TINH AB (đâu đuôi )

Thảo luận trong 'Phần Mềm Xổ Số - Phát Hiện - Phát Triển' bắt đầu bởi vinhlam, 25/9/12.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Gieo Quẻ với các thuyết Can Chi, âm dương, ngũ hành, bát quái kết hợp thuyết vận khí, bát quái kết hợp ngũ hành… bằng cách lập quẻ chính, hào động và quẻ biền; căn cứ vào sự vật, hiện tượng quan sát hay nghe được, đo đếm được hoặc giờ, ngày, tháng, năm xảy ra (theo âm lịch).
    Đối tượng bói
    Xem bói về sự việc, hiện tượng và xem về mệnh vận của người, tương tự như Tử vi, Bát tự Hà Lạc…
    Nguồn gốc

    Thiệu Ung (1011 – 1071) hiệu là Khang Tiết tức Thiệu Tử, người đời Bắc Tống (Trung Quốc) đã nghiên cứu và phát triển Dịch học và đã có những đóng góp to lớn. Ông đã dùng bát quái để dự đoán thông tin, sáng tạo ra phương pháp lấy quẻ theo sự vật, hiện tượng quan sát hay nghe được hoặc giờ, ngày, tháng, năm (theo âm lịch) xảy ra; dùng các phép tính cộng – trừ – nhân – chia để lập quẻ; tìm ra hào động; căn cứ sự sắp xếp của âm dương ngũ hành bát quái cùng các phương pháp phân tích vận khí suy vượng, ngũ hành sinh khắc, quẻ thể, dụng cùng với văn từ của Chu Dịch để đoán giải vận hạn, đoán giải sự việc. Bộ sách “Mai Hoa Dịch số” của Thiệu Tử còn lưu lại đến ngày nay và được coi là một trong ba bộ Đại kỳ thư của nền văn hoá Trung Hoa.
    Từ thập niên 1980, Thiệu Vĩ Hoa (sinh năm 1936 tại Hồ Bắc - Trung Quốc), là hậu duệ đời thứ 29 của Thiệu Khang Tiết, đã nghiên cứu, phát triển phương pháp dự đoán này và đã có những thành công đáng kể. Nhiều tác phẩm của Thiệu Vĩ Hoa đã được dịch và phát hành tại Việt Nam.
    [​IMG]gieo quẻ mai hoa

    Các nguyên tắc, nguyên lý

    Lập quẻ đơn: Quẻ trừ 8

    Khi tính lập quái bất kể số nhiều hay ít, chỉ lấy số 8 trừ bớt đi. Nếu trừ 1 lần 8 mà còn lớn, thì trừ nhiêu lần 8 tiếp theo cho tới khi nào số chỉ tồn (số còn lại) từ 8 trở xuống mà xem quẻ.
    Trị số của quẻ theo Tiên thiên bát quái: Càn = 1; Đoài = 2; Ly = 3; Chấn = 4; Tốn = 5; Khảm = 6; Cấn = 7; Khôn = 8.
    Tính hào động: Hào trừ 6

    Xác định hào động thì lấy tổng số của Thượng quái và Hạ quái và cộng thêm số giờ mà trừ cho 6, trừ 1 hoặc nhiều lần 6, khi nào số còn lại từ 6 đến 1 mới được. Rồi xem Hào động ấy là hào dương thì đổi ra âm, nếu Hào động là âm thì đổi ra dương.
    Phương vị tám quẻ

    Phương vị tám quẻ tiên thiên của Phục Hy

    Tám quẻ đọc theo thứ tự: Càn 1, chính Nam – Đoài 2, nam – Ly 3, Chính Đông – Chấn 4, Đông Bắc: thuộc dương, chuyển vận nghịch chiều kim đồng hồ.
    Tốn 5, Tây Nam – Khảm 6, chính Tây – Cấn 7, Tây Bắc – Khôn 8, chính Bắc: thuộc âm, chuyển vận thuận chiều kim đồng hồ.
    Thứ tự của các quẻ dựa vào quan hệ kết hợp hào dương thuộc lưỡng nghi kết hợp Tứ tượng (thái dương, thiếu âm, thiếu dương, thái âm) sinh ra Càn, Đoài, Ly, Chấn; và âm thuộc lưỡng nghi kết hợp Tứ tượng sinh ra Tốn, Khảm Cấn, Khôn.
    Phương vị tám quẻ Hậu thiên của Văn Vương kết hợp Lạc thư

    Tám quẻ đọc theo thứ tự: Càn, số 6 – Khảm, số 1 – Cấn, số 8 – Chấn, số 3 – Tốn, số 4 – Ly, số 5 – Khôn, số 2 – Đoài, số 7
    Thứ tự của các quẻ dựa vào quan hệ Tương Sinh của ngũ hành. Phương của địa bàn làm cơ sở cho hướng:

    • Càn ứng với Thiên hành Kim, hướng Tây Bắc
    • Khảm ứng với Thủy, hướng chính Bắc
    • Cấn ứng với Sơn hành Thổ, hướng Đông Bắc
    • Chấn ứng với Lôi hành Mộc, hướng chính Đông
    • Tốn ứng với Phong hành Mộc, hướng Đông Nam
    • Ly ứng với Hỏa, hướng chính Nam
    • Khôn ứng với Địa hành Thổ, hướng Tây Nam
    • Đoài ứng với Trạch hành Kim, hướng chính Tây
    Âm dương ngũ hành quan hệ tương khắc qua tâm:

    • Càn Dương Kim ở Tây Bắc khắc Tốn Âm Mộc ở Đông Nam
    • Khảm Dương Thủy ở chính Bắc khắc Ly Âm Hỏa ở chính Nam
    • Cấn Dương Thổ ở Đông Bắc, Khôn Âm Thổ ở Tây Nam, Âm Dương tương khắc
    • Đoài Âm Kim ở chính Tây khắc Chấn Dương Mộc ở chính Đông.
    Cách lập quẻ

    Năm, tháng, ngày, giờ

    Dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày (âm lịch) để xác định thượng quái (hay ngoại quái); dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ (âm lịch) để xác định hạ quái (hay nội quái); dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ (âm lịch) để xác định hào động.
    Dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ sinh (theo âm lịch) lập quẻ để xem mệnh vận đời người; dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ xem đoán (theo âm lịch) lập quẻ để xem đoán về sự việc, hiện tượng.
    Xem bằng số vật

    Khi muốn bốc quẻ, ta thấy vật gì, đếm số thăm bốc được bao nhiêu, rồi trừ cho một lần hoặc nhiều lần 8, lấy số chỉ tồn làm Thượng quái. Kế cũng lấy số thăm bốc được lần trước cộng thêm số giờ, được bao nhiêu rồi cũng trừ cho một lần hoặc nhiều lần 8, rồi lấy số chỉ tồn làm Hạ quái. Sau hết lấy tổng số đem trừ cho một lần hoặc nhiều lần 6, số chỉ tồn làm hào động.
    Xem bằng âm thanh nghe được

    Nghe tiếng nói, tiếng chim hót, tiếng các loại thú kêu, tiếng động, tiếng đánh, tiếng gõ v.v… đều có thể toán quẻ được. Phàm nghe và đếm được bao nhiêu tiếng cũng làm như cách trên. Dùng tiếng nghe được cộng thêm số giờ lúc nghe là giờ thứ mấy trong 12 chi giờ. Nếu nhiều quá 8 thì cũng trừ cho 8, lấy số chỉ tồn làm Hạ quái. Dùng tiếng nghe được và số giờ, trừ cho một hay nhiều lần 6, rồi lấy số chỉ tồn từ 6 đến 1, làm Hào động.
    Xem từ

    Phàm toán theo lối từ viết, nếu số từ mà đều nhau thì lấy một nửa làm Thượng quái, một nửa làm Hạ quái. Nếu số từ không đều nhau, thì lấy kém một từ làm Thượng quái gọi là Thiên khinh thanh và lấy số từ nhiều hơn một từ là Hạ quái, gọi là Địa trọng trọc.
    Xem một từ

    Phép bói Mai Hoa Dịch số xem từ được xây dựng để xem chữ Hán, một loại chữ viết tượng hình, một chữ (từ) gồm một hay nhiều nét. Ta có thể ứng dụng phép bói Mai Hoa Dịch số xem từ khác chữ Hán, như các chữ viết dùng chữ cái gốc Latinh, một từ gồm một hay nhiều chữ cái. Khi lập quẻ Mai Hoa, một nét trong một từ của chữ Hán tính tương đương một chữ cái trong một từ dùng chữ cái gốc Latinh.
    Một từ gọi là Thái cực vị phân nghĩa là thủa trời đất chưa chia. Nếu viết tháu (tức là một thể viết từ Hán ngoằn ngoèo rất khó đọc) mà không thể đếm được nét, thì không xem được, nếu viết một từ rõ ràng từng bộ phận, thì lấy bộ phận bên trái là dương, bộ phận bên phải là âm; bộ phận bên trái đếm được bao nhiêu nét, hay chữ cái đem làm Thượng quái, bộ phận bên phải đếm được bao nhiêu nét, hay chữ cái, đem làm Hạ quái, kế lấy số nét, hay chữ cái cả hai bộ phận âm và dương của toàn từ mà tìm hào động.
    Xem hai từ

    Hai từ gọi là Lưỡng nghi, chia đều lấy số nét, hay chữ cái của từ đầu làm Thượng quái và số nét, hay chữ cái từ thứ hai làm Hạ quái.
    Xem ba từ

    Ba từ gọi là Tam tài, lấy một từ làm Thượng quái và hai từ sau làm Hạ quái (đếm số nét hay chữ cái).
    Xem bốn từ

    Bốn từ gọi là Tứ tượng, chia đều làm 2 quái Thượng và Hạ. Còn trên bốn từ, không cần đếm số nét, hay chữ cái mà chỉ dùng tiếng bằng, trắc từng thanh âm mà xem.

    • Bình thanh thì kể 1
    • Thượng thanh thì kể 2
    • Khứ thanh thì kể 3
    • Nhập thanh thì kể 4
    (Theo tiếng Trung Hoa, có 4 chính thanh là Bình, Thượng, Khứ, Nhập cũng như nước ta có dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng vậy).
    Xem năm từ

    Năm từ gọi là Ngũ hành, lấy hai từ đầu làm Thượng quái và ba từ sau làm Hạ quái (Gọi là Thiên khinh thanh và Địa trọng trọc).
    Xem sáu từ

    Sáu từ gọi là Lục hào, chia đều làm Thượng quái và Hạ quái.
    Xem bảy từ

    Bảy từ gọi là Thất chánh, lấy ba từ đầu làm Thượng quái và bốn từ sau làm Hạ quái.
    Xem tám từ

    Tám từ gọi là Bát quái, chia đều làm Thượng quái và Hạ quái.
    [sửa]Xem chín từ

    Chín từ gọi là Cửu trù, lấy bốn từ đầu làm Thượng quái và năm từ sau làm Hạ quái.
    Xem mười từ

    Mười từ gọi là Thành quái, chia đều làm Thượng quái và Hạ quái.
    Xem mười một từ trở lên

    Từ 11 từ trở lên đến 100 đều xem được quẻ cả, nhưng trên 11 từ, lại không dùng những thanh âm bằng trắc nữa, mà lại kể số từ, nếu số từ là chẵn thì lấy một nửa làm Thượng quái, một nửa làm Hạ quái; nếu số từ là lẻ thì lấy một nửa non làm Thượng quái, một nửa kia làm Hạ quái, rồi tổng hợp số từ của Thượng quái và Hạ quái để tìm hào động.
    Xem bằng trượng thước

    Trượng là 10 thước, xích là một thước.
    Nếu dùng vật thể dài tới trượng thước để xem, thì lấy số trượng làm Thượng quái và lấy số thước làm Hạ quái. Hợp số trượng và số thước lại gia thêm giờ mà tìm hào động (số tấc không kể).
    Xem bằng thước tấc

    Xem vật dài dưới một trượng, lấy số thước làm thượng quái, số tấc làm Hạ quái. Hợp số thước, tấc, gia thêm số giờ, tìm Hào động (số phân không kể)
    Xem cho người

    Xem cho người thì quy luật không đồng nhất:

    • Hoặc nghe tiếng nói mà xem
    • Hoặc xét nhân phẩm
    • Hoặc xem sự cử động của thân thể người ta
    • Hoặc xem người cầu có vật gì
    • Hoặc xem sắc phục
    • Hoặc cảm xúc với ngoại vật
    • Hoặc dùng năm tháng, ngày, giờ
    • Hoặc từ viết ra với dụng ý gì
    Nghe tiếng nói mà xem


    • Nếu nói một câu, làm như cách xem từ nói ở trên, phân số mà xem
    • Nếu nói hai câu, thì dùng những tiếng ở câu nói đầu làm Thượng quái, những tiếng nói trong câu thứ hai làm Hạ quái
    • Nếu nói nhiều câu thì chỉ dùng những tiếng của câu đầu, hoặc dùng tiếng nói của câu chót, còn những câu nói ở giữa không dùng đến
    Xét nhân phẩm

    Nghĩa là xem người cầu là đàn ông thì lấy Càn, người cầu là thiếu nữ thì lấy Đoài v.v. mà xem quẻ.
    Xét sự cử động

    Nếu người cầu lay động cái đầu thì lấy Càn, lay động chân thì lấy Chấn, thấy cử động con mắt (như nhấp nháy chẳng hạn) thì lấy Ly mà xem.
    Xem người cầu có vật gì

    Nghĩa là ngẫu nhiên thấy người cầu cầm trong tay vật gì, nếu là đồ vàng ngọc hoặc vật đó hình tròn thì thuộc Càn; nếu cầm đồ bằng đất, sành, gạch, ngói, hoặc vật hình vuông thì thuộc Khôn. Xem từng loại mà xem.
    Xem sắc phục

    Nghĩa là xem người cầu bận sắc phục màu gì, nếu bận áo màu xanh thì thuộc Chấn, bận áo màu đỏ thuộc Ly mà xem.
    Cảm xúc ngoại vật

    Đương lúc toán quẻ, nếu thấy nước thuộc về Khảm, thấy lửa thuộc về Ly mà xem.
    Dùng năm, tháng, ngày, giờ

    Có thể lập quẻ theo năm, tháng, ngày, giờ khi người đến xin hiêm đoán để xem sự lành dữ và cũng có thể căn cứ theo năm, tháng, ngày, giờ sinh mà lập quẻ xem mệnh vận cho một người. Cách lập quẻ như trình bày ở trên. mm
    Xem chữ viết

    Người tới xem cho chính mình dùng:

    • Năm, tháng, ngày, giờ
    • Hoặc đương thời nghe được âm thanh gì
    • Hoặc cảm xúc với ngoại vật gì.Tất cả ba điều kể trên đều có thể toán quẻ. Cũng theo như cách xem nhân thể nói trên
    Xem động vật

    Khi thấy động vật từng đàn, từng bầy lộn xộn thì không thể xem quẻ được. Nếu thấy một con vật gì, thì tìm xem trong bảng “Bát quái thuộc vạn vật loại”, giả tượng con vật đó, thuộc về quẻ nào, thì lấy quẻ ấy làm thượng quái và con vật đó từ phương nào tới, lấy phương vị đó làm Hạ quái, hợp quái số con vật đó với số phương hướng cộng thêm số giờ để tìm Hào động. Lấy toàn tổng số của số quẻ ấy mà đoán con vật ấy cũng như cách xem con bò rống, con gà gáy ở quẻ Hậu thiên. Muốn xem các loại như: bò, ngựa, chó, lợn, phải dùng năm, tháng, ngày, giờ sinh của chúng mà xem, nếu những con vật đó ta mua thì dùng năm, tháng, ngày, giờ ta đặt mua mà xem.
    Xem tĩnh vật

    Xem tịnh vật như: sông, ngòi, núi, đá không thể toán được. Xem về nhà cửa, cây cối các loại:

    • Nhà: dùng năm, tháng, ngày, giờ xây xất hoặc năm, tháng, ngày, giờ mua lại
    • Cây: dùng năm, tháng, ngày, giờ trồng cây
    • Khí cụ, đồ dùng cũng vậy, lấy năm, tháng, ngày giờ tạo ra nó hoặc mua lại mà xem cũng như cách làm cái gối, chiếc ghế (nói ở đầu Lời Tựa) các loại. Kỳ dư không có duyên cớ thì không xem, ví như xem “Quan Mai” vì có cớ là hai con chim, dành cành mai mà đậu đến phải xuống đất.
    Xem hoa “Mẫu đơn” vì có người hỏi mới xem như cây cổ thụ đương tươi tốt vì có cành khô gãy xuống đất, bởi các duyên cớ trên mà xem quẻ. Nếu không có duyên cớ mà vẫn xem thì không hiệu nghiệm.
    Gieo quẻ hậu thiên, dùng vật làm quẻ

    Phép gieo quẻ Hậu Thiên, quan sát kỹ vật, dùng tượng quẻ của vật làm Thượng quái, dùng phương vị (phương hướng) quẻ của vật làm Hạ quái cộng thêm số giờ để tìm hào động.
    Cách đoán quẻ

    Thành quẻ

    Sau khi quẻ bói được thành lập thì quẻ đó là quẻ gốc (bản quái, chủ quái). Quẻ gốc do quẻ trên (thượng, hay ngoại quái) và quẻ dưới (hạ, hay nội quái) hợp thành.
    Xem xét lời hào (Hào từ) và lời quẻ (thoán từ, quái từ) của Chu Dịch để đoán cát hung

    Thí dụ: chiêm được quẻ Càn, lời hào sơ cửu “Tiềm long vật dụng” (rồng ở ẩn), thì có thể đoán là mọi việc đều còn nấp kín (âm thầm, chưa hiện rõ), nên ẩn náu chờ thời cơ có thể làm được.
    Nếu chiêm được quẻ Càn, lời hào Cửu nhị là “Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân” (rồng xuất hiện tại điền, thì lợi gặp đại nhân), thì có thể dự đoán nên yết kiến quý nhân.
    Xem Thể Dụng của quẻ, để luận Ngũ Hành sinh khắc

    Quẻ trên, quẻ dưới có công năng của quẻ thể, quẻ dụng; quẻ thể là mình, quẻ dụng lo quản người và việc khác.
    Thể Dụng theo thuyết Động và Tĩnh

    • Thể là chủ, Dụng là sự việc, ứng dụng sự thể
    • Thể Dụng tỵ hòa (như nhau, hòa nhau) là tốt
    • Thể sinh Dụng hay Dụng khắc Thể là xấu
    Xem đến khắc ứng, như bói dịch thông thường


    • Nghe nói vui tươi, hay thấy triệu chứng tốt lành là tốt
    • Nghe nói hung dữ hoặc thấy triệu chứng xấu là xấu
    • Thấy vật tròn nguyên vẹn biểu hiệu sự thành công
    • Thấy vật sứt mẻ hư hao biểu lộ sự thất bại
    Xác định kỳ ứng nghiệm

    Xét sụ động tĩnh của bản thân như:

    • Ngồi bốc quẻ: ứng sự chậm trễ
    • Bốc quẻ trên đường, lúc đi: ứng sự mau
    • Bốc quẻ trên đường khi chạy: ứng sự mau hơn nữa
    • Bốc quẻ khi nằm: ứng sự chậm hơn
    Muốn thông suốt sự chiêm bốc, cần nhất lấy Dịch quái làm chủ, thứ đến khắc ứng:

    • Cả hai nếu tốt thì thật là tốt
    • Cả hai đều xấu lại càng xấu hơn
    Luận quẻ Mai Hoa, phải kết hợp cả luận số và luận lý, tránh thiên kiến một phía, không đạt mục đích linh nghiệm. Cần vận dụng thích hợp nguyên tắc biến thông.
     
  2. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    Trong đời tôi chỉ biết hai người thắng casino.
    -Ông thứ nhất vốn đã có khiếu đánh bài, lại kỷ luật thép, cứ thua $5000 là nghỉ, thắng $7000 là nghỉ. Hơn 20 năm liên tiếp mỗi chiều chủ nhật lại đi casino sáng thứ hai về, không bao giờ phá lệ. Trung bình thắng khá bộn.
    -Ông thứ hai trên 6 bó rồi mà gần như không bao giờ đánh bài. Ông chỉ mới vào casino vài lần vì bị bạn bè kéo đi, lần nào kéo máy cũng thắng to (vài ngàn Mỹ kim trở lên), ai cũng thấy lạ.
    Nhưng nghe nói ông này nổi tiếng từ nhỏ là không thích bài bạc, ngay cả độ với bạn bè cũng không, nhưng hễ bị ép đánh bài hoặc độ với bạn bè ông luôn luôn thắng. (Phải chăng thánh nhân đãi người không đam mê?)

    Trường hợp thắng chỉ có 2 người trên đây. Còn ngưòi thua tôi biết thì đếm không xuể. Có cả trường hợp thương tâm là tự tử.

    dinhvantan đã viết:
    ...Còn áp dụng bói dịch vào đánh bạc hay mua cổ phần thì tôi cũng đã có thử rồi . Không áp dụng được . Nếu được mấy Thầy trong nầy giàu rồi, đâu có vô TVLS làm gì mất công, mất thì giờ .
    Tôi cũng đã thí nghiệm bằng cách bói hỏi thị trường chứng khoán mỗi ngày. Gom kết quả lại chẳng hơn gì đoán mò. Tóm lại, không thể dùng bói để ăn stocks được.
    Tôi nghĩ vì bất cứ cách lập quẻ nào cũng cần cảm ứng, hình như ông trời không cho ta những loại cảm ứng này.
    Vài dòng tản mạn.

    :128: Bài này mới đoc dc để đây ai hứng thú mổ xẻ
     
    Cuong638, rongnuoc and ralphael like this.
  3. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    Vì sao cụ Tả Ao không truyền "nghề" cho hậu duệ?



    [​IMG]
    Tả Ao được tôn là "Thánh địa lý", từng theo khoa Địa lý chính tông ở Trung Quốc và là thầy địa lý giỏi nhất Việt Nam theo dân gian.




    Đền thờ của ông được lập ở nhiều nơi, có cả bên Trung Quốc; sách của ông được nhiều thế hệ thầy địa lý sau này "ăn theo"... Thế nhưng tại sao Tả Ao lại không truyền "nghề" cho hậu duệ?
    Tả Ao chỉ là tên địa danh?
    Ông là thủy tổ khai sinh môn địa lý phong thủy ở Việt Nam. Các sách vở cũng như truyền thuyết đều gọi ông là Thánh Địa lý Tả Ao, Trạng Tả Ao; là đệ nhất chính tông về địa lý, giỏi như Cao Biền bên Trung Quốc. Trong dân gian lưu truyền nhiều giai thoại về hành trạng pháp thuật của ông ở nhiều làng quê.
    Thực ra, Tả Ao không phải là tên mà là địa danh nơi ông sinh sống, cũng như Nguyễn Tiên Điền là Nguyễn Du người xã Tiên Điền (Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Theo sách vở và cả truyền miệng thì Tả Ao có những tên sau: Vũ Đức Huyền hiệu Địa Tiên, Nguyễn Đức Huyền hiệu Phủ Hưng, Hoàng Chiêm, Hoàng Chỉ.
    Ông sinh vào thời Lê sơ (1428-1527), có sách nói thời Lê – Mạc (1533-1592), thời Lê – Trịnh – Nguyễn (1592-1789), có người khẳng định ông sinh năm Nhâm Tuất (1442) có sách còn nói Tả Ao và Cao Biền thi thố tài năng (tức là đời nhà Đường ở thế kỷ IX). Tuy nhiên, qua những chuyện kể có liên quan đến Mạc Kinh Độ nên hiện nay người ta dễ chấp nhận ông sinh vào thời Lê sơ.
    Quê quán, có sách nói ông sinh ở làng Tả Ao (Hà Tĩnh). Có sách lại nói gốc ở Sơn Nam (vùng Hải Dương, Hưng Yên), sau đó gia đình phiêu bạt và định cư ở làng Tả Ao. Do các sách đều ghi Vũ Đức Huyền (hợp với ngoài Bắc còn miền Trung trở vào là họ Võ). Từ suy đoán này có thế chấp nhận ông sinh ở vùng Sơn Nam (Hải Dương, Hưng Yên) phiêu bạt và định cư về xã Ao Cầu (sau này tách thành 2 xã Tả Ao và Tiên Cầu), phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, nay là xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ở đây có đền thờ Tả Ao, giếng Tả Ao. Ở thôn Nam Trì, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên có đền thờ 3 thượng đẳng phúc thần: Tể tướng Lữ Gia (Bảo Công), tướng Nguyễn Danh Lang (Lang Công) và Cao Biền (Cao Vương) và Bản cảnh thành hoàng Tả Ao. Bởi nơi đây Tả Ao đã chọn đất lập làng để làng thịnh vượng và phát triển.
    Tại sao ngài lại giỏi địa lý như vậy?
    Có 2 nguồn truyền miệng về việc Tả Ao tầm sư học đạo nên nggười. Một truyền thuyết kể rằng, Tả Ao cứu một thầy địa lý người Trung Quốc chết đuối ở sông Phù Thạch xứ Nghệ. Ông ta đem vàng bạc trả ơn, ngài không lấy. Thấy ngài tướng mạo khôi ngô và tính tình hiền hòa, ông ta đưa về Tàu truyền nghề địa lý để trả ơn. Do thông minh nên ngài thu thập được những tinh hoa trong thuật phong thủy địa lý của người thầy, về nước rồi hành trạng pháp thuật.
    Một giả thuyết thứ hai nói rằng, do mẹ của ngài mù lòa, nhà lại nghèo, để có thuốc chữa mắt cho mẹ, ngài đã ở không công cho người khách ngồi bốc thuốc ở Phù Thạch. Thấy ngài là người con hiếu thảo, lại ăn ở chu đáo, hiền lành, nên khi về nước, ông ta xin cho ngài đi theo. Ở đây ngài học lỏm được nghề cắt thuốc chữa mắt. Có lần ngài đã chữa khỏi mắt cho một thầy địa lý lành nghề, thấy tướng mạo tuấn tú, tính cách nhanh nhẹn hợp với nghề của thầy và cũng để trả ơn, ông xin phép thầy lang đưa ngài về nhà để truyền thuật địa lý.
    Do bản tính thông minh ngài đã thâu tóm được phép thuật đó về nước. Giả thuyết này về sau được người đời tin là thật hơn vì cách lí giải trọn vẹn tình hiếu thảo với mẹ (sách nào viết về ngài cũng nói có người mẹ mù lòa), hợp với hoàn cảnh nhà nghèo, nhưng lại là người thông minh, có chí học hỏi nên thành tài.
    Cái tài của thầy địa lý Tả Ao có bao câu chuyện hấp dẫn có trong sách vở cũng như truyền miệng dân gian, ta có thể tìm đọc hay nghe kể với các biệt tài: Xem thế đất để chọn hướng nhà thỏa mãn yêu cầu của thân chủ như sống thọ, phát tài phát lộc, phát quan, chọn nghề, sinh lắm con nhiều cháu; Chọn hướng táng mồ mả sao cho người sống được mạnh khỏe, giàu có, thành đạt; Chọn nơi đào giếng có nước lành, trong ngon, không cạn, không chạm long mạch; Chọn hướng đình để làng yên ấm trong ngoài, dân cư phát triển... Câu chuyện khẳng định cái tài địa lý của Tả Ao nhưng cũng lắm kết cục khôi hài (chứ không làm hại ai) nếu thân chủ, các chức sắc trong làng xã có những ý tưởng ngông cuồng...
    Nhưng sao không truyền cho hậu duệ?
    Tả Ao nổi tiếng bậc thầy về địa lý phong thủy, nhưng con cháu của ngài về sau thì không ai kế nghiệp được. Xung quanh câu chuyện này cũng có nhiều “dị bản” lí giải khác nhau. Có chuyện kể rằng, Tả Ao bị thầy địa lý (người dạy ngài) sang yểm huyệt táng cha của ngài nên không thể truyền nghề cho hậu duệ. Có truyện chép là một đêm nằm mộng, ngài được báo rằng “đất tốt là của quý, là bí mật của tạo hóa, nếu tiết lộ hết thì “âm” sẽ oán, nên phải tự dấu kín phép thuật”.
    Cũng có ý kiến cho rằng, Tả Ao có con nhưng các con bất hạnh, làm ông nản. Sau này thi thoảng mới xem phong thủy địa lý cho người khác (cũng ở mức bình thường), ông dành thời gian để chữa mắt cho dân.
    Tuy vậy, với 2 tập sách mỏng Tả Ao đã để lại cho đời như: Địa đạo diễn ca (chỉ 120 câu), Dã đàm (trong mấy trang văn xuôi) đã được người đời sau phát triển thành lý luận, thành gia bảo chân truyền. Trừ 2 cuốn nói trên, còn những sách khác hiểu lấp lửng là do ngài viết như: Địa đạo diễn ca (Tả Ao hiệu Địa Tiên); Dã Đàm (Tả Ao hiệu Địa Tiên) còn gọi Tả Ao tầm long gia truyền bảo đàm; Tả Ao chân truyền di thư; Tả Ao chân truyền địa lý (Hoàng Chiêm – 5 tập); Hoàng Chiêm địa lý luận; Hoàng Chiêm truyền cơ mật giáo; Tả Ao tiên sư bí truyền gia bảo trân tàng; Tả Ao địa lý luận; Tả Ao chân truyền tập (nhiều tập); Tả Ao tiên sinh bí truyền gia bảo trân tàng (nhiều tập); Tả Ao tiên sinh địa lý (nhiều tập)...
    Trừ 2 cuốn đầu là của Tả Ao, còn các cuốn sau là của các thầy địa lý khác phát triển về thuật địa lý Tả Ao. Với ngài, ngài không tự xưng là tiên sư, tiên sinh. Hay chân truyền, bí truyền, gia bảo vì không hợp với phong cách và hoàn cảnh của ngài.
    Với hiệu trong đền thờ Tả Ao là Địa Tiên (còn hiệu của Nguyễn Đức Huyền là Phủ Hưng). Hầu như các sách đều viết : “Tả Ao tên là Vũ Đức Huyền hiệu Địa Tiên, có nơi còn gọi là Nguyễn Đức Huyền...”. Trong cuốn Nghi Xuân địa chí do Đông Hồ – Lê Văn Diễn soạn năm 1842 cũng viết vậy. Cuốn Từ điển Hà Tĩnh ngoài mục Tả Ao cũng ghi như vậy, còn có mục Vũ Đức Huyền, nhưng không có mục Nguyễn Đức Huyền.
    Vậy ta dễ chấp nhận Thánh sư địa lý Tả Ao xưa còn gọi là Mỗ (một cách gọi dân dã), tên là Vũ Đức Huyền hiệu Địa Tiên. Sinh vào thời Lê sơ (1428 - 1527). Gốc người Sơn Nam (vùng Hải Dương, Hưng Yên), gia đình phiêu bạt và định cư ở làng Tả Ao nay thuộc xã Xuân Giang huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Có đền thờ Tả Ao, giếng Tả Ao nằm trong khuôn viên của cụm đền huyện Nghi Xuân.
    Võ Giáp
     
  4. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    Hé lộ "nhà tiên tri" giúp vua Trần đánh bại quân Nguyên




    [​IMG]


    Nhờ có tài gieo quẻ, dự đoán “trúng phóc” kết quả được thua của nhà Trần trong những lần “chạm trán” quân Nguyên, Phùng Sĩ Chu và Trần Thì Kiến được đấng quân vương vô cùng mến phục mà bổ dụng làm quan.






