...

Thảo luận trong 'Phần Mềm Xổ Số - Phát Hiện - Phát Triển' bắt đầu bởi kieuphong_@, 28/7/13.

  1. kieuphong_@

    kieuphong_@ Thần Tài Perennial member

    Các Bác ơi.... Topic lớp mầm Kp Post lung tung... Kp ko có biết gì hết !!
    Đừng Up bài nữa... Tks
     
    Chỉnh sửa cuối: 3/3/15
  2. TIỂU YẾN TỬ_@

    TIỂU YẾN TỬ_@ Thần Tài Perennial member

    ko up bài nữa nhưng up cí này đc hong lão bang chủ ? :134:

    hum bữa thấy cái này vui vui up cho bang chủ coi ..đở căng thẳng chút hen :nhay:
    haha.jpg
     
    Như_Ngọc thích bài này.
  3. TIỂU YẾN TỬ_@

    TIỂU YẾN TỬ_@ Thần Tài Perennial member

    huynh có nhìn thấy đc cí chữ ký của huynh ko dạ? TYT chỉ nhìn thấy đc cí cục vuông vuông thoi à :tea:
     
  4. LTTL

    LTTL Thần Tài

    Lớp đang học kung-fu mà toàn anh đại mang đao to búa lớn vô xài. Thiệt tình!...
     
  5. LTTL

    LTTL Thần Tài

    ...ko biết trời cao đất dày, đáng thương, đáng thương...đáng tiếc, đáng tiếc
     
  6. TIỂU YẾN TỬ_@

    TIỂU YẾN TỬ_@ Thần Tài Perennial member

    :134::134::134::134::134::134::134::134:
     
  7. LTTL

    LTTL Thần Tài

    Thì chủ cốc đang truyền giảng nội công, mấy thứ ở trển nhào ra múa kiếm thế mới buồn cười!
     
    baycamau 999, Fine_79 and kieuphong like this.
  8. LTTL

    LTTL Thần Tài

    Kiều bang chúa! Cho ngu hạ góp ý một lời:
    Giáp Ất Bính Đinh... thì một dương một âm xen kẽ, tuần tự tiến tới. Riêng thập nhị can ko thể một dương một âm như vậy được. Xét theo triết học Phương Đông, tổ hợp can chi sẽ là dương hết. Như cách giảng của Kiều Bang Chúa: Giáp (+) Tý (+) thì Giáp Tý (+). Dương hết 60 hoa giáp!
     
  9. kieuphong_@

    kieuphong_@ Thần Tài Perennial member

    Lạc Thư Hoa Giáp của Việt Nam
    Lục Thập Hoa Giáp của Trung Quốc
    [​IMG]
    Lạc Thư Hoa Giáp chỉ thay đổi ở mạng Thủy Hỏa

    [​IMG]


     
    Chỉnh sửa cuối: 6/3/15
  10. kieuphong_@

    kieuphong_@ Thần Tài Perennial member

    BẢNG NẠP ÂM 60 NĂM GIÁP TÝ
    [​IMG]

    [​IMG]

    Ta thấy có 60 tổ hợp của hai chữ.
    Các chữ đầu của các tổ hợp này được gọi là các Thiên Can
    Còn các chữ sau được gọi là các Địa Chi.
    Các tổ hợp 2 chữ này đã được tìm thấy từ thế kỷ 16 trước công nguyên ở Trung Quốc


     
    Chỉnh sửa cuối: 6/3/15
  11. Fine_79

    Fine_79 Thần Tài Perennial member

    Huynh mừ ko tham gia dd nữa , nhóc buồn thật á híc , sory Huynh Fine pam
    :tea::tea:
     
    Cuong638 thích bài này.
  12. LTTL

    LTTL Thần Tài

    Nói chi nghe buồn lạ! Sao riết rồi ai cũng đòi giã từ hết. Tuy tại hạ chân ướt chân ráo mới rong chơi dđ nhưng thấy đóng góp của Kiều Bang Chúa là ko ít . Từ tri thức cho đến những hình ảnh trang trí, mặc dù nhà nghèo chỉ có đt cùi bắp quẹt quẹt nhưng tại hạ thừa biết những icon nhảy múa, mặt cười, hinhđộng...đều được ace trích xuất phần lớn từ topic của Quý Bang. Thôi kệ mọi thứ đi Bang Chúa ơi, tán cho vui sau mỗi ngày làm việc. Ai hiểu sao hiểu, ko có gì quan trọng hết. Rồi mọi thứ sẽ qua đi riêng dđ thì ở lại với tuổi Xuân một thuở...um sùm, í quên, một thuở êm đềm!
     
    DaTang, DAINGOC68, bachho and 7 others like this.
  13. LTTL

    LTTL Thần Tài

    Có một lần tại hạ gặp vị sư già, nghe người nói thật dung dị: " Trong thập nhị can, từ Tý đến Tỵ sáu con giáp đầu dương hết, còn sáu con sau âm hết từ Ngọ đến Hợi! Người Trung Hoa họ giấu bài, cố ý truyền sai. Thật ra trong Can Chi Ngũ Hành rất là tuân thủ quy luật toán học, ví dụ vấn đề Không Vong, đó là phép phủ định: cát gặp Không Vong=> hóa hung, dương gặp phủ định thành âm....
     
