Tập trung suốt ngày với những con số để chiều đánh thì dễ bị loạn số hãy cho đầu óc mình thật thoải mái để nghiệm ra những con số thật chính xác nên mình mở thêm mục này để các ACE có những phút giây thật thư giãn & học hỏi thêm về nhiều vấn đề bổ ích trong cuộc sống mình sẽ xin trích dẫn nguyên văn những "Thuật xử thế của người xưa" cho mọi người tham khảo để có thể giúp ích gì cho cuộc sống hàng ngày của chúng ta hay không! ............................... THUẬT XỬ THẾ CỦA NGƯỜI XƯA LỜI GIỚI THIỆU "Thuật xử thế của người xưa" bao gồm những bài trích dịch từ các điển tích của Trung Quốc về cách ứng xử của người xưa. "Người vô dụng có thể bị người khôn khéo bóc lột công sức cho đến khi hơi thở cạn kiệt. Còn người hữu dụng thì sao? Người thấy việc gì cũng làm được, thành ra việc gì cũng ôm lấy, cáng đáng, vong động, vong tưởng, cuối cùng cũng làm con rối cho bọn quyền thế cường hào. Tựu trung, hữu dụng hoặc vô dụng cũng đều bị dùng. Người đạo đức, theo người xưa là người hiền trí. Trí để không ai lợi dụng mình. Hiền để không ai ghét mình. Chỉ có bậc hiền trí mới tránh được cạm bẫy của người khác"... Đó chính là những gì mà cuốn sách này muốn gửi đến bạn đọc.
Truyện 1. MỞ ĐẦU CÂU CHUYỆN Truyện 1. MỞ ĐẦU CÂU CHUYỆN Một hôm Trang Tử dẫn học trò đi ngao du, nhân lúc ghé vào nhà một người bạn để thăm. Chủ nhà tay bắt mặt mừng, nói: - Tiếng tăm tiên sinh vang dội như sấm bưng tai. Hôm nay tiên sinh ghé thăm bỉ phu thật là vạn hạnh. Nói rồi quay lại gọi một gia đinh, bảo: - Hôm nay ta gặp khách quý, để mở đầu câu chuyện ngươi hãy thịt một con chim cho ta đãi khách! Đứa ở hỏi: - Vâng ạ! Nhưng thưa chủ nhân, có hai con chim, một con hót hay, một con không biết hót, thịt con nào? Chủ nhân chép miệng: - Dĩ nhiên phải thịt con chim không biết hót, thứ vô dụng đó để làm gì? Trang Tử cùng chủ nhân ngồi nhâm nhi ly rượu với thịt chim, luận việc thế thái nhân tình, đoạn từ giã chủ nhà, dẫn học trò ra đi. Họ đến bìa rừng, thấy một tiều phu chống búa nhìn cảnh rừng núi bao la. Trước mắt lão là một cây cổ thụ. Trang Tử thấy vậy hỏi: - Trời chiều mà chưa thấy tiều ông đẵn được cây nào. Gặp cây này cao thẳng sao ông không hạ đi? Lão tiều thở dài nói: - Tôi cũng muốn hạ nó, nhưng ngặt gỗ nó xốp lắm, thứ vô dụng đó đẵn mà làm gì?! Một học trò nghe vậy, hỏi thầy: - Cây vô dụng thì bỏ qua, con chim vô dụng thì giết. Con thật không hiểu nổi thói đời? Trang Tử mỉm cười nói: - Ta ở vào khoảng hữu dụng và vô dụng đó. Chỉ có bậc đạo đức mới tránh khỏi tai họa mà thôi. LỜI BÀN: Đây là một bài học ngụ ngôn nhằm khuyên răn người đời . Câu kết luận của Trang Tử nói nghe như lạc đề. Vì chim và cây không phải là người. Hữu dụng và vô dụng là hai mặt đơn giản của cuộc đời... Nhưng ta để ý, làm thế nào để ẩn mình vào giữa lằn mắt vô hình hữu dụng và vô dụng đó? Trang Tử nói: "Chỉ có bậc đạo đức!"Người vô dụng không phải không làm được việc gì? Ít ra họ cũng biết hô hoán (Nếu cho họ canh cửa), cũng biết dọn dẹp giặt giũ (nếu dùng họ trong việc sai vặt). Người vô dụng có thể bị người khôn khéo bóc lột công sức cho đến khi hơi thở can kiệt. Còn người hữu dụng thì sao? Người thấy việc gì cũng làm được, thành ra việc gì cũng ôm lấy, cáng đáng, vong động, vong tưởng, cuối cùng cũng làm con rối cho bọn quyền thế cường hào. Tựu trung, hữu dụng hoặc vô dụng cũng đều bị dùng. Người đạo đức, theo người xưa là người hiền trí. Trí để không ai lợi dụng mình. Hiền để không ai ghét mình. Chỉ có bậc hiền trí mới tránh được cạm bẫy của người khác. Có thể chứng minh một câu chuyện tương tự. Nước Tề có loạn lạc. Đôi bạn Bảo phúc Nha và Quản Di Ngô(tức Quản Trọng) phò hai vị công tử chạy ra nước ngoài. Bảo Thúc Nha đem công tử Tiểu Bạch sang nước Củ, và nói: "Chỉ có mấy nước nhỏ mới không thất tín". Quản Di Ngô đưa công tử Củ chạy sang nước Lỗ, và nói: "Lỗ là cường quốc của thời này. Vả lại Lỗ là quê ngoại của công tử ". Vua Tề bị giết. Nhờ nước Củ ở gần Tề nên Bảo Thúc Nha đem công tử Tiểu Bạch về kịp đã lên ngôi. Công tử Củ ở nước Lỗ rất xa không về kịp. Bảo Thúc Nha nói với công tử Tiểu Bạch (bấy giờ đã lên ngôi lấy hiệu là Tề Hoàn Công): "Trước đây Quản Di Ngô muốn giết chúa công là bởi "ai vì chúa nấy". Lúc ấy Di Ngô đang phò công tử Củ. Xin chúa công đừng giận ông ta. Di Ngô là bậc đệ nhất kỳ tài. Chúa công muốn dựng nghiệp bá, không có ông đó, không xong. Nay tôi đem binh đóng biên giới làm áp lực, buộc vua Lỗ phải "xử trí" lấy Củ, và buộc vua Lỗ giao Di Ngô cho chúa công". Bên kia Di Ngô và vua Lỗ tranh không kịp với Tiểu Bạch, lòng còn đang tức. Bỗng nghe quân Tề kéo đến. Mưu sĩ nước Lỗ là Thi Bá, hiến kế: "Để tránh binh đao với Tề, chúa công nên giết Củ đi, vì Củ là tên vô dụng! Nhưng chúa công phải tìm mọi cách trọng dụng Quản Di Ngô, vì tài của ông ta "kinh thiên vĩ địa". Vua Lỗ nói: "Di Ngô một lòng với chủ. Nay ta giết Củ là chủ hắn, thì hắn không bao giờ chịu giúp ta đâu. Vả lại, Tiểu Bạch một mực đòi DiNgô về Tề, để tự tay mình trả thù". Thi Bá nói: "Đó là mẹo của Thúc Nha đòi Di Ngô về Tề để dùng. Chúa công không dùng thì giết chứ đừng trả Di ngô". Vua Lỗ không nghe. Di Ngô về Tề giúp cho Tề Hoàn Công, đưa nước Tề lên địa vị bá chủ. Vua Lỗ ân hận mãi. Chuyện này có phần hơi khác chuyện Trang Tử