    Nhà Trần ngoài việc lấy nhân tài thông qua thi cử, dòng họ Đông A còn có tục ấm cử, cha truyền con nối làm quan lớn nhỏ tùy theo năng lực, hoặc lấy những người có công chống giặc, những người được tiến cử vì có thực tài. Bên cạnh những cách thông thường ấy, có nhiều trường hợp lấy vì mộng mỵ mà ứng với việc thực, lấy vì quý yêu, và có cả trường hợp lấy vì có tài...gieo quẻ, dự đoán như thần. Tất nhiên, những trường hợp sau không nhiều. Ở đây, chúng ta ghi nhận được vua Trần có hai lần trao chức cho những người bói giỏi.

    Bói thắng giặc, tiếc chi chức quan

    Thời nhà Trần trị vì 1225 - 1400, quân Mông - Nguyên ba lần xâm phạm bờ cõi Đại Việt nhưng đều đại bại trước sức mạnh, hào khí Đông A. Năm Mậu Ngọ (1258), quân Mông Cổ đại bại lần thứ nhất. Năm Ất Dậu (1285), khi vó ngựa quân Mông Nguyên một lần nữa sang giày xéo non sông Đại Việt, định biến nước ta thành xứ nội thuộc, nhà Trần dù lúc này “anh em hòa mục, vua tôi gắng sức”, tiềm lực cũng mạnh, lại có kinh nghiệm chiến thắng trước đó, nhưng vua Trần Nhân Tông vốn là người cảm tính, cũng tin ở cái thuyết “chi thiên mệnh” (chẳng thế mà vua sau này đi tu làm Trúc Lâm đạo sĩ nơi non Yên) nên bèn cậy nhờ yếu tố tâm linh. Để thực hiện việc đó, nhân có Phùng Sĩ Chu thông hiểu tướng số, vua bèn sai ông bói xem cuộc kháng chiến lần này được mất, mạnh yếu thế nào.


    Lệnh vua là lệnh của trời, lại là việc quốc gia đại sự, Phùng Sĩ Chu vâng lệnh vua gieo quẻ. Quẻ bói gieo xong, sau một hồi suy nghĩ nhẩm nghiệm, quan họ Phùng mới đoán rằng:


    - Bẩm bệ hạ, cứ như quẻ bói mà thần gieo được, lần chống giặc này thế nào quân ta cũng đại thắng.


    Được lời như cởi tấm lòng, vua Nhân Tông mừng lắm, bảo:


    - Nếu đúng như lời ngươi đoán, trẫm sẽ có trọng thưởng.


    Sau quả nhiên giặc Nguyên bị đánh đuổi, chiến thuyền nhà vua sau bao ngày lưu lạc đã ca khúc khải hoàn về lại kinh đô Thăng Long. Bấy giờ khi định công ban thưởng, đến lượt Phùng Sĩ Chu, vua Nhân Tông cười nói:


    - Thiên tử không nói đùa. Lời hứa khi xưa giờ ta có dịp thực hiện cho khanh.


    Do đó, năm Kỷ Sửu, Trùng Hưng năm thứ 5 (1289), vua Nhân Tông phong Phùng Sĩ Chu làm Hành khiển. Đây là một ưu ái bởi thường Hành khiển là do những trung quan, tức hoạn quan đảm nhiệm.


    Theo Gia phả và Thần vị Phùng Sĩ Chu tại đền thờ họ Phùng ở xóm 1, xã Nam Cường, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An hiện nay thì Phùng Sĩ Chu, hiệu Tốn Trai tiên sinh, quê ở Cổ Liễu, thuộc Trà Hương (không rõ địa danh), là người trung hiếu, có tài về mặt văn học. Do có thực tài nên ông được vua Trần yêu quý mà gả cho công chúa, sinh ra nam tử tên huý là Quang Lộc, trở thành hậu duệ tuấn tú cho dòng họ Phùng ở cả nước và xứ Nghệ sau này.

    [​IMG] Tượng vua Trần Nhân Tông trong đền thờ Trần Nhân Tông tại Huế. Nguồn: Giacngo.vn.

    Gieo quẻ Chấn – Hoán, điềm giặc tan


    Trần Thì Kiến (1260 – 1330) người làng Cự Sa, huyện Đông Triều, phủ Tân Hưng (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh), từng là môn khách của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, khi làm An phủ sứ Thiên Trường ông nổi danh là một ông quan liêm khiết, từng móc họng trả cỗ của kẻ đút lót để khỏi mất thanh danh. Bên cạnh đó, Trần Thì Kiến cũng từng dự đoán “trúng phóc” kết quả được thua của kháng chiến chống Nguyên lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288).


    Trước đây, quân Nguyên lăm le bờ cõi nước ta, định đánh Đại Việt lần thứ hai, chúng hết đòi vua Trần vào chầu, rồi đưa chú của vua là hoàng tôn Trần Di Ái về nước (1282), lại lấy kế mượn đường diệt Quắc đòi đi qua Đại Việt đánh Chiêm Thành (1283), bắt ta chuẩn bị lương thảo, quân đội (1284). Vua Nhân Tông biết chiến tranh là không tránh khỏi, đã sai Phùng Sĩ Chu đoán định cơ mưu. Để cho chắc chắn, một dịp khác, vua lại sai Thì Kiến bói xem sao. Ông gieo quẻ, được quẻ Dự biến sang quẻ Chấn. Trần Thì Kiến mới theo quẻ mà rằng:


    - Thưa bệ hạ, mùa hạ sang năm quân Nguyên tất phải thua.


    Mùa hạ năm Ất Dậu (1285) nhằm tháng Tư âm lịch, những chiến thắng oanh liệt của quân dân nhà Trần “Đoạt giáo Chương Dương độ. Cầm Hồ Hàm Tử quan”... làm cho quân Nguyên đại bại phải chạy dài về Bắc, quả đúng như lời tiên đoán của ông.

    Quân Nguyên do thua hai lần trước đó, căm tức vì nước Đại Việt nhỏ như cái đấu mà không hạ được, nên bỏ cả việc đánh Nhật Bản, xua quân sang đánh nước ta lần thứ ba. Vốn trước được quẻ tốt từ viên quan liêm Thì Kiến, vua Nhân Tông lại sai ông trổ tài thêm lần nữa. Mệnh vua nào dám trái, ông gieo được quẻ Quan biến sang quẻ Hoán, mới đoán rằng:


    - Thưa bệ hạ, quẻ gieo được là quẻ Hoán, chữ Hoán nghĩa là tan, đây là điềm báo trước giặc Nguyên sẽ tan chạy trong nay mai.


    Dù ban đầu quân Nguyên đánh nước ta như “tằm ăn rỗi”, nhưng với kế “thanh dã” như đã dùng ở hai lần trước, quân dân nhà Trần lần lượt làm nên những trận Vạn Kiếp, Cao Lạng, Bạch Đằng giang... làm cho lũ giặc cướp nước kinh hồn bạt vía. Đến tháng 3 năm Mậu Tý (1288), đất nước sạch bóng quân thù.
    Quẻ bói năm xưa đã thành hiện thực. Vua vui lắm, tấm tắc khen tài của Thì Kiến, đến năm Nhâm Thìn (1292) niên hiệu Trùng Hưng năm thứ tám, bệ hạ cho đặc cách bổ dụng Trần Thì Kiến làm An phủ lộ Yên Khang, xem như tưởng thưởng cho công của ông (Lộ Yên Khang: Xưa là Yên Ninh; nhà Lê đổi là phủ Yên Khang; nay đổi là Yên Khánh thuộc tỉnh Ninh Bình).

    Lời bói của hai vị quan Phùng Sĩ Chu và Trần Thì Kiến đều có điểm chung là khẳng định chiến thắng của quân dân nhà Trần trước vó ngựa quân Nguyên. Người xưa tin việc tốt xấu ở quẻ bói là điều dễ hiểu. Nhưng cũng phải thấy rằng hai ông gieo quẻ là một việc, nhưng cũng là những người tài nên hiểu được thế và lực của đất nước mới có đủ niềm tin để khẳng định chắc như đinh đóng cột như thế. Vả chăng, nếu đoán là thắng, mà không may nước Việt đại bại dưới tay nhà Nguyên, thì lúc đó vua tôi cũng đâu còn được yên thân, toàn mạng thì lo gì bị vua trách phạt, nên cứ bói thắng là hơn. Tất nhiên, nếu có điều đó thì cũng không phải là ý của hai vị tôi trung này.
     
    Cuong638 thích bài này.
  5. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    QUẢN LỘ - MỘT THIÊN TÀI VỀ BÓI DỊCH


    [​IMG]

    *Bói mà biết được căn bệnh do ma quỷ làm ra.

    *Bói mà biết được vật đậy trong hộp kín ,trăm lần không sai.

    *Thiên cơ có thật và không được tiết lộ.

    *Cuộc đối thoại gay cấn giữa Quản Lộ và Tào Tháo.

    *Cuộc trả thù ghê gớm giữa Quản Lộ và con cháu Tư Mã ý.

    Tả Từ là một vị tiên .Ông là người của gió mây nên không ai biết được tung tích .Riêng Quản Lộ thì nguồn gốc như sau:

    Ông tự là Công Minh ,vốn người Bình Nguyên ,dung mạo xấu xí ,thích uống rượu ,tính lông bông .Cha làm chức Trưởng đất tức Khâu quận Lạng gia .Quản Lộ lúc nhỏ đã thích thiên văn .Có đêm nằm ngửa mải mê nhìn sao trên trời không hề chợp mắt ,ai can cũng không được .Ban ngày ,những khi chơi đùa với bạn .Lộ cũng thường vạch đất vẽ bầu trời chia chỗ này mặt trăng ,chỗ kia mặt trời cùng vị trí các chòm sao .Lớn lên rất tinh thông lý số ,giỏi kinh .Dịch .Có thể nói: trên đời có một không hai.

    Có lần quan Thái thú Lạng gia là Đan tử Xuân nghe tiếng bèn mời Lộ đến nhà chơi .Hôm ấy ,nhà có hơn trăm người khách đang chuyện trò đều là những tay ăn nói .Lộ xin uống rượu để có thêm hào khí rồi mới dám đối đáp .Tử Xuân bằng lòng ngay rồi đem những triết lý trong kinh Dịch ra hỏi .Quản Lộ đối đáp trơn tru ,lý luận sâu sắc .Tử Xuân cố gắng hết sức mà cũng không thể bắt bẻ được chút nào .Cả hai say sưa tranh biện ,quên cả ăn uống .Mọi người trong đình thán phục vô cùng .Quản Lộ nổi tiếng thần đồng từ đó.

    Bói dịch biết chuyện ma quỷ.

    Tài bói dịch của Quản Lộ được chứng nghiệm rất nhiều lần .Người ta kể lại rằng :nhà một nông dân tên là Quách Ân ,có ba anh em đều bị thọt chân ,bèn mới Quản Lộ về bói .quản Lộ đến nơi ,gieo quẻ xong rồi nói:

    - Nhà anh bị một nữ quỷ phá hại .Trước đây ,nếu không phải bác gái thì cũng thím anh gặp năm mất mùa ,tham một thúng gạo ,nỡ xô người ta xuống giếng ,lấy đá lấp lại ,người đó chết đi ,oan hồn lên trời kiện ,nên anh em nhà anh phải chịu ác báo .Cái ác báo này dù anh em nhà anh có cúng tế tới đâu cũng không ăn thua gì.

    Ba anh em nhà nay nghe xong toát mồ hôi và công nhận :trước đây nghe nói người thím có giết một người đội một thúng gạo .Quan huyện lệnh Tín đô nghe chuyện ,bèn đem việc vợ bị đau đầu ,con bị bệnh tim chữa lâu mà không khỏi ,bệnh càng ngày càng nặng ra nhờ Quản Lộ bói .Bói xong ,Lộ cho biết:

    - Ở phía Tây nhà ông ,dưới gốc cây có hai cái xác người .Một thây cầm xà mâu ,một thây cầm cung đầu quay vào trong vách .Thây cầm cung nhắm vào ngực nên con ông bị đau tim .Thây cầm xà mâu nhắm vào đầu nên vợ ông đau đầu.

    Quan huyện lệnh bái tạ ra về và sai gia nhân đào ở góc nhà phía Tây lên thì quả nhiên có thấy hai chiếc quan tài .Mở nắp ra thấy có hai bộ xương ,một cầm cung ,một cầm xà mâu nhưng đã bị mục nát cả .Quan cho đem hai cái thây ra ngoài thành mười dặm mà an táng .Từ đó ,bệnh của vợ con ông dần dần bớt rồi dứt hẳn.

    Đoán đúng vật đậy kín:

    Không riêng những chuyện đã xảy ra ,mà chuyện trước mắt Quản lộ đoán cũng không hề sai .Có lần Huyện lệnh đất Quán đào là Gia cát Nguyên đổi đi nhậm chức Thái thú quận Tân hương .Quản Lộ đến tiễn hành .Mọi người bàn tán Lộ có tài đoán đúng vật đậy trong hộp kín .nguyên không tin bèn thử tài .Ông vào nhà lấy ba vật khác nhau ,bỏ vào trong hộp dán kín rồi đưa cho Lộ xem .Lộ gieo quẻ xong thì lần lượt viết lên mỗi hộp bốn câu thơ.

    Trên hộp thứ nhất có bài thơ như sau:

    Bầu khí biến mất

    Nương trên mái nhà

    Hình chia trống mái

    Lông cánh phô ra.

    Quả nhiên là hộp đó đựng trứng chim én.

    Trên hộp thứ hai:

    Nhà treo lửng lơ

    Cửa sổ vô số

    Chứa những tinh hoa

    Mùa thu thì nở.

    Mọi người mở ra thì thấy đó là một tổ ong.

    Và trên chiếc hộp thứ ba Lộ viết:

    Mon men chân dài

    Nhà tơ chắn lối

    Lần lượt tìm mồi

    Lợi về đêm tối.

    Trong hộp quả là đựng một con nhện.

    Mọi người xem xong ai nấy đều rất kinh ngạc .Có một bà lão bị mất trâu ,không biết ai bắt ,mếu máo đến nhờ Quản Lộ tìm giúp .Quản Lộ gieo quẻ rồi nói:

    Ngoài bờ khi bắt

    Bảy đứa mổ ra

    Đến tìm lập tức

    Còn thấy lông da.

    Bà lão nghe nói vội vàng đi tìm ,quả nhiên thấy những tên trộm đã làm thịt con trâu xong ,đang nấu nước bên bờ khe .Da thịt còn treo ngoài trại ,bèn đi trình Thái thú Lưu Bân .Bân cho lính đến bắt được bảy tên trộm .Rồi hỏi đầu đuôi câu chuyện ,bà lão thực tình kể .Bân không tin cho người đi mời Quản Lộ đến ,rồi lấy cái túi ấn và lấy cái lông gà rừng ra bỏ vào hộp đem cho Lộ đoán.

    Lộ gieo quẻ rồi đoán hộp thứ nhất:

    Trong vuông ngoài tròn

    Năm sắc chỉ luồn

    Đựng của giữ tín

    Hiện ra chữ son.

    Đây hẳn là cái túi đựng ấn tín.

    Và hộp thứ hai:

    Đậu trên cây núi

    Lông cánh vàng ối

    Mình gấm đốm đen

    Gáy sáng không lỗi.

    Đây hẳn là lông gà rừng.

    Lưu Bân nghe xong kinh hãi không dám coi thường nữa ,vội mời vào trong đãi làm thượng khách.

    Tiết lộ thiên cơ.

    Người ta còn kể :Một hôm đẹp trời ,Lộ ra ngoài đồng dạo chơi ,thấy thanh niên đang cày ruộng .Lộ dừng lại ngắm một chút rồi hỏi:

    - Anh kia !Có thể nào cho tôi biết tên được không và anh bao nhiêu tuổi rồi?

    Chàng kia đáp:

    - Tôi tên là Triệu Nhan ,mười chín tuổi ,chẳng hay tiên sinh là ai?

    Quản Lộ nói:

    - Ta đây là Quản Lộ .Ta thấy trên mặt anh hiện ra đường tử khí .Vì vậy ,chỉ còn ba ngày nữa là bỏ mạng .Tiếc thay ,anh dáng người đẹp đẽ thế mà không thọ.

    Triệu Nhan nghe nói lòng hồi hộp vô cùng ,vội chạy về nhà báo tin cho cha mẹ hay .Người cha lập tức đi tìm Quản Lộ ,rồi vừa khóc vừa nói:

    - Xin tiên sinh rủ lòng thương xót cứu mạng cho con tôi một phen.

    Quản Lộ nói:

    - Số trời đã định ,dù tôi có phép tiên cũng không thể nào cứu được.

    Ông lão một mực quỳ lạy van nài:

    - Suốt đời tôi chỉ có một đứa con này ,xin ngài thương hại mà cứu lấy nó.

    Triệu Nhan lúc bấy giờ cũng phục xuống trước mặt Quản Lộ và khóc lóc .Quản Lộ nhìn thấy cảnh này cũng không nở bỏ đi ,bèn nói:

    - Thôi anh đừng khóc nữa .Hãy về kiếm lấy ít rượu ngon và thịt nai thơm .Ngày mai mang lên núi Nam sơn ,tìm đến một gốc cây cổ thụ ,sẽ thấy một phiến đá có hai ông già đang ngồi đánh cờ .Một người quay mặt về hướng Nam ,mặc áo trắng ,mặt mày hung tợn .Một người quay mặt về hướng Bắc ,mặc áo hồng ,gương mắt hiền lành .Thừa lúc hai người mãi lo đánh cờ ,anh cứ bày rượu thịt ra mà dâng lên .Đợi khi họ ăn uống xong thì phục xuống mà khóc lóc xin thêm tuổi thọ .Như thế may ra còn có cơ may sống sót .Nhưng cần nhất là không được tiết lộ tên tôi đấy nhé!

    Ông lão mừng rỡ vội mời Quản Lộ về nhà .Hôm sau Triệu Nhan y lời Quản Lộ chỉ bảo ,đem rượu thịt lên núi Nam Sơn và quả nhiên thấy có hai người đang ngồi đánh cờ dưới gốc cây ,dáng dấp phi phàm .Chàng rón rén đến gần ,nhưng hai người chẳng ai để ý đến .Triệu Nhan bày rượu thịt và cứ thế mà dâng lên .Hai người vì mãi mê đánh cờ nên cứ thế mà nâng chén ,cứ thế cho đến lúc không còn gì để dâng nữa .Lúc ấy ,Triệu Nhan mới quỳ xuống khóc lóc và lạy xin thêm tuổi thọ .Hai người lúc bấy giờ mới giật mình quay lại nhìn Triệu Nhan chằm chằm ,rồi người mặc áo hồng mới nói với người mặc áo trắng:

    - Đây hẳn là Quản Lộ đã xúi nó đến đây ,nhưng ta đã dùng lễ vật của nó ,làm thế nào mà từ chối được.

    Ngưới mặc áo trắng lật sổ ra xem một lúc rồi nói:

    - Nhà người năm nay mười chín tuổi đáng lẽ phải chết .Nay ta cho thêm chữ Cửu lên trên nên có thể thọ đến chín mươi chín .Nhưng phải về nói với Quản Lộ là từ nay không được tiết lộ thiên cơ nữa ,nếu không trời sẽ khiển trách đó.

    Dứt lời ,ông lấy bút ra sửa lại vài nét trong sổ .Rồi một cơn gió thổi qua ,hai người biến thành hai con hạc bay lên trời mất dạng .Triệu Nhan hết sức mừng rở ,vội về nhà thuật lại mọi chuyện cho cha nghe ,đồng lời nhắn lại những lời của ông lão ,rồi hỏi Quản Lộ về lai lịch hai ông lão ấy .Quản Lộ cho biết đó là Nam Tào và Bắc Đẩu hai vị tiên chuyên lo việc sinh tử của nhân loại .Cha con Triệu Nhan vui mừng khôn xiết ,lạy ta Quản Lộ đã có công cứu mạng .Còn Quản Lộ từ đó không dám tiết lộ thiên cơ nữa vì sợ phạm tội.

    Quản Lộ và Tào Tháo.

    Nói về Tào Tháo ,sau khi gục xuống một lát thì trời quang mây tạnh ,những thây người đều biến mất .Quân hầu vội dìu Tháo vào cung .Đến lúc tỉnh lại ,Tháo trong lòng lo lắng ,không hiểu có chuyện sẽ xảy ra nên phát bệnh nặng ,thuốc thang thế nào cũng không bớt .Nhân dịp có quan Thái sử Thừa là Hứa Chi từ Hứa đô đến Nghiệp quận thăm ,Tháo cho vời vào hỏi chuyện xem có người nào giỏi về Bói Dịch không .Hứa Chi tiến cử Quản Lộ và đem những chuyện thuật cho Tháo nghe .Tháo mừng rở vô cùng ,vội cho người đến Bình nguyên triệu Quản Lộ về .Quản Lộ đến nơi được Tháo nhờ gieo quẻ để đoán bệnh .Một lát sau Lộ nói:

    - Ngài mắc phải ảo thuật của Tả Từ rồi ,nhưng không có gì đáng ngại đâu.

    Nghe xong ,Tháo thở một hơi dài khoan khoái như vừa trút xong một gánh nặng .Đoạn Tháo nhờ Lộ bói một quẻ để xem việc thiên hạ .Quản Lộ lại gieo quẻ rồi đoán:

    Ba tám ngang dọc

    Phía nam định quân

    Lợn vàng gặp cọp

    Bị gãy một chân.

    Khi Tháo hỏi về hậu vận con cháu thì Lộ cho biết:

    Trong cung sư tử

    Được yên thần vị

    Đạo vương canh tân

    Con cháu đại quý.

    Thấy còn mập mờ ,Tháo muốn hỏi thêm cho kỹ thì Lộ nói:

    - Số trời mông mông không thể đoán được .Đợi sau này sẽ ứng nghiệm.

    Tháo không dám hỏi nữa và ngỏ ý muốn phong quan cho Quản Lộ .Lộ từ chối và giải thích:

    - Tôi tướng cùng ,vì xương trán không phải “chủ cốt” ,con người không phải “thủ tinh” ,sống mũi không có “lương trụ” ,chân không phải kiêu “thiên căn” ,lưng không “tam tháp” ,bụng thiếu “tam nhâm” ,nên chỉ có thể trừ ma quỷ ,chứ không thể trị được thiên hạ.

    Tháo lại hỏi:

    - Vậy ngài thử đoán xem tướng của tôi thế nào?

    Quản Lộ khôn khéo trả lời:

    - Ngôi nhân thần đã đến cực phẩm còn phải coi tướng làm gì nữa?

    Tháo còn cố hỏi ,nhưng Lộ chỉ cười không đáp .Thấy vậy ,Tháo bảo Lộ xem tướng các quan văn võ đang ngồi xem thế nào .Lộ nhìn qua một lượt rồi nói:

    - Đều là bày tôi đời trị.

    Tháo lại hỏi thăm tình hình hai xứ Đông Ngô-Tây Thục .Lộ cho biết:

    - Đông ngô sắp mất một viên đại tướng ,còn Tây Thục thì sắp đem quân xâm phạm biên cương.

    Tháo còn đang nghi hoặc thì đã có quân vào báo:

    - Đô đốc Đông ngô trấn thủ ở Lục Khẩu là Lỗ Túc đã từ trần.

    Tháo giật mình vội cho quân thám thính Hán Trung .Hai ngày sau thám tử về báo:

    - Lưu Huyền Đức sai Trương Phi và Mã Siêu đóng quân ở Hạ Biện ,có ý muốn đánh chiếm quan ải.

    Tháo nổi giận ,định xua quân vào Hán Trung tử chiến ,bèn nhờ Lộ bói xem một quẻ xem cát hung thế nào .Lộ gieo quẻ rồi nói:

    - Đại vương đừng vội động binh ,vì mùa xuân tới đây Hứa Đô thế nào cũng bị một trận hỏa tai dữ dội.

    Tháo thấy mọi việc Quản Lộ nói đều đúng cả nên không dám xuất binh .Về sau quả nhiên Hứa Đô bị một trận hỏa tai lớn do Kim Vy ,Vi Hoảng và Cảnh Kỷ làm phản mưu diệt Tào hưng Hán nhân ngày lễ Nguyên tiêu .Dẹp loạn xong ,Tháo đem vàng ngọc trọng thưởng cho Quản Lộ ,nhưng ông từ chối và xin được về quê.

    Cái chết và sự trả thù của Quản Lộ.

    Mặc dù Lộ không làm quan ,nhưng mỗi khi gặp chuyện gì khó khăn ,Tháo đều cho người đến hỏi để biết cát hung của sự việc .Khi nhà Tấn lên làm vua ,những ai đã từng đột pháo xông tên hoặc bày mưu hiến kế cho Tháo đều bị bắt .Quản Lộ được coi là “cái túi khôn” của Tào Tháo nên cũng chịu chung số phận .Một buổi chiều ,Lộ đang đi bỗng nhiên vấp chân một cái .Nhìn xuống đất thấy không có cái gì cả .Lộ “đánh tay” biết mạng mình sẽ bị tuyệt trong nay mai ,nên tối hôm đó ,ông đã thức suốt đêm ,đem tất cả những cái sở học ra viết thành một “Tức cẩm nang” nhờ người trao lại bốn đời sau để báo thù.

    Hôm sau ,quả nhiên quân lính đến bắt Quản Lộ ra pháp trường xử trảm .Sắp đến Quản Lộ bị hành hình thì một trận cuồng phong nổi lên ,cuốn cái mũ của vua Tấn bay lên trên không trung .Lộ nói:

    - Nếu cái mũ rơi xuống đất là điềm ta báo được thù.

    Quái lạ thay ,cái mũ đảo lộn trên không một lúc rồi rơi xuống úp vào đầu con ngựa mà vua Tấn đang cỡi .Quản Lộ thấy thế thở dài cúi đầu xuống mà chịu chết .Người đời sau có làm thơ khen Quản Lộ rằng:

    Bình Nguyên quân tử có kỳ tài

    Bắc đẩu Nam tào tính đến nơi

    Gieo quẻ lần tìm ra dấu quỷ

    Bói kinh đoán trước cả cơ trời

    Số người thọ yểu rành xem tướng

    Bản mệnh hèn sang tự biết rồi

    Diệu thuật linh khoa kia khá tiếu

    Chẳng đem truyền lại được cho đời.

    Bốn đời sau ,trong dòng họ của Quản Lộ lại có kỳ tài xuất hiện .Đó là Quản Bật .Bật có diện mạo giống Lộ như khuôn đúc :học rất giỏi ,mắt rất tinh ,có thể đếm được các vì sao trên trời .Và điều lạ lùng hơn nữa là Bật cũng giỏi về khoa lý số giống y như ông tổ bốn đời là Quản Lộ .Người ta không thể ngờ được rằng :Bật chính là Lộ tái sinh để quyết giết cho được một người con cháu của Tư mã Ý mà báo thù.

    Theo đúng như cẩm nang mà Lộ truyền lại .Bật đã vào cung đoán mộng cho vua Tấn rồi khéo léo xui ông vua này lên Định Quân Sơn đào mả Khổng Minh để tìm "Thanh Thư cẩm nang" .Khổng Minh trước khi chết có làm một cái lăng giả ở trong chứa đầy các máy móc ,cùng những ám khí hiểm độc ,mục đích giết hại những kẻ tham lam dám xâm phạm mộ phần của mình :Nhưng chủ ý là nhắm vào các vua nhà Tấn.

    Không hẹn mà nên .Cả Không Minh lẫn Quản Lộ có cùng chung một mục đích giống nhau ,và Quản Lộ với tài “thần cơ diệu toán” đã lấy việc của người làm việc của mình .Không ngờ ,mọi việc sắp đặt của cả hai người đều thất bại .Một nhà sư ,em ruột của Khổng Minh đã đến đục đẽo ,bôi xóa tất cả dấu vết chung quanh lăng của Khổng Minh để không có ai tìm ra được .Đến khi ngôi lăng bị phát giác và không ngăn cản được ý muốn thám hiểm của nhà vua ,có một vị sư già đã đi theo sát bên để hộ vệ .Cuối cùng ,cũng chính nhà sư đã cho thuốc để cứu mạng khi vua hít phải khói độc từ trong cái hộp bằng đá tỏa ra...còn Quản Bật trước đó đã viện cớ đau bụng xin lên địa huyệt để rời xa nơi nguy hiểm.