  14. kieuphong_@

    kieuphong_@ Thần Tài Perennial member

    XEM TỨ TRỤ ĐỂ BIẾT ĐƯỢC GÌ !!
    [​IMG]

    Một người khi cất tiếng khóc chào đời chính là thời khắc bẩm thụ khí trời đất, mà " Thước đo " chính là Năm - Tháng - Ngày - Giờ. Mà Năm Tháng Ngày, Giờ được thể hiện bằng 4 trụ được tạo bởi các cặp Thiên Can - Địa Chi. Mà các cặp Thiên Can - Địa chỉ có tổng số 60 cặp ( Bắt đầu từ Giáp Tý......), do sự kết hợp giữa Dương Can + Dương chi và Âm Can + Âm chi tạo thành. Chỉ với 60 cặp Can chi này mà hàng ngàn năm nay, con người tìm tòi để ứng dụng trong các môn dự đoán vạn sự trên đời, thì phải nói là chúng ta đã phần nào nắm bắt được quy luật Vận hành của trời đất để ứng dụng vào đời sống xã hội, có được những kết quả mong muốn nhất định nói chung, và môn dự đoán theo Tứ trụ nói riêng.

    Tứ trụ gồm Trụ năm - Trụ tháng - Trụ ngày - Trụ giờ, bản thân từng Trụ như chúng ta đã biết, được đại diện bởi các cặp Can - Chi, Thiên Can có tên gọi Giáp, Ất...... hay Địa chi Tý, Sửu.... Để phân tích, đánh giá Tứ trụ của một người, người ta dùng quy luật của Âm Dương - Ngũ Hành để trả lời chính xác các câu hỏi liên quan đến các vấn đề của cuộc sống mỗi người, mỗi nhà từ cái đã qua cho đến tương lai, từ lúc Sinh đến khi kết thúc sự sống( Chết ) của một vòng đời.

    Vậy, Quy luật Âm Dương - Ngũ Hành là gì ? Nó là quy luật cơ bản nhất của Khí ( Là cái mà ta không nhìn thấy, không sờ thấy, mà hiện nay cũng không có cách gì để đo đếm được thì phải ), và Hình là mọi sự vật tồn tại trên thế gian này. Và mọi thứ đều được quy nạp vào Âm Dương - Ngũ Hành, rồi dùng quy luật của nó để xem xét, phán đoán phát sinh lành dữ của mỗi người, mỗi nhà ở vào thời điểm nhất định ( Đó là Thời gian ). Như vậy, chữ Thời rất quan trọng trong mọi phép đoán, nó là " thước đo " của Thịnh suy của Ngũ Hành. Theo đó, mỗi năm, tháng, ngày, giờ với mỗi người, mỗi nhà .... và với mỗi quốc gia hay với Trái đất này sẽ có trạng thái riêng, chỉ sự phát triển của mình trong một giai đoạn phát triển, nằm trong vòng Sinh - Tử. Vậy giai đoạn đó lấy gì để biết được nó hoạt động ra sao, đặc trương của nó là gì ..v..v.. >>> Chỉ có thể dùng Âm Dương - Ngũ Hành và Thời gian để luận giải.

    Âm Dương - Ngũ hành là khái niệm quan trọng trong Dịch học, nó bao quát vạn sự bao la như Vũ trụ hay những sự vật, hiện tượng dù nhỏ nhất đều được Quy nạp vào Âm dương - Ngũ hành. Ví như Trong - ngoài, Trên - dưới, Đất - Nước .... Như với con người Nam, Nữ; Cao - thấp, Béo gầy, ...., trong cơ thể là Tim, Phổi, hay hình thể Đầu - Thân mình, chân, tay ... cũng như Giầu - nghèo, Sang - Hèn, Thọ yểu, Vợ chồng, Con cái, Tình yêu, hôn nhân ..... Vậy mỗi vấn đề đã quy nạp vào Âm dương - Ngũ hành trên với con người mà nói, khi nào thì phát sinh, ứng nghiệm vào ai, việc gì, bộ phận nào trên cơ thể ..v.v.. Chỉ có thể dùng Thời vận để đo lường sự Sinh - Khắc; Vượng suy của Âm dương - Ngũ hành .... để xét đoán.

    Thời Vận là gì ?

    Thời là thời gian, được thể nghiệm thông qua Can - Chi chủ quản mỗi năm mà ta đã biết, như năm 2011 là Tân Mão. Còn Vận là gì, quả là khó nói, khó diễn giải hết căn cứ, ý nghĩa của nó. Nói một cách đơn giản là song song với Thời gian vận hành liên tục không ngừng, còn có một đơn vị đo lường khác tồn tại song song, mà với mỗi người có một Vận riêng, và Vận này cũng được tạo bởi cặp Can - Chi, thí dụ như Giáp Tý hay Ất sửu chẳng hạn. Do vậy, người ta thường nói Thời vận mới thể hiện được cơ sở để đoán định các sự vật hiện tượng suy ra.

