vàng béo tốt ở bên đường, tiếp đến nhìn thấy ngựa trắng đứng ở bên trái gốc cây. Lại nhìn thấy lợn đỏ cắn đuôi chó chui xuống đất trên nhà, Công tướng tự mình suy đoán vào năm Bính Tuất, tháng Mậu Tuất, ngày Canh Ngọ, giờ Đinh Hợi, lúc nửa đêm sau ngày sóc (mồng một) lúc cuối thu, niên hiệu Thành Hoá, sẽ sinh con trai, quả nhiên linh nghiệm. Còn có Nguyên Văn Thức Ngũ Sư, sinh vào giờ Nhâm Ngọ Thân, ngày 17 tháng 1, tuổi Đinh Mùi, vào ngày nguyên đán Kỷ Mùi năm Hồng Vũ đời Minh, mơ thấy dê vàng húc sừng 73 lần, đến lúc đó quả nhiên qua đời. Con trai ông là Thức Kính Trù Lục Lão, mơ thấy nhiều thỏ trắng vào trong nhà, vào rạng sáng ngày Giáp Thìn tháng 8 năm thứ 11 Thuận Đế sinh ra Thục Chính, xem trong Tứ trụ của hai người, đều có Tân Mão. Người đời sau viết rằng: "Lịch châu truy ức cổ nhân tâm; Ngưỡng chỉ cao sơn trực đáo kim. Hoản thố lưỡng song sinh mộng triệu; Tứ trùng Tân Mão hựu phùng âm" (Lịch quay vòng tưởng nhớ cái tâm của cổ nhân, như núi cao tôn kính đến tận ngày nay. Hai đôi thỏ sinh ra điềm mộng; bốn tầng Tân Mão lại gặp âm). Còn gà trắng, chuột vàng ứng với Tân Dậu, Canh Tý, gà trắng ở vị trí hướng tây, gặp Thái Tuế là dấu hiệu không tốt. Từ những ví dụ ở trên có thể thấy, sinh tử của con người đều được định trước. Như Doãn Tử mơ thấy Tỵ là hiển đạt, mơ thấy Ngọ là tai ách, mơ thấy Dần thì diệt, sau thấy rắn vào hang, nhặt được vàng, ngã ngựa, hổ cắn, đều rất ứng nghiệm. Hiếu Giới Kinh Tam mơ thấy con đường rộng lớn, gặp đối cục Ất Tỵ, đến năm Thành Hoá thứ 11, gặp được can chi này, lên lão thọ, đến ngày rằm tháng tư, thăng làm Nghi Nghĩa lang. Tôn Càn Phụ cũng có giấc mộc tương tự, đến tháng 5 năm Ất Tỵ năm Chính Đức thứ tư, thăng làm Vệ hầu. Xưa có người cầu xin báo mộng về điềm sinh con tại miếu Thổ địa, được thơ rằng: "Khuyển dương phụ mẫu Thanh Long tử; Xích mã hoàng cẩu dữ bạch kê; Tôn hổ tằng đồng ông thuộc tiêu; Bính long nhất khí ứng đa tề" (cha mẹ chó dê con rồng xanh; ngựa đỏ chó vàng và gà trắng. Cháu hổ có cùng con giáp với ông; Bính một khí hưng vượng đều ngang nhau). Người giải mộng đoán rằng, con trưởng sinh năm Giáp Thìn, con thứ hai sinh năm Bính Ngọ, con thứ ba sinh năm Mậu Ngọ, con út sinh năm Tân Dậu, cháu trưởng sinh năm Dần, chắt sinh năm Bính Tuất, sau đều ứng nghiệm. Toàn gia từ ông, cha, cháu, chắt, sinh ra đều đã định trước. Lại có người cầu tự trong miếu, thần ban cho bài thơ rằng: "Tả long hữu hổ xích đồng phương; Chỉ phạ viêm hầu cập mộc dương. Tam thập bát niên sinh tử cách; Phong vân tế hội tổng vô thường" (Trái rồng phải hổ cùng phương với đỏ; chỉ sợ khỉ Hoả và dê Mộc. Ba mươi tám năm cách biệt sinh tử; hội phong vân chỉ là vô thường). Sau năm, tháng, ngày, giờ sinh và mất đều ứng nghiệm. Người xưa nói từ việc ăn uống, không gì không phải là tiền định, huống chi là công danh, sinh tử, con cháu. Nếu không biết mệnh và mong cầu xa vời, chắc chắn sẽ thành trò cười cho Quỷ thần.
     
  10. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Thực thần cách:

    . Cách cục thành công của cách là:
    1. Nhật nguyên cường, Thực thần cũng cường, lại gặp phải Tài tinh.
    2. Nhật nguyên cường, Sát quá mạnh, Thực thần chế ngự Thất sát nhưng không nên có Tài tinh, nếu có phải yếu đuối thì không sao.
    3. Nhật nguyên yếu, Thực thần mạnh, có Ấn sinh Nhật nguyên.

    Trường hợp cách cục bị phá hoại khi gặp 1 trong những trường hợp sau:

    1. Nhật nguyên cường, Thực thần yếu, lại gặp Phiến Ấn.
    2. Nhật nguyên yếu, có Thực mạnh lại có Tài tinh tác lộ Thất Sát.
    3. Gặp phải Hình, Xung, Hại. Khi gặp những trường hợp sau thì thái quá (quá nhiều):

    1. Thực, Thương nhiều và mạnh, Nhật yếu, không có Ấn lại có Tài mạnh.
    2. Nhật cường, Sát yếu, Thực, Thương mạnh, chế Sát thái quá lại không có Tài tinh. Khi gặp những trường hợp sau thì bất cập (thiếu thốn):

    1. Ấn mạnh Nhật nguyên yếu.
    2. Nhật nguyên yếu Tài Quan nhiều.

    VẬN HẠN:

    1. Nhật nguyên yếu, nhiều Quan, Sát nên lấy Ấn làm Dụng thần. Hạn gặp Ấn, Tỷ là vận tốt. Gặp Tài, Quan, Sát là vận xấu.

    2. Nhật nguyên yếu, Tài tinh nhiều nên lấy Tỷ, Kiếp làm Dụng thần. Hạn gặp Ấn, Tỷ, Kiếp là vận tốt. Gặp Thương, Tài, Quan, Sát là vận xấu.

    3. Nhật nguyên yếu, Thương, Thực quá mạnh nên lấy Ấn làm Dụng thần. Hạn gặp Quan, Ấn là vận tốt. Gặp Thương, Thực là vận xấu.

    4. Nhật nguyên cường mạnh, Ấn nhiều nên lấy Tài làm Dụng thần. Hạn gặp Thương, Thực, Tài là vận tốt. Gặp Ấn, Tỷ, Kiếp là vận xấu.

    5. Nhật nguyên mạnh, Tỷ, Kiếp nhiều nên lấy Thực, Thương làm Dụng thần. Hạn gặp Thực, Thương là vận tốt. Gặp Ấn, Tỷ, Kiếp là vận xấu.

    6. Nhật nguyên mạnh, Tài nhiều nên lấy Quan, Sát làm Dụng thần. Hạn gặp Quan, Sát là vận tốt. Gặp Ấn, Tỷ, Kiếp là vận xấu.

    Mệnh thuỷ sinh tháng thìn, tuất, sửu, mùi là thổ khắc thuỷ. Tượng cha mẹ không vẹn toàn mà phần nhiều là cha mất sớm hoặc xa cách cha tu*` lúc còn nhỏ tuổi.

    Hoa cái gặp chính ấn ở vận vượng: quan tước cao, quyền vị lớn.


    Trụ tháng có chính quan (quan) là em trai trên có anh chị đựợc bố mẹ nuông chiều, một đời ít vất vả.

    Kỵ năm hoặc giờ can có thương quan thì khắc tổn tuy hiên nếu có chính tài hoặc thiên tài, hay chính ấn thì có thể giải được.

    Ngoài ra nếu chính quan tọa tướng tinh thì song thân quyền quý hiển đạt; là người chính trực đôn hậu


    Tử chủ: lao khổ, không quyết đoán, bệnh hoạn, không có khí phách, khốn ách, vợ chồng chia lìa. Trụ năm có Tử, xa cách cha mẹ



    Mộ chủ: xa gia đình, suy bại, duyên phận bạc bẽo, bần hàn, lo buồn, lao khổ. Trụ tháng có Mộ, cha mẹ, anh em vợ chồng bất hòa, hao tài tốn của; Nếu có chi ngày và tháng xung nhau thì sinh con nhà giàu, được hưỡng của cha ông để lại. Mộ là chổ chôn cất chứa giấu đi, tứ trụ có chi hình xung, với chi cột an mộ, Mộ sẻ dùng được. Trong trường hợp không có chi hình xung, gặp Tài là người keo bẩn, coi đồng tiền hơn cả tính mệnh, lúc nào cũng bo bo giữ lấy tiền, suốt đời là đầy tớ của tiền của, không dám ăn tiêu.



    Dưỡng chủ: khắc vợ con, ham sắc dục, làm con nuôi, xa gia đình. Trụ ngày có Dưỡng, khắc cha mẹ, không sống chung với cha mẹ, hiếu sắc, ít khi một vợ, 1 chồng, hiếm con, khắc vợ, được người ngoài nuôi dưỡng hay làm con nuôi ngay từ bé, thì tốt. Riêng nữ mệnh cột ngày có Dưỡng, có Trường sinh ở kế thì con cái tốt. Nếu sinh ngày Canh Thìn thì xấu, hại chồng.
    Đế vượng chủ: thịnh vượng, lớn mạnh, độc lập, đi một mình, làm chủ, quyền uy, danh vọng, mưu trí, tài học, hay đi. Cột giờ thì con cái có danh vọng.

    Trụ tháng gặp quan tinh là anh em quý trọng nhau.
     
  11. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    Thập Can có mười chữ là: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Mỗi chữ hiện ra hợp với vận mạng tốt xấu, sang, hèn v.v… của mỗi người Nam và Nữ.
    CHỮ GIÁP
    (Giáp Tý, Giáp Tuất, Giáp Thân, Giáp Ngọ, Giáp Thìn, Giáp Dần)

    Nhân sinh Giáp tự biến thành Điền,
    Phú quí vinh hoa thực lộc thiên.
    Phụ mẫu huynh đệ tha biệt sở,
    Phu thê nhị đại hậu song toàn.

    Chữ Giáp số có đất điền,
    Bằng không cũng hưởng lộc tài tự nhiên.
    Anh em nào có cậy trông,
    Tha phương lập nghiệp mà nên cửa nhà.
    Vợ chồng thay đổi nhiều lần,
    Trai thay đổi vợ, gái thay đổi chồng.
    Cho hay duyên số tại trời,
    Khá làm âm đức, phúc dành hậu lai.
    Số này tuổi nhỏ tay không,
    Lớn lên có của,vợ chồng làm nên.

    ẤT
    (Ất Hợi, Ất Dậu, Ất Mùi, Ất Tỵ, Ất Mão, Ất Sửu)

    Nhân sinh Ất tự biến thành Vong,
    Gia thất tiền tài tất thị không.
    Lục súc tị phiền du vong bại,
    Phu thê biến cải định nan phùng.

    Người sinh chữ Ất gian nan,
    Lắm khi dào dạt, lắm lần tay không.
    Nuôi vật, vật cũng tang thương,
    Ở cùng bậu bạn chẳng phần đặng yên.
    Vợ chồng thay đổi lương duyên,
    Trai thay đổi vợ, gái thay đổi chồng.
    Số này sớm cách quê hương,
    Ra ngoài lập nghiệp mới nên cửa nhà.
    Cho nên số ở Thiên tào,
    Người hiền lận đận, tuổi già nhờ con.

    CHỮ BÍNH
    (Bính Dần, Bính Tý, Bính Tuất, Bính Thân, Bính Ngọ, Bính Thìn)

    Nhân sinh Bính tự biến thành Tù,
    Lxo thiểu vô an hạn bất chu.
    Sở hữu ngoại nhân y hữu định,
    Thân cư quan quỉ bá niên trường.

    Chữ Bính số cũng quạnh hiu,
    Người sinh chữ ấy trọn đời âu lo.
    Tuổi nhỏ bịnh hoạn ốm đau,
    Lớn tuổi cô quạnh một mình thảm thương.
    Số này lập nghiệp tha phương,
    Có chí tu niệm kính tin Phật Trời.
    Nếu mà giữ dạ hiền lương,
    Tuổi già sẽ được lộc tài tự nhiên.
    Những người có chí thiện nhân,
    Có khi lao khổ, có ngày thảnh thơi.

    CHỮ ĐINH
    (Đinh Mão, Đinh Sửu, Đinh Hợi, Đinh Dậu, Đinh Mùi, Đinh Tỵ)

    Nhân sinh Đinh tự biến thành Du,
    Gia thất tiền tài thường đảo lộn.
    Thiếu niên lao khổ uổng công phu,
    Trung vận trùng lai phú đắc vinh.

