Hoài Niệm Còn đây tôi với chiều không Nhặt cành hoa tím thả dòng tâm tư Nghe trong sâu thẳm môi cười Có dòng nước mắt khóc người hôm qua Niềm yêu với lại ngày xa Cho gần nỗi nhớ tiếc hoài tháng năm Dòng sông xưa vẫn một dòng Chiều nay nỗi nhớ trong lòng hồi sinh Đưa tay tôi vịn bóng mình Mới hay tình đã vô hình từ lâu
Tình phố Núi Bùi Thanh Minh Sải nằm nghe tiếng con vượn hót ngoài thác Bạc suốt từ bốn giờ sáng. Tiếng hót lúc véo von, khi tha thiết; có lúc lại chìm vào tiếng thác nước đổ ào ào như rừng động, nước từ trên cao dội xuống tràn ra lênh láng, từng đợt, từng đợt như sóng của con suối Trung Hồ. Tiếng vượn vút lên tới non cao, rồi thả xuống vực thẳm, lặng chìm sâu đáy suối. Bên nhà thằng Cư Seo Phủ đàn lợn cũng thức dậy đuổi nhau, cắn nhau ngoài vườn vải kêu chí chóe. Sải trằn mình nằm nghiêng, suy nghĩ miên man. Hôm nay các con, các cháu của Sải làm cỗ mừng Sải tròn năm mươi tuổi. Thật khó cho Sải, hôm nay là thứ bảy. Thứ bảy ở trên thị trấn Sa Pa có phiên chợ tình. Sải và người ấy sẽ gặp nhau, cùng nhau uống rượu cho thật say, cùng nhau làm cho núi rừng tan thành tro bụi. Chỉ mới nghĩ đến đấy, toàn thân Sải như sôi lên, cái muốn ở trong lòng cuồn cuộn làm tim Sải thậm thịch. Sải sinh từ cái thời thằng Pháp còn như con thú dữ ở Sa Pa. Mười bốn tuổi Sải lấy chồng. Đứa con trai vừa tròn một tuổi thì chồng Sải chết do bị trúng bẫy hổ của bản Tả Vạn. Mười tám tuổi, Sải đẹp lạ lùng. Hai má lúc nào cũng rừng rực như lửa, đôi mắt ướt rười rượi, đôi vú căng mọng như vú con gái. Sải không thể không lấy chồng. Người chồng thứ hai của Sải là một chàng trai khỏe như con beo rừng. Hai cánh tay của chàng như hai cái bắp cây săng lẻ cuồn cuộn những thớ thịt và dây chằng. Nhưng người chồng đó chỉ làm cho cái thân đàn bà thỏa mãn, rồi mấy năm sau cũng theo người chồng cũ của Sải do một tai nạn bất ngờ. Sải khóc hết nước mắt. Chôn cất chồng xong xuôi, Sải lại hùng hục leo núi, làm cái rẫy, cái nương nuôi đàn con nheo nhóc. Rồi nắng, rồi mưa, rồi gió, rồi giông, rồi bia miệng tiếng đời... chan vào thân phận Sải, nhưng lạ thay, tuổi trẻ của Sải vẫn mơn mởn như cây măng mai. Đàn bà không có chồng như cái suối không có con cá. Sải lại đi tìm chồng. Chồng Sải lần này là một người đàn ông người Xá Phó hơn Sải mười lăm tuổi. Ông có sức mạnh kinh khủng của đàn ông dành cho đàn bà. Sải gặp ông lần đầu khi ông mặc bộ quần áo người Xá Phó, một chiếc cung khoác chéo qua vai, tay phải cầm chiếc đao đứng ở sườn núi Ma Cheo Văn nhìn xuống thung lũng Trung Hồ, trời chiều hắt vào sườn núi những ráng vàng như lửa, in hình ông tạc vào như dáng núi khiến tim Sải rung lên như cánh hoa đồng tiền gặp gió. Minh họa: Văn Nguyễn Nhưng trời nghiệt ngã, chỉ cho Sải hạnh phúc được vài năm rồi cướp đi người chồng mà Sải yêu thương nhất chỉ bằng vết cắn của con rắn lục nhỏ. Cái chết của ông khiến Sải sụp đổ, quỵ hẳn không dậy được nữa. Bốn tháng sau, nhờ vào những miếng cao hổ của ông để lại, Sải ngồi dậy được. Rồi Sải vào rừng lấy những cái lá màu đen bỏ vào miệng nhai. Thứ lá bí truyền của mẹ. Đó là một loại thuốc trường sinh bất lão, nó cho người đàn bà dư thừa sinh lực hơn cả Võ Tắc Thiên. Năm ấy Sải hai mươi bốn tuổi. Già làng bảo: - Con Sải là đứa sát chồng. Đàn ông người Mông, người Dao, người Tày ở Sa Pa ít lắm. Mày lấy chồng nữa thì lấy ai đi săn con thú, lấy ai đi làm cái nương, cái rẫy? Nhưng đôi má Sải vẫn đỏ như hoa mộc miên, cặp mông Sải cong tưng, đôi vú của Sải cứ căng mọng như hai trái bưởi. Đàn ông tuy không dám lấy Sải. Nhưng họ không cưỡng lại được nên đêm đêm vẫn đến đầu nhà thổi sáo. Tiếng sáo nỉ non: Từ trong tim yêu thiết tha thiên thần ơi/Rì rào lời suối hát thác trắng ngần/Khèn vang vang trên đỉnh núi anh cùng em... làm tim Sải run run. Nhưng Sải không thể chọn được ai dù chỉ bằng một phần người chồng của Sải mới mất. Trong lòng Sải chỉ có ông mà thôi. Đã bao năm rồi mà Sải cảm thấy ông sừng sững trong lòng như ngọn núi lửa. Từ 40 tuổi, Sải sợ bệnh tật, nên lại tiếp tục ăn cái lá trường sinh bất lão đó, cơ thể Sải cứ như được lột xác. Mọi tế bào trong người Sải như sống dậy, sinh lực lại dư thừa. Cái chân Sải vẫn còn leo được núi Ma Cheo Văn hái cây nấm, cây măng mang ra chợ Sa Pa bán. Một tối thứ bảy phiên chợ tình không họp được vì trời đổ mưa. Mưa tầm tã. Nước từ trên núi Rồng đổ xuống như thác. Phố phường nhòa tan trong mưa. Sải tạt vào một cái quán bán thắng cố quen thuộc. Sải đặt chiếc quẩy tấu vào góc nhà, cụp chiếc ô gác lên trên, rồi ngồi vào chiếc bàn góc trái. Sải sẽ ngồi đây suốt đêm mà uống mà ngắm bọn trẻ người Dao yêu nhau cho đã con mắt. - Cho ta một đĩa thịt lợn quay, nhiều nhiều há. Ta uống rượu với thịt lợn quay, nói chuyện với chồng ta sướng lắm. Chủ quán đến bên: - Chào bà! Bà khỏe chứ. Trời mưa quá phải không ạ? Hôm nay Sải thấy anh ta có vẻ thân mật, dễ dãi và nhiều cái lời hơn mọi lần. Anh ta khoảng trên ba mươi tuổi, một vợ bốn con. Ngày xưa người chồng ta yêu nhất cũng trạc tuổi này. Chúng ta yêu nhau suốt ngày không biết chán, yêu tất cả mọi thứ trên người của nhau. Khoảng mười giờ đêm, khi mà Sải đã mê man vì men rượu, Sải không nói chuyện với người nữa mà chỉ nói chuyện với con ma. Sải nhìn sâu vào đáy chén thì thầm: - Ta yêu ông. Bao nhiêu năm qua ta vẫn yêu ông, đi tìm ông, đi tìm tình yêu, ta vẫn thấy ông về nằm bên ta. Với ta ông lúc nào cũng là một chàng trai ngoài ba mươi tuổi nồng nàn và yêu thương nhất… Dòng hồi ức còn đang râm ran, thì một người đàn ông lưng đeo quẩy tấu, đầu ướt nhẹp vì nước mưa bước vào. Mắt Sải hoa lên như bị chóng mặt. Trời ơi! chồng Sải đã hiện hình. Ông ấy kia, thân hình lực lưỡng, bộ ngực vạm vỡ, hai bờ vai cuộn vồng lên, toàn thân vững chãi, thẳng tưng như cây sa mu. Người đàn ông đứng nhìn Sải rất lâu, cái miệng cứ lúng búng như người câm, rồi từ từ từng bước lại chiếc bàn mà Sải đang ngồi. Tim Sải đập dồn dập. Đúng ông ấy rồi. Ông ấy không chết, vẫn trẻ khỏe như xưa. Ông ấy về với Sải. Khi người đàn ông đã đứng trước mặt Sải, thì từ cái cơ thể cường tráng ấy phả vào mặt Sải một cái mùi - cái mùi mà cả đời Sải không thể nào quên được. Ấy là sau những đêm đi săn về, chồng Sải đổ ập xuống người Sải. Mùi đàn ông trộn lẫn mùi thú rừng, hòa cùng mùi của núi non, cây, cỏ. Nó như một thứ thuốc bùa mê mãnh liệt có sức mạnh trấn áp, khuất phục Sải. - Tôi là... Giàng Mí Vàng, người bản... Trung Chai. Cho tôi... ngồi được chứ? Người đàn ông nói mà như thổi được cái gì mắc trong miệng ra, rồi không đợi Sải trả lời, tự động kéo ghế ngồi đối diện. Người đàn ông cầm chai rượu, với chiếc cốc bàn bên tự rót, tự uống. Không ai nói với ai lời nào. Sải và người ấy cứ thi nhau rót rượu. Mãi cho đến khi Sải mụ mị, hơi thở từ trong miệng ra có thể bốc cháy nếu gặp lửa thì mới đủ can đảm ngẩng lên. Chao ôi! Người đàn ông ngồi trước mặt chỉ bằng tuổi con trai Sải, nghĩa là bằng tuổi chồng Sải ngày ông ấy bị rắn độc cắn... Nhưng mà sao anh ta giống chồng Sải như hai giọt rượu. Giống từ cái cách dốc chén rượu vào miệng, lời nói và cả tiếng cười ha hả. Cái luồng hơi anh ta phả ra… con ma có sống dậy cũng không thể giống hơn. Sải thấy đôi mắt người ấy như dòng nước xoáy của thác Bạc, sôi lên sùng sục, nhấn chìm tất cả... Sải quên rằng Sải đã năm mươi tuổi, mà người ta, cái người đang ngồi trước mặt Sải đây chỉ ba lăm, ba sáu tuổi là cùng. Không, Sải đang sống ở lứa tuổi đó. Tim Sải, máu huyết Sải, thân thể Sải không già tí nào cả. Tất cả tình yêu thương của người chồng bỗng từ đâu ùa về làm cho các tế bào trong thân thể Sải sống dậy. Người đàn ông nhìn thẳng vào mắt Sải cười, nụ cười hiền như con cu ly. Đôi hàm răng anh ta lóa lên trong đôi môi đỏ tấy vì rượu mạnh khiến tim Sải muốn nhảy khỏi lồng ngực. Đêm ấy, Mí Vàng và Sải đã ngồi như thế, uống rượu và nói với nhau không biết bao nhiêu lời. Những lời mà xưa nay Sải chỉ nói được với hồn ma người chồng thứ ba của Sải. Những lời mà sau khi Sải nói ra rồi, nếu là lời buồn thì thấy mình hết buồn, nếu là lời vui thì mình vui thêm. Đêm đó, ở quán thắng cố Sải như gặp được người chồng mà mấy chục năm qua Sải đau đáu nhớ thương. *** Thằng Cư Seo Lử, con trai Sải lục tục dậy, mở cửa ra ngoài vườn. Nó lấy con dao quắm mài vào hòn đá. Con Sẩu thì đeo quẩy tấu vào rừng nói là đi hái nấm. Bên nhà thằng Seo Phủ cũng lịch kịch gì đó. Chúng nó bảo nhau quyết không cho Sải đi Sa Pa gặp người ấy. Chúng nó không hiểu, người Mông ta có thể thiếu chén rượu, miếng mèn mén, nhưng không thể thiếu được tình cảm con người. Sải đã dậy ra ngoài sân. Thấy Sải lụi cụi dỡ cái quẩy tấu treo ở cây vải, thằng Cư Seo Lử hỏi: - Mẹ đi đâu đấy? Sải bực quá. Cái bực ngùn ngụt bốc lên làm nóng cả hai con mắt, hai vành tai đỏ nhừ, hai bàn tay run run. Sải quay lại lấy chiếc quẩy tấu, khoác vào vai đi thẳng vào rừng. Chúng mày làm gì được tao nào? Chúng mày không phải nuôi tao, không phải mất cho tao một viên thuốc, tao làm gì mặc tao? Sải cắt rừng mà đi. Bàn chân Sải thoăn thoắt như chân con gái, đến con suối Thẩu thì ngừng lại. Hai thằng con trai của Sải đã đuổi theo. Chúng nó gặp Sải khi Sải đang vén váy lội qua suối. Hai đứa lội theo bế thốc Sải lên bờ. Thế này thì Sải còn biết làm gì nữa. Lúc đó Giàng Mí Vàng đang hăng hái bước trên đường ra Sa Pa. Kể từ cái đêm đầu tiên trời mưa, uống rượu ở quán thắng cố đến nay đã 16 cái phiên chợ tình, không phiên nào Mí Vàng vắng mặt, phiên nào người ấy và Mí Vàng cũng uống rượu, nói chuyện với nhau suốt đêm. Vắng người ấy, Mí Vàng héo hắt ruột gan. Và điều quan trọng, bên người ấy cái miệng Mí Vàng mới nói ra lời được. Cuộc đời Giàng Mí Vàng cũng chả có gì hay ho lắm. Mười bảy tuổi Mí Vàng lấy một người con gái người Dáy làm vợ. Vợ Mí Vàng đẹp, đẹp nhất là đôi mắt cứ như là hai ngọn lửa. Hai vợ chồng sống hạnh phúc với nhau được vài năm thì bỗng cô vợ mất tích sau một lần đi nương, không để lại mảy may một tí dấu vết, y như bị bốc cháy thành tro bụi. Mí Vàng vẩn vơ mất mấy năm, như người bị hồn lìa khỏi xác. Rồi bỗng nhiên, Mí Vàng không nói được nữa. Già làng bảo, con vợ Mí Vàng nó lấy mất cái hồn Mí Vàng, giờ nó lại lấy mất cả tiếng nói, không khéo rồi nó lấy cả thân xác. Cha sang bản Tà Phìn, bản Lao Chải hỏi vợ cho Mí Vàng. Nhưng đứa con gái nào Mí Vàng cũng thấy nhạt thếch. Đoàng một cái, như phát súng nổ, Mí Vàng gặp người đàn bà có lửa ấy, nó giống như tìm được cái thứ để Mí Vàng bốc cháy và sẻ chia. Đêm ấy, bỗng dưng cái tiếng nói về được cái miệng Mí Vàng. Cũng đêm đó Mí Vàng đã nói tất cả những lời mà mười mấy năm qua không nói được. Lạ thế, người đàn bà ấy gần bằng tuổi cha Mí Vàng. Mùa xuân cảnh vật Sa Pa thật là đẹp. Núi Rồng chồm lên sừng sững như đang nhả ngọc xuống thung lũng Sa Pa. Mây giăng giăng như một dải sương mờ phủ kín thung lũng. Hoa anh đào lập lòe bừng sáng ngập tràn phố núi. Những bông hoa đồng tiền xòe như chiếc ô đỏ giăng kín hai lối đi. Hoa lưu ly sang trọng tỏa hương ngan ngát, hoa mộc miên đỏ rực như lửa. Những đôi vợ chồng người Mông tay dắt ngựa, lưng đeo quẩy tấu thung thăng ra chợ. Người Mông có câu:“Lòng dạ có tốt thì ra chợ mới biết”. Ra chợ, gặp mọi người, được nói thỏa thích, uống ăn thỏa thích và yêu cũng thỏa thích, lòng dạ mình được cởi ra hết, sướng lắm. Mí Vàng đã đi hết phố chợ, vòng qua quán thắng cố, rồi ngược lên núi Rồng, rồi lại rẽ xuống phố nhà thờ... mà không thấy người ấy đâu. Đến tối thì Mí Vàng gặp hai đứa cháu họ của người ấy ở quán thắng cố, nó nói: - Bà ngoại không muốn gặp nữa đâu. Bà ngoại ở nhà rồi. Lời nói như cật nứa khứa vào trái tim Mí Vàng. Đêm ấy Mí Vàng uống không biết bao nhiêu là rượu. Rượu ngô chảy vào trong huyết quản làm huyết quản cháy lên. Mí Vàng chỉ muốn khóc, khóc thật to cho lòng vơi đi khổ đau. *** Sau cái ngày con cháu tổ chức bữa cơm mừng Sải năm mươi tuổi, lòng Sải như có ngọn lửa cháy bỏng rát ở trong. Chờ cho xong, ngày hôm sau, Sải lại đeo chiếc quẩy tấu ra Sa Pa. - Ê! Bà già người Mông, sao lại đi ra giữa đường? Sải giật mình ngẩng lên. Núi Rồng ở trước mặt, đỉnh Phan Xi Păng ở sau lưng. Cây sa mu sừng sững thẳng tắp đứng ở mé đồi trông như cái cột điện cao thế. Sải đi thẳng đến quán thắng cố quen thuộc. Người chủ quán vừa trông thấy đã nói: - Xin chào…! Anh ta tránh câu nói “bà”, rồi chạy ra đỡ lấy cái quẩy tấu, một tay dắt Sải vào trong nhà thì thầm vào tai Sải điều gì hệ trọng lắm. Nghe xong, tim Sải như thắt lại. Sải ngồi phịch xuống chiếc ghế, nhìn vô hồn ra hồ. Cứ thế, đôi mắt Sải không chớp, khuôn ngực không phập phồng, nhưng máu thì bắt đầu đông cứng. Sải ở lại gần một tuần để chờ ngày thứ bảy. Sải ngồi ở đầu con đường từ bản Trung Chai ra Sa Pa đón Mí Vàng từ sáng sớm. Sương mù dày đặc quấn lấy chân Sải như thể những sợi tơ. Hương cây ngải cứu phảng phất làm Sải tỉnh táo hẳn. Sải không hy vọng gì vào tình yêu của Mí Vàng, nhưng lòng Sải thì nhớ mong Mí Vàng da diết. Nỗi nhớ chiến thắng những suy nghĩ chính xác. Cái chân người Mông làm theo con tim chứ không thể làm theo cái đầu tỉnh táo. Mặt trời chui khỏi khe núi, rồi mặt trời treo trên cây sa mu, rồi mặt trời đã ngồi trên sườn Ma Cheo Văn. Từ xa Sải nhìn thấy Mí Vàng tay dắt con ngựa đen lững thững từ dưới dốc đi đến. Tim Sải như vỡ tung. Nhưng Sải kìm lại được, chỉ đứng dậy bấm những ngón chân, mặt đất như núng xuống, hai bàn tay kéo ghì chiếc áo làm những sợi lanh căng ra muốn đứt. Còn Mí Vàng thì buông dây ngựa, miệng hét toáng lên cho vỡ trời, chạy đến bên Sải, cầm lấy bàn tay Sải, miệng lắp bắp: - Tôi nhớ quá! Tôi... Tôi... rất nhớ...! Sải tưởng đó là tiếng lỡ lời của núi Rồng. Nhưng không, người Mí Vàng đang rung lên, nước mắt của Giàng Mí Vàng đang chảy ra, cùng với cái siết của đôi bàn tay Mí Vàng khiến trái tim Sải muốn nghẹt thở. Trời ơi! Bao nhiêu chất chứa, bao nhiêu lo âu, bao nhiêu thấp thỏm, bao nhiêu nghi ngờ, bao nhiêu giận hờn và cả bao nhiêu thời gian nữa, bỗng tan biến hết vào hư không.
Đợi tàu ngược Ý Nhi Nhà ga nằm trên một nền đất khá cao, so với nơi đỗ tàu. Đó là một gian phòng hình chữ nhật, có bốn cửa đối diện với nhau, hai cửa để ra tàu và hai cửa cho khách xuống tàu. Các cánh cửa đều có màu xanh biển, màu đồng phục của tất cả các ngôi nhà, công sở, trường học một thời. Ở khoảng giữa phòng có mươi chiếc ghế gỗ, kê song song thành hai dãy. Trên chiếc ghế sát tường có một người đang nằm ngủ, đầu gối lên chiếc túi vải màu cỏ úa, chân co lại, chiếc mũ cối ôm khư khư trước bụng. Ba người còn lại, một thiếu nữ, một thanh niên và một ông cụ râu tóc bạc phơ, mỗi người một ghế, lơ đãng nhìn anh, người khách mới. Họ bình thản như kiểu sau một ngày làm việc, ngồi trên thềm nhà ngó mung lung ra mảnh vườn quen thuộc của mình, xem chim chóc chuyền cành, nhìn gió bay lá rụng vậy. Anh đến bên ông cụ, nhà ga có báo lúc nào tàu đến không ạ. Ông cụ không đáp, ngoảnh mặt về phía chiếc bảng ghi giờ tàu. Trên tấm bảng, anh nhìn thấy mấy hàng chữ lớn bằng phấn viết đè lên các dòng kẻ. Anh cố đọc nhưng ngoài hai chữ Thông báo, anh không sao đọc được những nét vẽ ngoằn ngoèo kỳ lạ đó. Anh lẩm bẩm, chữ nghĩa gì mà như ma thế. Ông cụ đưa cả bàn tay lên che miệng, suỵt, chớ nói năng phạm thượng ở nơi này. Anh quay lại, nhận ra nỗi sợ hãi trong mắt ông. Anh hỏi, cụ đợi tàu xuôi hay tàu ngược ạ. Ông cụ đang mải lục tìm thứ gì đó trong chiếc túi vải bạt sờn cũ, không còn rõ màu, quay lại, ánh mắt đã trở nên bình thản, tôi có đợi gì đâu. Tàu xuôi, tàu ngược thì ăn nhằm gì đến tôi. Ông lôi ra một chai rượu có dán nhãn Lúa mới nhưng lại được nút bằng một nùi lá chuối khô. Có lẽ, Lúa mới chỉ là cái vỏ còn rượu trong chai là thứ rượu mà mọi người thường gọi là rượu cuốc lủi, nấu ở các lò thủ công. Đặt chai rượu sang bên cạnh, ông lại khoắng tay vào túi, vẻ bí mật như kiểu các nhà ảo thuật thường làm nhưng thay vì lôi ra một hoặc hai con bồ câu trắng muốt để tung lên trời, ông lại lôi ra hai chiếc cốc thủy tinh lợn cợn hạt, đã ngả sang màu nâu đất, một chiếc đĩa bằng thiếc mỏng, một gói lạc rang, một gói muối ớt, một quả dưa chuột, một con dao nhỏ, lưỡi mòn vẹt. Bàn tay ông cụ đen đúa, nổi gân chằng chịt, hơi run run khi mở nút chai, rót rượu vào hai chiếc cốc. Xong xuôi, ông từ tốn vấn lại nùi lá vàng úa tả tơi, tém gọn những mảnh nhỏ thò ra ngoài, xé bỏ những mảnh đã mục để có một chiếc nút gọn gàng, xinh xắn. Ông vừa lấy ngón tay cạy cạy chỗ nhãn mác còn sót lại trên vỏ chai vừa nói, thứ rượu này chỉ hợp với cái nút bằng lá chuối khô thôi. Đậy chiếc nắp kim loại lên trông chẳng ra ngô ra khoai gì ráo, cứ như mặc đồ bộ mà đội khăn đóng vậy. Nói cậu đừng để bụng, anh Lúa mới này chỉ được cái đẹp mã, uống thì nhạt toẹt, tệ hơn nước lã. Ấy là của thằng con đem về dịp giỗ mẹ nó chứ tôi chẳng dại bỏ tiền ra mua. Mà ngẫm ra thì tất tần tật mọi thứ ở đời cũng là bởi thói quen thôi cậu ạ, ví như cái sự uống chè ở làng tôi đấy. Làng tôi là làng trồng chè. Người ta thu mua hàng tạ hàng tấn, sao chế toàn bằng máy móc hiện đại, đóng gói, đóng hộp đẹp đẽ, xuất đi ta bà tứ xứ, nghe đâu được thiên hạ khen nức nở, thế nhưng tôi và nhiều nhà trong làng chỉ uống thứ chè trồng ở vườn, sao bằng cái chảo gang sứt mẻ, pha bằng nước giếng mới thấy thấm thía. Anh không đáp lời ông cụ bởi chỉ nghe tiếng được tiếng mất, câu chăng câu chớ, lòng chợt buồn rười rượi khi nhìn ông tự bày biện mâm rượu sơ sài của mình giữa cái nhà ga hiu hắt như tách rời khỏi thế gian này. Ông cụ nheo mắt nhìn anh hồi lâu rồi xoa tay vào nhau, khà một tiếng thật to, ra vẻ khoan khoái, mời cậu. Ông nhoài người, đặt chén rượu vào tay anh, rượu thật đấy, cậu đừng sợ. Uống với nhau một chén, khề khà vài câu mới nên bạn nên bè được. Rồi tôi sẽ nói cho cậu biết tôi đợi gì ở nhà ga này. Ông nuốt ực chén rượu, im lặng một lúc rồi đặt đánh cạch cái chén xuống mặt ghế, giọng dứt khoát, tôi không đợi tàu. Làng tôi chỉ cách đây non cây số. Cả đời tôi chưa ra khỏi đất này. Anh nhấp một chút rượu đáp lễ, nghe tê tê nơi đầu lưỡi, mắt không rời khỏi ông cụ, cố hiểu câu nói của ông. Ông cụ bỗng cất tiếng cười, một tiếng cười khô khan, rời rạc, cậu đoán làm sao nổi. Mà tôi có đánh đố cậu đâu. Tôi không ưa đánh đố người khác, làm cho việc nhẹ thành nặng, việc dễ thành khó, chẳng ích chi. Ông mở nút, rót thêm rượu vào ly nhưng không uống, mắt nhìn lạc đi đâu đó, ngoài xa kia, quá tầm nhìn của anh, tôi ra đây chỉ vì bà nhà tôi mất ở đây, ở ngay cái ga này này. Hôm đó, đi làm về, bà nhà tôi tạt qua ga tìm mớ cỏ mực để về rịt vết thương cho thằng cháu nội. Không hiểu làm sao mà thứ cỏ ấy lại mọc um tùm lấn hết các loại cỏ khác ở đây. Cả làng, ai cần cũng ra vặt mà chúng vẫn xanh um, tươi tốt quanh năm. Cậu có biết loại cỏ đó không. Vò ra, nó có nước màu xanh đen. Có lẽ vì thế mà người ta gọi là cỏ mực. Đó là thứ thuốc quý cậu ạ. Trẻ con bị trắng lưỡi, vò ra, lấy nước rơ lưỡi vài lần là hết. Người nóng nảy rôm sảy, vò tươi để tắm hoặc phơi khô sắc nước uống. Ai trầy tay xước chân, nhai mấy cọng lá, đắp vào vết đau là yên trí sẽ liền da liền thịt. Hôm đó, thằng cháu vô ý giẫm vào con dao thái chuối mẹ nó để quên ngoài sân, rách một đường ngay chỗ gót chân. Bà ấy đi lấy cỏ mực cho cháu. Ai dè, chiều muộn