trên đây. Ở đây kẻ vô dụng bị giết đã đành, nhưng người tài giỏi vẫn bị người ta đòi giết. Cũng may, Di Ngô và Thúc Nha là những người kỉ mưu tuyệt trí nên không bị những kẻ tầm thường hạ sát. Nhưng cái ý nghĩa của nó vẫn giống nhau, chỉ có bậc đạo đức, hiền trí mới giữ được mình. ......................... Truyện 2. HÌNH ẢNH MỘT XỬ NỮ NGÀY XƯA Ngũ Tử Tư từ lúc lưu vong, xin ăn dọc đường bụng đói lả. Đến đất Phiên Dương thấy một thiếu nữ đang ngồi giặt lụa trên bến Lại Thủy, có đem theo mo cơm đặt bên cạnh. Tử Tư nói: - Ta trên bước đường cùng nên mới xin ăn, xin nàng giúp cho! Thiếu nữ ngước lên nhìn Tử Tư rồi nói: - Thiếp trông ngài không phải là người thường, đâu dám vì chuyện nhỏ mọn mà không cho ăn? Người con gái mở gói cơm đưa cho Ngũ Viên (tức Ngũ Tử Tư) và Thắng (Thắng là đứa bé con Thái tử Kiến). Kiến bị vua cha muốn giết bỏ trốn tránh qua Trịnh, sau phản Trịnh bị giết ở Trịnh. Tử Tư phải mang Thắng theo). Ngũ Viên và Thắng cùng ăn. Ngũ Viên biết thiếu nữ nghèo khổ, lại ở nơi vắng vẻ, nên không dám ăn hết, để lại cho nàng một phần. Thiếu nữ nói: - Hai người còn đi xa, hãy dùng hết đi. Ngũ Viên và Thắng ăn hết cơm. Lúc sắp đi, Ngũ Viên nói: - Tôi không bao giờ quên ơn nàng. Tôi là người chạy trốn. Nếu gặp người khác xin đừng tiết lộ. Thiếu nữ than: - Ba chục năm nay ta chưa hề tiếp chuyện với người đàn ông nào. Giờ vì miếng ăn thành ra thất tiết! Thôi, các ngươi đi đi! Ngũ Tử Tư đi được mấy bước, ngoảnh mặt thấy cô gái giặt lụa ấy đã ôm lấy cục đá nhảy xuống sông mà trầm mình. Ngũ Viên bi thương quá đỗi, cắn ngón tay chảy máu, viết hai mươi chữ trên đá: "Nhĩ hoàn sa, ngã hành khất. Ngã phúc bảo, nhỉ thân nịch. Thập niên chi hậu, thiên kim báo đáp" (Nàng giặt lụa, ta ăn xin. Ta bụng no, nàng chết chìm. Hẹn mười năm nữa ngàn vàng báo đền). Tử Tư lấp đất hòn đá lại rồi dắt Thắng vào nước Ngô. LỜI BÀN: Cho đến bây giờ, có lúc người ta gặp cảnh ngộ thất thường đành tạm ăn xin qua ngày, thì thời đó việc ăn xin của Ngũ Tử Tư cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Vấn đề ở đây là một thiếu nữ quê mùa sau khi cho Ngũ Tử Tư ăn một bữa cơm, nàng lại trầm mình. Tại sao nàng lại tự sát? Có người nói, thiếu nữ chết là bởi Tử Tư dặn một câu: "Nếu gặp người khác xin đừng tiết lộ". Nàng chết là để Ngũ Tử Tư yên tâm. Thật ra đó là ý phụ. Ta xem câu nàng nói: "Thiếp trông ngài không phải là người thường, đâu dám vì chuyện nhỏ mọn mà không cho ăn?" "không phải người thường" có ý chỉ Ngũ Tử Tư là nhân vật quan trọng sau này. "Đâu dám vì chuyện nhỏ mọn mà không cho ăn". Chuyện nhỏ mọn ở đây không chỉ việc nàng nhịn đói một bữa, mà có ý chỉ cho việc "không được tiếp xúc với đàn ông ở nơi vắng vẻ". Vì vậy nàng mới than: "Ba chục năm nay ta chưa hề tiếp chuyện với người đàn ông nào. Giờ vì miếng cơm thành ra thất tiết!" Chỉ nói chuyện với đàn ông mà nàng cho là "thất tiết", đủ hiểu cái "tiết" to lớn đến bậc nào. "Tiết" ở đây là tiết hạnh, là sự trong trắng từ thể xác đến linh hồn. Phẩm tiết là cái diện mạo của Trinh tiết. Phẩm tiết không có thì cái "Trinh" cũng bằng thừa. Vì nhiều người không thân dâm mà ý dâm thì sao? Phẩm tiết của người con gái không hẳn chỉ ở những nhà quyền quý, không hẳn chỉ ở những tiểu thư, công nương, không hẳn chỉ ở những gia đình thế phiệt, trâm anh. Lấy theo con mắt của người nay, thì cái chết của thiếu nữ giặt lụa là "chết dại", nhưng với con người phẩm hạnh của người xưa, họ cho rằng: "danh tiết còn giá trị hơn thân xác". Vì thân xác có thể mất đi nhưng danh tiết vẫn còn. Hình ảnh ấy vừa cao cả, vừa bi tráng. ....................... Truyện 3. ÔNG GIÀ HỌ MÃ MUA NGỰA HAY LÀ MIỆNG THẾ GIAN Nhà họ Mã ngày trước chuyên nghề nuôi dạy ngựa và bán ngựa. Có một dạo gia đình ông suy sụp vì con ông bị bệnh nặng, đã vét hết tiền trong nhà mà con ông vẫn không khỏi. Ông bán hết số ngựa nuôi để thang thuốc cho con. Con ông sống được. Từ đó ông bắt đầu dành dụm, tằn tiện được một số tiền.Ngày nọ Mã ông nghe ở Hương Lâm có bán một giống ngựa quý, ông đến nơi đó xem tướng ngựa thật kỹ, biết đó là giống ngựa hay, thuộc loại Hoàng Phiêu, mặc dù nó có phần hơi gầy. Mã ông thích quá, nên chịu mua với giá đắt. Ông về nhà bàn lại với con: - Phụ thân xem biết nó rất quý, dù hơi gầy, thuộc giống Hoàng Tuyết Phiêu của người Khương. Nhà ta gây được giống này sẽ làm giàu không mấy hồi. Ngặt vì xa ngót ngày đường, qua đèo truông e có cướp, nên cha con ta cùng đi. Hai cha con họ Mã thử ngựa và ngã giá xong, tra yên cương, cha con đồng lên ngựa ra về, lòng thấy hoan hỉ. Họ đi qua một xóm nhà, Mã ông khiêm tốn cho ngựa đi nước kiệu, dân làng đón ông lại nói: - Mã lão! Ông là người nuôi ngựa, sao không biết thương ngựa? Con ngựa gầy thế kia, còn cha con ông cọp ăn bảy ngày không hết, nỡ nào cả hai lại đè trên mình nó? Ông Mã nói với con mình: - Họ nói phải đấy con ạ! Vậy cha nhường cho con cưỡi. Cha cầm cương cho. Thế là một mình Mã công tử ngồi ngựa, ông Mã đi bộ theo. Họ yên tâm đi xóm nhà khác, bây giờ trời đã khá trưa, những người ngồi mát trên đường thấy cảnh cha con họ Mã như vậy, họ kéo ra đón đầu ngựa, xỉ vả người con: - Ai dạy công tử về cách hiếu đạo như thế? Con thì ngồi ngựa kênh kiệu, để cha chạy bộ theo đổ mồ hôi! Qua cánh đồng kia có học hiệu Khổng