'Rùng mình' đột nhập 'nghĩa địa online' Nhiều người trẻ chọn giải pháp chôn tình yêu đã chết của mình bằng một ngôi mộ trên mạng và thi thoảng ghé thăm để nhắc nhở bản thân rằng: tình yêu đó chết thật rồi... Cuộc sống có nhiều niềm vui và cũng lắm nỗi buồn. Buồn do học hành sa sút, công việc không thuận, tiền kiếm chẳng đủ tiêu xài… Nhưng nỗi buồn do mất người thân, do thất tình thì dai dẳng và sâu thăm thẳm. Nếu không tự thoát ra khỏi buồn đau, con người ta sẽ trở nên u uất mà sinh bệnh. Nhưng thoát ra bằng cách nào? Chôn… tình yêu Nghĩa địa… tình yêu, nghe tưởng để dành cho những kẻ hận tình nhưng khi bước chân vào tôi mới biết rằng, đó không hẳn là một nơi dành cho những kẻ yêu… cực đoan. "Gió vô tình", là tên ngôi mộ tình yêu mới nhất trong cái nghĩa địa chứa đủ mọi cung bậc của tình yêu nam nữ. Thay ở phần ngày sinh, trên hầu hết các bia mộ ở nghĩa địa này đều ghi "ngày quen nhau". "Gió vô tình" ghi ngày quen nhau là tháng 11/2010 và "ngày mất" 7/4/2011, cách đây chưa lâu. Cũng giống như nhiều cặp tình nhân khác, "Gió vô tình" có ngày kỷ niệm là lễ Noel - dịp mà trai gái thường rủ nhau đi chơi và nên… chuyện. Yuna, người lập ra ngôi mộ có tên "Gió vô tình" viết rằng: "Đôi lúc cuộc sống không như ta thường nghĩ và một kết thúc có hậu cho một chuyện tình không hẳn là mãi mãi bên nhau… Kết thúc tại đây là đẹp nhất cho chuyện tình này và hy vọng cả anh và em sẽ sớm tìm được hạnh phúc. Anh chính thức yên nghỉ trong trái tim em tại đây, ngày hôm nay…". Chôn một tình yêu như cô gái này đâu có gì là cực đoan, chôn cái không còn để bắt đầu cho một cái mới chẳng phải tốt hơn khi cứ để nó vương vấn trong lòng sao? Yêu không mù quáng, thất tình không thành… điên, đó mới là sáng suốt. Ngôi mộ có tên "Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài của thế kỷ 21" đúng là đẹp và lãng mạn như câu chuyện kinh điển về tình yêu của nhân loại, chỉ tiếc tình yêu này không có cái kết đẹp như nguyên tác. Họ quen nhau năm 2007, mất nhau năm 2009. Khi yêu, cô gái bảo họ là Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài thế kỷ 21. Họ có kỷ niệm ở Vườn yêu (Công viên Bách Thảo), bến Hàn Quốc (Tây Hồ), những con đường Hà Nội, hải ngoại… Theo người lập mộ, "nhưng thế kỷ 21 đã khác với ngày xưa, rồi đến một ngày đầu năm 2009, Chúc Anh Đài lên xe hoa về nhà Mã Văn Tài, kết thúc một câu chuyện tình cổ tích thời hiện đại. Anh xin lập nấm mộ này tưởng nhớ tình yêu đã chết". Tình yêu đúng là nơi bắt đầu của nhiều trạng thái cảm xúc, nó khiến người ta có nhiều hoài niệm nhất. Khi tan, nó cũng khiến người ta cay đắng nhất. Dù đắng lòng nhưng người ta lại không muốn quên. Phải chăng đây là cách để nhắc nhở lòng mình phải quên? Người con trai lập ngôi mộ mang tên một câu chuyện tình kinh điển bởi nó từng được người yêu của anh từng ví giống tình yêu của mình khiến khi "ghé thăm" tôi cũng cảm thấy ngậm ngùi cho người này. Có người sau những đứt gẫy trong tình yêu đã viết lên ngôi mộ tình của mình rằng, "dẫu biết rằng cố quên sẽ là nhớ nên dặn lòng cố nhớ để mà quên". Đây cũng là lý do để nhiều người đến với nghĩa địa tình yêu, để dặn mình rằng, "thôi cố mà quên". Có thể ai đó sẽ cho rằng, đấy là cách làm của những kẻ yếu đuối. Cuộc sống ngày càng có nhiều biến động và con người ta ít ai đoán định được những gì sẽ xảy ra trong đời mình, nhất là chuyện tình cảm. Càng có nhiều tiện ích, con người ta càng có nhiều sự lựa chọn và cách lựa chọn được câu chuyện tình có kết cục buồn của mình lên thế giới ảo, để được chính những người chẳng quen biết chia sẻ, động viên và cũng có thể để bắt đầu một mối quan hệ mới cũng là một giải pháp. Càng "đi sâu" vào nghĩa địa tình yêu, tôi càng biết thêm về cái thế giới đầy bí ẩn này của loài người. Sự đa dạng trong cách sống, giàu có trong cách nghĩ và cả sự hời hợt cũng khiến sự khám phá về tình yêu là vô tận. Có những tình yêu bắt đầu và kết thúc trong 3 ngày. 3 ngày đó, con tim yêu kia đã lập nên ngôi mộ cho cuộc tình của mình với lời nhắn: "Tớ giận cậu lần này nữa thôi… Mình cùng nhau xây đắp tình yêu cho thật đẹp nhé!". Một chút giận hờn, một chút buồn vu vơ cũng lập mộ. Với bạn trẻ này, không ai biết mỗi cuộc tình phải lập bao nhiêu ngôi mộ nữa đây?! Cha mẹ thương nhớ con bên những ngôi mộ ảo Khoảng lặng buổi trưa khiến hai người mẹ trẻ cách nhau về không gian lại có thời gian "thăm" con. Tính ưu việt của công nghệ không dây giúp kết nối không gian một cách hoàn hảo khi giúp người mẹ trẻ có thể tận mắt ngắm nhìn đứa con gái 3 tuổi đang say giấc nồng giữa các bạn cùng trang lứa ở trường Mầm non. Thiết bị định vị toàn cầu kết nối chị với trường Mầm non, giúp chị có thể zoom thật gần để nhìn rõ khuôn mặt đứa con gái bé bỏng và yên tâm rằng, con đang được các cô giáo cho ăn, cho ngủ đúng giờ. Ở một nơi khác, có thể rất xa, một người mẹ cũng đang "lần mò" trên mạng để thăm