rồi mà chúng còn đi thả bom. Chúng muốn phá cái nhà ga này nhưng khốn nỗi, ga chỉ rơi vài viên ngói còn bà nhà tôi và hai đứa trẻ chăn trâu thì trúng mảnh, không cứu được. Từ cái ngày oan nghiệt đó tôi thấy như có một sợi dây ràng rịt chân tay tôi, tâm trí tôi với nơi này. Phần mộ của bà ấy ở nghĩa trang của làng nhưng tôi vẫn muốn ra đây, cứ như nghe thấy bà ấy gọi vậy. Ngày nào có việc bận, không ra được, lòng tôi bồn chồn lo lắng, đứng ngồi không yên, cả đêm trằn trọc, chốc chốc lại dậy châm đóm hút thuốc, mong cho chóng sáng. Tôi ra đây, uống vài cốc rượu, đợi lúc mặt trời sắp lặn, được nhìn thấy bà ấy đang lúi húi chỗ vạt cỏ xanh rì kia, mới yên ổn ra về. Ông cụ nấc lên, rồi ho khan một lúc lâu, mặt đỏ rựng, mắt ngân ngấn nước, trời ơi, bao nhiêu người đi lấy cỏ mực, sao chỉ mình bà ấy gặp nạn. Nghĩ rằng ông cụ sẽ ngưng câu chuyện, anh định đứng dậy thì nghe ông hỏi, cậu có vợ chưa. Nhưng ông cụ không đợi câu trả lời, ông nói nhỏ, mặc cho thiên hạ nói sao thì nói, tôi thì nghĩ, người phụ nữ mới là trụ cột của gia đình cậu ạ. Người đàn bà tử tế thì cái gia đình ấy tử tế, người đàn bà hư hỏng thì cái gia đình ấy hư hỏng. Phải quấy, vui buồn, hay dở đều ở nơi họ. Ấy vậy nên khi nhà tôi mất, gia đình tôi như nghiêng ngả, liêu xiêu, không sao gượng lại được. Nó lỏng lẻo như người không có cột sống, như chân tay không có khớp xương vậy. Tôi xù lông xòe cánh che chở cho hai đứa con, đến khi chúng khôn lớn thì tôi sụp hẳn, lại còn mắc chứng nghẹn, chẳng nuốt nổi cơm. Mỗi ngày chỉ vài hột lạc, vài cốc rượu là xong bữa. Ở làng tôi, cứ mười nhà lại có một nhà nấu rượu. Rượu gạo, rượu nếp, rượu sắn, rượu ngô… đủ cả. Gọi là rượu lậu nhưng lại bán công khai. Cả làng cả xã uống rượu thì chả công khai là gì. Tôi vẫn gặp thằng cu con lão chủ tịch đến lấy rượu đấy thôi. Tôi hỏi nó, lấy làm gì nhiều thế. Nó bảo, có các bác ở huyện về. Sự thể là thế đấy cậu ạ. Nhưng tôi chỉ lấy rượu của lão Khả, người xóm dưới. Rượu của lão lạ lắm, uống xong, người nhẹ nhàng lâng lâng như ở cõi khác vậy, quên hết ưu phiền, mệt mỏi. Đã đành, cũng chỉ là một cách lừa mình thôi nhưng ai mà chẳng có lúc cần như vậy. Mãi rồi đâm thành tật, không uống không chịu nổi. Mà cậu uống đi chứ. Đàn ông dứt khoát là phải biết uống rượu. Để làm gì hả, thì tôi nói rồi, để tự lừa mình ấy mà. Đàn bà không uống rượu vì họ không cần điều đó. Anh lại nhấp môi vào chén rượu. Ông cụ hất cằm, khoe mấy sợi râu phơ phất, mà sao cậu lại lưu lạc đến xứ này. Nhìn cách cậu cầm chén rượu, tôi biết ngay cậu là dân thành phố. Dân quê không điệu đà được vậy. Anh mỉm cười, cúi nhìn ly rượu được kẹp hờ hững giữa ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa, ngón đeo nhẫn và ngón út hơi cong lên, cháu về quê dạy học cụ ạ. Ông cụ đập tay vào trán, ấy đấy, dân quê thì lại ào ào kéo ra thành phố. Con trai, con rể, cháu nội, cháu ngoại tôi bỏ làng đi hết ráo. Làng tôi bây giờ chỉ còn rặt người già và trẻ nhỏ. Nháo nhào hết cả. Sao đời khổ thế nhỉ. Mấy chữ cuối cùng nghe đã nhừa nhựa, mắt đã hơi díu lại nhưng ông cụ vẫn thoăn thoắt thu dọn mấy hạt lạc, chút muối ớt cho vào túi nilon, buộc lại cẩn thận. Ông còn vặn đi vặn lại cái nút chai lá chuối xem đã kín chưa rồi cho tất cả vào chiếc túi vải bạt. Chai rượu đã vơi khoảng một phần tư. Anh đồ chừng, ông cụ đã mời rượu nhiều người, đã nói đi nói lại câu chuyện với nhiều người ở nhà ga này. Ông cần nói hơn là cần người nghe. Lúc không có ai để trò chuyện, ông sẽ nói một mình, vừa uống rượu vừa nói, vừa đặt ra câu hỏi vừa tự trả lời, rồi cười, rồi khóc. Anh đứng dậy, nói như dỗ dành, bác ngả lưng một chút cho đỡ mỏi, cũng quá trưa rồi. Ông cụ lấy khăn phẩy bụi trên chiếc ghế rồi quay lại, nghe như cũng sắp có tàu. Mà cậu đợi tàu xuôi hay tàu ngược. Anh đợi tàu ngược, ga cuối cùng. Đó là nơi Tứ, em cùng cha khác mẹ của anh đang sống. Hồi anh lên bốn, đang ngồi chơi với chị Vân và anh Hải ở trước nhà thì bố anh đưa Tứ về. Ông bảo, em của các con đấy, cho em chơi cùng nhé. Tứ là một đứa trẻ mảnh khảnh, có đôi mắt to hơi buồn. Tứ ngồi xuống bên mọi người, im lặng cho đến khi mẹ gọi cả bọn vào ăn cơm. Mãi sau này, khi đã lớn, anh mới biết Tứ là con riêng của bố và một phụ nữ khác. Nghe nói mẹ Tứ rất đẹp. Bố say mê bà nên đã giấu việc mình có vợ con ở quê. Khi biết chuyện, mẹ anh dứt khoát đòi đưa Tứ về để bà nuôi dưỡng, dạy dỗ. Không hiểu bà khuyên giải thế nào mà mẹ Tứ bằng lòng giao con và xa hẳn bố anh. Mẹ anh chăm nom, thương yêu Tứ chẳng khác gì các con ruột của mình. Dù vậy, Tứ rất ít lời và luôn giữ khoảng cách với mọi người trong gia đình, nhất là với mẹ anh. Tứ vâng lời, lễ phép nhưng không bao giờ vòi vĩnh, nũng nịu với bà. Anh Hải, người sau này trở thành một nhà vật lý, cho rằng, trong con người Tứ có một lực đẩy nào đó mà có thể chính nó cũng không tự biết. Chị Vân, vốn là người yêu văn chương, thì lại bảo, nó không muốn người khác nhìn thấy vết đau của mình. Tứ thân với anh vì hai anh em chỉ cách nhau vài tháng tuổi và cũng vì anh rất thương yêu, chiều chuộng Tứ. Nhiều lần anh thấy Tứ đứng một mình trước cửa hoặc tha thẩn ngoài vườn sau, vẻ mặt buồn bã, trống vắng. Thế nhưng nếu anh hỏi tới, thế nào Tứ cũng lảng chuyện rồi bá lấy vai anh, cười gượng gạo hoặc rủ anh đi câu. Tứ có thể ngồi vài tiếng đồng hồ bên đầm, mắt nhìn đăm đăm xuống mặt nước, không nói một lời. Có lần Tứ câu được con trắm to, đem về cho mẹ anh. Bà mừng lắm, rối rít hỏi Tứ muốn ăn món gì để bà nấu nhưng Tứ chỉ nói, tùy mẹ ạ. Tùy, sao cũng được là lời đáp thường xuyên của Tứ. Hồi tốt nghiệp phổ thông, bố tặng Tứ một bộ đồ đi câu và tặng anh một chiếc máy ảnh. Tốt nghiệp đại học, Tứ xin đến X. Trong bữa cơm chia tay, Tứ cảm ơn mọi người và hứa sẽ giữ liên lạc. Thế nhưng, từ ngày bố mẹ qua đời, Tứ chỉ còn giữ liên hệ với anh. Cách đây vài ngày, vợ Tứ ra trạm kiểm lâm, gọi nhờ điện thoại báo tin chồng ốm nặng. Với vốn tiếng phổ thông ít ỏi, cô không sao có thể diễn đạt rõ ràng bệnh trạng của chồng, ngoài việc lặp đi lặp lại mấy chữ nặng lắm, lo lắm sau những tiếng thút thít, những tiếng nấc khe khẽ. Vợ Tứ là một cô gái mồ côi, không biết từ đâu lưu lạc tới X rồi được vợ chồng một người Mông nuôi dạy. Cô xinh xắn, hiền hậu và cũng rất ít lời, gần như cả ngày chỉ nói vài câu khi thật cần thiết như mời mọi người ăn cơm, uống nước hoặc chào hỏi khách khứa. Phần lớn thời gian, cô ngồi bên đống lửa, nhìn chăm chăm vào mấy thanh củi cháy dở như đang niệm chú hoặc đang nhìn ngắm một thế giới khác, của riêng cô. Hồi họ đám cưới, anh có lên dự. Anh nhìn Tứ, cố tìm một nét hân hoan, bối rối của chú rể nhưng chỉ nhận thấy vẻ bình thản đến lạnh lẽo trên khuôn mặt thanh tú. Tứ tiễn anh ra ga. Trong lúc đợi tàu, hai anh em đứng tựa vào hàng rào gỗ của nhà ga trò chuyện. Anh hỏi Tứ, sao em chọn nơi này. Tứ đáp, em cần sự yên tĩnh. Con người chất phác, cảnh trí thâm u, vắng lặng, đó là tất cả những gì em cần. Anh nghĩ, vợ Tứ cũng được lựa chọn theo cái chuẩn ấy. Khi anh sắp lên tàu, Tứ bỗng nói, mẹ em cũng mất rồi, sau mẹ cả ít lâu. Em kịp về thăm mẹ mấy ngày. Em có hai người em nữa nhưng em không thích bố dượng nên cũng ít liên hệ. Anh giật mình, Tứ biết tất cả mọi chuyện sao. Tứ đáp, vâng, rồi im lặng cho đến khi bắt tay từ biệt mới nói thêm, tội nghiệp mẹ, cả đời chẳng được mấy ngày vui. Khi tàu chạy, anh nhoài người ra ngoài khung cửa tìm Tứ. Nhiều năm sau trong tâm trí anh vẫn lưu giữ hình ảnh nhỏ bé, đơn chiếc của Tứ trên sân ga. Chưa khi nào anh thấy Tứ thân thiết với mình như buổi sáng ấy ở ga X, một nhà ga làm bằng những thân gỗ lớn, không sơn phết, đẽo gọt. Giờ đây, khi ngồi thu mình trong góc phòng để đợi tàu, vừa nhắm mắt anh đã lại nhìn thấy Tứ của buổi sớm mùa đông ấy. Anh choàng dậy, lục tìm gói thuốc mua cho Tứ. Chỉ là những viên thuốc bổ xoàng xĩnh có được ở phố huyện. Anh thở dài, cảm thấy rã rời vì chờ đợi. Trời đột nhiên tối sầm lại rồi một tiếng sét dữ dội xé tan không khí tù đọng của nhà ga. Ông cụ choàng dậy, mưa à. Sao lại mưa vào mùa này. Đôi nam nữ lúc này đã dồn vào một ghế đang rủ rỉ chuyện trò cũng rời nhau ra, ngơ ngác nhìn quanh. Người ngủ bật ngồi dậy như người máy, đội mũ lên đầu, khoác túi lên vai. Ông cụ khoát tay, chưa, chưa có tàu đâu. Tàu đến thì cách cả cây số lão cũng nghe thấy. Ông chỉ tay về phía tấm bảng, thông báo rành rành kia kìa: Vì lý do đặc biệt: 1.Không biết tàu đến vào lúc nào. 2.Không biết sẽ chạy được đến đâu. Anh quay lại, không hiểu sao dòng chữ rõ ràng từng nét thế kia mà sáng nay anh không thể nào đọc được. Anh hỏi, thế nhân viên nhà ga đâu ạ. May ra họ có thể giải thích rõ hơn cái thông báo kia. Ông cụ chỉ tay sang phía bên phải, ở kia, ở cái chái nhà ghép thêm kia. Rồi ông thủng thẳng, gọi là nhân viên nhà ga cho oai vậy chứ thực ra chỉ có ba mống, một trưởng ga, một bán vé kiêm soát vé, một bẻ ghi, phất cờ. Đang túm tụm đánh chẵn lẻ bên ấy. Rồi ông thở dài, chứ còn biết làm gì nữa. Nắm hai bàn tay lại, đưa ra trước mặt người đối diện, chẵn hay lẻ. Một trò ít tốn kém, đơn giản, buồn tẻ nhưng cũng không dễ ăn đâu cậu. Làm sao biết có những gì trong tay người khác. Nó là may rủi thôi, như mọi thứ ở cái đời này. Ông quay sang anh, cậu đã chơi trò này chưa. Tôi có đồ nghề đây. Đôi lúc buồn quá, cũng qua đó chơi vài ván. Ông cụ lôi từ túi quần ra năm viên bi, tráo qua tráo lại rồi hỏi anh, bên nào chẵn, bên nào lẻ. Nhận thấy mắt ông cụ đã lại hoe hoe đỏ, anh không dám tiếp tục câu chuyện, xin lỗi bác, cháu phải chạy đi tìm trưởng ga. Ông cụ ngẩng lên, chỉ tay ra ngoài trời mưa, ông ấy kia, sắp có tàu đấy. Theo hướng tay ông, anh nhìn thấy một người mặc áo mưa kín mít đang co một chân lên, nhảy qua các thanh tà vẹt, kiểu như trẻ con nhảy lò cò qua những ô vuông kẻ trên mặt đất trong trò chơi nhặt chì trước sân đình. Trong màn mưa dày đặc, hình ảnh đó có cái gì kỳ quặc, hư ảo khiến người ta cảm thấy hoang mang, lo ngại. Nhưng quả là có tiếng còi tàu rít lên đâu đó rất gần. Cả năm người ào ra, chen nhau chỗ khung cửa hẹp. Một cái đầu tàu to lù lù chạy vụt qua, chỉ để lại tiếng bánh sắt nghiến sát sao trên đường ray. Tất cả cùng à lên thất vọng. Anh hỏi người ngủ, anh ngược hay xuôi. Hắn vừa ngáp vừa trả lời cụt lủn, xuôi, rồi quày quả đi về chiếc ghế của mình. Thấy hắn đặt túi, bỏ mũ xuống, anh chạy vội tới, ở đây có cách nào khác để đi ngược lên X không. Hắn nhìn anh, đáp gọn lỏn, xe trâu. Tưởng hắn đùa nhưng hắn không cười, ánh nhìn nghiêm nghị, chỉ có xe trâu thôi, đi từng đoạn một, tới đâu hay tới đó. Mà cậu lên X làm gì, cái xứ rừng thiêng nước độc. Thấy hắn có vẻ khó chịu, anh đã định bỏ đi nhưng rồi lại quay lại, cố bám lấy cuộc trò chuyện. Cảm giác cô độc, bất lực khiến anh thấy băn khoăn, lo sợ, muốn nói, muốn nghe một ai đó, muốn tìm một hy vọng hay ít ra, một chia sẻ. Anh hỏi, anh biết X ư. Người kia ngồi, ôm chiếc mũ trước bụng, biết đến phát sốt phát rét khi nhớ đến nó. Tôi ở đó ba năm ba tháng mười một ngày, làm thợ xẻ gỗ. Cậu có hiểu như thế là thế nào không. Là một mình với cái cưa, một mình vật lộn với cây cỏ, rừng rú, đất dưới chân thì ẩm mục, trời trên đầu thì u ám, người như rã ra từng tí một. Tuy vậy, ba năm đầu cũng tạm ổn, mình là dân quê, sức lực cũng khá, mãi đến ba tháng mười một ngày sau mới quỵ hẳn. Suốt ngày nhìn chăm chắm cái lưỡi cưa sáng loáng ăn vào thớ gỗ. Đêm nằm, nhắm mắt lại là nghe tiếng rít của lưỡi cưa, là nhìn thấy những thân cây gãy đổ lao ầm ầm vào mình, làm sao mà ngủ. Cuối cùng, tôi ngã vật ra bên một gốc cây đang cưa dở. Người ta cho tôi uống thuốc ngủ, người ta bày tôi uống các loại lá, các loại rễ cây. Ai cũng bảo uống xong sẽ ngủ như chết nhưng tôi vẫn không sao ngủ được. Có người nghi tôi vô tình phạm phải chốn cấm kỵ nên bị phạt. Người khác thì lại bảo rằng tôi đã cưa phải loại linh mộc nào đó. Họ mời thầy về làm lễ, cúng kiếng suốt mấy ngày đêm. Nhưng sau tất cả mọi việc, tôi vẫn trơ ra. Người ta đành đưa tôi về nhà với một khoản tiền công tàm tạm. Cha mẹ, anh em, làng xóm đều thất kinh khi nhìn thấy tôi. Tôi gầy như một que củi, mắt lại mở thao láo như thằng dở. Anh gợi chuyện, từ lúc đến đây tôi thấy anh ngủ say lắm mà. Hắn cười lớn, ấy đấy, cái gì cũng có giới hạn của nó. Sau ba tháng không ngủ, vào một đêm mùa hạ, tôi lăn ra ngủ ngoài hiên nhà, không trở dậy nữa. Ông bà, cô bác, anh em, làng xóm kéo đến xem như xem một đám bán thuốc dạo vậy. Hắn cười khục một tiếng, đời tôi cũng vài lần được thiên hạ chiêm ngưỡng đấy chứ, cũng có fan hâm mộ đấy chứ. Anh tò mò hỏi, thế bây giờ anh đi đâu. Hắn ngáp, về xuôi. Nghe nói ở N có thầy giỏi lắm, cái gì liên quan đến chuyện ngủ nghê là ông ấy chữa khỏi tất. Ấy là nghe thiên hạ đồn đoán vậy, ai biết được thực hư thế nào. Kỳ thực thì bị bố mẹ bắt ép chứ tôi thấy chả cần thầy cần thuốc. Cùng tắc biến, nắng chán rồi mưa, hạn chán rồi lũ, ngủ chán sẽ dậy thôi. Anh dè dặt đưa đẩy, ấy đấy, vấn đề là ở chỗ mọi thứ không chịu ở trạng thái bình thường, chắc các cụ sợ anh dậy rồi lại không chịu ngủ nữa. Hắn đưa tay nắn nắn chiếc túi gối đầu, ngáp rõ to, đáp dấm dẳng, ờ, đời mà, biết thế quái nào, rồi cúi xuống cởi đôi dép nhựa màu nâu còn mới, co chân lên ghế. Anh hỏi, cố kéo dài câu chuyện, thế lúc ngủ anh có nằm mơ không. Hắn nhướn cặp mắt sưng húp lên nhìn anh, cậu có làm sao không đấy, không mơ thì ngủm củ tỏi rồi, không mơ thì làm sao còn ngồi đây trò chuyện nhăng nhít với cậu. Anh không dám ừ hử gì, sợ hắn phật ý nhưng hắn bỗng cười lớn, mơ đủ thứ, mơ uống rượu với cha, mơ ăn cơm với mẹ, thấy cả món canh riêu nóng hổi, mơ thấy nhà thấy cửa, mơ tắm sông, mơ thả diều, mơ đá bóng, mơ hàn huyên với bạn hữu, mơ cãi nhau với thằng nhỏ phụ việc, mơ nhà cháy, mơ lũ cuốn cả cánh rừng, mơ thấy bạn gái cũ, dù đã bỏ mình đi lấy chồng vẫn đến thăm nom, chung chạ, mơ đánh thằng cai một trận thừa sống thiếu chết... cái thằng cai này chuyên ăn chặn của cánh thợ rừng, uất lắm mà lúc thức đâu có dám ho he gì, mơ thì đánh nó đã đời, võ tàu, võ tây đủ cả... Hắn im lặng, đưa mu bàn tay xoa xoa lên trán như cố nhớ lại những giấc mơ của mình, rồi đột ngột nhìn thẳng vào anh, ấy đấy, cậu đã thủng chưa, rốt cục thì ngủ cũng là một cách thức, thức cũng là một cách ngủ, ngủ cũng là… mấy tiếng cuối cứ lả dần đi rồi cả người hắn bất thần đổ dúi dụi xuống ghế như một cái cây vừa bị đốn, tay vẫn ôm khư khư chiếc mũ trước bụng. Nhìn kỹ thì đó là loại mũ bảo hộ của cánh thợ rừng. Trời nhá nhem tối. Ông cụ tay cầm ly rượu, mắt chăm chú nhìn ra vạt cỏ bên sân ga, nơi cụ bà đang lúi húi hái cỏ mực. Sợ phiền ông, anh đi thẳng ra hiên, ngồi nhìn khoảnh sân nhỏ sau cơn mưa. Trên nền xi măng cũ kỹ, nửa xám nửa đen, cỏ dại mọc lôm nhôm ở những chỗ bị tróc lở, nứt nẻ. Nơi góc sân xa nhất, hai chậu vạn thọ đang gắng gỏi nở những bông vàng còi cọc cho buổi chiều, trông thật tội nghiệp. Đôi thanh niên nam nữ cũng dắt díu nhau theo ra. Cô gái rụt rè hỏi, anh có biết xem tướng không ạ. Anh ngạc nhiên nhìn cô, định từ chối rồi không hiểu sao lại nói, vâng, nhưng chỉ xem chuyện tình duyên thôi, còn công danh sự nghiệp thì không tường. Cô gái reo khẽ, hay quá, anh xem giúp em với. Cô chìa bàn tay ra trước anh. Một bàn tay khỏe mạnh, các ngón tay tròn trịa, nằm khít bên nhau. Anh nhìn hồi lâu, ra chiều suy nghĩ, rồi phán, đường tâm đạo của cô có phần không được suôn sẻ. Cô có hai hố nước mắt đây này, một lần vào khoảng năm mười tám tuổi, một lần mới gần đây, có lẽ vào cuối năm vừa rồi. Việc không thành không do lỗi ở nơi cô mà cũng chẳng phải ở người ta, chỉ là chưa đến duyên đến số mà thôi. Hai má cô gái ửng hồng, đôi môi hơi mím lại, khoe một lúm đồng tiền nơi khóe miệng. Có vẻ như cô đang muốn phân trần, giải thích điều gì đó nhưng rồi chỉ lí nhí cám ơn. Chàng trai ngồi bên cạnh, chăm chú lắng nghe lời thầy nhưng hoàn toàn không có phản ứng nào. Cô gái cầm lấy tay anh ta, anh ơi, anh xem luôn cho anh ấy nhé. Anh cười, cậu này tôi nhìn tướng là được rồi. Cậu là người có chí hướng, có trách nhiệm, giàu tình cảm nhưng hình như cũng lại không thật may mắn trong chuyện tình duyên. Nếu tôi không lầm thì cậu vừa trải qua một cú sốc tương đối nặng, cậu đang rất buồn. Nhưng cậu chớ lo lắng, nhìn thần thái của cậu thì chỉ ít lâu nữa nhất định cậu sẽ tìm ra người cậu muốn tìm, có khi người đó đang ở rất gần cậu cũng không chừng. Chàng trai lắc lắc đầu, xòe năm ngón tay lùa vào mái tóc dày như phản đối lời phán nhưng lại nói, giọng khàn xuống, cảm ơn anh. Họ không hề ngờ rằng những gì anh nói chỉ là những điều chính anh đã trải qua, đang trải qua mà thôi. Nhìn vẻ bối rối, cảm động của hai người trẻ, anh có cảm giác mình đã làm điều chi không phải. Anh ân cần hỏi họ, cô cậu xuôi hay ngược. Cả hai cùng đáp, ngược, đến Y anh ạ. Chàng trai nói thêm, em đi chơi thôi. Cô gái chen vào, còn em thì đi nhận việc ạ. Lòng nhẹ nhõm đôi phần, anh vỗ vai chàng trai, vậy là ta đồng hành một đoạn cũng khá dài. Ông cụ khoác túi, ra đứng sau lưng họ, tôi về làng đây. Chúc mọi người xuôi ngược bình yên. Tàu sắp tới đấy. Anh quay lại, định chào ông một câu nhưng ông đã đột ngột tan vào ánh sáng mờ ảo của buổi chạng vạng. Trên chiếc ghế ông đã ngồi không còn một hạt muối, một chiếc vỏ lạc để lưu dấu sự có mặt của ông. Có phần hoang mang, anh quay tìm người ngủ. Hắn vẫn ngủ. Trong lúc anh ngắm nhìn những ngón tay vuông vức của hắn đan vào nhau để giữ chiếc mũ trước bụng thì hắn bật dậy, kêu toáng lên, tàu đến, tàu đến. Cùng lúc, đèn trong nhà bật sáng, không khí bỗng nhốn nháo, sinh động hẳn. Trước sân, người trưởng ga gọn gàng trong bộ đồng phục, đang bước xuống những bậc cấp phủ đầy hoa xấu hổ màu tím. Ngay sau ông ta là một người nhỏ bé, chạy lon ton, tay không ngừng vung vẩy lá cờ nhỏ xíu vào khoảng không. Anh ngoảnh nhìn căn phòng, ngạc nhiên khi trông thấy một cây đèn chùm màu hồng được treo hững hờ ngay trên đầu người bán vé. Anh không thể biết nó vốn có từ trước đó hay chỉ vừa xuất hiện khi anh cùng hai người trẻ ra ngoài. Vật trang trí kỳ lạ này dù không được dẫn điện vẫn lộng lẫy với vô số những chiếc bóng nho nhỏ, những cái chao đèn uốn lượn điệu đà, phản chiếu ánh sáng của hai ngọn đèn vàng treo chỗ cửa ra vào. Có một chút gì như sự thách đố hợm hĩnh của nó với khung cảnh điêu tàn của nhà ga, với khuôn mặt buồn bã của cô nhân viên bán vé còn trẻ đang hướng ánh nhìn tới các hành khách hiếm hoi của mình. Có lẽ chiều nay cô thua đậm trong cuộc chơi chẵn lẻ, anh nghĩ.
Viết riêng cho một Người Sưu tầm Anh bước ra từ quá khứ cũ mèm Với bao điều day dứt Những tháng năm đã từng hạnh phúc Ám ảnh không nguôi. Giữa mênh mông cuộc đời Anh lãng du dọc bờ nỗi nhớ Ước một điều nho nhỏ Bình yên. Anh hiểu tấm lòng tha thiết của em Cô gái đa đoan mà dễ vỡ Em đốt cháy mình như ngọn lửa Từ trái tim đam mê. Có những điều thật khó nói em nghe Khi trái tim anh không đủ mênh mông Bờ vai anh không thể cho em điểm tựa Dù anh vẫn ước một ngôi nhà với dịu dàng ánh lửa... Anh mãi là viên cuội không tên Em hãy cứ rong chơi giữa thênh thang đời rộng Mỗi khi lòng có điều chi phiền muộn Hãy về kể anh nghe Cầu cho phía cuối con đường em đi Sẽ đến ngôi nhà hạnh phúc...