Môn, chắc họ đánh công tử trào máu ra mất! Mã công tử lật đật nhảy xuống ngựa, chắp tay thưa với cha: - Họ nói phải đấy cha ạ! Nãy giờ con cũng khỏe rồi, cha hãy cưỡi nó cho đỡ mệt. Người cha lên ngựa đi, ngang qua "Khổng Môn học hiệu", một số học trò ở đó biết mặt ông già, chúng chạy lại đón ông nói: - Mã lão bá! Lão bá lâu nay mạnh giỏi chứ? Nghe nói lệnh lang lâu nay bệnh thập tử nhất sinh, nay mới vừa hơi bình phục lão bá để lệnh lang nhọc nhoài cho đành. Mã lão nhảy xuống ngựa nhìn con rồi thì thầm: - Kể ra họ nói cũng phải. Kể không còn bao xa, ta dắt ngựa đi vậy. Hai cha con xuống ngựa dắt bộ, hồi lâu đến xóm khác, có ai đó nhìn ngựa rồi chửi: - Đúng là cha con một lão vô học. Đây là giống Hoàng Tuyết Phiêu, một loại thiên lý mã, mua về để cưỡi hoặc làm giống, nào phải mua về để thờ, sao có ngựa lại không cưỡi? Cha con họ Mã thiếu điều muốn khóc. Lão nói với con: - Cưỡi ngựa cũng bị chửi, mà không cưỡi cũng bị chửi! Ta chịu hết nổi! Thôi thả quách cho xong! Hai người dắt đi một đoạn cho khuất mắt mọi người, rồi tháo cương, cởi yên, đánh một roi, ngựa dong tuốt vào rừng mất dạng. Về đến nhà, bà cụ nghe đón đầu ngõ. Ông cụ thuật lại mọi chuyện. Bà cụ nghe qua đấm vào đầu bình bịch, vừa khóc vừa nói: - Ngu sao là ngu! Có bao nhiêu vét đi mua ngựa, rồi thả ngựa đi! Xưa nay miệng lưỡi thế gian. Việc mình mình cứ làm, chiều ý, nghe lời họ làm gì? Rồi đây lấy gì mà sinh sống, lấy gì mà cưới vợ cho con? Ngu ơi la ngu!... LỜI BÀN: Quả là, không "ở sao cho vừa lòng người"! Ông già họ Mã hiền hậu đến mức thiếu tự tin. Những người ngoài nhìn vào làm sao hiểu được tình trạng của họ Mã và con ngựa kia như thế nào? Ý kiến nào họ nói cũng phải, nhưng trước nhất họ Mã phải biết đánh giá được cái việc của mình. Tục ngữ có câu: "Chín người mười ý", thì ý thứ mười là ý mình vậy. Mua ngựa là quyết tâm, mà giữ được "quyết tâm" (chỉ con ngựa) là thiếu quyết định. Thiếu một trong hai cái đều hỏng.
Góp vui với Huynh Đạo Cương Nhu “Nhu thắng cang Nhược thắng cường” (Lão Tử) Đời Tràng Công, nước Tề có một chàng đêm nằm chiêm bao thấy một người to lớn, mặc áo vải quần gai… đeo gươm tự dưng đi vào tận nhà, mắng chửi, rồi lại nhổ vào mặt… mà đi. Anh ta giật mình tỉnh dậy... ngồi suốt đêm, bực mình không ngủ được. Sáng hôm sau, anh nói chuyện với một người bạn: - Từ thuở nhỏ đến giờ, tôi vẫn là người hiếu dũng, đến nay đã sáu mươi tuổi rồi chưa hề bị đứa nào làm nhục. Thế mà đêm hôm qua bị phải một đứa nào làm nhục tôi. Tôi định tìm cho kỳ được đứa ấy để báo thù. Nếu tìm thấy nó thì hay, không tìm thấy, chắc là tôi phải chết… Rồi từ hôm ấy, cứ sáng nào anh ta cũng cùng bạn ra ngoài đường cái để rình. Rình đã ba ngày vẫn không thấy… Anh ta trở về nhà uất cả người lên mà chết. Câu chuyện thật là ngớ ngẩn… nhưng nó tỏ rõ được cái tâm sự của người bị nhục không biết chừng nào. Người ta ở đời có thể chịu được tất cả sự đau khổ về tinh thần lẫn vật chất. Nhưng cái đau khổ của sự nhục thật là một thứ đau khổ thiết tha hơn tất cả sự đau khổ trong đời. Nên mới có câu: “Ninh thọ tử, bất ninh thọ nhục”. Thà chết, chứ chẳng chịu nhục. Dầu là một kẻ tầm thường đến đâu cũng biết xem thường mạng sống mình khi gặp nhục. Xem những cuộc phục thù rửa hận, giết hại lẫn nhau hằng ngày thì cũng đủ rõ. Bị nhục là một điều khó nhịn nhất… mà nhịn được, ắt phải là kẻ có khí tiết hơn người… Đâu phải đó là khiếp nhược như bọn thất phu lầm hiểu… Tô Thức nói: “Kẻ mà được gọi là hào kiệt, ắt phải có khí tiết hơn người. Nhân tình có chỗ không thể nhịn được, bởi vậy, kẻ thất phu gặp nhục thì tuốt gươm đứng dậy, vươn mình xốc đánh… Cái đó chưa đủ gọi là dũng. Những bậc đại dũng trong thiên hạ, trái lại thình lình gặp những việc phi thường cũng không kinh, vô cớ bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ chỗ hoài bão của họ rất lớn và chỗ lập chí của họ rất xa”. Câu nói ấy thật là hiểu được tâm sự của những bậc hào kiệt trong đời vậy. Nhịn được cái điều người ta không thể nhịn được, dung được cái điều người ta không thể dung được… Phải là người độ lượng hơn người, kiến thức hơn người, điềm tĩnh hơn người, mới làm nổi… Việc Câu Tiễn đánh Ngô bị thua to. Ngô Vương bắt Câu Tiễn giam ở Cối Kê ba năm. Bắt chịu không biết bao nhiêu điều sỉ nhục của một người thất trận. Nếu Câu Tiễn không dằn nổi cái nhục ấy mà tự sát thì nước Việt không mong gì khôi phục và ắt phải đến diệt vong cũng không chừng. Sở dĩ mà dằn nổi, nhân vì Câu Tiễn hoài bão rất to, lập chí rất vững… Thật là một sự kiên tâm nhẫn chỉ phi thường… Từ một nước chiến bại mà làm cho nó trở nên cường thịnh đến diệt được một nước Ngô và lên làm bá chủ thiên hạ, nếu không phải Câu Tiễn thì không sao làm nổi. Người có một tâm hồn dũng mãnh như vậy, thế mà lắm lúc chịu đựng hết muốn nổi, tỏ ý liều chết… Phạm Lãi khuyên can: “Ngày xưa, vua Trụ giam Văn Vương ở Dũ Lý, giết con Văn Vương là Bá Ấp Khảo, rồi làm mắm mà đem vào cho Văn Vương. Thế mà Văn Vương cũng chịu nhục ăn thịt con. Ta muốn thành đại sự thì cần gì những điều nhỏ mọn ấy… Thấy Câu Tiễn phục lụy, khúm núm, rụt rè… Ngô Vương khinh thường, cho là khiếp nhược và có ý muốn tha. Ngũ Tử Tư bàn can: “Sao Đại Vương nghĩ lầm như vậy! Con hổ mà thu hình lại thì tất là để chụp vồ đấy! Con ly mà rút