con. Nhưng cách chị làm lại khác, chị nhấp chuột để thắp cho con thêm một cây nến, trang trí thêm lên ngôi mộ của con bông hoa loa kèn tháng Tư thánh thiện. Những mẫu mộ trong nghĩa địa online. "Nhớ con quá, thiên thần của mẹ", những con chữ hiện ra dưới đầu ngón tay của người mẹ khiến lòng chị đau nhói. Cùng áp dụng một công nghệ, cùng sử dụng những thiết bị có tính năng như nhau của hai người mẹ yêu con lại có những trạng thái tình cảm trái ngược. Người mẹ phải lập mộ con trên mạng để có thể "thăm" con bất kỳ lúc nào dù sự chia xa là mãi mãi. Nghĩa địa online (nhomai.vn) là website đầu tiên và duy nhất ở nước ta giúp những người mất người thân, những ai tiếc thương những người mất do thiên tai, tai nạn, người mình hâm mộ… tưởng nhớ người mình yêu thương. Nó cũng là nơi để những người thất tình chôn tình yêu của mình. Trong cái "nghĩa địa" vô tận do mình sáng lập, anh Nguyễn Anh Tú, một người sinh ra ở xứ Đoài đang sống ở TP.HCM đã tạo ra một địa điểm để những người có nỗi niềm riêng "có đất" để giải tỏa lòng mình, để nhớ, để thương, để sám hối và cũng để hồi sinh. Nhomai.vn có rất nhiều hạng mục cũng như quy định cho những ai muốn tham gia. Khi vào đây, tôi đặc biệt quan tâm đến phần nghĩa địa dành cho thiếu nhi bởi những câu chuyện đầy tình mẫu tử, phụ tử, ruột thịt giàu yêu thương nhưng cũng đầy trắc trở. Trên một tấm bia mộ có tên "Thiên thần nhỏ của dì" được trang trí rất trang nhã, người dì của nấm mộ này nói rằng: "Thiên thần nhỏ của dì, hãy để dì gọi con như thế nhé con yêu. Ngày con ra đi, con còn chưa có một cái tên, con chưa nhìn thấy ánh sáng mặt trời, chưa… Dì vẫn nhớ cảm giác Thiên thần của dì đạp vào tai khi dì ôm bụng mẹ con, lúc đó dì nói Thiên thần của dì chắc hẳn là một cô bé tinh nghịch lắm. Nếu bi kịch không ập xuống thì giờ đây Thiên thần của dì đã là một cô bé 5 tuổi đáng yêu, xinh xắn… Dì không được biết ngày con rời xa thế giới này, không ai nói, dì không được biết cả nơi con yên nghỉ, không ai nói, dì không dám hỏi vì sợ cả nhà đau lòng hơn… Mọi người nói trẻ con mất đi không được thờ phụng vì nếu thờ phụng linh hồn sẽ mãi quanh quẩn, không thể "lộn" để đầu thai kiếp khác. Hôm nay, dì lập cho con một căn nhà, để dì và con luôn bên nhau, bố mẹ con và dì yêu con nhiều lắm…". Tâm sự của người dì này cho thấy lý do để chị tìm đến nhomai.vn và vì sao chị lập ngôi mộ ảo cho đứa cháu gái bé bỏng của mình. Dõi theo "hành trình" của người dì này còn thấy, hàng ngày chị vẫn thường "đến thăm" cháu, vẫn thường xuyên trò chuyện với cháu. Hình như chị tin rằng, ở thế giới bên kia Thiên thần của chị biết lắng nghe khi chị nói: "Hai ngày dì không online có buồn lắm không con…". "Mẹ không biết mẹ có yêu con hay không nữa… nhưng mẹ muốn khóc", hẳn là khi lập mộ cho đứa con của mình và thốt ra những lời này, người mẹ ấy rất thành thật và đau khổ. Mẹ nào chẳng yêu con, thế nhưng người mẹ này phải đau đớn thốt lên câu hỏi trên hẳn chị đã rất đau đớn. Cuộc sống luôn hối hả và bận rộn, có những lúc nó kéo con người ta đi để rồi khi chợt dừng lại, họ ngơ ngác tự hỏi, sao mình lại thế này. Không hiểu mình, không hiểu đời, bi kịch của sống nhanh, sống gấp là thế. Với người trẻ, mấy ai nhận ra mình đang cắm đầu, cắm cổ đuổi theo những thứ mà bản thân mình không hiểu rõ, đó là gì. Một phút lặng để chất vấn mình là cái may mắn người mẹ này đã đặt được câu hỏi đắng lòng kia cho mình và cũng để những người mẹ khác ngộ ra. Có những sinh linh chưa kịp chào đời, chẳng có nổi một ngày tuổi nhưng cha mẹ vẫn lập mộ. Đây là cách để họ sám hối, chuộc tội với giọt máu của mình. "Mẹ yêu con nhiều lắm nhưng mẹ chưa đủ can đảm để có thể sinh con ra… Mẹ thật ích kỷ phải không? Mẹ phải làm gì khi mẹ đang còn đi học, mẹ không thể sinh con ra lúc này. Nếu mẹ sinh con, thì cuộc đời của ba, mẹ và cả con nữa sẽ đi về đâu? Tha thứ cho mẹ. Mẹ và ba thực sự yêu con". Những ngôi mộ trong nghĩa địa online. Đọc những dòng gan ruột của một cô gái trẻ từ chối quyền làm mẹ giúp người lớn có cái nhìn chân thực hơn về cuộc sống của thanh niên bây giờ. Có nhiều lý do dẫn các cô gái trẻ đến phòng khám sản khoa và không hẳn sau khi trút bỏ giọt máu của mình, họ sẽ lại vô lo, vô nghĩ. Một người mẹ thành đạt nhưng đã từng hai lần phá thai đã luôn day dứt, chị lập mộ cho những đứa con chưa từng chào đời với lời sám hối "mẹ mãi mãi không thể nào tự tha thứ cho mình khi ngày xưa mẹ và ba đã "từ bỏ con" khi các con còn trong bụng mẹ… Ngày đó mẹ còn quá nhỏ… Tội cho các con đến mãi tận bây giờ mới được ông bà ngoại và các em biết về các con… Ngày mẹ và ngoại gửi các con vào chùa, đêm nào mẹ cũng ra ngoài cổng nhìn sang chùa khóc…Mẹ ao ước, ao ước được thấy các con trong mơ, mẹ thèm được ôm các con vào vòng tay yêu thương. Dù mẹ "bước thêm một bước", mẹ vẫn cho chồng mẹ biết "sự hiện diện của hai con…". Ôi! Đúng là quá khứ không dễ quên