Ươn Nguyễn Mỹ Nữ Một Không nghĩ là cuộc gọi của ông ấy. Hãy còn rất sớm mà. Giờ, tôi còn nấn níu trên giường cũng là do thói quen chứ giấc ngủ đã qua từ khi nãy. Từ cách đây nửa tiếng khi cái loa của phường bắt đầu lên tiếng và chồng tôi vội dậy. Cỡ đó, người này phải thức để ra công viên gần đây chạy bộ mấy vòng rồi ùm xuống biển, bơi đúng năm chục sải. Con trai trề môi: “Bố bơi quá kém”. Con gái nheo mắt: “Chắc bố đếm nhầm?”. Chồng trừng mắt: “Cái thân tao càng lúc càng nặng, nổi được trên mặt nước đã phước. Nhầm cũng chẳng sao!”. Chắc sợ mình chìm nghỉm dưới đáy biển, thế nên, sớm nào chồng cũng tròng vào chân đôi giày thể thao và uể oải rời nhà. Vào lúc tôi áp cái di động sát tai, cố sửa giọng cho ra vẻ ngái ngủ, ậm ừ trả lời: “Vâng, tôi đang nghe ông đây” thì mất ngay tín hiệu. Ông và tôi. Tôi với bà. Ái chà chà, có ngờ đâu cái chữ tình nó gây nhiễu sự. Bà chẳng nói gì chứ tôi, đang tuổi sáu lăm, mới rõ là đáng đời nhé! Minh họa: Tuấn Anh Đấy! Luôn là cách giễu cợt của ông ấy về những hệ lụy như thế này. Về cái sự đổ ập vào tâm hồn nhau hết sức lạ thường này. Chỉ tâm hồn chứ thân xác chưa hề. Vuốt nhẹ mái tóc, quàng vội một bờ vai, siết tay nhau rõ chặt… Thì đã từng và là thường xuyên đấy thôi! Nhưng chỉ vậy. “Không tử tế chút nào mối quan hệ của em với lão Khương. Anh nói thật đấy!”. Đó là lời cảnh báo của chồng tôi. Người thích đi tập thể dục một mình, ăn sáng ở quán một mình, uống cà phê lại rủ rê các nàng ở cơ quan, nhậu buổi chiều với cánh đàn ông và tối, nhờ con gái pha cho bố cốc nước chanh giã bia rượu. Tôi nói đâu dăm lần trong suốt ba năm gần đây, khi thấy chồng duy trì lối sinh hoạt này. Bảo: “Anh có cách sống chẳng tử tế tí nào”. Chồng cười khinh khỉnh: “Thế à!”. Ba năm và dăm lời nhắc chồng, chẳng hiền hòa chẳng dữ tợn, chẳng dằn xóc chẳng nhẹ nhàng. Kiểu nói vô cảm. Nói cho có ấy mà. Ba năm kể từ khi tôi “tính tình tang” với ông Khương và trở thành một người đàn bà mất hẳn đi cái sự tử tế. Nhưng không đồng nghĩa mất bớt uy quyền trong vai trò làm vợ của mình. Cuối tuần, các con đi chơi xa, chồng vác cần câu ra đi từ rất sớm, bảo: “Em đừng chờ cơm. Không chừng khuya anh mới về”. Chị giúp việc đang quét sân phía trước, cắp chổi chống nạnh nhìn theo chồng, “hứ” một tiếng rất dài, nói không khống: “Câu từ sớm đến tối mịt thế, chỉ có nước câu con cá nặng cỡ bốn chục ký trở lên”. Tất nhiên, nói, cốt cho tôi nghe. Người giúp việc tên Than nhưng mà trắng bóc và hở miệng nói là cười. Đấy! Cười ngay sau cái “hứ” dành cho chồng tôi và sau câu nói bóng gió của chị ấy. Cười rất tươi! Người này ở đây có đến bốn năm nay và tôi chưa hề nghe cái nhà chị Than này rên rỉ cho lấy một lời. Cả hôm nghe tin chồng ở quê đưa người tình về nhà sống. Cả khi nghe con trai đầu dính vào ma túy, con gái sau chửa hoang và bố ốm nặng. Thế mà, ai bảo cái tên nó vận vào với người và cái nhà chị Than này cũng hay. Chỉ ra vẻ người giúp việc với chồng tôi và mấy đứa nhỏ. Còn với tôi chẳng hề bà chủ, chẳng ra kẻ làm công. Cái cách cư xử này là do tôi đặt ra và rất thích. Về cái chuyện đi câu cá vào những cuối tuần, bất kể trời nắng hay mưa và những cuộc câu như thế thì lại rất dài chứ! Câu thật sớm mà về rất khuya của chồng, tôi chẳng lạ gì! Nhưng chị Than, tức tối ngúng nguẩy mãi và tôi có lần đùa: “Hay chị yêu bố của bọn trẻ rồi?”. Cũng chuyện đi câu, chị Than kể chuyện của chồng, là: Cái lão khốn nạn nhà tôi cứ diễn đi diễn lại cái màn câu câu cú cú và thật tội nợ cho cái thân tôi. Sao mà khờ thế? Đã chẳng nghi ngờ vặn vẹo lại còn dặn, nhắc: “Không đem cá về ngay cho đây làm, không khéo ươn mất”. Lão chồng độp ngay: “Nhưng đây lại cứ mặc cho cá ươn. Cá ươn còn có cớ vứt”. Giải thích của lão chồng chị Than, thoạt nghe rất đểu nhưng nghĩ lại, rất gợi, được tôi ghim ngay vào đầu và thi thoảng vẫn nhớ, như sáng này. Không có bọn trẻ, nhà vắng hẳn và buồn. Phải như ông không phải ra Bắc thăm con trai bị tai nạn nhỉ? Hai Sẽ là thiếu sót nếu chẳng có mấy lời phiên phiến về tôi. Thì đây! Vừa tròn tuổi bốn mươi, ghét âm nhạc và thích văn học Nga. Aimatốp là số một. Vóc dáng ư? Cũng có hơi đẫy đà dẫu buổi tối vẫn dành đúng một tiếng đồng hồ đi bộ loanh quanh ở một cái công viên sát biển. Dẫu một tuần vẫn đến phòng tập ba lần vào các đêm hai, tư, sáu. Công việc ư? Rất ổn và thu nhập khá. Của nả ư? Thì cũng đường được. Cũng có nhà có đất, rồi nhà trong phố nhà ở ngoại ô, nhà hộp với lại nhà vườn. Gia đình ư? Hết mực hẳn hoi với một chồng và hai con. Chỉ chẳng biết là rủi hay may bởi đôi khi có những ý nghĩ hơi hơi bị thiếu những hẳn hoi. Ấy là từ lúc gặp cái con người tên Khương và thích tự xưng mình là ông này. Tôi đem theo một ít thức ăn, mấy loại hạt giống rau, bộ đồ mặc trong nhà, mấy lon bia, trái cây. Rồi nói vói lên sân thượng, nơi chị Than đang tưới mấy giò lan hay phơi phóng quần áo gì đấy: “Ô hay! Thế bà không đi với tôi về ngoài nhà à?”. Chị Than kêu lên rõ to: “Ơ! Ơ! Thế à! Thích nhỉ?”. Rồi nhoáng nhoàng các việc và chẳng mấy chốc đã khóa cổng ngoài, yên vị phía sau lưng tôi trên xe. Cái bà này mê về đấy lắm cơ! Và chưa hẳn là do gốc quê gắn bó với vườn tược, đất đai từ trong bụng mẹ đâu nhé. Thường, một tuần vài ba lần, chị Than vẫn phải về đây để quét tước, lấy rau, hái hoa rồi chăm chút thêm cây trái. Chứ việc tưới tắm, mỗi sớm và mỗi chiều tôi đã nhờ bác hàng xóm. Chắc do biết kết hợp chặt chẽ và hợp lý giữa một bên là thường xuyên và một bên là thi thoảng, mà mấy dây mồng tơi, dây mướp hương rồi giàn bầu vườn nhà tốt không tưởng được. Ở phố, không chỉ gia đình tôi mà cả các nhà sát bên đều được ăn rau sạch từ vườn này. Và đấy là hằng bao công sức của ông hàng xóm góa vợ và chị giúp việc bị chồng bỏ. Mấy đứa nhỏ ở nhà hay cáp đôi chị Than với cái ông này. Chị cười: “Được đấy! Hay là chúng mày bảo bố mẹ cho dì ra ở hẳn ngoài đó cho tiện”. Nghe thế, chúng nó la toáng lên: “Thế thì ai nấu cơm cho chúng cháu ăn?”. Chị Than chỉ ngay vào tôi: “Thì cái bà này! Thì mẹ chúng mày chứ ai…”. Chồng tôi gầm gừ bao lần: “Nghe ra, cái lối cư xử của em với chị Than nó chỏi chỏi thế nào…”. Tôi: “Chỏi là sao? Là không tử tế chứ gì!” bằng giọng điệu khiêu khích khiến chồng nín thinh. Chúng tôi vẫn có kiểu ăn miếng trả miếng thế nhưng ổn. Chồng ơ thờ thì vợ hờ hững. Chồng hằn học vợ dằn xóc. Chồng hăm he vợ dọa nạt. Chồng gầm, vợ gừ thế mà lại yên. Chị Than nhiều lần chứng kiến, trề môi: “Hỏng”. Nhớ hè năm ngoái, hứng chí sao chồng tôi đề nghị cả nhà lên Đà Lạt chơi một chuyến. Tôi còn ngần ngừ, bọn trẻ đã nhiệt tình hưởng ứng bố. Lần duy nhất cả gia đình đủ mặt và cùng nhau, trong tất cả. Cùng ăn cùng uống cùng dạo chơi cùng mua sắm. Không vui chẳng buồn nhưng cái sự hẳn hoi thì không thiếu vắng. Chồng bảo nhỏ vào tai vợ: “Chẳng phải là sợ tốn tiền phòng nhưng muốn cả nhà sống cùng mấy hôm xem sao!”. Hai chữ “sống cùng” dễ liên tưởng đến sự gần gũi mà sao là lạ thế! Cái sự lạ, bắt đầu từ tai nghe cho đến tận trái tim, khi tiếp nhận. Đúng ý chồng, có ngay một phòng rất sang và rất to với hai cái giường rất rộng. Bên này vợ và con gái. Bên kia chồng cùng con trai. Bên này nghiến răng, bên kia đành trở giấc. Bên kia ngáy, bên này bắt buộc nghe. Toilet chung nên sớm mai phải đợi nhau một tí. Chẳng sao! Kể ra, thức vì nhau, tỉnh vì nhau. Ngủ mê được nhờ nhau. Vào toilet trước bởi nhường nhau, cũng là một cái sự tử tế. Và lần đầu, tôi nhận ra vợ chồng mình rồi là cả cái gia đình mình đang rất thiếu những thứ này. Chị Than gọi điện lên hỏi thăm, tôi tưng tửng trả lời: “Chúng tôi đang tập sống cùng đây! Tự bà bảo chúng tôi hỏng nên đang cố chữa. Chỉ sợ bệnh nặng quá, chữa không hết”. Chị Than gặng thêm: “Cái chính là có muốn chữa?” đầy triết lý và trí thức ra trò. Cái chị này, ngày trước, đã xong cấp ba, do thi trượt đại học lại nhà nghèo nên thôi luôn. Về nhà lấy cái lão khốn nạn câu câu cú cú rồi làm ruộng rồi thồi thồi đẻ con. Cũng bí bách quá và hết đường mới phải bỏ vào trong này đi làm ô sin. Cái gốc có học và vốn dĩ là người có chữ nghĩa nên mới được thế. Tôi luôn mừng vì mình có chị Than ở cùng nhà. Có một bà giúp việc như chị và có một mối quan hệ chẳng chủ chẳng tớ như chúng tôi thế này. Ba Về nhà vườn, tôi thích ăn các món nướng. Ở phố, nướng bằng các dụng cụ điện dù đẳng cấp đến đâu vẫn chẳng bằng than. Công việc làm vườn của hai chị em đã xong, từ khi nãy. Tôi đã kịp tắm và thay bộ quần áo mặc nhà. Chị Than, như chỉ chờ được nghỉ tay là ôm ngay mươi cành huệ trắng sang bên ông hàng xóm biếu. Ông này vẫn có thói quen cắm bàn thờ Chúa, Đức Mẹ bằng huệ và phải là huệ trắng cơ. Hẳn vì thế mà chị Than đã ươm trồng ở đây đến mấy luống huệ và chăm rất kỹ. Dù đất cát bên đấy đâu có thiếu. Đấy! Người lo ươm trồng kẻ lo tưới tắm. Tình tứ thế! Ai dám sánh bằng. Nhìn cái cách họ cư xử với nhau, tôi vừa vui vừa thèm. Xao lòng, là tất nhiên và không thể không chạnh lòng. Tôi đem cái bếp lò ra chái sau, lấy ít vụn ngo nhóm. Lửa bắt rất nhanh, chẳng mấy chốc đã bén sang những cục than nhỏ. Khói vừa hết hẳn thì có tiếng xe máy ở ngoài cổng. Tôi biết ngay là tiếng xe của ông Khương và vội chạy ra. Ông bảo muốn dành cho tôi những bất ngờ nên không gọi điện. Có linh cảm tôi ở ngoài này nên đến thẳng đây xin bữa cơm trưa có món nướng. Chị Than cất lời trước: “Chào ông ạ” khi thấy chúng tôi ngồi bên bếp với nhau. Chỉ chào và lặng lẽ xuống bếp làm cơm. Bữa trưa rất vui với bốn người ngồi xếp bằng trên chiếu. Có bò nướng, cá dìa nướng, đậu phụ miếng lướt ván và rất nhiều rau củ, vừa để luộc vừa ăn sống. Ông hàng xóm đem sang chai vang Pháp, bảo: “Tim mạch tôi trước đây tệ lắm! Nên phải chọn thứ này. Giờ đỡ nhiều nhưng dùng quen, không muốn đổi nữa”. Tôi nhìn chị Than, cợt nhả: “Tự bác không biết chứ bác có đổi đấy thôi! Và biết đâu, nhờ thế mà tim mạch bác mới ổn”. Ông hàng xóm nhìn chị Than rất lâu, mới rề rà nhả từ tiếng một. Những câu chữ ngắn ngủn nhưng được cất lên sau nhiều đắn đo ngẫm ngợi nên nghe ra nằng nặng: “Thế là cô tinh đấy! Đổi thật! Và, cũng đã đến lúc đổi toàn tòng rồi”. Ông hàng xóm này là dân Ki tô giáo nên rất thích dùng chữ toàn tòng. Như xác định cái sự đổi khác của mình, khởi đi từ một thứ thức uống. Trưa đấy, mọi người uống bia trước khi cùng chia sạch chai vang. Tôi thích cái cách mà ông hàng xóm với chị Than dành cho tôi và ông Khương. Chẳng chút thắc mắc dẫu chỉ là một ánh nhìn tra hỏi. Không tò mò không ái ngại về mối quan hệ này. Nghe tôi gọi là ông thì cũng gọi ông, ông. Nghe tôi xưng tôi thì cũng xưng tôi, tôi. Thế thôi! Ông hàng xóm có dăm lần thấy chúng tôi về nhà vườn này với nhau. Thấy chúng tôi nhổ cỏ, ươm hoa, dọn bàn ra khoảng hiên phía trước uống trà. Thấy chúng tôi cùng ngồi chung xích đu, đong đưa, bên cạnh mấy luống hoa. Thấy chúng tôi cùng lúi húi bên cái bếp than, nướng mấy trái bắp…
Gốc đá Trung Trung Đỉnh Tôi cảm thấy hơi lành lạnh phía sau lưng nên tỉnh giấc. Thì ra thằng Liểng ngủ với tôi đêm qua đã biến từ hồi nào. Có tiếng thổi lửa phù phù và sau đó là ánh sáng nhấp nhóa hắt lên phía trên phên liếp. Mùi thơm của cỏ khô và của củi tươi quyện lại với nhau ấm nồng căn nhà nhỏ ba ngăn tường chình đất dày, kiên cố như một pháo đài, một bên là phòng ngủ của Chi Mủa, ở giữa là bếp, là nơi sinh hoạt chung, còn một bên là phòng ngủ của thằng Liểng. - Mày đem nước nóng ra cho chú Bình rửa mặt đi. Chị Mủa nhắc con. Tôi thấy hai cái bóng lao xao trên vách nứa. Tiếng nước rót từ ấm ra chậu thau rổn rảng. Thằng Liểng năm nay đã ngoài hai mươi nhưng vẫn loắt choắt như chú bé con mười sáu, tính nết rất ông cụ non, ít nói, làm việc suốt ngày. Nó bỏ học ở nhà mấy năm rồi, lại lười không chịu lấy vợ, chỉ ham vui vẻ. Hôm qua khi thấy tôi đột ngột xuất hiện, chị Mủa sững người một lúc rồi ngồi ôm gối khóc, bảo hồi chú lên thực tập vẽ vời, tôi còn má hồng, thằng Liểng còn bám gấu váy mẹ, bố nó hiền thế, uống ruợu thổi khèn hay nhất chợ Đồng Văn, cưỡi ngựa hay nhất bản, quý chú như người anh em mà sao ông trời nỡ phạt bị ngã, đá đè chết cả người lẫn ngựa rồi! Tôi đã biết tin này từ lâu nên không đột ngột. Thằng Liểng tháo ba lô trên vai tôi xuống. Tôi thắp hương cho anh Liểu trên cái ban thờ đơn sơ ngày xưa tôi xẻ gỗ sa mu làm cho anh chị theo kiểu của người xuôi. Ban thờ bụi bặm có treo bức chân dung anh, ở dưới ảnh cụ Hồ do tôi vẽ và bộ tiểu thuyết Tàu Tam quốc diễn nghĩa nhàu nát do tôi mang lên, rồi ngồi bên hai mẹ con chị Mủa. Minh họa: Hồng Thiện Cường - Em biết tin anh mất từ dưới xuôi, nhưng bận công tác quá không lên được. - Mày cũng hết tuổi trẻ rồi em ơi - chị Mủa phủi mấy hạt mưa bụi trên mái tóc hoa râm của tôi, nói. Hơn hai chục năm trước tôi cũng đã ngoài hai mươi. Có lẽ tuổi trẻ được chị tính từ khi tóc xanh đổ lại. Thằng Liểng pha cho tôi bát nước chè gừng rồi nhoắt một cái đã thấy nó phốc lên mình ngựa. Con ngựa nãy giờ ỉu xìu đứng dưới gốc mai già vì trời rét và vì phải đứng lâu chồn cẳng, nên khi thằng Liểng nhảy lên lưng, nó sướng quá chồm dựng hai vó trước hí mấy tiếng, khói túa ra miệng. - Chú Bình à, chú chờ con nhá. Thẳng Liểng cầm cương trên mình ngựa cúi xuống nói. Rồi phóng đi. - Nó đi gọi bạn tới uống rượu cho chú vui đấy - chị Mủa nói - Ăn mèn nén đi. Tôi bốc mèn nén ăn. Vị ngọt thơm của ngô thật quyến rũ. Hồi anh Liểu còn sống, mỗi lần theo anh chị đi chợ Đồng Văn về, thế nào anh Liểu cũng say nhòe. Tôi cũng say nhòe. Con ngựa “xích thố” của anh Liểu to khỏe nhất vùng, được chị Mủa nhờ người khiêng hai anh em tôi vắt lên lưng nó, buộc chằng lại cùng với các vật dụng mua sắm được, rồi cứ thế dắt thằng Liểng lên đường về bản. Ngựa theo đường cũ, gõ móng đều đều. Non xanh ngằn ngặt tuyền đá cùng đá, đường lên cheo leo vắt vẻo tuyền khe với khe, khắc đi khắc đến. Mưa, con ngựa tự động dừng lại, chị Mủa ôm thằng Liểng đứng sát vỉa đường, che ô cho hai gã say tít, tới khi trời tạnh mưa, con ngựa lại gõ móng lên núi đều đều. Đêm thì đốt đuốc đi theo cái đuôi vật vờ của con ngựa. Cả bản cùng giống nhau, vợ chồng trẻ nhà nào cũng đi như thế, nên không ai cười ai. Có hôm vừa say vừa đi vừa hát, hai anh em tôi khiêng mẹ con chị Mủa cho lên ngồi trên yên “xích thố”, mỗi người hộ tống một bên. Anh Liểu mê Tam quốc diễn nghĩa, mê Quan Công, Trương Phi, Lưu Huyền Đức không kém gì tôi. Anh đã làm tới chức phó chủ tịch phụ trách văn hóa xã, được học hết lớp bảy hệ mười năm chứ có ít đâu. Lúc vui anh gọi chị Mủa là Cam phu nhân, còn hai anh em tôi là Quan Công, Lưu Bị. Thỉnh thoảng nhớ miền xuôi, tôi đứng trên đỉnh núi đá nhọn phía sau nhà anh, từ gốc sa mu nhìn xuống dòng sông Nho Quế. Con sông uốn lượn ngoằn ngoèo như con rắn bạc trườn xuống xa xanh hun hút. Anh Liểu biết tôi nhớ nhà liền phóng ngựa quanh chân núi gọi ời ời. Tôi hổn hển cắp giá vẽ tụt xuống. “Sao người Mông ở cao thế?”, tôi hỏi anh khi anh bốc tôi lên ngựa. “Sao người Kinh mày ở dưới xuôi xa thế?”, anh hỏi lại và sau đó thúc ngựa phi nước đại trên con đường mòn tới nương ngô, nơi ấy mẹ con chị Mủa đang đốt đống củi thân ngô trong cái chòi nương dựng tạm tựa vào hai hốc đá lớn. Thằng Liểng loay hoay vun đất làm núi. Tôi đặt giá vẽ, vẽ hai mẹ con chị. Trời ạ, sao mà cái chị Mủa này cứ thấy tôi định vẽ là đứng lên bỏ đi. Nhưng tôi cứ vẽ. Anh Liểu lấy rượu ra ngồi bên đống lửa chờ. Tôi buông bút không vẽ nữa vì tự dưng thấy mình bất lực. Mỗi năm một lần, anh Liểu và chị Mủa cõng đất từ chân núi lên đây rải trong các khe đá để làm nương trồng ngô. Có hôm ngồi uống rượu nói chuyện trồng ngô, tôi cứ thắc mắc sao người Mông không xuống núi có nhiều đất. Anh Liểu lừ lừ nhìn tôi khó chịu, rồi anh trật vai áo cho tôi xem những vết chai. Cả bàn chân anh cũng sần lên một lớp chai dày. Cái cối đá to vật ở đầu hồi là của hồi môn bố mẹ chị cho khi hai anh chị ra ở riêng. Cái cối ấy trải qua không biết bao nhiều đời rồi. Nó đã xay được cả núi ngô chứ chả chơi đâu. Anh Liểu tự hào ra mặt về con “xích thố” và cái cối xay đá của mình. Nhiều hôm anh tập cho tôi cưỡi ngựa, vì anh thích gọi tôi là Quan Vũ, nhưng đúng là tôi không đủ can đảm ngồi trên lưng ngựa một mình, trong khi đó, thằng Liểng chẳng biết sợ là gì. Nó bé loắt choắt mà giọng cười vang núi khi anh cho ngồi sau lưng ngựa cùng với anh và tôi phi nước đại. - Chị Mủa à, thằng Liểng không được học nữa, em tiếc cho nó quá. - Ôi dào, học hết cấp hai là giỏi rồi. Cho nó học thêm nữa lại đi mất như con Xíu nhà ông Chiềng đấy. Chính con Xíu con ông Chiềng đến nhà tôi ở Hà Nội chơi, báo tin anh Liểu mất. Nó bây giờ được cử đi học cao học ở Trung Quốc về ngành nghiên cứu văn hóa phương Đông rồi. - Chị nghĩ quẩn đấy - tôi nói - Con ông Chiềng bây giờ khá lắm. - Thôi, tôi nghĩ quẩn làm quẩn cũng được - chị nói rành rẽ - Hồi sắp lấy nhau, anh Liểu cũng được gọi đi học cho thành đại học dưới xuôi, nhưng đi học thì tôi không lấy đâu. Thế mà ở lại đấy. - Nhưng thằng Liểng bây giờ khác. - Chú nói hay nhỉ? Thế bé Thảo nhà chú ra trường rồi sao không cho lên đây? Ngày xưa chả bảo gả con cho nhau, sau cứ lờ tịt đi thế? Sợ xa xôi chứ gì? Sợ mất con chứ gì? Tôi ngồi thẫn nhìn ra ngoài thung. Sương đặc chất thành từng đống trên các chòm núi đá lô nhô. Lại có những vệt mỏng tang bay quẩn, chợt bắt được luồng gió hút lao vội xuống lòng núi. Tiếng vó ngựa dồn dập. Một tốp ba bốn con, năm sáu con phóng vùn vụt, thoắt ẩn thoắt hiện trên con đường mòn ngày xưa mỗi lần nhớ xuôi, tôi lại đi lẩn thẩn trên đó. - Bọn nó đem rượu giấu trên hang dơi có ba năm trời rồi... Chị nói và đứng nhìn ra phía núi xa, rồi tiếp: - Rượu quý lắm, người Mông tôi gọi rượu ủ phân dơi là gốc đá đấy. Chị nắm tay tôi kéo tôi chạy ra gốc mai già, khi bọn trẻ đã rộn ràng xuống ngựa. - Đây rồi. Có nhiều rượu ngon mời chú uống đây rồi - chị Mủa nói với tôi - Cứ uống đi cho rõ say xong chú muốn vẽ vời gì thì vẽ. Miền cao chúng tôi sướng thế, chú ở mãi mà chả biết gì cả.
Mảnh ghép cuối Cùng Vũ Thị Hạnh Hoàng hôn vàng vọt nhuốm ngọn tre đầu làng, ấn những vầng mây xám xuống mặt đất. Lão bước cà nhắc giật lùi. Con chó lẵng nhẵng chạy theo sau, nửa muốn canh miếng thịt lủng lẳng trên tay lão, nửa muốn đớp mồi ngon cho béo miệng. Đám trẻ con mặt mũi đen nhem nhuốc, áo quần xộc xệch nấp bụi mây gai đổ xô đồng thanh “Cự sùi! Cự ma! Cự sùi! Cự ma!”. Lão quay lại lừ mắt thì chúng ù té lỉnh mất. Có dọa vài nghìn lần thì bọn nhóc tinh quái cũng chẳng sợ. Vì chúng quen thuộc những cục thịt to nhỏ biến dạng trên thân thể lão. Hàm răng cáu cượm, bờ môi dày thâm đét. Hai con mắt to trắng hễ nhướng lên là dù cứng bóng vía cũng nổi da gà. Đã vậy, lão lại làm nghề bốc mả. Suốt mùa đông chỉ làm bạn với xương người. Dân làng nói lão là hiện thân của những con ma quái dị nhập hồn về nên mới xấu xí thế. Lão còn nhớ lần đầu trực tiếp hành nghề. Hộp sọ khô với hai hố mắt trũng hoáy, xương sườn, xương chậu nâu vàng. Lão ngã bổ chửng chết khiếp lăn đùng ốm cả tuần trời. Nhưng rồi lão nghĩ anh em kiến giả nhất phận, bệnh tật lão đầy người, làm phúc ma quỷ nào dọa nạt. Cô Út bỏ ruộng đồng ngồi chễm chệ ở góc chợ đút chân gầm bàn, tay cầm bút hí hoáy ra điều nho nhã. Cuối ngày mặt mũi tím đen tím đỏ mỗi lúc nghe đài thông báo kết quả xổ số. Vợ chồng con cái nhiều khi chạy nã hàng tháng trời, trốn chui trốn lủi như cuốc gặp người. Minh họa: Văn nguyễn Về đến cổng lão đưa mắt nhìn ngôi biệt thự bốn mái nằm sừng sững như con quái vật khổng lồ nuốt chửng ngôi nhà ọp ẹp của lão. Ngày động thổ đào móng, lão đứng trơ mắt nhìn đứt từng khúc ruột. Lão quay vào đốt một nắm hương to thắp lên bàn thờ mà hai hàng nước mắt rưng rưng chảy. Con Lu vàng nhao từ trong cửa nhe nanh vuốt cắn phập vào gót chân đám thợ. Lão giằng cổ nó cùm lại, nó đu mình muốn nhổ cái chắn song, chu mõm sủa ông ổng về phía cuốc xẻng nện thình thịch xuống lòng đất. Khi lão không thể chảy được nước mắt nữa, nó ấm ức cắn lách rách mãi. Cô Út về một mình trong buổi chiều nhập nhoạng tối. Mắt mũi mòng đỏ rồi lấm lét nhìn xiên mảnh đất. Lão Cự vục gầu xuống giếng kéo ngàn cân nước không lên đến bờ. Nồi cơm cạn cháy cạnh mà lửa như thôi miên cao vút ngọn đỏ. Chiếc bát trên tay rơi vỡ choang xuống nền. Cô Út vội quỳ sụp van lạy cầu xin lão thương máu mủ ruột rà. Thằng cháu trai đang trong tay bọn đầu gấu. Nếu không hùn tiền trả nợ đề chúng sẽ chặt tay thằng nhỏ. Đúng sự linh cảm! Lão đứng im rỗng rễnh từng phân đoạn trên người, mặc cô Út giật giật cánh tay như lôi từng khớp ngón. Bữa cơm thắt ruột, thìa đũa chạm nhau khô khốc. Lão ngồi trong bóng tối. Mảnh ao sóng sánh đầy trăng, mắt lão ngấn nước, những nụ lục bình tím biếc ngả dưới trăng. Gió lạc vào vườn khiến hàng cau khua lá xào xạc. Gà đã vỗ cánh gáy canh ba. Trong buồng tiếng ngáy vẫn phả ra đều đều. Trời vừa nứt mắt thì cô Út lục đục trở mình dậy đi ra đi vào. Lão đốt nhang khói nghi ngút quanh nhà. Xúc thóc trong bồ ra nơi đối diện bàn thờ, lão nghiêm nghị nhìn cô Út rồi chỉ tay: - Xắn quần lên đầu gối rồi chắp tay quỳ ở đó đi. Bao giờ tôi chẻ tre đan xong chiếc rổ mới được đứng dậy. Lão điềm nhiên lôi tre ra chẻ. Những sợi lạt lần lượt ra đời. Nắng nhỏ giọt chuyển dần chang chang lửa, lão kiên nhẫn ngồi trước sân. Cô Út miễn cưỡng xắn quần đặt gối vào đám thóc vàng. Lát lát lại nhấp nhổm chừng muốn đứng dậy nhưng thấy lão án ngữ ở cửa đành nhắm mắt yên vị. Tiếng chuông điện thoại đổ oang oác. Lão miết con dao dọc sợi lạt gằn giọng: - Thần linh báng bổ đứa nào không thật sự thành tâm. Tuần hương đầu đã cháy lụi từ lâu. Thiên địa hầm hập dội xuống thân thể ướt đẫm mồ hôi. Rổ đã cạp xong, cô Út chỉ chờ có vậy khẳng khái đứng lên cười hơ hớ như củi reo. Mê mẩn phủi những hạt cắn in vào da thịt để lại những lấm chấm đỏ. - Mẹ con em đội ơn bác suốt đời. Em xin thề, sau lần này em cạch đến già. Nếu không giữ lời, trời chu đất diệt, đi tàu tàu đâm, đi xe xe nghiến tan xương nát thịt, chết thành cô hồn lang thang không nhà cửa. Bất giác lão ớn lạnh với những lời thề của cô Út. Sự chết chóc do phản lời nguyền đó thấy sượng và tanh tưởi. Thóc vương đầy nền nhà làm lão bần thần xót xa. Lão nóng vội cởi áo lao ra giếng gập mình khua nước dội ào ào. Những khối u tứa máu như người cầm dao rạch, nặn, hút nhân nhĩ bên trong. Mùi vôi vữa mới cứ nực vào mũi lão Cự ngột ngạt. Xây xong, người ta cho xây một tường rào kiên cố, tách biệt khoảng đất ngắn và ngôi nhà của lão lại. Hôm sau, chiếc xe chở hàng lùi dần vào cổng. Lão Cự ngơ ngác ngó ra, những tay bốc vác khỏe khoắn, lực lưỡng tay cuộn bắp, è cổ khuân đồ đạc vào nhà. Ngôi biệt thự mở rộng các cánh cửa đón nắng. Thấp thoáng bóng người đàn ông giơ tay chỉ đạo, lão dửng dưng như cuộc sống của lão chẳng cần quan tâm đến những chuyện không liên quan đến mình. Xẩm tối. Lão bưng niêu cơm ra chõng tre kịp ngồi xuống thì có bóng đen bước vào sân. Người đàn ông chừng năm mươi, da hồng hào, mặc quần áo rộng lụng thụng màu gụ, cặp kính lão trễ nải xuống cánh mũi, tay cầm chai rượu với bịch giấy báo gấp vuông vắn. - Chào bác. Tôi vừa mới dọn về đây, sang xin uống với bác chén rượu gặp mặt. Tiện có ít bò khô lai rai. - Cũng được! Mời anh ngồi. Tôi cũng chẳng có gì, cá rô canh nhạt, anh không chê thì ăn cùng tôi bữa cơm. Tôi sống một mình quen vậy rồi. Lão Cự lấy chén, lặng lẽ rót rượu, vẻ mặt lão bất cần như giễu cợt cái thịnh tình của ông khách không mời mà đến. Trời tối hẳn, muỗi vo ve, tiếng dế ngoài vườn kêu ri ri. Khung cảnh mờ ảo, yếu nhợt dưới ánh điện vàng tỏa từ trong nhà ra sân lạnh lẽo. - Anh uống đi. - Bác cứ gọi tôi là Lầm. Kính bác trước! Trước vẻ đạo mạo của ông Lầm, lão Cự ngửa cổ uống trước. Rượu vào đến đâu cơ thể lão nóng rật đến đó. Tim lão đập nhốn nháo. Ông Lầm dốc cạn chén, mắt nhìn về phía bóng tối cuối vườn, giọng trầm ngâm: - Tôi về đây có một mình thôi. Con gái đi du học bên Mỹ, nó bảo sẽ lấy một thằng Tây mũi lõ, mắt xanh. Con gái là con người ta, các cụ xưa thật uyên thâm, dạy không sai điều gì. Làng mình không biết còn trồng hòe phơi khô bán cho hiệu thuốc nam không bác nhỉ? Lão Cự tròn mắt nhìn ông Lầm. Lão lạ khi ông nhắc đến hoa hòe làng lão. - Sao ông biết hoa hòe? - Tôi xa làng đã ngót hai mươi năm. Lão Cự uống thêm một chén nghẹn ngào. Làng Vèn của lão bây giờ chỉ rặt ông bà già nai lưng ra trên đồng. Con trai, con gái mải mê lên thành phố kiếm tiền, ô sin, phụ nề, may, làm đầu rồi nhiều khi cả làm “đuôi” nữa miễn có tiền và sung sướng nhàn hạ. Ngày xưa vào mùa, nhà này cấy lại đổi công cho nhà kia. Tiếng cười, tiếng trao đổi í ới lan khắp xóm. Hàng hòe bao đời cao lêu đêu, vào mùa thu những chùm hoa chíu chít vặt xuống phơi khô làm thứ trà tĩnh tâm, giải nhiệt. Bây giờ hơi hiện đại bay vào từng ngõ hẻm, người ta uống rượu ngoại, coca, nước tăng lực, chứ chẳng thèm uống mấy thứ đồ dân dã nên hoa nở trắng đường làng. Các cụ răng móm mém nhai trầu nhìn tiếc của nhưng đành bó tay. Lưng còng, mắt mờ, cây cao