    Chữ Đinh biến thành chữ Du,
    Số nhỏ tật bịnh ốm đau thường thường.
    Lắm lần tai nạn thảm thương.
    Nhờ có hồng phúc Phật Trời chở che.
    Lớn lên thông tuệ khác thường,
    Có quyền có chức, có tài tự nhiên.
    Có chí sáng tác mọi ngành,
    Có tài có đức cầm quyền điểm binh.
    Xét xem qua số nợ duyên,
    Trai đôi ba vợ, gái thì truân chuyên.
    Nết na, đức hạnh dung hòa,
    Nhưng mà cũng chịu vui chiều buồn mai.
    Cho hay căn số tự Trời,
    Duyên đầu lỡ dở, hiệp hòa duyên sau.
    Có căn tích thiện tu nhân,
    Tuổi già chung hưởng lộc tài ấm no.

    CHỮ MẬU
    (Mậu Thìn, Mậu Tý, Mậu Tuất, Mậu Thân, Mậu Ngọ, Mậu Dần)

    Nhân sinh Mậu tự biến thành Quả,
    Phiêu phất tha phương định thất gia.
    Cô độc một thân không chỗ định,
    Hành thân phảm mại lạc ngâm nga.

    Chữ Mậu cô quạnh tha phương,
    Lìa nhà, lìa xứ, lắm lần gian nan.
    Anh em ruột thịt chẳng hòa,
    Tha phương bậu bạn chỉ nhờ người dưng.
    Gái thì lận đận lương duyên,
    Khi thì vui vẻ, khi tan nát lòng.
    Đôi lần mới dặng thành song,
    Tuổi trẻ lao khổ, tuổi già nhờ con.
    Tính hay tích thiện từ hòa,
    Tin Trời tưởng Phật, lòng hằng ái tha.
    Những ai có chí tu nhân,
    Tuy rằng hoạn nạn, phúc còn hậu lai.

    CHỮ KỶ
    (Kỷ Ty, Kỷ Mão. Kỷ Sửu, Kỷ Hợi, Kỷ Dậu, Kỷ Mùi)

    Nhân sinh Kỷ tự biến thành Ân,
    Gia thất tiền tài mạng giàu sang.
    Gia sự đa tài, sinh con thảo,
    Hữu thời tấn thối tợ phi vân.

    Chữ Kỷ biến thành chữ Ân,
    Tính tành mau mắn, làm ơn cho người.
    Tấm lòng trung trực vẹn bề,
    Làm ơn nên oán nhiều lần lo toan.
    Của, con có sẵn tuổi già,
    Tuổi trẻ lao khổ, tha phương lập thành.
    Nhiều khi tụ tán như sương,
    Khi ăn chẳng hết, lúc thì tay không.
    Nợ duyên tan vỡ buồn lòng,
    Đôi lần ly hiệp mới nên gia đình.
    Khá nên tích thiện tu thân,
    Tuổi già sẽ thấy môn đình sum vinh.

    CHỮ CANH
    (Canh Ngọ, Canh Thìn, Canh Dần, Canh Tý, Canh Tuất, Canh Thân)

    Nhân sinh Canh tự biến thành Cô,
    Số ấn công hầu lưu đất khách.
    Gia thất gây nên thừa tổ đức,
    Phúc tài tái tận mãi vinh hoa.

    Chữ Canh biến thành chữ Cô,
    Số ấn công hầu nên danh phận.
    Bằng không thì cũng lắm nghề khép thay.
    Vợ chồng cách trở sơn xuyên,
    Đôi lần ly hiệp mới nên cửa nhà.
    Gái thì hiu quạnh muộn màng,
    Bằng không thì cũng đôi lần mới nên.
    Số này tu niệm thì hay,
    Hậu lai sẽ hưởng phúc dày lộc cao.
    Có đâu thiên vị người nào,
    Số cao thì hưởng lộc tài tự nhiên.

    CHỮ TÂN
    (Tân Mùi, Tân Tỵ, Tân Mão, Tân Sửu, Tân Hợi, Tân Dậu)

    Nhân sinh Tân tự biến thành Tan,
    Tính khí hiền lương, lập nghiệp nan.
    Phu phụ nhất tâm lưỡng nhân thú,
    Bằng hữu cự tộc rất vinh quang.

    Chữ Tân biến thành chữ Tan,
    GHia đình dời đổi đắng cay muôn vàn.
    Một thân tự lập mà nên,
    Tha phương lắm độ, phong sương hải tần.
    Lương duyên thay đổi đôi lần,
    Tuổi già phú túc miên miên thọ trường.
    Những người có chí thiện nhân,
    Trời dành hậu quả hưởng nhờ phúc dư.

    CHỮ NHÂM
    (Nhâm Thân, Nhâm Ngọ, Nhâm Thìn, Nhâm Dần, Nhâm Tý, Nhân Tuất)

    Nhân sinh Nhâm tự biến thành Vương,
    Thân thọ mạng trường thiên số chung.
    Tị hiểm hung đồ tha biệt sở,
    Thân cư quan quí hậu an khương.

    Chữ Nhâm biến thành cữ Vương,
    Thân thì thọ số, mạng thì vinh sang.
    Có lần cách trở gia hương.
    Xứ xa lập nghiệp, vinh sang ai bì.
    Số này tổ nghiệp không nhờ,
    Thân lưu đất khách lập nên cơ đồ.
    Trai thì vợ đôi vợ ba,
    Gái thì số cũng đôi lần mới nên.
    Khá nên tích đức thiện nhân,
    Hậu lai sẽ hưởng phúc trời ấm no.

    CHỮ QUÝ
    (Quý Dậu, Quý Sửu, Quý Tỵ, Quý Hợi, Quí Mùi, Quý Mão)

    Nhân sinh Quý tự biến thành Thiên,
    Tiền hậu phu thê lộc y nhiên.
    Chức phận văn chương đa phú quí.
    Trí huệ vinh hoa hưởng thọ trường.

    Chữ Quý biến thành chữ Thiên,
    Trai thời chức phận, gái thời chính chuyên.
    Số này cũng có đất điền,
    Gia môn phú quí thọ trường bền lâu.
    Vợ chồng hòa thuận đủ điều,
    Khi ra phong nhã, khi vào hào hoa.
    Nếu mà tích thiện tu thêm,
    Ngày sau con cháu miên miên cửu trường.​
     
    thuyhakt and Hận Tiền like this.
  12. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    Hành Mộc bất cập được gọi là Ủy Hòa, nghĩa là thiếu khí ôn hòa sẽ làm cho vạn vật rũ rượi, không phấn chấn.

    Hành Hỏa bất cập được gọi là Phục Minh, nghĩa là thiếu khí ấm áp làm cho vạn vật ảm đạm, không sáng.

    Hành Thổ bất cập gọi là Ty Giám, nghĩa là không có khí hóa sinh, sẽ làm cho vạn vật yếu ớt, không có sức.

    Hành Kim bất cập gọi là Tòng Cách, nghĩa là không có khí thu liễm, làm cho vạn vật trở nên mềm giãn, không có sức đàn hồi.

    Hành Thủy bất cập gọi là Hạc Lưu, nghĩa là không có khí phong tàng dấu kín, làm cho vạn vật bị khô queo.

    Hành Mộc thái quá thì gọi là Phát Sinh, do sự khuếch tán khí ôn hòa quá sớm, làm cho vạn vật sớm phát dục.

    Hành Hỏa thái quá gọi là Hách Hy, do khuếch tán hỏa khí mãnh liệt, làm cho vạn vật nóng nảy chẳng yên.

    Hành Thổ thái quá gọi là Ðơn Phụ, do có khí nồng hậu rắn chắc, làm cho vạn vật không thể thành hình.

    Hành Kim thái quá gọi là Kiên Thành, do có khí cứng cỏi làm cho vạn vật ngay thẳng, không có sức nhu nhuyễn.

    Hành Thủy thái quá gọi là Lưu Diễn, do có khí đầy tràn làm cho vạn vật phiêu lưu không thể về chỗ.
     
    Hận Tiền thích bài này.
  13. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    Phần III-Các sao trong Tử Vi



    3.1. Nhận xét chung
    Dựa vào cách an sao của Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư của Trần Đoàn thì số lượng sao trong Tử Vi chỉ có 85 sao. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu vẫn chọn ra một số sao của các môn phái khác đã nghiệm chứng rất đúng lại có cả các câu phú bổ sung, chứng tỏ được người ta thừa nhận rất lâu như: ĐÀO HOA, KIẾP SÁT, CÔ THẦN, QUẢ TÚ, LƯU HÀ, ÂN QUANG, THIÊN QUÝ, THIÊN LA, ĐỊA VÕNG.
    Trong phạm vi của tài liệu này, chúng ta sẽ nghiên cứu 93 sao. Ngoài ra còn có các nhóm an 104 sao, 110 sao đến cả 150 cũng có tuy nhiên chúng ta không xem xét.
    3.2. Các sao của Tử Vi trong phạm vi nghiên cứu
    Về cơ bản trong Tử Vi các sao được chia ra thành các Vòng, bộ và nhóm sao như sau:
    Vòng TỬ VI tinh hệ gồm: 6 sao;
    Vòng THIÊN PHỦ tinh hệ gồm: 8 sao;
    Vòng THÁI TUẾ gồm: 5 sao;
    Vòng LỘC TỒN gồm: 5 sao;
    Vòng BÁC SỸ gồm: 12 sao;
    Vòng TRƯỜNG SINH gồm 12 sao;
    Ngoài ra là các sao được an cố định theo Can, Chi, Ngày, Tháng, Giờ khác được tổng hợp trong “Bảng 3-1” dưới đây:
    [​IMG]
    Bảng 3-1: tổng hợp các sao trong Tư Vi (nội dung nghiên cứu)
    3.3. Sự khác biệt về phép an sao của Phương pháp nghiên cứu với các phương pháp khác
    Do nội dung nghiên cứu của Tài liệu này dựa vào cách an sao của Tử Vi Đẩu Số Toàn Thư của Trần Đoàn. Do đó ngoài số lượng sao nghiên cứu thì các an sao cũng có một số khác biệt cần lưu ý như sau:
    3.3.1. Số lượng sao
    Chỉ sử dụng 93 sao như trong “Bảng 3-1
    Không thừa nhận các sao GIẢI THẦN, THIÊN TÀI, THIÊN THỌ, LƯU NIÊN VĂN TINH, THIÊN GIẢI, ĐỊA GIẢI, THIÊN QUAN QUÍ NHÂN, THIÊN PHÚC QUÍ NHÂN, TUẾ PHÁ, ĐẨU QUÂN, LONG ĐỨC, PHÚC ĐỨC, THIẾU ÂM, THIẾU DƯƠNG, TỬ PHÙ, TRỰC PHÙ, THIÊN TRÙ.
    Ngôi sao THIÊN KHÔNG đứng trước THÁI TUẾ, tức là luôn luôn có cách KHÔNG HỒNG (HỒNG LOAN THIÊN KHÔNG) trên bất kỳ lá số nào không sử dung. Trả lại tên cho THIÊN KHÔNG cho sao ĐỊA KHÔNG. Vì nó nằm trong bộ THIÊN KHÔNG và ĐỊA KIẾP. Nếu như thừa nhận câu phú:
    “Hạng Võ anh hùng hạn ngộ THIÊN KHÔNG nhi táng quốc.
    Thạch Sùng hào phú hạn hành ĐỊA KIẾP dĩ vong gia.”
    3.3.2. Phương pháp an sao
    Về cơ bản được an như các phương pháp hiện nay tuy nhiên trong nội dung nghiên cứu các sao sau đây được an lại cho đúng nguyên bản của Tử Vi; LƯU HÀ, KHÔI VIỆT, HÓA KỴ của tuổi Canh, KHÓA KHOA của tuổi Nhâm.
    3.3.3. Hạn và quy tắc định Hạn
    Đại Hạn đầu tiên đóng tại Mệnh;
    Không dùng lưu niên Đại Hạn. Chỉ dùng Đại Hạn và Tiểu Hạn;
    Nguyệt hạn, Nhật hạn áp dụng như Tiểu Hạn. Tất cả đều được xem xét tại gốc Tiểu Hạn.
    Không quan tâm đến hạn Nhi đồng, như 1 tuổi coi ở đâu, 3 tuổi coi ở đâu,… chỉ quan tâm đến Tiểu Hạn. Và hãy chờ nhập vào số cục rồi hãy xem. Dễ hiểu là Hỏa Lục Cục hãy chờ đến 6 tuổi ta hãy xem.
    ● Đại Hạn: là thời gian 10 năm (thập niên), được tính dựa theo Cục và tuổi Âm, Dương. Mỗi thập niên được ghi vào một cung, bắt đầu từ cung Mệnh trở đi trong đó:
    Dương Nam, Âm Nữ thì ghi theo chiều Thuận, Âm Nam, Dương Nữ thì ghi theo chiều Nghịch.
    Thủy Nhị Cục bắt đầu bằng 2, rồi 12, 22, 32… Mộc Tam Cục bắt đầu bằng số 3, rồi 13, 23, 33… Kim Tứ Cục bắt đầu bằng số 4, rồi 14, 24, 34… Thổ Ngũ Cục bắt đầu bằng số 5, rồi 15, 25, 35… Hỏa Lục Cục bắt đầu bằng số 6, rồi 16, 26, 36…
    Phương pháp xác định Cục sẽ được trình bày ở Phần tiếp theo của Tài liệu.
    Thí dụ: Dương nam, Mộc Tam Cục, bắt đầu ghi số 3 ở cung Mệnh, rồi ghi số 13 ở cung Phụ Mẫu, ghi 23 vào cung Phúc Đức,...
    ●Tiểu Hạn: là thời gian 1 năm, được ghi theo vòng chu vi Địa bàn, mỗi cung ghi một tên. Nếu là Trai thì ghi theo chiều Thuận. Gái thì ghi theo chiều Nghịch. Các xác định gốc Tiểu Vận được tổng hợp trong “Bảng 3-2” sau đây:
    [​IMG]
    Bảng 3-2: bảng định khởi Lưu niện Tiểu Vận
    Ví dụ: 3 tuổi Hợi, Mão hay Mùi thì ghi chữ Hợi, chữa mão hay chữ Mùi ở cung Sửu.
    ● Nguyệt Hạn: là thời gian 1 tháng;
    ● Nhật Hạn: là thời gian trong ngày;
    ● Thời Hạn: là các giờ trong 1 ngày.
    3.3.4. Định danh
    Gọi lại các bộ Chính tinh cho đúng với thực tế;
    - TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM thay vì TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG;
    - SÁT PHÁ THAM thay vì SÁT PHÁ LIÊM THAM.
    Hai bộ còn lại (CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG và CỰ NHẬT) không có gì thay đổi.
    3.3.5. Số lượng sao Lưu động
    Tất cả các sao an được bằng Can Chi đều là sao Lưu động. Không có chuyện lạ kỳ sao này lại lưu động mà các sao khác lại không. Cho nên Tứ Hóa của mỗi sao mỗi năm mỗi khác. Có thể nói Tứ Hóa lưu động cũng được nhưng yêu cầu phải hiểu chính xác là hóa khí của 1 số sao, năm này hóa khí khác, năm sau hóa khí khác.
    Phép an các sao Lưu động được thực hiện như an các sao cố định.
    3.3.6. Một số quan niệm khác
    Quan niệm Mệnh là tính cách, nhân cách, chí khí con người. Thân là xác phàm Thân thể. Do đó khi xem xét Mệnh Thân luôn đi cùng nhau không quan niệm sau 30 tuổi mới xét đến cung an Thân.
    Không quan niệm các vị trí: đắc địa, hãm địa chỉ là đắc ý, thiên thời. Hãm địa là bất lợi, khó khăn.
    Đánh giá Bàng tinh là đáp số cuối cùng. Chính tinh là cái nghiệp như TỬ VI là phải gánh vác, gánh vác nổi hay không, gánh vác bằng phương thức gì, thành hay bại… căn cứ vào Bàng tinh để quyết đoán.
    Ví dụ: CỰ MÔN nghiệp phản đối, phản đối bằng cái gì? Có phe đảng không? Thành hay là bại…
     