    Vua Tấn về triều ,đau một trận nặng nhưng rồi được nhà sư cứu khỏi và cho biết đầu đuôi câu chuyện .Như thế ,sự báo thù của Quản Lộ đã không thành công đúng như cái điềm báo trước hôm chịu tội ở pháp trường .Sau đó ,vua Tấn cho người về quê tìm Quản Bật ,nhưng Bật đã không còn ở đó nữa .Người ta không rõ cuộc đời về sau của ông như thế nào.

    Lời bàn của người thuật.

    Thời Tam quốc xảy ra cách đây cả ngàn năm .Vào thời đó ,nếu có những người như Tả Từ thì cũng phải có những người như Quản Lộ .Đã có người như Quản Lộ tất sẽ có hai ông tiên đánh cờ dưới gốc cây ,để vai trò của nhà tiên tri được đầy đủ .Bói Dịch mà tài tình như Quản Lộ thì thật là hiếm có .Tài tình đến độ tiên trên trời cũng biết nữa thì thật là siêu đẳng ,không còn ai hơn được.

    Ta đã thấy học bói Dịch mà tới nơi tới chốn có thể giúp ta hiểu được mọi chuyện xảy ra chung quanh mình ,không sót tí gì từ việc lớn đến việc nhỏ .Nhưng muốn đạt đến mức đó ,con người tưởng chừng như phải có được một sự cảm thông linh ứng hoàn toàn với ngoại vật ,không còn bị những cái ham muốn nhỏ nhen tầm thường che khuất tâm trí nữa .

    Cho hay những bậc đại nhân trong thiên hạ từ trước tới nay thường là những người biết "tri túc” .Chính vì thế ,ta thấy việc Quản Lộ từ chối bổng lộc của Tào Tháo là điều dĩ nhiên .Cho dù có ham danh lợi đi nữa mà biết rõ mình ,rồi thấy được tâm địa của Tháo ,Quản Lộ cũng không thể ra làm quan được .Đã coi thường Tháo ,thì cái đám quan lại chầu chực chung quanh Tháo ,Lộ còn coi ra vẻ gì!

    Câu nói :”Đều là bầy tôi đời trị” nếu không phải là câu trả lời cho xuôi tai ,thì đó chính là một câu nói khinh thường hết sức .Đọc truyện ta thấy ,không ai hỏi thăm lôi thôi bằng Tháo ,đã biết mệnh trời không thể nào đổi được mà cứ cố hỏi thì có ích gì ,để cho người thấy rõ cái óc vụ lợi và cái bụng gian hùng của mình mà thôi .Những câu trả lời úp mở của Lộ đã giúp Lộ không bị hại đến thân ,lại giữ được thể diện mà Tháo không thể nào bắt bẻ chỗ nào được.

    Chữ Sư tử trong câu :“Trong cung sư tử” phải chăng ám chỉ Tư mã Sư người đã cướp ngôi của Tào Phi sau này ?Khi chết ,Tào Tháo đã làm giả một trăm ngôi mộ ,để đời sau không ai biết đâu mà phạm đến hài cốt .Khổng minh xây lăng để giết hại con cháu Tư Mã Ý .Quản Lộ quyết chí báo thù truyền đến bốn đời mới thôi .Tất cả những điều ấy chứng tỏ là người Đông Phương ,đặc biệt là người Trung hoa có một nội tâm vô cùng sâu sắc ,nhờ hiểu biết tường tận khoa lý số hơn các dân tộc khác .Nhưng sâu sắc đôi khi quá đáng và trở thành thâm hiểm .Tuy vậy ,tất cả mọi sự đều không qua được mệnh trời và tất cả những sự chống đối đều trở nên vô ích.

    Riêng về chuyện tiết lộ thiên cơ của Quản Lộ ta thấy nó hao hao giống một vài truyện cổ của ta .Nhân loại đã gặp nhau khi đồng hóa tiên và tục .Nam tào và Bắc đẩu dù ở thượng giới cũng ham chơi cờ ,cũng đãng trí và cũng ham nhậu nhẹt như ai ,người và tiên cũng gặp nhau quá dễ dàng .Tiếc thay ,cái thời hoàng kim tốt đẹp đó không còn nữa .Chẳng trách mà trần gian này càng ngày càng xa cách cõi thiên đường.

    Hoàng sinh

     
    Cuong638, M58, rongnuoc and 3 others like this.
  6. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    ĐẶT BỂ CÁ ĐÓN TÀI LỘC


    Hiện nay, nhu cầu sử dụng bể cá để trang trí cho căn nhà là rất lớn, nhất là tại các khu đô thị. Sở dĩ bể cá được ưa chuộng vậy là bởi nó dễ dàng kết hợp với gu thẩm mỹ của mọi người, nó phù hợp với phong cách trang trí căn nhà theo kiểu á đông hay phương tây, bình dân hay trang trọng, yên tĩnh hay náo nhiệt, và điều quan trọng nữa đó là nó mang được sắc thái thiên nhiên vào nhà. Khi ngắm nhìn bể cá, nhìn những chú cá bơi lội thong dong, nhìn những cọng rong xanh dịu mát mắt, ta sẽ tìm lại được những giây phút bình yên và xoa dịu những căng thẳng trong cuộc sống.

    [​IMG]




    Trong lý luận phong thủy có câu: "sơn quản nhân đinh, thủy quản tài", cho nên bể cá được coi là một vật phẩm không thể thiếu trong việc cầu tài lộc, thúc đẩy tài chính hay giữ tài chính trong nhà khỏi bị hao hụt. Tuy nhiên cũng như các vật khí phong thủy khác, đặt bể cá cũng phải tuận theo nguyên tắc phong thủy thì mới giúp cho gia chủ chiêu tài, nếu đặt sai thì không những tài chính sa sút thêm đi mà còn có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe. Tiếc thay một vật phẩm ý nghĩa như vậy nhưng đa phần các gia đình hiện nay tùy ý sử dụng mà không chú trọng đến vấn đề hợp phong thủy nên không phát huy được công năng của bể cá.

    Để đặt bể cá đúng cách cũng không phải là một việc quá khó khăn với những người không có chuyên môn về phong thủy, chỉ cần các bạn chịu khó tìm hiểu một chút là có thể đặt được và không phải lo lắng đến việc bể cá đó ảnh hưởng đến sức khỏe hay làm giảm sút tài chính nhà bạn.
    Cách đơn giản để tìm vị trí đặt bể cá là dùng kiến thức phong thủy của phái Bát Trạch. Trước tiên bạn căn cứ vào tuổi âm lịch của mình để tra ra cung phi.

    [​IMG]
    Bảng cung phi nam và nữ

    Khi đã biết mình thuộc cung gì rồi, bước tiếp theo là phối cung phi với phương hướng để tìm bốn vị trí tốt lành là sinh khí, thiên y, diên niên, phục vị. Và bốn vị trí xấu là tuyệt mệnh, ngũ quỷ, lục sát, họa hại.
    Đặt bể cá tất nhiên là phải đặt ở bốn vị trí tốt, nhưng ưu tiên vị trí sinh khí và phục vị. Vì sinh khí là sao tham lang, dương mộc. Phục vị là sao tả phụ, âm mộc. Vì là tính mộc nên rất thích thấy thủy đến tương sinh.

    [​IMG]

    Bảng phối cung phi với sơn hướng

    Đến đây bạn đã cơ bản biết về các hướng tốt và xấu so với tuổi của mình. Việc tiếp theo là chọn ngày giờ tốt để đặt bể cá là xong.

    Còn một phương pháp đặt bể cá chiêu tài nữa ứng nghiệm nhanh hơn, đó là dùng kiến thức phong thủy của phái Huyền Không để tìm vị trí vượng khí, sinh khí và tiến khí của trạch vận. Phương pháp này khó hơn đối với các bạn chưa hiểu gì về phong thủy, cho nên tôi khuyên các bạn nên mời thầy phong thủy về trực tiếp thẩm định phong thủy của ngôi nhà mình và sẽ có tư vấn phù hợp cho việc đặt bể cá chiêu tài.

    Để hình dung rõ hơn về phương pháp này, tôi lấy một ví dụ ngôi nhà275 độ, tọa mão hướng dậu, kiêm hướng 5 độ, lập vào vận 8 diễn số như sau:


    [​IMG]

    Nhà này vượng tinh đáo hướng dậu 275 độ nên tài chính đại lợi, cung càn 315 độ có cửu tử là sinh khí của vận 8 chiếu tới nên hai hướng này thích hợp bố trí thủy vị để chiêu tài. Thủy vị ở đây có thể là bể cá, đài phun nước, v.v...

    Về hình dáng bể cũng rất quan trọng. Thông thường ta hay dùng bể hình chữ nhật hoặc hình tròn, không nên dùng bể hình vuông hay hình tam giác vì không hợp với tính chất ngũ hành của thủy.

    Số lượng cá cũng tùy theo kích cỡ bể. Thông thường là 1 con, 4 con, 6 con và 9 con. số lượng cá này có ngũ hành tỷ hòa hoặc tương sinh cho thủy khí của bể cá nên cát lợi, Những số khác đều tiết giảm hoặc tương khắc với thủy khí của bể cá nên ta không nên dùng.

    Đến đây các bạn đã cơ bản hiểu được phần nào phương pháp đặt bể cá để chiêu tài theo đúng thuật phong thủy. Hy vọng các bạn sẽ tìm thấy niềm vui, sự thanh thản, yên bình và tài chính thông đạt với chiếc bể cá yêu quý nhà bạn!









    Trong lý luận của phái Huyền Không, hệ thống cửu tinh trong đồ hình Lạc Thư được coi là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt cho sự hình thành và phát triển của môn phái.
    Trong bài viết này tôi chỉ nêu nên tính chất cát hung của các sao trong lạc thư để các bạn tham khảo trong quá trình luận đoán.


    1. sao nhất bạch:
    Sao nhất bạch tiên thiên ở càn, hậu thiên ở khảm, ứng vào sao tham lang, ngũ hành thuộc thủy, màu trắng, mùa thu tiến (tăng trưởng), mùa đông vượng, mùa xuân tiết (hao hụt), mùa hạ tử (chết). Kẻ sỹ gặp nó tất được bổng lộc, thường dân gặp nó thì tiền bạc nhất định sẽ thêm nhiều, đây là đệ nhất cát thần. Nếu bị khắc sát thì có đau buồn vì tang tóc.
    Sao nhất bạch thuộc loại sao tốt trung bình, chủ tài vận ổn định, đặc biệt có lợi đối với các công việc có cơ cấu lớn hoặc người có thu nhập ổn định, chủ về dễ tích lũy tiền bạc dần dần.
    Ứng kỳ: lưu niên tốt nhất là những năm hợi, thân, dậu. Mỗi năm tài vận mạnh nhất là các tháng 7, 8, 10, 11.
    Nên đặt cửa, phòng, bếp, nước tại phương này.


    2. sao nhị hắc:
    Sao nhị hắc ngũ hành thuộc thổ, hiệu là cự môn, ở vị trí cung khôn (tây nam) trong bát quái, thuộc hành thổ kèm mộc khí. Nếu được sinh vượng thì ruộng đất tiền tài không kể xiết, nhân đinh thịnh vượng, nhưng nếu khí thế yếu kém thì không tránh được buồn phiền, bị khắc sát thì lo sản phụ có bệnh hoặc vì đàn bà mà rước phiền toái vào người, đại khái là phạm lỗi ở phương này thì không lợi cho phái nữ, có bệnh lâu ngày.
    Nhị hắc là hung tinh, chủ phá tài, nghiên cứu sâu hơn 1 bước, nguyên nhân là vì phương diện sức khỏe có vấn đề dẫn đến phá tài.
    Ứng kỳ: kỵ nhất là những năm tị, ngọ, mùi. Mỗi năm phá tài nhiều nhất là các tháng 4, 5, 6, 9.
    Không được thiết kế cửa, phòng, bếp, nước tại vị trí này. nếu phạm phải thì đặt tượng kỳ lân đồng để hóa giải.


    3. sao tam bích:
    Sao tam bích là lộc tồn, ở cung chấn (phương đông) trong bát quái, thuộc hành mộc kèm thổ kí, màu biếc, nếu được sinh thì hưng gia lập nghiệp, đương thời vượng thì phú quý công danh, nhưng nếu bị khác thì coi chừng có quan tai kiện tụng, thân mang bệnh tật hoặc gặp nhiều điều xấu.
    Tam bích là hung tinh, chủ phá tài, nghiên cửu sâu hơn 1 bước, nguyên nhân là do bị người xem thường hoặc bị trộm cướp mà phá tài.
    Ứng kỳ: kỵ nhất là vào các năm thân, dậu, dần, mão. Mỗi năm phá tài nhiều nhất vào các tháng 1, 2, 7, 8.
    Không được thiết kế cửa, phòng, bếp, nước ở vị trí này. Nếu cửa, phòng, bếp, nước đã ở vị trí này thì nên dời qua chỗ khác, còn như cửa phòng không thể dời được thì nên đạt 1 tấm thảm màu đỏ ở dưới đất để hóa giải.


    4. sao tứ lục:
    Sao tứ lục màu xanh, ở vị trí cung tốn (đông nam) trong bát quái, thuộc hành mộc kèm thủy khí, là phong trong mộc, là chỗ ở của sao văn khúc hay văn xương, lúc nó đương vượng thì thăng quan tiến chức, thi cử đỗ đạt, nếu bị khắc sát thì cẩn thận việc sinh đẻ.
    Tứ lục là sao trung tính, tốt hay xấu tùy thuộc vào hoàn cảnh mà quyết định, về phương diện tài vận thì ổn định bình bình.
    Ứng kỳ: có thể tích lũy tiền tài mạnh nhất vào các năm dần, mão, hợi, tý. Mỗi năm phát tài mạnh nhất vào các tháng 1, 2, 10, 11.
    Ở phương vị này nên dùng bonsai hay các hoại hoa lan, long cốt, v.v...trang trí.


    5. sao ngũ hoàng:
    Sao ngũ hoàng là liêm trinh, đóng ở trung cung, màu vàng, ngũ hành thuộc thổ kèm hỏa khí, nên tịnh không nên động, động thì rốt cục sẽ xấu, nên bổ không nên khắc, khắc sẽ gặp tai họa.
    Ngũ hoàng là 1 đại sát tinh, còn gọi là chính quan sat, chủ phá tài, nghiên cứu sâu hơn 1 bước, thu nhập không đủ chi, thường bị hao tài ngoài ý muốn, khoản nợ chỉ có tăng chứ không giảm.
    Ứng kỳ: Lưu niên phá tài nhiều nhất vào các năm tị, ngọ, mùi, tuất. Mỗi năm phá tài nhiều nhất vào các tháng 4, 5, 6, 9.
    không được thiết kế cửa, phòng, bếp, nước ở vị trí này, cũng không nên đặt trang thờ phùng ở phương vị này. Nếu như cửa, phòng, bếp ở phương vị này thì đặt tượng kỳ lân đồng để hóa giải.


    6. sao lục bạch:
    Sao lục bạch ở cung càn (tây bắc) trong bát quái, màu trắng, là chỗ ở của sao vũ khúc, thuộc hành kim. Lúc nó được sinh vượng thì uy quyền là chấn động người đời, giàu có, con cháu đông đúc. Nếu bị khắc sát thì linh đinh cô khổ, khắc vợ, mất con.
    Lục bạch là cát tinh, đặc biệt lợi cho người làm công việc quản lý, chủ tích lũy được tiền tài.
    Ứng kỳ: có thể tích lũy được tiền tài mạnh nhất vào các năm sửu, thìn, thân, dậu. Mỗi năm tiền tài dư nhiều nhất vào các tháng 3, 7, 8, 12.
    có thể thiết kế cửa, phòng, bếp, nước tại phương vị này. Muốn thôi thúc hoạnh tài thì đặt tượng ngọc kỳ lân, nếu muốn tăng cường tài vận trong công việc làm ăn thì có thể đặt tượng thiềm thừ bằng vàng.


    7. sao thất xích:
    Sao thất xích là phá quân, cung đoài (phương tây) trong bát quái, thuộc hành kim, có hình dáng tiểu nhân, tinh thần trộm cướp, nếu được sinh vượng thì tài lộc nhân đinh cũng thăng tiến, nếu bị khắc chế thì coi chừng lời qua tiếng lại, thị phi, kiện tụng.
    Thất xích là hung tinh, chủ phá tài, nghiên cứu sâu hơn 1 bước, nguyên nhân là do phát sinh tranh chấp tiền bạc với người khác mà dẫn đến phá tài, hoặc vì sự cố tai nạn ngoài ý muốn mà hao tài.
    Ứng kỳ: Lưu niên phá tài mạnh nhất vào các năm sửu, thìn, thân, dậu. Mỗi năm phá tài nhiều nhất vào các tháng 3, 7, 8, 12.
    không nên thiết kế cửa, phòng, bếp tại phương vị này. Nếu cửa, phòng, bếp đã ở phương vị này thì nên đặt 1 chậu nước bằng đồng hoặc 1 phong thủy luân để hóa giải.


    8. sao bát bạch:
    Sao bát bạch còn gọi là sao tả phù, ở vị trí cung cấn (đông bắc) trong bát quái, thuộc hành thổ, nếu sinh vượng thì phú quý công danh, nếu khắc chế thì coi chừng tổn hại trẻ nhỏ, tính của nó vốn hiền lành và có khả năng hóa giải hung thần.
    Bát bạch là cát tinh, chủ vượng tài, đặc biệt có lợi đối với người kinh doanh, thông thường người trên thương trường cần chú ý sao này, chỉ cần thôi thúc được nó thì nguồn tiền tài ngày càng lớn.
    Ứng kỳ: Có thể được tiền tài mạnh nhất vào các năm tị, ngọ, mùi, tuất. Mỗi năm kiếm tiền nhiều nhất vào các tháng 4, 5, 6, 9.
    Nên thiết kế cửa, phòng, bếp, nước tại phương vị này. Muốn tăng cường hoạnh tài thì có thể đặt tượng ngọc kỳ lân, nếu muốn tăng cường vận tài trong công việc làm ăn thì có thể đặt tượng thiềm thừ bằng ngọc, ngoài ra dùng thủy tinh màu tím cũng có thể tăng cường tài vận.


    9. sao cửu tử:
    Sao cửu tử là hữu bật, ở vị trí cung ly (phương nam) trong bát quái, thuộc hành hỏa kèm kim khí, tính rất nóng nảy, cát thì lập tức phát phúc, hung thì lập tức gặp đại họa.
    Cửu tử là cát tinh, chủ về tài vận tốt trung bình, những người kiêm chức vị hoặc các công việc phát lương, kế toán thích hợp với bố cục phương vị này.
    Ứng kỳ: có thể tích lũy tiền tài mạnh nhất vào các năm dần, mão, tị, ngọ. Mỗi năm tiền tài dư nhiều nhất vào các tháng 1, 2, 4, 5.
    Nên thiết kế cửa, phòng, bếp tại phương vị này. Cũng có thể đặt tượng cóc đồng ba chân hoặc các chế phẩm thủy tinh màu tím tại phương vị này để thôi thúc tài vận.


    Trên đây là những ứng nghiệm được ghi chép trên các thư tịch cổ của phái Huyền Không, đương nhiên có nhiều việc không phù hợp với sinh hoạt hiện nay, nên đòi hỏi các nhà phong thủy hiện đại phải có sự phán đoán biến đổi linh hoạt cho phù hợp.