vậy, vặt thế nào… Có người chặt hàng loạt để xây nhà cao tầng. Nhà này đua nhà kia, cứ hơn nhau một chóp nhà, hàng gạch là khoái, hả hê rồi. Cửa hàng cửa hiệu xanh đỏ mọc lên như nấm dại. Có lần lão đạp xe lên xã, cứ ngỡ mình lạc vào phố của thị thành Hà Nội, con đường gạch ghép dựng trơn truột biến mất từ bao giờ. Thay vào đó là bê tông thẳng tắp lự. Chiều chiều, sau ngọn cau chót vót, tiếng hát chọ chọe bắt chước tiếng nhạc cứ rầm rầm cất lên như thú vui tiêu khiển lúc nông nhàn. Giọng ông Lầm ngập ngừng nhìn lão vẻ tin cậy rồi khẽ khàng nói tiếp: - Hồi ấy, làng đói nghèo quá, chịu không nổi, tôi bỏ lên Lào Cai đào vàng. Ở trong rừng rậm, nhớ nhà đến quay quắt mà không muốn về. Dự định kiếm chút vốn liếng làm ăn rồi về làng lập nghiệp nhưng vàng chẳng thấy đâu, chỉ thấy đất đá và lá cây rừng là nhiều, lại suốt ngày đối mặt với cảnh chém giết giành giật vẩy vàng bằng hạt cát. Chúng tôi giống con thú hơn con người, tóc tai mọc dài, ghẻ tróc đầy mình. Những cơn mưa rừng mới nghiệt ngã, nước ngấm qua da thịt, hơi lạnh từ mặt đất, từ vách núi, gió rừng thì tông tông buốt vào tận xương tủy. Những người tứ xứ bảo nhau về quê. Họ bỏ lều vách trống trơn, bỏ cả cái niềm tin tưởng thay đổi số phận bởi cái đói, cái rét dằng dặc đông kín như lòng núi. Cái bụng và ý chí lôi tôi ngược về xuôi nằm chờ ở bến cảng bốc vác thuê, màn trời chiếu đất. Ai mướn gì làm nấy, sau đó tôi theo nhóm thợ xây rồi nhận cai thầu. Năm tháng nhàu nhĩ sống lang bạt. Nghĩ lại bây giờ chỉ muốn ứa nước mắt. Lão Cự cười nhợt nhạt. Lão không ngờ mảnh đất của lão sang tên cho kẻ biết quay đầu về bờ. Có lẽ tổ tiên rộng lượng đại xá cho lão, dẫn dắt một kẻ tha hương về nhận mặt quê. - Vậy còn bà nhà? Sao có mụn con thôi à? - Bà nhà tôi mất lâu rồi. Con bé là con nhặt nuôi. Vợ tôi bị bệnh tim, lại mắc chứng vô sinh. Lão Cự thấy người bừng bừng chếnh choáng. Hai kẻ cô độc ngồi uống rượu suông, ông Lầm tợp một ngụm kéo theo một tiếng thở dài, vẻ mặt váng vất nét buồn so. Lát sau, ông bỏ chén rượu, đốt thuốc hút tư lự: - Tôi biết bác sống một mình ở đây và bác vẫn làm phúc cho thiên hạ, vậy bác cho tôi hỏi đời có kiếp sau không? - Có chứ. Tôi vẫn tin vào luân hồi, nhân quả. - Vậy thì tôi mắc nợ đất mẹ quá nhiều. Dựng ngôi nhà do chính bàn tay mình thiết kế, tôi vẫn không tin là mình có ngày trở lại. Dẫu muộn màng còn hơn mãi mãi là kẻ đào tẩu, đúng không bác? Lão Cự gật đầu trước nghĩa lý ông Lầm đưa ra. Cái vòng luân hồi đưa con người ta đến thế giới khác rồi lại trở lại với kiếp người, phận mỏng dày tùy phúc. Trong lúc lơ mơ say, lão thấy những đàn đom đóm xanh đỏ bay chập chờn phía giậu mây gai. Lão thấy lẻ loi… Chỉ có cái xác khô ngoài nghĩa địa đang chờ lão. Ông Lầm ngồi im mắt hoang vắng. *** Lão Cự đứng thẫn thờ trên đê nhìn đồng bãi hoang vu. Hàng tre xanh với thân đốt dài uốn mình trước gió lao xao. Phía dưới những gốc rạ khô chỏng nằm vạ vật lên nhau. Luống đất vừa bị cuốc xới bốc hơi hăng nồng. Con nước từ lạch róc rách chảy vào, phút trước ướt chân, khi lão lên đến bờ đã mấp mé mặt ruộng. Chiếc cuốc thẳng đuỗn trên vai lão đủng đỉnh trên con đường vào làng. Mắt lão sáng rực khi dõi thẳng vào cánh cửa gỗ khép hờ nhà cô Thơm. Bóng cô đổ dài xuống ao giơ hai tay quấn chặt mái tóc dài tròn lủng sau gáy. Chiếc áo nâu sồng thắt đáy lưng ong, hở ra mảng thịt trắng nhờ nhợ cứ ngẩng lên lại cúi xuống. Vầng ngực trong làn áo đập phập phồng. Tay cô té làn nước tưới lên đôi chân nõn nà mà mát lạnh đến tận chỗ lão đứng. Chạm tuổi bốn mươi, cô Thơm vẫn đẹp cái duyên đằm thắm, mặn mà. Nhớ lúc trẻ, đôi má cô đỏ ửng như trái bồ quân, cặp mắt đen lóng lánh, da trắng ngần như bông bưởi, tóc dài chấm gót, dáng thướt tha thục nữ. Mỗi lần lướt qua cô, thoảng mùi bồ kết, hương nhu phảng phất trên tóc làm trái tim lão xốn xang. Cả làng chỉ biết cô Thơm mang thai sau khi đi tát nước vào một đêm trăng sáng. Cái bụng ì ạch vượt mặt cứ lớn dần như trái trên cây. Cô Thơm ru rú ở xó buồng không dám chường mặt cho láng xóm dị nghị. Bố con Thắm đến giờ vẫn như con số không tròn trĩnh. - Bác Cự! Bác Cự ơi! Lão quay lại, khuôn mặt cô Thơm đang rướn về phía lão gọi. - Mời bác vào nhà, em có chút chuyện nhỏ nhờ bác. Đã nhiều lần lão vào ngõ nhà cô Thơm nhưng ghi dấu nhất là khi con Thắm mười ba, lão gặp nó khóc mếu trên đường làng. Tấm áo trắng vạt trước, lưng sau lốm đốm mực xanh. Vài phút nữa, tiếng con Thắm rú riết xé toang khoảng trời bên nhà lão. Lão chạy sang, tiếng roi như tiếng sét loằng ngoằng trong không khí liên hồi giáng xuống, làm xác xơ cây non mới nhú. Lần đầu tiên lão thấy con Thắm nếm mùi đau đớn. Lão lao đến ôm chặt con Thắm mặc đòn roi ngả trên lưng mình. Cô Thơm giận đỏ mặt lườm như hờn trách không phải việc của lão, vứt phịch cái roi xuống đất, lừ đừ ra đống rơm ngồi thở. Tiếng con bé đang rũ lên nức nở lẫn tiếng rên khe khẽ phía đống rơm khiến lão thấy mắt mình mằn mặn. Lão Cự ngồi trên cái phản lim bóng nhẵn nhìn quanh ba gian nhà cổ, cột lim sẫm đen sừng sững từ nền cho đến nóc. Hàng chữ “Thọ” trên hàng ngói lợp nâu đỏ, ánh lên sự vững chãi. Kệ ban thờ có di ảnh của các cụ thân sinh cô Thơm đã nhòe, cánh cửa sổ mở rộng thông ra vườn chuối đèo đẹt mấy buồng chuối mít xanh. Cô Thơm đon đả rót từ tích ra một cốc nước chè xanh hãm. - Bác uống nước đi. - Con Thắm cũng đại học năm thứ nhất rồi nhỉ? - Vâng. Thời gian trôi nhanh quá. Chẳng mấy chốc đuổi mình đến tuổi già. Cô Thơm ngượng ngùng khi nhắc đến từ “già” khi mặt cô có phần rạng rỡ, đôi mắt long lanh như người hồi xuân. Cái vẻ nhuận sắc không giấu đi đâu được. - Chẳng là…Em định nhờ bác sang áo cho ông bố em. - Cô định ngày nào? - Em định ngày hai tư. Em đi “gọi dí”, người ta bảo ông sạch lắm rồi. Cũng không còn giận em nữa. - Sao lại giận? - Lão ngạc nhiên. - Em chẳng giấu gì bác, vì bác là người nhân nghĩa. Ông cụ vẫn giận em chuyện con Thắm. Em cũng không muốn nhắc lại chuyện cũ. Ông là người gia trưởng, độc đoán, nhất nhất mọi việc lớn bé trong nhà phải theo sự chỉ đạo của ông. Em đã làm ông càng khắt khe với cuộc sống của chính mình. Lúc sinh con, mẹ em dấm dúi đưa cho nắm cơm tẻ và hai hột trứng luộc trong mảnh lá chuối dặn khi nào sinh xong thì ăn ngay cho lại sức. Rồi vội vã chạy bay biến dạng, để em một mình chiến đấu với cửa ải sinh tử. Đang quặn thắt trên bàn nhưng trong đầu em vẫn mường tượng ra cảnh cha lăm lăm chiếc roi đứng giữa thềm khi bước chân mẹ về đến. Cái tội dung túng gái lăng loàn là tội chết! Hai ngày sau em bồng con về đến cửa, thấy thấp thoáng trên cái cổ xương gầy của mẹ vết bầm tím mà chết từng khúc ruột. Ông ngoại không buồn nhòm mặt cháu một lần. Từ biệt cõi trần vẫn đau đáu “mày là đứa nghiệp chướng, nghiệp chướng đời tao”. Đôi mắt mở thao láo ngược lên trời, em cắn răng vuốt mắt cha... Lão nhìn cô Thơm rưng rưng xúc động. Không gian chùng xuống như bóng tối bò lặng lẽ trong nhà. Thoáng trong đầu lão hiện lên khuôn mặt rắn đanh gân guốc, đôi mắt sâu hay búi tóc ló sau gáy. Ông Điền hay ngậm tẩu thuốc đi lại với cái lưng còng và bộ quần áo lụa cổ Tàu. Chẳng gì nhà ông Điền giàu nhất làng, trâu mộng, gà đàn, thóc bồ đầy chặt, dư dả ăn không hết trong khi mùa giáp hạt đến gõ cửa từng ngôi nhà trong làng Vèn. Cái đói cứ tỉ tê, xiêu vẹo đến từng con mương, vạt ruộng bắt ếch, nhái, sọi cờ, rau tập tàng cốt cho ấm bụng. Lão đã trải qua cái mùa cơm độn sắn còn nhà cô Thơm giết gà bằng cách bóp cho đến chết, không gây ra tiếng động để xóm làng không đến vay mượn. Và cô Thơm lại là con gái độc cưng. Xóm Thượng, làng Quỳnh đều có người ý dạm hỏi nhưng ông còn căn cơ xem đám nào vừa giàu, vừa phúc đức mới gả. Tự dưng cô Thơm ôm quả mìn nổ chậm nằm chờ ngày nổ thì hèn gì ông không hận… Nắng đã đứng bóng, lão khật khừ đứng dậy nhận lời ra về. Cô Thơm tiễn lão ra đến cổng, mắt còn hoen ướt. Lão dựng cuốc nằm xuống võng đong đưa dưới gốc bòng xanh mát, thiếp đi trong giấc mộng màu hồng… …Tiếng trẻ con khóc oe oe trong gian buồng, lão Cự bỏ đàn gà mới xuống ổ rửa tay chạy vào bế nựng con. Con bé bụ bẫm, trắng hồng, lão bế nó lên hít hà mùi sữa non trên người nó, cái môi hồng nhỏ chúm chím cười, cặp mắt đen nhánh giống mẹ. Cô Thơm đi chợ về, tất tả bỏ chiếc thúng trên đầu, đón con, kéo bầu ngực trắng cho con bé bú. Tiếng chóp chép rít lên khi cái bụng đã khát sữa từ sớm. Lão âu yếm nhìn, cô Thơm cười nghiêng vành nón khiến lão miên man hạnh phúc… *** Hai giờ sáng… Cô Thơm khăn trắng chít ngang trán bắt đầu khóc dấm dứt. Con Thắm ôm mẹ đứng sát đỡ đôi chân đang muốn khuỵu xuống. Họ hàng đứng nép một bên, kẻ cứng rắn mắt ráo hoảnh, kẻ nhìn trước nhìn sau, cảm tưởng âm hồn bay lên, nghĩa địa như cùng đứng dậy xem cảnh bốc mả. Bật nắp quan tài, đám tử khí xanh đỏ như đom đóm nhảy nhót trong không trung. Giữa đêm gió lạnh căm căm, sương giăng mù trời đất, ánh đèn tỏa ra từ chiếc máy phát soi rõ từng khuôn mặt. Lão Cự rửa sạch xương bằng nước quế hồi, nhặt kỹ từng cái đốt tay, chiếc răng xỉn cho vào tiểu sành kẻo linh hồn đã siêu thoát về ám ảnh. Lạnh quá! Hai hàm răng lão va nhau đánh cầm cập. Bàn tay lão như mười cây gậy khua khoắng dưới nước tê cứng. Cô Thơm nước mắt vòng quanh hô người nhà đốt lửa. Khi lửa đỏ bập bùng thì là lúc lão nhìn đồng hồ, sắp tới giờ đẹp để chuyển hài cốt sang ngôi nhà mới. Khói hương đốt nghi ngút lan rộng trong đêm nghe tái tê lòng. - Ai đấy? Có tiếng nháo nhác hỏi nhau, cô Thơm quay người lại sững sờ. Trong ánh đèn vàng, mặt cô Thơm bỗng ánh bừng lên. - Ông Lầm? Lão Cự bần thần nhìn cả hai người. Lúc này, ông Lầm đã quỳ tạ trước hài cốt của ông cụ lầm rầm khấn vái: - Xin thầy tha lỗi cho con. Con là kẻ bất hiếu, bất trung. Hôm nay, con về mong thầy mở lượng hải hà tha thứ, mong thầy dưới cửu tuyền được siêu thoát. Không gian tĩnh lặng trầm đi, chỉ nghe tiếng gió u u vờn quanh đốm lửa nổ lách tách, bụi than thi thoảng cuộn bồng như pháo hoa. Họ hàng rì rầm chỉ chỏ, mẹ con cô Thơm bối rối nhìn kẻ đang chắp tay cao rồi ngả rạp đầu sát đất vái lạy. Hai nhịp, đến nhịp thứ ba thì bất ngờ cô Thơm ngồi xuống túm nhặt đất đá ném lổng chổng lên người ông Lầm, nửa khóc nửa gào: - Cút! Cút ngay! Đểu giả! Tôi không mượn anh về đây tạ lỗi. Anh đã biến đi đâu để bố tôi suốt đời mang một nỗi hận, không bao giờ thanh thản? Một ông già chép miệng: - Thì ra là cái thằng này. - Mẹ ơi! Con Thắm nấc lên giữ chặt tay mẹ. Uẩn khúc của cô Thơm đang được hạ màn. Lão thầm hiểu ra vậy. Khi đoàn người rồng rắn đưa hài cốt qua phía dãy chung cư, hương nghi ngút đốm đỏ, vàng tiền bay lả tả…, ông Lầm vẫn quỳ sụp trước huyệt ván trơ trỏng. Sương lạnh phủ một lớp trắng trên chiếc mũ len đội đầu. Trông ông Lầm thảm hại giống kẻ bại trận, tơi tả trước gió, lửa và bị xua đuổi như thứ tà ma. - Sao ông không đi theo đoàn? Quỳ ở đó làm gì nữa? Thật lâu sau mới thấy ông Lầm lên tiếng: - Nhân nào quả đấy. Tôi bị như vầy đáng lắm. Lão Cự ngồi xuống rụt củi còn lại vào đám than hồng, ông Lầm đăm đăm vào ánh lửa. - Tất cả là do tôi. Ngày đó, tôi đã gặp bà Thơm trong những đợt liên hoan văn nghệ giao lưu các làng. Giọng hát của bà ấy ấm, âm vang, nhất là những điệu giao duyên, hát đối, liền anh liền chị. Tôi phụ trách nhóm làng Hồi, bà Thơm phụ trách làng Vèn. Lời qua tình lại rồi bén duyên, gặp không hề nói chỉ say trong mắt nhau. Hội hè qua, tôi không chịu nổi cái nghèo lẩn quẩn bám vào góc bếp, tôi biết nếu ra đi tôi sẽ mất bà Thơm, nhưng đối mặt với tù túng, hạn hẹp tiền bạc thì lòng tôi sôi sục. Khi đi tát nước về tôi đã hẹn bà ấy ở lại. Hôm đó, trăng rất sáng, soi rõ những giọt sương đọng trên lá ngô. Tôi đã nắm chặt tay và bà ấy run sợ, cái sợ ngấn đỏ trong mắt. Bà ấy cương quyết giữ gìn, nhưng sức mạnh của tôi chiến thắng. Bà Thơm giận, khóc nguyền rủa tôi... Lần gặp nhau cuối cùng là lần đó. Bà ấy cứ chắc một niềm tin cha mẹ tôi sang dạm hỏi và không thể ngờ kế hoạch ra đi của tôi... *** Hai tháng sau, ông Lầm gọi cửa nhà lão Cự rất sớm, khi lão rảnh tay qua mùa đông. Ông Lầm gầy sọp đi, cằm bạnh ra, râu ria mọc lởm chởm, nhãn đen trên mắt chậm chạp vẻ ủ dột. Có lẽ do ảnh hưởng tinh thần từ bữa bốc mộ ông cụ. Ông sang để đưa cho lão chùm chìa khóa ngôi nhà và dặn “nhờ bác trông nom giùm, hồi nào con Thắm về, bác đưa lại cho nó”. - Vậy còn ông? - Tôi phải đi thôi. Cứ nghĩ của cải, tiền bạc sẽ mang đến hạnh phúc cho vợ con tôi, nhưng hoàn toàn chẳng có nghĩa lý gì. Tôi thấy cô đơn trong chính ngôi nhà của mình. Bà Thơm không hề có ý mở lòng với tôi, con Thắm thì im lặng, sự im lặng nơi mắt nó giết chết mọi niềm tin trong tôi. Ông Lầm lầm lũi đi trong cái nắng heo heo vàng giữa buổi. Ngôi nhà đóng cửa im lìm. Cánh cổng sắt với đầu nhọn chổng lên trời, roong roong tiếng khóa. Lão muốn nói với ông Lầm rằng khoan hãy đi và kiên nhẫn chờ đợi, nhưng môi lão cứng nhắc. Lão nhìn sang phía nhà cô Thơm. Lẽ nào, cô còn muốn thêm những ngày xa cách. Tại sao mảnh ghép cuối cùng lại không hoàn hảo?
NGỠ Sưu tầm Cứ ngỡ là yêu... nào phải yêu Duyên kiếp xa xưa chẳng trở về Bờ môi buổi ấy không còn nữa Cố đợi bao lần vẫn trống không Còn được cái nhìn... hãy nhìn đi Còn được cái hôn... hôn thật đầy Lỡ mai qua cầu người sau trước Muôn thuở hương nồng... tiếng yêu thương.
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phía cuối con đường có ai đó đợi Em?[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyên Lê[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Người ta bảo “Chờ đợi là niềm hạnh phúc tuyệt vọng nhất khi yêu.” Đợi để gìn giữ, sẻ chia và để biết rằng, trong cuộc đời này, luôn có một người dõi về phía một người, luôn có một người đi tìm kiếm một người… Năm năm rồi Du không thay số điện thoại. Chỗ ở cũng thế, vẫn căn phòng nhỏ bé nằm trong một con phố ngợp bóng những hàng xà cừ xanh mướt lá. Du mòn mỏi chờ một người trở lại. Mòn mỏi cá cược với trái tim về một người đàn ông ngay từ đầu đã không thuộc về mình. Luôn có một người đi tìm kiếm một người... Du không bao giờ nghĩ sẽ gặp anh nhanh đến như thế. Đó là một ngày bắt đầu mùa mưa; ẩm ướt và se lạnh, một người bạn hẹn Du: - Tối nay em rảnh không, đi uống nước cùng chị. Du băn khoăn cũng nhận lời. Giới thiệu, làm quen hững hờ, thế mà “phải lòng” nhau. Sau này anh thường cười trêu, tại Du theo anh nên anh mới bị “sa bẫy”. Nhưng Du không bực mình, cũng chẳng thấy anh đáng ghét, vì anh đã ở trong vòng tay Du, vòng tay anh bảo: - Anh không chạy đâu, sẽ đứng im mãi đấy. Du cười, hiền lành và ngoan ngoãn, rúc vào anh như một con mèo. Khi ấy Du vừa tròn 21 tuổi. Và anh - một người đàn ông thành đạt 33 tuổi, đã có gia đình. Du cũng không bao giờ nghĩ là mình sẽ thuộc về anh nhanh đến như thế. Vẫn một đêm ẩm ướt mùa mưa, trong căn phòng nhỏ bé nhức nhối mùi vôi vữa và hơi mốc của đồ đạc, Du run rẩy đón nhận anh. Du nghe thấy trong mình dòng yêu thương đang vỡ oà tràn vào ngóc ngách của mọi giác quan. Trong cơn say mê mải, anh khẽ cắn vào tai Du thì thầm. - Em đàn bà lắm em à, vẻ ngây thơ, trong trắng nơi ánh mắt em khiến cho bất cứ người đàn ông nào cũng muốn giữ gìn như sợ đánh vỡ mất đi. Đàn bà khi vui thường hân hoan, niềm hạnh phúc long lanh trên ánh mắt bờ môi không có tấm màn nào che giấu được. Du không như những người con gái khác, cho đi rồi hối hận hay trách cứ, Du mãn nguyện vì có anh và được là của anh. Sau cùng của những yêu thương, anh lặng lẽ rời xa, Du không giữ anh ở lại, vì Du biết anh không thuộc về mình. Cuộc sống của anh ở nơi có vợ và cô con gái ba tuổi. Tấm ảnh của Du bao giờ anh cũng cất sâu trong ví, phía sau hình của mái ấm nhỏ bé đó. Du không giữ anh ở lại, vì Du biết anh không thuộc về mình Dự án của anh kết thúc cách đây 4 năm. Du tiễn anh vào một ngày mùa đông giáp Tết, miền Bắc lạnh tê người. Đêm trước khi chia tay, anh gục trên bờ vai Du, nước mắt họ mặn chát lẫn trong môi hôn khắc khoải, day dứt. - Anh đi rồi, em nhớ chăm sóc cho mình nhé! Em có trách anh tệ quá vì không dám sống hết mình với tình yêu của chúng ta không? Du lặng lẽ lắc đầu. Du biết mình yêu con người có trách nhiệm với gia đình trong anh, yêu cả tình thương vô bờ anh dành cho con gái, những thấu hiểu về nỗi vất vả, thuỷ chung khi anh kể chuyện về vợ của mình. Du yêu cách anh chăm sóc vợ con, cách anh gọi điện về nhà với đầy lo toan, trằn trọc. Yêu và tủi hờn đồng hành vì biết đắng cay và đau khổ sẽ đến, Du không thể rời xa anh. Du dụi đầu vào má anh, nói như thì thầm với chính mình: - Em phải trả anh về cho chị ấy, gia đình nào cũng cần có bờ vai rộng của một người đàn ông. Người ta không thể tham lòng mà bấu víu lấy những thứ mãi mãi không phải của mình. Anh hôn từ từ lên mắt, lên môi, lên cổ, lên tóc, lên từng tế bào nhạy cảm trên cơ thể Du. Đó là lần cuối cùng, Du cong mình đón nhận tình yêu của một người đàn ông với cả hai thứ cảm xúc đối lập hạnh phúc và buồn tủi. Sân bay nhốn nháo cảnh chia tay ngày đó, anh ôm nghẹt lấy Du. Đau khổ nhất là khi người ta có thể nhìn thấy nhau, biết mình cần nhau, mà phải lẳng lặng chôn vùi yêu thương vì những duyên cớ số phận sắp đặt an bài. Hơi ấm thân thương len lỏi vào lồng ngực nấc lên từng hồi, phút giây đó Du thấy mình khánh kiệt. Để rồi kể từ sau ngày ấy, chưa một lần họ gặp lại nhau. Kể từ ngày anh đi, Du chưa từng yêu một người đàn ông khác. Du vẫn là một người đàn bà trong trắng, yêu và chỉ thuộc về một người đàn ông. Đau khổ nhất là khi người ta có thể nhìn thấy nhau, biết mình cần nhau, mà phải lẳng lặng chôn vùi yêu thương... Cho đến sáng hôm nay, tại góc của quán cafe này, quán café sáu năm về trước họ chạm mặt và chấp nhận khánh kiệt để thuộc về nhau trong một tình yêu biết trước chỉ toàn khổ đau và dằn vặt. Anh ngồi đó, khuôn mặt xạm đen vì sương gió, rắn rỏi và gân guốc; thoáng một chút mệt mỏi. Đôi mắt đen thăm thẳm khuất dưới hàng lông mày đậm nét nhìn Du long lanh. Mùa đông này lạnh hệt như ngày họ xa nhau. Du vừa nhận được điện thoại của anh cách đây 30 phút. Cuộc điện thoại khiến Du nghẹn ngào không nói được lời nào, cố lắm cô mới hỏi anh được đúng một câu: - Bây giờ anh đang ở đâu? Du cuống cuồng bỏ mặc cơ quan mà chạy đến, chết trân nhìn cái dáng ngồi hiền lành của anh, nước mắt chảy tràn trên hai khoé mi suốt dọc đường để lại những vệt dài loang bờ má. Du vừa ngồi xuống, tay anh đặt lên tay Du, nóng bỏng và cồn cào. Bao nhiêu năm, Du thèm khát được đụng chạm vào người đàn ông này, thèm khát hoang dại cho những bến bờ tận cùng với anh; bao nhiêu năm Du giữ mình cẩn thận để xuất hiện trong cuộc gặp gỡ cô phải đợi chờ quá lâu này. Bây giờ không phải chờ đợi nữa, không phải đấu tranh và dằn vặt lòng nữa; anh mạnh bạo kéo tay Du chạy như bay về căn phòng nhỏ của họ. Ở đó, họ lại mê mải hoà lẫn vào nhau. Sau cuối của đam mê, sau cuối của những nhịp yêu thươg gấp gáp và thoả mãn; Du khóc nức nở như đứa con gái lần đầu tiên trao đi cái quý giá nhất của cuộc đời. Anh hôn nhẹ lên má Du: - Bao năm rồi, em vẫn quyến rũ như thế. Anh không thể quên ánh mắt em, không thể chịu nổi khi không nhìn thấy mình trong đó. Em hãy nói là em yêu anh, nói đi em. Gối đầu trên vai anh, bất giác Du giật mình: - Bao giờ anh sẽ đi? Anh lặng yên không nói. Im lặng có nghĩa là kết cục ấy lại xảy ra. Du nghĩ đến những năm tháng tiếp theo của cuộc đời mình, và thấy cổ họng nghẹn đắng. Sống tiếp, sẽ đợi chờ một người, sẽ tiếp tục mòn mỏi, hi vọng nghĩ đến tương lai? Nhưng bản thân mình Du sẽ sống thế nào? Cần phải làm gì để vượt lên những ám ảnh đeo đẳng đó? Du theo đuổi bóng dáng của một người, liệu còn có ai đó đợi chờ cô phía cuối con đường kia không? Có ai đợi cô ở phía cuối con đường kia không? Ba tháng sau cuộc gặp gỡ bất ngờ và ngắn ngủi của Du và anh, một buổi sáng, Du nhận được điện thoại của một người phụ nữ. Người đàn bà có chất dọng nhẹ nhàng, cất những lời mỏng manh khó nhọc nhưng khiến Du khuỵu ngã: - Du phải không? Chị là vợ của anh Nam. Anh Nam… mất rồi em à. Du không hiểu chuyện gì đang xảy ra nữa; chỉ thấy tiếng gió, tiếng cười khàn đục của anh lào xào đập vào bờ thành lồng ngực mình. - Anh Nam phát hiện ra mình bị ung thư gan từ 6 tháng nay, nhưng không cho ai biết. Lần anh ấy lặng lẽ ra Hà nội gặp em trở về, bệnh trở nặng nên không giấu được. Những ngày cuối, anh ấy kể cho chị về em. Du nghe thấy tiếng người khóc nức lên ở đầu dây bên kia, tiếng vỡ tan của những tế bào tan ra trong dòng xoáy mãnh liệt rút kiệt sinh lực của cô. Du không cảm nhận được nước mắt mình có chảy hay không, chỉ có những dòng thác của sợ hãi, đau đớn đổ ập lên bờ vai khiến Du ôm ngực khuỵu xuống. - Không! Anh? Anh à! Làm sao như thế được! Bây giờ Du mới hiểu, tại sao bao nhiêu năm nay Du có đủ can đảm, nghị lực đợi chờ. Còn đợi chờ là còn hi vọng, còn tin tưởng. Du chợt nhớ những lời nói nghẹn lại của anh: - Cuộc đời anh có lỗi với cả hai người đàn bà thương yêu anh nhất. Anh xin lỗi em. Xin lỗi vì để em mòn mỏi quá lâu thế này. Đến một lúc nào đó, em à, em hãy tin tưởng nhé! Ở nơi nào rất xa, anh sẽ chờ em, để trả lại tuổi trẻ, tình yêu và niềm tin trong trái tim em. Anh hứa với em. Nhưng từ giờ đến khi gặp lại, hứa với anh là em phải mở lòng để yêu thương, để sống hạnh phúc. Em hứa chứ? Du khẽ gật đầu, mắt rưng rưng nước. Bờ môi mềm của anh như còn đang phủ cả cơ thể của Du mà sao khóe miệng Du đắng ngắt. Cuối cùng chúng ta cũng mất anh ấy rồi... Tròn một tuần anh mất, Du mới có mặt trước mộ anh, những thảm cỏ xanh thẫm để lại trong mắt Du một vạt buồn hoang lạnh, cô độc. Yêu thương giờ nằm xa tầm với của con người, anh im lặng nằm đó, Du đứng đây mà không có nổi một mối liên hệ mong manh nào. Người phụ nữ nhỏ bé đứng bên Du, khuôn mặt u sầu, mệt mỏi nhìn vào khoảng mênh mông không có vẻ trách cứ, oán thán. “Cuối cùng chúng ta cũng mất anh ấy rồi. Người không ở lại thì mọi điều chẳng có nghĩa lý gì.” Du châm lửa, những trang nhật ký bén thứ ánh sáng vàng vọt, nhợt nhạt chuyển sang màu tàn tro bay trong gió. Kỉ niệm không đốt được, thiêu cháy tâm hồn Du. Người đàn bà góa bụa ở tuổi 35 lặng lẽ rời đi. Chỉ lúc bấy giờ Du mới đổ khuỵu xuống mộ anh và nức nở khóc. Du bỏ lại chiều Sài gòn và nắng hoang hoả ngược tàu trở ra Hà Nội, về căn nhà nhỏ bé dưới gốc cây xà cừ rợp lá. Một tuần, sống trong những kỉ niệm khôn cùng, Du thu xếp đồ đạc, chuẩn bị cho hành trình dài của cuộc sống mới. Từ Hà Nội, Du ngược mãi lên Cao Bằng, ở đó có một cơ quan thường trú của tờ báo Du đang làm, chưa ai nhận đảm đương vị trí quản lý. Lần đầu tiên, sau gần 5 năm yêu một người, Du nghĩ về sự thay đổi. Trong cuộc đời một con người, thay đổi cũng là để đợi chờ. Nhưng là đợi chờ để đi đến gần nhau hơn. Mỗi ngày tới, mỗi giờ tới, Du biết là mình sẽ gần anh hơn nữa. Du đi về phía anh, phía ánh sáng của một tình yêu không bao giờ tắt.[/FONT]