và không phải ai cũng chối bỏ nó. Những ngôi mộ của thiên thần nhỏ trên thế giới ảo nhưng lại kèm theo nó tâm sự của người thật. Những bậc làm cha, làm mẹ phải xa lìa những đứa con của mình do bệnh tật, tai nạn gây ra hay chính họ quyết định tước bỏ sự sống của chúng mà chúng tôi "gặp" trên nghĩa địa ảo đều rất đau đớn. Họ đã dành thời gian, tâm sức để lập nên những nấm mồ trên thế giới ảo để tưởng nhớ con, để răn mình. Họ đã dám phơi bày những bí mật trong tâm tưởng và tìm được chỗ để giãi bày như một sự giải thoát. Thế giờ ảo đã giúp được người thực. Quả là người trẻ thường táo bạo và họ biết tận dụng công cụ mình đang có trong tay để làm nên cái mới, cái tiện ích. Những gì mà người sáng lập nghĩa địa online đã làm và nhận được sự hưởng ứng, tham gia của nhiều người cho thấy, đây cũng là một cách tận dụng Internet lạ. Không biến nghĩa địa online thành một nơi để người ta than thở mà thành diễn đàn để chia sẻ, động viên, khích lệ nhau sống tốt bằng chính yêu cầu, nội quy chặt chẽ khi tham gia diễn đàn và đó cũng là cách kiểm soát tốt nhất để phòng ngừa kẻ xấu lợi dụng Internet để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Ở một nơi nọ người ta mới xây xong một cây cầu. Hôm đó là ngày khánh thành, mọi người đang trên cầu vui vẻ vỗ tay và nghe phát biểu thì bỗng có một cô gái té từ trên cầu xuống sông, tất cả nhốn nháo túm đen lại nhưng không ai dám nhảy xuống cứu cô gái vì cây cầu quá cao. Bỗng nhiên có một ông già nhảy vèo xuống sông bơi lại và cứu được cô gái, mọi người hoan hô ầm lên và chạy về phía ông già, sau khi cứu được cô gái tỉnh lại, các nhà báo vây quanh ông già hỏi tới tấp : Thưa cụ động lực nào giúp cụ có đủ dũng cảm và sức khỏe để nhảy xuống cứu cô gái trong khi đó rất nhiều thanh niên trai tráng trên cầu mà không ai dám nhảy ????????? Ông già bỗng quắc mắt lên : Tiên sư thằng nào nó đẩy tao xuống !
Một người thợ săn âm thầm mang súng lang thang vào rừng Bầu trời bình minh muôn ngàn tia nắng sớm xuyên màn sương. Một vài cụm mây như chùm hoa trắng bay trong trời xanh, Rất xinh và rất xinh. Kìa một bầy nai vương sừng ngơ ngác phóng nhanh vào rừng Còn một bầy chim vô tình vẫn hót líu lo đùa chơi. Nào ngờ thợ săn đang cầm cây súng bắn lên cành cây Chim chết chim lạc bầy ... Ngay hôm sau cũng nơi này Chim đang kêu vang gọi bầy . Nào ngờ bên góc cây Người thợ săn hôm trước Núp thân sau lùm cây. Chim yên tâm sống vô tình, Yêu thương nhau trên đầu cành . Đạn vụt bay đến nhanh Cả bầy chưa tung cánh Xác rơi trên đất lành . Rồi người thợ săn âm thầm mang súng mang chim trở về Lề đường bầy chim không thù không oán hót cho người nghe . Rượu nồng thịt thơm bao người nâng chén no say đùa vui Đâu biết chim ngậm ngùi . http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=E017w15FmM
Đổi Thay Một Bóng Hình http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=2uucl6vOSq Em ơi vì sao ta vẫn luôn có nhau Nhưng tình chẳng còn nơi nhau Em ơi vì sao ta vẫn luôn thấy nhau Nhưng nụ cười ta đã khép Cố bên nhau dù có thương đau Để thấy ta vẫn còn nhau Cố tin ta mãi còn yêu nhau Đôi ta nhìn nhau trong lặng thinh rất lâu Để tìm lại niềm yên vui Nhưng sao lòng ta không còn trông thấy nhau Chỉ còn lại bao giông tố Dối con tim mình vẫn yêu nhau Tình có được mãi bền lâu Thôi xin em thôi đừng dối gian làm gì Giờ đây em đã mang trong tim một hình bóng ai Hỡi người Mà sao chẳng nói để chúng ta phải khổ đau Mà sao chẳng nói để thấy ta đã mất nhau Hay em không đành nhìn anh trong đắng cay Lặng nhìn em khóc con tim anh lại càng đớn đau hơn nhiều Người ơi hãy nói để biết ta đã cách xa Người ơi hãy nói để thấy cuộc tình chúng ta Đã không như là một thuở yêu nhau hôm nào ...
Nạn đói năm 1945 (kỳ 1): Thảm cảnh quê nhà Hơn 2 triệu người đã chết vì đói... Cả nhà đói, cả dòng họ đói, cả làng cả xóm cùng đói. Cái đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945 ấy, người trẻ hôm nay sẽ không tưởng tượng nổi. Và bước vào Ất Dậu 2005 này, chúng ta hãy cùng mở lại những trang hồ sơ về trận đói khủng khiếp để đừng bao giờ quên nỗi đau ấy... Chúng ta tự hào bởi lịch sử dân tộc hào hùng và kiêu hãnh. Nhưng chúng ta cũng không thể quên những đau thương, mất mát của dân tộc mình. Những người đang sống hạnh phúc hôm nay không hẳn ai cũng nhớ tới nỗi khổ nhục kinh hoàng nhất trong lịch sử dân tộc Việt với hơn 2 triệu đồng bào đã chết trong sự đày đọa đến tận cùng của cái đói. Năm đó, 1945, cũng là năm Ất Dậu, cách đây tròn một vòng quay 60 năm của vũ trụ. Tiết xuân thanh khiết, đằm ngọt trong gió lành và lộc biếc. Con đường phẳng rộng thênh thênh chạy từ phố xá phồn hoa đến làng mạc trù phú. Lúa chiêm xanh non trải từ bờ ruộng mải miết đến tận chân trời. Từ thành phố Thái Bình xe chạy chừng nửa tiếng đồng hồ thì đến xã Tây Lương, huyện Tiền Hải. Làng quê khang trang như phố; người xe vui như hội. Cảnh