cổ lại, tất là định đánh cướp đấy! Vua Việt vào làm tôi vua Ngô, dẫu trong lòng oán giận, Đại Vương làm gì có thể biết được. Bây giờ cúi xuống mà nếm đống phân của Đại Vương, chắc đâu sau này không có một ngày kia ngẩng đầu lên mà ăn bộ lòng Đại Vương…” Bậc hào kiệt trong đời, họ hiểu tâm sự nhau rất rõ. Phàm ở trong thế yếu mà nuôi chí báo thù lại không có đủ đởm lược chịu đựng những điều sỉ nhục, ắt không bao giờ làm nên đại sự. *********** Nước Hàn có Trương Lương, tên chữ là Tử Phòng. Tổ tiên Trương Lương năm đời làm tướng nước Hán. Từ khi Tần Thủy Hoàng diệt nước Hàn, Trương Lương ngày đêm căm hận, một lòng vì nước báo thù. Tự mình xuất ra ngàn vàng để kết nạp các tráng sĩ trong nước, định giết Tần Thủy Hoàng. Sau gặp đặng một tráng sĩ sức vóc cũng khá, cầm nổi cái dùi nặng trăm cân, nên lưu ở trong nhà… Ngày kia, được tin Thủy Hoàng đi qua con đường huyện Vũ Dương, Lương bèn sai tráng sĩ núp ở trên một cái gò cao để rình đánh Thủy Hoàng… Nhưng tráng sĩ lại đạp lầm xe, bị Thủy Hoàng đem ra giết. Lương chạy trốn sang Hạ Bì vào ở nhà Hạng Bá. Bá là bạn thân của Lương nên giấu Lương trong nhà. Ở đó một ít lâu, một hôm Trương Lương đi chơi xa ngoài thành, đến đầu Dĩ Kiều ngắm xem phong cảnh. Bấy giờ bóng đã xế, chợt thấy một ông cụ già đi qua. Ông già nhìn Trương Lương lắc đầu, “Thật đáng tiếc!”, rồi bỏ đi. Đến giữa cầu lỡ đánh rơi chiếc dép xuống bùn, liền vẫy tay gọi Lương bảo: “Này, bé con xuống lượm chiếc dép giùm ông…” Trương Lương thấy ông cụ già cốt cách khác thường liền vâng lời, lội xuống bùn, lượm chiếc dép, quỳ xuống đưa cho ông già. Ông cụ xỏ dép mà đi, lại đánh rơi lần nữa… Cũng bảo Lương xuống lượm dép. Lương vâng lời, lượm lên như trước… Cứ như thế đến ba lần… mà gương mặt của Lương không thấy tỏ vẻ bực dọc gì cả. Ông lão thấy vậy gật đầu khen: “Thằng bé này dạy được đấy!” Nói xong chỉ vào gốc cây cổ thụ ở gần đó mà bảo Trương Lương: “Năm ngày nữa, con đến đây, ông sẽ cho một vật quý. Con phải y ước, đừng sai hẹn…” Năm hôm sau, Trương Lương dậy sớm, y ước đến chỗ gốc cây thì đã thấy ông cụ già ngồi ở đấy rồi. Ông cụ thấy Trương Lương thì mắng: “Đã hẹn với người già mà sao lại đến chậm? Thôi, ta hẹn cho năm ngày nữa, phải đi cho sớm.” Ông cụ đến sớm hơn, lại mắng, rồi hẹn năm ngày nữa. Lần này Trương Lương không đi ngủ, đi ngay từ chập tối, đến gốc cây ngồi đấy để chờ. Không bao lâu, thấy ông cụ phơi phới từ đàng xa đi lại. Trương Lương sụp lạy để đón. Ông cụ trao cho ba quyển sách, bảo về đọc… ngày sau có thể an bang tế thế. Trương Lương về sau quả trở nên một bậc thầy của đế vương, gây dựng cơ nghiệp nhà Hán. “Người sau có kẻ cho là việc Tử Phòng được sách của ông lão trên cầu là một việc thần kỳ quái đản… Nhưng biết đâu đời Tần lại không có bậc ẩn nhân quân tử bày ra những chuyện như thế để dò xét sự tế nhị trong tâm hồn của con người! Biết đâu không phải là thâm ý của các bậc thánh hiền họ muốn dạy bảo nhau! Bởi người ta không xét cho kỹ, nên mới cho là quái đản thần kỳ, thật… là không hiểu được chỗ dụng ý sâu xa của những bậc ẩn sĩ đời xưa vậy. Đương lúc Hàn suy vong, Tần hưng thịnh, Tần lại dùng cực hình, đao, cưa, chảo, vạc để mà thao túng kẻ sĩ trong thiên hạ. Thậm chí những kẻ nhàn cư vô sự cũng bị tru diệt không kể hết cho được. Dẫu trong thiên hạ, người người đều oán hận nhưng vì nhà cầm quyền quá gắt gao dòm ngó nên không chỗ để thi hành. Tuy vậy, lòng phẫn uất ấy cũng không thể dè… Tử Phòng, cũng như muôn người khác, làm sao đè nổi cái lòng phẫn uất của mình. Bởi vậy, mới có sự dùng đến cái dũng của thất phu, thuê tráng sĩ để rình mò hành thích Thủy Hoàng. Thật, bấy giờ cái chết của Tử Phòng chỉ cách một lằn tóc, nghĩ cũng thật là nguy hiểm. Đứa con quý không thể để cho nó chết về tay kẻ cướp. Tại sao vậy? Vì cái thân của nó rất quý, đâu có thể để cho nó chết vì kẻ cướp. Tử Phòng tài năng cái thế, tại sao không chịu mưu sự như Y Doãn hay Thái Công, lại đi hành sự như Kinh Kha, Nhiếp Chánh. May mà khỏi chết cũng là một sự may mắn bất ngờ… Nên ông lão trên cầu mới than: “Thật đáng tiếc!” Ông sở dĩ ra dáng kiêu ngạo, là vì ông biết tài năng của Tử Phòng có dư, nhưng còn sợ độ lượng của Tử Phòng chưa đủ… nên mới đày đọa tiêu mất cái kiêu khí của thiếu niên, đặng cho biết “nhịn việc nhỏ để thành việc lớn”… Nếu không vậy, sao xưa nay chưa biết nhau, chỉ mới gặp nhau nơi thảo dã, lại sai là như kẻ tôi đòi… Nhưng mà Tử Phòng làm rất tự nhiên, không lấy gì làm lạ cả. Nên ông mới nói: “Trẻ này dạy được.” Như Sở Trang Vương phạt Trịnh, Trịnh Bá trần mình dắt dê ra nghinh tiếp. Trang Vương nói: “Chúa nó dám hạ mình, thế nào cũng đặng lòng dân tín dụng”. Bèn không đánh Trịnh mà rút quân về. Câu Tiễn bị đày ở Cối Kê, làm đứa ở vua Ngô ba năm, mà không nản… Nên về sau diệt được Ngô, trả được cái thù ngày trước. Đó, phàm có chí báo thù mà không biết hạ mình được, đây là cái dũng của kẻ thất phu vậy. Coi như Hán Cao Tổ sở dĩ thắng Hạng Võ mà Hạng Võ bị Hán Bái Công giết… là nhờ biết nhẫn hay không biết nhẫn mà ra. Hạng Võ không thể nhẫn nên trăm trận trăm thắng rồi khinh dụng cái sức của mình. Cao Tổ biết nhẫn nên dưỡng sức mình để chờ Hạng Võ suy… Đó, đều là nhờ Tử Phòng chỉ bảo cho vậy. Lúc Hàn Tín thắng Tề muốn xưng Vương, Cao Tổ giận ra