Với chiếc đèn Quảng Cáo… Ý Nhi Do nhầm lẫn, lúc chập tối, người ta để anh xuống một bến xe cũ, đã bỏ hoang. Trên nền đất khô khốc, ngôi nhà lớn lợp tôn đứng chơ vơ. Quanh nhà, cây dại mọc lùm xùm, chen chúc, chồm lên cả thềm đất. Anh chưa kịp quay lại để cầu cứu, chiếc xe anh đi nhờ từ QB đã biến khỏi tầm mắt. Đành vậy, anh nhủ thầm, nhìn quanh bãi xe. Không hiểu vì lẽ gì, khi di chuyển xe cộ, đồ đạc, vật dụng… người ta lại để lại nơi đây một cột trụ cao ngất ngưởng với những ngọn đèn quảng cáo xanh đỏ tím vàng không ngừng quay, không ngừng nhấp nháy sáng. Có thể, chính ngọn đèn quảng cáo này khiến nhiều người nhầm tưởng bến xe vẫn đang hoạt động. Anh loay hoay mất một lúc, không biết phải bắt đầu bằng việc gì, rồi đành vất ba lô, ngồi xuống nền đất, khoanh tay bó gối, nhìn đăm đăm lên những ngọn đèn, làm như chúng có thể giúp anh tìm ra một lối thoát. Chỉ đến khi mọi thứ nhòe đi thành một quầng sáng hỗn loạn anh mới rời mắt, ngoảnh nhìn vạt cỏ xơ xác trước nhà. Trong lúc cố tìm ra một cách khả dĩ để sống qua đêm ở nơi chốn xa lạ không một bóng người, chẳng hiểu do đâu mà trong mớ ý nghĩ hỗn độn bỗng hiện lên mấy câu thơ của người bạn học cũ. Có lẽ, trừ câu đầu tiên, chúng liên quan trực tiếp đến cảnh ngộ của anh chăng: Chẳng thà làm một cơn mưa/trên bãi xe không bóng người/với chiếc đèn quảng cáo quay những vòng ngũ sắc lên trời/không ngớt . Bữa đó, không biết vội vàng thế nào mà thay vì mang cuốn vở toán hắn lại đem theo cuốn vở ghi chép ở nhà. Những câu thơ ghi trong cuốn vở học trò có bìa màu vàng nhạt, vẽ hai đứa nhỏ cầm tay nhau đến trường, tình cờ rơi vào tay cô giáo chủ nhiệm khi hắn lên trả bài. Có thể, khi vừa trao cuốn vở hắn đã nhận biết một tai họa sắp đổ ập xuống cuộc đời hắn. Hắn vốn giỏi toán vậy mà bỗng lắp bắp không ra lời, tay cầm phấn run run, phấn rơi lên rớt xuống mấy lần. Cô giáo lần giở các trang vở, mặt cũng tái dần đi. Cả lớp nín thở, không biết đang xảy ra chuyện gì. Hóa ra, cô đọc thấy mấy câu thơ trong vở của hắn. Ở trang đầu tiên hắn còn nắn nót ghi lại thơ của ai đó, kèm với hình vẽ một người gầy nhẳng, hai tay giơ lên trời, miệng há to: Bỗng nhiên tôi chán làm người... Sẽ rất tuyệt vời/đi ngoài đường với con dao màu xanh lá cây/rống cho tới khi chết cóng. Cả trường nhốn nháo truyền tai nhau mấy câu thơ kỳ quặc, vô nghĩa, phi hiện thực của hắn. Bấy giờ, các thi sĩ chỉ một mực làm thơ về nhà máy, về công trường, về tăng năng suất lúa, về hy vọng, về niềm tin mà thôi. Người ta bảo, nếu làm to chuyện, hắn có thể bị bắt, bị truy cứu, bị giam cầm. Ban giám hiệu, nhất là thầy hiệu trưởng, thương đứa học trò giỏi, bàn tính với gia đình làm đơn cho hắn nghỉ bệnh, đợi mọi việc nguôi ngoai rồi học tiếp. Anh thi vào Mỏ - Địa chất. Anh đinh ninh hắn sẽ thi vào một trường nào đó có liên quan đến văn chương nhưng hắn lại thi vào ngành kinh tế. Anh nghĩ vẩn vơ, không hiểu thằng bạn ngồi cùng bàn, mắt lúc nào cũng dài dại sau cặp kính tròn, cả đời chưa ra khỏi ngôi làng nhỏ, làm sao lại có được cái ngọn đèn quảng cáo, cái bến xe vắng khách, làm sao lại muốn làm một cơn mưa, làm sao lại yêu thích những câu thơ lạ lùng của ai đó... Anh không hỏi, hắn cũng im lặng, coi đó như chuyện cấm kỵ. Nhưng ngay cả khi đã khôn lớn, khi P.Neruda được giới thiệu rộng rãi ở Việt Nam, anh cũng không có điều kiện để hỏi han thêm vì hắn đã rẽ sang một con đường khác, trở thành chuyên gia phân tích kinh tế. Thỉnh thoảng anh nhìn thấy hắn trên ti vi, trong các chương trình về tài chính, ngân hàng, vẫn đôi mắt dài dại sau cặp mắt kính tròn, vẫn giọng nói nhỏ, điềm đạm như ngày trước. Các lập luận của hắn chắc chắn, các kiến giải của hắn sáng sủa. Hắn có lối nói thẳng, mạch lạc. Chỉ có điều, trông hắn mệt mỏi, lúc nào cũng mệt mỏi, giống như kiểu một người đang gắng sức làm cho xong phần việc được giao. Đôi lúc, anh nghĩ, có thể, sự cố hồi tuổi nhỏ đã vùi lấp tình yêu dành cho văn chương của hắn. Ấy vậy rồi, anh tình cờ nghe thấy những bài thơ của hắn được giới văn chương nhắc nhở, khen ngợi. Hắn dùng chính tên khai sinh làm bút danh nhưng chỉ in đi in lại một design của hắn do họa sĩ H. vẽ, không khi nào in ảnh. Anh lại nghĩ, hóa ra, giết chết một tình yêu không phải là chuyện dễ dàng. Chúng ở đâu đó, bị đè nén, khuất lấp bởi cuộc sống thường nhật nhưng rồi sẽ đến lúc, chúng bùng cháy. Và khi ấy, khó mà lường được sức nóng, sức lan tỏa của chúng. Anh vốn ghét các chương trình quảng cáo. Cầm một tờ báo trên tay, bao giờ anh cũng ném mấy chục trang quảng cáo sang bên cạnh. Xem phim, đến lúc quảng cáo là anh chuyển kênh. Vợ anh bảo, anh lạ quá, không quảng cáo làm sao mình biết thứ này thứ nọ để mua sắm. Anh xem, ti vi, tủ lạnh, máy giặt, máy tập thể dục, cây lau nhà, nồi cơm điện… chẳng nhờ quảng cáo đó sao. Anh hầm hừ, nhưng ít nhất 50% là sai sự thật. Em kiểm chứng đi. Anh ghét kiểu cái gì cũng nhất, cũng tuyệt hảo, cái gì cũng không thể thiếu, không thể thay thế của bọn họ. Vợ anh không cãi, chăm chú nhìn lên màn hình, dõi theo người phụ nữ tóc vàng đang hướng dẫn cách sử dụng máy mát xa cầm tay giúp tan mỡ bụng. Vợ anh là người tốt nhịn. Chị không bao giờ đẩy những tranh cãi đến cùng. Ví như việc anh thích lang thang trên vùng núi này. Chị bảo, anh lăn lộn mãi rồi, giờ là lúc có thể làm việc ở phòng thí nghiệm. Anh đến bên vợ, nhẹ nhàng, sức khỏe anh thế nào, sở thích anh thế nào, hiệu quả công việc của anh đến đâu, chỉ có tự anh biết. Chị lại lẳng lặng thu xếp quần áo, thuốc men, thức ăn dự trữ... cho chồng. Anh lôi từ ba lô ra một thỏi lương khô. Kẹt nỗi, ăn thứ này mà không có nước là chết nghẹn. Ý nghĩ về cơn khát đã kéo theo một cơn khát thực sự. Cổ họng anh chợt khô rát, tay chân chợt mỏi mê, rời rã. Anh treo ba lô lên chiếc đinh người ta đóng sẵn trên cột nhà, vặn mình mấy cái rồi bắt đầu cuộc tìm kiếm nước. Anh đã nhiều lần lạc đường, nhiều ngày lang thang một mình trong những cánh rừng thâm u, những đèo dốc, những lũng sâu... nên việc bất ngờ rơi vào bến xe không người giữa đêm hôm khuya khoắt không phải là chuyện chi to tát. Chỉ có cơn khát đang hành hạ anh là điều đáng ngại. Căn nhà khá rộng, sực lên mùi ẩm mốc, chỉ còn lại một khung gỗ cũ, trổ hai ô cửa nhỏ, hình chữ U ngược, chắc vốn là quầy vé. Anh vừa chạm tay vào, khung gỗ đã sụm xuống như thể chỉ chờ có vậy để kết thúc sự tồn tại vô bổ của mình. Anh quét đèn pin dọc theo chân tường, cố tìm một dụng cụ chứa nước nhưng vô hiệu. Anh bỏ ra ngoài, đi vòng quanh ngôi nhà dưới ánh sáng nhấp nháy của ngọn đèn quảng cáo. Lần đầu tiên trong đời anh có thiện cảm với một vật dụng quảng cáo. Không có mày, hẳn chỗ này buồn lắm, anh vừa lẩm bẩm vừa dò dẫm bước trên những mô đất, những búi cỏ. Anh vấp phải một vật cứng. Hóa ra là một cái vòi nước cũ. Anh ngồi thụp xuống, nhận thấy tay mình run run khi chạm vào nó. Cái vòi đã han gỉ. Anh vặn đi vặn lại nhưng chỉ nghe tiếng rào rạo khô khốc. Nhìn kỹ thì nó chỉ đứng trơ trỏng một mình, không nối với ống dẫn. Anh thở dài, với tay bứt một cọng cỏ, nhấm nhấm lấy nước, tình cờ lại chạm vào một đoạn ống sắt lạnh ngắt. Anh phấp phỏng lần theo đường ống lẫn trong vạt cỏ, lúc đứt lúc nối rồi đột ngột gãy vụn, chỉ còn những mảnh kim loại nhỏ lạnh lẽo trong lòng tay. Nỗi lo không thể tìm thấy nước xâm chiếm cả đầu óc lẫn thân thể, khiến anh có cảm giác mình cũng vừa gãy vụn ra trên nền đất xa lạ. Anh chuồi mình xuống cỏ, chìm vào giấc ngủ nặng nề. Anh thấy người bạn học cũ đến bên anh, vẻ mệt mỏi, cậu biết không, điều khác biệt giữa tôi và cậu là ở chỗ, một thằng thì mơ làm một cơn mưa, thằng kia thì mong có một cơn mưa. Anh hỏi, anh nghe thấy giọng mình thều thào, vậy đằng nào khó hơn. Hắn cười, bây giờ thì tôi hiểu, đằng nào cũng khó. Tôi chẳng thể làm một cơn mưa mà cậu cũng chẳng có một cơn mưa. Tôi vẫn không thể rời xa những GDP, CPI, FDI, VN Index, HNK-Index... còn cậu thì sắp chết khát ở nơi này. Anh đang định hỏi hắn về mấy bài thơ tân hình thức, hậu hiện đại gì gì đó thì hắn đã đứng dậy, đưa tay về phía anh, nhân tiện, báo với cậu một tin liên quan, người ta cho biết hiện trên mặt trăng có khoảng 5 triệu tấn Halium-3 (**). Các cậu chuẩn bị lên đó mà khai thác, trái đất cạn kiệt rồi. Vừa dứt lời, hắn lặng lẽ bỏ đi, khuất dạng sau những thân cây lớn của cánh rừng trước mặt. Anh nhổm lên rồi lại ngã vật xuống. Anh thấy mình bước hụt, rơi tõm vào một hố nước trong vắt. Quá sung sướng, anh lặn sâu xuống đáy để thỏa cơn khát, để nước có thể thấm đẫm vào từng đường gân, thớ thịt. Chỉ đến khi sắp ngạt thở anh mới ngoi lên nhưng vừa ngoi lên thì cơn khát lại ập đến. Anh tính ngụp lặn một lần nữa thì nhận ra cái hố đã khô khốc, trơ ra mấy bụi cỏ xơ xác. Anh bật khóc. Anh nghĩ là anh đã khóc rất to. Giữa khuya, khi sương xuống ướt đẫm quần áo, tóc tai, anh mới tỉnh lại. Ánh đèn quảng cáo giúp anh nhớ đến tình cảnh của mình. Hóa ra, anh chỉ cách nhà xe một đoạn rất ngắn. Bíu vào bụi cây dại ven đường, anh ngồi dậy. Anh hoảng kinh khi nhận thấy một khối đen sát ngay bên mạn sườn. Nhìn kỹ, đó là một con chó gầy nhom, hai chân sau duỗi dài, đầu đặt trên hai chân trước bắt chéo nhau, hơi thở đứt quãng. Thảo nào hồi chặp tối anh có cảm giác như có ai đó quanh quất, dõi theo bước chân của mình. Anh đã cầm sẵn con dao đa dụng ra tay để phòng thân. Anh hỏi nó, giọng rời rạc, sao vậy. Người ta bỏ quên mày giữa chốn hoang tàn, không cơm ăn, không nước uống này sao. Nó ngước nhìn anh, khẽ rung rung đôi tai, rên ư ử, thừa nhận sự thật cay đắng. Anh vỗ nhè nhẹ vào đầu nó, thôi, cùng hội cùng thuyền, cùng chiến đấu nhé. Đứng lên xem nào. Nó cố đứng lên, chân run lẩy bẩy, trông rất tội nghiệp. Anh cởi chiếc khăn quàng cổ, ủ ấm cho nó, vấn đề sinh tử của chúng ta lúc này là nước, mày hiểu không. Nó cúi đầu, cố hiểu thông điệp của người bạn bất ngờ. Mày là dân bản địa, hẳn mày biết chỗ ngày trước người ta lấy nước. Anh nhấn mạnh chữ nước. Nó loạng choạng bước đi, anh theo sau. Anh tin chắc rằng con Mực (anh vừa đặt tên cho nó) sẽ giúp anh. Hai cái bóng liêu xiêu đi giữa đêm vắng như hai kẻ say. Anh không biết đi như thế bao lâu thì anh nghe thấy hơi nước từ đâu đó phả vào mặt, như kiểu sắp sửa có một cơn mưa giông. Anh ngồi xuống, ghé sát mặt vào tai con Mực, mày siêu quá. Mày có máu của dân địa chất, ở đâu có quặng là ngửi thấy liền. Con chó lây nỗi vui của anh, tai dựng thẳng, mũi khịt khịt, bước đi có phần nhanh nhẹn hơn. Cuối cùng, nó chạy lên trước, dẫn anh đến bờ một con suối nhỏ. Anh ôm con Mực, lăn mấy vòng rồi nhảy ùm xuống nước. Con Mực vùng vẫy trong tay anh, miệng rít lên khoan khoái. Khi quay trở lại, anh tìm thấy một lối mòn. Rõ ràng, ống nước chạy dọc theo con đường này và suối cũng không xa lắm. Vậy mà hồi chặp tối anh đã mò mẫm chật vật, khốn khổ biết bao. Anh soạn ba lô. Ngoài lương khô, vợ anh còn gói theo một bọc ruốc, một ít thịt sấy. Con Mực ngồi bên cạnh, chờ đợi bữa ăn, mắt ươn ướt nhưng không có vẻ chi vồ vập, nôn nóng. Anh bảo nó, sẽ có một bữa hoành tráng đây. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của loài người, lúc đói quá, chớ ăn vội, chớ ăn no, phòng bị bội thực. Có người chết vì bội thực đấy. Con chó ra chiều hiểu ý, ăn nhỏ nhẹ, từ tốn, liếm cho bằng hết chỗ thức ăn rơi vãi. Anh vừa bẻ lương khô vừa hỏi nó, thế lâu nay mày sống bằng cách nào, chẳng lẽ chỉ uống nước suối rồi nằm khoèo nhìn mấy cái đèn xanh đỏ tím vàng đang quay tít trên kia. Nhận ra âm điệu cảm thương của giọng nói, con Mực nằm lăn bên chân anh, khoe mấy cái khoeo chân xinh xắn. Anh ồ lên, hóa ra mày cũng không thường đâu. Rõ là một chú khuyển thông minh. Nó đập đập cái đuôi xuống nền đất, ra dấu đồng tình. Trước khi rời bãi xe để ra đường lớn, anh cẩn thận chia thức ăn thành nhiều phần rồi dặn nó, đừng có ăn hết một lần đấy nhé. Đợi tao ở đây. Anh về nhà muộn một ngày. Nghe anh nói lý do của việc chậm trễ, vợ anh bảo, em có phải trẻ con đâu mà tin vào câu chuyện của anh. Anh cứ đi kể hết cho bàn dân thiên hạ xem có ai tin nổi không. Cái bến xe chứ đâu phải quán chè chén mà dời đi chỗ khác cũng không ai hay biết. Lại còn con chó nhịn đói được mấy tháng mà vẫn nhanh nhẹn, lại còn giấc mơ, lại còn cái ngọn đèn quảng cáo quay không ngừng giữa chốn không người, rồi thì mấy câu thơ kỳ quặc, mấy lời nói bí hiểm, thật không sao tin nổi. Chị nói một thôi một hồi rồi thở hắt ra. Anh đến bên vợ, em không tin cũng phải nhưng tất cả là sự thật mà. Vợ anh dài giọng, vâng, sự thật của một mình anh, kẻ thích trèo đèo lội suối, thích chốn rừng thiêng nước độc. Anh cố tìm cách giải thích, nhưng anh là người muốn có một cơn mưa chứ không phải là kẻ mong làm một cơn mưa. Anh nhấn mạnh hai chữ có và làm. Vừa dứt lời anh đã nhận thấy mình đang tự dấn thân vào chốn hiểm nguy. Vợ anh mở to mắt nhìn anh, nói rành rẽ từng tiếng một, anh ơi, anh có làm sao không, anh mơ màng kiểu gì vậy. Bị thất thế, anh liều lĩnh, đáp lại cùng một cách, nhưng em ơi, mơ là một phần của đời sống, một phần của sự thật. Người ta chẳng tìm hiểu con người qua những giấc mơ đó sao. Anh chờ đợi một phản ứng dữ dội hơn nhưng vợ anh bước tới, nhẹ nhàng đặt tay lên trán anh, anh có mệt mỏi quá không, anh gặp trục trặc ở chỗ làm ư, dự đoán của anh sai số quá lớn phải không. Anh mỉm cười, không đáp, tránh sa vào một cuộc tranh cãi mới. Vợ anh lắc đầu như để xua đi một ý nghĩ tồi tệ, rồi nói, giọng mệt mỏi, thôi, đến lúc anh phải đi thì đi đi. Anh không dám nói với vợ việc mình sẽ ghé lại bến xe để tìm con Mực. Suốt chuyến xe trở lên nơi làm việc, đầu óc anh cứ luẩn quẩn câu chuyện giữa hai vợ chồng. Vốn là một phụ nữ thuần phác, vợ anh chỉ tin vào những gì có thể nhìn thấy, có thể giẫm dưới chân, có thể cầm trên tay. Lẽ ra, anh nên chọn một lý do đơn giản như xe hỏng, xe hết xăng, nước suối bất ngờ lên cao, núi lở, cây đổ, thậm chí, gặp hổ, gặp báo giữa đường... hẳn vợ anh sẽ dễ chấp nhận hơn rất nhiều. Đằng này, anh đã vô tình kéo vợ vào một câu chuyện rắc rối, không đầu không cuối, nửa hư nửa thực, nhất là mấy câu thơ và câu nói vẩn vơ về năng lượng trên mặt trăng của người bạn học cũ. Tựa người vào thành xe, anh dõi mắt theo những mảng sương trắng đục chập chờn ngoài ô cửa, đầu óc quẩn quanh những câu hỏi, những ý nghĩ không liền mạch, không rõ ràng. Tại sao sau bao nhiêu ngày tháng, mấy câu thơ lạ lùng đó lại trở về trong trí nhớ của anh, giữa một đêm lạc đường. Tại sao người bạn cũ lại hiện ra trong giấc mơ. Câu nói của hắn có ý nghĩa như thế nào. Mối liên hệ giữa một nhà kinh tế sáng suốt, rành rẽ và một người làm thơ mơ mộng nằm ở đâu. Vì sao hắn bỗng công bố thơ sau mấy mươi năm im lặng... Cảm thấy váng vất, khó chịu, anh lắc lắc đầu, đưa mười ngón tay xới tung đám tóc rồi chồm tới xin cậu lái xe một điếu thuốc. Cậu ta đáp, em chỉ có thuốc lào thôi. Anh đáp, gì cũng được. Cậu ta vừa đưa điếu đóm cho anh vừa hỏi, hôm nay anh sao vậy. Bình thường anh có hút xách gì đâu. Anh vê thuốc, cho tỉnh táo ấy mà. Cậu lái xe cười, em thấy anh khang khác thế nào ấy. Anh vừa nhả khói vừa nghĩ, sao mình không làm một cái test với cậu ta nhỉ. Anh kể câu chuyện xảy ra mấy ngày trước cho cậu lái xe, rồi hỏi, cậu có tin không. Cậu ta cười, có gì lạ đâu ạ. Anh ơi, thằng em ba chìm bảy nổi, làm đủ thứ nghề, sống khắp hang cùng ngõ hẹp, sướng khổ đủ rồi, chẳng thấy cái gì là lạ, là không thể. Anh biết không, những lúc kiếm không nổi bữa cơm, nằm khan trong xó nhà, em mơ đủ thứ. Gì chứ cái kiểu mơ làm thứ này thứ nọ thì em rành lắm. Lúc đói thì mơ làm chủ quán phở, lúc rách thì mơ làm chủ tiệm quần áo, lúc hết tiền thì mơ làm chủ ngân hàng, lúc cửa nhà chật chội nóng bức thì mơ làm chủ khách sạn, rồi thì mơ làm ông nọ ông kia, đủ cả. Cứ nằm khểnh mà mơ làm cũng được an ủi đôi chút. Thấy anh chăm chú lắng nghe, cậu ta khoái chí, nhưng thú thật, gì chứ mơ làm cơn mưa thì chưa hề, lại còn mưa trên bãi xe vắng người thì chán lắm. Em nhớ hồi học cấp hai ở làng, cô giáo dạy em bài thơ của một ông quan, làm quan chả thiết lại mơ làm cây thông. Rõ chán. Em đếch mơ dại thế. Ông quan nọ, cũng như cái bác bạn anh, chắc lúc đó buồn quá mới mơ rồ mơ dại như thế. Thú thật với anh, cánh xế như em, thấy mấy vị đó cứ hâm hi thế nào ấy. Anh bật cười, thâm thúy lắm. Thế bây giờ cậu có mơ làm cái gì nữa không. Cậu ta cười to, có ăn, có mặc, chẳng ai bức hại mình, vi vu nơi này chốn nọ, bằng lòng rồi thì còn mơ gì nữa. Người ta chỉ mơ khi thiếu thốn, cùng quẫn thôi, kiểu như anh mơ thấy nước khi khát cháy cổ ấy. Rồi hắn chợt quay lại, thế còn anh, anh mơ làm cái gì. Anh cười giả lả, cũng như cậu thôi, mơ màng gì nữa. Anh ngâm nga, suốt ngày dài lại đêm thâu. Cậu ta tiếp luôn, chúng ta đi trên đất Phi châu. Cả hai cười phá lên vì sự ăn ý. Bằng lòng với sự kiểm nghiệm của mình, anh ngả người trên ghế, ngủ thiếp đi với ý nghĩ, thế nào cũng phải kể cho bạn anh nghe câu chuyện thú vị với tay lái xe. Anh giật mình vì một tia sáng lóa mắt táp vào ô cửa và tiếp ngay sau đó là một tiếng nổ dữ dội. Thoạt tiên, anh nghĩ là mìn phá đá ở chỗ đang khai quặng. Tỉnh hẳn, nhìn thấy cậu lái xe đang kéo cửa kính lên, anh mới nhớ mình đang đi trên xe. Cơn mưa dữ dội, tối tăm trời đất. Cậu lái xe bảo, phải đợi dứt cơn thôi. Đi kiểu này nguy hiểm quá. Chẳng hiểu sao lại mưa giữa mùa này. Anh đáp, ông trời mà. Trời cho sao ta được vậy. Tay lái xe nén lại một cái ngáp, mình cắm trại ở đây nhé. Anh đáp, ừ, thì cắm, rồi khoanh tay, tựa đầu vào thành ghế. Cậu ta gãi đầu, buồn quá, hay mình đánh phỏm giải khuây. Anh xua tay, tôi dốt mấy trò này lắm. Thỉnh thoảng thấy người ta chơi say sưa cũng ghé mắt nhìn nhưng chẳng hiểu gì cả. Cậu ta tròn mắt, thế lúc rỗi anh chơi trò gì. Đọc sách. Cha mẹ tôi là nhà giáo, nhà rất nhiều sách nên anh em tôi đọc sách từ tấm bé. Mãi đến bây giờ tôi cũng không bỏ được thói quen vừa ăn cơm vừa đọc sách. Vợ tôi bực lắm, nói đi nói lại một câu, ăn vậy còn gì là ngon. Tôi cãi, có vậy anh mới thấy ngon. Thế là huề. Cậu lái xe chậc lưỡi, chị ấy hiền nhỉ. Phải tay vợ em thì... Hắn bỏ lửng câu nói, quay sang lấy chiếc túi vải, không bài bạc thì nhậu nhẹt. Em thì chỉ biết hai món này thôi. Anh cũng lấy túi của mình, tớ đem theo đủ cho cả tháng lạc đường. Lần này vợ tớ bắt vác một can nước lớn. Không tin câu chuyện của tớ nhưng vẫn sợ tớ chết khát ở đâu đó. Nhậu nhẹt thì nhậu nhẹt. Tay lái xe bỗng cười vang, anh có biết chuyện hai ông xứ nọ rủ nhau nhậu nhẹt không. Hai bố vào quán chè chén bên đường, ngồi nghênh ngang, gọi thật to, bà chủ, hai nước, hai kẹo lạc, hai Tam Thanh (***). Chủ quán đem ra các món họ gọi. Hai ông xắn tay áo, cầm hai cốc nước hô to, zo. Một ông quát lên, uống đi mi, ăn đi mi, hút đi mi, đời là cái chó chi. Ông kia cũng la theo, xả láng cuộc đời đi mi. Một đám người hiếu kỳ vây lấy quán. Bà chủ quán sợ quá, van lạy, thưa hai ông, quán nhà cháu nhỏ lắm, chả bõ, hai ông vào cái nhà hàng to đùng kia mà xả láng cuộc đời. Anh cười, cũng giống bọn ta nhỉ, chỉ vài cốc nước lã mà cũng làm cho to chuyện. Tay lái xe cãi, ý em không phải thế, cái chính là cảm hứng anh ơi. Mình cao hứng thì ngồi đâu, ăn gì cũng ra vấn đề. Từ khá xa anh đã nhìn thấy ngọn đèn quảng cáo. Trong buổi chạng vạng, giữa cảnh thâm u, vắng lặng, trông nó thật cô đơn, lạc lõng. Tự nhiên anh thấy bồn chồn trong lòng. Anh hỏi cậu lái xe, cậu bảo con Mực có đợi mình không. Tay lái xe quả quyết, đợi, nhất định nó đợi. Nói anh bỏ quá, trên trái đất này không có giống gì chung thủy bằng giống chó. Ông bà nội em nuôi một con chó ta. Ông bà em toàn gọi nó là con, cho nó ăn uống tử tế, trò chuyện, la mắng nó như với người vậy. Ông em đi đâu xa về, mới tới đầu xóm nó đã phi ra mừng rối rít. Lúc ông em mất, nó chạy ra mộ, nằm ngoài đó, ai gọi cũng không về. Bà em sai đem cơm cho nó, nó không ăn. Ngày mở cửa mả, mọi người ra mộ, thấy nó đã tắt thở. Đấy, anh thấy có giống gì như vậy chưa. Bố em còn kể, chính cụ Phan Bội Châu đã xây mộ, viết văn bia tưởng nhớ hai con chó dũng cảm, tình nghĩa của mình nữa kia. Hình dung con Mực sẽ chạy tung tăng trên lối vào bãi xe hoặc nằm trên hiên nhà để chờ mình nhưng khi xe dừng lại, anh mở cửa bước xuống, chẳng thấy bóng dáng nó đâu. Anh lấy tay làm loa, gọi thật to, Mực, Mực cũng không nghe động tĩnh. Có phần hoang mang, anh hỏi cậu lái xe, hay nó làm sao. Anh tránh dùng từ chết vừa hiện lên trong đầu. Cậu ta vẫn quả quyết, nó có thể làm sao được. Bao lâu nay nó vẫn tự lo liệu mọi thứ để sống, giờ lại có thức ăn anh để lại nữa. Chắc nó ra suối. Anh quày quả chạy ra suối, bỏ cậu lái xe to béo ì ạch phía sau. Con suối nhỏ hơn anh nghĩ rất nhiều, nó gần giống như một lạch nước, len lỏi giữa những khóm cây có hoa màu trắng. Anh lại lấy tay làm loa, Mực, Mực nhưng không có tiếng đáp lại. Cậu lái xe chạy tới, hổn hển, chắc nó bị con vật khác tấn công rồi. Anh nổi cáu, con vật khác là con gì. Cậu ta phân bua, thì những con lớn hơn nó, hổ, báo gì gì đó. Anh gắt, cậu nhìn đi, hổ báo nào ở mấy ngọn đồi lúp xúp sim mua này. Cậu lái xe lúng túng, thế thì chắc nó bị người ta bắt. Hắn đã kịp dừng lại nhưng anh đoán ra những lời sau cùng. Anh thấy buồn nôn khi nhớ tới lần ăn thịt chó trên phố đê với mấy tay cùng phòng. Anh quay về nhà xe. Không còn chút lương khô hay đồ nguội nào trên sàn nhà. Nghĩa là nó không bị đói, không bị khát, anh nghĩ, cảm thấy được an ủi đôi phần. Khi xe trở ra đường lớn, anh không nói không rằng. Tay lái xe cũng im lặng, chăm chú nhìn xuống mặt đường. Nhưng có vẻ như hắn nghĩ lung lắm. Thỉnh thoảng hắn lại hắng giọng, dợm cất lời rồi lại thôi. Anh chồm người tới, cho tớ xin điếu nữa. Hắn đưa điếu cho anh rồi bất thần nói, hay là chẳng có con Mực nào sất. Anh giật mình, cậu bảo sao. Hắn lúng búng, ý em là, chắc bữa đó anh mệt quá, buồn quá, như cái ông nhà thơ bạn anh ấy, nên tưởng tượng ra một con Mực cho có bạn. Anh đáp, nhưng cậu ơi, tớ là thằng dân địa chất, thằng lăn lộn với đất đá, thằng tính toán chi li từng centimet, từng gram, tớ không phải là thi sĩ. Tay lái xe có vẻ như đang quyết tâm tấn công người bạn đường, dân địa chất các bác thực sự là những nhà lãng mạn. Em còn biết có mấy bác kỹ sư là nhà thơ nổi tiếng cả nước nữa kìa. Hắn dừng lại, như chờ phản ứng của anh rồi ngập ngừng, với lại, em tuy văn dốt vũ dát nhưng cũng hiểu, đâu phải cứ làm thơ mới là lãng mạn. Tóm lại, cha mẹ sinh ra đã lãng mạn, lãng mạn là lãng mạn, thế thôi. Anh không đáp, nhớ lại cuộc chiến không cân sức giữa mẹ và anh khi anh chọn nghề địa chất. Hồi đó, trong sổ tay của anh cũng có vô số các câu thơ viết về nghề địa chất. Có thể, chính các câu thơ về những cánh rừng hùng vĩ, những núi đá cheo leo, những mạch quặng bí ẩn, những ước vọng đẹp đẽ... đã góp phần không nhỏ vào sự lựa chọn của anh. Khi xe rẽ sang trái để về trạm, anh ngoảnh nhìn ngọn đèn quảng cáo kiên nhẫn quay trong đêm tối, tưởng nhìn thấy con Mực, không có trò gì để chơi, đang chạy quanh trụ đèn. Những mảng hồng, xanh, tím, đỏ... loang loáng dưới bước chân nó, tạo nên một vòng sáng khác. Mải ngắm cái vòng sáng tưởng tượng đó, anh giật mình vì xe bỗng đứng sựng lại. Cậu lái xe nhảy xuống đất, hình như bánh sau hơi non, để em kiểm tra kỹ chứ đoạn sắp tới dồi dập lắm. Đúng lúc ấy, anh nghe thấy tiếng chạm khẽ vào thành xe. Nghĩ là một cành cây bị gãy, anh nhắc cậu lái xe cẩn thận. Thế rồi anh nghe thấy tiếng rít khe khẽ, mỗi lúc một gấp gáp, khẩn thiết. Con Mực, anh kêu lên. Cậu lái xe quay lại, ngơ ngác, anh bảo sao. Anh mở cửa xe, nhìn thấy con Mực đang chồm lên, vẻ căng thẳng. Anh vỗ vỗ vào đầu nó, mày đây rồi, mày thật rồi. Cậu lái xe cũng nhảy vội tới, đấy, em đã bảo mà. Về cái khoản chung thủy thì không ai bằng được giống này. Chắc nó không thực sự tin vào lòng chung thủy của anh, sợ anh quên lời hứa, không ghé bãi xe, nên mới ra tận đây để chờ. Cũng phải có điều kiện mới chung thủy được chứ, phải không Mực. Anh cười nhẹ nhõm, cậu lúc nào cũng đúng. Anh nhấc con Mực lên xe. Xe rộng, nó thoải mái nằm dưới chân anh, hai chân sau duỗi dọc theo thân, đầu đặt trên hai chân trước bắt chéo, hệt như lần đầu anh nhìn thấy nó nhưng thần thái thì đã khác, mắt khép hờ, hơi thở đều đặn, thanh thản. Anh vỗ vỗ vào đầu nó, mày có nhớ nơi này không. Dù cực nhọc, khốn khổ, cũng là nơi mày đã sống mà. Con chó rên khe khẽ, không rõ đồng tình hay phản bác. Anh quay nhìn ngọn đèn một lần nữa, lòng bùi ngùi, rồi đột nhiên nảy ra ý muốn đặt tên cho nó, này cậu, mình gọi nó là Ngọn đèn rừng nhé. Có đèn biển thì cũng có thể có đèn rừng chứ. Cậu lái xe bị bất ngờ, đặt tên à, để làm gì. Anh đáp, ừ, thì để nhớ một nơi chốn, coi như một bí mật nhỏ của tôi và cậu. Cậu lái xe quay lại. Trong ánh nhập nhoạng của ngày vừa hết, trông anh có vẻ chi là lạ, hồn vía còn để tận nơi nào.
Đến bao giờ Bùi Kim Anh Sẽ chẳng bao giờ em đến đuợc cùng anh Chỉ một lần thôi êm ả Dẫu đã có bao lần vội vã Anh vẫn là anh xa cách giữa đời Sẽ chẳng bao giờ có đuợc giữa lòng tay Ấm áp huơng người thuơng nhớ Một bông cúc muộn màng mới nở Dẫu vàng tuơi trơ trọi cuối mùa Một tình yêu tha thiết chẳng hẹn hò Em với anh chỉ là mộng uớc Một giấc mơ gần mà không thực Rất mặn nồng mà trống trải đơn côi Sẽ chẳng bao giờ đến đuợc cùng anh Chỉ một lần thôi là tất cả Để cứ đến rồi đi trên đuờng cúc nở Không mùi huơng vẫn gợi nhớ âm thầm...
Gió thổi về mưa đứng đợi không mưa Sưu tầm Gió thổi về mưa đứng đợi không mưa Đêm ru ngày phiêu giấc mơ trưa... Lòng lãng đãng những giọt buồn ngọt lịm Đợi đêm về... để đếm cả cô đơn... Gió thổi về mưa đứng đợi không mưa... Cỏ quyện vào đêm hằn tình buồn như đá Kẻ ra đi lòng đau như biển cả Nụ hôn xót xa Tình yêu đã qua? Những ngày không em... mưa rơi dài mãi mãi Phố âu sầu. Anh đi. Lòng trống trải... Có những điều nhất định phải cả hai Cái chết đã phôi thai ...thì tìm nhau hoài chẳng thấy... Lời thánh ca nhỏ nhoi, ngân lên trong suốt giọt nước mắt của ai lặng rơi ...trong tiếng thở dài chau chuốt Này em, anh là gió, bởi sinh ra anh là gió em là cây bởi cuộc sống bỗng như cây... lá như mưa, trút trong lòng sâu thẳm nhưng cây vẫn lặng im chờ đợi suốt ngàn năm... hy vọng khổ đau mê mải và chợt tỉnh giữa đêm... Nhưng em yêu, cuộc sống chỉ định bởi một chữ "phiêu" nếu lòng em chết, là ngàn lần em chết nếu niềm tin hết là tình yêu tì vết thả chiếc lá vào lòng, để ép một niềm thương gió mãi vấn vương loanh quanh bên cây đong đầy niềm tin lại
Thế nghĩa là...! sưu tầm Thế nghĩa là em chẳng còn nghĩ đến anh vào mỗi sớm mai Chẳng còn muốn gọi điện vào mỗi tối Chẳng còn đang làm việc bỗng nhắn tin chỉ nói “Em nhớ Anh …” Thế nghĩa là em muốn anh quên Khó gì đâu, chỉ toàn là lời nói Chưa một cái nắm tay Chưa một ánh nhìn bối rối Có gì mà chẳng quên… Thế nghĩa là em chọn con đường chẳng có anh Đường sỏi đá hay rải hoa cũng là em đã chọn Em đi cẩn thận, nhớ nhìn sau trước Sỏi đá đã đành, nhưng hoa cũng rất có thể lẫn gai Còn anh sẽ đếm những ngày dài Mới hôm qua đã hôm nay lại sắp mai mất rồi...
