Lỗ tướng thị ngư bản tích nhân Cổ thời tâm nhĩ bất li thân Nhi kim nhược tận Công Nghi lão Thiên hạ phùng xuân bách tuế dân
Cư thân vụ kì kiệm phác Giáo tử yếu hữu nghĩa phương Mạc tham ý ngoại chi tài Mạc ẩm quá lượng chi tửu Dữ kiên khiêu mậu dịch Vô chiếm tiện nghi Kiến cùng khổ thân lân Tu gia ôn tuất Dịch nghĩa Sống cốt ở chỗ tiết kiệm và giản dị Dạy con cháu phải theo điều nghĩa Chớ có tham tiền của không phải do mình làm ra Chớ có uống rượu quá độ lượng Khi cùng với người khác trao đổi mua bán Chớ có giành phần hơn về mình Gặp bà con chòm xóm nghèo khổ Phải biết xót thương giúp đỡ
Mấy chữ này hay lắm nè anh ; chữ hán mà đời đông chu liệt quốc em mê lắm cái này lắm chữ cổ ... anh lấy hình này ở đâu vậy
Vương Hy Chi – Một chữ nghìn vàng Trong rừng bia ở Tây An có một tấm bia “Đại Đường Tam tạng Thánh giáo tự bi – 大唐三藏圣教序碑”, nhắc lại một câu chuyện hết sức ly kỳ trong Thư pháp sử: đại Thư pháp gia đời Tấn Vương Hi Chi viết văn bia của đời Đường 200 năm sau (Lạc khoản đề rõ “Tấn Hữu quân Vương Hi Chi thư”). Đã không ít nhà Thư pháp lớn tới xem bia, từng chữ, từng hàng đều đích xác bút tích của Thư thánh họ Vương trong khi nội dung văn bia lại chính là nói về chuyện Đường Thái Tông đã soạn và viết “Thánh giáo tự” cho Hoà thượng Huyền Trang. Quái sự này vốn có căn do từ câu chuyện Hoà thượng Huyền Trang sang Ấn Độ lấy kinh rồi trở về chuyên tâm dịch sang chữ Hán. Hoà thượng xin vua Thái Tông viết cho một bài tựa rồi gộp với bài văn của Thái tử Lý Trị cùng bài biểu tạ của Hoà thượng thành “Tam Tạng thánh giáo tự bi”. Bia này lập vào năm Đường Cao Tông Hàm Hanh thứ 3 (672 SCN) nhưng lệnh của triều đình bắt dùng thể chữ của Vương Hữu quân nhà Tấn để khắc bia. Có vị cao tăng là Hoài Nhân – 怀仁 ở chùa Hoằng Phúc – Trường An hay việc đó, liền nhận làm với tâm nguyện là hoằng dương Phật pháp. Ông liền quyết tâm đi khắp nơi thu thập chữ của Vương Hi Chi để ghép thành nội dung tấm “Tam tạng Thánh giáo tự bi” Tương truyền rằng, trong quá trình sưu tầm, Hoài Nhân không thể tìm ra mấy chữ, bất đắc dĩ tấu xin triều đình yết bảng hứa tặng cho ai dâng được mấy chữ đó, mỗi chữ 1 nghìn vàng. Câu “Nhất tự thiên kim – 一字千金” từ đó mà ra, trở thành một giai thoại trên văn đàn, đồng thời, thác bản tấm bia cũng được người đời gọi bằng cái tên “Thiên kim thiếp – 千金帖”.
Bình Ngô đại cáo Bình Ngô đại cáo (chữ Hán: 平吳大誥) là bài cáo của Nguyễn Trãi viết vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt. Về mặt văn chương, tác phẩm được người đương thời, ngay cả hậu thế, đều rất thán phục và coi là thiên cổ hùng văn. Có nhiều ý kiến cho rằng: đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của Việt Nam (sau bài thơ Nam quốc sơn hà và trước bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của chủ tịch Hồ Chí Minh).