mặt… Coi đó đủ thấy người như Cao Tổ rất sành cái đạo “nhu nhược thắng cang cường” thế mà chừng ấy khí cương cường “không thể nhẫn” cũng vẫn còn. Nếu không phải Tử Phòng bấm chân, rỉ tai dạy bảo cho… thì còn ai làm nổi sự này. Cho nên người sau bảo: Hán đế mà làm nên nghiệp cả cũng nhờ Tử Phòng dạy cho chữ Nhẫn. Xét người hào kiệt anh hùng có thể mưu đồ đại sự, người xưa thường căn cứ vào chỗ biết nhẫn hay không biết nhẫn ấy mà luận, thật cũng là khám phá. Như Hàn Tín lúc nhất thời, nghêu ngao ngoài chợ, gặp tên đồ tể điếm nhục. Nếu độ lượng của Hàn Tín còn non, chịu không nổi cái nhục vô cớ ấy… ắt về sau không bao giờ làm nên đại nghiệp. Người mà không biết đường khinh trọng, vụ nhỏ bỏ lớn, gặp nhục thì “tay tuốt gươm, vươn mình xốc đến”… người như thế mà đem binh quyền thiên hạ giao cho thì nguy hiểm không biết chừng nào… Trương Lương có lẽ đã nghĩ như thế này. “Diệt cái vũ dũng của Hạng Vương, trong thiên hạ không ai hơn Hàn Tín. Việc lòn trông của anh mà phần đông thiên hạ hiểu lầm khiếp nhược… là một việc đại dũng trong đời. Với cử chỉ ấy, anh ta tỏ ra là người biết tiểu nhẫn để thành được đại mưu. Những kẻ vũ phu tiểu khí, cũng như mọi người, ắt đã đem cái “thất phu chi dũng” để thỏa mãn cái “huyết khí chi nộ” của nhất thời rồi… Những kẻ như thế mà đem tánh mạng muôn quân giao cho thì đại sự ắt phải hỏng. Nếu ta muốn tìm những kẻ tay sai dưới trướng mà sức mạnh địch nổi muôn người thì kẻ dũng sỉ trong thiên hạ ta sẽ chở về cho chúa công mấy xe cũng có. Nhược bằng muốn tìm một người diệt Sở phá Tề, đồ vương định bá cho Hán Vương thì phi người đó không còn ai nữa…” Nghĩ thế thật là suốt lẽ. Hàn Tín khi diệt được Hạng Võ, lên làm Sở Vương liền cho người đi tìm tên đồ tể đã làm nhục khi trước mà phong tước cho. Tín nói với kẻ tả hữu: “Hắn là một kẻ tráng sĩ đó. Khi hắn làm nhục ta, giá ta giết hắn đi cho hả lòng, thì lấy đâu được có ngày nay. Chỉ vì ta biết nhẫn, lập chí cao, hoài bão lớn mà ngày nay mới được như thế này… Phong cho hắn, há không phải là không có ý nghĩa ư ?” Đấy là cách trả thù của Hàn Tín. Nhìn sâu vào tâm sự của Hàn, ta thấy Hàn chưa đủ sức để quên các mối nhục nhỏ ấy… Bởi vậy vừa được phong vương là nhớ đến cái nhục ngày xưa, cho người đi tìm kiếm. Phong chức cho là để tỏ cái lòng quảng đại hơn người và nhắc cho tên thiế niên ách nghịch nọ cái việc làm ngu dại của nó để cho nó hằng ngày tưởng nhớ đến cái khoan hồng của người trượng phu cao hơn nó. Tín nghĩ: Trả thù là tỏ ra mình ngang hàng với người thù. Tha thứ là đứng trên họ. Phong tước lại càng đứng trên nữa. Than ôi! Đối với một kẻ thất phu, Hàn Tín còn không thể được cái nhục… thảo nào đối với Hán Vương… ông không đi so đo từng việc một sao được. Bởi cái độ lượng ấy chưa thật rộng, nên suốt đời ông mới tự chuốc không biết bao nhiêu tai họa. Lời bàn: Những kẻ cầm quyền thiên hạ lại cần phải điềm tĩnh hơn bậc tầm thường, biết gác cái lòng tự ái riêng mình một bên, nếu gặp phải trường hợp có sự tranh chấp giữa quyền lợi công và tư… Lắm khi vì thiếu điềm đạm, rồi dùng đến cái dũng của thất phu thì hỏng luôn cả đại sự. Bởi vậy, ta thấy những bậc vĩ nhân làm nên việc lớn đều là những người trầm tĩnh ung dung. Dầu là kẻ tài hoa học vấn cao đến đâu, mà thiếu điềm tĩnh, nhất định không nên giao cho họ những việc lớn của thiên hạ. Thô lỗ, vục chạc, nóng nảy… là một vấn đề thuộc về tính khí, không ăn chịu gì đến vấn đề thông minh trí thức cả.
Biết mình biết người: Nước Lỗ có người ở một mình một nhà. Bên láng giềng có người đàn bà góa cũng ở một mình một nhà. Một đêm, mưa to gió lớn, nhà người đàn bà đổ, bèn sang xin ngủ nhờ… Người láng giềng đóng cửa không cho vào. Người đàn bà đứng trước cửa sổ nói: “Ngươi sao bất nhân thế? Không cho ta vào!” Người láng giềng đáp: “Ta nghe đàn ông đàn bà sáu mươi tuổi trở lên mới ở chung được. Nay người còn trẻ, mà ta cũng còn trẻ, cho nên ta không thể cho ngươi vào ngủ trọ được”. Người đàn bà nói: “Ngươi sao không làm như Liễu Hạ Huệ, ủ người con gái ngồi vào lòng mà không tai tiếng gì”. Người láng giềng nói: “Ông Liễu Hạ Huệ thì thế được, chứ ta đây chưa thế được. Vì ta cho ngươi vào mà ta không được như ông Liễu Hạ Huệ thì thà rằng ta không cho ngươi vào mà ta cũng giữ không tai tiếng gì như ông Liễu Hạ Huệ. Thế là ta không làm như Liễu Hạ Huệ mà cũng được như Liễu Hạ Huệ vậy”. Khổng Tử nghe câu chuyện ấy nói: “Phải lắm! Kẻ muốn học ông Liễu Hạ Huệ, chưa ai giống được người nước Lỗ này. Mong làm điều rất phải, không bắt chước cách làm, rồi mà làm được, thế mới thật là người khôn”. Lời bàn: Sức chứa của lòng người phải biết cho nó có hạn. Có người rất liêm khiết, nhưng sức chứa của lòng liêm khiết chỉ chịu đựng nổi đến mười ngàn đồng là cùng. Dưới số đó, không làm sao cám dỗ được họ, nhưng hơn số đó, họ bị sa ngã ngay. Bởi vậy, có người cho làm chức hương cả thì không thèm làm, mà cho làm cai tổng thì làm. Hiếm kẻ với số bạc năm, bảy chục ngàn đồng thì vẫn thản nhiên như không: Họ vẫn là một người bạn trung thành và luôn luôn liêm sỉ. Nhưng gặp phải số bạc trăm ngàn thì lại thành gian hùng phản bội. Bởi thế mới có kẻ ngày nay là một bậc trung nghĩa, mà khi trong tay cầm cả quyền hành thiên hạ lại trở thành một kẻ đại gian đại ác… Kẻ đạo đức, quân tử mà phải sa ngã, buôn dân bán nước nào đâu phải vì họ giả dối… mà là vì họ không lượng trước cái sức chứa của lòng đạo đức họ là bao nhiêu. Bước đầu của sự khôn ngoan là biết mình. Chưa phải là người đại dũng mà cố bắt chước làm cái làm của người đại dũng… Thế nào cũng hỏng.