  14. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    Muốn xem về Tài Lộc thì quan tâm đến bộ Song Lộc. Bộ song Lộc đóng tại các cường cung Mệnh Tài Quan hay Phúc Di Phối và Điền được kể là hay.
    Muốn xem thành công cần phối hợp giữa Chính Tinh, nhóm sao chủ tính cách, nhóm sao chủ nghề và các sao an theo Tháng, Ngày và Giờ sinh đặc biệt là bộ Tam Hóa.
    Bộ sao KHÔNG KIẾP và KỴ HÌNH là đáp số phức tạp cho toàn bộ Cách cục.
    12.2. Mệnh Hạn
    Bạn đọc thường nhắc đến từ Mệnh Hạn nhưng có lẽ đa phần các bạn không quan tâm đến. Và chúng ta thường quan tâm đến Tiểu Hạn hay Đại Hạn mà thôi.
    Mệnh hạn nghe có vẻ mơ hồ và khó hiểu. Thật ra cũng dễ hiểu và đến lúc các bạn cần hiểu. Vì Mệnh Hạn cũng là cái Hạn tại Mệnh đừng hiểu lầm từ này ghép đôi của Mệnh và Hạn và Mệnh hạn là từ riêng dung đẻ chỉ sự tốt xấu tai cung Mệnh của năm ấy.
    Ví dụ như thế này bạn dễ hiểu. một người có chính tinh tọa thủ tại Mệnh bất kể nó hợp Mệnh hay là không. Ví dụ THÁI DƯƠNG cho là sáng sủa tốt đẹp nhưng không phải bao giờ họ cũng đắc ý và thành công, cũng không phải là do họ gặp Tiểu Hạn xấu hay Đại Hạn xấu. Mà còn do cái năm ấy không hợp với họ.
    Ví dụ, người THÁI DƯƠNG rất kỵ năm Giáp, tất nhiên tháng Giáp ngày Giáp đều kỵ vì chữ Giáp, hóa khí THÁI DƯƠNG là HÓA KỴ. Từ đó người THÁI DƯƠNG dễ bị người ta ghét, nghi kỵ (nghi ngờ) rồi cấm đoán. Tự nhiên người THÁI DƯƠNG năm ấy vụng về hơn, hoặc cũng chẳng vụng về nhưng tự nhiên dưới con mắt nhiều người dễ bị ghét bỏ hơn, bình thường họ vẫn thế. Nhưng hôm nay họ dễ bị người ta chỉ trích, dễ ghét chưa kìa hay tự đắc, hoặc thấy kênh kiệu, hoặc là khoe khoang… và họ tìm ra được cái để chỉ trích nhưng năm trước đây, ngày trước đây họ lại không chỉ trích.
    Lại ví dụ tiếp, Mệnh DƯƠNG LƯƠNG tại Mão vào năm Giáp ngoài lưu KỴ còn thêm lưu KÌNH, cái đố kỵ đó càng thêm mạnh mẽ. Hoặc bộ KỴ ĐÀ nếu như Mệnh ÂM DƯƠNG tại Sửu. Hoặc Mệnh có bộ CỰ NHẬT tại Tuất như trường hợp THÁI DƯƠNG tại Tuất lưu Hóa Kỵ tại đó còn làm cho cả CỰ MÔN bị mất tác dụng.
    Ta hãy hình dung một người tự nhiên năm ấy bị xấu đi do Mệnh hạn, di chuyển trong Đại Hạn tương đối xấu và Tiểu Hạn cũng tương đối xấu. Tất mọi việc càng dễ thêm xấu. Với người THÁI DƯƠNG họ kỵ năm Giáp nhưng lại hợp năm Canh (do Canh và Giáp xung nhau, chữ Canh THÁI DƯƠNG hóa khí là HÓA LỘC) và năm TÂN hóa khí thành quyền. Nếu Đại Hạn hay Tiểu Hạn tương đối xấu nhưng gặp năm Mệnh hạn tốt đẹp cũng trở thành dễ chịu.
    Cũng lý luận như thế người ÂM DƯƠNG chịu liền 2 năm Giáp Ất bị lưu KỴ. Trừ các trường hợp kỳ tài không nói làm gì nhưng các trường hợp cung Mệnh vốn đã không tốt đẹp bị lưu Kỵ thêm Kình hay Đà rất xấu cho các trường hợp NHẬT NGUYỆT. Tât nhiên người NHẬT NGUYỆT hợp các năm Mậu Đinh Canh Tân.
    Theo những lý luận đã có, người có LIÊM TRINH rất kỵ các năm Bính, THAM LANG kỵ năm Quý. Nếu chỉ có KỴ thôi đã phiền lại có thêm ĐÀ, KÌNH TRIỆT càng phiền nhiều hơn. Những chi tiết này làm cho vận hạn đã xấu lại càng xấu hơn.
    Chỉ có các sao không có hóa khí như bộ PHỦ TƯỚNG… là ít chịu hóa khí tác động, vì bộ này chủ yếu là đa phần được người ta thương. Nó bi xấu là do các chính tinh khác tác động. Và bị xấu do hàng Can Chi sẽ đề cập ở dưới.
    Trên là phần lưu hóa khí các năm. Phần các sao trong bộ Can Chi cũng thế. Các sao CỰ MÔN, PHÁ QUÂN tọa thủ Mệnh không thích lưu LỘC TỒN hội họp tại Mệnh mà nó chỉ thích sao HAO. Bộ PHỦ TƯỚNG không hợp với KÌNH TRIỆT. THIÊN CƠ rất kỵ TANG MÔN. TỬ VI rất kỵ THIÊN HƯ TUẾ PHÁ, nhất là Hư TRIỆT… Nếu có những sao kỵ tất nhiên cũng có những sao đem lại vui mừng như ĐÀO HỒNG HỈ, Song Hỉ và Tứ Linh che chở Mệnh làm cho cung Mệnh có giá trị hơn. Như thế có nghĩa là Mệnh hạn năm này có thể tốt hay xấu, đối đầu với đại, Tiểu Hạn.
    Ngoài ra chú ý các bộ Can Chi tại cung Tật Ách, lưu tại cung Mệnh thường đem lại những tai ách. Một sao thuộc hàng Can thiên về việc làm và 1 sao thuộc hàng Chi thiên về trạng thái. Kể cả các trường hợp lưu tại Đại Hạn, Tiểu Hạn cũng là xấu vì nó đại diện cho tai ách.
    Cũng thế các bộ Can Chi tại các cung, lưu động tại Mệnh hay đai Tiểu Hạn tất nhiên có việc liên quan đến cung đó. Ví dụ bộ Can Chi của cung huynh đệ lưu tại Mệnh hay đại, Tiểu Hạn tất nhiên có vấn đề liên quan, tốt xấu còn tùy thuộc vào hung cát tinh để luận.
    12.3. Ngiên cứu về Hạn
    Khi xem xét Hạn ta luôn lấy các cung số của ban thân làm gôc (Mệnh Thân Tài Quan Tât). Cho dù ở bất cứ Đại Vận nào cung số nào thì các tính chất của Mệnh Thân Tài Quan Tật không thay đổi. Có chăng họ chỉ thay đổi cách nhìn nhận mà thôi.
    Đại Vận là hoàn cảnh tác động lên ta trong giai đoạn 10 năm của Đại Vận. Trong 10 năm đó bản thân ta vẫn vậy, hoàn cảnh đó tác động tới ta ra sao mà thôi từ đó vẫn cái nghiệp đó, cái nghề đó, cái tính cách đó hay tai Ách đó ta thế nào với hoàn cảnh đó.
    Tương tự như vậy Tiểu Vận, Nguyệt Vận và Thời Vận là hoàn cảnh tác động lên ta tại thời điểm đó.
    Cần đưa các sao, nhóm sao về các nhóm sao có cùng đặc tính để quyết đoán.
    Hiểu được ý nghĩa cơ bản của các sao, cần gặp và kỵ gặp để quyết đoán.
    Khi xem xét về Hạn (Đại Hạn hay Tiểu Hạn) thì cung nhập Hạn là cung số tại giai đoạn đó ta phải bận tâm nhiều, chịu sự chi phối nhiều nhưng không phải chỉ xem xét ở cung đó thôi. Ta phải xem xét được toàn bộ 12 cung số trên lá số Tử Vi để quyết đoán.
    Có khi Tiểu Hạn xấu nhưng Mệnh Hạn tốt có khi ta vẫn toại ý thì ta đoán khác và ngược lại.
    Một năm bất kỳ ta hoàn toàn tìm được các cung xấu tốt ra sao.
    Để xem xét Tiểu Hạn, Nguyệt Hạn, Thời Hạn người xem cần lưu được các sao lưu động.
    Trong pham vi của phương pháp Tử Vi này chúng ta sử dụng 46 sao lưu động cho phần Tiểu Hạn. Khi xem xét đến Nguyệt Hạn ta lưu thêm các sao Tháng (5 sao), xem xét đến Nhật Hạn Lưu thêm các sao Ngày và các sao an theo Ngày và Tháng (2 sao) xem đến thời hạn lưu thêm các sao Giờ và các sao an theo Ngày và Giờ (10 sao).
    Sử dụng Can Chi của Năm, Tháng, Ngày Giờ để tiến hành Lưu sao.
    Sau khi an toàn bộ các sao lưu động của Năm hoặc Tháng hoặc Ngày hoặc Giờ ta coi bản đồ các sao này như 1 lá số thứ 2. Mang lá số cố định ghép với lá số Phi tinh lưu động để xem xét.
    Khi ta hiểu được hết nội dung của cuốn sánh này kết hợp với ý nghĩa các sao, bộ sao và đặc biệt là phần cần gặp và kỵ gặp của các sao cho ta đáp án rất thú vị về 1 lá số cũng như xem xét Vận Hạn.
    Cách tính Can Chi của tháng
    Dựa trên cơ sở Can của năm theo lịch kiến dần (nguyên tắc ngũ dần)
    Trước hết tháng giêng là tháng Dần, tháng Hai là tháng Mão..., mỗi tháng đi với một Chi nhất định
    Muốn biết Can của tháng thì áp dụng phương pháp sau gọi là phương pháp Ngũ Dần:
    Năm Giáp và Kỷ tháng giêng là tháng Bính Dần
    Năm Ất và Canh tháng giêng là tháng Mậu Dần
    Năm Bính và Tân tháng giêng là tháng Canh Dần
    Năm Đinh và Nhâm tháng giêng là tháng Nhâm Dần
    Năm Mậu và Quí tháng giêng là tháng Giáp Dần
    Cách tính Can Chi của ngày
    Dựa trên Can Chi của tháng. Theo nguyên tắc tháng giêng là tháng Giáp Tí thì ngày mùng một sẽ là ngày Giáp Tý, mùng hai sẽ là Ất Sửu...Vì số ngày trong năm không chia chẵn cho 60, nên ta không thể có qui tắc tính Can Chi của ngày dựa trên Can Chi tháng được mà phải tra lịch.
    Cách tính Can Chi của giờ
    Căn cứ vào Can Chi của ngày theo nguyên tắc ngũ Tý
    Ngày Giáp và Kỷ giờ Tý là Giáp Tý;
    Ngày Ất và Canh giờ Tý là Bính Tý;
    Ngày Bính và Tan giờ Tý là Mậu Tý;
    Ngày Đinh và Nhâm giờ Tý là Canh Tý;
    Ngày Mậu và Qui giờ Tí là Nhâm Tý.
     