Cảm ngộ Lan diệp xuân uy nhuy, Quế hoa thu hạo khiết. Hân hân thử sinh ý, Tự nhĩ vi giai tiết. Thuỳ tri lâm thê giả, Văn phong toạ tương duyệt. Thảo mộc hữu bản tâm, Hà cầu mĩ nhân chiết
Thư pháp Tại Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, các tác phẩm thư pháp thường được thể hiện bằng chữ Hánbút lông, mực tàu, giấy và nghiên mài mực, còn gọi là "văn phòng tứ bảo". Người Trung Hoa đã đưa nghệ thuật viết chữ lên thành một môn nghệ thuật cao quý có tính chất phô diễn khí phách tiết tháo của con người. Thư pháp tại Nhật Bản gọi là thư đạo trọng ý hơn trọng hình, còn tại Hàn Quốc gọi là thư nghệ. và sử dụng Thư pháp Á Đông vừa là một nghệ thuật độc lập, đồng thời là một thành phần trong bố cục của hội hoạ theo phong cách cổ Trung Hoa. Nhiều hoạ gia, như Tô Đông Pha, Mễ Phất đời Tống; Tề Bạch Thạch thời hiện đại, nổi tiếng cả về họa lẫn về thư pháp. Thư pháp hỗ trợ cho hội họa và bản thân một bức thư pháp đẹp cũng được coi như một bức họa với quan niệm "thư họa đồng nhất thể". Ngoài văn phòng tứ bảo, cũng cần kể đến ấn chương (con dấu hay triện) làm bằng các chất liệu như đá, gỗ, kim loại mà việc khắc chạm nó và đóng dấu sử dụng mực chu sa màu đỏ ở đâu trên bức thư pháp cũng đã được nâng lên thành bộ môn nghệ thuật Tại Triều Tiên, Nhật Bản, thư pháp cũng được đề cao. Trong các ngôi nhà cổ, người Nhật Bản thường dành một phòng cho nghi thức "trà đạo", trên vách có một ngăn riêng (gian thờ, gọi làtokonoma) để treo một bức thư họa. Ở Việt Nam mặc dù không có truyền thống thư pháp như Trung Hoa hay Nhật Bản, nhưng căn cứ vào một số di cảo, bút tích, mặc tích trên giấy tờ, sách vở, sắc phong hay văn bia còn lại thì nước ta cũng không ít những danh nhân được người đời xưng tụng. Ngày nay, chữ việt viết lối thư pháp bằng công cụ bút lông, mực tàu, như một sự tìm tòi hình thức biểu hiện mới, cũng đang dần trở nên được nhiều người quan tâm.
Đêm nay trăng gió thanh cao, Phòng ai xào xạc, gió vào tơ vương. Ngồi riêng ta bốn bức tường, Biết bao điều nhớ, mộng hường dáng em. Cảm ơn người đã ngó xem, Chúc duyên tình đó thuận thềm êm xuôi.
Đêm nay lòng trống nhiều bề, Lại đêm thức nữa, mệt mề nhớ chăng. Thức nhiều mắt xấu da nhăn, Khuya rồi đi ngủ, để tăng tuổi đời.
Đêm nay mang nỗi sầu ai, Ngủ không thẳng giấc, lai rai thức hoài. Không sao chợp mắt mệt nhoài, Ngon bao nhiêu giấc, mặn mòi đêm thâu.
Ðêm đã khuya vì sao mình chưa ngủ Trăng tỏ mờ đưa lối mộng tìm ai Gió vờn lay tàn lá giọng khôi hài Ðèn kia tỏ hay lời người mong tỏ Ðêm ngõ xa ngồi mơ người chốn nọ Trăng hóa tình và gió thoảng ru thơ Chút vu vơ mà lạ chẳng hững hờ Ðêm với mộng gieo vào tim tình thở Ðêm đã khuya mà như còn nặng nợ Chờ ai về cho ngọc thỏa trăng thơ Dẫu không giờ nhưng tim lòng vẫn ngỡ Ai ngóng chờ Ai với mộng đêm thơ
Đêm này chỉ có mình ta Ngồi uống rượu với bóng hình ta Bỗng dưng có giọt lệ nhòa Tận trong chén rượu biết là vì đâu Giot thương,giot nhớ,giot sầu Giọt nào cung mặn từ lâu lắm rồi Nỗi buồn đốt cháy bờ môi Uống sao cho cạn bóng người ta yêu Tương tư chén lệch bình xiêu Ngoài kia sương lạnh đã nhiều mưa bay Cứ gì với rượu mới say Trang sắp cạn khuyết nửa ngày qua.