     
    Chỉnh sửa cuối: 22/8/13
    kiemk55, poker1232000 and DAINGOC68 like this.
  7. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    NHỮNG ÔNG TỔ MÔN ĐỊA LÝ PHONG THỦY
    [​IMG]
    Trước khi tìm hiểu về môn phong thủy, chúng ta điểm qua những ông tổ môn thuật toán này xưa nay, những người được gọi là thầy địa lý, tướng địa, bốc trạch, hay phong thủy gia… hầu có cái nhìn về môn địa lý học xem phương hướng, tìm long mạch để an táng người chết hay xây dựng nhà cửa cho người sống, sau này trở thành môn triết học Trung Quốc trên thế giới.
    Khoa địa lý phong thủy bắt đầu có từ đời nhà Hạ, Thương, Chu, lúc này người ta chỉ biết bói quẻ chọn đất. Đến đời nhà Tần, nhà Hán mới tính kham dư tức xem thêm về thiên văn. Trước khi có Quách Phác (đời Tấn), ông được xem như ông tổ thuật phong thủy, lúc đó môn này còn rời rạc, khi được ông giải thích về thuật phong thủy, mọi người mới tường tận hơn. Rồi sang đời nhà Minh, có Tưởng Bình Giai quyết :
    - Sinh khí, tụ khí tạo diện mạo cảnh quan, môi trường cho con người thấy thoải mái trong cuộc sống; bởi có nó con người mới “có hồn”.
    Còn môn phong thủy khi xâm nhập vào nước ta, mới đầu chỉ phổ biến hạn chế trong xây dựng đình, chùa, đền, miếu và mồ mả vào thời nhà Đinh, Lê (thế kỷ thứ X). Đến đời nhà Lý, trong chiếu dời đô ra Thăng Long, vua Lý Thái Tổ cho rằng :
    -”… Nơi đây là trung tâm của trời đất, được thế rồng bay hổ ngồi, đúng điểm kết tụ bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc”.
    Cũng vào thời kỳ vua Lê, nước ta có thầy địa lý Tả Ao, tinh thông phong thủy không kém Quách Phác đời Tấn của Trung Quốc xưa, sau Tả Ao còn có tiến sĩ Hòa Chính, cũng từng sang nước bạn học hỏi thuật xem tướng đất, dùng cất nhà và an táng.
    Sau đây một số tài nghệ của các ông tổ ngành địa lý phong thủy xưa :
    1/- QUẢN LỘ – đời Tam Quốc
    Quản Lộ là thuật sĩ sống ở tỉnh Sơn Đông, thời Tam Quốc (226 – 248 DL), có hình dáng xấu xí, nói năng lại cộc lốc, hay uống rượu. Ông thờ chủ nghĩa thần bí qua nghề chiêm bốc và tướng địa.
    Quản Lộ giỏi về âm trạch và dương trạch, âm là coi phần mồ mả, còn dương coi về thế đất dựng nhà.
    Trong sử nói, Quản Lộ có cuốn “Quản thị địa lý chỉ mông” gồm 10 quyển, nhưng thực tế chỉ là sách mượn danh, dựa vào cuốn “Tam quốc chí – Quản Lộ truyện” ghi lại theo truyền khẩu qua nhiều người (sách nói Quản Lộ thần thông, biết xem bói, xem đất đai để táng hay xây cất, với nhiều chuyện thần kỳ được chép qua sự truyền khẩu trong dân chúng).
    Có chuyện về tài của Quản Lộ khi xem âm trạch, dương trạch như sau :
    - Một chuyện về âm trạch (mả táng) :
    Một ngày nọ Quản Lộ đi ngang qua ngôi mả chôn Vu Khưu Kiệm, ông ngồi nghỉ chân rồi nhìn vào ngôi mả của họ Vu mà than thầm : “Cây cối xanh tốt nhưng thế đất không bền, tấm bia đề tựa tuy văn hoa nhưng không có hậu. Ngôi mả đang ở thế : Huyền Vũ giấu đầu, Thanh Long mất chân, Bạch Hổ ngậm xác còn Chu Tước đang khổ đau. Tứ phía lâm nguy !
    Theo thuật phong thủy, người nhà họ Vu chỉ hai, ba năm sau sẽ bị diệt”.
    Sau đó lời than thở của Quản Lộ quả nhiên ứng nghiệm. Lúc đó Quản Lộ xem mả của Vu Khưu Kiệm theo hướng thiên văn chiếu, nhìn “Tứ tượng” của chùm sao Nhị Thập Bát Tú (Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ, Chu Tước), mà biết cát hung cho gia đình họ Vu về sau.
    Còn mả bà thím của anh em Quách Ân, thầy Quản Lộ cũng qua thuật chiêm bốc cho rằng ngôi mả này đang bị “nữ quỷ” trong đất táng báo ứng. Mặc dù cuộc đất được anh em Quách Ân đã mời thầy địa lý tìm giúp, ông ta cho rằng nó đẹp về hậu vận. Nhưng về “luật nhân quả” lại không từ một cuộc đất dù đẹp cách mấy đi nữa, nhưng trong quá khứ những chuyện gian tà, gian ác sẽ để lại cho hậu nhân phải hứng nhận quả đắng để đền bù lại tội lỗi người chết đã gây ra. Đúng là ba anh em nhà Quách Ân về sau đều bị thọt chân.
    Ý Quản Lộ nói, nếu làm ác mà cứ đi tìm cuộc đất tốt để táng, mong sao cho hậu nhân được sống vinh hoa phú quí là không thể được. Do luật nhân quả nói, gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy. Cho nên sống ở đời cần phải tích đức, sau hãy tìm cuộc đất tốt để an táng, như thế tính phong thủy mới được phát huy theo ý muốn.
    - Một chuyện nói về dương trạch (nhà cửa) :
    Một bà đang mang bệnh nặng nhờ Quản Lộ đến xem bói, bà ta nghĩ mình bị ma ám nên gia đình cứ dần dần lụn bại, làm ăn thua lổ, còn người sống cứ mang bệnh tật kinh niên không thuốc chữa khỏi.
    Quản Lộ nhìn vào trong nhà mà nói với bà ta : “Góc nhà phía tây có chôn xác hai nam nhân, một người bị tên bắn trúng ngực, do vậy bà bị bệnh tim; còn một người bị giáo đâm vào đầu nên bà cũng thường hay nhức đầu. Ngôi nhà này đã bị ếm bùa của Lổ Ban. Nếu biết mà trừ, bà sẽ khỏi bệnh”.
    Bà ta nghe theo lời Quản Lộ, cho người đào dưới góc nhà phía tây, thấy có hai hình nộm đúng theo lời ông nói. Từ đó gia đình bà không còn đau yếu và buôn bán phát đạt trở lại. Thường thợ dựng nhà hay yểm bùa Lổ ban để trả lễ thánh tổ mới có công ăn việc làm thường xuyên, trong muời căn nhà phải có ít nhất một nhà mắc phải, nhưng họ yểm không độc, không làm cho chết người. Còn những kẻ có hiềm thù nhau, thường yểm những loại bùa gây ra chết chóc, chậm thì đúng một năm, nhanh thì 49 hay 100 ngày.
    Còn Quản Lộ tự xem bói cho chính mình, biết ông chỉ sống đúng bốn con giáp; quả thật vào năm 49 tuổi, Quản Lộ qua đời.
    Người đời sau nói, cuốn “Quản thị địa lý chi mông” trong “Tam Quốc Chí – Quản Lộ truyện” giới thiệu, gồm 10 cuốn, 100 thiên, Quản Lộ viết về thuật phong thủy không phải do chính ông nghiên cứu ra, do người khác mượn tên. Nhưng chưa ai giải thích được người viết cuốn sách này là ai ? Vì trong 100 thiên truyện đều rất thần bí và sâu sắc.
    Nên đã gần 2000 năm, đến bây giờ Quản Lộ vẫn còn được mọi người xem là ông tổ của thuật “chiêm bốc” xem địa lý phong thủy, qua tài xem thiên văn nhìn phương hướng mà bói thành quẻ.
    2/- QUÁCH PHÁC – đời Tấn
    Quách Phác tự Cảnh Đôn, người Hà Đông, nay tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Ông sinh vào thời nhà Tấn (276-324 năm DL) sau Quản Lộ. Sách “Thái Bình quảng ký” viết về ông như sau :
    - “Quách Phác hiểu biết bao la, biết thiên văn, địa lý, quy thủ long đồ, hào tượng sấm vĩ – là những môn coi bói bằng mu rùa, quẻ, thẻ, lời sấm truyền – yên mộ lo nhà ở, không có gì không tinh thâm …”.
    Quách Phác soạn cuốn “Táng thư” (coi mộ phần) và “Tướng địa thuật” (xem thế đất), nên được tôn xưng là tỵ tổ (tức ông tổ ngành địa lý).
    Trong các truyền thuyết nói về Quách Phác, một hôm Hồ Mạnh Khang quan thái thú ở Lư Giang, lấy một tỳ nữ làm thiếp. Quách Phác cũng yêu người tỳ nữ, nên muốn lấy ả làm vợ, để đoạt được mục đích, Quách Phách làm phép lấy 3 đấu đậu rắc quanh nhà Hồ Mạnh Khang.
    Sáng hôm sau họ Hồ thức giấc thấy mấy ngàn binh mã đang vây kín Phủ.
    Hốt hoảng, Hồ Mạnh Khang liền cho mời Quách Phác đến xin kế sách. Họ Quách phán ngay :
    - Trong nhà ngài không nên nuôi người tỳ thiếp này, hãy đưa ả đi xa 20 dặm về hướng Đông Nam, ngài sẽ bán được giá, như thế chuyện dữ sẽ hóa lành.
    Hồ Mạnh Khang nghe theo lời Quách Phác, ông ta vội đưa nàng tỳ thiếp chạy về hướng Đông Nam mà bán, Quách Phác biết họ Hồ tin lời mình, liền sai người đi theo mua ả ta về làm vợ. Sau đó Quách Phác bỏ bùa vào giếng nhà họ Hồ để giải việc quân mã đang vây tại Phủ.
    Hồ Mạnh Khang không nghi ngờ chuyện này, ông ta còn hết lời khen ngợi Quách Phác, đi đến đâu cũng ca tụng ông là người tài giỏi trong việc xem dương trạch.
    Trong sách “Nam sử – Trương Dụ truyện”, chép Quách Phác tinh thông Chu Dịch, coi các phần mồ mả an táng. Trong sách nói Quách Phác xem âm trạch cho Trương Dụ.
    Cha của Trương Dụ là Trương Trừng chẳng may qua đời, Trương Dụ chuẩn bị chôn cất cha, nhờ Quách Phác tìm cho miếng đất để địa táng. Ông xem đất xong bảo :
    - Táng ở chỗ này nửa đời sau của ông chỉ làm đến chức tam ty, đời sống không thịnh. Táng chỗ kia tuy đất xấu nhưng ông làm đến công khanh, cuối đời mới phát, con cháu hưởng được phước.
    Trương Dụ y lời đưa cha chôn nơi đất xấu. Kết quả Trương Dụ làm quan đến năm 64 tuổi mới mất, con cháu hưng thịnh theo cha ông.
    Khi Quách Phác chết, ông gọi người nhà an táng nơi đã dặn, nhờ vậy Quách Phác tu đắc đạo thành tiên, nên trong “Quách Phác – Truyện động tiên” chép :
    - Sau ba ngày khi Quách Phác được chôn cất, người ở thành Nam Châu vẫn thấy ông ngồi nhà đàm đạo với người thân. Vương Phác (bạn của Quách Phác, húy là Hoàn Dĩ, phản vua nhà Tấn nên bị tru di tam tộc) còn giận Quách Phácbói cho mình ra một quẻ dữ, nên nghe lời đồn cho người đến đào mả ông, thấy trong quan tài không có thi thể của Quách Phác, mới tin là đúng.
    3/- DƯƠNG QUÂN TÙNG – đời Đường
    Tên húy là Ích, tự Thúc Mậu còn Quân Tùng là biệt hiệu. Người Quảng Đông sống vào đời nhà Đường (792 – 906 DL).
    Dương Quân Tùng từng soạn cuốn “Chính long tử kinh”, được vua Đường phong làm Quốc sư, nắm phủ Linh đài địa lý sự (cơ quan trông coi thiên văn, địa lý, tế lễ). Khi nhà Đường mất vào tay Hoàng Sào; Dương Quân Tùng cùng Bộc Đô Lâm đã đoán quẻ biết trước, lấy đi một số sách phong thủy lâu đời nằm trong Phủ, rồi bỏ Tràng An chạy về Cống Châu thuộc Ninh Đô quy ẩn.
    Từ đó trong dân gian nói rằng thuật phong thủy có từ đời Đường, vì từ Tràng An, Dương Quân Tùng đã truyền dạy nghề cho Liêu Tam người cùng thôn, Liêu Tam truyền cho con trai tên Vũ, Vũ lại truyền cho con rể là Tạ Thế Nam… từ đó thuật phong thủy của họ Dương lan rộng ra đến người ngoài họ ngoài làng.
    Người đời sau mộ danh ông, cho rằng Dương Quân Tùng thuộc môn hình phái, tức xem đất đoán được nơi cát hay hãm địa, nên tôn ông làm đại sư môn địa lý.
    4/- LẠI VĂN TUẤN – đời Tống
    Lại Văn Tuấn tự Thái Tố, người huyện Xử Châu, làm quan tại tỉnh Phúc Kiến. Sống vào thời Tống (thế kỷ thứ X).
    Ở Phúc Kiến, Lại Văn Tuấn nổi tiếng xem về địa lý, nên sách “Địa kiên chí” có chép :
    - Lại bố y (tên gọi thân mật, có nghĩa Lại áo vải) có người quen La Ngạn Chương ở Lâm Xuyên. Hai người rất mến nhau, thích trò chuyện việc tìm hiểu lẽ huyền cơ về phong thủy.
    Ngày nọ vợ của La Ngạn Chương mất, họ La đi tìm nơi an táng thì tìm được một chỗ dùng làm huyệt mộ rất đẹp, phía trước có khe nước chia làm 3 dòng chảy, riêng đường chảy thứ ba không sâu quá ngực người và cũng không dài lắm, chảy thẳng vào ruộng.
    La Ngạn Chương đến mời Lại Văn Tuấn đến xem qua, ông bèn khen là đất táng rất hợp cách với người quá cố, và nói với họ La rằng :
    - Đất đẹp có thể phát thành trạng nguyên, nhưng tiếc thay nhánh thứ ba lại đoản, nên hậu nhân chỉ làm đến bảng nhãn thôi.
    Quả không sai, hai mươi năm sau con của La Ngạn Chương chỉ đậu hàng thứ hai trong khoa thi.
    5/- LƯU CƠ – đời Minh
    Sống vào những năm 1311-1375, tự Bá Ôn, người Thanh Điền tỉnh Triết Giang. Lưu Cơ đậu tiến sĩ triều Nguyên Thuận Đế. Khi Chu Nguyên Chương khởi binh, Lưu Cơ bàn 18 kế sách nên được họ Chu trọng dụng.
    Nhà Minh lấy xong chính quyền từ tay nhà Nguyên, bèn mời Lưu Cơ làm quân sư định ra các chính sách lớn trong nước.
    Khi Chu Nguyên Chương dự định đóng đô ở Kim Long, còn Lưu Cơ chọn đất ở hồ Trúc Tiền làm nền chính điện, nhưng vua Chu nói nơi này quá nhỏ, nên cho người nới rộng thêm mặt bằng ra sau cho thêm lớn.
    Lưu Cơ biết việc tính đất “sai một ly đi một dặm”, không phải cứ cuộc đất nào to là tốt, nên chỉ nói : “Sau này nhà Minh còn phải dời đô đi nơi khác”.
    Quả nhiên về sau Minh Thành Tổ phải dời đô đến Bắc Kinh, lời Lưu Cơ quả thật ứng nghiệm.
    Trong dân gian có sách “Kham dư mạn hứng” do Lưu Cơ soạn (Kham dư có nghĩa xem phong thủy, cũng là từ ngữ khi nói đến trời đất), viết trọn vẹn về xem thiên văn địa lý, nên mọi người coi Lưu Cơ như ông tổ ngành địa lý phong thủy vào đời nhà Minh.
    6/- TRẦN ĐOÀN – đời Tống
    Nói về Hi Di Trần Đoàn (ông còn tên gọi Trần Chuyển) trong chúng ta hẳn có nhiều người nghe nói đến ông, vì Trần Đoàn được ca tụng nhiều trong ngành lý số qua thuật toán xem Tử Vi, Hà Lạc và còn là nhà nhân tướng học uyên bác, nhà xem tướng địa (xem đất đai nhà cửa) nữa.
    Trần Đoàn sống trong thời nhà Tống, tự Đồ Nam, biệt hiệu Hi Di, người tỉnh An Huy. Khi Tống Thái Tổ lên ngôi (966-979 DL) ông về ở ẩn tại Hoa Sơn.
    Nghe nói, Trần Đoàn học được khoa phong thủy với gia sư Tăng Văn Xán (có sách nói ông là môn đệ của Ma Y đạo giả, một đạo nhân hậu duệ của Nam Hoa Tiên Ông), sau khi thành danh ông đã truyền lại cho Ngô Khắc Thành, Tống Chữ Vịnh. Do tinh thông Chu Dịch nên lấy dịch học hòa trộn với môn phong thủy để thành môn xem trạch cát.
    Sách “Phong thủy khư nghi” viết :
    - Hi Di tiên sinh lấy trục Tý Hợi làm thủy, lấy Tý Ngọ làm hỏa… sách này mở đường cho bát quái (định phương vị), luật lữ (luật âm thanh trong nhạc khí), cả đến xem núi để định huyệt… lấy quái làm tượng (quẻ trong Chu Dịch).
    Môn học này ông viết thành sách gồm 10 thiên, chỉ dẫn dùng quái, hào, luật, lữ có âm có dương có tiêu có phá và có sinh có hợp v.v…
    Nên trong thuật phong thủy, người ta xem Trần Đoàn là bậc thầy trong phái “lý khí” (từ khí suy ra lý).
    Ngoài 6 vị đã nói, ở Trung Quốc còn rất nhiều người uyên thâm về môn xem địa lý phong thủy, nhưng chỉ là truyền thuyết như Bàn Canh, Công Lưu, Chu Công, Tiêu Cát… riêng ở nước ta, mọi người ca tụng một thầy địa lý xuất sắc là :
    7/- TẢ AO – đời nhà Lê (Việt Nam)
    Là người học được khoa địa lý chính thống từ Trung Quốc, đem cái đã học đưa về nước nghiên cứu cho phù hợp với phong thổ nhân văn, mà phát huy môn phong thủy theo tính cách riêng cho mình.
    Tả Ao có tên Nguyễn Đức Huyên người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, sinh năm nào không rõ, nhưng ông có tên tuổi vào thời vua Lê chúa Trịnh (vào những năm 1545 – 1788).
    Theo mọi người kể, Tả Ao có cha mất sớm còn mẹ bị mù. Vì nhà nghèo nên đến xin giúp việc cho một ông thầy thuốc (lang y) người Tầu, trước lấy tiền trị mắt cho mẹ sau được học nghề thuốc. Chính thế mà ông chữa được bệnh mù mắt cho mẹ.
    Thầy lang Tầu thấy Tả Ao có chí lớn, đã dẫn ông theo về Trung Quốc dạy thêm nghề thuốc. Gần nhà lang y, có ông thầy địa lý giỏi đang bị bệnh về mắt, Tả Ao được thầy lang phái sang chữa trị.
    Thầy địa lý nói, nếu Tả Ao chữa khỏi bệnh mắt cho mình thì ông sẽ thưởng 50 lượng vàng. Tả Ao đã chữa khỏi bệnh cho thầy địa lý, nhưng không nhận vàng mà chỉ xin ông ta truyền cho nghề phong thủy.
    Vì ơn nghĩa, nên thầy địa lý bằng lòng, liền truyền hết tinh hoa môn phong thủy cho Tả Ao học hỏi, đến khi thành tài, học và hành viên mãn, ông xin cả 2 ông thầy Tầu cho về nước.
    Trước khi cho Tả Ao về Việt Nam, ông thầy địa lý muốn thử tài sự hiểu biết của Tả Ao, ông ta làm 100 mô hình đất kết trên bãi cát, dưới mỗi huyệt có yểm một đồng tiền, rồi đưa ông 100 cây kim đi điểm huyệt.
    Tả Ao điểm đúng 99 lổ của đồng tiền, còn 1 cây điểm ở mép đồng tiền, mà huyệt này lại là huyệt thứ 100. Đây là huyệt ảo, vì mô hình tạo dáng rất huyền bí, ẩn hiện dưới những mô đất nhấp nhô, những thầy địa lý giỏi cũng khó phát hiện ra đúng huyệt đạo. Thấy Tả Ao đã điểm trúng các huyệt, thầy địa lý biết rằng người Việt Nam đã học hết bí kíp phong thủy của Trung Hoa.
    Khi Tả Ao về đến quê hương, ông chỉ lo hành nghề bốc thuốc chữa trị các bệnh tật cho dân chúng, ít khi sử dụng môn phong thủy đã học, chỉ khi cần thiết mới ra tay xem dùm thế đất cho mọi người, tuy vậy danh tiếng về tài xem địa lý phong thủy của ông lại nổi hơn nghề thầy thuốc.
    Nhưng cũng vì Tả Ao không hành nghề xem phong thủy, nên ông không có chân truyền cho kẻ hậu bối. Khi ông mất người nhà mới tìm thấy 2 bộ sách viết về địa lý, phong thủy, là Địa đạo diễn ca và Dã đàm Tả Ao. Nhưng trong dân chúng còn có nhiều sách được in nói chính là sách của Tả Ao.
    Còn các nhà xem “tướng đất” ở nước ta, khi đọc xong 2 quyển trên, đều cho rằng đây là hai bộ sách quý.
     
    Cuong638, kiemk55 and poker1232000 like this.
  8. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    T TINH TRẬN ĐỒ
    [​IMG]

    "Thất tinh trận đồ" là 1 pháp khí phong thuỷ. Thất tinh trận Được đặt trên bàn làm việc để trấn sát, trị tà, thu hút vượng khí cho chủ nhân. Trong phong thủy Đĩa thất tinh trận là bùa chú cầu may, bởi tác dụng kỳ diệu mà nó mang lại cho công việc làm ăn của họ cho công việc làm ăn của họ. Đĩa thất tinh là đá Thạch Anh - loại đá linh nghiệm nhất


    Đĩa thất tinh trận đồ có công năng tụ khí chiêu tài , cầu đến tất ứng nghiệm , giành thắng lợi nắm bắt cơ hội , vận tốt đến liên tục . Thất tinh trận đồ tổng hợp các loại năng lượng , làm cân bằng lực lượng đồng thời làm tăng cường trí nhớ, cũng có tác dụng trừ tà, mở mang Tâm trí khí huyết , tăng cường sức miễn dịch, chống lại các năng lượng khác xâm phạm . Đối với thân thể, máu huyết, tuần hoàn và hệ thống kháng thể thất tinh trận đều hỗ trợ rất mạnh, mang năng lượng ổn định nhu hòa, làm cho tâm lý ổn định tránh phiền não, giảm căng thẳng tâm lý lại có thế bài trừ tạp khí trong cơ thể
     
    Cuong638, kiemk55 and poker1232000 like this.
  9. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    ĐÁNH GÍA KHÍ ÂM VÀ KHÍ DƯƠNG


    • [​IMG]
    Bạn có biết bao giờ bước vào nhà của một người nào đó và cảm thấy bầu không khí không hài hòa, hoặc bị xáo động nghiêm trọng không? Nếu như bạn nhạy cảm với năng lượng , bạn có thể cảm thấy khó thở, ngột ngạt. Đôi khi năng lượng lạ làm bạn nhứt đầu kinh khủng. Điều này cho thấy, khí tại nơi bạn đang thăm viếng đối kháng với khí của bạn, hoặc ở đó có quá nhiều khí âm nên làm mất cân bằng khí của bạn.
    Khí Dương nâng đỡ, duy trì sự sống của chúng ta, khi gặp những nơi có quá nhiều khí âm, chúng ta bị phản ứng. Phản ứng này thể hiện rõ đối với những ai nhạy cảm với năng lượng và có liên quan đến hoạt động với khí như người luyên khí công, yoga.
    Thường đặc tính của khí âm là buồn chán, xung đột, năng lượng âm nhiều. Nếu bạn nghĩ đến tất cả các thuộc tính của âm, bạn có thể phát hiện ra khí âm, âm là tĩnh, yên lặng, bất động, lạnh, nặng nề, u tối là chết, không phải bàn chất của khí âm là xấu, nhưng nơi sinh sống rất cần đến khí dương, và do đó người ta không thích khí âm.
    Khí đau thương.
    Khi tập trung chú ý vào khí của một nhà nào đó, chúng ta cảm nhận sự rung động chế ngự ngôi nhà đó. Nếu như người trong nhà buồn rầu, bạn sẽ cảm nhận được một không khí sầu bi lan tỏa. Đi6 khi không khí trong nhà đem lại cảm giác chán nản, thất vọng làm bạn cũng thấy buồn chán theo. Không khí nhà cửa buồn rầu chứa khí bệnh tật và đau thương. Điều này là do trong nhà thiếu khí dương.
    Bạn cũng có thể cảm nhận sát khí nếu như có nó hiện diện. loại khí xung khắc này xuất phát từ tường và trần nhà, nếu bạn nhạy cảm với khí, bạn sẽ cảm nhận được sự hiện diện của những con dao hoặc mũi tên vô hình tạo ra những cảm giác không dễ chịu. loại khí này rất có hại và nguy hiểm, gây ra bệnh tật, mất mát, tai nạn cho những người trong nhà.
    Nhà cửa có nhiều năng lượng âm làm tiêu hao sinh khí tinh thần của những người cư ngụ trong đó. Những nơi ấy làm cho con người có cảm giác u mê, đờ đẫn, cần phải được tếp thêm sinh khí.







    [​IMG]
    [Chanhkien.org] Vào những năm Đường Thái Tông ở Trung Quốc có một người tên là Lý Thuần Phong, người Ung Châu, tinh thông thiên văn lịch pháp, có thể “dự đoán cát hung” cực kỳ chuẩn xác, từng nhậm chức Thái Sử Lệnh. Đến những năm Càn Nguyên thời Đường Túc Tông, dòng họ ông có một cụ già tên là Lý Tri Vi, rất giỏi thuật chiêm tinh, hễ xem mệnh bói quẻ, dự đoán họa phúc cát hung, thì ắt nói trúng cả ngày, không sai tý nào. Lão Lý sống tại chợ Tây thành Trường An.
    Đương thời có một người họ Lưu, đến kinh thành Trường An muốn nhờ vả cầu quan, nhưng mấy năm không được. Năm nay, họ Lưu thông đồng với bộ lại (cơ quan hành chính cấp bộ thời xưa), dựa vào quan hệ cửa sau, tự cho là có chí thì ắt nên chuyện. Nghe nói lão Lý xem bói cực chuẩn, bèn đến chợ Tây tìm lão. Ông lão bốc một quẻ và mỉm cười, nói: “Năm nay cầu mà không được, sang năm không cầu mà tự được.” Họ Lưu không tin, đợi đến khi bộ lại niêm yết danh sách, quả nhiên không có tên. Sang năm lại đến kinh thành tham gia đợt thi của bộ lại, nhớ lại lời của lão Lý, ông không nhờ vả quan hệ nữa, nhưng không đủ tự tin, lại đến chợ Tây hỏi lão. Lão Lý phán rằng: “Năm ngoái ta đã nói rồi, chức quan của ông tất thành, không phải ngờ vực.” Lưu Sinh hỏi: “Nếu được làm quan, thì nhậm chức tại đâu?” Ông lão phán rằng: “Làm quan tại đất Đại Lương, làm quan rồi hãy đến gặp ta, ta có lời muốn nói.” Khi bộ lại niêm yết danh sách, quả nhiên tuyển chọn Lưu Sinh làm huyện úy phủ Khai Phong. Lưu Sinh kinh ngạc mừng rỡ, xem lão Lý như thần, rồi lại đi gặp lão. Lão Lý phán rằng: “Ông đi làm quan, không cần tiết kiệm, cứ tùy ý thu nạp, ắt không gặp trở ngại. Khi nào sắp mãn nhiệm, ông có thể xin một chức quan, rồi vào kinh thành, ta muốn gieo cho ông một quẻ.”
    Lưu Sinh ghi nhớ lời dặn, đến phủ Khai Phong làm huyện úy. Bởi vì xuất thân từ quan gia, được quan trên yêu mến, nhớ lời của lão Lý, ông thỏa sức vơ vét tiền tài mà không lo nghĩ gì. Quan lại trên dưới đều rất yêu mến ông. Hết nhiệm kỳ, ông tích lũy được tới một nghìn vạn quan tiền, bèn đến gặp quan Thích Sử, xin làm quan áp giải tô thuế đến kinh đô. Khi đến Trường An, ông lại tới gặp lão Lý. Lão phán rằng: “Trong vòng 3 ngày, ông sẽ được thăng quan.” Lưu Sinh không tin, lão phán tiếp: “Tuyệt nhiên không sai, thăng quan cũng tại quận này, đắc được chức quan rồi, ông có thể quay lại gặp ta.” Lưu Sinh rời đi, trong lòng bán tín bán nghi.
    Ngày hôm sau ông áp tải tiền thuế đến nộp vào ngân khố, đến trước ngân khố chỉ thấy ở phía Đông Nam có một chú chim ngũ sắc bay lên trên nóc nhà, màu sắc rực rỡ, hàng trăm chú chim xôn xao, kéo đến che kín cả bầu trời. Lưu Sinh thốt lên: “Thật kỳ lạ! Thật kỳ lạ!” Nhất thời làm kinh động thái giám trong cung, người trên kẻ dưới đều vây quanh. Có người cho rằng: “Đây là chim phượng hoàng!” Chú chim ngũ sắc nghe thấy tiếng ồn ào liền bay đi mất, hàng trăm chú chim cũng dần tản đi. Chuyện đến tai Hoàng đế, Hoàng đế cho rằng đây là điềm đại cát, liền truyền lệnh: “Tìm xem ai là người thấy trước tiên, nếu là quan thì thăng một bậc.”
    Tra ra thì Lưu Sinh là người thấy trước tiên, liền lệnh cho bộ lại, thăng Lưu Sinh làm tri huyện phủ Khai Phong. Quả đúng nội trong 3 ngày, cũng tại châu này. Lưu Sinh phục lão Lý sát đất, lại đến hỏi lão Lý nên làm quan thế nào. Lão phán rằng: “Chỉ cần giống như ngày trước.” Sau khi Lưu Sinh đến nhận chức, vẫn tham lam vơ vét tiền của, lại có được một nghìn vạn quan tiền, sau khi mãn nhiệm tới kinh thành nghe lệnh thuyên chuyển. Ông lại đến gặp lão Lý, thì lão phán rằng: “Lần này phải làm một vị quan liêm chính, một đồng cũng không được nhận. Cẩn trọng! Cẩn trọng!”
    Lưu Sinh quả nhiên được phong làm huyện lệnh huyện Thọ Xuân. Vì đã quen tham lam vơ vét, sao có thể nhẫn nại được? Đảm nhận chức vụ chưa được bao lâu, bản tính lại nổi lên, ông ta bỏ mặc ngoài tai lời của lão Lý. Không lâu sau, quan trên tước chức của ông, tịch thu tài sản vì tội tham ô. Ông lại đến hỏi lão Lý: “Hai lần trước lão chỉ tôi thỏa sức vơ vét, nhưng nay lại bảo không được nhận hối lộ, hai lần đều ứng nghiệm, ấy là duyên cớ làm sao?” Lão Lý phán rằng: “Đời trước ông là một thương nhân lớn, có hai nghìn vạn quan tiền. Ông qua đời tại Biện Châu, số tiền đó lưu lạc tại nhân gian. Giờ ông ra làm quan, vốn là lấy lại tài sản của mình xưa kia, nên không coi là tham ô, và được bình an vô sự. Người dân huyện Thọ Xuân không nợ nần ông, hà cớ gì ông lại tham lam quá mức? Nên giờ ông vẫn tham lam vơ vét cho bằng được, thì coi như làm chuyện xấu rồi.” Lưu Sinh khắc cốt ghi tâm lời lão Lý, rời đi mà vô cùng hổ thẹn.
    Bói toán không phải là mê tín, vốn đã có từ thời xa xưa. Vì cuộc đời một người đã được định sẵn, người tinh thông Chu Dịch, Bát quái có thể bấm tay mà bói ra được. Bói toán tồn tại chính vì muốn bảo cho con người biết rằng nên sống thuận theo tự nhiên. Các việc tốt, việc xấu con người gặp trong đời đều do nhân duyên, không phải chuyện vô duyên vô cớ. Nếu muốn kiếp sau được sống hạnh phúc, kiếp này phải làm nhiều việc thiện tích đức, không làm việc xấu việc ác. Kỳ thực đây là một bộ phận của văn hóa Thần truyền.
     
    Chỉnh sửa cuối: 22/8/13
    Cuong638 and poker1232000 like this.
  10. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    BÁT MÔN THẦN KHÓA

    Giờ Âm Lịch

    Nhiều môn độn toán cần ghép giờ Âm lịch lúc người ta muốn xem mà định quẻ, lấy sai giờ thì quẻ đoán sai cả, đến việc chọn ngày giờ dùng cũng cần nhất là giờ Âm Lịch. Mỗi một ngày đêm là 12 giờ Âm lịch (hiệp đồng hồ). Bắt đầu từ giữa đêm là giờ Tý đến Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Mỗi giờ là hai tiếng đồng hồ. Giờ tháng trước sớm hoặc trễ hơn tháng sau những mười phút, đầu giờ Tý tháng Mười Một là 0 giờ 10 phút, đầu giờ Tý tháng Năm là 1 giờ 10 phút, sớm hoặc trễ cả một tiếng đồng hồ.
    Xem kỹ: Đây là tính theo giờ Việt Nam
    - Tháng Mười Một: đầu giờ Tý: 0 giờ 10 (đầu giờ Ngọ: 12 giờ 10).
    - Tháng Mười và Chạp: đầu giờ Tý: 0 giờ 20 (đầu giờ Ngọ: 12 giờ 20).
    - Tháng Giêng và Chín: đầu giờ Tý: 0 giờ 30 (đầu giờ Ngọ: 12 giờ 30).
    - Tháng Hai và Tám: đầu giờ Tý: 0 giờ 40 (đầu giờ Ngọ: 12 giờ 40).
    - Tháng Ba và Bảy: đầu giờ Tý: 0 giờ 50 (đầu giờ Ngọ: 12 giờ 50).
    - Tháng Tư và Sáu: đầu giờ Tý: 1 giờ 00 (đầu giờ Ngọ: 13 giờ đúng).
    - Tháng Năm: đầu giờ Tý: 1 giờ 10 (đầu giờ Ngọ: 13 giờ 10).
    Bạn tinh ý một chút thì nhớ đặng khỏi cần dùng đến sách.

    Từ tháng Mười Một thuận đến tháng Năm, mỗi tháng lên 10 phút và từ tháng năm đến tháng Mười Một, mỗi tháng sụt xuống 10 phút.

    Bạn khởi trên tay tháng Mười Một tại Tý 0 giờ 10, tháng Chạp tại Sửu 0 giờ 20 đến tháng Năm tại Ngọ cũng 1 giờ 10. Từ tháng Năm đến tháng Mười Một sau, mỗi tháng cứ sụt xuống 10 phút là đúng.
    ĐÂY LÀ BẢN GHI GIỜ ÂM LỊCH VỚI GIỜ VIỆT NAM

    THÁNG MƯỜI MỘT:
    - Tý: 00 giờ 10.
    - Sửu: 02 giờ 10.
    - Dần: 04 giờ 10.
    - Mẹo: 06 giờ 10
    - Thìn: 08 giờ 10.
    - Tỵ: 10 giờ 10.
    - Ngọ: 12 giờ 10.
    - Mùi: 14 giờ 10.
    - Thân: 16 giờ 1
    - Dậu: 18 giờ 10.
    - Tuất: 20 giờ 10.
    - Hợi: 22 giờ 10.
    THÁNG CHẠP:
    - Tý: 00 giờ 20.
    - Sửu: 02 giờ 20.
    - Dần: 04 giờ 20.
    - Mẹo: 06 giờ 20.
    - Thìn: 08 giờ 20.
    - Tỵ: 10 giờ 20.
    - Ngọ: 12 giờ 20.
    - Mùi: 14 giờ 20.
    - Thân: 16 giờ 20.
    - Dậu: 18 giờ 20.
    - Tuất: 20 giờ 20.
    - Hợi: 22 giờ 20.
    THÁNG GIÊNG:
    - Tý: 00 giờ 30.
    - Sửu: 02 giờ 30.
    - Dần: 04 giờ 30.
    - Mẹo: 06 giờ 30.
    - Thìn: 08 giờ 30.
    - Tỵ: 10 giờ 30.
    - Ngọ: 12 giờ 30.
    - Mùi: 14 giờ 30.
    - Thân: 16 giờ 30.
    - Dậu: 18 giờ 30.
    - Tuất: 20 giờ 30.
    - Hợi: 22 giờ 30.
    THÁNG HAI:
    - Tý: 00 giờ 40.
    - Sửu: 02 giờ 40.
    - Dần: 04 giờ 40.
    - Mẹo: 06 giờ 40.
    - Thìn: 08 giờ 4o.
    - Tỵ: 10 giờ 40.
    - Ngọ: 12 giờ 40.
    - Mùi: 14 giờ 40.
    - Thân: 16 giờ 40.
    - Dậu: 18 giờ 40.
    - Tuất: 20 giờ 40.
    - Hợi: 22 giờ 40.
    THÁNG BA:
    - Tý: 00 giờ 50.
    - Sửu: 02 giờ 50.
    - Dần: 04 giờ 50.
    - Mẹo: 06 giờ 50.
    - Thìn: 08 giờ 50.
    - Tỵ: 10 giờ 50.
    - Ngọ: 12 giờ 50.
    - Mùi: 14 giờ 50.
    - Thân: 16 giờ 50.
    - Dậu: 18 giờ 50.
    - Tuất: 20 giờ 50.
    - Hợi: 22 giờ 50.
    THÁNG TƯ:
    - Tý: 01 giờ 00.
    - Sửu: 03 giờ 00.
    - Dần: 05 giờ 00.
    - Mẹo: 07 giờ 00.
    - Thìn: 09 giờ 00.
    - Tỵ: 11 giờ 00.
    - Ngọ: 13 giờ 00.
    - Mùi: 15 giờ 00.
    - Thân: 17 giờ 00.
    - Dậu: 19 giờ 00.
    - Tuất: 21 giờ 00.
    - Hợi: 23 giờ 00.
    THÁNG NĂM:
    - Tý: 01 giờ 10.
    - Sửu: 03 giờ 10.
    - Dần: 05 giờ 10.
    - Mẹo: 07 giờ 20.
    - Thìn: 09 giờ 10.
    - Tỵ: 11 giờ 10.
    - Ngọ: 13 giờ 10.
    - Mùi: 15 giờ 10.
    - Thân: 17 giờ 10.
    - Dậu: 19 giờ 10.
    - Tuất: 21 giờ 10.
    - Hợi: 23 giờ 10.
    THÁNG SÁU:
    - Tý: 01 giờ 00.
    - Sửu: 03 giờ 00.
    - Dần: 05 giờ 00.
    - Mẹo: 07 giờ 00.
    - Thìn: 09 giờ 00.
    - Tỵ: 11 giờ 00.
    - Ngọ: 13 giờ 00.
    - Mùi: 15 giờ 00.
    - Thân: 17 giờ 00.
    - Dậu: 19 giờ 00.
    - Tuất: 21 giờ 00.
    - Hợi: 23 giờ 00.
    THÁNG BẢY:
    - Tý: 00 giờ 50.
    - Sửu: 02 giờ 50.
    - Dần: 04 giờ 50.
    - Mẹo: 06 giờ 50.
    - Thìn: 08 giờ 50.
    - Tỵ: 10 giờ 50.
    - Ngọ: 12 giờ 50.
    - Mùi: 14 giờ 50.
    - Thân: 16 giờ 50.
    - Dậu: 18 giờ 50.
    - Tuất: 20 giờ 50.
    - Hợi: 22 giờ 50.
    THÁNG TÁM:
    - Tý: 00 giờ 40.
    - Sửu: 02 giờ 40.
    - Dần: 04 giờ 40.
    - Mẹo: 06 giờ 40.
    - Thìn: 08 giờ 40.
    - Tỵ: 10 giờ 40.
    - Ngọ: 12 giờ 40.
    - Mùi: 14 giờ 40.
    - Thân: 16 giờ 40.
    - Dậu: 18 giờ 40.
    - Tuất: 20 giờ 40.
    - Hợi: 22 giờ 40.
    THÁNG CHÍN:
    - Tý: 00 giờ 30.
    - Sửu: 02 giờ 30.
    - Dần: 04 giờ 30.
    - Mẹo: 06 giờ 30.
    - Thìn: 08 giờ 30.
    - Tỵ: 10 giờ 30.
    - Ngọ: 12 giờ 30.
    - Mùi: 14 giờ 30.
    - Thân: 16 giờ 30.
    - Dậu: 18 giờ 30.
    - Tuất: 20 giờ 30.
    - Hợi: 22 giờ 30.
    THÁNG MƯỜI:
    - Tý: 00 giờ 20.
    - Sửu: 02 giờ 20.
    - Dần: 04 giờ 20.
    - Mẹo: 06 giờ 20.
    - Thìn: 08 giờ 20.
    - Tỵ: 10 giờ 20.
    - Ngọ: 12 giờ 20.
    - Mùi: 14 giờ 20.
    - Thân: 16 giờ 20.
    - Dậu: 18 giờ 20.
    - Tuất: 20 giờ 20.
    - Hợi: 22 giờ 20.
    Giả như tháng Mười Một đầu giờ Tý 00 giờ 10 đến 2 giờ 09, đầu giờ Sửu 02 giờ 10 đến 04 giờ 09).