Sưu tầm... CHỮ LỄ CỦA Á ĐÔNG: Lòng tự ái là nguồn gốc lớn của muôn sự đắng cay chua xót ở đời. Muốn cho tâm hồn được bình tĩnh thời không có gì kỵ bằng lòng tự ái. Trong các thị dục, thị dục về lòng tự ái là vô độ hơn cả: trong các khổ não, cái khổ não do lòng tự ái gây ra là khó tránh và thường thống thiết hơn. “Lòng tự ái đã là cái cừu địch cho sự bình tĩnh bên trong, nó lại cũng là cái cừu địch cho sự yên ổn bên ngoài nữa. Phàm khi lòng tự ái được thỏa mãn là tất có xâm phạm đến ngoài… “ Lòng tự ái bao giờ cũng chăm chăm đáu đáu chỉ chực có dịp miệt kẻ khác để cho khỏi bị kẻ khác miệt mình, thành ra bao giờ cũng cứ quanh quanh dòm dõ người ta; xem ai có gì xấu thì phô trương lên, ai có gì tốt thì bài bác đi, để nuôi cái lòng tự đắc của mình”. Xem đấy đủ rõ câu “ẩn ác dương thiện” của cổ nhân, khó khi thi hành biết chừng nào! Tại sao? Tại lòng tự ái của chúng ta quá nặng, thường tin rằng dìm được người ta là đem được mình lên, chê cái dở của người tức là đem được cái hay của mình ra… Thật không gì vụng về bằng… khiến nên, ở đời, trong sự giao tế hằng ngày, gây cho ta không biết bao nhiêu điều khốc hại… * Tóm lại, tất cả mật pháp của thuật xử thế có thể gồm trong hai nguyên tắc quan trọng nầy: 1 - Chớ chạm vào lòng tự ái của ai cả. 2 - Ẩn ác dương thiện. Nguyên tắc thứ nhất thuộc về tiêu cực; còn nguyên tắc thứ nhì, thuộc về tích cực. Cả hai không phải là những câu châm ngôn chỉ sự khôn dại cho người đời mà thôi, mà thật ra nó là câu nói của lòng Nhân, hay ít ra, của lòng yêu chuộng Công Bình. Người xưa há không có bảo: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” sao? Cái gì mình không muốn người làm cho mình, thì đừng làm cho kẻ khác. Có ai là người muốn bị người ta chạm đến lòng tự ái của mình không? Thế sao mình lại thích lấn áp người trong lời nói để người ta phải đỏ mặt, tía tai cho cam. “Làm cho người ta cùng lý đến phải ngậm miệng, đỏ mặt, toát mồ hôi, mình tuy hả lòng thật, nhưng đấy là người nông nổi khắt khe làm sao…”. Thế là bất công, mà cũng là bất nhân nữa… Nhưng rồi, hả lòng được một ít mà lắm khi còn di hại cho mình đến thảm khốc cũng không chừng… Thế thì đâu phải chỉ bất công, bất nhân mà lại còn bất trí nữa là khác. Chữ Lễ của người Á Đông trong đạo xử thế thật có thể bao hàm được cả cái ý nghĩa đã vừa nói ở trên. Lễ, theo Á Đông, chẳng những có ý nghĩa là tự trị, tự chủ, mà cũng có nghĩa là Nhân nữa. Nếu phải nói tắt một lời, thì tôi nói: tất cả thuật xử thế của người Á Đông, đều ở trong một chữ Lễ. Lễ, là nhún nhường, đem cái bản ngã của mình để sau kẻ khác, đâu phải vì giả dối du mỵ để mưu lợi cho mình. Lễ, là tránh cái đau khổ cho bản ngã kẻ khác bằng cách hy sinh bản ngã của mình. Lễ, là không chạm đến lòng tự ái của ai cả. Lễ, là che cái xấu, giấu cái dở và biểu dương cái hay cái đẹp của người ta. Phải là một người không ích kỷ, diệt được cái bản ngã của mình rồi mới làm nổi việc ấy, làm một cách thản nhiên, vô tư lợi… A - Nhất là người trên mà đối với kẻ dưới cần phải cẩn thận nhiều về chữ Lễ, vì kẻ dưới với cái tâm cảm tự ty của họ, khó mà tha thứ những điều sơ suất của ta về lễ độ được. Người trên mà thất lễ với kẻ dưới, là một sự thường rất dễ hiểu: kẻ phú quý hay tài hoa hơn kẻ khác thường dễ sinh tự phụ và kiêu khí. Nhưng họ nào có dè, kết quả của sự kiêu căng vô lễ của họ… nó nguy hiểm thâm độc không biết chừng nào… Nam Cung Trường Vạn, một người trong bầy tôi của Tống Mẫn Công, bị giặc Lỗ bắt. Tống Mẫn Công cho người đến xin vua Lỗ tha cho. Lỗ Trang Công cho Nam Cung Trường Vạn về nước. Khi thấy Nam Cung Trường Vạn, Tống Mẫn Công nói đùa: “Ngày trước ta kính trọng ngươi; bây giờ ngươi là tù nhân nước Lỗ, ta không kính trọng nữa”. Nam Cung Trường Vạn thẹn đỏ mặt, cáo từ lui ra. Quan đại phu Cừu Mục nói riêng với Tống Mẫn Công: “Vua tôi giao tiếp nhau, cần phải giữ Lễ, không nên đùa bỡn… Đã đùa bỡn thì lòng hết kính mà lòng lại sinh ra mối phản nghịch. Chúa công nên nghĩ kỹ đến điều ấy”. Tống Mẫn Công nói: “Ta với Nam Cung Trường Vạn là chỗ thân nhau lắm, cần gì điều ấy”. Ngày kia, Tống Mẫn Công cùng Trường Vạn đánh cờ. Mẫn Công là tay cao cờ. Trường Vạn thua luôn mấy ván, phải bị phạt uống một bát rượu lớn. Trường Vạn đã ngà ngà trong lòng không phục, xin đánh thêm ít ván nữa. Mẫn Công nói: “Tù nhân thì tất phải thua, lại còn dám xin đánh nữa à!”. Trường Vạn xấu hổ không nói… Bỗng có sứ giả nhà Châu đến báo tin vua Trang Vương mất và vua Hi Vương mới lên ngôi. Mẫn Công nói: “Nhà Châu có vua, vậy ta nên sai người vào triều”. Trường Vạn thưa: “Tôi nghe nói kinh đô nhà Châu đẹp lắm, mà mắt chưa được xem, xin chúa công cho tôi đi sứ”. Mẫn Công cười, lại đùa nữa: “Khi nào Tống không còn ai nữa mới sai đến tù nhân đi sứ”. Các cung nhân đều cười ầm cả lên. Trường Vạn mặt đỏ bừng thẹn quá… chẳng nghĩ gì đến lễ chúa tôi nữa, bèn quát to lên: “Hôn quân! Mầy phải biết tù nhân nầy cũng có thể giết được người chớ!”