Đã có lần anh nói em nghe Chuyện tình yêu chúng mình không đơn giản Anh quá phiêu lưu còn em thì lãng mạn Trong tình yêu hò hẹn quá mong manh… Sóng bạc đầu kể từ đó phải không Anh ? Có ngàn năm biển vẫn xanh huyền bí Không phải đâu em biển chẳng hề chung thủy Dẫu bạc đầu mà sóng vẫn thủy chung Anh dắt em giữa biển nghìn trùng Nghe dã tràng kể chuyện xưa xa vắng Dẫu không phải tình đầu em trong trắng Chi mong anh một lòng với cổ tích biển ngày xưa !
1. Hãy lấy lại can đảm từ những lần thất bại của chính mình. 2. Sung sướng có chừng mực khi thành công. Đau khổ chừng mực khi hoạn nạn. 3. Nghèo hèn sinh ra cần kiệm, Cần kiệm sinh ra giàu sang, Giàu sang sinh ra kiêu sa, Kiêu sa sinh ra nghèo hèn. 4. Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học. 5. Một lạng trung thực bằng một tấn thông minh. 6. Im hơi lặng tiếng là một đức hay, nhưng nếu danh dự bắt buộc phải lên tiếng mà im lặng thì lại là một sự hèn nhát. 7. Khiêm tốn là đức tính tốt, nhưng quá khiêm tốn sẽ sinh lòng giả dối. 8. Hãy cảm ơn ngọn đèn vì ánh sáng của nó, nhưng chớ quên người cầm đèn đang kiên nhẫn đứng trong đêm. 9. Nghi vấn: đó là cuội nguồn của sự khôn ngoan. 10. Sống là yêu và cần nhất là yêu cuộc sống. 11. Không oán trời, không oán người. 12. Hãy hy vọng vào những điều tốt nhất nhưng hãy chuẩn bị cho những điều xấu nhất. 13. Này kẻ nên khôn đều có dại, Làm người có dại mới nên khôn. 14. Đã mang tiếng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sông. 15. Sự kiên nhẫn gặt hái sự an bình, Sự vội vàng gặt hái sự tiếc nuối. 16. Đừng thương tiếc hôm qua, đừng chờ đợi ngày mai, đừng lảng tránh hôm nay. 17. Điều kiện đầu tiên để bạn bè xích lại đó là sự chân thành. 18. Đừng bao giờ khuyên ai trừ khi họ hỏi mình. 19. Người thông minh và người tốt luôn nhìn thấy cái thông minh và cái tốt của người khác. 20. Trong cảnh nghèo mới biết ai là bạn ta. 21. Đừng nói về hạnh phúc của mình với một người kém sung sướng hơn bạn. 22. Đánh mất tình bạn trong cuộc đời cũng như đánh mất ánh sáng của mặt trời. 23. Hạnh phúc giống như thủy tinh, càng rực rỡ bao nhiêu càng mỏng manh bấy nhiêu. 24. Một loại nhựa tốt nhất cho cuộc sống đó là ‘sự lãng quên’ 25. Hãy yêu thật sự cũng như biết tha thứ lỗi lầm. 26. Con đường của tình yêu chân thật không bao giờ bằng phẳng cả. 27. Tình yêu là món quà qúy giá nhất mà con người nhận được của nhau.