Bình yên... Sưu tầm Và mọi con thuyền đều đến buổi buông neo Xin gấp lại cánh buồm nhờ bóng đêm che chở Gỡ tấm áo choàng thi ca khỏi nỗi buồn nhỏ bé Trái tim anh đậu xuống cát hết ưu phiền Thì có khác gì đâu giữa tất cả và anh Định mệnh như một kẻ tinh ranh gỡ dần từng múi chỉ Để những tín điều thiêm thiếp ngủ quên trên tấm ga trải giường sạch sẽ Có thể nào đó chẳng phải bình yên? Bờ bãi đã qua rồi anh sẽ quên Anh bình thản buông neo như tiếng thở dài trong đêm vừa phóng thích Nhớ thương không được quyền đỏng đảnh Đêm xun xoe luận tội những yên lành Em đừng lo, nếu chẳng ngủ yên, cánh buồm anh cũng chỉ thức dậy trong lặng im...
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đáy vực[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trọng Bảo[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]1. Chuyện ma đi đò Con sông Đáy chảy đến đầu làng Vực thì bị bẻ gập lại. Dòng nước xiết đâm thẳng vào một mỏm đá bật trở lại một đoạn rồi mới có lối chảy về xuôi. Chỗ mỏm đá có một cây đa chùm xuống lòa xòa. Nơi dòng sông bị gấp lại tạo nên một vùng xoáy nước lớn, sôi sùng sục như một cái chảo khổng lồ khi mùa lũ lớn. Những người đi bè tre nứa từ thượng nguồn về đến đây thường phải chèo chống rất vất vả mới thoát khỏi cảnh bị quay vòng mấy bận trong vùng xoáy nước này. Tôi còn nhớ ngày học cấp 2 thường theo cánh bạn bè ra sông tắm. Chúng tôi thích nhất là đứng trên mỏm đá phóng thẳng xuống chỗ xoáy nước rồi nằm ngửa trên mặt nước mặc cho dòng chảy đưa mình xoay vòng, xoay vòng mãi. Mùa hè bọn con gái thả những cánh hoa phượng xuống chỗ xoáy nước. Cả một thảm đỏ của những cánh hoa phượng loang ra như vệt máu quay tròn. Một hôm mới sáng ra, những người đi chợ sớm hốt hoảng nhìn thấy thi thể một cô gái lập lờ trong vùng nước xoáy. Cô gái gần như không mặc gì trên người. Một mảnh khăn buộc ngang bụng rách tả tơi. Ngực cô nham nhở những vết xước. Dân làng Vực đưa cô gái lên bờ. Các bà các chị vừa khóc vừa tắm rửa, mặc quần áo cho cô. Cô gái còn rất trẻ. Cặp vú như hai ngọn măng mới nhú. Cô bị cưỡng hiếp rồi bị đẩy xuống sông. Công an huyện chưa cho chôn cất ngay vì còn khám nghiệm tử thi và chờ tìm thân nhân. Nhưng rồi chờ đến hơn một ngày, không thấy ai đến nhận xác cô gái. Dân làng Vực mới được phép chôn cất. Đám ma cô gái chết trôi sông rất đông. Cánh con gái lớp tôi tết cho cô một vòng hoa bằng những chùm phượng vĩ đỏ như máu. Từ đó, chúng tôi không dám ra tắm ở chỗ dòng sông gẫy khúc ấy nữa. Bà Thường làm nghề chèo đò chở khách sang ngang ở bến sông Làng Vực. Anh Thưởng, người con trai duy nhất của bà đi bộ đội. Một mình bà với một niêu cơm nhỏ trong túp lều rách trên bến sông. Những buổi chợ phiên, người qua đò đông, nhiều bữa bà chả kịp nấu cơm. Bà gò lưng ghì chặt mái chèo lựa cho con thuyền vượt qua vùng nước xoáy. Đêm đêm nghe tiếng gọi “Đò ơi!”, thì dù mưa gió, giá rét bà cũng lập cập khoác chiếc áo tơi, cởi dây chèo thuyền sang sông đón khách. Bà bảo: “Mình lỡ một giấc ngủ không sao nhưng để khách lỡ một độ đường thì cực lắm!”. Từ hôm có cô gái chết trôi về vùng nước xoáy ở bến sông làng Vực thì rất ít khách qua sông vào lúc đêm khuya. Người ta đồn rằng nhiều đêm nghe tiếng gọi đò bên kia sông, bà Thường chèo thuyền sang đều gặp khách là một cô gái mặc quần áo trắng tinh đứng đợi. Nhưng lần nào bà đưa cô gái đến giữa sông thì cô ấy cũng biến mất. Lại có người làm nghề cắm đăng trên sông khẳng định rằng nhiều lần nhìn thấy bóng một người con gái ngồi trên mỏm đá phía trên chỗ xoáy nước, đôi mắt cô đỏ rực như lửa. Chuyện ma ở bến sông làng Vực mỗi người nói một phách và ngày càng thêu dệt thêm nhiều tình tiết ly kỳ khiến cánh trẻ con chúng tôi sợ hãi. Lớn lên, tôi mới hiểu đó toàn là chuyện người lớn phịa ra để dọa lũ trẻ hay lội xuống bến tắm khi mùa lũ lớn dễ chết đuối. Nhưng, có những chuyện thì tôi không hiểu nổi vì sao, đó là từ sau ngày cô gái chết trôi về bến sông làng Vực thì hầu như năm nào chỗ nước xoáy ấy cũng có người bị chết đuối. Mà người chết toàn là đàn ông mới lạ. Có những thi thể từ đâu trôi về. ở vùng thượng nguồn khi có người ngã xuống sông, bị lũ cuốn trôi, người nhà thường đem hương nhang, có khi cả quan tài đến vùng nước xoáy ở đầu làng Vực chờ sẵn. Thể nào xác thân nhân họ cũng sẽ trôi dạt về đây. Lão Phụ làm nghề quét chợ khẳng định, cô gái bị cưỡng hiếp rồi đẩy xuống sông được vua Thủy Tề nhận làm con nuôi. Cô được thủy thần cho phép bắt chín mươi chín người làm quân hầu. Nhớ lại mối thù bị chết oan ức, cô giết chết toàn đàn ông rồi kéo xác về nơi bến sông làng Vực. Anh Hừng bị thọt chân nên không phải đi bộ đội. Anh là tay sát cá lại bơi lặn giỏi. ở trên bờ, anh đi lại khó khăn nhưng khi xuống nước thì như một con rái cá. Anh chả bao giờ tin câu chuyện ma quỷ của lão quét chợ. Ngày nắng cũng như ngày mưa, anh Hừng đều lặn xuống chỗ xoáy nước bắt cá. Anh chẳng cần lưới vó gì, chỉ tay không lặn xuống. Lúc anh ngoi lên thì lũ trẻ reo hò ầm ĩ. Hai tay anh cầm hai con cá chép lấp loáng vây đỏ, hai nách kẹp hai con, mồm ngậm một con. Cả thảy là năm con. Mỗi con độ bảy tám lạng đến một cân. Anh đem lên chợ bán, đổi lấy gạo. Có người bảo anh giỏi bắt cá thế sao không lặn liền mấy hơi bắt lấy vài chục cân lên chợ mà bán. Anh cười hì hì bảo: - Dưới đáy vực cá nhiều lắm nhưng bắt làm gì nhiều, chỉ đủ tiền đong gạo thôi. - Thế anh có gặp ma không? Một đứa trong bọn chúng tôi hỏi. Anh trợn mắt dọa: - Có chứ! Mắt nó đỏ rực. Nó ngồi trong hang đá chỉ cho anh con cá nào, anh mới dám bắt con đó. Tôi biết anh nói đùa. Nhưng một hôm, anh vừa lặn xuống đã ngoi lên, mặt mũi tái mét, đờ đẫn. Anh không nói gì lặng lẽ mặc quần áo rồi về làng. Từ đó, tôi không thấy anh bắt cá ở chỗ nước xoáy đầu làng nữa. Bọn trẻ con kháo nhau: “Anh Hừng gặp cô gái chết đuối hồi nào. Cô ấy cho anh ấy nhiều cá rồi muốn bắt ở lại làm chồng. Anh ấy sợ quá vội nhao lên bờ rông mất”. - Ha... ha... ha... - Nghe tiếng cười sau lưng, chúng tôi giật mình quay lại và nhận ra đó là anh Thú. Anh Thú là con ông đồ Hạo. Ông đồ Hạo là người khá giả. Ông nuôi anh ăn học đầy đủ, nhưng anh tính tình hung bạo, không chịu nghe lời bố. Khi nhỏ anh ấy thường trốn học đi chơi. Lớn lên, anh bỏ nhà đi biệt tăm. Nghe nói anh đi đào đãi vàng, tham gia nhiều vụ đâm thuê, chém mướn, bảo kê cho bọn buôn lậu, cho các nhà hàng Karaoke. Anh bị bắt đi tù. Lúc ra tù, người anh xăm trổ đầy những hình thù quái dị. Cả làng đều sợ anh. Anh đi đâu, làm gì, ông trưởng công an xóm cũng ngại hỏi. Nghe chúng tôi kháo chuyện ma ở xoáy Vực, anh chìa ra một cái gói vuông vuông bảo: - Chúng bay biết cái gì đây không? - Không biết ạ! - Thuốc nổ đã gắn kíp rồi đấy! - Ôi trời... - Chúng tôi hốt hoảng cuống cuồng chạy rạt về một góc. Anh Thú cười sằng sặc bảo: - Theo tao ra chỗ xoáy Vực mà lấy cá. Lũ chúng tôi tuy sợ hãi nhưng vẫn rẹo rọ đi theo anh, cách một khoảng khá xa. Anh Thú cầm quả bộc phá vừa đi vừa vung vẩy trông phát khiếp. Đến xoáy Vực, anh Thú đứng trên mỏm đá. Rít một hơi cho điếu thuốc đỏ rực rồi anh dí vào dây cháy chậm. Khói xì xì ra mấy giây anh mới thả quả bộc phá xuống vực. Một tiếng nổ trầm đục nhưng nước tung lên tận ngọn tre. Sóng chưa kịp lặng cá đã nổi trắng lên mặt nước. Bọn cá mương, cá trôi chết ngay nổi như phao. Lũ cá chép, cá bống cỡ độ trên một cân thì còn cố quẫy quẫy rồi lờ đờ rạt vào bờ. Trẻ con, người lớn ào xuống. Người xúc, kẻ đâm chém ồn ào, tranh cướp cá náo loạn cả khúc sông. Anh Thú ngồi trên bờ rít nốt điếu thuốc. Những người bắt được, vớt được cá bắt đầu kéo lên bờ vì rét. Khi đi qua chỗ anh Thú, họ đều khép nép và để lại cho anh một con cá to nhất bắt được. Khi anh Thú vừa túm cái bao tải đựng đầy cá lại thì có nhiều tiếng người gào lên thất thanh: - Cá... cá... có một con cá to quá. Nó bị thương rồi! Mọi người xô xuống bến. Giữa vùng xoáy nước, một con cá to gần bằng thân người đang nổi lên lập lờ, đuôi ngoe nguẩy. Nhiều người ào xuống nước lao đến ôm lấy con cá lớn. Con cá quẫy mạnh, cố lặn xuống. Nhưng hình như nó bị sức ép quá mạnh của quả bộc phá nên đã kiệt sức. Con cá được đưa lên bờ. Nó nằm dài trên bãi cát trắng nhởn. Đôi mắt mở trừng trừng, đỏ rực. Nhìn con cá, bất giác tôi chợt nhận thấy nó từa tựa như cô gái trẻ bị chết trôi dạo trước. Theo lệnh của anh Thú, người ta xẻ thịt con cá lớn. Máu nó chảy đỏ cả bến sông. Khi tôi lên đường nhập ngũ thì nghe tin anh Thú lại ném một quả mìn nữa xuống xoáy vực. Quả mìn vừa buông khỏi tay đã phát nổ. Anh ấy bị cụt cả hai tay và chột mù một mắt. Giờ thì anh ngồi lê la ăn xin ở chợ. Anh Thưởng đi bộ đội về phục viên. Mấy lần về quê qua đò anh đều nhận ra tôi. Mặc dù ngày anh đi bộ đội tôi còn nhỏ đang học cấp 2. Anh Thưởng về làng đã lâu nhưng chả thấy nói đến chuyện vợ con gì. Ngày còn ở nhà anh cũng yêu một người con gái. Hai người đã thề non, hẹn biển, trao kỷ vật cho nhau nhưng rồi duyên cũng chẳng thành. Anh vào miền Nam chiến đấu trong ba lô còn giữ cái vỏ gối do người yêu thêu tặng có bốn chữ “mãi mãi yêu anh” và hai con chim bồ câu ngậm mỏ vào nhau. Nhưng trong khi anh cố tìm cách viết thư gửi về thì ở nhà người thêu gối cho anh đã đi lấy chồng. Ngày chiến thắng anh trở về bến sông đã chẳng còn người đứng đợi. Anh Thưởng được xã bố trí làm một chân bảo vệ. Từ ngày anh làm bảo vệ, tình hình an ninh trong làng, ngoài xóm yên hẳn, ít xảy ra các vụ ăn cắp vặt, hoa màu ngoài ruộng không bị mất trộm như trước. Cũng có nhiều người hỏi anh chuyện vợ con nhưng anh chỉ cười trừ. Mẹ chết, anh trả cái chức tổ trưởng bảo vệ về bến sông với con đò của bà để lại. Khi người ta bắc một chiếc cầu ở bến Gạo cách xoáy Vực hơn chục cây số về phía hạ lưu thì khách qua đò thưa hẳn. Bây giờ có xe máy, người ta đi cầu Gạo có xa hơn cả chục cây số nhưng tiện hơn. Chỉ còn những bà gồng gánh đi chợ là vẫn qua sông bằng đò. Cũng kể từ khi mua được chiếc xe máy thì mỗi lần về quê tôi chả bao giờ qua bến đò Vực nữa nên chẳng gặp lại anh Thưởng lần nào. Bẵng đi phải đến mấy năm. Một trưa tôi về đang ăn cơm thì nghe tiếng trẻ con léo nhéo gọi cổng. Thằng con tôi ra mở cổng rồi dẫn vào một lũ trẻ con đến bốn năm đứa. Đoạn, nó vào buồng lấy ra một ôm báo cũ chia cho mỗi đứa mấy tờ. Thì ra lũ trẻ con đến xin báo cũ về bọc sách vở chuẩn bị năm học mới. Chia đến đứa con gái bé nhất, thằng con tôi hỏi: - Cái Sương năm nay lên lớp một hả? - Vâng ạ. - Con bé đáp. - Cho mày thêm hai tờ nữa. - Em xin! Em cảm ơn anh... Tôi hỏi: - Con bé ấy là con nhà ai vậy? - Nó là con anh Thưởng lái đò bến Vực... - Vợ tôi đáp: - À! Mà anh Thưởng dặn khi nào anh về rỗi rãi ra nhà anh ấy chơi. - Có nghe nói anh ấy lấy vợ bao giờ đâu nhỉ? - Con nuôi anh ấy đấy! - Anh ấy xin ở đâu được đứa con gái xinh xắn thế nhỉ? - Xin gì! Người ta bỏ lại cho mà nuôi đấy! Theo vợ tôi kể thì một buổi sáng mùa đông rét như cắt thịt da, sương mù còn giăng kín mặt sông chẳng rõ mặt người. Có một người đàn bà gọi đò sang sông. Chị ta chùm khăn kín mặt tay xách cái làn to bước xuống thuyền. Anh Thưởng xoa xoa hai bàn tay cho đỡ cóng rồi lịch kịch đẩy con thuyền rời bến. Càng ra đến giữa sông sương mù càng dày đặc. Người lái đò và khách chỉ nhìn thấy nhau lờ mờ. Sang đến bến sông bên kia, người đàn bà vội vã đi ngay hẹn chiều về sẽ trả tiền đò cả thể. Anh Thưởng quay mũi thuyền. Đến giữa sông thì trời trở gió. Mũi thuyền bị xô mạnh chòng chành. Chợt anh nghe tiếng trẻ con khóc. Tiếng khóc hình như rất gần. Vụt nghĩ đến chuyện ma đi đò mà mẹ vẫn kể, anh cũng thấy hơi run. Nhưng vốn là một chiến sĩ trinh sát, anh trấn tĩnh và phát hiện ra tiếng khóc ở ngay mũi thuyền của mình. Anh bỏ tay chèo lần tới phát hiện ra cái làn của người khách lúc nãy còn để lại. Anh bật lửa. Trong làn có một đứa trẻ con đang quẫy đạp. Thấy ánh lửa, nó nín ngay, hai tay huơ huơ lên như muốn với lấy anh. Đôi mắt nó sáng như hai viên ngọc. Anh thọc tay vào làn và chạm vào một bình sữa còn nóng ấm. Thì ra người mẹ này đã có ý định bỏ lại đứa con của mình cho người lái đò. Anh Thưởng bế đứa bé lên bến suốt ngày ngóng đợi. Nhưng người đàn bà bỏ con ấy không thấy quay lại trả tiền đò như đã hẹn. Anh Thưởng đành nuôi đứa bé. May cô em gái họ của anh cũng mới sinh nên giúp việc bú mớm, thay tã. Con bé lớn lên cùng anh trên con thuyền rách. Bao nhiêu người khách là phụ nữ nuôi con mọn qua đò đã cho nó bú nhờ. Nó ít quấy khóc, ốm đau. Anh Thưởng đặt tên nó là Sương vì tìm thấy nó trong một sớm sương mù dày đặc. Anh Thưởng rất yêu quý bé Sương. Hai bố con anh quấn quýt bên nhau. Năm bé Sương hai tuổi đột nhiên anh nhận được một lá thư từ nước ngoài gửi về. Bức thư ấy của một người đàn bà mà đối với anh chẳng xa lạ gì. Đó chính là người đã thêu tặng anh cái vỏ gối có hai con chim bồ câu ngậm mỏ nhau với dòng chữ “mãi mãi yêu anh”, mà khi anh đi B thì chị ta cũng bỏ đi với người khác. Đọc thư anh mới biết bé Sương là đứa con chị ta. Chị ta đã có chủ định để nó lại trên thuyền cho anh để khỏi vướng khi làm thủ tục xuất cảnh đi theo một người đàn ông ra nước ngoài định cư. Chị ta tỏ ra hối hận, tha thiết xin anh tha thứ đã phụ tình còn để lại thêm một gánh nặng cho anh là phải nuôi đứa con của mình. Chị ta hứa sẽ gửi tiền về chu cấp cho bé Sương. Đọc thư, mặt anh tái đi vì giận dữ. Đúng là đồ vô sỉ. Anh đã viết cho chị ta một bức thư yêu cầu nếu còn lương tâm thì chị ta hãy để cho bé Sương được yên. Anh sẽ nuôi nó lớn khôn mà không cần những đồng tiền của chị ta. Những câu chuyện xung quanh cái vùng nước xoáy đầu làng Vực còn rất nhiều. Chuyện vui, chuyện buồn đều có cả. Khi tôi vừa viết xong chuyện này thì có thêm một cái xác người nữa nổi lên ở xoáy Vực. Đã từ lâu lắm rồi xoáy Vực không có người bị chết đuối. Nhất là từ khi người ta xây một con đập ở trạm thuỷ nông phía thượng nguồn sông Đáy. Xác chết này không phải từ đâu trôi đến mà đó là một người ở làng Vực - nói chính xác hơn là dân gốc ở làng Vực. Hắn ta cùng trang lứa với tôi. Những lần chúng tôi kéo nhau ra sông tắm hắn vẫn dạy tôi tập bơi. Hắn bơi lội giỏi nhất bọn. Khi mùa lũ nước xiết, xoáy Vực sôi sùng sục mà hắn vẫn dám đứng từ trên mỏm đá phóng xuống tắm. Thế mà hắn lại chết đuối giữa xoáy Vực lúc mùa cạn, nước lặng. Hắn đã ngã xuống sông hay nhảy xuống sông tự vẫn. Nghe nói hắn dính vào một vụ tham nhũng lớn, bị tịch thu tài sản, sắp phải hầu tòa nên trở về cái nơi hắn đã ra đi để chết. Nhưng thôi, đó là một câu chuyện khác về hắn mà tôi sẽ viết, còn xin để câu chuyện này khép lại ở đây. 2. Dòng sông dòng đời Một buổi sáng tinh mơ, dân làng Vực bị đánh thức bởi tiếng kêu thất thanh từ ngoài bến sông. Tiếng kêu cứu có người bị chết đuối khiến người ta nghi ngờ. Bây giờ đang là mùa khô, nước sông Đáy rất cạn làm sao có người lại bị chết đuối được chứ. Mọi người hớt hải chạy ra bến sông, đổ dồn về chỗ xoáy Vực. Mùa này nước xoáy Vực rất cạn. Dòng nước chảy lờ đờ như ngái ngủ, mất hết vẻ hoành tráng hung hăng gào thét như khi mùa mưa lũ lớn. Khi tôi chạy đến nơi thì mọi người đã đứng đen đặc trên bờ sông. Trời lạnh nên chưa thấy ai nhảy xuống sông vớt xác người. Tôi túm lấy một thằng bé con đang chạy ngược từ bến sông lên hỏi: - Ai bị chết đuối thế? - Cháu không biết! Ông này trông lạ lắm… Quái lạ! Đã lâu lắm rồi không có người bị chết đuối ở xoáy Vực. Sao bây giờ lại có người bị chết ở đây. Hay là con ma nữ ở xoáy Vực lại bắt đầu nổi hứng bắt người về làm quân hầu phục dịch… Nhưng con ma ấy hình như đã bị anh Thú nổ một quả bộc phá lớn nên tan hết linh khí và đã về cõi niết bàn để đầu thai kiếp khác như người ta vẫn đồn đại rồi cơ mà. Tôi xuống sát mép nước. Mấy anh dân quân đã dùng sào khều cái xác đang lập lờ vào gần bờ. Người chết đã nổi chứng tỏ đã nằm dưới đáy xoáy Vực từ tối hôm trước. Xác chết nằm úp mặt xuống nước. Đó là một người đàn ông. Hắn ta mặc một bộ com lê màu sẫm vào loại đắt tiền. Khi cái xác được lật ngửa mặt lên, tôi buột miệng kêu: “Thằng Hiến!”. Đúng rồi, nó là thằng Hiến - bạn học với tôi suốt thời phổ thông. Hôm qua, trên đường về quê, lúc cái xe máy Trung Quốc giá rẻ của tôi bị chết máy giữa cánh đồng không mông quạnh, thì có một chiếc xe Toyota bóng lộn phóng tạt qua. Tôi còn nhìn thấy hắn ngồi trên xe cơ mà. Tôi đoán là hắn cũng về quê vì vài hôm nữa là đến ngày hội làng đền Vực rồi. Thế mà hôm nay hắn đã chết ở ngay xoáy Vực dưới chân đền. Tôi lại càng ngạc nhiên và băn khoăn bởi vì hắn là người từ nhỏ vẫn rất giỏi môn bơi lội. Hắn từng đoạt giải nhất cuộc thi bơi tại đại hội thể dục thể thao học sinh phổ thông trung học toàn tỉnh. Hắn vẫn dạy chúng tôi tập bơi. Chúng tôi vẫn gọi hắn là con rái cá. Mùa lũ, xoáy Vực như một cái chảo khổng lồ sôi sùng sục, hắn vẫn dám phóng xuống tắm. Thế mà hắn lại chết đuối khi mùa nước cạn, xoáy Vực lặng sóng như một cái bể bơi trong nhà. Người làng đồn đại lắm chuyện. Có người bảo hắn chết do tự tử. Người khác lại bảo hắn trượt chân ngã xuống xoáy Vực. Người thì lại nói hắn bị thánh vật ném xuống nước… Chẳng biết đúng sai thế nào. Tôi thì cứ nghĩ có lẽ không phải nó chết vì dòng nước mà chết bởi dòng đời. Cuộc đời hình như vẫn còn tuân theo luật nhân quả. Tôi nhớ ngày ấy vừa học hết phổ thông, chúng tôi lên đường nhập ngũ thì thằng Hiến cũng đi học ở nước ngoài. Nó có người chú ruột làm quan chức trên tỉnh nên được ông thu xếp cho một xuất du học không phải thi. Ngày ấy, học giỏi chưa chắc đã được học tiếp lên đại học. Như tôi đã có giấy gọi nhập trường đại học tổng hợp vẫn không được đi học mà phải nhập ngũ trước đã. Xã tôi hồi ấy có một ông bưu tá. Ông này bị lãnh đạo xã quản lý rất chặt chẽ. Thư từ, công văn gì gửi cho dân trong xã đều phải vào sổ và báo cho ông chủ tịch biết. Theo chỉ đạo của lãnh đạo xã, các loại giấy gọi đi học phải có lệnh mới được chuyển. Thường là sau khi hoàn thành các đợt tuyển quân mới chuyển những giấy gọi đi học của đám học sinh vừa thi đại học, cao đẳng xong. Thành thử khi chúng tôi đã yên ổn vào biên chế ở đơn vị quân đội rồi thì giấy báo vào đại học, cao đẳng mới được gửi đến nhà. Thằng Hiến thì lại khác. Khi còn đang học năm cuối cấp ba, một hôm nó ghé tai tôi bảo: “Tao chả cần phải học hành thi cử khốn khổ như bọn chúng mày làm gì. Học hết lớp 10 (hồi ấy lớp 10 là cuối cấp ba) là tao sẽ đi học ở Liên Xô”. Nghe hắn nói tôi không tin. Nhưng sự thật lại đúng như vậy. Thì ra chỉ có bọn học sinh bố mẹ là nông dân đặc sệt như chúng tôi là chẳng bao giờ biết trước được tương lai ngoài việc chắc chắn sẽ đi bộ đội vào miền Nam chiến đấu. Trước lúc lên đường, mẹ tôi bảo: - Mấy thằng cùng nhập ngũ nhớ bảo nhau vào đền Vực thắp hương cầu thần, khấn phật để các ngài phù hộ cho “đi đủ về đủ, tránh được hòn tên, mũi đạn nơi mặt trận”. Đền Vực là thiêng lắm đấy! Găp chúng tôi đang mua hương hoa ngoài chợ, thằng Hiến cười nhạo: - Ngu! Bọn chúng mày ngu lắm. Chả có thần phật nào hết! Mà thần phật đ… là cái gì cả. Cứ có ô to là xong tất. - Mày không được nói bậy! Tôi mắng. Hắn phẩy tay vẻ lếu láo: - Chúng mày có cúng vái suốt ngày thì có thằng cũng sẽ sinh Bắc, tử Nam cho mà coi… Thằng Hiệp đưa bó hương cho tôi định xông tới tống cho nó một quả đấm vào mõm. Tôi vội can: - Thôi chấp làm gì cái thằng hãnh tiến! Thằng Hiến biết hơi quá lời, nó vội đạp xe đi thẳng. Chúng tôi vào bộ đội. Năm thằng đi, chỉ có ba trở về. Thằng Hiệp bị thương rất nặng. Hôm tôi biết tin đến thăm nó ở bệnh viện quân y dã chiến nó đã nguy lắm rồi. Lúc hơi tỉnh táo, nó cố thều thào dặn tôi: - Nếu tao không trở về được, mày nhớ đến đền Vực thắp một nén hương cầu thần phật phù hộ cho mẹ tao luôn mạnh khoẻ. Mẹ tao năm nay chắc là đã già yếu lắm rồi… Hiệp đã không qua được vì vết thương quá nặng. Sau này hài cốt nó được đưa về quê. Mẹ nó đã làm lễ đưa linh vị nó lên đền thờ. Thằng Đoan cũng nằm lại mặt trận. Mộ nó đến bây giờ vẫn chưa tìm thấy. Tôi và hai người bạn nữa, người thì còn trong quân ngũ, người đã chuyển ngành nhưng vẫn rất thân nhau. Hội đền làng Vực năm nào chúng tôi cũng hẹn nhau về. Lại nói về chuyện thằng Hiến. Hắn đi học ở Liên Xô. Sau mấy năm đào tạo cơ bản được ở lại luôn làm nghiên cứu sinh tiến sĩ. Hắn về nước khi chiến tranh đã kết thúc, lại gặp thời khi ông chú hắn được bổ nhiệm đứng đầu một bộ. Thế nên đời hắn cứ như diều gặp gió. Hắn được bổ nhiệm chức vụ phó chưa ngồi nóng chỗ đã chuyển sang phòng vụ trưởng, được vài năm đã là cấp cục. Tài năng chả biết, công lao cống hiến chẳng rõ đã có gì ghê gớm chưa nhưng cứ mỗi năm về họp mặt bạn đồng môn lại thấy hắn đi một cái xe ô tô khác nhau, cái năm sau xịn hơn cái năm trước. Trong khi đó chúng tôi năm nào về có cái xe máy là may, chỉ có điều là cái xe ngày càng tã tượi hơn. Hắn giàu nhưng keo kiệt. Chưa thấy bao giờ hắn đóng góp nhiều hơn anh em khác. Khi chúng tôi bàn việc ủng hộ các bạn học, hay giúp đỡ các thầy cô gặp hoàn cảnh khó khăn thì hắn ít tham gia, nói là có việc bận, gọi lái xe đi mất. ° ° ° Mấy năm trước, khi đào đất ở gần đền Vực, người ta tìm được một tấm bia đá. Những dòng chữ Hán khắc trên bia còn tương đối rõ. Dân làng đã cử đại diện về viện Hán nôm ở tận thủ đô Hà Nội thuê người lên dịch văn bia. Đó là tấm bia ghi chép về việc xây dựng đền Vực. Mới biết đền là nơi thờ tự một vị nữ tướng từ thời Hai Bà Trưng. Người đã có công tích rất lẫm liệt trong cuộc khởi nghĩa của hai bà, cũng là người khai khẩn thành lập khu trang ấp mà bây giờ là làng Vực. Khi cuộc kháng chiến chống giặc phương Bắc đô hộ của Hai Bà Trưng thất bại, vị nữ tướng thua trận đã nhảy xuống xoáy Vực tự vẫn để giữ tròn khí tiết. Tôi đã về quê và viết một bài báo về sự tích ngôi đền thờ vị liệt nữ anh hùng. Trước sự tích của đền Vực và công tích của vị nữ tướng, dân làng Vực bàn bạc và quyết định phải trùng tu, nâng cấp ngôi đền. Những người dân làng Vực bắt đầu thực hiện việc quyên góp. Họ phôtô bản dịch văn bia và cả bài báo của tôi viết về vị nữ tướng mang đi khắp nước. Nghe ở đâu có người làng Vực sinh sống là họ tìm đến quyên tiền. Quả là một cuộc hành trình vĩ đại của những người nông dân thành tâm hướng về tiên tổ. Có những bà, những chị chưa một lần ra khỏi làng cũng cứ khăn gói lên đường. Ai ủng hộ dù đấu gạo, vài nghìn họ cũng cảm tạ, cũng ghi chép cẩn thận vào sổ công đức và cấp giấy chứng nhận cho người đóng góp. Một buổi sáng, tại một công sở của một cơ quan kinh tế có hai người đàn bà lam lũ xin vào gặp ông thủ trưởng. Mấy anh bảo vệ ùa ra xua đuổi quầy quậy. Cơ quan đang chuẩn bị đón ông bộ trưởng xuống thăm. Cờ hoa, biểu ngữ đã chăng từ hôm trước. Đám nhân viên nữ áo dài thướt tha, ôm hoa đang đứng chờ sẵn. Trong khi đó, hai người đàn bà quê mùa lại cứ nài nỉ, luẩn quẩn ở cổng đuổi mãi không chịu đi. Mấy anh bảo vệ đã nổi cáu. Nhưng khi một người đàn bà nói chính là thím họ của ông thủ trưởng cơ quan này và việc đến đây thì máu Trương Phi của mấy anh bảo vệ nguội hẳn. Họ vội cấp báo cho ông trưởng ban hành chính. Ông trưởng ban cấp báo lên ông vụ trưởng. Ông vụ trưởng vã mồ hôi hột lật đật chạy lên phòng thủ trưởng. Thủ trưởng đang đứng trước gương ngắm nghía dung nhan và tập trước mấy lời thưa gửi, báo cáo cấp trên cho xuôi chảy, khỏi ấp úng, lúng túng. Nghe tiếng gõ cửa, ông ta sẵng giọng: - Có việc gì thế? - Dạ! Báo cáo… báo cáo… - Ông vụ trưởng vừa mở cửa vào vừa nói. - Báo… báo… cái gì, nói ngay đi, bộ trưởng đến rồi à? - Dạ chưa ạ! Mà là có thím của thủ trưởng từ quê lên ạ! - Thím… có đúng không! Mà lên có việc gì? - Bà ấy nói gặp thủ trưởng để quyên góp trùng tu đền… đền… - Đ… ề… n… V… ự…. c! Thủ trưởng nhắc. Ông vụ trưởng thở phào: - Vâng… vâng… đúng rồi ạ! Họ nói có cả bài báo viết về ngôi đền xin gửi thủ trưởng xem để quyết định đóng góp ạ. - Báo với chí gì, vứt đi, chỉ viết láo. Thôi quăng cho họ mấy đồng để họ đi ngay đi. Bộ trưởng sắp đến rồi đấy. - Thưa anh bao nhiêu ạ? - Hai triệu… À thôi… cho hẳn năm triệu… Ông vụ trưởng vừa đi ra đã vội quay lại. Ông chưa kịp báo cáo thêm thì thủ trưởng đã hất hàm: - Lại còn việc gì nữa? - Dạ! Nhưng người đàn bà nói là xin gặp anh để anh ký vào bảng vàng công đức và đưa tận tay giấy chứng nhận đã ủng hộ xây dựng đền ạ! - Thôi dẹp dẹp! Vớ vẩn, không cần, bảo họ đi ngay đi! Ông thủ trưởng xua xua tay. Ông vụ trưởng đi rồi, ông ta vẫn còn bực. Ông lẩm bẩm: “Đền với điếc tày cái lỗ mũi! Ông sẽ về quê xây một cái đền to gấp ba gấp bốn cho mà biết!”