thái bình no ấm đầy căng trong tiếng trẻ nô cười. Nhưng 60 năm trước, nơi đây là một địa ngục thảm khốc... La liệt những người chết đói bên đường. Ảnh tư liệu Bàn chân quỷ đói Ông lão khoan thai quắc thước không giấu vẻ mãn nguyện của cảnh đề huề phúc lộc. Ông là Lại Thanh Hằng, người thôn Trung Tiến, tuổi 77, sức vẫn khang cường, vợ chồng yên ấm, nhà cửa đàng hoàng. Gần chục người con đều đã nên gia thất, tài danh hưng vượng. Nhưng câu chuyện của 60 năm xa xưa ấy đã làm ông bật khóc. Tiếng nấc khô khốc và giọt nước mắt người già thấm qua những nếp nhăn sâu hằn, bật lên nỗi đau khổ tột cùng. Ông kể: Ngày ấy, gia đình ông cũng như bao nông dân khác nối đời sống bên ruộng lúa, vườn khoai. Cái bóng của đồn Tây và cổng đình bao năm đè nặng kiếp người. Đường làng khi in thêm dấu giày lũ Nhật lùn thì cuộc sống ngày càng ngột ngạt bởi sưu cao thuế nặng. Cái khô ngái của giong, khoai, củ chuối... ngày một đậm đặc trong nồi cơm. Thế nhưng nạn đói tàn khốc nhất lịch sử chính thức ập đến từ vụ mùa năm 1944. Năm ấy điềm trời hung gở khác thường. Không chỉ cánh đồng mấy trăm mẫu của Tây Lương mà khắp nơi đâu đâu lúa cũng chết vàng. Lúa dâu, lúa di, lúa tám đều bị hoàng trùng (nay gọi là rầy) phá hết. Nhà ông cấy 2 mẫu nhưng sau khi trừ tô thuế đem về được hơn 1 tạ thóc. Đó là lương thực của bốn người lớn trong suốt sáu tháng dài ròng rã. Bố mẹ ông bàn tính gì đó rồi mỗi bữa cơm cắt bớt phần gạo. Dần dần bớt cả bữa ăn. Năm đó ông 17 tuổi, sức đương trai nhưng mỗi ngày cũng chỉ có nửa bát cơm, hai củ khoai. Sau rồi mỗi sáng ông đi chăn trâu, mẹ ông cho một nắm thóc rang vừa đầy một lòng bàn tay. Ông gói qua mấy lần lá rồi vài tiếng lại lấy ra vã vào mồm nhai cả trấu, chia đều cho cả ngày dài. Đêm đêm gia đình ông hì hụp ngoài sông Sứ cất vó tép. Ba, bốn người ngoi ngóp cả đêm may ra hôm sau đem ra chợ đổi được một chén thóc. Có hôm không ai mua thì đem về đổ vào nồi nấu cháo. Đầu tháng Giêng, mẹ ông bắt đầu đem nồi đồng, mâm, ấm, lư hương, tủ thờ... đi bán. Rồi bố ông dắt trâu xuống huyện cầm cố đem về được 2 yến thóc. Mẹ ông giấu lúa vào bì, lấy gỗ đá, cối xay chất lên làm sao để không ai có thể lấy ra được. Chỉ mình bà biết một cái lỗ thông bằng mắt trâu có thể thọc tay móc ra ít một. Thỉnh thoảng bố ông nói: “Bọn cướp đang rình nhà mình...” rồi ông kê chõng ngủ bên ngoài với một cái thuổng sắc. Nhà ông bắt đầu phải giết chó, giết lợn, giết gà… Không chỉ để ăn, mà bởi cũng không còn gì để nuôi nó. Có nhà phải giết chó mẹ và 4 chó con vừa mở mắt. Hết gia súc, gia cầm, người ta đào củ chuối, hái rau rệu, rau má, bẻ cây ngô, mò ốc, đào cua, bắt cà niễng, cào cào, châu chấu… để ăn. Cầm cự đói, nhà ông cùng dân làng ra đồng bắt chuột. Chuột năm ấy chậm chạp, lại dạn người có lẽ cũng vì đói và liều nên rất dễ bắt. Thời gian đầu còn chuột thì chúng được nấu giả cầy, nướng lá chanh, hấp chấm muối, bó giò... Nhà ông còn kho đến mấy nồi đất toàn chuột nấu đông ăn dần. Sau hiếm chuột. Bắt được một con cả nhà mừng như phá cỗ, nướng qua loa rồi xé vội vàng ăn... Tất cả các loại cây đu đủ, dứa dại, chuối, giong... ngoài đường, trong vườn đều bị đốn ăn không còn một mống. Có gia đình đói quá nghiền trấu, trộn mùn cưa vào cháo ăn. Cháo ít hồ dần, cuối cùng toàn mùn cưa với trấu. Làng bên còn có người ăn cả đất. Lại có người ngày nào cũng chạy theo mấy con ngựa của Nhật, Tây để hốt phân của nó về đãi lấy hạt ngô chưa bị tiêu hóa để ăn... Cái đói giày vò, đày đọa con người đến cùng cực. Nó cào ruột suốt ngày đêm. Nó mở banh con mắt không cho ngủ. Nó kéo bàn chân lê khắp ruộng, khắp làng. Nhà mình đói, làng mình đói thì nhà người ta, làng người ta cũng đói nên có gì đâu mà kiếm. Nhưng cái đói nó không cho ngồi, nó bắt phải đi. Kể cả đi đến nơi mà hôm qua vừa bỏ về… Làng quê tan hoang xơ xác. Cỏ dại lút đầu gối mọc khắp đường đi, sân nhà, ngõ xóm. Tiếng trẻ con khóc như mèo hoang ai oán suốt đêm. Người người đổ hết ra đường, lê la ngoài bụi chuối, cánh đồng. Cái lạnh thấu xương, bóng đêm đen đặc xuyên qua cái tết lúc nào chẳng hay… Cả thế gian là một màu vàng vọt, xiêu vẹo của đói và đói... Bắt đầu đã có người chết đói trong làng… Người khiêng xác Chỉ ra vườn chuối phía sau nhà, ông Hằng nghẹn ngào nói: “Cái chết đau thương nhất đối với tôi là bác Ngảnh, đó là bác ruột tôi và cũng là một trong những người đầu tiên của thôn chết đói. Thật ra thì bắt đầu khoảng rằm tháng Giêng đã có người chết đói ngoài chợ, ngoài đồng. Những gương mặt phù thũng, những ánh mắt thất thần, những thân hình tiều tụy dúm dó bên đống rạ, bụi chuối... đã mang nặng bóng dáng của thần chết rồi. Nhưng nửa đêm nghe tiếng khóc khô khản vẳng ra từ nhà người thân thì tôi thật sự hãi hùng. Bác Ngảnh chết lạnh cứng đờ, người co quắp trong ổ rơm. Lật thân hình da bọc xương, dúm dó trong mấy miếng vải rách nát, tôi thấy mấy sợi rơm còn vương trong miệng bác. Đó