    Lâm Vân thích bài này.
  15. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    MỐI QUAN HỆ GIỮA KHO VÀ NGŨ HÀNH

    Trong năm hành: kim,mộc,thủy,hỏa,thổ thì hành thổ là hành trung ương,mỗi hành còn lại cuối cùng đều được thổ chứa đựng- gọi là mộ.

    Vì thế ta có tứ mộ là: thìn ,tuất,suử,mùi.Chia thành thìn-tuất,suử-mùi từng đôi 1 xung nhau nhưng không khắc.

    -Thìn là mộ của thuỷ,
    - Tuất là mộ của hoả,
    -Mùi là mộ của mộc,
    -Suử là mộ của kim.

    Trong tứ mộ ta thấy rằng:

    -Tuất là mộ kho của hỏa mà hỏa lại sinh thổ,cho nên tuất là mộ khố rất bền và hành chứa trong nó bị tiết khí do sinh cho mộ khố.

    -Thìn là mộ kho của thủy mà thủy bị thổ khắc vì thế Thìn là mộ kho cũng khá vững chắc và có thể nhôt thủy rất chặt.Ngược lại,thủy bị đe đọa bởi chính cái kho chứa đựng nó.

    -Suử là mộ kho của Kim mà kim được thổ sinh cho ,cho nên kim chứa không kho suử sẽ ngày càng mạnh hơn,giống như đang được kho tiếp sức dữong thương vậy.Ngược lại,do sinh cho kim cho nên Suử kho sẽ bị hao tổn cho nên việc chứa đựng của nó sẽ không chắc chắn.

    - Mùi là mộ kho của mộc mà mộc khắc thổ,cho nên đây là cái kho yếu nhất.
     
    SonAB and Lâm Vân like this.
  16. rubyngoc

    rubyngoc Thành Viên

    hic, h mình mới bít cái này. hay wa đi mất
     
  17. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    CÁCH TÍNH CAN CHI LỘC MÃ QUÝ NHÂN



    [FONT=&quot] [/FONT][FONT=&quot]Cách tính Can, Chi, Lộc, Mã, Quý nhân[/FONT]
    [FONT=&quot][/FONT][FONT=&quot]a) Lộc: [/FONT][FONT=&quot]
    [/FONT]
    [FONT=&quot]Tính theo thiên can và nạp giáp: LỘC BẢN CHẤT LÀ LÂM QUAN TRÊN VÒNG TRƯỜNG SINH!
    + Tính theo Thiên can:
    - Giáp lộc ở Dần
    - Ất lộc ở Mão
    - Bính lộc ở Tỵ
    - Đinh lộc ở Ngọ
    - Mậu lộc ở Tỵ
    - Kỷ lộc ở Ngọ
    - Canh lộc ở Thân
    - Tân lộc ở Dậu
    - Nhâm lộc ở Hợi
    - Quý lộc ở Tí [/FONT]
    [FONT=&quot]1[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]2[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]3[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]4[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]5[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]6[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]7[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]8[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]9[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]10[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]Giáp[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]Ất[/FONT]
    [FONT=&quot]Bính[/FONT]
    [FONT=&quot]Đinh[/FONT]
    [FONT=&quot]Mậu[/FONT]
    [FONT=&quot]Kỷ[/FONT]
    [FONT=&quot]Canh[/FONT]
    [FONT=&quot]Tân[/FONT]
    [FONT=&quot]Nhâm[/FONT]
    [FONT=&quot]Quý[/FONT]
    [FONT=&quot]Dần[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]Mão[/FONT]
    [FONT=&quot]Tỵ[/FONT]
    [FONT=&quot]Ngọ[/FONT]
    [FONT=&quot]
    [/FONT]
    [FONT=&quot]
    [/FONT]
    [FONT=&quot]Thân[/FONT]
    [FONT=&quot]Dậu[/FONT]
    [FONT=&quot]Hợi[/FONT]
    [FONT=&quot]Tý[/FONT]
    [FONT=&quot]MỘC[/FONT][FONT=&quot][/FONT]
    [FONT=&quot]HỎA[/FONT]
    [FONT=&quot]THỔ[/FONT]
    [FONT=&quot]KIM[/FONT]
    [FONT=&quot]THỦY[/FONT]
    [FONT=&quot]
    + Tính theo Nạp giáp thiên can, địa chi (tam hợp cục):
    - Càn theo Giáp lộc ở Dần
    - Khôn --> Ất lộc ở Mão
    - Chấn --> Canh lộc ở Thân
    - Tốn --->Tân lộc ở Dậu
    - Cấn ---> Bính lộc ở Tị
    - Đoài --> Đinh lộc ở Ngọ
    - Khảm --> Quý lộc ở Tý
    - Ly --> Nhâm lộc ở Hợi
    - Hợi, (mão/chấn), Mùi theo Chấn lộc ở Thân
    - Tị, (dậu/đoài), Sửu theo Đoài lộc ở Ngọ
    - Thân, (Tý/khảm), Thìn theo Khảm lộc ở Tý
    - Dần, (ngọ/Ly), Tuất theo Ly lộc ở Hợi
    Lộc cũng có lộc NON, lộc GIÀ đấy nhé, mọi người thường chúc nhau khi tết đến, lộc vào như nước/ LỘC = QUAN LỘC trên vòng trường sinh !

    THIÊN LỘC :
    Lộc là phương Lâm quan của Tuế Can , tính của Ngũ hành , Lâm quan tới cát . Lâm quan là thời đương thịnh, đang lên phơi phới , là đúng Đạo sinh thành , gần tới Vượng mà là Lộc , bởi đã Vượng thì Thái quá .

    Lộc là cách có Lộc ra chính môn . Nhà có cách này là cát khánh , rất tốt . Lộc ra chính Môn sẽ đem lại nhiều may mắn về tiền bạc , gia sản thăng tiến , điền trang vượng .Thường sinh người béo tốt , thông minh , tuấn tú lại khéo léo , tài năng Kinh doanh giỏi , làm ăn tiến phát . Tuy nhiên cũng cần phải lánh xa Sinh – Vượng Lộc , tránh không vong tử , tuyệt . Nếu Mộ , Không vong , Tử , Tuyệt thì Khí tán , không tụ , là vô dụng . Có Lộc cũng như không . Tài sản dù có như nước , rồi cũng tiêu tan hết . Đó gọi là Tuyệt Lộc . Nếu gặp Thai Khí thì mặc dù vẫn phát đạt , nhưng con trai tài hoa mà kiêu ngạo , con gái nhỏ thì khả ái nhưng ngỗ nghịch . Trong gia đình hay sinh nội loạn , cãi vã , cả ngày ồn ào khiến mọi người bất yên. Lộc cung là Cát cung , vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra , còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách , phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ . Tất cả được Lộc đều tốt . Tuy nhiên Lộc phải cư đúng cung tài , là Lộc cư Lộc , mới thật là đắc cách , mới thật sự tốt đẹp . [/FONT]


    [FONT=&quot]b) Mã: [/FONT][FONT=&quot]
    [/FONT]
    [FONT=&quot]Tính theo Tam Hợp địa chi:
    - Dần, Ngọ, Tuất Mã ở Thân
    - Thân, Tí, Thìn Mã ở Dần
    - Hợi, Mão, Mùi Mã ở Tị [/FONT]
    [FONT=&quot]- Tị, Dậu, Sửu Mã ở Hợi

    Trên đây là Mã ở 12 địa chi. Nếu Thủy cục là Thân, Tý, Thìn thì cần phải có nước ở phương Dần triều về [THU THỦY], hoặc Sa ở phương Dần nổi cao [NẠP SA].

    DỊCH MÃ: [/FONT]
    [FONT=&quot]Sau đây là dich Mã của Bát Can và Tứ Duy, mặc dù cũng là Mã, tuy nhiên phúc lực (sức mạnh của phúc) không bằng Mã ở Tam Hợp Cục Địa Chi:
    - Giáp Sơn kiêm Dần thì Mã ở Thân, nếu kiêm Mão thì Mã ở Tỵ
    - Ất sơn kiêm Mão thì Mã ở Tỵ, nếu kiêm Thìn thì Mã ở Dần.
    - Bính sơn kiêm Tỵ thì Mã ở Hợi, nếu kiêm Ngọ thì Mã ở Thân
    - Đinh sơn kiêm Ngọ thì Mã ở Thân, nếu kiêm Mùi thì Mã ở Ty.
    - Canh sơn kiêm Thân thì Mã ở Dần, nếu kiêm Dậu thì Mã ở Hợi
    - Tân sơn kiêm Dậu thì Mã ở, nếu kiêm Hợi thì Mã ở Tuất
    - Nhâm sơn kiêm Hợi thì Mã ở Tỵ, nếu kiêm Tí thì Mã ở Dần
    - Quý sơn kiêm Tý thì Mã ở Dần, nếu kiêm Sửu thì Mã ở Hợi
    - Càn sơn kiêm Tuất thì Mã ở Thân, nếu kiêm Hợi thì Mã ở Tỵ
    - Khôn sơn kiêm Mùi thì Mã ở Tỵ, nếu kiêm Thân thì Mã ở Dần
    - Cấn sơn kiêm Sửu thì Mã ở Hợi, nếu kiêm Dần thì Mã ở Thân
    - Tốn sơn kiêm Thìn thì Mã ở Hợi, nếu kiêm Tyh thì Mã ở Hợi
    Tuy nhiên, cũng có ngựa tốt, ngựa xấu, nên chú ý:

    THIÊN MÃ :
    Mã chủ trạng thái động , là tượng của thay đổi , bôn tẩu .
    Mã ra chính môn thì Gia trạch luôn gặp sự may mắn , tin vui ngất trời , phát tài mau chóng , công việc đều trôi chẩy thuận lợi . Thường sinh ra người khôi ngô , tuấn tú lại hay xuất Ngoại ra ngoài , ăn nên làm ra . Tuy nhiên cũng như Lộc , Mã cần phải Sinh – Vượng , tránh Không vong , Tử , Tuyệt . Gặp Sinh , Vượng thì tốc phát , lại sinh ra người thông minh , cao quý . Gặp Không vong , Tử , Tuyệt thì Giang hồ bôn tẩu nơi xa để mưu sinh . Tha phương , cầu thực , công danh thăng giáng thất thường , sự nghiệp thì long đong , lận đận , lại dễ gặp tai nạn về chân tay . Công việc chỉ có đầu mà không có đuôi , thành công ít mà thất bại thì nhiều . Gặp Thoái Khí lại ra cung Đoài trực cùng Đào hoa thì Âm thịnh – Dương suy , con gái dễ phát sinh dâm loạn , con trai chơi bời , nghiện ngập , bại hoại Gia phong .
    Mã cũng là cát cung , vì vậy ngoài cách đặt cửa chính ra còn có thể đặt cửa phụ , nhà bếp , phòng khách, phòng làm việc , bàn thờ , giường ngủ đều tốt . Chỉ có giường ngủ của Nữ là không nên đặt tại Mã cung, nếu đặt phải thì Tâm bất an , không ở yên một chỗ. [/FONT]


    [FONT=&quot][/FONT][FONT=&quot]c) Quý Nhân:[/FONT]
    [FONT=&quot] Tính theo thiên can ta cần thuộc bài thơ sau đây:
    - Giáp, Mậu, Canh Ngưu Dương
    - Ất, Kỷ Thử Hầu hương
    - Bính, Đinh Trư Kê vị
    - Nhâm, Quý Xà Thố tang
    - Lục, Tân tầm Mã Hổ
    - Thử thị Quý Nhân hương
    - với 3 thiên can Giáp, Mậu, Canh thì Quý Nhân ở Sửu (Ngưu) và Mùi (Dương)
    - với 2 thiên can Ất , Kỷ thì Quý Nhân ở Tý (Thử) và Thân (Hầu)
    - Với 2 thiên can Bính, Đinh thì Quý Nhân ở Hợi (Trư) và Dậu (Kê)
    - với 2 thiên can Nhâm, Quý thì Quý Nhân ở Tỵ (Xà) và Thỏ/Mão (Thố)
    - với Tân Quý Nhân ở Ngọ (Mã) và Dần (Hổ)[/FONT]


    [FONT=&quot]Sau đây là bài ứng dụng của Quý Nhân Quý Nhân sa và Quý Nhân thủy:[/FONT]
    [FONT=&quot] - Nếu thấy long nhập thủ là Giáp và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Mùi và thấy thủy lai ở hướng Mùi.
    - Nếu thấy long nhập thủ là Ất và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Thân và thấy thủy lai ở hướng Thân
    - Nếu thấy long nhập thủ là Bính và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Dậu và thấy thủy lai ở hướng Dậu
    - Nếu thấy long nhập thủ là Đinh và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Hợi và thấy thủy lai ở hướng Hợi
    - Nếu thấy long nhập thủ là Canh và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Sửu và thấy thủy lai ở hướng Sửu
    - Nếu thấy long nhập thủ là Tân và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Dần, Ngọ và thấy thủy lai ở hướng Dần, Ngọ
    - Nếu thấy long nhập thủ là Nhâm và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Mão và thấy thủy lai ở hướng Mão.
    - Nếu thấy long nhập thủ là Quý và thấy sa khởi (phát xuất) ở hướng Tỵ và thấy thủy lai ở hướng Tỵ.