. Mẫn Công nổi giận, giật lấy kích của Trường Vạn… thì Trường Vạn thuận tay vác bàn cờ đánh Tống Mẫn Công ngã xuống, rồi đâm luôn mấy cái. Mẫn Công tắt thở. Trường Vạn làm phản luôn, và lập vua khác lên ngôi. ********* Công tử Tống và công tử Quy Sinh đều là quý tộc nước Trịnh. Hai người cùng hẹn nhau vào triều. Bỗng đâu ngón thực chỉ của công tử Tống tự nhiên máy động. Công tử Tống mới giơ ngón tay cho công tử Quy Sinh xem. Quy Sinh lấy làm lạ. Tống nói: “Bao giờ ngón thực chỉ của tôi máy động thì ngày hôm ấy thế nào cũng được ăn một món gì quý lạ”. Vào đến triều… Trịnh Linh Công nhân vừa bắt được một con giải, bảo làm thịt đãi các quan. Linh Công mời hai công tử cùng ở lại dùng tiệc với vua. Quy Sinh nhớ lại câu chuyện ngón tay thực chỉ của công tử Tống, bèn ngó Tống mà cười chúm chím mãi… Linh Công hỏi, Quy Sinh thuật lại cho Linh Công nghe. Linh Công gật đầu, không nói gì, lại nghĩ một việc tác quái… Bèn kêu tên dọn yến, báo ngầm: “Đừng dọn món thịt giải cho công tử Tống”. Đến lúc dự yến, các quan khách đều được ăn thịt giải, trừ công tử Tống ngồi ngơ ngáo, Linh Công cười bảo: “Thế thì ngón thực chỉ của công tử hết linh rồi”. Các quan đều cười ầm cả lên. Công tử Tống thẹn đỏ mặt, đứng dậy, xô bàn và bước đến gần bên vua, lấy tay nhúng vào bát canh giải của vua, cầm lấy một miếng vừa ăn vừa nói: “Ngón thực chỉ của ta vẫn linh kia mà!” Vua kêu tả hữu vây bắt. Công tử Tống thoát khỏi, rồi lập mưu giết Linh Công trong giấc ngủ. ******* Tống Mẫn Công và Trịnh Linh Công nào có dè những lời nói đùa của mình có những cái kết quả khốc hại đến thế. Ỷ là chỗ chí thân nên không thận trọng, hai ông đâu có ngờ cái địa vị cao cả của mấy ông đã là một điều mà kẻ dưới của mấy ông khó dung túng mấy ông được rồi, huống hồ lại còn bị các ông điếm nhục… B - Kẻ nghèo thường hay sợ kẻ giàu khinh. Kẻ hèn thường hay sợ kẻ sang khinh. Cái tâm cảm tự ty thường khiến họ có những cử chỉ tự trọng thái quá: họ rất dễ bị phấn khích vì những thói khinh bạc của người trên. Ta nên biết mà tha thứ trước cho họ: chẳng qua đó là một lối họ trả thù cái địa vị cao sang tài đức của mình hơn họ mà thôi. ******* Vua Tuyên Vương nước Tề đến chơi nhà Nhan Súc. Vua bảo: “Súc, bước lại đây”. Nhan Súc cũng bảo: “Vua, bước lại đây”. Các quan thấy vậy nói: “Vua là bậc chí tôn. Súc là kẻ thần hạ. Vua bảo: “Súc, lại đây”; Súc cũng bảo: “Vua, lại đây”, như thế có nghe được không?”. Nhan Súc nói: “Vua gọi Súc mà Súc lại, thì ra Súc là người ham mộ thần thế. Súc gọi vua mà vua lại, thì vua là người quý trọng hiền sĩ. Nếu để Súc nầy mang tiếng ham mộ quyền thế thì sao bằng để vua được tiếng quý trọng hiền tài”. Vua nghe lời nói cao ngạo, giận lắm, gắt lên: - Vua quý, hay sĩ quý? - Sĩ quý, vua không quý. - Có cách nào nói thế không? - Có. Ngày trước nước Tàu sang đánh nước Tề có hạ lịnh: “Ai dám đến gần mộ Liễu hạ Huệ mà kiếm củi, thì phải xử tử”. Lại cũng có lệnh: “Ai lấy được đầu vua Tề thì được phong hầu và thưởng nghìn lượng vàng”. Xem như thế đủ rõ cái gì quí hơn cái gì… ******* Tử Kích là một bực quyền quý, gặp Điền Tử Phương, một hàn sĩ, ở giữa đàng, liền xuống xe chào, Tử Phương làm lơ, không đáp lại. Tử Kích giận, hỏi Tử Phương: “Kẻ phú quý hay khinh người đã đành, kẻ bần tiện có khinh người được không?”. Tử Phương nói: “Kẻ bần tiện mới hay khinh người. Vua mà khinh người thì mất nước, quan mà khinh người thì mất nước. Còn kẻ học thức, xử cảnh bần tiện, đi đến đâu mà lời nói vua quan không dùng, việc làm vua quan không theo, thì xỏ chân vào giày đi ngay lập tức, đến chỗ nào chẳng được bần tiện, còn có lo sự gì mà không dám khinh người…”. ****** Đối với kẻ quyền quý, kẻ sĩ thường có những cái ngạo khí ấy, cốt để bù vào cái địa vị thấp kém của mình. Bởi vậy, những thói biếm nhẽ kiêu căng thường thấy trong bọn người bất đắc chí… Xem đấy đủ thấy, kẻ dưới, trong cái địa vị thấp kém của họ, khó mà thoát khỏi cái tâm cảm tự ty, cho nên cũng rất khó mà dung tha cái thói ngạo nghễ của người trên: lòng tự ái của họ rất khắt khe, thắc mắc từng ly, từng tý. Trong tình bạn bè, kẻ có tài hoa hoặc địa vị hơn bạn mình càng phải biết gắt gao gìn giữ chữ Lễ trong tình giao hữu hằng ngày. ******* Cũng một lời nói, cũng một cử chỉ, mà khi là bạn áo vải với nhau thì không có điều gì xích mích, mà lúc kẻ thành công, người thất bại, kẻ cao sang, người dân đã lại không thể tha thứ cho nhau… Có nhiều người tự hỏi: Ta và anh ấy là một đôi bạn chí thân, nhường cơm xẻ áo cho nhau. Thế sao ngày nay tình anh em ngày một lạnh nhạt, mặc dầu ở địa vị cao sang mình vẫn không thay đổi tấm lòng. Trong trường hợp nầy, kẻ nghèo kém hơn bao giờ cũng dễ nghĩ mình bị khinh khi. Cái địa vị cao sang của mình là bức rào đã chia đôi tâm hồn. Kẻ thấp kém, vì sợ bị khinh khi, nên hay tỏ ra ngạo nghễ… Vậy muốn nối lại tình bằng hữu, phá tan cái rào giai cấp… kẻ giàu sang hơn cần phải khéo xử nhũn nhặn hơn mới đặng. Cũng như hai bạn mà xích mích với nhau, kẻ không có lỗi phải xin lỗi người có lỗi… đừng để người bạn có lỗi của mình đau khổ về vấn đề thể diện… ******* Phan Thanh Giản có một người bạn thân quen biết từ khi còn đi học. Bạn cụ học giỏi mà nhà nghèo, không thi cử, chỉ lấy việc ruộng nương mà làm kế sinh nhai. Cụ Phan, như ta đã biết, theo con đường hoạn lộ. Khi đi kinh lý đất Nam kỳ, có dịp cụ ghé thăm người bạn cũ. Một viên kinh lược đến đâu, cố nhiên là có quân lính tiền hô hậu ủng. Nhưng lúc tìm thăm bạn, cụ Phan có cái nhã ý, tránh các nhắc nhở trước bạn áo vải của mình cái quyền tước cao sang hiện thời của mình. Cụ cho quân lính dừng lại cách xa nhà bạn có trên mấy dặm… Rồi mặc áo thâm, bịt khăn đóng… lững thững một mình tiến vào căn nhà lá lụp xụp… Khi cụ đến nhà, ông bạn mắc đi làm ngoài ruộng, không hay cụ đến. Cụ lên võng nằm chờ cho đến tối, ông bạn mới về. Gặp nhau mừng rỡ, bạn ông lật đật dọn cơm, trên mâm chỉ có dĩa rau luộc và một dĩa mắm kho. Cụ cùng bạn ngồi ăn ngon lành vui vẻ như khi còn áo vải… Ngày xưa, cách xử thế thật khôn ngoan vô cùng, mà cũng nhân hậu vô cùng.