    Con Người đã bẩm thụ khí của Trời Đất, cho lên cũng không thoát khỏi quy luật vận động của Trời đất (Thông qua Âm dương-Ngũ hành). Mõi người sinh ra đều có Tứ trụ: Năm Tháng Ngày Giờ gọi là nguyên Mệnh, có tứ trụ tức là đã biết được Khí Âm dương, sinh vượng, trong đục, thông qua quy luật Sinh khắc, chế hoá ..v.v..để biết được Mệnh Giầu-nghèo; Sang-Hèn; Thọ-Yểu; Bệnh tật; Tai hoạ; Tình yêu; Hôn nhân; hoàn cảnh gia đình; thăng quan tiến chức; Tiền tài danh vọng ..v.v.. Thông qua Thời Vận để biết được khi nào thì phát sinh tốt xấu, ứng vào ai trong gia đình hay bộ phận nào trên cơ thể; Hay khi nào nên kết hôn, hôn sự thế nào, khi nào nên đầu tư kinh doanh, kinh doanh nghành nghề nào; Đi về phương nào kinh doanh thì có lợi được giầu sang phú quí, phương nào thì bất lợi, thậm trí phá sản ..v.v.. cũng là tuỳ Người, tuỳ Thời Vận >>> Đó cũng là mục đích nghiên cứu các môn Dịch học nói chung, Dự đoán tứ trụ nói riêng. Đó chính là Lý do để môn Dự đoán theo Tứ trụ tồn tại hàng trăm năm, luôn có sức sống mới, đặc biệt như chúng ta đang ở thời kỳ Vận 8-Bát bạch là thời kỳ sức sống của Dịch học đang được Thời, bởi được Ông Sao tốt quản

    Nói tóm lại, Dự đoán Tứ trụ là để biết dước lành-Tránh dữ cho phù hợp với quy luật vận hành của Trời đất, là quy tắc chung của mọi môn phái là"Thuận Trời thì sống, chống lại thì chết".

    Vận mệnh trong dự đoán tứ trụ :
    Mệnh là năm, tháng, ngày giờ sinh của mỗi người chúng ta.
    Vận : Là gì nhỉ ? trong môn dự đoán theo Tứ trụ, Vận được hiểu đơn giản là các phân đoạn của một đời người, từ khi sinh ra đến khi mất đi, mỗi người đều có Vận trình riêng ( Thường gọi trong dự đoán là Đại và Tiểu vận ), và những người sinh cùng ngày sẽ có Đại vận giống nhau, chỉ có Tiểu vận là khác nhau. Và những người có cùng năm, tháng, ngày, giờ sinh sẽ có Đại, tiểu vận giống nhau >>> về cơ bản sẽ có Vận trình giống nhau.

    Mỗi Đại vận là do một cặp Can - Chi ( là 1 trong 60 cặp Can chi từ Giáp tý, Ất sửu .....thường gọi là vòng Giáp tý/ vòng đời ) chủ quản 10 năm, quyết định sự Cát - Hung ( tốt xấu ) trong vòng 10 năm của người đó. Như vậy bất cứ ai sinh ra trên đời thông thường sẽ trải qua 6 Đại vận là đi hết một vòng Giáp tý, tương ứng với 60 năm của cuộc đời.

    Như vậy, bất cứ ai, trong 60 năm cuộc đời, thông thường cũng sẽ có 2 cặp Can - Chi trong 60 cặp Can - Chi của vòng Giáp tý sẽ là các Đại vận tốt nhất, và sự tốt đẹp có được trong cả 10 năm mà Đại vận đó quản, vì các cặp can chi cùng khí, ví dụ : Canh Thân; Tân dậu ..v.v... Và còn có 22 cặp Can - Chi trong đó có các Can hoặc Chi tốt cho Mệnh, ví dụ như Canh dần; Giáp Thân ..v.v..nhưng chỉ phát huy tốt trong 5 năm của 10 năm Đại vận đó quản. Như vậy, trong 60 cặp Can - Chi có tới phân nửa là xấu, trong đó có 2 cặp can chi tương ứng với 2 Đại vận sẽ là cực xấu.

    Như vậy, có thể nói Đại vận của mỗi chúng ta đã do ngày sinh quyết định, không thể thay đổi. Mà mỗi đời người nếu sống đến 60 tuổi, tức là đã đi hết một vòng Giáp tý, cũng chỉ trải qua 6 Đại vận trong tổng số 60 cặp Can chi (mỗi cặp Can chi ứng với 1 Đại vận). Do đó, ai sinh ra mà trong 6 đại vận đầu đời mà gặp được 2 đại vận cực tốt trong số 60 cặp Đại vận kể trên kể như người đó có Phúc cực to mới có thể gặp được. Người thường thật khó biết bao

    Mệnh và Đại vận của mỗi người đều thông qua thước đo thời gian mà thể hiện sức mạnh tàng chứa của mình.