. Chả phải nói tên, bạn đọc cũng đã biết vị thủ trưởng đó là ai rồi. Đó là thằng Hiến bạn học thời phổ thông của tôi. Hắn đã về quê mua một khu đất khá rộng. Trong khu đất ấy hắn xây một cái biệt thự sang trọng để nghỉ ngơi, thư giãn cuối tuần. Rồi lại xây thêm một ngôi nhà thờ tổ họ khá to trong khuôn viên. Có lần tôi đi qua còn nghe thấy cả tiếng chuông ngân nga, tiếng mõ lốc cốc nữa. Nhưng rồi mọi việc biến thiên. Trời đất xoay vần, chả ai lường trước được. Hắn đang lên như diều, bỗng bị đứt phựt một cái. Từ một việc rất nhỏ là cái cốt tre trong cột tiêu giao thông, thanh tra phát hiện ra một vụ tham nhũng, rút ruột công trình rất lớn. Mà tác giả chỉ đạo và thu lợi chính là hắn. Mọi việc vỡ lở, bung bét cả ra. Ông chú cấp cao ô lớn của hắn cũng đành bó tay, không cứu nổi. Người ta mới đang ở giai đoạn điều tra, chưa công bố kết luận cuối cùng, nhưng hắn đã hiểu thế là hết. Và gần đến ngày hội đền làng Vực hắn trở về quê. Chập tối hôm trước người làng thấy hắn đi bộ ra chợ. Họ thấy hắn vào quán mua một thẻ hương rồi đi về phía đền Vực. Hắn đã vào thắp hương tạ lỗi với thần phật, tổ tiên tại đền. Cụ thủ từ coi giữ đền Vực lầm rầm khấn giúp cho hắn. Nhưng cầu xin mấy lần mà vẫn không gieo được quẻ. Hai đồng xu không chịu sấp ngửa theo mong muốn. Cụ thủ từ đành an ủi hắn: “Thôi thì nhất sự tại dương, vạn sự tại âm. Xin thí chủ cứ tĩnh tâm…”. Sáng hôm sau, khi nghe có tiếng người kêu cứu dưới bến sông, cụ thủ từ vội nhỏm dậy. Cụ lật đật vào điện thờ châm ba nén hương chắp tay khấn rồi cắm vào bát nhang. Ba đốm lửa bỗng cháy rực lên rồi phụt tắt tựa như có ai vừa hắt một gáo nước lạnh vào những nén hương đang cháy. 3. Lòng người thăm thẳm Hội làng Vực năm nay buồn. Bởi lẽ trước ngày khai hội lại có người chết ở Xoáy Vực. Thằng Hiến được người nhà đưa về mai táng sau khi công an đã khám nghiệm tử thi mất nửa ngày. Hôm đưa đám, lũ bạn đồng môn chúng tôi cũng có nhiều đứa đến. Có đứa chả ưa gì nó nhưng nghĩa tử là nghĩa tận, ai còn chấp nê người chết làm gì. Cơ quan nó cũng có một đoàn kéo về. Toàn ô tô xịn. Mấy chục vòng hoa bọc giấy bóng kính, nghe nói mỗi vòng cả trăm nghìn đồng khiến dân làng Vực lác mắt. Bởi đám ma ở quê giỏi lắm thì chỉ có vài vòng hoa tự làm tròn như cái vành nón, buộc lơ thơ mấy bông hoa dâm bụt héo rũ. Thả một hòn đất xuống huyệt rồi tôi lùi ra cho đám thanh niên lấp huyệt và đắp nấm. Tôi đang chen ra khỏi đám đông nhốn nháo kẻ xúc đất, người kêu khóc thì có một bàn tay vỗ bộp vào vai. Tôi giật mình ngoảnh lại nhận ra anh Thưởng. Trông anh có vẻ gầy gùa, khuôn mặt vêu vao không còn vẻ sung sức như hồi mới về phục viên. Anh bảo: - Ra nhà tao chơi đi! Hôm nay con Sương cũng về, nó mua được mớ cá tươi, đang rán. Ra làm chén rượu cho ấm bụng… - Vâng… nhưng để em ngó xem thằng cháu nó đứng chỗ nào nhắn là trưa không về để vợ em khỏi chờ cơm. Dặn thằng cháu xong, tôi theo anh Thưởng ra bến sông. Căn nhà của anh ngày xưa chơ trọi trên bờ sông bây giờ ngập lút giữa những ngôi nhà cao tầng ngất ngưởng. Kinh tế phát triển, bãi sông trở thành dãy phố. Nhờ mấy lần được trợ cấp, được hỗ trợ tiền sửa nhà tình nghĩa nên anh cũng xây được tường gạch, lợp mái ngói. Ba gian nhà ngoài còn lát được gạch hoa. Thứ gạch hoa nội do địa phương sản xuất, nét hoa văn nhoè nhoẹt. Vừa cùng tôi ngồi xuống ghế, anh đã lên tiếng gọi cái Sương. Từ sau bếp cái Sương lật đật chạy lên. Tay nó còn cầm đôi đũa. Con bé lớn quá. Mới đấy mà đã chục năm. Hôm nó vào nhà tôi xin báo bọc sách để đi học lớp 1 còn bé tý. Thế mà bây giờ nó đã học đại học năm thứ hai. Trông nó phổng phao, xinh đẹp. Hôm trước nghe vợ tôi kể nó học giỏi lắm. Vừa học đại học ở Hà Nội nó vừa đi làm thêm kiếm tiền gửi về cho bố. Anh Thưởng vài năm nay ốm đau luôn. Di chứng chiến tranh trong người anh bắt đầu phát tác. Cái Sương chào tôi rồi xin phép xuống bếp vì đang rán dở mấy khúc cá. Anh Thưởng rót hai chén rượu. Bé Sương đã bày cho chúng tôi một vài món để nhâm nhi trước. Anh Thưởng nâng chén rượu lên làm một ngụm rồi bỗng rằn mạnh cái chén xuống bàn. Giọng anh nghẹn đắng: - Khốn nạn! Thật khốn nạn… Tôi ngạc nhiên: - Có chuyện gì vậy anh? Anh Thưởng cũng như chợt bừng tỉnh. Anh lúng túng nhìn xuống bếp. Nét mặt anh tái dại đi nhưng giọng anh thì nhỏ hẳn lại, chùng xuống. Có lẽ anh sợ cái Sương nghe thấy. - Thì chính là chuyện của cái Sương. Suýt nữa thì nó sa vào cạm bẫy của bọn vô nhân ấy… - Bọn nào vậy anh? - Bọn… bọn… bọn… - Anh cầm chén rượu ngửa cổ uống cạn. Nét mặt anh nhăn nhúm không rõ vì rượu đắng hay vì nỗi bức bối trong lòng. Tôi không hỏi thêm. Vì tôi biết những lúc như thế này hãy lặng yên để nhân vật tự bộc lộ là phương án tốt nhất. Nếu cố gặng hỏi có thể họ sẽ chôn sâu luôn vào lòng mình tất cả những gì ta muốn biết. Anh Thưởng ngồi thừ người. Rồi lại rót rượu, lại uống. Lại rót. Hình như rượu lại làm cho anh bình tâm hơn. Khi cái Sương xin phép đi thăm bạn dắt xe ra khỏi nhà anh mới bắt đầu kể. ° ° ° Bé Sương thi đỗ đại học với số điểm rất cao làm cả làng Vực ngạc nhiên. Bởi từ lâu lắm làng mới có người thi đỗ đại học. Bọn học sinh làng này có đứa học chưa hết phổ thông trung học đã bỏ học về Hà Nội làm “ô-sin” hoặc lên biên giới làm cửu vạn gánh hàng thuê qua biên giới. Đứa nào cố lắm thì cũng chỉ thi đỗ vào trung cấp hoặc cao đẳng là cùng. Cái Sương học đại học ngành công nghệ thông tin. Nó học giỏi được học bổng nên anh Thưởng cũng đỡ một khoản tiền chu cấp hàng tháng. Mấy trăm tiền trợ cấp thương tật của anh mua rau chả đủ nói chi học phí đại học của con. Năm học thứ hai cái Sưong đã tìm được việc làm tại một công ty có vốn đầu tư nước ngoài nhờ nó rất giỏi ngoại ngữ và vi tính. Tuy làm hợp đồng nửa buổi vì còn phải học nhưng lương tháng của nó cũng vài triệu. Nó tiết kiệm dành chút ít gửi về thêm cho bố chữa bệnh. Anh Thưởng thì hết thường trú ở bệnh viện này đến bệnh viện khác. Con đò rách cũng chả còn ai chèo chống. Bây giờ đời sống khá lên họ toàn đi ô tô, xe máy nên chẳng còn mấy ai đi đò. Anh Thưởng vỡ hoang được bãi đất ven sông. Mùa khô anh trồng ngô hoặc mía. Mùa mưa anh cất vó, cất tôm cũng qua bữa. Đám đất trống xung quanh nhà anh đều được người ta mua làm nhà cao bốn năm tầng. Thành thử căn nhà của anh bị quây cả bốn phía. Đứng ở sân mà như đứng dưới đáy giếng. Cái Sương vừa học vừa đi làm thêm. Vợ chồng ông chủ công ty nọ cũng là người gốc Việt. Bà vợ ông ta thỉnh thoảng mới về Việt Nam. Họ mua một ngôi biệt thư cao cấp ở khu đô thị mới vừa làm trụ sở, vừa làm nơi ăn nghỉ. Một bữa, ông chủ bảo có tài liệu cần sử lý gấp bảo cái Sương ở lại làm thêm. Bà vợ ông chủ cũng vừa sang Việt Nam. Họ hứa sẽ cho cái Sương cùng đi nước ngoài một chuyến. Mọi thủ tục đã xong. Cái Sương thích lắm. Nó lập tức gọi điện về nhờ báo tin cho bố biết. Dịch xong mấy thứ tài liệu ông chủ đưa cho thì đã muộn. Ông chủ pha cho cái Sương một cốc sữa rồi quay ra. Có điện thoại. Uống được một ngụm nhỏ cái Sương đặt cốc vội vàng mở túi tìm điện thoại. Lúng túng nó làm đổ cốc sữa. Vừa lau xong chỗ sữa đổ ra sàn thì ông chủ bước vào với một bộ đồ ngủ. Đôi mắt ông ta rừng rực lửa. Cái Sương hốt hoảng lùi lại. Ông ta lao lại phía cái Sương. Nó kêu cứu nhưng căn phòng làm việc kín chả ai nghe tiếng. Cái Sương chống cự quyết liệt khiến ông chủ hơi ngạc nhiên. Cốc sữa lúc nãy ông ta pha là một liều thuốc kích thích cực mạnh. Tại sao con bé này vẫn kháng cự quyết liệt thế. Ông ta lại lao đến. Nhưng sức lực của một thằng say rượu và say thuốc kích dục không thể làm gì được cái Sương. Hắn bị nó đẩy ngã dập đầu vào cạnh bàn choáng váng. Cái Sương mở cửa lao ra sân. Ông bảo vệ đã đóng cổng. Ông vừa mở cái hăng-gô cơm định ăn thì nghe tiếng đập cửa. Ông ta vội lao ra. Nhìn thấy cái Sương quần áo rách tả tơi, đầu tóc rũ rượi, ông đoán được mọi việc. Ông vội vớ cái áo bông cũ khoác lên người nó, mở cổng đẩy nó thoát ra ngoài. Ông cũng kịp nhét vào tay cái Sương một tờ giấy bạc năm mươi nghìn và dặn cứ chạy thẳng về phía nhà ga có đồn công an… - Chuyện là như vậy! - Anh Thưởng bảo: - Hôm đó, từ lúc nghe cái Sương gọi điện về máy điện thoại nhà chú Tuấn bên cạnh nhờ nhắn lại là nó được đi Thái Lan một tuần công tác cùng ông bà chủ tự nhiên tao cứ thấy bất yên trong lòng. Suốt đêm tao cứ trằn trọc mãi. Gần sáng tao vừa chợp mắt thì mơ thấy cô gái bị chết trôi năm nào, lại nghe tiếng khóc và tiếng kêu cứu. Tao bật dậy, mồ hôi vã ra đầm đìa mặc dù đã cuối thu trời bắt đầu lạnh. Tao nằm xuống định ngủ tiếp nhưng tự nhiên nhớ đến lời mẹ dặn không được để người qua sông ban đêm lỡ đò tội lắm. Tao tìm cây gậy chống lần xuống bến sông. Con thuyền nhỏ vẫn buộc ở gốc tre sát mặt nước. Tao chống thuyền ra đến giữa sông. Mặt nước vỡ ra dưới ánh trăng thượng tuần lờ mờ. Định quay thuyền về thì tao chợt nhác thấy hình như bờ sông bên có bóng người ngồi gục gần mép nước. Tao vội chống thuyền áp ngay vào. Đúng là người thật. Tao nhảy xuống gọi. Người ngồi đó vẫn im không động đậy. Khi tao lay nhẹ người đó mới choàng tỉnh. Cái áo choàng trên người rơi xuống. Tao hốt hoảng kêu lên: “Sương… Sương mày đấy hả con!”. Đúng là cái Sương. Nhận ra bố nó òa khóc nức nở. Nó đã đi suốt đêm để về nhà. May có năm mươi nghìn ông bảo vệ công ty đưa cho mà nó có tiền mua vé tàu về quê. Túi sách, đồ đạc của nó còn bỏ lại phòng giám đốc công ty. - Thế bây giờ nó vẫn tiếp tục đi học chứ? Tôi hỏi. Anh Thưởng bảo: - Phải đến mấy tuần sau nó mới hoàn hồn. May mà chưa có việc gì xảy ra. Tao đưa nó lên trường để nó tiếp tục đi học. Cấm nó từ nay không được làm thêm nữa. Tao bán bớt nửa mảnh đất vỡ hoang ven sông cho họ làm nhà hàng ngắm sông đón gió lấy tiền cho nó ăn học. - Thế thì mọi việc tốt rồi! - Tốt gì mà tốt! Mày chưa biết đấy thôi… - Còn chuyện gì nữa anh? Tợp một ngụm rượu, anh nói, giọng khàn đi vì giận: - Khốn nạn là ở chỗ đó. Sau khi cái Sương chạy thoát khỏi phòng thằng giám đốc mất dạy đó thì vợ nó về. Thì ra việc định cưỡng bức cái Sương có sự đồng tình của con vợ nó. Hoá ra cái công ty này là một đường dây chuyên đưa người, nhất là phụ nữ ra nước ngoài trái phép để gả bán và kể cả làm nghề bán dâm nữa. Vợ chồng nó lục lọi, kiểm tra cái túi của con bé bỏ lại. Mày biết thế nào không? Qua giấy tờ trong túi của nó, người đàn bà, vợ thằng giám đốc kia mới nhận ra cái Sương chính là con đẻ của mình… Tôi giật mình sửng sốt trước bất ngờ của câu chuyện. Tôi hỏi: - Thế cái Sương đã biết chuyện này chưa! Mà sao anh lại biết? - Thì… chính con mẹ nó về đây mà. Cái Sương về nhà được mấy hôm thì mẹ nó cũng tìm về. May mà hôm ấy cái Sương đi vắng. Mẹ nó đã quỳ ở chỗ này này… - Anh hắt toẹt chén rượu đang uống dở xuống chỗ góc cửa: - Mẹ nó quỳ để xin tao tha thứ. Chuyện phụ tình thì tao không kể đến làm chi. Thời chiến tranh có đi, không có về, chả trách. Chuyện bỏ con là mang tội với con, tuy tao phải gánh chịu nhưng tao cũng không oán gì. Thôi thì tao tuy vất vả, gian khổ nhưng lại có được một đứa con ngoan ngoãn, hiếu thảo. Nhưng cái chuyện suýt làm hại đời con thì tao không thể tha thứ. Thế mà lại còn dám mở miệng xin nhận con nữa đấy… Anh Thưởng đột ngột im lặng. Mãi chả thấy anh nói gì thêm. Tôi sốt ruột quá buột miệng: - Chuyện sau đó thế nào hả anh? - Thế nào à? Tao rút con dao lê ném lên bàn bảo: “Nếu cô còn có một chút lòng tự trọng của con người thì hãy ra ngay Xoáy Vực đâm đầu xuống đấy mà chết. Người làng Vực sẽ làm ma cho cô, không để cô phải nằm chết thối dưới đáy sông đâu. Còn nếu cô dám hé miệng ra nhận con thì tôi sẽ đâm cô chết ngay tại đây!”. Thấy tao quyết liệt thế cô ta hoảng sợ vội vã bỏ đi. Nhưng tao vẫn lo. Tao rất muốn cái Sương có mẹ. Nhưng nó không thể có một người mẹ như thế. Nó phải được sống trong sáng hiểu không! Giọng anh Thưởng có vẻ rất xúc động. Anh nói tiếp: - Cuộc đời đúng là khốn nạn mày ạ! Hôm trước đưa cái Sương xuống trường, tao đã tìm đến cái công ty nó đã làm thuê. - Anh định tìm tay giám đốc để trả thù cho cái Sương... - Không! - Anh Thưởng cắt lời tôi: - Là tao muốn tìm ông bảo vệ để cảm ơn ông ấy một câu. Nhưng tìm đến nơi hỏi thì mới biết ông ấy đã bị đuổi việc vì đã mở cổng cho cái Sương chạy thoát. Dò hỏi mãi tao mới tìm được nhà ông ấy. Hoá ra ông ấy cũng từng là một thằng lính như bọn mình. Ông ấy cùng ở hướng mặt trận B3, Tây Nguyên với tao. Nhà ông ấy còn mẹ già, vợ không có việc làm và hai đứa con nhiễm chất độc da cam, người chả ra người, ngợm chả ra ngợm. Tất cả chỉ trông vào đồng lương của ông ấy. Thế mà… Thấy tao tỏ ý băn khoăn, xin lỗi mãi ông ấy cáu: “Anh hay nhỉ! Con anh cũng như con tôi, nó bị hại thì phải cứu chứ. Mất việc thì mất tôi cũng cóc cần! Hôm đó mà biết thằng giám đốc giở trò khốn với con bé thì tôi đã đạp cửa xông vào đâm luôn cho nó một nhát rồi!”. Ông ấy nói vậy nhưng tao vẫn cứ ái ngại cho hoàn cảnh của ông ấy quá… Anh Thưởng trở nên buồn. Lại rót. Lại uống. Chuyện của anh Thưởng khiến tôi cứ trăn trở mãi. Và, phần tiếp theo của câu truyện ở Xoáy Vực là thế. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mưa lúc tan tầm[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trọng Bảo[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vừa tan tầm thì mưa. Cơn mưa đổ xuống sầm sập như trời đang hờn dỗi. Đường phố kẹt cứng những người là người. Tất cả cùng chịu trận mưa to. Ai nấy vội vã trùm áo mưa lên người. Dòng người đang trôi trên đường trông đủ loại hình thù, đủ loại màu sắc nhạt nhoà trong mưa. Những chiếc xe ngược xuôi, đan chéo nhau. Ai cũng muốn mau thoát khỏi cơn mưa chiều xối xả. Nhưng dòng người thường chậm hơn dòng nước. Khi những hạt mưa đầu tiên ném vào người, vào mặt như sỏi thì Hân vội phanh kít xe lại. Cô bật yên xe. Bàn tay cô quờ vào khoảng rỗng của cốp xe. Buổi sáng, trước lúc đi làm Hân đã quên không bỏ cái áo mưa vào trong cốp. Và cũng sáng nay lần đầu tiên Đoàn - chồng Hân không dắt chiếc xe @ nặng nề của cô ra tận cổng như mọi khi. Thường thường là mỗi sáng Hân đi làm, Đoàn đều nhanh nhẹn dắt chiếc xe ra cho vợ. Rồi anh săm sắm hỏi han, kiểm tra xem Hân đã đem đủ các thứ cần thiết chưa. Nào là túi sách, son phấn, khăn giấy lau mặt, điện thoại di động, chìa khoá nhà và nhất là áo mưa. Trời nắng trang trang anh cũng lo Hân quên áo mưa. Thế mà sáng nay, Đoàn không dắt xe ra cửa cho Hân như mọi sáng. Từ tối hôm qua, hai người giận nhau. Nguyên nhân phải kể đến là từ khi cơ quan của Hân xuất hiện một anh chàng kẻng trai, ga lăng. Đó là một tiến sĩ mới tu nghiệp ở nước ngoài về. Hắn tên là Khải được đề bạt là thủ trưởng cơ quan. Việc đầu tiên hắn đề nghị với mọi người trong cơ quan là ngay thứ bảy tuần này tổ chức buổi gặp ra mắt tại khu du lịch Ao Vua. Mọi chi phí xe cộ đi lại, ăn uống, dịch vụ hắn bao tuốt. Hắn còn mở ngoặc thêm là các nhân viên đều được đem theo phu nhân hoặc phu quân. Hắn ta vừa ra khỏi phòng, đám nhân viên nữ đã oà lên choe choé: - Ghê quá nhỉ! Định tỏ vẻ anh hùng nhất khoảnh hả. - Hắn là con đại gia đấy… - Đại gì thì đại, kéo nhau đi cả đống cho hắn biết tay… Mà nhớ mỗi tên phải kèm một xuất ăn theo nữa nhé! Đám con gái ngoắc tay nhau. Cánh nhân viên nam cũng hứa sẽ đi đủ cả đôi. Nếu cần sẽ kèm theo một nhóc con nữa cho biết Ao Vua thế nào. Hân về nói với chồng chuyện cơ quan. Đoàn gạt phắt đi: - Em không nhớ là đã hẹn thứ bảy tuần này về quê thăm mẹ cơ mà! Hân cụt hứng nhưng cố vớt vát: - Hay mình để tuần sau hẵng về quê đi anh… - Không được! Mẹ bảo tuần này về còn sang nhà chú Vĩnh bàn việc xây mộ cho ông nội… - Nhưng việc của cơ quan em… - Việc gì mà việc. Kéo nhau đi chơi bời thì có. Họp hành gì gì mà ở tận mãi cái nơi chuyên ăn chơi du hí thế! Hân vùng vằng. Hai vợ chồng giận nhau. Suốt buổi tối Hân lầm lì. Lúc đi ngủ mỗi người quay mặt về một phía. Hai người nằm yên giả tảng như đã ngủ. Nhưng chả ai ngủ được. Hân giận chồng. Người gì mà suốt ngày chỉ biết chúi mũi vào công việc, ăn mặc thì lôi thôi. Hai vợ chồng đi với nhau ngoài phố ai cũng tưởng là anh chạy xe ôm chở tiểu thư con nhà giàu đi chợ. Đã thế mỗi khi cơ quan gặp mặt dâu rể cũng cứ ăn mặc xoàng xĩnh như khi đi làm khiến đám bạn cứ trêu chọc mãi. Hân là con út một gia đình gốc Hà Nội, được bố mẹ nuông chiều từ bé. Hân quen và yêu Đoàn khi cô là sinh viên xuống nhà máy anh thực tập. Đoàn được giao nhiệm vụ hướng dẫn, giúp đỡ Hân. Hai người chú chú, cháu cháu rồi chuyển sang anh anh em em từ lúc nào cũng chẳng hay. Rồi yêu nhau. Bố mẹ Hân cũng rất quý Đoàn. Hai người thành vợ thành chồng sau khi Hân tốt nghiệp đại học. Đoàn chăm sóc Hân như là một người chồng và cả như một người anh. Hai vợ chồng gần như suốt đêm không ngủ. Đoàn cũng thấy ân hận vì chưa chi đã gạt ngay chuyện Hân vừa nói. Lẽ ra anh phải lựa lời phân tích để Hân hiểu. Đoàn tính sáng ra sẽ gọi điện về quê khất mẹ tuần sau. Anh nghĩ chắc mẹ cũng sẽ cảm thông cho anh và Hân. Anh quay lại nằm sát Hân. Bàn tay anh đặt lên ngực Hân. Thường là suốt đêm bàn tay anh đều giữ chặt bầu vú tròn trịa của Hân. Hân cũng rất thích như vậy. Nhưng đêm nay Đoàn vừa đặt tay lên ngực mình Hân đã gạt phắt ngay đi. Cô trở mình nằm úp xuống gối, hai vai rung rung. Đoàn thấy hơi phật ý. Anh cũng nằm thẳng đuỗn người ngửa mặt nhìn lên trần nhà tối mờ mờ trong ánh đèn ngủ. Buổi sáng, khi Đoàn còn đang trong nhà vệ sinh thì Hân đã dắt xe đi làm mà không chờ chồng như những bữa trước. Cũng vì thế mà tan tầm buổi chiều khi cơn mưa ập xuống Hân không có áo mưa. Cơn mưa xối xả khiến đường phố nhanh chóng biến thành những dòng sông. Nước chảy ào ạt. Bánh xe ngập dần trong nước. Chết máy. Hân đành lội bộ dắt xe. Chiếc xe @ lúc đi thì êm re, dắt thì thật nặng nề. Mỗi khi có một chiếc ô tô phóng qua, sóng nước mạnh như sóng biển khiến cả người Hân và xe chao đảo. Nước dâng nhanh. Mọi thứ dềnh lên. Rác rưởi từ các ngõ ngách trôi ra đường phố. Mọi thứ chất thải của con người, con vật lăn ra đường. Hân hét lên khi một con chuột chết từ đâu dạt đến cứ lẩn vẩn quanh chân. Hân mặc cái váy mỏng. Con chuột chết bị nước đẩy chạm vào đùi khiến Hân buông cái xe hốt hoảng chạy lên hè đường. Cái xe @ đổ kềnh. Hân sợ đến phát khiếp. Con chuột chết trôi đi. Hân không làm sao dựng được chiếc xe lên. Không ai giúp cô vì mọi người đều không thể dừng lại. Xe của họ ngập lút trong nước dừng lại sẽ bị chết máy ngay. Cô bật khóc. Nhưng cũng không ai biết cô khóc. Mưa ướt đẫm mái tóc bồng bềnh kiểu mỳ tôm của Hân. Cái váy Hân đang mặc ướt sũng, dính sát vào người. Giữa lúc Hân đang đứng lúng túng với chiếc xe đổ chìm trong nước giữa đường thì cửa ngôi nhà bên đường bật mở. Một người đàn ông đội mưa đi ra. Anh ta nâng dựng chiếc xe cho Hân. Hân giật mình nhận ra Khải - người mới về nhận chức tại cơ quan. Anh ta bảo: - Nhà tôi ở đây! Hân tạm vào trú, ngớt mưa, nước rút hãy về… Cũng không còn cách nào khác. Hân đi theo Khải. Hắn dắt chiếc xe của Hân vào trong khuôn viên. Trời vẫn mưa to. Nước tràn cả lên hè đường. Khải mở cửa đẩy chiếc xe của Hân vào giữa phòng khách. Hân ngập ngừng theo hắn vào nhà. Nước từ cái váy của cô rỏ xuống ướt cả nền gạch hoa. Khải mở tủ lấy đưa cho Hân một bộ đồ phụ nữ thơm mùi nước hoa ngoại. Hắn bảo: - Hân thay đồ đi kẻo nước mưa ngấm vào người ốm đấy… Hân như một cái máy làm theo lời hắn. Cô vào nhà tắm. Nước nóng và bộ quần áo khô ấm làm cho Hân tỉnh táo hẳn. Khi Hân bước ra phòng khách thì Khải cũng từ trên gác đi xuống. Hắn cũng đã thay bộ quần áo ướt lúc ra dắt xe giúp Hân. Khải pha cho Hân một cốc sữa nóng. Hân uống cốc sữa thấy người ấm hẳn lên. Hai người ngồi nói chuyện với nhau. Qua câu chuyện Hân biết đây là ngôi nhà Khải mua sau khi từ nước ngoài về. Khải đang ở một mình. Bà giúp việc về quê có giỗ. Mưa vẫn chưa ngớt. Trời bắt đầu tối. Câu chuyện của hai người mỗi lúc một thêm sôi nổi. Hân kể chuyện cơ quan. Khải quan tâm đến mọi chuyện của Hân. Vừa nói chuyện Khải vừa đứng dậy lúc thì lấy hoa quả, khi thì đi tìm thứ bánh kẹo gì Hân ăn đỡ đói. Mỗi lần đứng lên, ngồi xuống hình như khoảng cách giữa hai người lại gần nhau hơn. Một tiếng sét nổ vang khiến Hân giật mình co rúm người lại. Điện vụt tắt. Phòng khách tối om. Khải quờ tay tìm cây nến. Bàn tay hắn túm vào tay Hân. Hân không rụt tay lại. Tiếng thở hổn hển của hai người rất rõ. Rồi còn nhanh hơn tiếng sét lúc nãy Khải ôm xiết lấy Hân. Hân hơi tỏ vẻ kháng cự. Nhưng mọi việc trong bóng tối thường diễn ra nhanh hơn rất nhiều. Vội vã. Hối hả. Hân cong người lên trước sức nặng và sự mạnh mẽ của Khải. Khi sự dồn dập khám phá vừa kết thúc thì điện bỗng bật sáng. Tất cả trần trụi. Hân vội lấy tay che ngực. Cô thấy hoảng hốt vì sự việc diễn ra nhanh quá. Mưa tạnh hẳn. Khải loay hoay tìm cách nổ máy chiếc @ của Hân rồi dắt ra cổng. Nhìn Khải cẩn thận dắt xe cho mình, Hân chợt nghĩ đến Đoàn. Cô cúi gằm mặt ngồi lên yên xe, né cái hôn nhẹ của Khải. Hân về đến nhà đã hơn tám giờ tối. Không thấy Đoàn đâu. Cô lục túi tìm chìa khoá cửa. Khi vừa đẩy được chiếc xe vào nhà thì Đoàn về. Đầu tóc quần áo Đoàn bê bết, ướt sũng. Nhìn thấy Hân, Đoàn gần như reo lên vì mừng: - Anh đem áo mưa đến cơ quan em thì em đã về. Anh phóng xe đi khắp các lối em thường hay đi tìm nhưng không gặp, lại đến cả nhà mấy chị cùng cơ quan em nữa… Nghe Đoàn nói vậy bao nhiêu giận dỗi từ sáng trong Hân tan biến. Tự dưng Hân thấy ngượng ngập. Cúi nhìn bộ đồ đang mặc thơm phức trên người, Hân chợt thấy nóng ran cả mặt. Tim Hân đập thình thịch hoang mang. Buổi tối hôm đó Hân không bỏ vào phòng ngủ sớm như mọi khi. Hân cùng Đoàn ngồi xen ti vi. Đài truyền hình đang chiếu bộ phim “Tự dưng muốn khóc”. Mãi Hân mới ngập ngừng bảo: - Thứ bảy này mình về quê anh nhé! [/FONT]
Tình yêu - Hôn nhân...! Kho chưa tới!BẠCH HẠC Bữa đó, má đang kho cá dở tay thì thấy con gái chạy xe vô tận thềm nhà, thắng cái két, dựng chân chống cái rầm, nện giày cao gót lộc cộc vô bếp, thưa má một tiếng rồi ngồi phịch xuống võng, mặt chằm dằm. Má ngó qua là đoán được chuyện gì rồi, nên cứ từ từ, dồn tâm trí vô nồi cá kho, hết nêm tới nếm. Con gái chờ riết không thấy má hỏi han câu nào, tức mình, đành lên tiếng trước: - Má, chắc tụi con thôi nhau! Bớt lửa nồi cá kho, nếm thêm lần nữa, má mới chịu thủng thẳng hỏi lại: - Thằng chồng bây sinh tật hả? Có mèo hay cờ bạc? Con gái lắc đầu lia lịa: - Dạ, không có. Không mèo, không cờ bạc, rượu bia thì thỉnh thoảng mới uống. Má ngạc nhiên, vậy sao, mắc gì…? Con gái lúng túng, không biết giải thích sao cho má hiểu. Nói chung là cuộc sống vợ chồng của con gái vô cùng lạt lẽo. Không vui mà cũng chẳng buồn. Không có chuyện gì để cãi nhau nhưng cũng chẳng có chuyện gì để cười với nhau. Chán nhau đến nỗi ở chung nhà, chung phòng mà chẳng biết nói gì với nhau, chẳng muốn nhìn mặt nhau, xa nhau không thấy nhớ, gần nhau không thấy… thèm. Tóm lại là lạt nhách. Chuyện ai người đó biết, lương ai người đó xài, điện thoại, máy tính của ai người đó mở, cấm xâm phạm. Có một đứa con thì chồng đóng tiền trường, vợ lo ăn uống, quần áo, thuốc men. Sáng chồng đưa con đi học, chiều vợ đón. Về nhà, vợ tắm con, cho con ăn, chồng dạy con học, vợ dỗ ngủ, cứ y vậy ngày này sang ngày khác. Ai cũng làm rất tốt nhiệm vụ của mình, nên không có chuyện phàn nàn nhau. Nhưng, người này cũng chẳng chia sẻ gì được với người kia chuyện của mình. Má lẳng lặng vừa nghe vừa lo cho nồi cá kho. Đang nói, con gái ngưng ngang, hít lấy hít để, rồi reo to, á, cá kèo kho rau răm. Món này của má ngon nhứt xứ. Con cá thấm mắm muối, dẽ khừ, nước thì ngọt lừ, không như nhiều quán, cá ra cá, nước ra nước, lãng ồ… Má cười, ghẹo con gái, sống với má gần ba mươi năm mà chưa ngán nồi cá kho của má là sao? Con gái ừ hé, tại má kho tới mức. Má tắt bếp, chậm rãi giải thích: - Đó là tại má có hiểu biết... về con cá. Rành tánh má sáu câu, không nói thì thôi, đã nói thì thâm trầm, sâu sắc. Con gái nhíu mày suy nghĩ, rồi như chợt ngộ ra một chút gì đó, lanh chanh, ý là má nói tụi con không hiểu nhau? Trời, tụi con thương ba năm trời mới cưới, hôn nhân tự nguyện chớ bộ. Má lại cười, thương chưa chắc đã hiểu, hiểu chưa chắc đã biết cách… thương, cho nên có người kho hoài mà nồi cá chưa tới là vậy. Con gái biết má nói mình, nhắm mắt giả bộ ngủ. Bao nhiêu năm bị rầy mà con gái cũng không bỏ được tật làm biếng, mỗi lần kho cứ mắm, muối gì cũng đổ cái ào chớ không chịu nêm nhiều lần, mỗi lần một chút như má, cũng không thèm để ý xem con cá này nên kho nồi nào, kiểu gì, tẩm ướp gia vị, nêm nếm mắm muối, canh lửa củi ra sao cho đúng điệu, cứ a thần phù làm đại, làm đùa cho xong. Có lần, con gái phải bỏ cả nồi vì mặn quá, nhiều lần thì lạt nhách, ăn cá kho mà phải chấm thêm nước mắm sống… Nghĩ tới đó, con gái hết hồn, í trời, có khi nào chồng mình “chấm thêm nước mắm” trong cuộc hôn nhân lạt nhách này không ta? Bây giờ, đoán được chồng nghĩ gì trong đầu là điều không tưởng đối với con gái. Hồi thời sinh viên, thương nhau, tưởng là hiểu nhau dữ lắm, tưởng mình biết hết ruột gan người ta rồi, vậy mà đến khi về sống chung mới té ngửa là mình không biết gì ráo. Con gái bắt đầu thấy rã rời. Lúc mới về, gặp má nói thôi chồng là nói cho đỡ… tức, chớ con gái đâu muốn, dầu gì cũng còn đứa con. Giờ làm sao đây má? Có nêm nếm lại được không? Má chặc lưỡi, thì phải ráng cứu, thà cực một chút còn hơn bỏ nhưng phải kiên trì, không được gấp gáp à nghen. Con gái gật gù rồi chào má, lủi thủi dắt xe ra cổng. Một ý nghĩ xẹt qua, hay là chiều nay mình đi chợ, thử kho một nồi cá cay xè tới mức toát mồ hôi hột theo kiểu quê chồng coi sao. Lâu rồi vợ chồng không vào bếp. Quán xá, siêu thị, tủ lạnh và lò vi sóng làm cho người ta có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn nhưng cũng khiến người ta mất đi nhiều thứ quý giá, đơn giản như chuyện vợ gắp bỏ vô miệng chồng một con tép rang còn nóng, hỏi, thấy được chưa anh? Chồng vừa thổi con tép trong miệng vừa ú ớ, ngon, ngon. Trời, có nhiêu đó thôi, mà lâu lắm rồi con gái không có được, cứ loay hoay với công việc và đám bạn trên mạng, hết lai cho đứa này đến còm cho người kia mà không thèm để ý xem chồng có còn lai mình không. Cũng như có lần, chồng định mời bạn đồng hương về nhà thưởng thức mấy món đặc sản do hai vợ chồng nấu, con gái giãy nảy, thôi thôi, mấy ông kéo nhau ra quán nhậu cho tự do, ở ngoài đó muốn nói, muốn ca hát nhảy múa gì cũng được, mà không thèm để ý đến nét mặt buồn xo của chồng. Từ đó, chồng không dẫn bạn về nhà, cũng thưa dần những câu chuyện về người ở ngoài quê, về dòng họ, ruộng rẫy. Chồng không nói, vợ cũng vô tư không thèm hỏi. Cứ vậy mà người này không “thấm” được vào người kia, nói sao không lạt nhách. Kho cho tới một nồi cá đi đã rồi mới biết thương cho tới một người. Càng ngẫm nghĩ, con gái càng hiểu ý má. May là chưa đến nỗi “đổ đi”.