cũng là người đầu tiên trong họ nhà tôi chết đói”. Khiêng người bác ra đồng chôn, về đến nhà lại có người nhờ bố con ông Hằng đi chôn người chết. Và bắt đầu từ đấy người chết đói trong làng đếm không xuể. Bố con ông Hằng là một trong số ít người còn đủ sức để chuyên đi chôn người chết. Hồi tháng hai, tháng ba, người chết còn được chôn bó chiếu. Sau đến tháng tư, năm cả làng chết đến mấy trăm người thì không ai còn sức, chẳng nhà nào còn đủ chiếu chăn thì bó xác người bằng vó, bằng lưới, vùng biển thì bằng mảnh buồm. Có khi bó một người lớn với hai ba đứa nhỏ trong một tấm vó. Ông Hằng thấp hơn nên thường đi trước. Ông nhớ có hôm mình phải đi chôn 4-5 người, mệt quá không nhấc cao tay lên được. Cái đầu người chết thả trễ xuống đất cứ đập bình bịch vào gót chân ông theo mỗi bước đi. Ông Hằng trở thành người chuyên chôn xác đói lúc nào không hay. Bà Hoàng Thị Chén, 87 tuổi, người thôn Hiên, nói: thôn này lúc cao điểm một ngày chết mấy chục người. Cả người thôn mình lẫn người nơi khác đến đây rồi chết. Cứ sau mỗi đêm lạnh là lại la liệt xác người trong nhà ngoài ngõ, giữa đồng. Tuần đinh lấy dây buộc vào cổ tay, cổ chân, cổ họng người chết rồi kéo lê ra hố quăng xuống. Sau này chồng bà cùng những người khác đào hố lên thấy có những đám cả 4-5 người bị chôn ở tư thế ngồi, họng còn thắt sợi dây thép. Ông Lê Văn Bình ở huyện Đông Hưng còn kể: bấy giờ ở những khu phố hay cổng làng nhà giàu, quan lại người ta còn phải thuê người đem xác dân chết đói đi chôn, tránh thối rữa trong làng xã, khu phố. Giá ban đầu là một đồng một xác người, sau hạ xuống 5 rồi 3 hào. Có tay làm ăn dối trá, đào hố nông choèn, vùi lấp qua loa. Vài ngày chuột, quạ, sâu bọ lại bới lên thối không chịu được... Theo giáo sư Văn Tạo, nguyên viện trưởng Viện Sử học VN, ngoài các chính sách tô cao thuế nặng, Nhật còn đưa ra một “chương trình kinh tế chỉ huy” nhằm thực hiện một cách triệt để chủ trương phát xít của mình. Cụ thể, bắt đầu từ ngày 6-5-1941 Nhật buộc Pháp ký một hiệp ước kinh tế yêu cầu Pháp phải cung cấp lương thực ở Đông Dương cho Nhật hằng năm. Bốn năm liền từ 1941-1944 Nhật - Pháp đã ký bốn hiệp định giao nộp lúa, ngô cho Nhật mỗi năm từ 700.000 - 1,3 triệu tấn, tương đương 50-80% tổng sản lượng lương thực VN thời đó. Để phục vụ chiến tranh, phát xít Nhật còn cần rất nhiều nguyên liệu từ những cây trồng có sợi, có dầu như đay, gai, bông, thầu dầu... nên chúng đã bắt rất nhiều vùng quê nhổ lúa trồng đay và các loại cây trên. Tài liệu của người Pháp thống kê: năm 1944 VN trồng tới 45.000ha đay, gấp chín lần diện tích của năm 1940 do 10 công ty độc quyền của Nhật thu mua, chế biến, kinh doanh thứ cây này. Cũng theo tài liệu trên, chiến tranh của đồng minh với Nhật tại Đông Dương khiến 50% hệ thống giao thông Nam - Bắc VN bị phá hủy, 90% phương tiện vận tải bị hư hỏng khiến việc đưa lương thực cứu trợ từ Nam ra Bắc càng thêm khó khăn. Chiến tranh làm cho nhu cầu nhiên liệu: than, dầu, điện của Nhật tăng cao. Chúng đã lấy ngô, vừng, lạc và cả lúa gạo để thay thế những nhiên liệu này phục vụ mưu đồ phát xít, đẩy người dân vào thảm họa chết đói. Quang Thiện (Tuổi Trẻ) Còn tiếp...
Nạn đói năm 1945 (kỳ 2): Dưới đáy của địa ngục Chết vì đói là cái chết đáng sợ nhất của bất cứ sinh vật nào. Cái chết đến từ từ, không ngừng giày xéo, đày đọa con người trong đau đớn, tủi nhục và sợ hãi. Thế nhưng nạn đói năm 1945 còn gây nên những tấn thảm kịch mà không ai có thể tưởng tượng được. Nhà hoang - làng trắng Xương người chết đói được cải táng từ những hố chôn tập thể - Ảnh: Võ An Ninh Trong căn nhà bê tông lát gạch được tô điểm bằng những chậu hoa, cây cảnh điệu đàng, gia đình ông Tô Văn Nuôi (xóm Trại, Tây Lương - Thái Bình) rộn rã tiếng cười quanh đứa bé 5 tháng tuổi bụ bẫm đáng yêu như hòn ngọc quý. Ông Nuôi là người đàn ông duy nhất trong dòng họ Tô của xóm Trại sống sót qua nạn đói 1945. Bà Duy - cô ruột của ông, năm nay 87 tuổi - kể lại: “Chính trên nền đất này bố tôi đã chết hồi tháng hai năm đó. Mấy tuần sau mẹ tôi chết cứng lạnh khi ba chị em tôi vẫn ôm bà ngủ trong ổ rơm. Cả họ chết dần và đến tháng tư còn lại một mình nó (ông Nuôi)...”. Ông Nuôi khi ấy mới 5 tuổi nhưng bà Duy cũng không biết làm thế nào giúp cháu. Thậm chí bà cũng không còn nhớ là có một đứa cháu bị đánh rơi, bởi chính chồng con bà cũng chết vì đói, bản thân bà cũng đã phù thũng mặt mày, nằm gục rồi lại dậy, không biết còn sống đến hôm nào. Ông Nuôi cũng không còn nhớ chút gì về gương mặt, tình cảnh hay cái chết của bất cứ ai trong nhà mình. Ông chỉ biết rằng một mình ông hết sáng lại tối, không quần áo bò lê quanh nền bếp đầy rơm, muỗi và thạch sùng. Nhà không một bóng người. Xóm cũng không ánh đèn, không tiếng người, tiếng chó. Ông Nuôi không thể nhớ mình đã sống qua ngày ấy như thế nào, đó là địa ngục hay trần gian. Ông nói: “Có lẽ tôi bốc tất cả những gì mình gặp để cho vào mồm. Khóc rồi bò. Bò rồi ngủ...”