Tỉ lệ lợi. nhuận trên.vôh cô’ phần đạt mức trung bình còn ân tượng hơn lúc chúng ta quan sát tổ chức đã dẩn dẩn chủ động giảm tối đa vay nợ. Năm 1973, tỉ lệ vay nợ dài hạn của tổ chức trên vốn cổ phần là 37,2%, tỉ lệ cao thứ hai trong lĩnh vực báo chí. Thật đáng kinh ngạc là đến năm 1978, Katherine Graham thuê căn hộ dolphin plaza fakem 70% vay nợ của công Từ lâu, Coca-Cola quyên tâm tơi việc cạnh giành giật giành cổ phiếu trên một thị trường trì trệ. Goizueta tuyên bô': "Tăng trưởng lợi nhuận trên cổ phiếu và tác động tới lợi nhùận trên vôh cổ phần vẫn là một cuộc, cạnh tranh". Những lời nói của ông sau ấy đã biên thành hành động. Ngành kinh vìanh rượu của .Coca-Cola được chuyển dịch'cho Seagram vào năm 1983. Mặc dù tổ chức thuê chung cư green park thu được tỉ lệ lợi nhuận trên vốn cố phần ở mức đáng nểlà 20% trong suô't những năm 1970, kết quả đấy vẫn chẳng hề gây ân tượng gì đôì vói Goizueta. Ông đề nghị ti lệ lợi nhuận cao hơn. Đến năm 1998, lợi nhuận trên vôrì.cổ phần của Coca-Cola đã nâng cao lên 31,8%. (Xem hình 7.1) Hình 7.1 Lợi nhuận trên vốn cổ phẩn của Công ty Coca-Cola và biên trựởc thuế vay nợ hoặc vay nợ ít. Chúng ta mặc dầu phổ biến công ty nâng cao lợi nhuận trên vôh cổ phẩn bằng cách nâng cao tỉ lệ nợ trên vôh cổ phần. Buffett đã cảm thấy điều này, nhbằng lòng ý tưởng nâng cao lợi nhuận trên vôh cổ phần của Berkshire Hathaway chỉ đơn giản bằng cách nâng cao thêm nợ không gây ân tượng cho ông. Ông kể: "Các chọn lựa kinh bởi vì thuê nhà mipec anh hayi đầu tư chất lượng sẽ cho một số kê't quả kinh tế khá hài lòng mà không cần sự giúp đỡ từ tài sản vay nợ". Hơn thế nữa, những tổ chức với mức vay nợ cao sẽ rất dễ đi tới phá sản trong thời kỳ suy thoái kinh tê'.