    Mệnh tốt gặp vận tốt thì như ông Thiệu Vĩ Hoa nói "Áo gấm còn thêu hoa", nếu còn gặp năm tốt thì đúng là thêu hoa toàn rồng bay phượng múa. Người lại thì sự tốt xấu do Mệnh, Vận và lưu niên quyết định.

    Tóm lại, Mệnh và Đại, Tiểu vận đều thông qua thời gian mà biến đổi. Sự tổng hợp tốt xấu về Mệnh của một người thường phải thông qua sự tổng hợp tốt xấu của 6 cặp Can - chi là năm, tháng, ngày, giờ sinh và Đại vận, lưu niên của người đó. Do đó, môn dự đoán theo tứ trụ là một trong những môn học khó lắm bắt nhất, nhưng người dự đoán tốt sẽ dự đoán chính xác các sự việc lớn tốt xấu sảy đến với mỗi người, và tất nhiên nếu biết trước được Mệnh vận thì có thể phòng tránh, có thể biến hung thành cát, ít nhất cũng giúp giảm được điều hung với mình và người thân, và tất nhiên khi biết vận tốt đến thì tranh thủ chớp thời cơ mà không bị bỏ lỡ các cơ hội trời cho.

    Và tìm cát tránh Hung hoạ trong môn Dự đoán theo tứ trụ gồm đa số các mặt quan trọng trong đời sống của chúng ta như hôn nhân, thăng quan tiến chức, giầu nghèo, sang hèn, thọ yểu hay tai nạn, bệnh tật, tai hoạ, phá sản..v.v..


    Như vậy,câu trả lời cho câu hỏi xem tứ trụ biết được gì chỉ gói gọn trong hai từ mà thôi, Trước là biết "mình" sau là biết "thời thế"

    Biết mình là dựa vào ngũ hành của ngày tháng năm sinh rồi cân đong đo đếm để tìm ra chỗ thừa thiếu. Thừa thì bớt đi mà thiếu thì bù vào sao cho được cân bằng. Từ đó tìm ra được ưu khuyết điểm, Phát huy ưu điểm, giảm bớt khuyết điểm thì con người có thể phát triển một cách mạnh mẽ và toàn diện nhât.

    Biết vận là biết thời thế, vận tốt thì tùy thời xông pha, vận xấu thì biết đường né tránh, tốt thì càng phải cố gắng tốt hơn, xấu thì cũng có thể làm giảm bớt, tuy không thể đổi trắng thay đen từ xấu sang tốt nhưng cũng có thể đón lành tránh dữ.

    Biết mình biết thời thế là sống hài hòa thuận theo cái lẽ tự nhiên của trời đất. Trên có trời, dưới có đất, con người sống ở giữa phải nương theo đó mà tồn tại và phát triển. Thuận thiên giả tồn mà nghịch thiên giả vong là cái lẽ như vậy.


    Cái khó của Tử Bình giống như môn hóa học vậy. Chúng ta đã biết về 5 vật chất cơ bản, và hiểu về nó. Tuy nhiên giống như các chất hóa học phản ứng với nhau thì ngũ hành cũng không độc lập mà có sinh khắc chế hóa theo một qui luật nhất định.Các hành đều thay đổi không còn giữ nguyên về tính và lượng sau khi phản ứng với nhau, chúng ta quan tâm kết quả của cuộc phản ứng này ra sao.

    Các môn học của phương đông không thể học trong một chốc lát được, mỗi ngày học và cảm nhận thêm được một ít cũng là quí lắm rồi....

    Cẩn thận : Môn này có thể hại não !!



     
    Cuong638 thích bài này.
  15. kieuphong_@

    kieuphong_@ Thần Tài Perennial member

    NHÂN DỊP ĐI CHÙA
    TRANH THỦ SƯU TẦM VÀI PIC

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    Biết để tránh & để phòng...
    [​IMG]
    Không phải biết để trốn... có trốn cũng không thoát !!



     
    Cuong638 thích bài này.
  16. ORA'S

    ORA'S Thần Tài Perennial member

    Đệ cũng vậy, nghe H nói vậy đệ Cảm Thấy Hoang Mang & Buồn lắm. :137: :132::137:.
     
  17. kieuphong_@

    kieuphong_@ Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    7 lời khuyên của Khổng Tử

    * * *
    1. Tâm còn chưa thiện, phong thủy vô ích.
    2. Bất hiếu cha mẹ, thờ cúng vô ích.
    3. Anh em không hòa, bạn bè vô ích.
    4. Làm việc bất chính, đọc sách vô ích.
    5. Làm trái lòng người, thông minh vô ích.
    6. Không giữ nguyên khí, thuốc bổ vô ích.
    7. Thời vận không thông, mưu cầu vô ích.


     
    Chỉnh sửa cuối: 30/3/15
    Happy1982 and Cuong638 like this.
  18. ORA'S

    ORA'S Thần Tài Perennial member

    hihihi...H cũng biết đệ nữa hả? hí hí hí...đệ Vui Lắm...khi có ai đó gọi Tên đệ! đệ Chúc H Nhiều Niềm Vui và Sức Khỏe Nhooa, hihihi ummoa :140:.
     