    Tất cả những sa và thủy nói trên đều là Quý Nhân Sa và Quý Nhân Thủy. Tuy nhiên phải là Dương Quý Nhân thì mới phát, nếu là Âm Quý Nhân thì chỉ yên (an) nhà mà thôi.
    Bảng Âm Dương Quý Nhân:
    Can Ngày: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
    Dương Quý: Mùi, Thân, Dậu, Hợi, Sửu, Tí, Sửu, Dần, Mão, Tỵ
    Âm Quý: Sửu, Tí, Hợi, Dậu, Mùi, Thân, Mùi, Ngọ, Tỵ, Mão.
    Tứ Duy Quý Nhân theo Nạp Giáp:
    - Càn sơn Quý Nhân tại Mùi
    - Khôn sơn Quý Nhân tại Thân
    - Cấn sơn Quý Nhân tại Dậu
    - Tốn sơn Quý Nhân tại Dần
    Tất cả những Tứ Duy Quý Nhân trên đều là Dương Quý Nhân cả. [/FONT]


    [FONT=&quot]CHÚ Ý QUAN TRỌNG:[/FONT][FONT=&quot]
    1/. Có Quý Nhân mà không có Lộc Mã (lâm quan) thì không phát Quan được.
    2/. Có Lộc Mã (lâm quan) mà không có Quý Nhân (người nâng đỡ) thì làm quan không được bền.
    3/. Quý Nhân sơn cùng Lộc Mã sơn cùng hiện là Thôi Quan Cách, phát phú quý song toàn.
    4/. Quý Nhân sơn và Mã sơn cùng hiện tại một chỗ thì gọi là Quý Nhân Phùng Mã cách, quý không thê nói hết được.
    5/. Tọa sơn có gò Quý Nhân hiện, Án tiền có gò Lộc hiện là Quý Nhân Vong Tộc cách, phú quý khả kỳ.
    6/. Cục, hướng sa thủy đều có Lộc tinh hiện và Tú Lộc cách, tài lộc mỗi ngày mỗi bồi thêm. [/FONT]
     
    langtu78 thích bài này.
  18. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    • TUYỆT (Thổ) - ★★ Tuyệt là hung tinh, chủ sự bại hoại, tiêu tán, khô hạn, làm bế tắc công việc và chiết giảm phúc thọ 1 ■- Ỷ NGHĨA TIIYÊT VỚI CẮC SAO KHẮC Tuyệt ở mệnh là người khôn ngoan, đa mưu túc trí - Tuyệt Hao : xảo quyệt, keo kiệt và tham lam - Tuyệt Tứ Không : rất thông minh, học một biết mười - Tuyệt Hỏa Tham Hình : hiển hách lẫy lừng - Tuyệt Riêu Kỵ : chết đuôi - Tuyệt Mã ở Hợi: ngựa cùng đường, bế tắc, thất bại - Tuyệt, Tưởng Binh : bị tai nạn về gươm súng 2-- Ỷ
    • NGHĨA TIIYÊT ở CẮC CUNG

    • Ở BẰQ

    • Tuyệt Thiên Tưởng : có anh chị em dị bào
    • Tuyệt Tưởng vượng Thai: đồng nghĩa như trên
    Nếu Bào ở cung Dương thì cùng cha khác mẹ, ở cung Âm thì cùng mẹ khác cha

    • Ở PHỨC

    • Tưởng, Tử Tuyệt : có người chết trận

    • Ở HAN

    • Tuyệt Hao : hao tán tài sản
    • Tuyệt Suy Hồng Đào Sát Phá Tham gặp Mệnh vô chính diệu thì chết
    Có sách cho sao Tử thuộc Hỏa
    TỬ (Thủy)

    • -Ỷ NGHĨA CỦA TỬ

    • Thâm trầm, kln đáo
    • Hay suy nghĩa sâu xa, tính toán kỹ lưỡng, có kế hoạch
    • Đa sầu, đa cảm, bi quan
    • Làm giảm phúc thọ, chủ sự chết chóc, tang thương, sầu thảm

    • - Ỷ NGHĨA CỦA TỬ ở CẮC CUNG

    • Ở ĐIỀN. TÀI

    • Có tiền của bí mật
    • Có quý vật chôn giấu
    • Có khả năng giữ của, tính cẩn thận khi xài, cần kiệm nếu không nói là hà tiện

    • Ở PHỨC. TỬ

    • Tử Tuyệt Tưởng Binh : trong họ có người chết trận hay bị ám sát
    • Làm giảm sô" con cái
    TỬ PHÙ (Kim)
    ★ ★★
    Sao này chủ sự buồn thảm, ngưỵ khốn
    Đây là một hung tinh loại nhẹ, chỉ một ác tâm vừa phải có mức độ
    Theo Thái thứ Lang, sao tử Phù thuộc Hỏa, chủ tang thương, gây rắc rối, ngăn trở mọi sự việc
    Ngoài ra, còn có ý nghĩa su' chết, báo hiệu tang thương. (Nên xem sao Trực Phù)
    TƯỚNG QUÂN (Mộc)
    ★ ★★
    Đây là một vũ tinh, phù hợp với nam tính, võ cách 1 - Ỷ NGHĨA CỦA TƯỚNG QUẮN

    • Cương trực, thẳng thắn, nóng tính, bất nhẫn, bất khuất
    • Can đảm, ũng mãnh, hiên ngang, làm càn, táo bao
    • Kiêu căng, có óc lãnh tụ, tinh thần sứ quân, ham cầm quyền, về điểm này, Tướng Quân có nghĩa tương tợ như Hóa Quyền nhưng khác ở chỗ Hóa Quyền chủ sự nắm quyền binh còn Tướng Quân chỉ sự khao khát quyền binh, háo danh, hiếu thắng
    Đôi với nữ mệnh , ghen tương, lấn át chồng, hoặc có tính manh bao như nam nhi

    • - TƯỚNG QUẮN VẰ MỐT SỎ SAO KHẮC

    • Tưởng quân và Thiên Tưởng : uy quyền hiển hách, nếu đồng cung thì càng mạnh hơn và nặng ý nghĩa quân sự. Nếu là nữ mệnh thì đây là người đàn bà đảm lược, tài ba hoạt động như nam giới, dám xông pha trận mạc, điều khiển ba quân như Jeanne d’Arc, Trưng Vương, Bà Triệu. Còn ở trong gia đình thì rất có uy quyền, thường lấn át quyền uy của chồng
    • Tưởng Quân gặp Tuần, Triệt án ngữ : ví như ông tướng cụt đầu, tổn hại đến tánh mạng, công danh, quyền thế. Chủ sự truất giáng, bãi cách, tai nạn xe cộ, phi cơ, gươm đao, súng đạn khủng khiếp
    • Tưởng Quân, Phục Binh, Không Kiếp : cũng nguy hiểm đến tính mạng vì có người mưu
    sát

    • Tưởng Ấ n Binh Hình : bộ sao uy dũng chỉ quyền tước, võ nghiệp, cầm quân, cầm quyền
    • Tưởng Quân, Đào Hồng : đàn bà tơ duyên rắc rối, bị thất tiết, ngoại dâm, đàn ông thì hoang dâm
    • Tưởng Phá Binh Đào Hồng : dâm dục quá đáng, tư thông, ngoại dâm, loạn luân
    Có quan điểm cho rằng Tướng dù là Thiên Tướng hay Tướng Quân cần đi với Binh, Mã mới hợp cách, đủ bộ ví như tướng có quân, có uy

    • - Ỷ NGHĨA TƯỚNG QUẮN ở CẮC CUNG

    • Ở BẰQ

    • Tưởng Mã Lộc : anh em quyền quý
    • Tứơng Binh Thai vượng : có anh chị em dị bào, hoặc anh chị em có người dâm đãng

    • Ở TỬ. PHU THỀ

    • Tưởng Binh Thai vượng : có con riêng, tiền dâm hậu thú, có con ngoại hôn sau khi lấy nhau

    • Ở PHỨC. PHU BẰQ

    • Tưởng Tử Tuyệt, Binh : người tử trận hay bị ám sát
    VĂN XƯƠNG (Kìm)
    VĂN KHÚC (Thủy)
    ★ ★★
    1 ■- NGHĨA cơ TH
    Xương Khúc là 2 vú, có lẽ là vú phụ nữ hơn, vì bộ ngực của phái nam không có gì đáng nói
    Thái Thứ lang cho rằng Văn Xương chỉ bụng và tai, đồng thời Phượng Các cũng là tai : có thể quan điểm này sai
    2-- Ỷ NGHĨA TIÍỚNG MAO
    Người Xương Khúc ở mệnh có vẻ mặt thanh tú, khôi ngô hớp với qúy tướng, đàn bà thì, có nhan sắc. Sách vở hỉ nói đến tướng diện chớ không thấy nói đến tướng thân mình, nhất là bộ ngực. Nhưng thiết tưởng, nếu Xương Khúc đắc địa ở 6 cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi, nơi tọa mệnh phụ nữ, thì người đó có thân hình đẹp, có thể theo kiểu thẩm mỹ hiện thời
    Cần lưu ý rằng Xương Khúc đi đôi với nhau phôi chiếu vào Mệnh thì sắc diện mới nổi bật hơn là Xương hay Khúc đơn thủ
    3-- Ỷ NGHĨA TÍNH TÌNH

    • NHỮNG ĐĂC TÍNH T INH THAN

    • Thông minh, hiếu học, học giỏi
    • Suy xét, phân tích, lý luận giỏi. Dường như Xương Khúc nặng về khiếu suy luận (raisonnement) bằng lý trí nhiều hơn là trực giác (intuition)
    • Có năng khiếu rất sắc bén về văn chương, mỹ thuật, âm nhạc. Đây là người có tâm hồn nghệ sỹ, có óc nghệ thuật, lãnh hội rất phong phú thi, ca, nhạc, kịch, học... và có thể trở thành nghệ sỹ trong những bộ môn trên
    • Có năng khiếu hùng biện, tài ăn nói lưu loát và cao xa, có thể bắt nguồn từ tâm hồn rào rạt của nghệ sỹ và tài ăn học, thông minh bẩm sinh. Xương Khúc là ngôi sao của nhà mô phạm giỏi, của học trò xuất sắc
    Những đặc tính trên khiến cho Xương Khúc là 2 sao ăn học, khoa giáp, văn nghệ

    • NHỮNG ĐĂC TÍNH TÌNH CẢM
    Sắc sảo về tinh thần, Xương Khúc càng sắc sảo về tình cảm biểu lộ qua :

    • Sự đa cảm, đa tình tức là dồi dào tình cảm, nhạy cảm (sentimental), cư xử bằng tình cảm. Đây quả là nét độc đáo của tâm hồn thi nhân, nghệ sỹ, đặc biệt là tâm hồn phụ nữ, dễ cảm, tiếp thu tình cảm rất mạnh
    • Sự đa sầu, dễ buồn, dễ khóc, dễ xúc động
    • Tâm hồn lãng mạn (romanique), thiên về sự u buồn, thỏa mãn tình cảm, sự mơ mộng nhiều khi chỉ để thõa mãn tình cảm, sự ham thích yêu thương. Đây là hạng người rất nặng tình, bồng bột, chức chan, có đời sông nội tâm vô cùng phong phú. Yếu tô" này là căn bản cho sáng tác văn chương trữ tình (lyrisme)
    • Xương Khúc còn có ý nghĩa sa đọa hơn, nhất là đối vđi phái nữ, biểu hiện bằng sự lẳng lơ, hoa nguyệt, thích phiêu lưu tình cảm. Đi vđi Thái Am thì càng lả lơi tình tứ. Đi với các sao dâm như Thái, Riệu, Mộc dục thì rất dâm đãng có thể sáng tác dâm thư như kiểu Hồ Xuân Hương
    Nếu là phái nam thì có tâm hồn đàn bà, nặng về tình cảm, nhút nhát, hay e lệ
    Ngoài ra, Xương Khúc còn có ý nghĩa thích trang điểm, chưng diện
    Nếu hãm địa, Xương Khúc có nghĩa như có hoa tay, khéo tay, rất giỏi về thủ công, mỹ nghệ (giông như sao Hồng Loan). Nếu gặp Riêu đồng cung thì đa nghi, tin dị đoan, người có tính đồng bóng
    4.- Ý NGHĨA CỐNG DANH. TÀI LỐC. PHÚC THO
    Đắc địa, Xưong Khúc là bộ sao phú quý, hiển đạt, phúc thọ rất có giá trị. Nếu có Lộc Tồn đi kèm thì tài năng xuất chúng. Nếu đi với Vũ Khúc thì tài năng kiêm nhiếp văn võ, có uy danh lừng lẫy và giàu sang
    Việc giáp Mệnh cũng tốt, nhưng đắc thời nhờ hòan cảnh bên ngoài nhiều hơn là tài năng của chính mình
    Nếu hãm địa, thì khôn khổ, phải bỏ lảng lập nghiệp ở xa, có tật, bị tai họa, hoặc yểu tử. Đàn bà thì dâm đãng, bị u buồn vì gia đạo. Nếu gặp thêm sát tinh thì có thể là gái giang hồ, khắc chồng, ti tiện