    Và 00 giờ tức 12 giờ đêm, hoặc nói 13 giờ tức là 01 giờ xế.

    Nói như vậy khỏi lắc nhắc là 12 giờ đêm hay là 12 giờ trưa. Khỏi nói 01 giờ đêm hay 01 giờ trưa.
    Bát Môn Thần Khóa - Kim Oanh Ký
    NGŨ HÀNH
    Ngũ Hành Tương Sanh:
    Năm hành sanh nhau: Kim sanh Thủy, Thủy sanh Mộc, Mộc sanh Hỏa, Hỏa sanh Thổ, Thổ sanh Kim.

    Vì lẽ này: Loại Kim rĩ ra nước gọi là Kim sanh Thủy. Có nước êm mát mọc lên cây cỏ gọi là Thủy sanh Mộc. Cây kéo ra lửa gọi là Mộc sanh Hỏa. Lửa đốt các vật hườn đất gọi là Hỏa sanh Thổ. Lòng đất chứa các laọi Kim gọi là Thổ sanh Kim. Nhớ kỹ, chớ nói khác là sai.
    Ngũ Hành Tương Khắc:
    Năm hành khắc kỵ nhau: Kim khắc Mộc, bởi búa rìu đốn chết cây. Mộc khắc Thổ, bởi cây cỏ mọc xấu đất. Thổ khắc Thủy bởi đất ngăn được nước. Thủy khắc Hỏa, bởi nước dập tắt lửa. Hỏa khắc Kim, bởi lửa nấu cháy các loại Kim. Và cũng chớ nói ngược Hỏa khắc Thủy là sai v.v...
    NGŨ HÀNH VƯỢNG TƯỚNG

    Đương sanh giả vượng. Ngã sanh giả tướng. Sanh ngã giả hưu, Ngã khắc giả tử. Khắc ngã giả tù.

    Tỷ như mùa Xuân thuộc Mộc xem gặp quẻ Mộc gọi là đương sanh giả vượng là tốt. Mùa Hạ thuộc Hỏa, xem gặp quẻ Mộc, tức là Mộc sanh Hỏa gọi là ngã sanh giả tướng, tốt. Mùa Thu thuộc Kim gặp quẻ Mộc, tức là Kim khắc Mộc gọi là khắc ngã giả tù, xấu. Mùa Đông thuộc Thủy gặp quẻ Mộc, tức Thủy sanh Mộc gọi là sanh ngã giả hưu, phải trễ nải.

    Tứ quí là tháng Ba, Sáu, Chín và Chạp thuộc Thổ gặp quẻ Mộc, tức Mộc khắc Thổ gọi là ngã khắc giả tử, xấu. Các quẻ hành khác do theo đó mà luận.
    BỐM MÙA VƯỢNG TƯỚNG
    (Thêm rộng nghĩa)​

    Mùa Xuân: tháng Giêng, Hai thuộc Mộc: thì hành Mộc vượng, Hỏa tướng, Thủy hưu, Kim tù, Thổ tử.

    Mùa Hạ: tháng Tư, Năm thuộc Hỏa: thì hành Hỏa vượng, Thổ tướng, Mộc hưu. Thủy tù, Kim tử.

    Mùa Thu: tháng Bảy, Tám thuộc Kim: thì hành Kim vượng, Thủy tướng, Thổ hưu, Hỏa tù, Mộc tử.

    Mùa Đông: tháng Mười, Mười Một thuộc Thủy: thì hành Thủy vượng, Mộc tướng, Kim hưu, Thổ tù, Hỏa tử.

    Tứ quí: tháng Ba, Sáu, Chín, Chạp thuộc Thổ: thì hành Thổ vượng, Kim tướng, Hỏa hưu, Mộc tù, Thủy tử.

    Được vượng tướng tốt, hưu tầm thường, tử tù xấu.
    MƯỜI THIÊN CAN THUỘC NGŨ HÀNH
    - Giáp Ất thuộc Mộc.
    - Bính Đinh thuộc Hỏa.
    - Mồ Kỷ thuộc Thổ.
    - Canh Tân thuộc Kim.
    - Nhâm Quý thuôc Thủy.
    Đọc xuôi: Giáp Ất Bính Đinh Mồ Kỳ Canh Tân Nhâm Quý.
    MƯỜI HAI ĐỊA CHI THUỘC NGŨ HÀNH
    - Hợi Tý thuộc Thủy.
    - Dần Mẹo thuộc Mộc.
    - Tỵ Ngọ thuộc Hỏa.
    - Thân Dậu thuộc Kim
    - Thìn Tuất Sửu Mùi thuộc Thổ.
    Đọc xuôi: Tý Sửu Dần Mẹo Thìn Tỵ Ngọ Mùi Thân Dậu Tuất Hợi.
    TAM HẠP
    - Hợi Mẹo Mùi. - Tỵ Dậu Sửu. - Thân Tý Thìn. - Dần Ngọ Tuất.
    LỤC HẠP
    Hạp: - Tý Sửu. - Dần Hợi. - Mẹo Tuất. - Thìn Dậu. - Tỵ Thân. - Ngọ Mùi. Là lục hạp.
    TỨ HÀNH XUNG
    Xung: - Tý Ngọ Mẹo Dậu. - Thìn Tuất Sửu Mùi. - Dần Thân Tỵ Hợi.
    LỤC XUNG
    Xung: Tý Ngọ. - Sửu Mùi. - Dần Thân. - Mẹo Dậu. - Thìn Tuất. - Tỵ Hợi. Là lục xung.
    LỤC HẠI
    Hại: Tý Mùi. - Sửu Ngọ. - Dần Tỵ. - Mẹo Thìn. - Hợi Thân. - Tuất Dậu. Là lục hại.
    BÁT QUÁI
    Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
    BÁT TƯỢNG BÁT QUÁI
    ____
    ____
    ____
    Càn tam liên. Tam liên là ba vạch liền, thuộc Kim hướng Tây Bắc Tuất Hợi. Cai quản tháng Chín, Mười sắc trắng, thuộc số 6 gọi là lục Càn.
    __ __
    _____
    __ __
    Khảm trung mãn. Trung mãn là vạch giữa liền, thuộc Thủy hướng chánh Bác Tý. Cai quản tháng Mười Một, sắc đen, thuộc số 1 gọi là nhứt Khảm.
    _____
    __ __
    _____
    Cấn phúc quản. Phúc quản là giống hình chậu úp, thuộc Thổ hướng Đông Bắc Sửu Dần. Cai quản tháng Chạp, Giêng, sắc vàng, thuộc số 8 gọi là bát Cấn.
    __ __
    __ __
    _____
    Chấn ngưởng bồn. Ngưởng bồn là tượng hình chậu ngửa, thuộc Mộc hướng chánh Đông Mẹo. Cai quản tháng Hai, sắc xanh, thuộc số 3 gọi là tam Chấn.
    _____
    _____
    __ __
    Tốn hạ đoạn. Hạ đoạn là hào dưới đứt đoạn, thuộc Mộc hướng Đông Nam Thìn Tỵ. Cai quản tháng Ba, Tư, sắc xanh, thuộc số4 gọi là tứ Tốn.
    _____
    __ __
    _____
    Ly trung hư. Trung hư là hào giữa đứt đoạn, thuộc Hỏa hướng chánh Nam Ngọ. Cai quản tháng Năm, thuộc số 9 gọi là cửu Ly.
    __ __
    __ __
    __ __
    Khôn lục đoạn. Lục đoạn là sáu hào đứt đoạn, thuộc Thổ hướng Tây Nam Mùi Thân. Cai quản tháng Sáu, Bảy, sắc huỳnh, thuộc số 2 gọi là nhì Khôn.
    __ __
    _____
    _____
    Đoài thượng khuyết. Thượng khuyết là trên đứt đoạn, thuộc Kim hướng chánh Tây Dậu. Cai quản tháng Tám, sắc trắng, thuộc số 7 gọi là thất Đoài.

    Bài này học thuộc kỹ hay dùng đến.
    CỬU CUNG BÁT QUÁI
    Nhứt Khảm, nhì Khôn, tam Chấn, Tứ Tốn, ngũ Trung, lục Càn, thất Đoài, bát Cấn, cửu Ly, là số của chín cung.
    BÁT MÔN ĐẠI ĐỘN LUẬN

    Bát môn vốn là Bát quái biến ra khởi thuận hành mỗi cung một vị, tại Khảm thuận hành là: Hưu, sanh, thương, đổ, kiển, tử, kinh, khai.

    Hưu tại Khảm, Sanh tại Cấn, Thương tại Chấn, Đổ tại Tốn, Kiển tại Ly, Tử tại Khôn. Kinh tại Đoài, Khai tại Càn.
    Cách Độn Quẻ:
    Tháng Giêng khởi tại Cấn, tháng Hai, Ba tại Chấn, tháng Tư tại Tốn, tháng Năm, Sáu tại Ly, tháng Bảy tại Khôn, tháng Tám, Chín tại Đoài, tháng Mười tại Càn, tháng Mười Một, Chạp tại Khảm.

    Xem kỹ các tháng: Giêng, Tư, Bảy, Mười mỗi tháng chiếm một cung. Còn bốn cung nọ mỗi cung chiếm hai tháng.

    Vậy là tháng nào cung nấy nhất định, trên tháng khởi ngày, trên ngày khởi giờ Tý đến giờ khách đến xem cửa nào lấy cửa đó đoán quẻ.

    Giả như ngày mùng 8 tháng giêng, giờ Thân có khách lại coi quẻ. Tháng Giêng tại Cấn, trên tháng khởi ngày là ngày mùng một tại Cấn, thuận hành mỗi cung, mùng hai tại Chấn, mùng ba tại Tốn... đến mùng tám tại Khảm. Trên ngày khởi giờ là giờ Tý tại Khảm, giờ Sửu tại Cấn, giờ Dần tại Chấn... đến giờ Thân tại Khảm là cửa Hưu, lấy quẻ hưu mà đoán.

    Nếu họ cầu công danh thì đoán quẻ Hưu nơi bài Công Danh, bằng họ xem cầu tài thì đoán quẻ Hưu tại bài Cầu Tài là đúng.
    [​IMG]

    BÁT MÔN PHÚ CHƯỞNG

    Luận từ Thái Cực sơ phân,
    Âm dương nhị khí xoay vần lưỡng nghi.
    Lập thành Bát quái định vi,
    Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Không Đoài.
    Mới sanh từ thử dĩ lai,
    Tỏ đặng lòng trời thông sự quốc gia.
    Lập làm Bát quái truyền ra,
    Sửa sang việc nước, việc nhà cho an.
    Kiết hung mỗi sự, mỗi tàng,
    Ngũ hành phân xét liệu toan tỏ bày.
    Chỉ xem tám vị ngón tay,
    Biết lẽ trời đất chuyển xoay dữ lành.
    Màn chi Quỉ Cốc tiên sanh,
    Màn chi đại định, võ kinh kỳ cầm.
    Màn chi Đại độn Lục nhâm,
    Màn chi huyền mạng nham nhâm toàn đồ.
    Màn chi Du Lỗi nhị đô,
    Màn chi lịch phụ thông thơ pháp mầu.
    Việc đời đại sự đổi thay,
    Rủi may đâu dễ nào ai biết tình.
    Đời Đường Lý Tịnh tiên sinh,
    Đại Hớn Gia Cát Khổng Minh dạy truyền.
    Sanh môn tại Cấn tháng Giêng,
    Cai nội danh gọi đặt lên cung Dần.
    Tháng Hai, tháng Ba mẹo cung,
    Thương Môn tại Chấn là trung nội tù.
    Tháng Tư thuận tiến một ngôi,
    Đổ môn cung Tốn vậy thời khởi đi.
    Tháng Năm, tháng Sáu thuộc Ly,
    Kiển môn tại Ngọ vậy thì cho thông.
    Tháng Bảy thì khởi tại Khôn,
    Tử môn là hiệu cho thông cai ngoài.
    Tháng Tám, tháng Chín khơi Đoài,
    Kinh môn tháng ấy trong ngoài phân minh.
    Tháng Mười tại Càn đinh ninh,
    Khai môn đó gọi là nơi Kim ngoài.
    Tháng Một, tháng Chạp vừa hai,
    Khởi ngay tại Khảm thiệt bài Hưu môn.
    Tám cửa tìm khởi đã xong,
    Ngày giờ cho biết kẻo còn hồ nghi.
    Tháng nào mùng một khởi đi,
    Ngày đâu giờ đó tức thì cứ tra.
    Tý Ngọ Mẹo Dậu vậy là,
    Ấy thật quẻ nhứt chẳng ngoa an bài.
    Thìn Tuất Sửu Mùi quẻ hai,
    Bán hung, bán kiết vậy thời kể ra.
    Dần Thân Tỵ Hợi quẻ ba,
    Muôn việc chẳng hòa chỉnh thiệt xấu thay.​

    ... Giả như: chánh ngoạt, thập lục nhật, Thân thời hữu nhơn lại chiếm sự, ngô điểm thỉ tất... Tài kiến nam nhơn lai chiếm mổ sự ư thử thời. Ngô thị như tiền, chiếm thập lục nhựt, Thân thời tại Khảm, tắc ngô điểm tại Khảm, nghịch tầm ngũ dương tại Ly tức dĩ Kiển môn suy chi. Nữ tấm tam âm thời điểm nhất nhì tam, tức đoạn Kiển, Tử, Kinh, dĩ Kinh nghi dụng... (Tạm dịch: Trường hợp có ba người đến cùng giờ xem quẻ. Như tháng Giêng, ngày 16 giờ Thân. Người nào cũng điểm theo thường lệ, khởi tháng Giêng tại Sanh, trên tháng khởi ngày là điểm mùng một tại Sanh, mùng hai tại Thương, mùng Ba tại Đổ... tiếp đến mười sáu tại Hưu. Trên ngày khởi giờ là điểm giờ Tý tại Hưu, Sửu tại Sanh, Dậu tại Thương... đến giờ Thân tại Hưu, dùng cửa hưu mà đoán.

    Kế đến lượt xem tiếp quẻ nhì cho đàn ông. Vẫn điểm theo ngày tháng giờ như trước là quẻ thuộc cửa Hưu, nhưng quẻ sau xem cho đàn ông thì phải nghịch tầm ngũ dương là từ cửa Hưu đếm ngược lại đến cung thứ năm nhằm cửa Kiển, dùng quẻ Kiển mà đoán.

    Lại xem tiếp một quẻ cho đàn bà, cũng toán như trên là dùng cửa Kiển của quẻ trước, xem cho đàn bà thì tấn tam âm là tiến dụng ba cung, đếm Kiển là một, Tử là hai, Kinh là ba, dùng Kinh môn mà đoán...

    Nhứt Khảm, nhì Khôn, tam Chấn tứ Chấn, ngủ Trung, lục Càn, thất Đoài, bát Cấn, cửu Ly...
    - Càn vi trưởng phụ, Khảm vi trung trưởng. Cấn vi tiểu nam.
    - Chấn vi trưởng nam. Tốn vi trưởng nữ, Ly vi trung nữ.
    - Khôn vi trưởng nữ, Đoài vi tiểu nữ.
    - Nhứt lý vi thập bộ. Thập lý vi bá bộ.
    Giả như: Càn thị Khai môn soát lục đoạn, lục bộ. Cận tắc đoán bộ, viễn tắc đoán lý, kỳ dư phóng thử.

    Tạm dịch: Có người bị mất trộm nhờ xem của đi gần xa. Ví dụ toán gặp quẻ cửa Khai. Khai tại Càn cung là quẻ lục Càn, gần là sáu bước, sáu dặm (một dặm mười bước), xa thì sáu trăm thước hoặc sáu cây số.

    Hỏi về phía nào? Càn tam liên Tây Bắc Tuất Hợi là của đi về hướng Tây Bắc.

    Hỏi ai chủ mưu? Càn vi trưởng phụ. Cứ quẻ Càn mà đoán. Hỏi tầm kẻ gian được không? Giả như chiếm Bổ Tróc (bắt kẻ gian nhơn), giao thương các loại. Dĩ nhựt vi nhơn, dĩ thời vi tặc. Nhựt khắc thời tức đắc. Lấy ngày làm chủ, lấy giờ làm kẻ gian. Ngày khắc giờ thì đặng. Ví dụ quẻ xem ngày Tỵ hay Ngọ thuộc Hỏa, giờ Thân thuộc Kim, Hỏa khắc Kim tức là ngày khắc giờ, đặng tốt vậy.

    Hoặc hỏi lâu mau sẽ tìm đặng? Nhựt vi nội, thời vi ngoại, ngoại khắc nội tắc tốc. Nội khắc ngoại tắc trì...

    Vượng tướng tắc tốc, hưu tù tắc trì. Giờ khắc ngày thì mau, ngày khắc giờ thì chậm, quẻ vượng tướng thì mau, hưu tù ắt chậm.
    Bát Môn Thần Khóa - Kim Oanh Ký
    CHIẾM CÔNG DANH: HÔN NHÂN
    (Cưới gả)​
    Hưu tắc tiền sum, hậu tắc ly,
    Sanh tăng phú quý, khánh lộc tùy.
    Thương tiềm chiếm hậu hòa hiệp,
    Đổ tắc nam Tần, nữ Việt bi...
    Kiển tắc trung ngoạt phân phi cách,
    Tử lai bán lộ biệt mông thùy.
    Kỉnh phòng cô độc sầu tan sự,
    Khai phát vinh hoa chỉ lưỡng thì.
    CHIẾM CẦU TÀI
    (Đi buôn)​
    Hưu tất cầu tài bất kiến tài,
    Sanh du vô vọng đắc tương lai.
    Thương đa khẩu thiệt tất lai thiểu,
    Đổ trì danh lợi nể phản hài.
    Kiến tắc bán đồ (giữa đường) phùng đại lợi,
    Tử phùng hớn xứ khủng bi tai.
    Kinh cấp khúc sàng nhi chỉ phúc,
    Khai kỳ hân hoan lợi tấn tài.
    CHIẾM HỮU NHƯ HÀ SỰ
    (Coi chuyện làm thế nào?)​
    Bằng ai cầu sự chiếm lời,
    Hưu môn cửa ấy việc thời còn lâu.
    Sanh môn cửa ấy tốt mầu,
    Tự gót những đầu toàn sự tốt thay.
    Thương môn Hợi Sửu ngày rày,
    Đổ môn cách trở lầm thay nhiều đàng.
    Kiển môn cửa ấy gian nan,
    Tử môn trăm việc mưu toan chẳng lành.
    Kinh môn làm chỉnh khó mình,
    Sự đắc âu lẽ đinh ninh lo phiền.
    Khai môn việc ấy phải nên,
    Chiếm được quẻ ấy vẹn tuyền thủy chung.
    VIỄN HÀNH HÀ NHƯ
    (Coi người đi xa)​
    Này là cầu sự đã cùng,
    Kẻ còn hành viễn kiết hung chưa tàng (tường).
    Hưu môn còn trở nhiều đàng,
    Sanh môn vô sự bình an trở về.
    Thương môn còn trở nhiều bề,
    Đổ môn gặp phải gian nguy giữa đàng.
    Kiển môn lòng đến vội vàng,
    Tử môn còn biệt xa đàng chẳng sai.
    Kinh môn tin tức chưa tường,
    Khai môn về đến quê hương gần nhà.
    CHIẾM THẤT VẬT
    Viễn hành sự ấy đã qua,
    Còn phương thất vật kể ra tức thì.
    Hưu môn của ấy mất đi,
    Sanh môn của mất tại Ly khỏi nhà.
    Thương môn của mất chẳng ngoa,
    Trông tin truyền giữ thật là uổng công.
    Đổ môn tin tức chẳng thông,
    Của sau mới đặng thửa trong lộ đồ.
    Kiển môn của mất đừng lo,
    Kẻ gian nó sợ trả cho tận mình.
    Tử môn của mất vắng tanh,
    Tìm đâu ra đặng thôi đành bỏ đi.
    Kinh môn tầm về phương Tây,
    Người ngoài đã lấy tầm đây chẳng còn.
    Khai môn cửa ấy vững lòng,
    Của sau gặp gỡ luận bàn mà ra.
    CHIẾM GIAI NHÂN
    (Coi gái đẹp)​
    Mấy lời thất vật đã qua,
    Còn phương xuân sắc xem ra quẻ gì?
    Bằng xem du hí nữ nhi,
    Biết chân lành dữ nó chê? Nó dùng?
    Nữ nhi là nhựt nguyệt song,
    Hưu môn còn trở chớ dùng, chớ toan.
    Sanh môn thì đặng hiệp loan,
    Thương môn thì khá lo toan mặc lòng.
    Đổ môn lòng nó sạch không
    Kiển môn tất đặng má hồng phủ phê.
    Tử môn ta chớ nên đi,
    Ắt là có sự gian nguy đến mình.
    Kinh môn xạ liệt đinh ninh,
    Khai môn thì đặng yến anh giao hòa.
    CHIẾM NÀNG CÓ CHỒNG CHĂNG?
    Này đoạn nàng gả ở nhà,
    Chồng con đã có hay là nằm không?
    Hưu môn nó đã có chồng,
    Công tư, thầy thợ nào không đâu là.
    Sanh môn chồng nó ở nhà,
    Điền viên canh chưởng vậy mà chẳng không.
    Thương môn đã ba đời chồng,
    Hiện giờ ả lại nằm không một mình.
    Đổ môn nàng hãy còn trinh,
    Kiển môn chồng ả bạc tình phụ vong.
    Tử môn ả chẳng lấy chồng,
    Kinh môn nàng hỡi ở không vậy mà.
    Khai môn chồng ả phú gia,
    Là người chức phận vinh hoa sang giàu.
    CHIẾM BỊNH
    Này đoạn chiếm bệnh càng mầu,
    Hưu môn đoán thác lòng sầu thiết tha.
    Sanh môn chẳng thác đâu là,
    Thương môn mắc nạn nào qua bệnh này.
    Đổ môn bệnh chẳng thác rày,
    Kiển môn bệnh ấy nay mai an lành.
    Tử môn khó kiếm trường sanh,
    Dầu ông Biển Thước cứu mình chẳng qua.
    Kinh môn bệnh trong nguy đa,
    Mà gặp người cứu cũng qua bệnh này.
    Khai môn cửa ấy tốt thay,
    Bệnh một đôi ngày thang thuốc lại an.
    BỔ TRÓC
    (Coi bắt gian phi)​
    Bằng xem tìm bắt kẻ gian,
    Hưu môn khó thể kiện toàn vẹn tinh.
    Sanh môn cửa ấy dễ tìm,
    Người gian bắt đặng quả y như lời.
    Thương môn tin đã thiệt nơi,
    Dầu cho muốn bắt cậy người mới nên.
    Đổ môn không kiếm nghe tin,
    Kiển môn tìm đặng ngay thành thiệt hay.
    Tử môn nào có ra gì,
    Gian nhơn bắt thác bằng nay không còn.
    Kinh môn nó cách nước non,
    Ví dầu tìm kiếm nhọc lòng uổng công.
    Khai môn ta chớ trông mong,
    Tin đưa thất thiệt nhọc lòng hỏi han.
    CHIẾM DU HÝ THA NHƠN
    (Coi đến nhà người ta)​
    Ấy phương bổ tróc đã an,
    Còn phương du hý lại toan tức thời.
    Bằng ta muốn đến nhà người,
    Hoặc là sầu tủi, vui cười làm sao?
    Hưu môn đi chẳng gặp nhau,
    Chủ nhân đi khỏi ở đâu chưa về.
    Sanh môn vui vẻ nhiều bề,
    Đi thì gặp mặt nào hề lại không.
    Thương môn chủ đã đi rong,
    Dầu ta có đến cũng không có nhà.
    Đổ môn đi gặp giao ca,
    Kiển môn chủ lại ở nhà vừa đi.
    Tử môn chủ mắc gian nguy,
    Bận lo gia sự chớ đi mà sầu.
    Kinh môn chủ không đi đâu,
    Khai môn gặp mặt chào nhau vui mừng.
    CHIẾM CHIẾN ĐẤU
    Còn phương chiến đấu nên phân,
    Hưu môn đánh giặc mười phần mạnh thay.
    Sanh môn đắc thắng ngày rày,
    Thương môn đánh giặc khổ thay lụy mình.
    Đổ môn chớ khá xuất binh,
    Kiển môm chớ đánh, bế thành mới nên.
    Tử môn bất lợi đôi bên,
    Ví dầu xuất trận không tuyền cánh quân.
    Kinh môn giặc mạnh bội phần,
    Ta đừng xuất trận tướng quân khốn rày.
    Khai môn giờ ấy tốt thay,
    Đem binh phá trận ngày rày thành công.
    Sự đời chép để khôn cùng,
    Lưu cho hậu thế để dùng nghiệm xem.
    CHIẾM THẤT VẬT ĐẮC PHỈ
    (Coi của kiếm đặng chăng?)​
    Hưu: Nam nhân thủ đắc.
    Sanh môn bất đắc tín thiệt.
    Thương: Lưu truyền nam nhân bất đắc.
    Đổ: Trì đắc ngộ tín nữ nhơn bán lộ.
    Kiển: Nan tầm, lão phụ (bà lão).
    Tử: Nam nữ đồng đạo tầm bất đắc.
    Kinh: Hữu tín truyền đắc nữ nhân tại viễn phương.
    Khai: Bất đắc, lão nhơn.
    CHIẾM DẠ HỮU ĐẠO TẶC
    (Coi đêm sẽ có trộm cắp chăng?)​
    Hưu: Kỵ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi nhật. Tý, Ngọ thời.
    Sanh: Kỵ Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu nhật, Đông Bắc phương Hợi, Tý thời.
    Thương: Kỵ Dần, Thân, Tỵ, Hợi nhật, Đông Nam phương Hợi, Tý thời.
    Đổ: Kỵ Mẹo, Dậu, Hợi, Tỵ nhật, Đông phương hữu đạo tặc Hợi Tý thời.
    Kiển: Kỵ Tý, Ngọ nhật, Nam phương Tý, Sửu thời.
    Tử môn: tắc vô gian đạo. Bất đắc.
    Kinh môn: Kỵ Mẹo, Dậu nhật. Tý, Thìn thời.
    Khai môn: Kỵ Tuất, Hợi nhật, Bắc phương Tý, Thìn thời.
    CHIẾM THẤT VẬT HÀ PHƯƠNG
    Hưu: Chánh Bắc phương, cận giang hà chi sở.
    Sanh: Đông Bắc phương tại thương cơ chi sở.
    Thương: Chánh Đông phương tại viên hậu lâm lộc chi sở.
    Đổ: Đông Nam phương tại dã khoáng thảo khu chi sở.
    Kiển: Chánh Nam phương tại lư gian, văn chương chi thất.
    Tử: Tây Nam phương tại tang phục tật bệnh chi thất.
    Kinh: Chánh Tây tại từ miếu phần mộ chi sở.
    Khai Tây Bắc phương tại quờn chức y tạ.
    CHIẾM BỔ ĐẠO ĐẮC PHỈ
    (Coi bắt kẻ trộm)​
    Hưu môn: Trực gian.
    Sanh môn: Tốc đắc.
    Thương môn: Đắc hỷ tín.
    Đổ môn: Đào khứ.
    Kiển môn: Tốc đắc.
    Tử môn: Bất kiến.
    Kinh môn:... Khai môn: Tái hồi vô công.
    CHIẾM LỤC SÚC THẤT TẦM ĐẮC PHỈ
    (Coi mất thú vật tìm đặng không?)​
    Hưu tốc đắc tại chánh Bắc.
    Sanh trì bất đắc tại Đông Bắc.
    Thương bất kiến chánh Đông.
    Đổ tốc đắc tại Đông Nam.
    Kiển đắc tại Nam phương.
    Tử vật dĩ tử tại Tây nam phương (chết).
    Kinh đắc tại Tây Nam phương.
    Khai khứ Tây Nam kiết.
    CHIẾM THẤT HÀ VẬT
    (Coi mất món gì?)​
    Hưu kim ngân tài vật.
    Sanh kim ngân đồng vật.
    Thương ngưu mã tịnh sanh vật.
    Đổ tơ lụa đồng vật.
    Kiển trung mao kinh thơ vật.
    Tử bố ngạn ngũ cốc vật.
    Kinh ngưu mã kim vật.
    Khai châu bảo tài vật.
    CHIẾM THẤT VẬT NAM NỮ HÀ NHƠN
    (Bài này ngoài Bát Môn)​
    - Càn, Khảm, Cấn, Chấn, thị nam tử.
    - Tốn, Ly, Khôn, Đoài, thị nữ nhi.
    Ngày Tý mất của là người đàn ông, không lớn không nhỏ, lấy về phía Nam, giờ lưu sang phương Bắc gần nhà, tìm ngay còn được, qua 17 ngày thì mất.