    DAINGOC68, NAM CHINH, bachho and 3 others like this.
  19. kieuphong_@

    kieuphong_@ Thần Tài Perennial member

    [​IMG]

    LUẬN

    ẤN - THỰC - TÀI - QUAN


    - Từ... Tử Bình luận cách cục độc chỉ có lấy 4 vị là : Tài, Ấn, Quan, Thực làm đề cương để lập danh nghĩa. Tạo hoá lưu hành trong trời đất chẳng qua chỉ là âm dương ngũ hành mà thôi. Âm dương ngũ hành tương giao làm dụng chẳng qua chỉ là sinh khắc chế hoá. Nay lấy Giáp Ất là ví dụ, lấy can ngày để luận.
    - Giáp Ất tại ngũ hành thuộc mộc, Giáp là dương mà Ất là âm, như mệnh người sinh được Giáp Ất là nhật chủ thuộc về bản thân vậy. Sinh ta là Nhâm Quí, ta sinh ra là Bính Đinh hoả, khắc ta là Canh Tân kim, ta khắc là Mậu Kỷ thổ thế là tròn vòng 10 can.
    - Sinh ra ta có nghĩa cha mẹ cho nên lập danh là ấn thụ, ấn là ấm mà thụ là được cho vậy, ví như cha mẹ có ân đức thụ ấm cho con cháu, con cháu được hưởng thụ cái ấm phúc đó. Triều đình phân chia quan chức lấy ấn thụ để quản về quan chức. Quan mà không có ấn thì lấy gì làm bằng cứ ? Người không cha mẹ thì dựa vào đâu ? Lý này chỉ một mà không có hai cho nên gọi là ấn thụ.
    - Ta sinh ra có nghĩa con cháu cho nên lập danh là thực thần, thực là như côn trùng ăn thực vật, ăn thực vật mà no, được ăn thì ích mà bị ăn thì tổn, tạo hoá thành con cháu thì phải nuôi dưỡng, tức nuôi dưỡng là cái đạo làm cha mẹ vậy, cho nên gọi là thực thần.
    - Khắc ta tức là ta bị người chế phục cho nên lập danh là quan sát. Quan là quản mà sát là hại vậy.
    - Ta khắc là người khác bị ta chế phục nên gọi là tài, như người thành gia lập sản cần có thê thất nội trợ nên gọi là thê tài.
    - Bốn cái đó các thuật gia lập danh nghĩa đại lược,sát thì gần ở thân mà khắc cách ở vị, tạo hoá ưa sinh mà ghét sát ấy là lý tự nhiên, trong khoảng âm dương theo loại âm dương phối hợp mà mọi cái đều có cái lý để tồn tại. Sinh ta, ta sinh như Nhâm sinh Giáp Quí sinh Ất, Giáp thực Bính mà Ất thực Đinh là âm sinh âm dương sinh dương, âm thực âm, dương thực dương là âm dương mỗi cái theo loài của nó, cho nên Giáp ưa Nhâm sinh tử mộc vì tử mộc nuôi trong nước thì qua nhiều năm cũng không bị hoại mà không ưa Quí sinh tử mộc vì tử mộc bị nước mưa dầm nát không qua nổi một năm thì mục nát, Giáp ưa thực Bính, lấy Bính chế Canh thì Giáp được yên thân, không ưa thực Đinh vì Đinh hay làm thương quan làm cho Giáp không thể thành tài, nghĩa của nó là như vậy. Khắc ta, ta khắc như Tân khắc Giáp, Canh khắc Ất, Giáp khắc Kỷ, Ất khắc Mậu là âm khắc dương, dương khắc âm, âm phối dương, dương phối âm là cái lý của âm dương phối hợp, cho nên Giáp lấy Tân là Chính quan, thấy Canh là Thiên quan.