. Mãi 15 năm sau, khi ông lấy vợ thì căn nhà ấy mới có thêm một con người. Bà Hoàng Thị Chén (thôn Hiên, Tây Lương) kể rằng mỗi đêm làng lại thưa thớt thêm vài ánh đèn. Ấy là khi lại có nhà chết hết hoặc chết gần hết và bỏ đi. Thậm chí nhiều làng, nhiều xóm không còn một ai. Vườn chuối nhà bà hôm nay, 60 năm trước là nhà ông Hoàng Bê, họ hàng của bà. Một hôm bà thấy mùi hôi thối bốc lên nồng nặc, chạy sang thì cả sáu người nhà ông Bê nằm chết dụi mỗi người một xó. Thây người thối rữa, chuột, bọ, kiến, muỗi... nhâu nhâu. Dân làng đến kéo sập mái nhà vách đất rồi châm lửa đốt... Ông Lại Thanh Hằng (thôn Trung Tiến, Tây Lương) cũng kể khi nghe báo nhà bà Lụt chết cả ba mẹ con trong bếp, chuột ăn, bọ rúc hết rồi..., dân làng lấy xẻng xúc đất lấp nhà bà Lụt. Theo điều tra của Viện Sử học, chuyện tương tự đã diễn ra ở cả ba gia đình thuộc xã Quảng Đại, Quảng Xương, Thanh Hóa. Đó là nhà ông Cao Nhuần Sặng, Trình Văn Tự, Nguyễn Văn Tự đều chết cả nhà, không ai chôn được nên làng kéo sập nhà vùi tại chỗ. Dòng họ Tô của ông Nuôi có 35 người thì chết 31 người. Dòng họ Hoàng của nhà ông Hoàng Bê có 31 người - chết 26 người, còn hai người nữa sống chết nơi nào chẳng rõ. Tình trạng chết cả nhà, cả dòng họ, cả xóm, thậm chí cả làng không còn một người diễn ra ở không ít địa phương miền Bắc lúc bấy giờ. Riêng ở xóm Bối Xuyên, xã Tây Lương có 51 hộ thì 40 hộ có người chết đói. Trong đó 18 hộ chết không còn ai. Hai dòng họ Tô và Lại gần như bị xóa sổ. Tỉ lệ chết đói là 62%. Đặc biệt xóm Trại ở thôn Thượng có 21 hộ, 82 nhân khẩu đều chết không còn một ai. Xóm bị xóa sổ. Bi thương hơn chết đói Bà Hoàng Thị Chén (Tây Lương, Tiền Hải, Thái Bình) đứng trên nền đất nhà ông Hoàng Be - một gia đình chết sáu người không kịp chôn, phải kéo sập nhà để hỏa táng - Ảnh: Quang Thiện Ông Nguyễn Văn Thiết (xã Tây Ninh, Tiền Hải - Thái Bình) nói: “Tôi không nhớ là nhà ai trong xã, chỉ biết rằng đôi vợ chồng trẻ ấy mới sinh được đứa con đầu lòng chưa đầy ba tháng tuổi. Đói quá, chồng chết từ mấy hôm trước. Vợ không còn sữa cho con bú, không có gì để ăn nên để con ở nhà lang thang đi kiếm ăn. Không kiếm được gì, người mẹ biết mình sẽ chết, không thể về vì đường xa, bụng đói, sức tàn. Gặp người làng, chị nhờ trông hộ con. Nhưng khi người đó về tới nhà chị thì thấy đứa bé chỉ còn trơ cái cẳng chân tím đen ruồi, kiến bu kín. Nền nhà đầy vết chân chó và máu. Người ta nói đêm nọ nghe trong nhà có tiếng kêu như mèo con. Chắc chó hoang ở đâu đói quá vào ăn thịt đứa trẻ”. Đoàn cán bộ điều tra nạn đói của Viện Sử học cũng ghi lại rất nhiều chuyện trẻ sơ sinh không người trông, tiếng khóc khi đói lả giống tiếng mèo nên đã bị chó hoang ăn thịt như thế... Họa diệt thân năm ấy đến bằng đủ cách. Ông Hằng nhớ ở làng có gia đình nhà ông Tác rất giàu có nhưng cũng chết đói cả nhà. Khi nạn đói ập đến, dân tình đem đủ đồ đạc, của cải, đồ gia bảo ra chợ bán tống bán tháo để lấy tiền mua gạo. Có cái nồi đồng bình thường đổi vài tạ thóc, lúc ấy chỉ đổi được vài ống lúa. Nhà ông Tác đem hết thóc lúa đổi của cải. Khi hết lương thực dự trữ, ông bán đồ đạc thì không ai có tiền mua nữa. Thế là cả nhà chết rục bên mấy kho của cải. Riêng xã Tây Lương cũng có tới ba, bốn nhà giàu chết như vậy, như nhà ông Nguyễn Văn Tứ, Bùi Văn Dị. Ở Thanh Hóa còn có người đào được vàng năm 1934 và trở thành hào phú, nhưng vì mua sắm nhiều thứ của người đói bán rẻ năm 1945 nên đến lúc hết tiền, bị đói không bán đồ được cũng chết. Ông này khi chết còn mặc áo dài, đội khăn xếp co quắp ở gốc phi lao... Đói ăn vụng, túng làm liều. Ông Hằng kể: tháng ba Ất Dậu biết tin có thuyền thóc của Hàn Thùy (một hội đồng dân biểu) chở về qua sông Trà Lý, năm, sáu ông là Xiêm, Trật, Đót, Hỷ, Uẩn, Phiên... bày mưu cướp thóc. Đêm ấy họ đã ăn trộm được mỗi người một bị lúa chừng 10kg. Lệnh quan truy nã, tội phạm không ai kịp ăn đã phải đem lúa đi chôn. Ông Đót bị bắt trói vào cột ven đường. Tên lính Nhật vung kiếm chẻ đôi vai, máu nhuộm đỏ chiếc áo bông rách nát. Những người còn lại cũng dần bị bắt rồi chết hết. Số lúa họ cướp được đem đi chôn ở đâu không ai biết. Tài liệu của Viện Sử học còn ghi câu chuyện ông Nguyễn Văn Hợp (xã Quảng Đại, Quảng Xương, Thanh Hóa) đi lĩnh cháo phát chẩn. Chen nhau, bị hương kiểm bắt đánh đập, tẩm dầu vào tay đốt. Ông lết về đến nhà thì chết. Cả nhà cũng chết theo không còn một ai… Cũng ở xã này, vợ chồng ông Viên Đình Thiện đói quá không chịu được cứ bốc vỏ trấu nhét mồm nhai mãi không chán. Nhai đến một lúc chồng lăn ra chết rồi vợ cũng chết theo, thối rữa ở trong nhà. Người làng đặt xác họ vào cái bồ rồi kéo đi chôn. Ngoài thị xã Thái Bình có người bán cám cho Nhật để chúng cho ngựa ăn. Loại cám này những người bán hàng đã pha mùn cưa để bán cho người đói nhưng lính Nhật mua và cho rằng bị lừa nên đã