    Ngày Sửu mất của là đứa con trai cao lớn mạnh dạn, mặt đỏ da đen tóc ngắn lấy đem dấu ở phía Tây, kíp tầm bắt đặng, lâu thì mất.

    Ngày Dần mất của là người đàn ông không cao, không thấp, da ngâm ngâm không đen không trắng, mắt đỏ tóc ngắn, lấy dấu phía Đông Bắc, cần kíp theo dõi buộc thề nguyền, hăm dọa thì đặng.

    Ngày Mẹo mất của là người đàn ông mặt đỏ, tóc ngắn, da đen, không mập không ốm, lấy dấu phía Đông Bắc gần gốc cây, không sâu không cạn, có người sẽ cho biết, tìm lâu thì gặp.

    Ngày Thìn mất của là đứa con mét ốm cao đứa, tóc xanh, xúi đứa con gái lấy dấu trên cây rồi đem đi xa, bắt thề ra mối.

    Ngày Tỵ mất của là con gái ở trong nhà, tầm thước mặt gầy, tóc ngắn, lấy dấu dưới cội cây phía Tây, chuyện đổ vỡ nó lại dời đi phía Đông Nam gần nhà, tìm thì gặp.

    Ngày Ngọ mất của là đứa con trai mưu sự với đứa con gái lấy dấu nơi phía Đông, rồi lại dời sang phía Tây Bắc, hình nó mặt đỏ tóc ngắn, không ốm không mập, cậy người ta dỗ nó, trễ quá hạn bảy ngày thì mất.

    Ngày Mùi mất của là đứa con gái lấy dấu phía Tây Nam, bị động ổ, nó lại dời về phía Nam, hình dáng đứa tóc hoe, mặt đỏ, tìm tòi rất khó.

    Ngày Thân mất của là bị người con trai lấy dấu bên phía Tây, cậy người đàn bà dỗ hỏi đặng, đứa ấy mặt sáng, tóc ngắn và lợi khẩu.

    Ngày Dậu mất của là đứa thiếu nữ lấy dấu phía Nam hoặc phía Bắc gần nước, đứa dong dõng, không đen không trắng, không mập không ốm, mặt rộng, tóc ngắn, theo dõi tìm kỹ thì ra.

    Ngày Tuất mất của là con gái bày mưu cho người con trai lấy dấu phía bắc. Người lấy lùn có ngang, không đen không trắng, tìm mau thì còn, diên trì thì mất.

    Ngày Hợi mất của là người thân nhân trong nhà, đứa con trai với đứa con gái a tỳ lấy đem phía Tây dấu gần nơi có nước. Đứa lấy mặt nhỏ dài, không đen không trắng. Trong chín ngày sẽ có tin tìm được.
    CHIẾM TƯỢNG HÀ VẬT CHÍ
    (Coi món gì đưa đến)​
    Hưu: ngưu hàm vật.
    Sanh: Sanh vật chí.
    Thương: Hoa quả chí.
    Đổ: Ngũ cốc vật.
    Kiển: Quả la tư vật.
    Tử: Thực vật tửu chí.
    Kinh: Kim ngân đồng vật.
    Khai: Ngũ trúc vật.
    CHIẾM PHONG TRUNG HÀ VẬT
    (Coi trong buồng có vật gì?)​
    Hưu: Đồng lục bạch tứ tiền bạch.
    Sanh: Đồng ngũ bạch tam tiền.
    Thương: Đồng bát bạch tam tiền.
    Đổ: Đồng thất ngũ bạch tam tiền.
    Kiển: Đồng bát bạch tứ tuần nhị.
    Tử: Đồng tam ngũ nhất bạch ngũ tiền thất.
    Kinh: Đồng bát bạch tứ tiền nhị.
    Khai: Đồng tam bạch ngũ tiền tất.
    CHIẾM BỆNH SANH TỬ
    (Coi bệnh sống chết)​
    Hưu: Trì bất tử.
    Sanh: Bất tử.
    Thương: Thập tử nhất sanh.
    Đổ: Bất tử.
    Kiển: Bất tử.
    Tử: Tắc tử.
    Kinh: Liên miên nan vũ.
    Khai: Bất tử.
    CHIẾM BỆNH HÀ QUỶ SỞ TÁC
    (Coi ai hành?)​
    Hưu: Tổ phụ giữ nạp hạ giới.
    Sanh: Thúc bá nạp ngũ đạo thần.
    Thương: Thương vong cập ôn đạo thần.
    Đổ: Huynh đệ nạp quới nhân thần.
    Kiển: Cô nhi nạp thượng giới.
    Tử: Táo quân nạp gia trạch thần.
    Kinh: Oan gia trái chủ lai bảng.
    Khai: Phạm ngũ hành tinh, yêu thần.
    CHIẾM BỆNH NAM NỮ TRỌNG KHINH
    (Coi bệnh trai gái nặng nhẹ)​
    Hưu: Nam nữ sanh.
    Sanh: Nam nữ sanh.
    Thương: Nam trọng, nữ khinh.
    Đổ: Nam sanh, nữ tử.
    Kiển: Nam sanh, nữ tử.
    Tử: Nam tử, đích tử (chết hết).
    Kinh: Năm nữ bất tử.
    Khai: Nữ nam vô sự.
    CHIẾM BỆNH TRỌNG TỬ SANH TẠI HÀ NHỰT
    (Coi ngày giờ sống chết)​

    Phàm trọng đoán nhựt; cấp đoán thời, tiệm trọng đoán ngoạt. Bệnh trọng đoán nhựt, cơ nguy đoán giờ v.v... qua đặng thì sống.
    Hưu: kỵ Tuất nhựt thời.
    Sanh: Kỵ Tý nhựt, Ngọ thời.
    Thương: Kỵ Sửu nhựt, Dần thời.
    Đổ: Kỵ Thìn nhựt, Tỵ thời.
    Kiển: Kỵ Mẹo nhựt, Dậu thời.
    Tử: Kỵ Ngọ nhựt, Mẹo thời.
    Kinh: Kỵ Mùi nhựt, Thân thời.
    Khai: Kỵ Dần nhựt, Mẹo thời.
    CHIẾM BỆNH TIÊN HÀ PHÁT CƠ HẬU TRUYỆN HÀ CHỨNG
    Hưu: Tiên phát hàn nhiệt, hậu truyền trọng trướng.
    Sanh: Tiên phát hạ lợi, hậu truyền phúc thống.
    Thương: Tiên phát trúng phong, hậu truyền nhiệt bệnh.
    Đổ: Tiên phát khái thấu, hậu truyền tả lỵ.
    Kiển: Tiên phát lao quyển, hậu truyền hư bệnh.
    Tử: Tiên phát khí thổ, hậu truyền trầm trọng.
    Kinh: Tiên phát thâp nhiệt, hậu truyền phương đậu.
    Khai: Tiên phát sanh thương, hậu truyền sáp nhiệt.
    CHIẾM KINH TÂM HÀ SỰ
    (Coi tại sao hồi hộp)​
    Hưu: Kinh tâm vô sự,
    Sanh: Hữu quân sự.
    Thương: Thê tử hàn khốc.
    Đổ: Tâm bất ninh, vô sự.
    Kiển: Quan sự đại khốc.
    Tử: Hữu tang chế.
    Kinh: Tử tử hựu lục súc tử.
    Khai: Nữ tử đào.
    CHIẾM ĐƠN TRƯỢNG HÀ SỰ
    Hưu: Công sự đơn trạng.
    Sanh: Hứu quan sự.
    Thương: Thương mãi đơn trạng.
    Đổ: Hôn nhân đơn trạng.
    Kiển: Thất vật, tịnh thơ đơn trạng.
    Tử: Ấu đả đơn trạng.
    Kinh: Đạo cướp đơn trạng.
    Khai: (?)
    CHIẾM NHÂN HÀNH HÀ NHỰT QUY
    (Coi người đi chừng nào về)​
    Hưu: Dĩ quy.
    Sanh: Dục quy.
    Thương: Hữu bệnh dĩ quy.
    Đổ: Hữu trở bán lộ.
    Kiển: Dục chí hữu tín.
    Tử: Hữu trở tang bệnh.
    Kinh: Khẩu thiệt sự dĩ quy.
    Khai: Quy chí cận gia.
    CHIẾM HÀNH NHÂN
    (Coi người đi)​

    Đoán phùng trực chi nhựt, dữ chiếu hậu phòng thử.
    Hưu: Kỳ trở bất quy, ứng Tý Ngọ nhựt quy.
    Sanh: Tốc quy ứng tiền, ứng hậu Sửu Dần nhựt chí.
    Thương: Tồn trở ứng hậu, Mẹo Dậu nhựt chí.
    Đổ: Tương chí ứng hậu, Thìn Tỵ nhựt.
    Kiển: Tốc chí ứng hậu, Tỵ Ngọ nhựt.
    Tử: Trì đồng ứng hậu. Mùi Thân nhựt.
    Kinh: Hữu trở Mẹo Dậu nhựt.
    Khai: Cấp chí ứng Tuất Hợi nhựt.

    Bát Môn Thần Khóa - Kim Oanh Ký
    CHIẾM PHÁP
    (Phép đoán xem)​

    Phàm chiếm các sự chi nhựt dỉ thử suy vượng tướng tắc cấp, hưu tù tắc trì. Phùng xung tắc đoán hạp chi nhựt, phùng hạp tắc đoán xung chi kỳ, ngoại khắc nội tắc cấp tốc, nội khắc ngoại tắc trì. Lâm không vong tắc xuất, không vong chi nhựt tại biến cố chí tri giả.

    - Lục xung: Tý Ngọ xung, Sửu Mùi xung, Dần Thân xung, Mẹo Dậu xung, Thìn Tuất xung, Tỵ Hợi xung.

    - Lục hạp: Tý Sửu hạp, Dần Hợi hạp, Mẹo Tuất hạp, Thìn Dậu hạp, Tỵ Thân hạp, Ngọ Mùi hạp.

    - Tuần trung không vong:
    Giáp Tý tuần trung, Tuất Hợi không.
    Giáp Tuất tuần trung, Thân Dậu không.
    Giáp Thân tuần trung, Ngọ Mùi không.
    Giáp Ngọ tuần trung, Thìn Tỵ không.
    Giáp Thìn tuần trung, Dần Mẹo không.
    Giáp Dần tuần trung, Tý Sửu không.
    - Không vong thời:
    Giáp Kỷ nhựt, Thân Dậu thời.
    Ất Canh nhựt, Ngọ Mùi thời.
    Bính Tân nhựt, Thìn Tỵ thời.
    Đinh Nhâm nhựt, Dần Mẹo thời.
    Mậu Quý nhựt, Tý Sửu thời.
    Nhược vô ngộ xung hiệp, không vong tắc đoán phùng trực giả.
    VƯỢNG TƯỚNG HƯU TÙ TỬ
    - Xuân: Tháng Giêng, Hai: Mộc vượng, Hỏa tướng, Thủy hưu, Kim tù, Thổ tử.
    - Mùa Hạ: tháng Tư, Năm: Hỏa vượng, Thổ tướng, Mộc hưu. Thủy tù, Kim tử.
    - Mùa Thu: tháng Bảy, Tám: Kim vượng, Thủy tướng, Thổ hưu, Hỏa tù, Mộc tử.
    - Mùa Đông: tháng Mười, Mười Một: thì hành Thủy vượng, Mộc tướng, Kim hưu, Thổ tù, Hỏa tử.
    - Tứ quí: tháng Ba, Sáu, Chín, Chạp: Thổ vượng, Kim tướng, Hỏa hưu, Mộc tù, Thủy tử.
    Phàm các việc ứng mau lâu xem ngày chiếm với mùa được vượng tướng là mau, hưu tù là chậm. Ví như mùa Xuân quẻ xem ngày Dần hay Mẹo thuộc Mộc vượng;, nếu là ngày Tỵ hay ngọ thuộc Hỏa tướng. Quẻ vượng tướng ứng mau. Bằng ngày Hợi hay Tý thuộc Thủy hưu, hoặc ngày Thân hay Dậu thuộc Kim tù - quẻ hưu tù ứng chậm (xem kỹ nơi vượng tướng hưu tù tử ở trên).

    Mùa Xuân, chánh nhị ngoạt: Mộc vượng, Hỏa tứơng, Thủy hưu, Kim tù, Thổ tử là đoán quẻ trên đây mà đoán quẻ khác. "Phùng xung tắc đoán hạp chi nhựt, phùng hạp tắc đoán xung chi kỳ", quẻ xung ứng cho ngày hạp như tháng Giêng Dần, xung ngày Thân (Dần Thân xung) ứng vào ngày hạp với ngày Thân là Tỵ (Tỵ Thân lục hạp), quẻ hạp ứng vào ngày xung như tháng Giêng Dần hạp Tỵ (Dần Tỵ lục hạp) ứng vào ngày xung với Tỵ là Hợi (Tỵ Hợi lục xung).

    Nhựt vị ngoại, thời vi nội, ngoại khắc nội tắc cấp, nội khắc ngoại tắc trì. Ngày khắc giờ thì mau, giả như ngày Tý Thủy khắc giờ Ngọ Hỏa là mau, trái lại giờ Tý Thủy khắc ngày ngày Ngọ Hỏa thì chậm. Cứ phỏng theo đó mà đoán v.v...

    Tuần trung không vong là gì? Năm, tháng, ngày và giờ đều luân chuyên trong lục giáp... Gọi sáu con Giáp gồm 60 ngày. Mỗi vòng con Giáp có 10 ngày, từ Giáp, Ất, Bính, Đinh... cho đến Nhâm, Quý và vòng trở lại.

    - Con Giáp vòng thứ nhất từ ngày Giáp Tý đến Quý Dậu: là 10 ngày Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mẹo, Kỷ Tỵ, Canh Ngọ, Tâm Mùi, Nhâm Thân và Quý Dậu. Mười ngày trong vòng Giáp Tý này không có ngày Tuất và Hợi. Chiếm quẻ trong mười ngày này gặp quẻ Túatvà Hợi gọi là quẻ lâm không vong, nên có câu: Giáp Tý tuần trung, Tuất Hợi không. Nếu như xen bịnh thấy mạnh hay chết cũng qua khỏi ngày Quý, đến ngày xung hay hạp bốn mùa nói trên mới chết hay mạnh.

    Giả như bữa nay ngày Ất Sửu gặp quẻ không vong, xét thấy bệnh mạnh ngày Dần, mai là ngày Bính Dần, chớ chi quẻ không lâm không vong thì mai mạnh, ngặt vì quẻ lâm không vong phải đợi xuất không là qua khỏi ngày Quý Dậu tiếp đến Tuất, Hợi, Tý, Sử đến Mậu Dần là mười ba ngày nữa, lo chạy cho bệnh còn thở đến đó là ngày bệnh bắt đầu mạnh không sợ nguy hiểm nữa, nhược bằng quẻ ấy thấy bệnh nguy chết mà thấy bệnh ấy mạnh trước ngày Mậu Dần đi nữa là mạnh chơi vậy thôi, đến ngày đó phải chết và nhất định chết. Cứ phỏng theo đó mà đoán...

    - Con Giáp vòng thứ hai từ ngày Giáp Tuất đến Quý Mùi: Con Giáp này không có ngày Thân và Dậu là Thân Dậu lâm không của câu: Giáp Tuất tuần trung, Thân Dậu không.

    - Con Giáp vòng thứ ba từ ngày Giáp Thân đến Quý Tỵ: Con Giáp này không có ngày Ngọ và Mùi là Ngọ Mùi lâm không của câu: Giáp Thân tuần trung, Ngọ Mùi không.

    - Con Giáp vòng thứ tư từ ngày Giáp Ngọ đến Quý Mẹo: Con Giáp này không có ngày Thìn và Tỵ là Thìn Tỵ lâm không của câu: Giáp Ngọ tuần trung, Thìn Tỵ không.

    - Con Giáp vòng thứ năm từ ngày Giáp Thìn đến Quý Sửu: Con Giáp này không có ngày Dần và Mẹo là Dần Mẹo lâm không của câu: Giáp Thìn tuần trung, Dần Mẹo không.

    - Con Giáp vòng thứ sáu từ ngày Giáp Dần đến Quý Hợi: Con Giáp này không có ngày Tý và Sửu là Tý Sửu lâm không của câu; Giáp Dần tuần trung, Tý Sửu không.
    ĐOÁN QUẺ


    Trước hết xét quẻ có lâm tuần không chăng? Buổi đầu bạn lúng túng lục giáp, soạn giả hiến cho bạn cách tìm Tuần Không vắn tắt này: Giả như chiếm quẻ ngày Bính Ngọ, bạn xòe bàn tay trái ra bấm theo bàn tay hình vẽ: Bấm Bính lên cung Ngọ thuận chiều, Đinh tại Mùi. Mậu tại Thân, Kỷ tại Dậu, Canh tại Tuất... cho đến Quý tại Sửu. Mãn con giáp chữ Quý tại Sửu thì hai cung kế theo Dần và Mẹo là tuần trung không vong, gọi tắt là không hay không vong.

    - Quẻ lâm không vong: Nếu bạn chiếm quẻ nhằm một ngày trong vòng Giáp Tý, tất nhiên bạn hiểu ngay Tuất, Hợi là không vong. Nếu ngày ấy chiếm gặp quẻ Khai thuộc Càn tam liên Tây Bắc Tuất Hợi, thì quẻ Khai này là quẻ không vong.

    - Không vong thời:​
    Giáp Kỷ nhựt, Thân Dậu thời.
    Ất Canh nhựt, Ngọ Mùi thời.
    Bính Tân nhựt, Thìn Tỵ thời.
    Đinh Nhâm nhựt, Dần Mẹo thời.
    Mậu Quý nhựt, Tý Sửu thời.
    Nhược vô ngộ xung hạp, không vong tắc đoán phùng trực giả.

    Giả như ngày Giáp và ngày Kỷ, chiếm quẻ nhằm giờ Thân Dậu là giờ không vong. Quẻ chậm thì đoán ngày tháng, quẻ cấp tốc như chuyện sanh đẻ thì đoán giờ.
    CHIẾM DU VÃNG HÀ PHƯƠNG
    (Coi đến nhà gặp chủ chăng?)​
    Hưu: Bất tại gia.
    Sanh: Tại gia.
    Thương: Bất tại gia.
    Đổ: Tại gia tương phùng.
    Kiển: Chủ khứ du thỉ quy.
    Tử: Chủ đương ưu sự.
    Kinh: Tại gia.
    Khai: Tại gia trú khứ, quy bất thiệt.
    CHIẾM KHỨ PHÙNG HÀ NHƠN
    (Đi dọc đường gặp ai?)​
    Hưu: Ngộ trung nam tại bổn xả.
    Sanh: Ngộ thiếu nam chấp mộc vật.
    Thương: Ngộ nam nhơn cao đại.
    Đổ: Ngộ nữ nhơn chấp mộc.
    Kiển: Phùng nữ trung.
    Tử: Ngộ thiếu nữ, quả phụ.
    Kinh: Ngộ lão bà khốc khấp.
    Khai: Ngộ quan lại, tăng ni.
    CHIẾM TÁ VẬT ĐẮC PHỈ
    (Coi đi mượn đồ đặng chăng?)​
    Hưu: Bất đắc.
    Sanh: Thiểu đắc.
    Thương: Bất đắc.
    Đổ: Đắc mộc vật.
    Kiển: Đắc thủy vật.
    Tử: Bất đắc.
    Kinh: Bất đắc.
    Khai: Đắc kim vật.
    CHIẾM XUẤT HÀNH KIẾT HUNG
    (Coi ra đi lành dữ)​
    Hưu: Khẩu thiệt vị thành.
    Sanh: Xuất hành hữu kiết.
    Thương: Hành lục bịnh ách.
    Đổ: Hành trung thân hữu bịnh.
    Kiển: Thân xả hỷ hành lục bịnh.
    Tử: Hành lục bịnh hữu khốc, hành thủy trầm thoàng.
    Kinh: Hành lục hỷ (đường bộ vui) Tây Nam thất tài.
    Khai: Tây tiền đại kiết, xá thân phước lộc.
    CHIẾM NHƠN ĐÁO CẦU HÀ SỰ
    (Coi khách đến muốn việc gì?)​
    Hưu: Vấn tiền hoặc hoa quả.
    Sanh: Cầu dược hoặc vấn sự.
    Thương: Cầu hoa quả hay tế sự.
    Đổ: Cầu điền thổ hoặc mãi mại.
    Kiển: Cầu văn thư hoặc châu báu.
    Tử: Hoặc ưu sự, vấn tật.
    Kinh: Cầu hôn nhân hoặc công sự.
    Khai: Cầu du hí hoặc hỷ sự.
    CHIẾM CÔNG DANH THÀNH PHỈ
    (Xem công danh nên chăng?)​
    Hưu: Vị thành (chưa).
    Sanh: Trực thành.
    Thương: Bất thành.
    Đổ: Thành danh.
    Kiển: Thiểu đắc.
    Tử: Bất thành.
    Kinh: Trá thành.
    Khai: Công thành danh toại.
    CHIẾM QUÁ HẢI MÔN AN PHỈ
    (Coi qua biển bình an không?)​
    Hưu: Bình an.
    Sanh: Phòng hữu động.
    Thương: Bất ngộ.
    Đổ: Đại kiết quá bá lý.
    Kiển: Quá giang thực phong.
    Tử: Bất khả quá.
    Kinh: Tiền kiết, hậu hung.
    Khai: Đại kiết.
    CHIẾM BỔN MẠNG CẬP GIA NỘI
    (Xem gia đạo và bổn mạng)​
    Hưu: Bình an.
    Sanh: Thân an, thê hữu thay, chẩu khẩu thiệt.
    Thương: Gia nội hữu tai ương.
    Đổ: Bình an hữu khẩu thiệt.
    Kiển: Bình an.
    Tử: Tật bịnh, tin quan lại.
    Kinh: Hữu quan sự thế thái.
    Khai: Bình an tấn tài.
    CHIẾM GIA TRẠCH BÌNH AN PHỈ
    (Xem chỗ ở tốt xấu)​
    Hưu: Bình an.
    Sanh: Thê thái, động thổ.
    Thương: Gia trạch động thổ mộc thần.
    Đổ: Lục súc hại chủ khẩu thiejt.
    Kiển: Bình an.
    Tử: Tật bịnh, tụng sự.
    Kinh: Quan sự.
    Khai: Bình an.
    CHIẾM PHỤ MẪU BÌNH AN PHỈ
    (Coi cha mẹ bình an chẳng?)​
    Hưu: Nhứt phần tử.
    Sanh: Song toàn.
    Thương: Pụ mẫu hữu ly.
    Đổ: Phụ mẫu song toàn.
    Kiển: Phụ mẫu hưu lộc.
    Tử: Phụ mẫu thương vong.
    Kinh: Ly vong quán hiệp cư tồn.
    Khai: Phụ mẫu song toàn.
    CHIẾM PHU THÊ KÝ ĐẠI
    (Coi sự sanh hoạt vợ chồng)​
    Hưu: Nhứt đại bình an.
    Sanh: Nhị đại phân cách.
    Thương: Tam đại hiệp cánh hậu cô lập.
    Đổ: Nhứt đại bất chánh.
    Kiển: Bình an phước lộc nhị đại cách.
    Tử: Tứ đại tử cô lập.
    Kinh: Nam ưu nữ bội phu.
    Khai: Phu thê giai lão.
    CHIẾM HUYNH ĐỆ NAM NỮ CỤ NHƠN
    (Coi anh em trai gái mấy người?)​
    Hưu: Tam nam, tứ nữ.
    Sanh: Lục nam, tứ nữ.
    Thương: Tam nhơn tồn nhứt nam.
    Đổ: Tam nam, ngũ nữ.
    Kiển: Lục nam, thất nữ.
    Tử: Độc lập nhứt nhơn.
    Kinh: Tồn nhị nhơn.
    Khai: Lục nam, tam nữ hiệp.
    CHIẾM TUẾ NỘI AN NGUY
    (Coi một năm ra sao)​
    Hưu: Bình an.
    Sanh: Thánh bình.
    Thương: Thương đại nhơn.
    Đổ: Thiên hạ kinh ưu.
    Kiển: Thái bình.
    Tử: Thiên hạ tật bịnh.
    Kinh: Tuế nội...
    Khai: Thiên hạ bình an.
    CHIẾM VĂN THƠ THÀNH PHỈ
    (Coi đơn từ nên chăng?)​
    Hưu: Trì bị thành.
    Sanh: Tốc thành.
    Thương: Ưu kinh vị thành.
    Đổ: Tự vị thành.
    Kiển: Tốc tín thành.
    Tử: Trầm bất phát.
    Kinh: Trá thành (lở dở).
    Khai: Phát thành.
    CHIẾM TÍN HƯ THIỆT
    (Coi tin thiệt giả)​
    Hưu: Hư tín.
    Sanh: Thiệt tín.
    Thương: Trá tín.
    Đổ: Bán hư bánthiệt tín.
    Kiển: Thiệt tín.
    Tử: Hư tín.
    Kinh: Trá tín.
    Khai: Thiệt tín.
    CHIẾM MƯU SỰ THÀNH PHỈ
    (Coi lo toan nên chăng?)​
    Hưu: Tốc thành.
    Sanh: Hoan hỷ.
    Thương: Bất thành.
    Đổ: Thành kiết.
    Kiển: Thành kiết.
    Tử: Bất thành.
    Kinh: Sự hữu nghị.
    Khai: Thành kiết.
    CHIẾM TỤNG SỰ THẮNG PHỤ
    (Coi thưa kiện ăn thua)​
    Hưu: Nhơn thắng, ngã bại.
    Sanh: Ngã thắng, nhơn bại.
    Thương: Nhơn ngã cụ bại.
    Đổ: Nhơn ngã đồng lực.
    Kiển: Ngã thắng nhơn bại.
    Tử: Nhơn ngã cụ bại.
    Kinh: Nhơn ngã đồng lực.
    Khai: Ngã thắng, nhơn bại.
    CHIẾM CẦU TÀI MÃI MẠI
    (Coi buôn bán lời lõ ra sao?)​
    Hưu: Bất lợi.
    Sanh: Đắc tài lợi.
    Thương: Đắc tài, hữu khẩu thiệt.
    Đổ: Đắc tài.
    Kiển: Đắc tài bán thất.
    Tử: Bất lợi, hung.
    Kinh: Hành bất kiết.
    Khai: Nghi kiết (nên đi, tốt)
    CHIẾM QUÝ NHƠN KIẾT HUNG
    (Coi người lành dữ)​
    Hưu: Hỷ kiết.
    Sanh: Hữu ẩm thực hỷ.
    Thương: Bất kiết.
    Đổ: Hoan hỷ.
    Kiển: Đại kiết.
    Tử: Bất kiết.
    Kinh: Hữu nạn bất kiết.
    Khai: Nghi kiết.
    CHIẾM SẢN NAM NỮ TRÌ TỐC
    (Coi sanh trai gái mau lâu)​
    Hưu: Sanh nam trì trì.
    Sanh: Sanh nam tốc, kiết.
    Thương: Sanh năm hữu ưu.
    Đổ: Sanh nữ trì.
    Kiển: Sanh nữ kiết.
    Tử: Sanh nữ sản nạn.
    Kinh: Sanh nữ trì, hữu ưu.
    Khai: Sanh nam kiết, nữ hung.
    Vì thời loạn sót mấy bài như: Liên nhựt thanh hà nhựt võ (Trời đang nắng chừng nào mưa?). Liên nhựt võ hà nhựt thanh (Trời đang mưa chừng nào nắng?) Trục trung hà cơ hà tiện (Trong túi có gì, bao nhiêu tiền v.v...)
    - HẾT PHẦN BÁT MÔN -
    Bát Môn Thần Khóa - Kim Oanh Ký
    LUẬN ĐIỀM KIẾT HUNG

    Luôn luôn có những điềm báo trước cho mỗi người biết sự may rủi kiết hung sắp đến... Song nó báo tùy theo giờ mà điềm báo khác, vì vậy mình vô tình không lưu ý đến.