    - Quan thì thích chính mà không thích lệch (ngày nay gọi là làm cấp phó). Chưởng ấn trợ giúp chức vị cũng có cái bất đồng. Giáp thấy Kỷ làm chính thê thấy Mậu là Thiên thê. Vợ thì quí ở chính chứ không quí ở thiên (lẽ) đó là cái lý để phân biệt vậy (người xưa đã rất coi trọng quan điểm một vợ nhưng để đạt cái oai danh trong xã hội là cần thiết có thiên- vợ lẽ, đó là cái rắc rối của loài người vậy). Quan thì sợ bị thương, bị thương ắt là hoạ; tài sợ bị cướp (kiếp), bị kiếp ắt là phân tán; ấn thì sợ tài, tham tài thì phải hại ấn. Thực thần sợ Kiêu (thiên ấn), gặp Kiêu ắt bị đoạt mất (mẹ ghẻ có ưa gì con chồng từ xưa nay), lý này đối với con người thì chỉ có một mà thôi, kẻ học có hiểu được việc đời thì mới nói chuyện được với Tạo hóa vậy.
    - Ngũ hành vận động sinh khắc thì con cái có cái nghĩa báo thù cho cha mẹ, cho nên Giáp Ất sinh Bính Đinh làm con, Giáp Ất sợ Canh Tân nên dựa vào Bính Đinh để khắc chế lại, 10 can và 12 chi lý cũng như thế, tuy động tĩnh khác nhau mà sinh khắc chỉ là một mà thôi, rằng Bắc phương Hợi Tý thủy sinh cho Đông phương Dần Mão mộc, Đông phương Dần Mão mộc sinh cho Nam phương Tị Ngọ hoả. Thổ nhờ sinh vượng ở hoả mà sinh Tây phương Thân Dậu kim, Tây phương Thân Dậu kim lại sinh cho Bắc phương Hợi Tý thủy.
    - Tuy nhiên giữa Hợi Tý có một vị Sửu sau mới tiếp đến Dần Mão, giữa Dần Mão lại có một vị Thìn mới đến Tị Ngọ, giữa Tị Ngọ lại có một vị Mùi mới đến Thân Dậu, giữa Thân Dậu có một vị Tuất thì mới đến Hợi Tý, thổ ở tứ duy mà mà ngũ hành cân bằng là như vậy. Tị Dậu hợp Sửu mà thành Kim cục, Thân Tý hợp Thìn mà thành Thủy cục, Hợi Mão hợp Mùi thành Mộc cục, Dần Ngọ hợp Tuất thành Hỏa cục. Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ, Thổ lại sinh Kim cứ thế tương sinh mà không dứt. Sửu là Kim kho sinh Hợi Tý mà khắc Dần Mão, Thìn là Thủy kho mà khắc Tị Ngọ mà sinh Dần Mão, Mùi là Mộc kho sinh Tị Ngọ mà bị kim khắc , Tuất là Hoả kho khắc Thân Dậu mà bị Thủy chế. Đông Nam chủ sinh, Tây Bắc chủ Sát đó là then chốt của tạo hóa vậy. Thìn Tuất Sửu Mùi an ở Tứ duy thì kim thủy hoả mộc còn dựa vào mà sinh tàng, Kinh Dịch nói : Thành ngôn hồ Cấn, chung ngôn hồ Khôn đó là công dụng của thổ đối với ngũ hành là lớn lắm vậy.
    - Tổng hợp cả can chi lại mà nói thì Giáp sinh ở Hợi tử ở Ngọ, Ất sinh ở Ngọ tử ở Hợi, tựu lộc ở Dần Mão là Giáp Ất đồng ở Dần Mão vậy.Bính sinh ở dần tử ở Dậu, Đinh sinh ở Dậu tử ở Dần tựu lộc ở Tị Ngọ cho nên Bính Đinh đồng ở Tị Ngọ. Canh sinh ở Tị tử ở Tý, Tân sinh ở Tý tử ở Tị tự lộc ở Thân Dậu nên Canh Tân đồng ở Thân Dậu. Nhâm sinh ở Thân tử ở Mão, Quí sinh ở mão tử ở Thân tựu lộc ở Hợi Tý nên Nhâm Quí Hợi Tý đồng vậy. Mậu sinh ở Dần tử ở Dậu, Kỷ sinh ở dậu tử ở dần tựu lộc ở Tị Ngọ cùng với Hoả đồng vị. Đó là nghĩa con theo mẹ mà vượng mà Thìn Tuất Sửu Mùi đều chính vị của nó do là Thiên can Địa chi tương hợp phối ngẫu sinh khắc chế hoá vượng tướng hưu tù mà có tên là ấn là kiêu là thực là thương là quan là sát là tài là kiếp, hình xung phá bại hư du ám hợp mà biến hóa vô cùng. Từ Tử Bình biết khai phá được lý này nên chỉ luân về tài quan ấn thực, phân chia làm sáu cách mà cái phú quí bần tiện thọ yểu cùng thông của một mệnh người không thể ngoài nó được. Các cách khác cũng không quá thế mà suy ra.