    • - Ý NGHĨA XƯƠNG KHÚC VỚI CẤC SAO

    • xương Khúc Khoa : thi đỗ dễ và cao, có văn bằng cao
    • xương Khúc Khoa Khôi Việt : khoa giáp tột đỉnh, thông minh xuất chúng, có tài thao lược, được trọng dụng, được đắc thời. Nếu thêm Nhật Nguyệt sáng thì năng tài đó đạt mức quốc tế
    • xương Khúc Thái Dương sáng : lịch duyệt, học rộng, biết nhiều (culrivé, érudit)
    • xương Khúc Lương : quý hiển, có uy danh lớn
    • xương Khúc Cơ : khéo léo, tinh xảo về thủ công và ngôn ngữ
    • xương, Vũ : tài năng văn võ, được tiếng lừng lẫy. Nếu thêm Tả hữu thì phú quý song toàn, hiển vinh về võ
    • Văn xương Liêm Trinh Sửu Mùi Tỵ Hợi Mão Dậu : giảm thọ. Đặc biệt ở Tỵ Hợi, Xương Khúc gặp Liêm Trinh hay bị tai họa, tù tội, yểu tử
    • Văn xương Khúc Tuần Triệt hay Kỵ : thi cử lận đận, dang dở, gián đoạn, công danh chật vật, khôn khổ, phải tha phương, hay bị tù tội, yểu tử (gặp phá đồng cung cũng vậy)
    • xương Khúc Riêu : rất dâm đãng, rất xinh đẹp

    • - Ý NGHĨA XƯƠNG KHÚC ở CẤC CUNG

    • Ở QUAN
    Có ý nghĩa Xương Khúc ở Mệnh

    • xương Khúc Riêu, Đào : làm nghề mãi dâm dung thân nếu Mệnh, Phúc xấu
    • xương Khúc Đà kỵ : kẻ sĩ ẩn dật

    • Ở TẢI

    • Thích cờ bạc
    • Giàu có nếu có nhiều cát tinh tốt
    • Phá tán hao tài nếu gặp nhiều sao xấu, nhưng vẫn có người giúp đỡ

    • Ở PHU THỀ

    • Vợ đẹp, có học nhưng thường có nhân tình, vỢ lẽ
    • Gái có chồng danh giá, cóhọc, hòa thuận

    • Ở HAN
    Nếu gặp các bộ sao đi với Xương Khúc thì có ý nghĩa liên hệ

    • xương Khúc Khoa hay Khôi Việt: có học hành, thi cử và đỗ cao trong hạn đó. Nếu gặp Kỵ có thể thi rđt
    • xương Khúc Tuế: được thăng quan, viết văn nổi tiếng
    xương Khúc Sát Tinh : tai họa lđn, bị kiện cáo, hao tài. Gặp thêm Linh, bị tù
    - xương Khúc Liêm Kình Đà : tai nạn khủng khiếp, nếu không cũng bị tù tội. Nếu đại hạn xấu thì khó thoát chết
    Ý NGHĨA VẬT DỤNG CỦA CÁC SAO
    TÊN SAO
    VẬT DỤNG
    Thiên Y
    Quần áo
    Thiên Y, Đào, Hồng
    Quần áo đẹp, sang trọng
    Hồng Loan
    Vải vóc
    Tam Thai, Bát Tọa
    Bàn ghế, tủ giường, đồ đạc
    Thai Tọa, Khốc Hư
    Đồ đạc trong nhà bị mối mọt
    Thiên Cơ
    Máy móc
    Thiên Mã
    Xe cộ
    Thiên Cơ, Thiên Mã
    Xe hư máy móc
    Thiên Hình
    Dao, kéo, binh khí
    Kình Dương
    Tràng,đục
    Thiên Tướng
    Bút
    Tấu Thư
    Giây
    Văn Xương
    Sách vở
    Quang Quý
    Bài vở (tài liệu)
    Thiên Khôi, Thiên Việt
    Văn bằng, nghị định, giấy khen
    Vũ, Văn Khúc Tấu Thư
    Nhạc khí
    Thiên Khốc
    Chuông, nhạc ngựa

    Ý NGHĨA THỨC ĂN, THỨC UỐNG CỦA CÁC SAO
    TÊN SAO
    THỨC ĂN. THỨC UỐNG
    Tham Lang
    Thịt nói chung
    Tham Lang Hóa Kỵ
    Thịt heo
    Cự môn
    Thịt bò
    Thiên Mã, Thiên Khốc
    Thịt trâu
    Thiên Lương, Hỏa Linh
    Thịt dê ngựa
    Hóa Quyền
    Thịt bê, lợn sữa
    Vũ Khúc
    xương
    Thanh Long

    Đà La
    Cá nhỏ nước ngọt, rượu
    Long Trì
    mạnh
    Bạch Hổ
    Tôm cua, hải sản
    Lưu Hà
    Thịt rừng, sơn hào
    Thiên Tướng
    Bún miến, loài trai ốc
    Lộc Tồn
    Cơm
    Hồng Loan
    Lòng heo, đồ gia vị cay
    Hóa Khoa
    Tiết canh
    Khốc, Hư, Riêu
    Con nhộng
    Thất Sát
    Con rươi
    Hoa Cái
    Hạt đậu nhỏ
    Hóa Lộc
    Hạt đậu to
    Thái Âm
    Gia vị đắng
    Thái Dương
    Thức ăn mặn
    Nhật Nguyệt đồng cung
    Thức ăn ngọt, bánh
    Thiên Phủ
    Thức ăn đắt tiền
    Đào Hoa
    Tất cả thức ăn thịnh soạn
    Tấu thư gặp Hỏa
    Rượu, hoa quả, nước ngọt
    Hỏa Tấu đồng cung Cự Kỵ
    Rượu mùi
    Thuốc lá, thuốc phiện


    Ý NGHĨA VẬT DỤNG TANG CHÊ CỦA CÁC SAO
    TÊN SAO
    Đồ VẬT, NGƯỜI
    Tử Phủ Vũ Tướng
    Đồ lộ bộ
    Sát Phá Liêm Tham
    Long đình, nhà táng
    Cự môn Thiên Cơ
    Áo quan
    Kình Đà, Thiên Hình
    Mai thuổng để đào lỗ
    Hỏa, Linh
    Bó đuốc
    Tả Phù, Hữu Bật
    Quạt ấp mộ
    Văn Xương, Văn Khúc
    Giấy phủ mặt, văn tế
    Thiên Khôi, Thiên Việt
    Ông sư, thầy địa lý
    Lộc Tồn
    Đám tang ít người đưa
    Hóa Khoa, Hóa Quyền
    Quan chức đi đám
    Hóa Kỵ
    Cây phướn
    Tang Môn
    Xe tang
    Bạch Hổ
    Quần áo tang
    Thiên Khốc
    Phường kèn
    Thiên Hư
    gậy chống
    Thiên Mã
    ngựa kéo xe tang
    Quốc Ân
    vàng bạc bỏ vào áo quan
    Đường Phù
    đồ khâm liệm
    Tấu Thư
    văn tế
    Hoa Cái
    lọng che
    Đào Hoa
    cái hô"
    Hồng Loan, Quan Đới
    dây thừng
    Thiên Hỷ
    đèn nến
    Điếu Khách
    người đến phúng điếu.

    chúc mọi người vui vẻ và thành công.
     
  19. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    Cách thức thiết lập lá sô" Tử - Vi-phần 8


    8) Sao lưu động (9 sao) Có 9 sao lưu động, dời chỗ từng năm một, đặc biệt dùng để xem hạn mỗi năm. Ý nghĩa 9 sao lưu động giông như ý nghĩa 9 sao cùng tên ở vị trí cô" định.
    LƯU Thái Tuế
    Tiểu hạn năm nào thì an Lưu Thái Tuế ở cung có tên năm đó. Như năm Tý 1972 thì an Lưu Thái Tuế ở cung Tý.
    LƯU Tang Môn và LƯU Bạch Hổ
    Lưu Tang Môn được an ở cách Lưu Thái Tuế một cung theo chiều THUẬN. Như Lưu Thái Tuế ở Mùi thì Lưu Tang Môn ở Dậu. Lưu Bạch Hổ được an ở cung xung chiếu với Lưu Tang Môn.
    LƯU Thiên Khốic và LƯU Thiên Hư
    Kể từ cung Ngọ kể là năm Tý, đếm nghịch đến cung có tên của năm xem hạn để Lưu Thiên Khốc ở cung đó. Nếu tên năm xem hạn là Mùi thì Lưu Thiên Khốc ở Hợi.
    Kể từ cung Ngọ là năm Tý, đếm thuận đến cung ở năm xem hạn, Lưu Thiên Hư ở đó. Năm Mùi thì Lưu Thiên Hư ở cung Sửu.
    LƯU Lộc Tồn


    Ví dụ: Năm Kỷ hay Đinh thì Lưu Lộc Tồn ở cung Ngọ. Năm Nhăm thì Lưu Lộc Tồn ở cung Hợi.
    LƯU Kình Dương và LƯU Đà La
    Lưu Kình Dương ở trưđc cung Lưu Lộc Tồn. Lưu Đà La ở sau cung Lưu Lộc Tồn. Ví dụ: nếu Lưu Lộc Tồn ở cung Dậu thì Lưu Kình Dương ở cung Tuất và Lưu Đà La ở cung Thân.
    LƯU Thiên Mã
    [​IMG]
    [​IMG]
    Sao chủ mênh và sao chủ thân
    Mỗi người có một sao chủ mệnh và 1 sao chủ thân, được ghi ở khoang giữa lá sô". Không có cách nào nói đến ảnh hưởng của hai loại sao này đốì vđi vận mạng con người. Nhưng cần ghi để biết

    [​IMG]
    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 22/8/13
  20. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    Trong quyển Triết Học Trung Quốc Đại Cương của Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê. Lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành đã được trình bày cặn kẽ.
    Có thể tóm lược lý thuyết này qua những nét chánh yếu sau đây:
    1) Từ lý thuyết Âm Dương Ngữ Hành đến khoa Tử - Vi

    • Lý thuyết này có từ trưđc đời nhà Tần. Tác giả nguyên thủy là Trân Diễn, sinh vào khoảng giữa thế kỷ 3 trước Tây Lịch. Ông sáng lập một triết phái mà các sử học gọi là Âm Dương giả.
    • Đến đời nhà Tần, các sách triết đều bị đốt và bị cấm lưu hành. Muôn học thì chỉ phải học đám quan lại, muôn đọc thì chỉ còn đọc những sách bói toán. Việc cấm đoán tự do ngôn luận khiến các học giả phải dựa vào các sách bói toán mà nghị luận. Sách bói toán bấy giờ là Kinh Dịch, những nghị luận trong sách đó là Dịch truyên. Lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành được tập Dịch truyện này quảng diễn thêm.
    • Đến đời Hán, một triết gia nổi danh là Đổng Trong Thư đã khai triển sâu rộng lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành vổn là sở trường của nền học của ông. Cái gì ông cũng ghép vào Âm Dương Ngũ Hành (như vua là dương, tôi là âm, cha là dương, con là âm, chồng là dương, vỢ là âm... mùa xuân là mộc, hạ thuộc hỏa, thu thuộc kim, đông thuộc thủy, hưđng Đông thuộc mộc, hướng Nam thuộc hỏa, hướng Bắc là thủy, trung ương là thổ). Luật biến hóa của Âm Dương Ngũ Hành được xem là luật biến hóa chung của vũ trụ và của cả con người, có thể áp dụng vào việc trị nưđc. Cho nên, đời Hán có các quan coi riêng về luật biến hóa này để khuyến cáo chính sách quốc gia, đề phòng tai trời ách nước. Việc khuyến cáo sai đưa đến sự huyền chức. Đó là tác dụng bói toán của lý thuyết này. Tác dụng đó đưa đến sự thành hình phủi Tướng sô\ cũng do Đổng Trọng Thư dẫn đầu. Nhiều nho gia đã mượn thuyết Âm Dương Ngũ Hành này để chú thích Kinh Dịch thêm cho phong phú.
    • Phái học Tượng Sô" đó đến đời nhà Tông lại càng thịnh đạt và được phát huy mạnh mẽ để ứng
    dụng vào những môn học huyền bí. Công trình này do một đạo sĩ Trần Đoàn đã cụ thể hóa vào tưđng
    sô", trong đó khoa Tử - Vi là một ngành. Thành thử, tóm tắt có thể nói:

    • Trân Diễn là nguyên tổ của lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành.
    • Đổng Trọng Thư là người khai triển và quảng bá lỗi lạc nhất.
    Trần Đoàn là tác giả khai sáng khoa Tượng sô” của họ Đổng và lập ra môn Tử - Vi
    Đó là lược dẫn nguồn gốc của khoa Tử - Vi.
    2) Nôi dung lý thuyết Âm Dương Ngữ Hành
    Trở lại phần lý thuyết nguyên thủy của Âm Dương Ngũ Hành, triết sử ghi rằng: thuyết này nằm trong phần Vũ trụ luận, nhằm tìm hiểu nguyên gốc, đặc tính, qui luật biến hóa của vũ trụ, vạn vận sự thể hiện của vũ trụ, dứt điểm của vũ trụ. Lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành bắt nguồn từ hoc thuyết Thái Cưc và các nghi luân rút trong Kỉnh Dịch.
    Học thuyết này cho rằng nguồn gốc sơ khởi nhất của vũ trụ vạn vật là Thái Cức. Thái Cực cùng với Âm Dương là những ý niệm cơ bản của Kinh Dịch. Âm Dương đươc thông nhất trong Thái Cưc. Sự phát sinh của Âm Dương từ Thái Cực theo một đại lịch trình (gọi là Dịch, nói khác đi là quy luật chuyển động biến hóa - loi des mouvments hay dialectique). Đại lịch trình đó được diễn tả qua trích văn sau đây, lấy trong Hệ từ truyện:
    “Dịch là Thái Cực, sinh ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh ra Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh ra Bát Quái”.
    Khởi điểm của lịch trình là Thái Cực, từ đó mới sinh ra Lưỡng Nghi (tức là 2 khí Âm, Dương), kế đến mđi sinh tiếp Tứ Tương (là bôn mùa), từ Tứ Tượng mđi tiếp sinh Bát Quái (tức tám hiện tượng lớn và cơ bản của vũ trụ). Đó là Càn (chỉ Trời), Khôn (chỉ Đất), Chấn (chỉ sấm sét), Tổn (chỉ gió), Khảm (chỉ nước), Lỵ (chỉ lửa), cấn (chỉ núi), Đoài (chằm hay đồng cỏ thấp có nưđc).
    Trong Thái Cực, tiềm phục 2 khí Âm Dương, về tính chất, 2 khí này vẫn đối lập nhau khi còn ẩn trong Thái Cực. Van vât sinh thành là nhờ 2 khí Ẵm Dươns và cữns nhờ 2 khí đó mà biến hóa. Một khi đơn độc thì không sinh phát được. Phải có sự giao hợp giữa 2 khí thì mới sinh được vạn vật: Đó là cái luật lớn của Trời Đất (gọi là Đức lớn). Đức này là Đức Sinh.
    Cái đức đó chủ sự sinh trưởng, nó là cái đà sông, cái sức thúc đẩy cuộc sông. Luật sinh này theo một qui tắc nhất định gọi là Đao: đó là quá trình diễn biến của sự vật từ lúc bắt đầu đến khi hình thành. Quá trình này phải qua bôn giai đoạn là Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh, hay là 4 hiện tượng, 4 trạng thái diễn biến:

    • Nguyên: là trạng thái tiên khởi của vật khí bắt đầu vào cuộc sông.
    • Hanh: là hanh thông, thông đồng, sự tiếp xúc của nguyên vật với ngoại giới.
    • Lợi: là nhuận lợi, tức là tình trạng của vật đã thích ứng được vđi hoàn cảnh khi tiếp xúc vđi ngoại giđi của giai đoạn Hanh.
    • Trinh: là sự thành tựu hẳn hòi của sự vật.
    Nói khác đi, Nguyên Hanh Lợi Trinh là một quá trình cấu tạo do sự chuyển động nội tại của 2 khí Âm Dương để sinh ra sự vật (processus dialectique) qua các bưđc nói trên của Đạo.
    Khi vật thành hình, vật cũng biến động theo một chu kỷ (cycle dialectique) gồm 4 bước: Thành, Thịnh, Suy, Hủy, đánh dấu mức độ phát triển và suy tàn dần dần của 2 khí Âm Dương giao tiếp:

    • Thành: là giai đoạn của Thiếu Dương, giai đoạn Khí Dương vừa từ Thái Âm sinh ra.
    • Thịnh: là giai đoạn của Thái Dương, giai đoạn của khí Dương phát triển cao độ.
    • Suy: là giai đoạn Thiếu Âm, giai đoạn khí Âm vừa từ khí Dương sinh ra.
    • Hủy: là giai đoạn của Thái Âm, giai đoạn khí Âm phát triển cực độ, lấn át hết khí Dương.
    Cứ như vậy mà Âm Dương tiếp tục xoay vần, khi thịnh, khi suy, theo một tuần hoàn sinh hóa mà không bao giờ đứt đoạn của luật Đạo.
    Cũng theo đạo biến hóa của Âm Dương và dưới sự thúc đẩy của đức sinh, 4 mùa và ngũ hành được cấu tạo. Đổng Trọng Thư viết:
    “Khí của Trời Đất hợp thì là một, chia thì là Âm và Dương tác ra làm 4 mùa, bày sắp thành ngũ hành”.
    Ngũ hành được các triết gia xem là 5 nguyên tố căn bản của vũ tru. Đó là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy.

    • Mộc: là gỗ hay nói chung tất cả những loại cây.
    • Hỏa: là lửa (chất) hay hơi nóng (biểu tượng).
    • Thổ: là đất (chất) hay nói chung tất cả khoáng vật (trừ kim khí).
    • Kim: là vàng hay nói chung là tất cả các loại kim khí.
    • Thủy: là nước hay nói chung là chất lỏng.
    Đổng Trọng Thư đã xếp ngũ hành theo thứ tự đó: “Một là Mộc, hai là Hỏa, ba là Thổ, bôn là Kim, năm là Thủy. Mộc là hành đầu của ngũ hành, Thủy là hành chót, Thổ là hành giữa. Đó là thứ tự tự nhiên”.
    Thứ tự này có nhiều tác giả không đồng ý (như Ban Có đời Hậu Hán). Nhưng, quy tắc sinh khắc giữa 5 hành thì tương đồng giữa các tác giả. Qui tắc này là:
    Hai Hành kế tiếp nhau thì sinh nhau, mà đứng cách nhau môt hành thì khắc nhau.
    Như vậy thì Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, theo chiều ấn định.
    Qui tắc tương khắc là: Kim khắc Mộc, Thủy khắc Hỏa, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy. (Có cách dùng chữ thắng thay cho chữ khắc, nhưng cùng đồng nghĩa vđi nhau).
    Nếu Âm Dương có phương vị và đường lốì lại riêng của Âm Dương thì ngũ hành cũng thế. Vậy, tất nhiên phải sinh mốì quan hệ giữa Âm Dương và Ngũ Hành trong không gian và thời gian. Theo Đổng Tử thì gặp lúc khí dương đang thịnh mà hành Mộc thì hành Hỏa lại được khí Dương ấy giúp vào thì thành mùa xuân, mùa hạ và vạn vật sinh trưởng, gặp lúc khí Âm đang thịnh mà hành Kim, hành Thủy lại được khí Âm giúp vào thì thành mùa Thu, mùa Đông. Vì 2 cái khí Âm Dương đắp đổi thịnh suy và luôn luôn luân chuyển, cho nên ảnh hưởng của nó đốì vđi ngũ hành không dứt và 4 mùa vì thế xoay vần bất tuyệt”.
    Mỗi Hành làm chủ cái khí của một mùa.
    “Mộc ở phương Đông là chủ khí Xuân, Hỏa ở phương Nam là chủ khí Hạ, Kim ở phương Tây làm chủ khí Thu, Thủy ở phương Bắc làm chủ khí Đông. Cho nên Mộc chủ sinh mà Kim chủ sát, Hỏa chủ nóng mà Thủy chủ lạnh. Thổ ở giữa gọi là Thiên nhuận. Thổ là chân tay của Trời, đức của Thổ tươi tốt, không thể dựa vào công việc riêng của một mùa mà mệnh danh cho Thổ được: cho nên có ngũ hành mà lại có tứ thời là vì Thổ kiêm cả Tứ thời.
    Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, tuy mỗi hành có một chức vụ, nhưng không nhờ nơi Thổ thì Kim, Mộc, Hỏa, Thủy không đứng vững.
    Như vậy, Đổng Trọng Thư đã đặt cho Thổ một vai trò hết sức đặc biệt, vừa kiêm cả Tứ thời, vừa là chỗ dựa cho 4 hành còn lại. Điểm này được phản ảnh sau này trong khoa Tử - Vi.
    Thuyết ngũ hành, nguyên được suy diễn từ pháp thuật ngũ hành của cổ nhân, cổ nhân cho rằng sư ảnh hưởng qua lai giữa con người và sư vât trong vũ tru, cho nên quan sát các hiện tượng của vũ trụ
    có thể đoán phúc họa cho con người. Vì vậy, Phái Tượng Sô" mới ghép ngũ hành vào một trong 6 phép của thuật sô". Sáu phép đó là: Thiên Văn, Lịch Phổ, Ngũ Hành, Thi Qui (bói có thi, bói rùa, Tạp Chiêm (đoán điềm), Hình Pháp (xem tướng). Thuyết ngũ hành được phổ cập rất nhiều ở thời chiến quốc, nhất là vào cuối thời này. Cái gì cũng đươc người ta ngũ hành hóa (bôn phương, bôn mùa). Trân Diễn còn đem ngũ hành vào triết học lịch sử, gán ngũ hành vào Ngũ đức. Nhưng cái dụng phổ biến nhất của
    thuyết ngũ hành là cái dụng bói toán của phái Tượng Sô". Nhờ đó mà đạo sĩ Trần Đoàn mđi khai sáng ra
    khoa Tử - Vi, dùng sao trên trời, được âm dương hóa và ngũ hành hóa, để xếp bày vận scf của con người, để rồi từ đó, suy diễn trên qui luật biến hóa Âm Dương Ngũ Hành, những ý nghĩa trên con người.
    Đến đây, tưởng cần xét về sự áp dụng qui luật biến hóa này vào khoa Tử - Vi.
    B. SƯ ỨNG DUNG VÀO KHOA TỬ - VI
    Những nhận xét sau đây đáng được nêu lên:

    • Khoa Tử - Vi bi Âm Dươns hóa và Ngữ hành hóa

    • về tuổi có tuổi Âm, tuổi Dương. Vì tuổi gồm 2 yếu tô" Can và Chi, nên Can, Chi cũng bị Âm
    Dương hóa. Chẳng hạn như:

    • Dương gồm 5 can: Giáp, Bính, Mậu, Danh, Nhâm, và 6 chi Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất.
    • Âm gồm có 5 can: Ất, Đinh, Kỷ, Tây, Quý, và 6 chi: Sửu, Mão, Tỵ, Mùi, Dậu, Hợi.
    Mỗi tuổi có một hành riêng như Giáp Tý, Ất Sửu thuộc hành Kim, Bính Dần, Đinh Mão thuộc hành Hỏa v.v...

    • Ngày, tháng, giờ cũng có can, chi riêng. Ví dụ sinh vào ngày 8 tháng 8 giờ Dần thì là ngày Tân Sửu, tháng Mậu Thân, giờ Canh Dần. Như vậy, ngày sinh này cũng có cả Âm Dương Ngũ Hành pha trộn nhau.
    • Cuc cũng có hành riêng. Vì mỗi hành trấn ngự một scf cung và theo một phương hưđng riêng, nên hành của cục cũng bị qui tắc ngũ hành chi phối.
    • Mênh của mỗi người đóng một cung được Âm Dương hóa. Ví dụ ở cung Dần là Dương, Mão là Âm, cả 2 thuộc Mộc.
    • Chính tinhTrơ tinh, mỗi sao có một hành riêng. Ví dụ cung Mệnh ở Dần (Dương Mộc) có Liêm Trinh (Hỏa) tọa thủ thì sẽ gặp sự chi phô" của cung Dương Mộc đối vđi sao Hỏa này.

    • Tương quan quá phức tap giữa các đôi tương của hê thông Âm Dương Ngữ Hành
    Sự kiện năm tháng ngày giờ, can, chi, mệnh, cục, chính tinh, phụ tinh và các cung bị Âm Dương và Ngũ hành chi phôi đồng loạt đã gây lên một hệ thông tương quan phức tạp giữa các đốì tượng. Điều này làm cho người giải đoán Tử - Vi lâm vào một mê hồn trận hầu như không có lốì thoát.
    Thật vậy, người ta thấy ít nhất phải có sự cân nhắc giữa các chiều hướng chi phôi sau:

    • Sự chi phôi giữa Bản Mệnh và Cục về mặt ngũ hành.
    • Sự chi phôi giữa tuổi Dương, tuổi Âm đốì với Mệnh ở Dương hay Âm cung.
    • Sự chi phôi giữa cung an Mệnh vđi chính tinh thủ Mệnh. Trong trường hợp chính tinh thủ Mệnh có 2 ngôi khác hành nhau, sự chi phôi càng thêm phức tạp.
    • Sự chi phô" giữa chính tinh thủ mệnh và hành của Bản Mệnh.
    Sự chi phôi giữa chính tinh và phụ tinh thủ Mệnh vđi hành của cung an Mệnh.
    Đó là chưa kể các sự chi phôi của cung Phúc Đức. Cung này được xem như rất quan trọng vì có hiệu lực chi phôi trên 2 cung khác.
    Nếu phải quan tâm cân nhắc tất cả các mốì liên hệ chằng chịt đó, sự luận đoán chắc chắn sẽ rơi vào chỗ võ đoán, vì không có một nguyên tắc nào ưu thắng: tất cả đều có tầm quan trọng hầu như ngang nhau. Mỗi yếu tô" chi phôi là hàm scf của yếu tô" khác. Thành thử, ta có một hê thôns hàm sô' vô cùng phức tap đến nỗi khó lòng tìm được một phương trình chung. Điều này làm cho khoa Tử - Vi tối nghĩa, khó hiểu, làm giảm đi giá trị của môn học này. Cho đến nay, chưa thấy sách vở nào khai phá được phương trình hàm số bách biến đó. Nếu chỉ tìm được một phương trình tổng quát thì sự luận đoán không cụ thể, làm giảm giá trị khoa bói toán.
    Tuy nhiên, dù không tìm được phương trình bách biến đó, ta vẫn có thể suy diễn được vài nguyên tắc căn bản hưđng dẫn việc luận đoán.