BIẾT… SỐNG KHÔN, chết DẠI, chết BIẾT… sống (Trang Tử) NGƯỜI CHÚNG TA thường nói: Khôn sống, mống chết. Mới nghe, không thể nghi ngờ gì nữa được. Nhưng, nếu nghĩ cho sâu, xét cho rộng ta sẽ thấy, chưa ắt: khôn là sống mà dại là chết… Khôn, mà khôn như Hàn Tín, Dương Tu… thì làm sao mà sống được. Còn dại, mà dại như Phạm Lãi, Tử Phòng… thì làm sao mà chết được… Cho nên bàn đến Khôn, Dại… chưa biết lấy gì làm chuẩn đích. ******* Trang Tử cùng đệ tử đi chơi trên núi. Thấy một cây to, cành lá rườm rà. Một tên thợ rừng đứng bên nó mà không đốn. Hỏi tại sao, nó nói: “Không dùng đặng nó chỗ nào hết.” Trang Tử nói: “Cây nầy vì bất tài mà đặng sống lâu”. Ra khỏi núi, Trang Tử ghé vào nhà người quen. Chủ nhà mừng rỡ hối trẻ làm thịt chim mòng để nấu ăn. Thằng nhỏ thưa: “Có một con biết gáy, một con không biết gáy, giết con nào?” Chủ nhà nói: “Giết con không biết gáy”. Bữa sau, đệ tử hỏi Trang Tử: “Hôm qua cái cây trong núi vì bất tài mà sống, còn chim mòng, vì bất tài mà chết. Giá như Thầy phải xử trí như thế nào?” Trang Tử cười nói: “Tài và bất tài, cũng như nhau, đều là quấy cả, nên không thể tránh khỏi lụy thân… Chỉ có kẻ nào biết… là sống mà thôi…” KHÔN, chết… DẠI, chết… BIẾT, sống… ******* Biết lúc khôn, biết lúc dại… nghĩa là biết thời biết thế. Chung quy chẳng qua biết rõ một chữ “thời”… Lão Tử nói: “Thông minh duệ trí, thủ chi dĩ ngu; dũng lực chấn thế, thủ chi dĩ khiếp…” Mình là bực thông minh, trí thức sâu sắc nhất, hãy biết làm như kẻ ngu khờ… Mình là bực dũng lực kinh người, hãy biết làm như kẻ nhút nhát… Nào đâu có bảo mình phải là đứa ngu! Sự thật là mình phải thật thông minh… vì chỉ có kẻ thật thông minh mới biết lúc nào nên làm như kẻ ngu được mà thôi. Lữ Khôn nói: “… Thông minh, người ta ghét; thông minh mà biết làm như ngu, mới thật là khôn kín.” ******* Nhưng, biết được chữ Thời, đâu phải dễ gì. Thái quá là dở, mà bất cập cũng không hay. “Người trí đi quá mực Trung; kẻ ngu theo không kịp mực Trung…” (Trí giả quá chi, ngu giả bất cập chi). Phần đông, chỉ “biết tiến, mà không biết thối; chỉ biết giữ cho còn, mà không biết làm cho mất; chỉ biết lấy cho được mà không biết bỏ đi…” nên, hễ hành động thì chắc chắn không khỏi có điều hối hận. Trong sách Liệt Tử có câu chuyện nầy, cũng tạm có thể miêu tả thái độ “vô khả, vô bất khả” của một người đã học đặng chữ Biết ấy… Tử Hạ hỏi Khổng Tử: “Nhan Hồi là người thế nào?”. Khổng Tử nói: “Cái nhân của Hồi hơn ta”. Tử Hạ lại hỏi: - Tử Cống là người thế nào? - Cái mau mắn của Tứ hơn ta. - Tử Lộ là người thế nào? - Cái dũng của Do hơn ta. - Tử Trương là người thế nào? - Cái vẻ trang-nghiêm của Sư, hơn ta. Tử Hạ lấy làm lạ, đứng dậy thưa: “Vậy thì tại sao bốn người ấy lại còn theo Thầy mà học?” Khổng Tử nói: “Ở đây ta bảo cho: Hồi chỉ biết nhân mà không biết lúc bất nhân; - Tứ chỉ biết mau mắn mà không biết lúc chậm chạp; - Do chỉ biết hùng dũng mà không biết lúc nên nhút nhát; - Sư chỉ biết trang nghiêm mà không biết lúc ung dung để hòa đồng với mọi người. Nay gồm tất cả những cái hay của bốn người ấy có mà đổi với cái ta có, ta không đổi. Bởi vậy, họ phải thờ ta làm Thầy mà không có hai lòng.” Biết đây, là biết tùy lúc mà biến thông cho hạp thời trúng tiết… Nếu chỉ biết khư khư một mực… dầu hay đến đâu cũng hỏng việc. Mạnh Tử bảo: “Sở ố chấp nhất giả, vị kỳ tặc đạo. Cử nhất, nhì phế bách”. Cái đáng ghét trong sự chấp nhất là vì nó làm hại đạo: làm được một việc mà hư cả trăm việc. Trọng hệ nhất trong đạo xử thế, là biết biến, vì “có biến mới có thông, có thông mới lâu bền được”. “Cái nghĩa của chữ tùy thời, lớn vậy thay!” Cho nên: “Kẻ biết cái đạo tiến, thoái, tồn, vong mà không bao giờ sai cái chỗ chính trung của nó, có lẽ chỉ có bực thánh nhân mà thôi ư?” Ôi! Chỉ có bực thánh nhân mà thôi ư! Vậy mà bực thánh như Khổng Tử lại còn phải than: Vi nhơn nan… Vi nhơn nan… Thế mới hay: “Ở đời không có cảnh ngộ nào dễ xử…” ****** Cái Biết như thế, - cái điều có thể cảm được mà không thể nói ra được, có thể hiểu được mà không thể chỉ ra được ấy, - muốn đạt được nó, phải làm thế nào? “… Thư bất tận ngôn, Ngôn bất tận ý…” Vậy thì, ta phải biết “tinh nghĩa nhập thần” mới mong sử dụng được đến cùng cái đạo xử thế của cổ nhân… Phật còn phải bảo với các đệ tử: “Kìa là mặt trăng! Các con cứ theo ngón tay ta chỉ mà nhìn thì thấy. Nhưng, nên nhớ rằng ngón tay ta không phải là mặt trăng… cũng như những lời ta giảng về Đạo. Các con có thể theo ta giảng mà tìm thấy Đạo. Nhưng nên nhớ rằng: “Lời giảng của ta không phải là Đạo”…