    Soạn giả sưu tầm ra đây để các bạn kinh nghiệm xem sao? Nên để ý là các điềm tuỳ theo giờ, có điềm lại ứng tùy bên tả hay bên hữu.
    ĐIỀM MÁY MẮT TÙY GIỜ, TẢ HAY HỮU
    Giờ Tý: Tả gặp quới nhơn - Hữu có sự ăn uống.
    Giờ Sửu: Tả có sự lo âu - Hữu có người trông đợi.
    Giờ Dần: Tả khách xa đến - Hữu chuyện mừng đến.
    Giờ Mẹo: Tảcó quới khách đến - Hữu điềm được bình an.
    Giờ Thìn: Tả có khách xa đến - Hữu có sự hao tổn.
    Giờ Tỵ: Tả có sự ăn uống - Hữu có việc chẳng lành.
    Giờ Ngọ: Tả gặp ăn uống - Hữu có việc không lành.
    Giờ Mùi: Tả điềm thạnh lợi - Hữu điềm vui nhỏ.
    Giờ Thân: Tả đề phòng hao tổn - Hữu có gái mong đợi.
    Giờ Dậu: Tả có khách - Hữu khách xa đến.
    Giờ Tuất: Tả có khách - Hữu có hội hiệp.
    Giờ Hợi: Tả có khách đến - Hữu lâm miệng tiếng.
    Lưu ý: Tả là máy mắt bên trái, hữu là máy mắt bên phải.
    ĐIỀM TAI Ù
    Giờ Tý: Tả có gái mong chờ - Hữu diềm mất của.
    Giờ Sửu: Tả lâm tai tiếng - Hữu có chuyện thị phi.
    Giờ Dần: Tả có tổn tài - Hữu điềm về tâm sự.
    Giờ Mẹo: Tả có sự ăn uống - Hữu có khách đến.
    Giờ Thìn: Tả có chuyện đi xa - Hữu có khách đến.
    Giờ Tỵ: Tả có hung sự. - Hữu điềm may mắn.
    Giờ Ngọ: Tả có tin xa đến - Hữu có bà con đến.
    Giờ Mùi: Tả điềm ăn uống - Hữu khách xa đến.
    Giờ Thân: Tả điềm người đi - Hữu có chuyện vui.
    Giờ Dậu: Tả điềm mất của - Hữu điềm đại kiết.
    Giờ Tuất: Tả về vụ ăn uống - Hữu có khách đến.
    Giờ Hợi: Tả điềm đại kiết - Hữu có sự ăn uống.
    ĐIỀM THỊT GIỰT
    Giờ Tý: Điềm tốt có người nhắc.
    Giờ Sửu: Điềm vui có của hoạnh tài đến.
    Giờ Dần: Có chuyện lành trừ ác rồi.
    Giờ Mẹo: Điềm đắc tài đại kiết.
    Giờ Thìn: Có chuyện ác tới mình hung sự.
    Giờ Tỵ: Có khách giáp mặt tới.
    Giờ Ngọ: Có lo ngại chuyện ấy liền.
    Giờ Mùi: Có tài, có tin vui đến.
    Giờ Thân: Có cãi lẫy, dè dặt thì khỏi.
    Giờ Dậu: Điềm lâm họa ác, tốn tiền của.
    Giờ Tuất: Có sự đi xa đại kiết.
    Giờ Hợi: Có sự vui lành, đại kiết
    ĐIỀM HỒI HỘP
    Giờ Tý: Có người tư tưởng, sự vui đến.
    Giờ Sửu: Việc không lành đến ngỏ.
    Giờ Dần: Có khách tới hiền lành.
    Giờ Mẹo: Có ăn uống và người ngoài đến.
    Giờ Thìn: Có chuyện thành hợp, vui tốt.
    Giờ Tỵ: Điềm vui có gái tưởng đến.
    Giờ Ngọ: Việc ăn uống tự nhiên đến.
    Giờ Mùi: Có giai nhân nhớ tưởng, tốt.
    Giờ Thân: Điềm mừng to đến.
    Giờ Dậu: Có người đem tin mừng.
    Giờ Tuất: Có quí khách đến.
    Giờ Hợi: Điềm hung hoặc tang khó.
    ĐIỀM NHẢY MŨI
    Giờ Tý: Điềm hội họp ăn uống vui vầy.
    Giờ Sửu: Có khách nhắc nhở, có gái cầu việc.
    Giờ Dần: Có nữ nhơn tương hội ăn uống.
    Giờ Mẹo: Có tài lợi, có người hỏi han.
    Giờ Thìn: Ngày mai sẽ có lộc ăn uống.
    Giờ Tỵ: Có kẻ tốt đến giúp tài lợi.
    Giờ Ngọ: Có quí khách, có kẻ xa hội tiệc.
    Giờ Mùi: Có ăn uống, điềm kiết lợi.
    Giờ Thân: Ăn uống bất lợi, chiêm bao sợ sệt.
    Giờ Dậu: Điềm phụ nữ đến hỏi chuyện.
    Giờ Tuất: Có việc hòa hảo với đàn bà.
    Giờ Hợi: Điềm tài lợi lưu thông.
    ĐIỀM KẸT VƯỚNG ÁO
    Giờ Tý: Nam về ăn uống, nữ về bà con.
    Giờ Sửu: Lo lắng về sự phá tài.
    Giờ Dần: Chuyện khó của người thân không thành.
    Giờ Mẹo: Anh em giao hữu ăn uống.
    Giờ Thìn: Tự phá tài bịnh hoạn.
    Giờ Tỵ: Đàn bà có ngoại tư.
    Giờ Ngọ: Có kẻ xa đến đắc tài.
    Giờ Mùi: Sự hại vì bất cản máu me.
    Giờ Thân: Của bên ngoài ra vô tốt.
    Giờ Dậu: Xấu, có kẻ đến làm hao tài.
    Giờ Tuất: Thưa kiện được của cải.
    Giờ Hợi: Gặp quan đắc tài đại kiết.
    ĐIỀM CHÓ VỒ
    Giờ Tý: Chuyện đàn bà cãi lẫy.
    Giờ Sửu: Chuyện lo phiền tâm sự.
    Giờ Dần: Chuyện may, chồng được của.
    Giờ Mẹo: Trông nhớ chồng đắc tài lợi.
    Giờ Thìn: Tiền của lưu thông.
    Giờ Tỵ: Có tin thân nhân đến.
    Giờ Ngọ: Có yến tiệc ăn uống lành.
    Giờ Mùi: Vợ con ngoại tâm phá tài.
    Giờ Thân: Gia trạch tiểu khẩu (cãi vã sơ).
    Giờ Dậu: Lên chức thêm lộc được của.
    Giờ Tuất: Hung, điềm chác sự tai tiếng.
    Giờ Hợi: Điềm thưa cãi quan sự.
    ĐIỀM CHIM KHÁCH KÊU
    Giờ Tý: Có bà con về.
    Giờ Sửu: Có may mắn về vợ con.
    Giờ Dần: Đôi chối quan sự.
    Giờ Mẹo: Điềm phát tài có ăn nhậu.
    Giờ Thìn: Có người xa về.
    Giờ Tỵ: Có việc mừng đến.
    Giờ Ngọ: Lâm bịnh tật dè dặt cho qua.
    Giờ Mùi: Thất tài về súc vật.
    Giờ Thân: Tốt, điềm may mắn.
    Giờ Dậu: Buồn bã không yên.
    Giờ Tuất: Phát tài đại kiết.
    Giờ Hợi: Đôi chối tiếng tăm.
    ĐIỀM LỬA REO
    Giờ Tý: Vợ ngoại tâm khó lòng.
    Giờ Sửu: Lòng nữ nhân hướng về người khác rồi.
    Giờ Dần: Tốt, được tài lợi bình an.
    Giờ Mẹo: Tiền của lưu thông.
    Giờ Thìn: Lo lắng hao tổn, nam có cãi vã sơ.
    Giờ Tỵ: Chuyện hội họp ăn uống.
    Giờ Ngọ: Có chuyện quan sự khó lòng.
    Giờ Mùi: Có của hưng vong.
    Giờ Thân: Của tiền đều được.
    Giờ Dậu: Điềm hung báo tang.
    Giờ Tuất: Lo lắng sau thắng lý.
    Giờ Hợi: Điềm tai bệnh chẳng lành.
    ĐIỀM TAI NÓNG
    Giờ Tý: Có Tăng đạo đến luận việc.
    Giờ Sửu: Có chuyện vui đem tới.
    Giờ Dần: Tốt, có hội họp yến tiệc.
    Giờ Mẹo: Tốt, có người xa giáp mặt.
    Giờ Thìn: Điềm tài lợi lưu thông.
    Giờ Tỵ: Điềm bất lợi coi chừng mất của.
    Giờ Ngọ: Có sự ăn uống đưa tời.
    Giờ Mùi: Có khách bàn sự tương lai.
    Giờ Thân: Có sự vui say chè chén.
    Giờ Dậu: Có tin về duyên nợ.
    Giờ Tuất: Điềm cãi vã kiện thưa.
    Giờ Hợi: Điềm tai tiếng quan phi.
    ĐIỀM MẶT NÓNG
    Giờ Tý: Có chuyện vui đắc tài.
    Giờ Sửu: Có chuyện lo buồn.
    Giờ Dần: Có khách xa tương hội.
    Giờ Mẹo: Điềm ăn uống lại có bạn đến.
    Giờ Thìn: Có khách xa tương hội.
    Giờ Tỵ: Có người cần giáp mặt.
    Giờ Ngọ: Có người cần giúp việc.
    Giờ Mùi: Có thị phi cãi vã.
    Giờ Thân: Có quới nhơn hội ngộ.
    Giờ Dậu: Tốt, có người xa hiệp mặt.
    Giờ Tuất: Điềm có rượu thịt.
    Giờ Hợi: Có tai vạ tiếng tăm.
    Bát Môn Thần Khóa - Kim Oanh Ký
    XEM THỜI TIẾT MÙA MÀNG 12 THÁNG

    THÁNG GIÊNG


    Tuyết sa lác đác mây bao phủ,
    Là triệu tân niên hãy dự phòng.
    "Lập Xuân" bữa ấy trời trong,
    Nhà nông ắt đặng nhẹ công cấy cày.

    THÁNG HAI

    Sấm vang "Kinh Trập" trúng mùa này,
    Mưa bữa "Xuân Phân" bệnh dẫy đầy.
    Có ba ngày Mẹo tháng này,
    Hoa mầu tươi tốt trổ đày khắp nơi.

    THÁNG BA

    Mưa sa mùng một khó vô hồi,
    Làm bệnh lê dân khổ khắp nơi.
    "Thanh Minh" ngày ấy xemt rời,
    Nam phong gió thổi mùa thời trúng to.

    THÁNG TƯ

    Gió đông "Lập Hạ" bệnh phòng ngay,
    Mùng tám được mưa lợi trái cây. (gió đông mùng 8)
    Canh Thìn, Giáp Tý hai ngày,
    Sâm vang hao tổn lúa khoai khỏi nào.

    THÁNG NĂM

    Vừa mưa vừa nắng năm dông gió,
    "Mang Chưởng" trời gầm tốt tự nhiên.
    "Hạ chí" Tây Bắc thổi liền,
    Cây vườn hao hớt phải siêng vun trồng.

    THÁNG SÁU

    "Tam Phục" nực nồng trời nóng hậu,
    Hoa mầu lúa thóc kho đơm bông.
    Nhược bằng mùa tiết được thông,
    Gió mưa tầm tả tam đông chẳng vừa.

    (Sơ phục, trung phục và mạt phuc gọi tắt là Tam phục)

    THÁNG BẢY

    "Lập Thu" ngày ấy lại không mưa,
    Thất mùa phân nửa phải lo ngừa.
    Nhằm ngày "Xử Thử" lại mưa,
    Cái phần kết quả khó bề trở xoay.

    THÁNG TÁM

    "Thu Phân" mây trắng trời trong vắt,
    Mừng được trúng mùa mặc hát ca.
    Ngại là sấm chớp lòe ra,
    Đông này lúa thóc nên ma quái gì.

    THÁNG CHÍN

    Mùng một sa mù xâm tổn dân,
    Trung dương kia ấy một trời thanh.
    Trăng làu bầm đỏ bệnh hành,
    Bằng có sấm gầm rau mía được tăng.

    THÁNG MƯỜI

    "Lập Đông" lại đúng ngày Nhâm,
    Năm ấy ruộng giống thật phí tâm.
    Hoặc nhằm Canh Tý chẳng lầm,
    Tai ương tổn hại lê dân khắp cùng.

    THÁNG MƯỜI MỘT

    Dông tuôn mùng một bênh nan cần,
    Lại sa tuyết dữ hại vô ngần.
    Trời thanh "Đông chí" nên mừng,
    Là năm vui vẻ tưng bừng hát cả.

    THÁNG CHẠP

    Mùng một đông phong lục súc tai,
    Tuyết sa năm mới đến nơi rồi.
    Được trời trong tốt ngày này,
    Nông phu được đại phát tài cuối năm.

    MƯA NHỮNG NGÀY GIÁP TÝ THẾ NÀO?

    Mùa Xuân Giáp Tý nếu trời mưa,
    Ngàn dặm đồng khô chẳng chỗ chừa.
    Giáp Tý, Hè mưa, mưa chẳng ít,
    Chống ghe vào chợ cũng bằng thừa.
    Mùa Thu hoa trổ sanh đôi nỏ,
    Giáp Tý ơn nhờ giọt móc mưa.
    Giáp Tý ngày Đông mưa trút xuống.
    Trâu dê hao hớt trước nên ngừa.

    GIÓ NGÀY KỶ MẢO THẾ NÀO?

    Xuân về Kỷ Mảo trời dông gió,
    Đại thọ cành trơ nhành không lá.
    Hè sang Kỷ Mảo lại dông,
    Lúa khoai ruộng trống đồng không nên gì.
    Thu lại Kỷ Mảo vậy thì,
    Gió dông lua má còn gì nữa đâu?
    Đông về Kỷ Mảo mưa sầu,
    Bông trái hoa mầu thời có kể chi?

    CHIẾM BỐN MÙA 28 VÌ SAO MƯA GIÓ

    MÙA XUÂN


    Hư, Nguy, Thất, Bích đa phong võ,
    Nhược ngộ Khuê, Tinh, thiên sắc thanh.
    Lâu, Vị, Ô phong thiên lãnh thống,
    Mảo, Tất ôn hòa thiên hựu minh.
    Chẩn, Giác nhị tinh thiên thiểu võ,
    Hoặc khởi phong võ tác hoành hành.
    Cang, Tú đại phòng khởi sa thạch,
    Đê, Phòng, Tâm, Vỹ võ phong thanh.
    Cơ Đẩu lạc lạc thiên thiểu võ,
    Ngưu, Nữ di di, tác võ thanh.

    MÙA HẠ

    Hư, Nguy, Thất, Bích thiên bán âm,
    Khuê, Lâu, Vị Tú võ lâm lâm.
    Mảo Tất nhị tinh thiên hữu võ,
    Chủy Sâm nhị tú thiên hựu âm.
    Tĩnh, Quỷ, Liễu tinh, thanh hoặc võ,
    Tinh, Trương, Duật, Chẩn hựu minh thanh.
    Giác, Cang nhị tú, thái dương kiến,
    Đê, Phòng nhị tú, đại võ phong.
    Tâm, Vỷ hoài nhiên, tú tác võ,
    Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, ngộ thiên thanh.

    MÙA THU

    Hư, Nguy, Thất, Bích, chấn lôi kinh,
    Khuê, Lâu, Vị, Mảo, võ lâm đình.
    Tất, Chủy, Sâm, Tĩnh thanh hưu võ,
    Quỷ, Liễu vân khai, khách tiện hành.
    Tinh, Trương, Duật, Chẩn thiên vô võ,
    Giác, Cang nhị tú, võ phong thanh.
    Đê, Phòng, Tâm, Vỹ, tắc hữu võ,
    Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, võ lâm lâm.

    MÙA ĐÔNG

    Hư, Nguy, Thất, Bích đa phong võ,
    Nhược ngộ Khuê tinh, thiên sắc thanh.
    Lâu, Vị võ thanh, thiễn lãnh đóng,
    Mảo, Tất chi kỳ, thiên hựu thanh.
    Chủy, Sâm thử tú, thời thanh tịnh,
    Tĩnh, Quỷ nhị tinh, thiên sắc huỳnh.
    Mạc đại Liễu, Tinh, vân lộ khởi,
    Thiên hàng phong võ, hữu tinh sương.
    Trương, Duật phong võ, hựu kiến nhựt,
    Chẩn, Giác dạ võ, nhựt hườn thanh.​
    Quý bạn lưu ý:
    Soạn giả muốn giới thiệu cho quí bạn quyển Kim Oanh Ký cuốn nhì rút cả tinh hoa trong ba bộ Bát Trạch Minh Cảnh có thứ tự, liên quan đến cõi vô hình sanh ra bao nhiêu tai nạn, bệnh tật khổ sở trong gia đình người nọ, còn người kia lại hưởng chăn êm nệm ấm gia đình hạnh phúc!

    Sự kiết hung, họa phước, một là do tuổi đôi vợ chồng, hai là do nhà cửa phương hướng hapj, kỵ, ba là do phương hướng đặt để bếp núc mà ra. Rồi bày ra cúng ếm lung tung đã hao tổn mà việc đâu vẫn còn đó.

    Bạn sẽ bấm đặng Phi cung mới dám chắc tuổi vợ chồng người ta hung kiết thế nào, có phạm Bát san chăng? Nhà cửa, bếp núc, mả mồ, đường ra vào thế nào v.v...?

    Nếu bạn cố tâm tập dượt trong vòng nửa tiếng đồng hồ là bấm được các việc kiết hung 64 cung tuổi vợ chồng, 64 cung phương hướng nhà cửa, 64 cung bếp núc mả mồ, may rủi họa phước v.v... Sau này còn bấm cả 64 quẻ Diệc nữa.

    Chỉ bấm nội ba ngón tay: ngón trỏ, giữa và áp út, bấm vào bàn tay dưới chân ngón cái như người ta nhịp kèn, nhịp quyển mà hiểu thấu triệt cả mấy trăm cung nói trên. Nên soạn giả tự hào cung Phi của mình là linh động nhứt.

    Nghĩa là bạn càng xem càng hiểu thêm, lại càng ham và chầy tháng trì năm trong đó nó sẽ giúp bạn mở mang thêm sáng kiến, thấy rộng hiểu xa hơn.
    Cần biết người là khôn,
    Cần biết mình là sáng.
    Và biết số mạng mình là hay...

    Bạn sẽ biết đặng người sao cả đời nghèo khổ, mà sau con cháu vẫn ở đó lại làm nên. Có kẻ giàu sang về sau con cháu cũng ở đất đó lại suy vi sụp đổ. Có người bỏ quê nhà đến xứ lạ lại làm nên, còn có người đang phát đạt mua đất cất nhà lại lâm nạn lầm than, cơ cực...! Tất cả đều do cung mạng ở nhằm phương hướng hạp kỵ, bạn hiểu đặng tất giải sự nguy cơ dễ dàng.

    Quý vị nên xem thông hiểu quyển Kim Oanh Ký 2 mới biết Phi Cung Bát Trạch, tôi quả quyết: Người nào được nhều may mắn, hoặc người nào lâm cảnh khốn đốn như tuyệt tự, số không thọ, mang tật bệnh sợ truyền nhiễm lại con cái, bị người dèm siểm, mưu hại, nào là tớ phản, nào bị trộm cắp, hỏa tai, cãi vã, kiện thưa, quan sự thị phi, bại tài, thối điền sản v.v... Bạn biết được và bạn đem sự hiểu biết giúp cho người ta, chuyển họa thành phước ứng nghiệm như thần, miễn là người ấy cải tà qui chánh. Ví bằng tâm địa bạo tàn thì không thể cãi được lẽ trời báo ứng.
    CHUYỆN ĐÁNG GHI NHẬN

    1.- Một cơ thể nào trong mình suy kém, nếu bữa cơm chiều ăn no quá đêm ngủ ác mộng, chiêm bao quái gở, sợ hãi kêu la mớ rên. Bữa cơm tối nên ăn vừa thôi.

    2.- Chiêm bao gặp gỡ tư tình là thận suy, sanh di tinh, mộng tinh nên trị ngay.

    3.- Đến nhà bạn, bạn đi khỏi nên về ngay, chớ nên cà rà làm khách, đại kỵ là làm khách của vợ bạn.

    4.- Kẻ thân bằng thật tình đãi cơm, đồ ăn dầu đơn sơ mấy, mình ăn tìm cách khen ngon miệng, ăn được thật no và thích ăn đạm bạc v.v... cho vui lòng bạn và người nhà nấu dọn.
    NÊN TRÁNH

    Không kể xấu hổ là một. Mượn đồ người ta diện là hai. Nịnh bợ người ta là ba. Hay khoe mình khi người là bốn. Tìm cách nói xấu người là năm. Không đáng cười cũng cười là sáu.

    Phạm một điều là trở thành người hèn rồi, càng phạm nhiều điều càng trở nên đê tiện đến vô giá trị.
    Soạn giả: Cựu giáo viên
    Thái Kim Oanh
    Bát Môn Thần Khóa - Kim Oanh Ký
    CHUYỆN TẬN THẾ

    Tận thế là gì mà gần đây từng được nêu ra nhắc mãi nó. Một thế kỷ Âu Tây là trăm năm, của Á Đông chỉ sáu mươi năm gọi là một ngươn. Từ năm Giáp Tý đến Quý Hợi, sáu mươi năm làm một ngươn gọi là Thượng ngươn, đáo lại Giáp Tý đến Quý Hợi gọi là Trung ngươn, sáu mươi năm sau nữa là Hạ ngươn rồi trở lại thượng ngươn tuần hoàn mãi mãi, một ngươn sáu mươi đó gọi là ngươn nhỏ hiệp đủ bảy ngươn nhỏ ấy là bốn trăm hai mươi năm. Làm một ngươn lớn là thất ngươn cầm, các ngươn lớn ấy cũng gọi là thượng ngươn, trung ngươn, hạ ngươn luân chuyển mãi mãi như thế. Bây giờ là năm 1969 cuối hạ ngươn gọi là đời mạt pháp sắp tận thế, loài người phải chịu sàng sẩy chết chóc, những người hiền đức để sống sót vào thượng ngươn, sống lâu sướng.

    Nhiều tôn giáo trùng hợp nhau về thời kỳ tận thế, có chỗ nói rằng hai ngàn năm sau sẽ có tận thế v.v... Có sách ghi rằng chuyện vực hóa nên cồn, cồn sanh ra vực, đất liền sanh biển, biển hóa đất liền, con người sanh tồn mãi mãi. Có chỗ do theo dịch lý và sự sanh hóa như vầy: Thuở chưa tạo thiên thì hỗn độn sơ khai âm u gọi là Vô cực, từ đó sanh Thái cực, Thái cực sanh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sanh Tứ tượng, Tứ tượng sanh Bát quái, Ngũ hành mới phân có trời đất vạn vật và loài người.

    Hoặc chép rằng: Thiên khai ư Tý, địa tịch ư Sửu, nhân sanh ư Dần ý nói: Mỗi một độ tuần hoàn của trời đất là mười hai vạn chín ngàn sáu trăm năm (12.600) gồm có mười hai hội lấy tên là hội Tý, hội Sửu, Dần, Mẹo.... cho đến hội Hợi có một vạn tám trăm năm (10.800).

    Thiên khai ư Tý, ngôi trời mở khai vào hội Tý cả 10.800 năm có đủ nhật nguyệt tinh soi sáng, qua hội Sửu (Địa tịch ư Sửu) mở mang đên ngôi đất có cả Kim, Mộc, Thổ, Thủy, Hỏa, Phong 10.800 mới sang hội Dần hóa sanh vạn vật cùng loài người cũng phải trải qua 10.800 năm.

    Tóm sơ lược như vầy: Từ có ngôi trời đến năm 1969 đặng 68.964 năm. Ngôi đất đến nay 58.164 năm, loài người sanh từ hội Dần qua Mẹo, Thìn, Tỵ bốn hội cộng lại đặng 4,164 năm là tính loài người đến năm 1969 đặng 47.365 năm, nghĩa là sau đất 10.800 năm, đất có sau trời 10.800 năm, hết hội Ngọ sẽ đến hội Mùi, Thân, Dậu, Tuất, còn những 50 ngàn năm nữa mới đến hội Hợi, chừng đó trời đất muôn vật tiêu ma hết... Rồi lại sanh trời đất khác...

    Theo Âu Tây thì thủy tổ loài người là một giống khỉ, chỗ lại nói một giống cá biến thể. Nói về sự biến thể người ta từng nghe thấy lá cây hóa chim, lươn hóa chồn, cá nhám hóa nai, cá xà hóa cọp, cá voi hóa ra voi v.v...

    Về Á Đông ghi rằng thủy tổ loài người là đức Bàn Cổ, lần xuống Tam Hoàng, Thiên hoàng thị, Địa hoàng thị, Nhơn hoàng thị, thời đó người ta sống trên muôn tuổi lần sụt xuống ngàn, xuống trăm, xuống chục. Nhưng đến thời kỳ lập thượng ngươn tới đây tuổi thọ loài người sẽ cứ tăng dần lên mãi. Sau Tam Hoàng đến Tam giáo thánh nhân là đấng Phục Hy chế ra Tiên thiên bát quái đến đấng Thần Nông quyền cai quản các vị Phật, Thánh, Tiên, người tìm các giống lúa nuôi sống loài người và nếm các chất cỏ cây hiệp thuốc cứu người bệnh tật, lại là hai đấng khai sáng ra nước Việt Nam cho con dòng thứ làm vua đầu tiên nước Việt Nam xưng là Hồng Bàng từ hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây trở vô miền Nam. Thế sự thăng trầm bị Trung Hoa chiếm đứt hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Nước ta có lúc bành trướng trùm cả hai tỉnh Xoài Riêng và Nam Vang, đến thời Pháp thuộc vua Tự Đức cắt giao hai tỉnh ấy lại cho Căm Bốt. Vua Hồng Bàng ở vào cuối hội Tỵ trước Tây lịch 2.880 năm đến Tây lịch 1969 là 4.844 năm văn hiến của dân tộc Việt Nam. Đây là góp bàn hiến các bạn xem chơi và nhờ thời gian chứng minh rằng hư hay thực.
    CHIẾM NGUYÊN ĐÁN THẬP CAN TRỊ NHỰT

    Xem ngày mùng một Tết nhằm can nào kiết, can nào hung trong năm đó.
    TRỊ GIÁP MỄ TIỆN NHƠN DỊCH

    Đầu năm nhằm ngày Giáp, bất câu Giáp Tý, Giáp Thân... hay Giáp Dần gì cũng gọi là ngày Giáp, tất năm đó cơm gạo kém, bệnh dịch lây.
    - Trị Ất mễ mạch, Quí nhân tật, đầu năm gạo lúa đắt đỏ sanh bệnh tật.
    - Trị Bính hữu từ thập nhật hạn, chủ tứ ngoạt hạn. Đầu năm ngày Bính vào lối tháng Tư hạn bốn ngày.
    - Trị Đinh tơ quí. Đầu năm ngày Đinh tơ lụa đắt.
    - Trị Mậu túc mạch ngư diêm quí, hữu chủ hạn. Đầu năm ngày Mậu lúa muối mắc, tầm kém, mưa gió nhiều.
    - Trị Kỷ mễ quí, tầm thiển, đa phong võ. Đầu năm ngày Kỷ gạo mắc, tầm kém, mưa gió nhiều.
    - Trị Canh kim tiền quí, hòa thục, nhân bịnh. Đầu năn ngày Canh vàng bạc lên giá, lua trúng, người đau bệnh.
    - Trị Tân ma mạch quí hòa thúc. Đầu năm ngày Tân đậu mè đắc, lúa gạo trúng mùa.
    - Tri Nhâm mễ mạch tiêu, thao bạch đại, đậu quí. Đầu năm ngày Nhâm gạo lúa sụt giá, hàng vải nhiều, đậu mè mắc.
    - Trị Quý hòa khuyết nhơn dịch, da võ. Đầu năm ngày Quý lúa thất, bịnh dịch phát sanh và mưa nhiều.
    NHỊ THẬP BÁT TÚ
    (Hai mươi tám vị tướng tinh)​

    Giác Mộc Giao (con sấu) - Cang Kim Long (con rồng) - Đê Thổ Lạc (nhím) - Phòng Nhựt Thố (thỏ) - Tâm Nguyệt Hồ (chồn) - Vỹ Hỏa Hổ (cọp) - Cơ Thủy Báo (beo) - Đẩu Mộc Giải (cua) - Ngưu Kim Ngưu (trâu) - Nữ Thổ Bức (dơi) - Hư Nhựt Thử (chuột) - Nguy Nguyệt Yến (én) - Thất Hổ Trư (heo) - Bích Thủy Du (rái) - Khuê Mộc Lang (sói) - Lâu Kim Cẩu (chó) - Vị Thổ Trỉ (trỉ) - Mảo Nhựt Kê (gà) - Tất Nguyệt Ô (quạ) - Chủy Hỏa Hầu (khỉ) - Sâm Thủy Viên (vượn) - Tinh Mộc Cang (chim cu) - Quỷ Kim Dương (dê) - Liễu Thổ Chương (cheo) - Tĩnh Nhựt Mã (ngựa) - Trương Nguyệt Lộc (nai) - Dực Hỏa Xà (răn) - Chẩn Thủy Dân (trùn).

    Bởi hay dùng nó nên đọc tắt chữ đầu cho dễ thuộc: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vỹ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Khuê, Lâu, Vỹ, Mảo, Tất, Chủy, Sâm, Tinh, Quỷ, Liễu, Tĩnh, Trương, Duật, Chẩn.
    CHIẾM NIÊN CỐT, NGOẠT BÌ 1

    Tìm năm sanh nhằm tướng tinh sao gì, gọi niên vi cốt, tháng sinh thuộc sao gì, gọi ngoạt vi bì. Người nào bì và cốt đêu thuộc tướng tinh thượng cầm gọi là sanh thuận số, hoặc bì và cốt đều thuộc hạ thú cũng là sanh thuận số. Bằng người nào sanh cốt thượng cầm, bì hạ thú hoặc cốt hạ thú, bì thượng cầm tức là sanh lỗi số.