    • Quan trong nhât là qui luât Âm Dương
    Theo đúng lý thuyết thì 2 khí Âm Dương là động cơ nguyên thủy phát sinh ra 4 mùa và 5 hành. Luật biến hóa của Âm Dương thế thất phải quan trọng hơn luật biến hóa của ngũ hành. Nói khác đi, luật biến hóa của ngũ hành là luật nhỏ, bị đóng khung trong qui luật Âm Dương. Điểm này có nhiều hệ luận trong khoa Tử - Vi.

    • Mênh ai tương hơp với luât Ầm Dương thì lơi lôc hơn. Chẳng hạn con trai có tuổi Dương, mệnh đóng ở cung Dương, sinh vào ban ngày (thời gian ảnh hưởng của Thái Dương), được các dương tinh tọa thủ, sẽ có nhiều tương hợp thuận lý, lợi cho lá sô".
    • Hai sao Thái Ầm và Thái Dương càng sáng sủa thì càng đắc cách. Thái Dương biểu tượng cho bên nội, cho cha, cho chồng, Thái Âm biểu tượng cho bên ngoại, cho mẹ, cho vỢ. Hai sao Nhật Nguyệt mà sáng sủa thì nguyên lý Âm Dương tương thuận: đương scf sẽ ảnh hưởng được dương phúc và âm phúc của 2 giòng họ, của cha và mẹ, của vỢ và chồng, chưa kể ảnh hưởng tốt đẹp đến con trai, con gái. Như vậy, tác dụng của Âm Dương có tính cách di truyền khá mạnh và khá rộng. Vì vậy, quan niệm người xưa cho rằng qui tắc Âm Dương mà thuận lợi thì nhân sinh quan của đương scf sẽ hương vượng. Như thế, ý niệm phúc đức nhân sinh liên hệ chặt chẽ với ý niệm tương thuận của nguyên lý Âm Dương của vũ trụ. Nhân sinh quan và vũ trụ quan liên đđi mật thiết với nhau. Phần phúc đức của con người gắn liền vđi sự tương hợp của yếu tô" Âm Dương trong vũ trụ. Có lẽ hàm scf hạnh phúc nhân loại tùy thuộc vào biến sô"hợp vị của nguyên lý vũ trụ này.

    • Qui luât ngũ hành quan trong nhì
    Ngũ Hành là hậu quả của sự tác hóa Âm Dương, giông như cái ngọn phát sinh từ cái gốc. Do đó, qui luật ngũ hành tất phải kém quan trọng hơn qui luật Âm Dương.
    Sự đi đôi của Âm Dương và Ngũ Hành được thể hiện trong hầu hết các sao, nhất là chính tinh. Ví dụ như Thái Dương là Dương tinh thuộc hành Hỏa, Phá quân là Âm tinh thuộc hành thủy, Văn Xương là Dương tinh hành Kim.
    Nhưng, có một sô" lớn phụ tinh có ngũ hành mà lại thiếu Âm Dương. Ví dụ như Địa không, Địa kiếp không có Âm Dương mà chỉ có hành Hỏa. Chưa có tác giả nào cắt nghĩa được sự thiếu sót này. Chính sự thiếu sót này đã mâu thuẫn với lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành song đôi. Thật vậy, Ngũ Hành không tự sinh mà phải thoát thai từ Âm Dương, cho nên Ngũ Hành là phải có Âm Dương đi kèm. Không hiểu tại sao Trần Đoàn lại bỏ sót việc Âm Dương hóa một phụ tinh. Phải chăng, các tác giả hậu sinh đã bỏ sót?
    Dù sao sự thiếu sót đó làm cho lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành chưa được hoàn bị. vấn đề đặt ra là, về mặt thực dụng, sự thiếu sót đó có di lụy nào cho việc giải đoán?
    Trưđc hết, ta thiếu yếu tô" để cân nhắc tinh vi.
    Thứ đến mà ta không đốì chiếu được 2 loại sao có và không có Âm Dương tinh. Chung cuộc chỉ còn các xét các sao về mặt ngũ hành mà thôi, tức là phải bỏ gốc xét ngọn, dù biết đó là một thiếu sót.
    Riêng về mặt ngũ hành, qui tắc chi phôi giữa các sao vẫn là qui tắc lý thuyết. Qui tắc này gồm 5
    điểm:

    • Hai Hành kế tỉếv nhau thì tương sinh.
    Thứ tự kế tiếp là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Như vậy, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy và Thủy sinh Mộc.

    • Hai hành đứng cách nhau môt hành thì tương khắc.
    Như thế Mộc khắc Thổ, Hỏa khắc Kim, Thổ khắc Thủy, Kim khắc Mộc.

    • Sư tươns sinh hay tươns khắc chỉ theo môt chiều.*
    Cụ thể là Mộc sinh Hỏa chớ hỏa không sinh Mộc, Kim khắc Mộc chứ Mộc chẳng khắc được Kim. Không khắc được dĩ nhiên không có nghĩa là sinh. Trong việc sinh khắc, co một hành tích cực (sinh, khắc) và một hành tiêu cực (được sinh, bị khắc).

    • Hành sinh tiêu cưc đươc lơi hơn
    Mộc sinh Hỏa thì Hỏa được phù trợ, trong khi Mộc bị hao tán.

    • Hành khắc tích cưc ưu thế hơn
    Kim khắc Mộc vị tất Kim phải ưu thắng, Mộc bị thiệt.
    Nói theo nhãn quan Tử - Vi thì ngũ hành các sao càng tương sinh nhiều thì càng lợi cho người đó.
    Ngược lại, nếu có nhiều tương khắc thì càng bất lợi.
    c) Tương thuân, tương nghich giữa Âm Dương và Ngũ Hành
    Qui luật sinh khắc giữa các sao về Âm Dương Ngũ Hành rất phức tạp. Càng có nhiều sao can dự,
    càng rắc rối. Sự sinh khắc qua lại giữa nhiều sao chắc chắn đưa đến một mê hồn trận cho người giải đoán, nhất là khi chúng ta chưa tìm được công thức phức tạp về sinh khắc.
    Đây là một sự phức tạp cô" hữu, không thể giản lược. Mọi nỗ lực giản dị hóa đều bao hàm nhiều sai sô". Cho nên, tuy ta không tìm được công thức sinh khắc chung, chúng ta cũng sẽ không thể giản dị hóa qui luật sinh khắc. Nhưng, có thể có 4 trường hợp sinh khắc tổng quát, giản dị nhất giữa 2 sao, về mặt Âm Dương lẫn Ngũ Hành. Đó là các trường hợp:

    • Thuận Âm Dương, thuận Ngũ Hành.
    • Nghịch Âm Dương, nghịch Ngũ Hành.
    • Thuận Âm Dương, nghịch Ngũ Hành.
    • Nghịch Âm Dương, thuận Ngũ Hành.
    Nếu chỉ căn cứ vào đó mà đánh giá hay dở, thì trường hợp đầu tiên là lý tưởng nhất. Hai trường hợp sau lợi hại tương đương. Nhưng tác giả cho rằng trường hợp thứ 3 (thuận Âm Dương, nghịch Ngũ Hành) tương đối tốt hơn trường hợp chót. Dự đánh giá đó căn cứ vào thứ tự ưu tiên chi phôi của Âm Dương trên ưu tiên chi phôi của Ngũ Hành.

    • Ngũ hành của chính tinh vđi phu tinh
    Tử - Vi học chi thành chính tinh và phụ tinh. Tính chất chính hay phụ, tự nó quyết định thứ tự quan trọng rồi: chính tinh phải xem như quan trọng hơn phụ tinh.
    Vì vậy, về mặt ngũ hành, theo thiển ý hành của chính tinh phải trôi yếu hơn hành của phu tinh. Trong trường hợp có tương khắc, phải đánh giá sự hay dở theo thứ tự quan trọng đó.
    Nếu 1 phụ tinh khắc hành vđi chính tinh, sự khắc chế này không quan trọng lắm. Nhưng, nếu 1 trong cung có quá nhiều phụ tinh khắc hành vđi chính tinh, thì chính diệu này bị nghịch cảnh lđn. Rất khó xác định sô" lượng phụ tinh trong trường hợp này.

    • Ngũ hành của các cung và sao
    Cung là môi trường sinh trưởng của sao. Vì vậy, hành của cung ảnh hưởng trực tiếp đến hành của sao. Theo thiển ý, hành cung quan trọng hơn hành sao, vì làm cho hành sao tăng hay giảm giá trị. Chẳng hạn sao Hỏa đóng ở cung Thủy sẽ mất nhiều tác dụng. Ngược lại, sao Hỏa đóng cung Mộc sẽ thịnh hơn. Giữa cung và sao chỉ có tác dụng bị ảnh hưởng: không có sự chi phôi ngược lại.
    Nếu đi tìm một hình ảnh, thì cung ví như đất, sao ví như cây cốì. Đất xấu làm cây xây, đất tốt sinh cây tốt.
    Vì vậy, hành của cung rất quan trọng và quan trọng hơn hành sao vì chi phôi vào hành sao theo một chiều nhất định. Việc luận đoán Tử - Vi không nên bỏ qua yếu tô" này.
    Ngũ hành của cung được quy định như sau:

    • Cung Mộc ở 2 ô Dần và Mão.
    • Cung Hỏa ở 2 ô Tỵ và Ngọ.
    • Cung Kim ở 2 ô Thân và Dậu.
    • Cung Thủy ở 2 ô Hợi và Tý.
    • Cung Thổ ở 4 ô Thìn, Tuất, Sửu và Mùi.
    Chỉ riêng Thổ chiếm đến 4 cung và xen kẽ với các cung khác Hành.

    • Vi trí quan trong của cung hành Thổ
    Trong khi mỗi hành Mộc, Hỏa, Kim, Thủy, Thổ chiếm 2 cung liền nhau thì hành Thổ chiếm 4 cung, mà vị trí ở xen kẽ 2 cung khác hành.
    Sự bô" trí này dường như bắt nguồn từ quan niệm cho rằng đất ở rải rắc khắp nơi và chứa đựng 4 nguyên hành khác. Theo Đổng Trọng Thư thì “Thổ ở giữa gọi là Thiên nhuân. Thổ là chân tay của Trời, đức là Thổ tươi tốt không thể dựa vào công việc riêng của một mùa mà mệnh danh cho Thổ được:
    cho nên có ngũ hành mà chỉ có Tứ Thời là vì Thổ kiêm cả Từ Thời”.
    Bôn cung Thổ được gọi là 4 cung Mộ (hay Tứ Mô hoặc Tứ Quí) đệm ở giữa 2 hành tương sinh. Theo Nguyễn Mạnh Bào thì trong khoảng 2 hành sinh nhau lại có Tứ Quí thuộc Thổ, tức con đệm ở trong để dung hòa đều đặn, tránh những gì quá sức động mà có hại cho sự sinh tồn”.
    Có tác giả dựa vào đó mà cho rằng người nào cung Mệnh an tại Tứ mộ là có thiên phước, được dành cho chỗ vừa ý, lại có tính đảm đang, thích ứng được với nhiều hoàn cảnh. Tuy nhiên, nhận định hãy còn nhiều phiến diện và tổng quát, chưa hẳn có giá trị quyết định.

    • Tương quan giữa Mênh, chính tinh thú Mênh và cung an Mênh
    Trên mặt ngũ hành phải đặc biệt quan tâm đến tương quan giữa 3 yếu tô" quan trọng của lá scf là Bản Mệnh, chính tinh thủ mệnh và cung an Mệnh. Trong 3 yếu tô" này, Bản Mênh bao siờ cũng quan trons hơn hết.
    Nếu Bản Mệnh được hưởng sự phù sinh càng nhiều thì càng đắc lợi. Qui tắc phù sinh lý tưởng nhất
    là:
    Cuns an Mênh sinh đươc chính tỉnh thủ Mênh, chính tỉnh thủ Mênh lai sinh đươc Bản Mênh. Ví dụ như cung Mệnh an tại Mão thuộc Mộc, có Thái Dương thuộc Hỏa tọa thủ, Bản Mệnh lại thuộc Thổ. Nhờ vậy, Thổ mệnh được phù sinh ở 2 hệ cấp: cung an Mệnh phù sinh chính tinh, rồi chính tinh phù sinh Bản Mệnh.
    Nếu có 1 tương khắc thì kém tốt, nếu có đến 2 cấp khắc thì xấu cho Bản Mệnh. Ngoài ra, nếu Bản Mệnh sinh chính tinh hay khắc chính tinh, hoặc khắc cung an Mệnh thì bất lợi cho Mệnh.