    Người xưa là vậy....
    Bây giờ chúng ta lại dùng nó để chặt và chém..
    [​IMG]




     
  20. kieuphong_@

    kieuphong_@ Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
    KỲ MÔN ĐỘN GIÁP


    - Kỳ Môn Ðộn Giáp nguyên gọi là Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp. Tam Nguyên tức là Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên (có nơi còn gọi là Thiên Nguyên, Nhân Nguyên, Ðịa Nguyên dựa trên cơ sở Tam Tài là Thiên Ðịa Nhân rồi tìm ra Thiên Thời Ðịa Lợi Nhân Hòa).
    - Kỳ là Tam kỳ và Lục Nghi trong 10 Thiên can thì Ất, Bính, Ðinh được gọi là Tam Kỳ, còn Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí được gọi là Lục Nghi. Con giáp được ẩn đọng trong Lục Nghi nên gọi là Ðộn Giáp.
    - Môn là Bát Môn, tức là tám cửa. Gồm có Hưu Môn, Sinh Môn, Thương Môn, Ðỗ Môn, Cảnh Môn, Kinh Môn, và Khai Môn. Tám cửa này là từ tám phương vị của Bát Quái mà ra. Trong quân sự còn có tên khác là Bát Trận Ðồ mà Gia Cát Khổng Minh đã sử dụng để nhốt Lục TỐn. Tên trong Bát Trận Ðồ là Thiên Môn, Ðịa Môn, Phong Môn, Vân Môn, Long Môn, Hổ Môn, Ðiểu Môn, và Xà Môn.
    - Bát Trận Ðồ này xem thì rất đơn giản, dễ dàng nhưng kỳ thực thì thiên biến vạn hóa, cao siêu
    thần diệu. Cái kỳ diệu đó có lẽ cũng chỉ có một số nhà quân sự vĩ đại như Gia Cát Khổng Minh, Tôn Tử, Thái Công, Trương Lương, Lưu Bá Ôn mới hiểu hết được cái thần diệu vĩ đại của nó. Ở Việt Nam chỉ có cụ Trạng Trình là thấu hiểu được môn khoa học này. Vậy Bát Môn thực tế là tám loại cảm ứng điện từ của hệ Mặt Trời và Trái Ðất đối với con người ta.
    - Kỳ Môn Ðộn Giáp là một khoa học về phương - vị dựa trên cơ sở nguyên lý Cảm Ứng Ðiện Từ.
    Ta đều biết trái đất là một từ trường lớn, chịu ảnh hưởng của hệ Mặt Trời, tức chịu ảnh hưởng của Mặt Trời, Mặt Trăng và các hệ sao khác. Con người là một vật mang điện (nhân điện). Khi một vật mang điện mà di động trong một từ trường nó sẽ bị từ trường ảnh hưởng, cảm ứng và tác động. Mà từ trường của trái đất lại chịu sự ảnh hưởng của cả Hệ Mặt Trời. Mặt Trời, Mặt Trăng, và các hệ sao khác luôn luôn di chuyển, do đó sự cảm ứng và tác động điện từ vào con người ta cũng luôn luôn thay đổi theo từng ngày, từng giờ, từng phút. Làm cho con người ta lúc khỏe lúc yếu, lúc tốt lúc xấu.
    - Kỳ Môn Ðộn Giáp là môn khoa học cho ta biết được thời điểm nào, phương vị nào sự ảnh hưởng của điện từ trường đó sẽ có lợi cho ta và phương vị nào sẽ bất lợi cho ta, rồi ta có thể dựa vào đó cải thiện vận mệnh của ta cho từng thời điểm.
    - Kỳ Môn Ðộn Giáp là một môn cổ học tinh hoa của người Trung Hoa được phát minh vào khoảng 5 ngàn năm trước đây. Từ thời Hoàng Ðế lập quốc đã được sử dụng trong trận chiến với Si Vưu. Sau này, được các Thánh hiền khác như Thái Công, Lã Vọng, Trương Lương, Gia Cát Lượng Khổng Minh, Lưu Bá Ôn, . phát triển và hoàn chỉnh thêm. Thời xưa, chủ yếu được dùng trong đấu tranh chính trị và quân sự. Hiệnnay, Kỳ Môn Ðộn Giáp đã được áp dụng rất rộng rãi trong mọi lĩnh vực trong đời sống hàng ngày.
    - Kỳ Môn Ðộn Giáp nguyên gọi là Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp. Tam Nguyên tức là Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên (có nơi còn gọi là Thiên Nguyên, Nhân Nguyên, Ðịa Nguyên dựa trên cơ sở Tam Tài là Thiên Ðịa Nhân rồi tìm ra Thiên Thời Ðịa Lợi Nhân Hòa).
    - Kỳ là Tam kỳ và Lục Nghi trong 10 Thiên can thì Ất, Bính, Ðinh được gọi là Tam Kỳ, còn Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí được gọi là Lục Nghi. Con giáp được ẩn đọng trong Lục Nghi nên gọi là Ðộn Giáp.
    Môn là Bát Môn, tức là tám cửa. Gồm có Hưu Môn, Sinh Môn, Thương Môn, Ðỗ Môn, Cảnh Môn, Kinh Môn, và Khai Môn. Tám cửa này là từ tám phương vị của Bát Quái mà ra. Trong quân sự còn có tên khác là Bát Trận Ðồ mà Gia Cát Khổng Minh đã sử dụng để nhốt Lục TỐn. Tên trong Bát Trận Ðồ là Thiên Môn, Ðịa Môn, Phong Môn, Vân Môn, Long Môn, Hổ Môn, Ðiểu Môn, và Xà Môn.
    - Bát Trận Ðồ này xem thì rất đơn giản, dễ dàng nhưng kỳ thực thì thiên biến vạn hóa, cao siêu thần diệu. Cái kỳ diệu đó có lẽ cũng chỉ có một số nhà quân sự vĩ đại như Gia Cát Khổng Minh, Tôn Tử, Thái Công, Trương Lương, Lưu Bá Ôn mới hiểu hết được cái thần diệu vĩ đại của nó. Ở Việt Nam chỉ có cụ Trạng Trình là thấu hiểu được môn khoa học này. Vậy Bát Môn thực tế là tám loại cảm ứng điện từ của hệ Mặt Trời và Trái Ðất đối với con người ta.
    - Ngoài ra còn có Cửu Cung Tinh tức là chín cung màu. Là 1 - Trắng, 2 - Ðen, 3 - Biếc, 4 - Lục, 5 - Vàng, 6 - Trắng, 7 - Ðỏ, 8 - Trắng, và 9 - Tím. Là chín loại bức xạ của tuyến Vũ Trụ, chúng xuyên qua lớp khí quyển tới mặt đất và ảnh hưởng đến sinh lý, hành vi của sinh vật trên trái đất.
    - Cửu Thiên Tinh là 9 ngôi sao gồm có 7 ngôi sao của hệ sao Bắc Ðẩu và 2 ngôi sao phụ. Chúng có tên là Thiên Bồng, Tiên Nhuế, Thiên Xung, Thiên Phụ, Thiên Cầm, Thiên Tâm, Thiên Trụ, Thiên Nhiệm và Thiên Anh. 9 ngôi sao của hệ sao Bắc Ðẩu này có ảnh hưởng tới con người ta trên Trái Ðất đã được biết từ ngàn xưa.
    - Bát Thần là 8 ông thần có tên Trực Phù, Ðằng Xà, Thái Âm, Lục Hợp, Câu Trần, Chu Tước, Cửu Ðịa, và Cửu Thiên.
    - Tất cả những yếu tố trên ảnh hưởng tới trái đất theo năm, tháng, ngày, giờ và thời tiết, gây nên những cảm ứng khác nhau cho vạn vật trên trái đất trong đó có con người chúng ta, hình thành tốt (cát) hay xấu (hung). Sự biến hóa thay đổi đó được thể hiện trên 9 cung của Bàn Ðồ Kỳ Môn Ðộn Giáp như một mạch điện từ, nó thay đổi biến hóa theo sự vận chuyển của trái đất và Thái Dương Hệ theo năm, tháng, ngày, giờ và tiết khí. Vậy Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp chính là một "Phương vị học" được dùng để tuyển cát, tức dùng để chọn một thời điểm một hướng tốt, thời điểm đó và hướng đó ta có thể có được thiên thời, địa lợi, nhân hòa, để htực hiện mục đích riêng của ta, và biến vận xấu thành vận tốt.
    - Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp xưa kia được dùng trong đấu tranh chính trị quân sự, sau này mới phát triển và được dùng trong mọi lĩnh vực cả về tướng mệnh học, địa lý bói toán.