    Giả như năm sanh cốt con cheo, bì con ngựa tức là da ngựa bọc xương cheo thì dư chán, đời người được phú túc an nhàn. Ngược lại, người sanh cốt con ngựa, bì con cheo thì làm sao da cheo bọc hết xương ngựa, tất phải chịu túng thiếu, nhưng bì và cốt đều thuộc hạ thú, tuy không dư giả những đời sống cũng đặng thanh nhàn.

    Nhược bì bọc không hết cốt thì đời sống thiếu trước hụt sau...
    CHIẾM NIÊN CỐT NGOẠT BÌ 2

    Tìm năm sanh dương lịch của người xem, tức trừ tuổi âm lịch của năm đó. Giả như: năm 1969 xem ông 35 tuổi sanh tháng 6. Khi trừ phải sụt tuổi âm lịch xuống một tuổi mới đúng dương lịch và làm đủ ba bài toán mới xong:

    1.- Sụt 35 tuổi đó xuống còn 34 trừ cho năm đó như vầy: 1968 - 34 = 1934.

    2.- Cộng thêm số 15 vào 1934: 1934 + 15 = 1949. Số 15 là số tính từ sao Giác đến năm thứ nhất dương lịch, sau sao Giác là 15 năm.

    3.- Lấy số cộng này chia cho Nhị Thập Bát Tú (1949 : 28 = 69, còn dư 17. Lấy số dư 17 đếm trên sao 1 tại Giác, 2 tại Cang, 3 tại Đê... cho đến 17 tại sao Vị là cốt Vị Thổ Trỉ, rồi xem bảng lập thành tìm niên cốt ngoạt bì dưới đây tìm tháng nhằm sao nào, tìm sao Vị năm sanh ở cột 1 chữ Vị, dò ngang qua tới tháng sanh, ông ấy sanh tháng 6 nhằm sao Vỹ là Vỹ Hỏa Hổ, tức ông 35 tuổi cốt Vị Thổ Trỉ, bì sao Vỹ Hỏa Hổ, da cọp bọc cốt chim trỉ dư chán.
    BẢNG TÌM NIÊN CỐT, NGOẠT BÌ

    Nên phân biệt tháng hay năm mào thuộc sao Giác, sao Đẩu, sao Khuê, sao Tĩnh như:
    - Tháng giêng là sao Tâm.
    - Tháng hai là sao Vỹ.
    - Tháng ba là sao Cơ.
    - Tháng Tư là sao Đẩu.
    - Tháng năm là sao Ngưu.
    - Tháng sáu là sao Nữ.
    - Tháng bảy là sao Hư.
    - Tháng tám là sao Nguy.
    - Tháng chín là sao Thất.
    - Tháng mười là sao Bích.
    - Tháng 11 là sao Khuê.
    - Tháng chạp là sao Lâu.
    Nên biết người sanh năm nào thuộc sao gì? Tìm sao đó nơi cột 1 rồi dò ngang qua tới tháng sanh thuộc sao nào mới trúng.

    Đây ba ngươn nhỏ 180 năm, cung Phi sẽ giáp lại ngươn lớn thứ nhất: Bảy ngươn nhỏ là 420 năm.

    Ngày giờ và nhị thập bát tú giáp lại nhưng chưa đủ, phải ba ngươn lớn 1260 năm mới giáp cả lại.
    [​IMG]

    PHÉP BẤM TAY COI SAO
    (Cho nam, nữ mạng)​

    Ngôi vị các sao Nam mạng và Nữ mạng khác nhau. Trước hết xem cho Nam mạng nên nhớ kỹ chín vì sao này theo thứ tự, vị nào đóng tại cung ấy, bàn tay vẽ theo đây và điểm thuận chiều kim đồng hồ.

    La Hầu, Thổ Tú, Thủy Diệu, Thái Bạch, Thái Dương, Vân Hớn, Kế Đô, Thái Âm, Mộc Đức. Khởi 10 tuổi tại La hầu, phi thuận mỗi vị tăng 10, hết tuổi chục đến tuổi lẻ, trúng vị sao nào là người ấy thuộc sao đó.
    [​IMG]

    Giả như ông 23 tuổi nhằm sao nào? Khởi 10 tại La Hầu, 20 tại Thổ Tú, 21 tại Thủy Diệu... đến 23 tại sao Thái Dương, là ông 23 tuổi nhằm sao Thái dương.

    Hoặc giả ông 56 tuổi sao gì? Khởi 10 tại La Hầu... đến 50 tại Thái Dương, đếm tiếp tuổi lẻ 51 tại Vân Hớn... đến 56 tại Thổ Tú, là ông 56 tuổi thuộc sao Thổ Tú.
    [​IMG]

    Nữ mạng cũng do chín vì sao ấy, mỗi cung mỗi vị, nhưng muốn khỏi lầm lẫn với Nam mạng nên đọc tắt là Kế, Hớn, Mộc, Âm, Tú, La, Dương, Bạch, Diệu, cũng điểm như trên thuận theo đồng hồ. Giả như bà 33 tuổi sao gì? Khởi thuận 10 tại sao Kế, 20 tại Hớn, 30 tại, 30 tại Mộc, đếm tiếp số lẻ 31 tại Âm, 32 tại Tú, 33 tại La, bà 33 tuổi thuộc sao La Hầu.

    Thêm một ví dụ nữa: bà 57 tuổi sao gì? Khởi 10 tại Kế, 20 tại Hớn... đến 50 tại tại Tú, đếm tiếp số lẻ 51 tại La, 52 tại Dương.... đến 57 tại Mộc Đức, tức bà 57 tuổi nhằm sao Mộc Đức.

    Chú ý: Ông bà nào muốn cúng sao giải hạn, nên coi cách cấm đèn, vẽ bài vị, bài nguyện cúng vái ở lịch Á Đông năm 1969 là đúng cách nhất.
    PHÉP BẤM TAY COI HẠN HUỲNH TUYỀN
    (Nam mạng)


    Nam thuận, nữ nghịch. Mỗi vị một cung theo bàn tay vẻ trước đây: Huỳnh Tuyền, Tam Kheo, Ngũ Mộ, Thiên tinh, Tán Tận, Thiên La, Địa Võng, Diêm Vương.

    Nam khởi thuận tại Huỳnh Tuyền hết tuổi chục đến tuổi lẻ. Ví dụ người 23 tuổi nhằm hạn gì? Khởi 10 tại Huỳnh Tuyền, 20 tại Tam Kheo, 21 tại Ngũ Mộ, 22 tại Thiên Tinh, 23 tại Tán Tận. Ông 23 tuổi hạn Tán Tận.

    Ví dụ ông 54 tuổi hạn gì? Khởi 10 tại Huỳnh Tuyền, 20 tại Tam Kheo... đến 50 tại Tán Tận, đếm tiếp số lẻ 51 tại Thiên Tinh, 52 tại Địa Võng.... đến 54 tại Huỳnh Tuyền. Ông 54 tuổi hạn Huỳnh Tuyền.

    Coi cho Nữ mạng thì khởi 10 tại Tán Tận, đếm ngược lại chiều kim đồng hồ. Ví dụ bà 33 tuổi nhằm sao nào? Khởi 10 tại Tán Tận, nghịch chiều 20 tại Thiên Tinh, 30 tại Ngũ Mộ, đếm tiếp số lẻ, 31 tại Tam Kheo, 32 tại Huỳnh Tuyền, 33 tại Diêm Vương.

    Cô 17 tuổi hạn gì? Khởi 10 tại Tán Tận, 11 tại Thiên Tinh.... đến 17 tại Thiên La, cô này hạn Thiên La. Muốn giải hạn cúng sao coi sách Kim Oanh Ký 5 trúng cách hơn hết.​
    LUẬN VỀ PHI CUNG

    Quan hệ là cung Phi mới được dùng chọn tuổi vợ chồng tốt hay xấu, hoặc tạo tác các việc nhà cửa, mồ mả phương hướng mới đúng, được phú quí, thọ bần tiện, ngộ họa phước v.v...

    Như luận về bát san tuyệt mạng, nhiều người tưởng rằng chỉ có sự hôn nhân mà đôi vợ chồng phải chết gấp, ở chưa nát chiếc chiếu phải chết. Nếu hỏi ai chết thì ngơ ngẩn cho rằng không chồng thì vợ, hoặc chết cả hai.

    Như vậy là chưa tường tận cung Phi, chưa rõ diệu lý bát quái, ngũ hành nào phải riêng hai vợ chồng mà có cả tám người chịu liên quan đến.

    Giả như câu: "Bà Càn đi chợ phù Ly" thì biết rằng Càn và Ly đại kỵ sanh sự chết chóc là tại lý do nào? Kỵ ai là chánh. Xin nêu một thí dụ: chồng cung Càn, cưới vợ cung Ly, hoặc chồng cung Ly cưới vợ cung Càn. Hoặc chủ nhà cung Càn đứng tạo tác hướng Ly, hoặc chủ nhà cung Ly dùng phạm hướng Càn. Nói tắt là Càn phối Ly rất đại kỵ. Bởi Ly âm Hỏa khắc Càn dương Kim. Theo Bát quái vạn loại thì Càn thuộc về chồng dẫu chồng Càn vợ Ly hay ngược lại vợ Càn chồng Ly, cũng vẫn Ly khắc Càn. Càn là chồng khắc hại chồng, không bao giờ xung phạm khắc hại đặng người vợ. Nếu có khắc hại người vợ phải chăng là ở một phạm vi khác ngoài phạm vi Càn Ly. Nghĩa là không phải phạm vi Càn Ly thì không bao giờ nguy hại đến chồng được.

    Bạn cứ xem bộ Kim Oanh Ký 2, 3, 4 do nhà sách Hồng Dân xuất bản thì thấy rõ những quan hệ cho chồng, cho vợ hoặc cho ai trong gia đình. Bạn sẽ hiểu thấu gia đình người ta tại sao sanh sự thối tài, tai nạn quan phi lẫm chết chóc và người ở hướng nào gieo họa cho họ. Chỉ cần sửa cái bếp thế nào, cầu của đặng của, cầu con đặng con, tai qua nạn khỏi, tật bệnh tiêu trừ, con cái đi xa về, tớ trốn phải về rất ứng nghiệm, vạn nhất là phải ăn ở hiền lành mới đặng.

    Tôi xin nêu thêm một câu trong bộ Kim Oanh Ký như vầy: "Tốn nhập Khôn vị mẫu Ly ông". Nói là chủ nhà cung Tốn dùng lầm cung Khôn, bởi Tốn Mộc khắc Khôn Thổ. Khôn thuộc vợ tất phải riêng chịu, phi mạng không phạm đến chồng, có chăng là ông không còn người vợ hiền hòa.
    BÁT SAN TUYỆT MẠNG
    (Đại hung kỵ)

    Bà Càn đi chợ phù Ly,
    Mua con cá Cấn làm chi Tốn tiền.
    Bà Khảm đi chợ Khôn về,
    Con Đoài cháu Chấn mựa hề lấy nhau.​

    Càn, Khảm, Cấn, Chấn vi dương: Ly hỏa khắc Càn Kim, Khôn Thổ khắc Khảm Thủy, Tốn Mộc khắc Cấn Thổ, gọi là Bát san tuyệt mạng, riêng về hôn nhân thì chẳng quan hệ đến vợ đặng.
    BÁT SAN NGŨ QUỈ GIAO CHIẾN
    (Thứ hung)​

    Chấn với Càn; Khảm với Cấn; Tốn với Khôn; Ly với Đoài. Toàn dương khắc dương, âm khắc âm gọi là ngũ quỉ giao chiến, sanh thị phi cãi vã không kiêng nể nhau gọi là thứ hung.
    HỌA HẠI TUYỆT THỂ

    Càn với Tốn; Khảm với Đoài; Cấn với Ly; Khôn với Chấn là Kim, Mộc, Thổ tương khắc. Tỵ, Dậu, Sửu, Ngọ tương phá gọi là họa hại thứ hung.
    LỤC SÁT DU HỒN
    (Thứ hung)​

    Càn với Khảm; Cấn với Chấn, Tốn với Đoài; Khôn với Ly là lục thân tương hình gọi là lục sát hoặc du hồn.
    SANH KHÍ ĐẠI KIẾT

    Càn với Đoài; Khảm với Tốn; Cấn với Khôn; Chấn với Ly.
    DIÊN NIÊN PHƯỚC ĐỨC KIẾT

    Càn với Khôn; Khảm với Ly; Cấn với Đoài; Chấn với Tốn.
    THIÊN Y KIẾT

    Càn với Cấn; Khảm với Chấn; Tốn với Ly; Khôn với Đoài.
    PHỤC VÌ THỨ KIẾT

    Càn với Càn; Khảm với Khảm; Cấn với Cấn; Chấn với Chấn; Tốn với Tốn; Ly với Ly; Khôn với Khôn; Đoài với Đoài.
    HẬU THIÊN BÁT QUÁI
    - Càn vị phụ.
    - Khảm vi trung nam.
    - Cấn vi thiếu nam.
    - Chấn vi trưởng nam.
    - Tốn vi trưởng nữ.
    - Ly vi trung nữ.
    - Khôn vi mẫu.
    - Đoài vi thiếu nữ.
    Những sự kiết hung trên đây không tài nào thuộc lòng được, sách Kim Oanh Ký 2 có chỉ lối bấm tay ngộ nghĩnh thật hay nghe cung nào với cung nào thì biết ngay là kiết hay hung, khỏi cần lật đến sách.

    Muốn biết cung Phi nam mạng cung gì? Nữ mạng cung gì? Tiện đây soạn giả Kim Oanh Ký hiến cho độc giả một lối rất đơn giản này nữa đây.
    PHI CUNG BÁT TRẠCH

    Xem ngày Lập Xuân nhằm ngày đầu tiên năm dương lịch mấy, để toán con số đặc biệt của năm đó ra Phi cung. Bởi ngày Lập Xuân còn trong tháng Chạp, có khi trễ đến gần giữa tháng giêng, nếu chưa Lập Xuân phải tính theo năm cũ. Dùng năm dương lịch phi ra như sau: thí dụ năm 1968 xem cung Phi cho họ, bạn cộng các số năm đó ra bao nhiêu, nếu hơn 9 thì trừ cho 9 còn bao nhiêu, lẽ dĩ nhiên năm đó có con số 9 nào bỏ ngay ra, như năm 1968 phải bỏ con số 9 ra, cộng các số còn lại: 1+6+8 = 15, trừ 15 cho 9 còn 6. Số 6 này là con số duy nhất, toán ra Phi cung cho năm 1968. Ví du: Nữa đến năm 1999, chỉ việc bỏ hết mấy con số 9, còn số 1 dùng con số 1 ấy toán ra Phi cung cho năm 1999 vậy.
    [​IMG]

    Bạn xòe bàn tay trái ra dò theo hình vẽ ở dưới, nhận thức cung nào cho quen mới mau hiểu.

    Mỗi lóng tay có ghi số từ 1 đến 9. Số 1 tại chân ngón trỏ là cung thứ nhất là nhứt Khảm, số 2 là nhì Khôn, số 3 là tam Chấn, số 4 là tứ Tốn, số 5 là ngũ Trung, số 6 là lục càn, số 7 là thất Đoài, số 8 là bát Cấn, số 9 là cửu Ly. Cung nào đóng ngôi ấy không thay đổi.

    Riêng cung Ngũ Trung đóng tại đầu ngón tay giữa khi bấm tuổi nam mạng nhằm cung đó thì tính ông ấy cung Khôn, bằng bấm tuổi cho nữ mạng thì cung ấy là cung Cấn (Nam Khôn, nữ Cấn), còn tám cung kia thì rõ rệt mỗi cung rồi, đặc biệt không tính ba cung Hợi, Tý, Sửu dưới chân ngón út và ngón áp út và ngón giữa.

    Nam nữ đồng một tuổi với nhau mà cung Phi lại khác, nam Đoài nữ Cấn, nhược nam Cấn thì nữ Đoài, chỉ có cung Chấn nam nữ mới trùng với nhau.

    Phép toán này nam khởi thuận hành tại cung Khảm, nữ khởi nghịch hành tại Ngũ Trung và cất mỗi cung một chục (10, 20, 30...), hết tuổi chục đến tuổi lẻ, đến tuổi lẻ của người ta tại cung nào thì tính cung đó.

    Số đặc biệt mỗi năm có một số, từ 1 đến 9, năm nào toán nhằm số 2 thì khởi 2, cung kế là 12, 22, 33... hết tuổi chục đến tuổi lẻ, hoặc nhằm năm đó có số 5 thì khởi 5, lên 15, 25, 35, 45... còn lẻ nữa thì tiếp 46, 47, 47, 48, 49, 50, 51 v.v... đến tuổi người ta xem sẽ dừng lại tại đó.
    PHÉP TOÁN PHI CUNG BÁT TRẠCH

    - Nam mạng khởi Khảm thuận hành: Giả như năm 1968 bạn coi cụ 70 tuổi cung gì? Năm 1968 theo cách tính trên con số 6 là con số đặc biệt chiếm Phi cung cho năm 1968.

    Bàn coi hình bàn tay, khởi số 6 đặc biệt ấy lên cung nhứt Khảm, cất mười thuận hành thì 16 tại nhì Khôn, 26 tại tam Chấn, 36 tại tứ Tốn... tới 66 tại thất Đoài, đếm tiếp số lẻ 67 bát Cấn, 68 cửu Ly, 69 nhứt Khảm, 70 nhì Khôn. Ông 70 tuổi này năm 1968 là cung Khôn.

    Ví dụ thứ 2: Năm 1974, anh 26 tuổi cung gì? Năm 1974 bỏ số 9 ra, cộng các số còn lại: 1+7+4 = 12, trừ số 12 cho 9 còn số 3 là con số đặc biệt để chiếm Phi cung cho năm 1974. Khởi 3 tại nhứt Khảm, cất mười thuận hành đến 13 tại nhì Khôn, 23 tại tam Chấn, đếm tiếp số lẻ 24 tại tứ Tốn, 25 tại Ngũ trung, 26 tại lục Càn, anh 26 tuổi năm 1974 này là cung Càn. Dùng cung Càn chọn hôn nhân cùng việc tạo tác phương hướng mới đúng việc kiết hung (Coi bàn tay Phi Cung Bát Trạch).

    - Nữ mạng khởi Ngũ Trung nghịch hành: Chiếm Phi cung nữ mạng khởi tại Ngũ Trung nghịch hành cũng dùng số đặc biệt của năm ấy và cất mười hết tuổi chục tiếp tuổi lẻ.

    Thí dụ năm 1968 bà 38 tuổi cung gì? Năm 1968 số đặc biệt là con số 6, bấm 6 lên Ngũ Trung rồi nghịch chiều lại, cất mười là 16 tại tứ Tốn, 26 tại tam Chấn, 36 tại nhì Khôn, đếm tiếp số lẻ 37 tại nhứt Khảm, 38 tại cửu Ly, bà 38 tuổi này năm 1968 là cung Ly. Dùng cung Ly chọn hôn nhân cùng các việc tạo tác phương hướng v.v...

    Ví dụ thứ 2: Vào năm 1972 chị 18 tuổi cung gì? 1972 bỏ con số 9 ra, cộng các số: 1+7+2 = 10, trừ 10 cho 9 còn số 1, đó là số đặc biệt để chiếm Phi cung nữ mạng. Khởi số 1 lên Ngũ Trung, cất mười nghịch hành 11 tại tứ Tốn, 12 tại tam Chấn, 13 tại nhì Khôn, 14 tại nhứt Khảm... tới 18 tại lục Càn là tuổi chị năm 1972 này là cung Càn. Dùng vào việc hôn nhân và tạo tác phương hướng mới đúng việc kiết hung (Coi bàn tay Phi Cung Bát Trạch).
    PHI CUNG ĐẶC BIỆT

    Còn một lối Phi cung đặc biệt hơn, khách nói tuổi vừa xong, tôi đã biết là cung gì rồi, cũng nhờ tìm ra có số riêng biệt của mỗi năm mà biết lẹ làng, nhưng mình phải biết mình cung gì trước đã, mới biết được của người ta. Muốn hiểu cung mình thì xem cách toán phi cung ở trên. Biết mình cung gì rồi, bạn làm ba thí dụ sau:

    Thí dụ 1: Năm Mậu Thân 1968 này, người 52 tuổi cung nhì Khôn là số 2, cộng số 52 là: 5+2 = 7, đem số 7 trừ cho số 2 (nhì Khôn), còn dư 5. Số 5 này là số đặc biệt dùng để tính cung Phi năm 1968. Giả như ông khách 54 tuổi, nói vừa dứt lời, tôi biết ngay ông là cung Tốn, vì số 54 năm nay phải bỏ con số 5, còn lại số 4 là tứ Tốn, hoặc nói ông 75 tuổi thì biết ngay là ông cung thất Đoài, vì bỏ số 5 còn lại số 7 là thất Đoài, hoặc giả ông 43 tuổi, thì cộng 4 với 3 là 7, trừ cho 5 còn số 2 là cung nhì Khôn.

    Năm nào gặp những ông năm mươi mấy như 51, 55, 57 tuổi hoặc có tuổi lẻ như 15, 35, 75, chỉ việc bỏ phức con số 5 ra, số còn lại là cung phi của họ, giả như ông 35 hay 53, bỏ ngay con số 5 còn lại số 3. Hai ông ấy đồng cung tam Chấn.

    Thí dụ 2: Nhằm trường hợp cộng tuổi người ta lại nhỏ hơn con số trừ của năm đo phải làm thế nào? Giả như người 21 tuổi, cộng hai với 1 là 3, trong năm 1968 này phải trừ cho số 5 là số đặc biệt thì 3 trừ 5 không được.
    a.- Để nguyên số 21 trừ cho 5 còn 16, cộng 1 với 6 là 7, nhằm cung thất Đoài.

    b.- Hoặc thêm 9 cho 3 là 12, trừ cho 5 còn 7 cũng vậy, gặp những số tuổi cộng lại nhỏ hơn số đặc biệt năm đó thì cứ thêm 9 vào số tuổi sẽ trừ cho số đặc biệt hàng năm thì không sai.
    Thí dụ 3: Thêm một thí dụ nữa để cho bạn vững lòng tin lối Phi cung này là đúng một trăm phần trăm. Như thí dụ thứ nhất trên đây, năm Mậu Thân 1968 có ông 52 tuổi cung nhì Khôn, lấy số tuổi của ông trừ cho cung nhì Khôn là 2 thấy được rồi, nhưng qua năm Kỷ Dậu 1969 nếu trừ lại con số 2 nữa thì phải sai hoặc phải dùng con số nào khác chăng?

    Nhứt định không sai, trót đời ông cung nhì Khôn ấy, bắt cứ năm nào cứ trừ tuổi ông ta cho cung nhì Khôn của ông, lấy số trừ ấy trừ cho tuổi của ai ra cung người ấy không sai. Giả như 1968 ông 52 tuổi, trừ cung nhì Khôn ra còn dư 5, lấy số 5 mà trừ. Qua năm 1969 ông ấy 63 tuổi, cộng 5 với 3 là 8, trừ cung nhì Khôn là số 2 còn dư 6, lấy số 6 trừ cho họ phải đúng vì mỗi năm các ông tăng một tuổi, con số đặc biệt cũng tăng theo mãi. Như năm 1968 ông 45 tuổi trừ 5 còn số 4 là cung tứ Tốn, qua năm sau nữa ông 1969 ông 46 tuổi, trừ lại cho 6 cũng còn số 4 là tứ Tốn, qua năm sau nữa 1970 ông được 47 tuổi, lại trừ cho con số 7 còn lại số 4 là tứ Tốn, không sai được.

    Bài này rất dài dòng, bạn nào không hiểu tức học lực còn non kém, vậy hãy để bàn tay lên mà tập vài lượt thì hiểu được, còn bạn nào học lực khá hơn, xem chừng nửa bài này cũng hiểu được rõ ràng. Nói cho dài dòng chứ thật ra năm 1968 bất cứ tuổi nào ai cũng lớn hơn cung Phi của mình 5 bậc. Qua năm 1969 ai cũng lớn hớn cung Phi của mình 6 bậc, mỗi năm mỗi tăng đến 9 bậc rồi trở về 1,2...

    Khi bạn hiểu thấu tức biết năm nay dư 5, sang năm dư 6.
    PHI CUNG NỮ MẠNG

    Phải cho nam mạng lẹ như thế đó, còn nữ mạng phải chậm hơn, vì Phi cung của nữ mạng phải tùy theo Phi cung của nam mạng mà biến ra. Nhớ rằng nam nữ đồng tuổi nhau, hễ nam nhứt Khảm thì nữ ngũ trung Cấn, nam nhì Khôn thì nữ tứ Tốn, nam tam Chấn thì nữ tam Chấn, nam tứ Tốn thì nữ nhì Khôn, nam ngũ trung thì nữ nhứt Khảm, nam lục Càn thì nữ cửu Ly, nam thất Đoài thì nữ bát Cấn, nam bát Cấn thì nữ thất Đoài, nam cửu Ly thì nữ lục Càn. Ví dụ: Năm 1968, ông 69 tuổi là cung nhứt Khảm, bà 60 tuổi là cung ngũ trung Cấn - hay ông 61 là cung nhì Khôn, thì bà 61 là cung Tứ Tốn v.v... Nhớ như vầy: nam nhứt nữ ngũ, nam ngũ nữ nhất, nam nhị nữ tứ, nam tứ nữ nhị, nam tam nữ tam, nam lục nữ cửu, nam cửu nữ lục, nam thất nữ bát, nam bát nữ thất.
    BÁT TỰ LỮ TÀI TRẦN TỬ TÁNH

    Cung phi bát trạch dùng cả việc tạo tác và hôn nhân, khi xét qua hôn nhân nam nữ được bát trạch tốt thì dung được đại kiết, nếu được Bát Tự Lữ Tài thì càng thượng kiết. Nếu chọn Bát trạch không tốt như Bát Tự Lữ Tài được đại kiết cũng tạm dùng được gọi là tiểu kiết, bằng Bát trạch và Bát tự cùng xấu thì chẳng nên dùng.

    Dùng đến Bát Tự Lữu tài thì nam mạng có Lữ Tài khác với cung Phi, những sự kiết hung nhiều điểm khác Phi cung. Về phần nữ mạng dù hôn nhân hay tạo tác cũng chỉ dùng cung phi Bát trạch không thay đổi, nghĩa là bà cung Càn Bát trạch thì dùng cung Càn luôn về hôn nhân cả sự tạo tác và các việc.

    Muốn chiếm cung bát Tự cho nam mạng thì mình khoa học hóa cho tiện, nghĩa là dùng cung phi Bát trạch phi ra cung Bát Tự. Giả như ông nọ cung Khảm Bát trạch thì đếm 1 tại Khảm thuận đến cung thứ 7 tại Đoài là ông cung Khảm Bát Trạch, thì Bát Tự là cung Đoài. Hoặc giả ông nọ cung Càn đếm 1 tại Càn đến 7 tại Chấn thì đúng.
    BÁT TỰ LỮ TÀI
    (Kiết hay hung)

    Nhứt Khảm biến thượng làm sao?
    Đã đặng sanh khí ai nào phân lê.
    Tuyệt mạng, tuyệt thể mựa hề,
    Bát san xung khắc phân chia cửa nhà.
    Thiên y, phước đức ai qua,
    Đặng hai cung ấy người ta sang giàu.
    Du hồn, qui hồn thứ sau,
    Hiệp hôn cung ấy lấy nhau tầm tường.
    Ngũ quỉ thì ta phải nhường,
    Vợ chồng nghịch ý tư lương đêm ngày.
    Lưu truyền cho thế gian hay,
    Hễ sự giá thú dùng tay Lữ Tài.​
     
  11. Iris_Goni

    Iris_Goni Thần Tài Perennial member

    [​IMG]


    :126::126::126: Trùm cuối CCNH tính lô AB
     
  12. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    thaolam.bmt, Tuyet Son and GIO_LANH like this.
  13. anhhoa22

    anhhoa22 Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    thaolam.bmt thích bài này.
  14. thaolam.bmt

    thaolam.bmt Thần Tài

    Mình muốn mua quyên Kim Oanh ký nay mà ko biết ở đâu bán . Bạn nào biết chỉ giùm đc ko. Thakhyou
     
  15. Lâm Vân

    Lâm Vân Thần Tài Perennial member

    [​IMG][​IMG][​IMG][​IMG]

    Quét dọn nhà cho chị 2 mai chị 2 ở Mỹ dìa gòi :126::125:
     
  16. bosspro

    bosspro Thần Tài

    AB 3 miền : 14,15,16,51 _Lô 15
    ( tái bút : đừng ném đá mình nha mấy bạn ..post dùm 1 người thui hihihi ) chúc cả nhà bigwin !!!
     
    Chỉnh sửa cuối: 10/9/13
    bady1994, cubin1234567, M58 and 3 others like this.
  17. bosspro

    bosspro Thần Tài

    Nhận lô 15 nà :wins:
     
    quanghuyhhv1 and chocon like this.
  18. bosspro

    bosspro Thần Tài

    Lụm tiếp B 16 mt nghen ... hihihi hi :wins::wins:
     
    quanghuyhhv1 and chocon like this.
  19. ĐỘC CÔ CẦU BẠI

    ĐỘC CÔ CẦU BẠI Thần Tài Perennial member

    anh có trọn bộ kim oanh kí lưu trong ổ đĩa D nhưng muốn úp ra diễn đàn để AE xem thì làm như thé nào
     
  20. kinkai

    kinkai Thần Tài

    gửi anh xem thử cách upload file . :tea:
     

    Các file đính kèm:

    bosspro thích bài này.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.