mổ bụng ngựa, giết chết người bán cám và nhét vào bụng con vật mà khâu lại… Những câu chuyện rùng rợn và bi thương của nạn đói khiến nhiều người ám ảnh suốt cuộc đời. Họ không muốn nhắc lại vì dường như sợ những oan hồn ấy còn quanh quất đâu đây. * Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình ghi: năm 1945 cả tỉnh có 280.000 người chết đói, chiếm 25% tổng dân số. Nhiều địa phương chết tới trên 50% dân số như xã Tây Lương: 67%; Sơn Thọ, Thụy Anh (Thái Thụy): 79%; xã Thanh Nê (Kiến Xương) có 4.164 người thì chết gần 2.000 người; xã Tây Ninh (Tiền Hải) có 171 gia đình chết không còn một ai… * Cuốn Lịch sử tỉnh Hà Nam Ninh xuất bản năm 1988 ghi: Phủ Nghĩa Hưng, Nam Định mỗi ngày chết 400 người. Huyện Kim Sơn (Ninh Bình) cả vụ đói có 22.908 người chết. Trong 6.161 hộ thì có 1.571 hộ chết không còn người nào. Nam Định chết 212.218 người; Ninh Bình: 37.939 người, Hà Nam: 50.398 người. * Theo giáo sư sử học Văn Tạo - nguyên viện trưởng Viện Sử học: nạn đói năm 1945 đã diễn ra ở 32 tỉnh thành cũ từ Quảng Trị trở ra. Từ năm 1990-1995 Viện Sử học với hàng trăm cán bộ nhân viên, có sự giúp đỡ của hàng trăm cộng tác viên của các tỉnh, thành cùng sự trợ giúp của nhiều giáo sư, tiến sĩ Nhật Bản đã tiến hành ba đợt điều tra nghiêm túc, tỉ mỉ và rất khoa học tại 23 điểm đại diện cho các tính chất dân cư khác nhau về nạn đói này. Kết quả trung bình cộng cho thấy tỉ lệ người chết đói tại các địa phương là 15%. Dân số VN năm 1945 tại 32 tỉnh thành lúc đó là trên 13 triệu người. Con số 2 triệu người chết một lần nữa được khẳng định. Quang Thiện (Tuổi Trẻ)
Nạn đói năm 1945 (kỳ 3): Hành trình của những “hồn ma” Lũ lượt những đoàn người như hình nhân bỏ quê hương tìm lên phố xá, mong kiếm thứ bỏ vào mồm. Và cuộc hành trình ấy kéo dài từ xó nhà đến Hà Nội đã biến con người thành hồn ma xác quỉ. Hoặc là gục chết bên đường hoặc ngoai ngoác sống trong khổ nhục... Đoạn trường đày ải Vợ chết rồi, chồng nhìn con, chờ đến lượt mình rồi con mình ngã xuống. Ảnh: Võ An Ninh Nghe chúng tôi nhắc tới hình ảnh những người đói kéo nhau lên Hà Nội, bà Chén (xã Tây Lương, Tiền Hải, Thái Bình) cố ngước đôi mắt mù lòa, lẩy bẩy đôi chân còm nhưng đã phù đỏ để đi ra ngõ. Bà nhớ từ cái ngõ này, 60 năm trước bà đã ôm con hòa cùng đoàn người lê theo sự dẫn dắt của cái đói. Đi đâu, về đâu thì không ai biết nhưng cứ từng đoàn từng đoàn rách rưới, giơ xương, trũng mắt như quỉ đói âm thầm, dắt díu nhau đi. Họ không phân biệt được nam nữ, già trẻ. Chỉ có thể thấy những thân hình dài ngắn không đều mà đoán trẻ con hay người lớn mà thôi. Họ đi chậm. Không ồn ào, không cười nói. Thỉnh thoảng có người đổ gục xuống đường không giãy giụa. Nhiều thây người bất động, mắt mở trừng trừng không biết sống hay chết. Tại các cổng chợ, ngã ba, đầu cầu, gốc cây họ nằm ngồi la liệt chìa tay ăn xin hay bới tìm lục lọi. Ngay đầu chợ, một người đàn bà có vẻ giàu có đi ngang qua, không hiểu bà ta kinh tởm hay ốm đau thế nào mà ôm bụng gập người nôn thốc nôn tháo. Hai ba đứa trẻ vội lao vào tranh nhau bốc bãi nôn, hối hả nhét vào mồm… Bà Chén cũng gặp nhiều người ôm con nhỏ như mình. Những đứa trẻ còn sức thì khóc, không còn thì lả gục trên vai mẹ. Một người đàn bà xin được chút gì đó để ăn, bà ta kéo đầu con để chia cho nó. Gọi hồi lâu người mẹ ấy mới biết con mình đã chết tự khi nào. Trong góc chợ lại có một người đàn bà nhe răng, trợn mắt nằm co quắp chết bên hai đứa trẻ. Thằng bé chắc chừng một tuổi không biết gì cứ hì hục nhay vú mẹ cho đến tận lúc tối trời. Bà Chén đi hai ngày một đêm như thế thì đến thị xã Thái Bình… Một số chết, một số ở lại, còn bà Chén và những đoàn người đói rách vô hồn đó cứ như thế tiếp tục đi lên Hà Nội… Trong Viện Sử học VN có lưu một bức thư của một tác giả nước ngoài là Vespy viết tháng 4/1945 tả về thảm cảnh của những cuộc hành trình này: “Họ đi thành rặng dài bất tuyệt, người nào người ấy rúm người dưới sự nghèo khổ, toàn thân lõa lồ, gầy guộc giơ xương, ngay cả những thiếu nữ đến tuổi dậy thì đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế. Thỉnh thoảng họ dừng lại vuốt mắt cho một người trong bọn đã ngã và không bao giờ dậy được nữa, hay để lột một miếng giẻ rách không biết gọi là gì cho đúng để che thân người đó. Nhìn những hình người xấu hơn con vật xấu nhất, nhìn thấy những xác chết nằm co quắp cạnh đường chỉ có vài nhành rơm vừa làm quần áo vừa làm vải liệm, người ta thật lấy làm xấu hổ cho cái kiếp con người”. Nhân tính tiêu tan... vì đói Lục tìm trong tâm khảm sâu thẳm, đau đớn nhưng chắc hẳn còn sáng rõ của mình, bà Chén nói: “Ánh mắt người đói lúc đó không có màu, không có thần. Nhiều lúc họ xử với nhau như thú đói, không nhân tính...”