    - Vấn đề chọn ngày giờ tốt và hướng tốt, nếu như ta dựa trên những cuốn lịch để chọn, nhiều lúc không thể phù hợp với vấn đề cụ thể của ta được, vì lịch dựa trên cơ sở bất động để chọn, ví dụ như chọn ngày giờ theo tuổi của ta, nếu xung là xấu nếu hợp là tốt, rồi xem gặp vị thần nào, lành hay dữ thì quyết định là tốt hay xấu. Còn việc chọn ngày giờ theo Kỳ Môn Ðộn Giáp là dựa theo cơ sở động, mà con người ta cũng có thể di chuyển, không phải ngồi yên một chỗ, một khi di chuyển như vậy thì không gian và thời gian cũng thay đổi theo, các vấn đề tốt hay xấu đều thay đổi theo từng giờ từng phút. Do đó, Kỳ Môn Ðộn Giáp có dạy ta là bất kỳ một ngày nào, giờ nào hay hướng nào đều có thể sử dụng được, chủ yếu là phương pháp sử dụng của ta như thế nào để có lợi và tránh được cái bất lợi mà thôi.
    - Kỳ Môn Ðộn Giáp đầu tiên thời Hoàng Ðế lập thành 1080 cục. Ðến Thái Công rút gọn thành 72 cục. Sau đó Trương Lương rút gọn lại nữa thành 18 cục cơ bản, gồm có 9 cục dương và 9 cục âm. Nếu ta sử dụng hết 1080 cục kết hợp với sự biến hóa của Bát Môn, Cửu Thiên Tinh, Bát Thần, Cửu Cung Tinh và tiết khí thì ta có hàng triệu cách biến hóa. Do sự thiên biến vạn hóa như vậy đã đưa tới sự bách chiến bách thắng của Thái Công, Trương Lương, Gia Cát Khổng Minh, Lưu Bá Ôn lưu danh muôn đời.
    - Cái khó của Kỳ Môn Ðộn Giáp là ở chỗ thiếp lập các đồ bàn sao cho chính xác. Một khi đã lập xong các đồ bàn thì việc xét đoán lại rất dễ. Cần nói thêm là lịch Ðộn Giáp ở đây đã chuyển đổi theo lịch Thiên Nhiên và sử dụng Dương Lịch để tiện việc tra cứu.

    Lập bàn đồ Ðộn Giáp, cần chuẩn bị như sau:
    * 1 tấm bản đồ
    * 1 cái la bàn

    * 1 cuốn lịch Ðộn Giáp

    Một số kiến thức cơ bản về Can, Chi, Ngũ Hành sinh khắc và tiết khí là đủ.


    [​IMG] Đi tu coi bộ dễ hơn...