QUÊ HƯƠNG 1. Đất khách muôn trùng sao nhỏ hẹp Quê nhà một góc nhớ mênh mang. 2. Dù xa cách mấy trùng dương Ở đâu cũng có quê hương trong lòng. 3. Trăng đâu chẳng phải là trăng Mà sao vẫn nhớ vầng trăng quê nhà. 4. Quê hương mỗi người chỉ một Như là một chỉ mẹ thôi. 5. Đêm náy gió lạnh trùng khơi Quên hương còn mãi những lời mẹ ru 6. Ra đi cánh gió phương trời lạ Vẫn nhớ non sông một mái nhà. 7. Cây có cọi mới trổ cành xanh lá Nước có nguồn mới bủa khắp rạch sông. 8. Ô hay mọi cái đều thay đổi Còn với non sông một chữ tình. 9. Thân cư hải ngoại Tâm tại cố hương. 10. Khi tóc bạc trên đầu trôi dạt mãi Cội nguồn ơi chiếc lá lại rơi về. 11. Muôn địa phương cũng chỉ là ga tạm Một Huế thôi nhớ mãi lại quay về. 12. Giọt sương trên cỏ hôm qua Giật mình chợt hỏi quê nhà ở đâu. 13. Không có mảnh đất nào êm dịu bằng quê cha đất tổ. 14. Ăn cơm mẻ bát xứ người Vẫn còn canh cánh góc trời chân quê. 15. Quê hương là suối tóc huyền Là duyên nón là là thuyền nón ai. 16. Ra đi vọng lại cố hương Nhớ người yêu dấu vấn vương bao tình. 17. Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn. 18. Người ta có rất nhiều nơi để đến, nhưng chỉ có một chốn để quay về. 19. Quê hương nếu ai không nhớ Sẽ không lớn nổi thành người. 20. Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương. Nhớ ai dãi nắng dầm sương Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao. 21. Ngày nào lúa xanh thì thầm bảo Ra đi quê cũ chớ thờ ơ Bao giờ gót cũ hoen sắc xám Trở lại tình quê vẫn đợi chờ. 22. Quê hương là con đò nhỏ Mẹ về khua nước ven sông Quê hương là đêm trăng tỏ Hoa cau rụng trắng ngoài thềm. 23. Quê hương là gì hở mẹ Mà sao cô giáo bảo phải yêu Quê hương là gì hở mẹ Mà ai đi xa cũng nhớ nhiều.
Quê Hương Dù xa cách mấy trùng dương Nơi đâu cũng có quê hương trong lòng Đất khách muôn trùng sao nhỏ hẹp Quê nhà một góc nhớ mênh mông Trăng đâu chẳng phải là trăng Mà sao vẫn nhớ vầng trăng quê nhà Quê hương mỗi người chỉ một Như là chỉ một mẹ thôi Quê hương nếu ai không nhớ Sẽ không lớn nổi thành người Đêm nay gió lộng trùng khơi Quê hương còn mãi những lời mẹ ru Ra đi vọng lại cố hương Nhớ người yêu dấu vấn vương bao tình Khi ta ở chỉ là nơi đất ở Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn Có phải tiếc xuân mà đứng gọi Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ Ngược xuôi xứ lạ rưng rưng nhớ Chiều nghiêng quán đợi gọi mùa sang Giọt sương trên cỏ hôm qua Giật mình chợt hỏi quê nhà là đâu Không có mảnh đất nào êm dịu bằng quê cha đất tổ Quê hương là suối tóc huyền Là duyên nón lá là thuyền dáng ai Cơm ăn mẻ bát xứ người Vẫn còn canh cánh góc trời chân quê Ngày nào lúa xanh thầm thì bảo Ra đi quê cũ chớ thờ ơ Bao giờ gót cũ hoen sắc xám Trở lại tình quê vẫn đợi chờ Muôn địa phương cũng chỉ là Ga tạm Một Huế thôi nhớ mãi lại quay về Thân cư hải ngoại Tâm tại cố hương Từ độ mang gươm đi mở cõi Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long Huỳnh Văn Nghệ Đào tạo nhân tài xây Tổ Quốc Phát huy dân trí dựng quê hương Ô hay mọi cái đều thay đổi Còn với non sông một chữ tình Cây có cội mới trổ cành xanh lá Nước có nguồn mới bủa khắp rạch sông Ra đi cánh gió phương trời lạ Vẫn nhớ non sông một mái nhà
Chiều xuân bên Phủ Tây Hồ Kìa tóc ai vương hạt bụi xuân Môi trầu gió mỏng áo tứ thân Gót hài tha thướt duyên cười nụ Tôi ngỡ bầy tiên vãn cảnh trần Tiên Giáng Tiên về với cõi tiên Tôi lạc vào đây chốn cửa thiền Nam mô em ở phương nào hỡi Về với xuân nào kẻo hết duyên Xe gió áo mây người bỏ lại Tây Hồ cõi mộng vắng thi nhân Chúa Liễu trêu người si tình ấy Nay hóa thân vào có phải em.