. Bà Chén lúc ấy bế một đứa con nhỏ trên tay. Dành dụm suốt từ đầu vụ đói, bà còn được mấy hào trong túi để dành cho chuyến đi này. Chợ Bo (thị xã Thái Bình) lúc đó là một bãi đất được căng lên những mảnh ni lông, đay hay lá khô trên những chiếc cọc tre xiêu vẹo. Cả một biển người nằm ngồi lê la bới rác, xin ăn chập chờn như những bóng ma. Vài người ngồi xổm ánh mắt láo liên đầy cảnh giác bên những cái thúng úp mẹt và thường là có thêm một, hai người đàn ông to khỏe dựng đòn gánh đứng bên. Đó là những người bán hàng. Khoai, ngô, hay bánh cám, bánh đúc… trộn đầy trấu hoặc mùn cưa… Ai mua hàng phải chìa tiền. Đứng tới nửa ngày bà Chén mới cảm thấy có thể an toàn để lại gần người bán bánh hỏi mua. Thế nhưng đang định xé bánh cho con thì cả đám người đang nằm như thây ma vùng dậy vồ lấy mẹ con bà, tranh nhau chiếc bánh. Những ngày sau, trên dặm hành trình địa ngục ấy, tất cả số tiền bà có đủ để mua ba chiếc bánh thì bà đều bị cướp hết. Cuối cùng bà cũng chỉ còn cách chờ nhặt rác rưởi, cọng rau, xin ăn và tham gia cướp của kẻ khác như họ đã cướp của bà để ăn. Bà không nhớ mình đi mấy ngày, mấy tuần hay mấy tháng thì tới Hà Nội. Con trai bà Chén năm nay cũng đã ngoài 60 tuổi. Anh nói: “Những câu chuyện cướp bóc, thú tính trong nạn đói, 60 năm qua mẹ tôi không bao giờ muốn nhắc lại. Chỉ có một lần bà kể cho tôi nghe một câu chuyện kinh hoàng: khi bế con đi Hà Nội, qua sông Long Hầu bà thấy có hai bố con nhà nọ đói lả, phù thũng, chắc là sắp đến lúc chết. Người con chừng 7-10 tuổi. Không hiểu lúc ấy họ kiếm được thứ gì, chắc là có thể ăn được nên hai người tranh nhau rất dữ. Đứa con co cả người nắm chặt tay bố. Hồi lâu đẩy con ra không được, người cha liền co chân đạp con xuống cầu. Đứa trẻ cố níu lấy thành cầu, hai mắt không rời miếng ăn trên tay bố. Người cha lúc ấy kiên quyết hơn và ông ta đã đạp được đứa con rơi xuống nước rồi ngấu nghiến nhét thứ đó vào mồm...”. Theo điều tra của Viện Sử học tại xã Quảng Đại, Quảng Xương, Thanh Hóa: ông Viên Đình Hữu đói quá quẳng con trai 4 tuổi xuống sông Đơ. Ông Hoàng Bảo ở xóm Cháy (Đông Hưng, Thái Bình) thấy bố của ông Bắc (cùng xóm) thổi nồi cơm. Ông Bắc bóp cổ bố đến chết để ăn một mình... Suốt chặng đường khổ ải từ quê nhà lên Hà Nội, bà Chén còn gặp rất nhiều cảnh mẹ bỏ rơi con, chồng chạy trốn vợ, rồi cướp bóc, giết chóc lẫn nhau vì miếng ăn một cách đau thương và rùng rợn như vậy. Nhưng Hà Nội lúc này cũng là địa ngục... Hà Nội - điểm hẹn sinh tồn Ông Nguyễn Ngọc Liên, 82 tuổi, hiện trú tại phòng 105, nhà C6, khu tập thể Kim Liên, Hà Nội kể: “Ngày đó nhà tôi ở 233 phố Huế. Bắt đầu từ mùa đông năm 1944, tôi đã thấy những đoàn hình nhân vô cùng thảm hại ùn ùn dắt nhau qua các phố. Áo quần họ là miếng giẻ buộc túm dính vào những bộ xương lắc lư. Những cái đầu trơ sọ, đính hai con mắt vàng trũng thất thần. Ban đầu người hàng phố cho họ ăn những thứ có thể, nhưng càng ngày họ đến càng đông, hết lớp này đến lớp khác. Họ nằm, bò, lê và chết gục khắp đường, ngõ, vỉa hè... Ai còn sống thì cứ lang thang xin ăn, không ít trường hợp cướp giật, móc mồm người khác giành ăn. Của bố thí không thể đủ cho đoàn người đói khát. Họ chết ngày một nhiều. Một buổi sáng tôi vừa mở cửa thì hai xác chết lạnh cứng đổ ập vào tôi. Đến tận bây giờ tôi vẫn không quên được cảm giác hãi hùng và xót thương lúc đó”. Ông Đặng Văn Cự - 87 tuổi, hiện ở phường Giáp Bát, Hai Bà Trưng (Hà Nội) - nói: “Ban đầu cũng chia sẻ với bà con nhưng chúng tôi cũng đói, lương thực cạn kiệt và trước cảnh tàn ác của Pháp - Nhật thì cũng không dám chắc mai này mình có thoát cảnh ma đói hay không. Trong thành phố, nhiều thanh niên, nhà hảo tâm thành lập đoàn khất thực có trung tâm ở phố Hàng Da, quyên góp cơm cháo chia cho bà con. Nhưng vì số lượng quá lớn, tổ chức chỉ là tình cảm của một số người có điều kiện nên đoàn khất thực tồn tại không được bao lâu. Chúng tôi cũng bị cướp giật bánh trái, ngô khoai, nhưng không ai nỡ đánh đập người đói mà chỉ tránh né. Người làng tôi bán bánh thì làm bằng đất bày ở quầy, mẹt, thúng. Ai mua thì mới đến chỗ khác lấy bánh thật ra. Ai cướp thì chỉ cướp được bánh đất mà thôi”. Cảnh người đói sinh trộm cướp và bị giết chóc thì nhiều lắm. Ông Liên nhớ: một buổi chiều trên đường Trần Quang Khải bây giờ. Một đoàn bốn chiếc xe bò chở những bì lúa chất cao 3-4m. Mỗi xe có một người kéo và bốn người đẩy. Phía trước và sau có 9-10 tên lính Nhật súng gươm tuốt trần áp tải. Một người trong đám phu xe, bí mật dùng một chiếc dùi thép chừng 20 phân đâm một lỗ nhỏ vào bao lúa và gí một chiếc túi vải con vào hứng dòng lúa chảy. Tên lính Nhật phát hiện. Không nói gì, hắn dùng mũi kiếm đâm xuyên lưng người móc gạo. Nạn nhân rú lên một tiếng rồi đổ gục xuống đường, lênh láng máu. Đoàn xe vẫn tiếp tục đi... Những dòng người khất thực đã kéo nhau đi trong đói lả vật vờ... Rồi họ cũng tìm đến điểm cuối cùng của cuộc hành trình - nơi chấm dứt mọi nỗi dày vò đau đớn của một kiếp người. Của triệu kiếp người... Quang Thiện (Tuổi Trẻ) Việt Báo (Theo_VietNamNet)