Ngôi nhà trên Cây Bích Ngân 1. Nghe tiếp tân báo có khách tìm, tôi khoác thêm áo gió vào người, rồi xuống phòng khách. Vừa đẩy cửa bước vào, một người đàn ông thấp đậm, da dẻ hồng hào, mặc áo khoác, đầu đội mũ bê rê, tiến về phía tôi, chìa tay, vồn vã: - Đến hôm nay mới được gặp lại cậu, mình cứ mong mãi. Quái, gã này là ai, ai mà lại mong gặp một thằng đực rựa như mình? Gương mặt này, giọng nói này, tôi cố vắt óc nhớ thì gã nói tiếp: - Không gặp mặt nhau nhưng mình thường gặp cậu trên trang báo, trang sách. Mình không bỏ qua bất kỳ tờ báo nào có đăng truyện cậu, còn sách cậu, mình đọc không sót quyển nào. Cậu viết được cái dữ dội của chiến tranh bằng ngòi bút chân thành như đời lính bọn mình… À, hóa ra, hắn cũng từng là một thằng lính. Hắn đọc văn mình và khoái văn mình, như thế là đủ. Hắn là ai không còn đáng bận tâm nữa. Minh họa: Văn Nguyễn - So với những người từng mặc áo lính viết về chiến tranh, mình thích đọc cậu nhất… Hắn nói một lèo như cái máy đang đọc đĩa, nghe sướng rân cái lỗ tai. “Khen cho nó chết!”, nhà văn Nguyễn Khải đôi lúc cũng dùng chiêu độc này. Chất nicotine từ miệng lưỡi hắn cũng khiến mũi tôi phập phồng, cái đầu thì gục gặc. Khơi mào, dẫn dắt, hắn lại là kẻ chủ động kết thúc buổi gặp mặt: - Tài văn của cậu có nói cả tuần cũng không hết được - Hắn xoa xoa lòng bàn tay vào nhau - Mình có một đề nghị tha thiết như thế này: Mình có một khu du lịch sinh thái cách đây khoảng 50 cây số. Ở đó bọn mình vừa uống rượu, vừa bình luận văn chương lại vừa được nghe chim hót vượn kêu suối chảy… - Thế thì còn gì bằng - Tôi hào hứng cắt ngang lời hắn. - Vậy thì chiều ngày kia, tức ngày cuối tuần, mình sẽ đưa xe đến đón cậu. - OK, sẵn sàng - Tôi nắm tay hắn, vừa siết, vừa lắc. - Cậu có thể rủ thêm những người bạn cùng trại viết, chọn những nhà văn càng nổi tiếng càng vui. Chờn chợn khi nghe hắn nói “chọn những nhà văn càng có tiếng càng vui” nhưng đang hứng, tôi “ô kê” luôn. Phấn chấn ra mặt, hắn mở bóp, dúi vào tay tôi cả một xấp danh thiếp. Khi tiễn hắn ra chiếc ô tô do hắn tự lái, tôi còn siết tay hắn thêm lần nữa. 2. Chiều thứ sáu, đúng ngày hẹn với Nguyễn Dũng, giám đốc khu sinh thái, trời lại đổ mưa. Mưa từ đêm. Mưa lê thê suốt ngày. Nằm trên khu đồi thoai thoải của vùng cao nguyên, khu nhà trại sáng tác nép mình dưới hàng thông cao vút, càng cách biệt và vắng lặng. Chăn trùm đến ngực, nhìn gió mưa bay xiên xiên ngoài cửa sổ và khoảng trời xám xịt, thấy ái ngại cho chuyến du hí trong gió mưa sụt sùi, tôi cầm điện thoại lên. Nhìn trời mưa lần nữa, tôi bấm điện thoại gọi cho tay giám đốc khu sinh thái. Tôi vừa “a lô”, Dũng nhận ra tôi và nói ngay: - Mình đang cho xe đến đón cậu đây. Cậu bảo mọi người xuống phòng khách, 20 phút nữa khởi hành. - Nhưng… mưa thế này… Hắn cười lớn: - Nhà văn cựu chiến binh mà sợ mưa sao? - Nhưng đi cùng có hai nhà văn tiểu thư… - Có là công chúa quen ở cung điện đi nữa cũng sẽ mê tít nơi mình đưa quý vị đến. Các vị chắc chưa lần nào được ngủ trong ngôi nhà trên ngọn cây? - Ngủ trên ngọn cây? - Tôi hỏi lại. - Phải, nếu muốn - hắn bật cười ha hả - cậu có thể… mây mưa trên ngọn cây! Câu nói của hắn như liều kích dược xuyên qua da. Đang bủn nhủn như con mèo ướt, tôi tốc chăn, vươn vai, ưỡn ngực ngồi dậy, lẹ làng bước xuống giường, làm vội mấy động tác thư giãn, đầu óc mường tượng lung tung. Từng ngủ bờ, ngủ bụi, ngủ nóp, ngủ võng, ngủ nhà tranh, nhà tường, ngủ ở phòng khách sạn từ không sao cho đến nhiều sao, nhưng tôi chưa một lần biết đến cái cảm giác ngủ trên ngọn cây giữa đại ngàn. Vội mặc thêm áo len, khoác thêm áo giả da, nhét bao thuốc lá vào túi, tôi đến gõ cửa gọi mấy người bạn chuẩn bị xuyên rừng. 3. Dũng đón chúng tôi bằng chiếc xe Jeep có tài xế lái. Trên xe còn có một cô gái trẻ măng, xinh tươi như bông hoa rừng. Dũng bảo cô gái chào các chú các cô và giới thiệu, đó là cô con gái nuôi của hắn. Cánh chúng tôi có năm người, ba nam, hai nữ. Khi lên xe, Dũng xếp Khôi, Thái, hai nhà văn nam ngồi băng ghế sau cùng. Tôi, hai nhà văn nữ, Giang và Bích cùng ngồi băng giữa. Dũng kéo cô con gái nuôi cùng hắn ngồi ghế trước cạnh tài xế. Thấy vậy, tôi dợm leo ra băng ghế sau định nhường chỗ cho cô gái thì hắn ngăn lại và đặt cô con gái nuôi ngồi vào lòng mình rồi quay lại phía sau, nói: - Các cậu phải ngồi cho thoải mái, đường đi dằn xóc lắm đấy! Đúng như Dũng nói. Sau mươi phút chạy bon bon trên con đường nhựa, chiếc Jeep giảm tốc độ, men theo con đường đất đá khúc khuỷu gồ ghề lần lượt hiện ra sau bụi cây, lùm cây, hàng cây. Con đường hẹp mỗi lúc một gập ghềnh khó đi. Nhiều chỗ, nhiều đoạn mặt đường bị mưa lũ xoáy lở biến dạng thành những trũng như vũng trâu, vũng voi. Tài xế điều khiển vô lăng khéo tay nhanh mắt như một diễn viên xiếc, tránh được những pha hiểm, suýt bị sa lầy. Chiếc Jeep tiến tới một đoạn lại trở lui rồi rồ máy rướn tới, rướn tới, mệt lử rồi thả lỏng, lại trở lui rồi lại trườn tới. Cứ thế, nó như một chiến binh dai sức và lão luyện, bất kể thời tiết xấu và địa hình hiểm trở, vẫn lừ lừ luồn lách, kiên trì tiến tới phía trước. Chúng tôi mệt nhừ vì dằn xóc và va đập. Tay giám đốc, quả là một ông bố bảo bọc con, cứ khư khư ôm chặt cô con gái trong lòng. Hai kiều nữ cạnh tôi miệng lưỡi rứ ré mỗi khi bị nhồi xóc, va chạm. Hai mày râu phía sau cũng luôn mồm ứ á. Tài xế và hai bố con tay giám đốc, có lẽ do quen đường, quen chịu đựng nên giữ được trầm tĩnh. Trầm tĩnh cả trên những đoạn đường cheo leo mà chiếc Jeep phải liều lĩnh len lách giữa một bên vách đá và một bên là vực sâu. 4. Hơn bảy giờ tối chúng tôi mới đến được khu du lịch sinh thái. Mưa vẫn chưa dứt, lúc rỉ rả, lúc xối rào rào. Tôi ê ẩm nhấc người ra khỏi xe trong tiếng mưa, tiếng suối, tiếng chim chóc, tiếng côn trùng nghe như một bản hòa âm mở lớn. Mỗi người giương một chiếc dù (lấy từ trên xe), lúi húi bước dọc theo lối mòn dẫn đến khu nhà đỏ quạch ánh đèn trước mặt. Hết lối mòn, chúng tôi bước lên chiếc cầu ván được nối dài, nằm dưới những tàng cây rậm rạp sẫm màu đêm. Những ngôi nhà sàn vách lá lần lượt hiện ra trong ánh đèn dầu. Biết mọi người đang đói và lạnh nên Dũng đưa tất cả đến thẳng nhà ăn, ngôi nhà đang bùng bùng ánh lửa. Một bếp lửa đang cháy đặt giữa nhà ăn, củi lửa nổ tí tách. Một người đàn bà mặc xà rông, chân trần đang lúi húi cời than nướng khoai, nướng bắp. Mùi khoai nướng bắp nướng dậy lên, mời mọc, cồn cào. Trong ánh lửa bập bùng và dưới ánh sáng của ngọn đèn măng sông, ngọn đèn duy nhất được treo mắc trên vách nhà, ngoài cánh chúng tôi đang lục tục kéo vào và lần lượt ngồi xuống sàn nhà quanh một cái mâm thức ăn đồ uống thịnh soạn đã dọn sẵn, còn có một đoàn khách Tây. Đoàn gồm một người đàn ông tóc bạc mang kính trắng, một người đàn bà trẻ tóc nâu gương mặt thanh tú và hai đứa bé, một trai một gái cùng một thông dịch viên có chiếc mũi khoằm khoằm. Khi tất cả đã ngồi vào chỗ, giám đốc khu sinh thái nói với thông dịch viên: - Nhờ anh giới thiệu cho hai đoàn quen nhau - Rồi hắn đưa tay về phía cánh chúng tôi, quay mặt lại phía các vị khách Tây, nói - Xin giới thiệu với các vị khách quý, đây là những nhà văn nổi tiếng và là những người bạn thân thiết của tôi. Người thông dịch vừa dứt lời, người đàn ông đẩy gọng kính trên sống mũi rồi lần lượt đưa tay siết chặt tay từng nhà văn được Dũng giới thiệu “rất bốc”, như tôi là “một nhà văn sống sót sau chiến tranh và viết về chiến tranh bằng máu của chính mình”. Người đàn bà trẻ, không rõ hào hứng vì những lời lăng xê lên tới ngọn cây của tay giám đốc về từng thành viên của đoàn hay vốn là một người yêu thích văn chương, đã vội đẩy hai đứa con ra khỏi lòng mình, chồm dài người về phía cánh nhà văn, đưa bàn tay trắng mềm cho từng người, rối rít bằng tiếng Việt ngọng líu: - Han hanh han hanh han hanh… 5. Hai đoàn khách mon men làm quen nhau. Phía khách Tây, đó là một gia đình người Pháp. Người bố trở lại Việt Nam sau ba mươi năm từng đến và làm việc tại Việt Nam trong một trung tâm khoa học nghiên cứu về thực vật, cô gái thì theo bố đến xứ sở mà cô chỉ biết qua sách báo và phim ảnh. Người bố không nói về mình mà nói nhiều về Maria, cô con gái. Ông nói Maria mê vùng đất Tây nguyên Việt Nam qua những bức ảnh của bố mang về và đặc biệt là từ những quyển sách của Jacques Dourner. Đến Việt Nam lần này, cha con ông muốn lần theo trang sách của nhà dân tộc học từng gắn bó cả cuộc đời mình với Tây nguyên bằng những chuyến xuyên rừng, bắt đầu từ chuyến dã ngoại này. Sau ly rượu gặp gỡ, mỗi người nhanh chóng nhồi thức ăn vào cái dạ dày rỗng. Khi cái bụng lưng lửng, rượu cũng đã mềm môi, chuyện trò lại càng rôm rả. Không chịu thua kém ông bố Tây, tay giám đốc kéo cô con gái nuôi ra khỏi bếp lửa (cô đang cùng người đàn bà dân tộc nướng khoai, nướng bắp), nói về công lao của mình khi nhặt cô bé mồ côi thảm thương như miếng giẻ rách, về nhà được vợ chồng hắn nuôi dạy và cho ăn học tử tế. Hiện cô gái đang học ngành du lịch tại một trường đại học ở Sài Gòn. Trúng ngày cuối tuần nên hắn mua vé máy bay cho con gái về đây đón các vị khách quý. Cô con gái cúi mặt khi nghe cha nói, đôi má bắt lửa, ửng hồng. Những ngón chân cô gái bấm bấm vào đôi dép nhựa màu cam (thay cho đôi giày cao gót khi cô bước lên xe). Cái màu cam nơi đôi bàn chân trắng xinh của cô gái cũng ánh lên màu củi lửa. Cái màu củi lửa ấy cũng loang loáng trong đôi mắt xanh của Maria. Cô kéo chiếc áo khoác rộng thùng thình trùm cho cả hai đứa con đang ôm chân mẹ. Trong ánh lửa bập bùng, trông Maria hao hao nàng chuột túi hồng hào, đầy đặn và quyến rũ. Vẻ quyến rũ của giống loài biết chở che, bao bọc. Vẻ đẹp ấy như có sức thôi miên. Tôi bảo tay giám đốc chuyển cho tôi chai Cognac. Chẳng mấy chốc, tôi trở thành một “chủ xị” đúng nghĩa, tức không chỉ biết rót rượu mà còn biết khêu được sự hứng khởi nơi mỗi người. Lửa từ bếp lửa, từ rượu, từ đôi má ửng hồng của cô gái con nuôi, từ đôi mắt xanh ấm rực của Maria, từ những câu chuyện kể của Dourner về rừng và đàn bà… tất cả tạo nên sự hưng phấn khó tả. Hai nữ văn sĩ, vẻ rã rượi bèo nhèo đã bay biến. Bích cầm ly rượu tôi đưa, uống cạn, chúc miệng ly xuống và bất ngờ ứng khẩu thành câu chữ na ná thơ: “Lửa quanh ta. Lửa trong ta. Lửa rừng thiêng. Lửa nguồn cội. Lửa từ những linh hồn không ngủ…”. Tôi cắt lời Bích, chêm vào: - Lửa từ những linh hồn không ngủ vì rượu ngon và đàn bà đẹp! - Những linh hồn không ngủ vì rượu ngon và đàn bà đẹp! - Cánh đàn ông gào lên. Người phiên dịch lặp lại câu đó bằng tiếng Pháp. Maria chồm tới đưa ly cụng ly tôi cùng một câu nói với ánh mắt ấm hơn lửa. Tay phiên dịch lặp lại ngay: - Maria nói: “Những linh hồn không thể ngủ trước những tâm hồn quá đẹp!”. Mọi người lại cụng ly và cạn ly vì “triết lý” của Maria và có lẽ, còn vì tâm hồn không thể không đẹp ẩn chứa nơi cô. Rượu vào lời ra. Khôi, nhà văn hóm hỉnh hào hứng đọc bài thơ của Aragon bằng tiếng Pháp và lếu láo chữa “Đôi mắt của Elsa” thành “Đôi mắt của Maria”. Maria và ông bố chăm chú lắng nghe. Sau tràng vỗ tay dành cho bài thơ và người đọc thơ, dường như ai cũng muốn thể hiện cảm xúc của mình. Giang thoát khỏi dáng vẻ e dè, choàng lại khăn cổ, sau vài giây ngập ngừng, cô cất tiếng hát: “Tôi nhớ mãi một chiều xuân chia phôi, mây mờ buông xuống núi đồi, và trong lòng mưa hơn cả ngoài trời…”. Thái hứng chí vỗ nhịp bằng tay, bằng vẻ mặt như đang “rút tơ lòng”. Rồi tất cả cùng vỗ nhịp, hòa theo cảm xúc dâng lên trong lòng người lữ khách si tình. Sau khúc hát Nụ cười sơn cước, tiếp tục những lượt rượu. Và tranh nói. Người nói nhiều nhất lại là tay phiên dịch, mà lại nói về mình. Càng nói càng hăng. Nhiều đoạn cao hứng, anh ta nói tiếng Việt lẫn tiếng Pháp. Câu chuyện và cách diễn đạt của anh ta lôi cuốn. Do mê cô bồ trẻ mà anh ta không “di tản” cùng gia đình trước ngày 30.4.1975. Và cũng để cung phụng người đẹp mà anh ta trở thành một tay phụ bếp. Khôn khéo luồn lách, anh ta trở thành bếp chính và quản lý luôn việc chi tiêu của bếp ăn ở một nông trường. Do “mổ máy” vào từng phần ăn của cả ngàn miệng ăn, chỉ sau vài năm, anh ta tích cóp được cả túi vàng. Rồi sau ba lần vượt biên không thành, chán ngán, cô bồ ôm vàng theo kẻ khác. Mất bồ, mất vàng, anh ta không chúi đầu vào bếp núc củi lửa nữa, mà chọn nghề thông dịch, như anh ta nói, để được đi đây đi đó và tận hưởng một cách thư thái những thứ do trí óc miệng lưỡi đem lại chớ không phải do lòng tham mà có được. Bụng no, rượu cạn, hào hứng mấy cũng vơi dần, cơn buồn ngủ bắt đầu kéo tới. Mọi người lần lượt được người hướng dẫn của khu du lịch đưa đến chỗ nghỉ. Riêng tôi, Dũng kè sát như sợ tôi trượt ngã hoặc bị thú rừng tha mất. Đưa tôi đến trước một ngôi nhà có lu nước đặt trước cửa và mấy giò lan treo lủng lẳng, hắn lấy gáo múc nước mưa trong lu, đưa lên miệng hớp một ngụm to, phùng má súc sùng sục, phun mạnh ra, rồi nói: - Mình nghỉ ở đây. Còn cậu, theo mình đến được nơi này mà không leo lên ngôi nhà trên cây làm một giấc thì phí lắm. Tôi thấy váng vất đầu óc: - Tớ đi trên sàn nhà còn không vững làm sao leo cây được? - Mình có cách. Tôi lờ mờ thấy Dũng và một người nữa, hình như cũng là người hướng dẫn khi nãy, vóc dáng cao to, lực lưỡng, dùng một sợi dây thừng quấn qua ngực tôi (tôi cũng lờ mờ đón, sợi dây chắc có công dụng như dây bảo hiểm cho bọn xiếc trên không) khi họ đưa tôi đến một gốc đại thụ xù xì nằm gần lối đi. Rồi bằng cách công kênh và lôi kéo, họ đẩy tôi lên từng bậc thang trên chiếc cầu thang bám dọc theo thân cây dẫn lên ngôi nhà trên cao. Trầy trật, ê ẩm mình mẩy một lúc tôi cũng chui tọt vào bên trong cánh cửa của ngôi nhà hẹp như cái chuồng và chuồi người trên chăn nệm êm ái. Trước khi khép cánh cửa lại, tôi còn nghe Dũng nói: - Có cần gì muốn gì thì gọi cho mình. “Tớ chỉ cần ngủ”, tôi muốn trả lời như vậy, nhưng không kịp mở miệng. Cơn buồn ngủ lập tức vùi tôi vào chăn nệm. 6. Tôi ngủ một giấc không biết trời trăng mưa gió gì cả cho đến khi hơi lạnh xộc vào da thịt rồi len dần vào xương cốt. Nằm cong như con tôm kho tàu, hai đùi kẹp chặt đôi tay nhưng cái lạnh vẫn không giảm đi. Co ro, chịu trận trước cái lạnh trên lưng chừng, trong tôi lại cồn lên cơn ham muốn hơi ấm và da thịt đàn bà. Người tôi nghĩ đến trước tiên, quái lạ, lại không phải là vợ mà là nàng chuột túi xinh đẹp tình cờ gặp được hồi tối. Tôi nhớ lại hình ảnh nàng lúc cười lúc nói bên ánh lửa. Lúc nàng chồm dài người bắt tay từng người. Lúc tôi nắm bàn tay trắng muốt mềm mại của nàng. Bàn tay nõn nà đến thế, mềm mại đến thế ắt hẳn thân thể nàng phải tuyệt cú mèo. Tôi liều lĩnh sục sạo và… chạm phải hai đứa con nhỏ của nàng. Hình ảnh xoắn xuýt ba mẹ con nàng tách tôi ra khỏi cơn thèm thuồng bất chợt. Khi cái rộn rạo nguôi đi, tôi lại nghĩ đến vợ mình đang vò võ chờ chồng trong ngôi nhà trên mặt đất mà hai vợ chồng chung lưng đấu cật, chật vật vắt óc vắt sức mới tạo dựng được. Tôi tìm nhiều cách xoay trở, cố nối lại giấc ngủ. Nhưng càng cố, lại càng tỉnh. Mưa đã tạnh. Trong ran ran tiếng côn trùng, tiếng gió nghe thật rõ. Ve vuốt. Rượt đuổi. Lúc lả lơi, xào xạc. Lúc như có trận chiến quyết liệt. Răng rắc, gãy đổ. Lào rào. Rền rĩ. Lúc lại nghe như tiếng hú. Rất nhiều tiếng hú. Dường như có cả những tiếng hú giông giống tiếng gọi của kẻ lạc rừng… Tiếng hú gọi xốc tôi ngồi dậy. Rồi đâu đó, từ những cánh rừng của ký ức, tiếng hú gọi dội về. Rồi không chỉ là tiếng hú gọi âm âm núi rừng mà còn cùng với âm thanh của nó là những gương mặt. Rất nhiều gương mặt. Vừa mờ nhòe, vừa rõ nét, vừa lặng lẽ u buồn, vừa tếu táo vui nhộn. Vừa gần như có thể chạm được nhau, lại vừa xa cách, chập chờn, ẩn hiện. Có cả gương mặt của những thằng bạn mãi mãi ở tuổi đôi mươi, có thằng chưa một lần biết đến nụ hôn và da thịt đàn bà, đã vĩnh viễn nằm lại nơi những cánh rừng. Và, dường như những gương mặt trẻ măng đó đã kéo tôi tuột xuống mặt đất. Khi chạm chân lên mặt đất ẩm ướt, tôi ngước nhìn ngọn cây mà ở đó tôi vừa trải qua một cảm giác lạ thường. Ngôi nhà sẫm đen dưới ánh trăng mờ mờ xuyên qua cành lá. Rừng đêm đã lác đác tiếng chim. Tiếng suối nghe cũng thật gần. Không phải là tiếng róc rách róc rách quen thuộc của bản nhạc rừng mà là tiếng nước tuôn chảy rầm rào. Khát cháy cổ họng và thèm người trò chuyện, tôi lò dò lần về căn nhà riêng của Nguyễn Dũng. Bước từng bước, tôi triệu hồi ký ức, hy vọng tìm thấy người đồng ngũ này. Căn nhà không khó tìm. Trong ánh sáng của ngọn đèn dầu đặt trong cái lồng gỗ, gáo nước thả lềnh bềnh trong lu nước mưa đầy đến miệng. Mấy giò lan đung đưa nhè nhẹ. Hương lan rừng cũng nhè nhẹ tỏa hương. Chân tôi chợt khựng lại trước chỗ lu nước khi nghe âm thanh gồng gào rượt đuổi cùng tiếng thở dồn dập của cặp đôi đang hối hả kéo nhau lên đỉnh tình. Trước khi quay gót trở lui, đập vào mắt tôi là đôi dép nhựa màu cam mà cô con gái nuôi mang lúc tối, nằm ngay ngắn trước bậc cửa. Cơn gió chợt ào tới. Rừng cây rùng rình chuyển động. Trong ánh trăng mờ xuyên qua cành lá, ngôi nhà trên ngọn cây trông chênh vênh và mong manh như cái tổ chim.
Mùa săng kê rụng Lá Nguyễn Vĩnh Nguyên Rìa làng được bao bọc bởi những hàng rào săng kê (1) thưa thớt, xiêu vẹo. Mùa này lá săng kê rụng trụi lủi, những thân cây gầy rộc khẳng khiu chĩa lên trời như ngàn đốt xương trắng hếu giữa gắt gỏng nắng gió. Thảng hoặc, giữa chót vót thẳm xanh của nền trời, hiện lên vài chùm trái sót, khô rạc, không đủ trị giun sán cho bọn nhóc bụng ỏng trong làng. Gió heo thổi phang phang qua mấy giậu keo gai tung bụi mù xáo xác. Có những trận xoáy hất tung cơ man nào là rác rến mục nát, bao bị ni lông lời tời bốc lên cao rồi vướng trên mấy cột điện bùi nhùi dây nhợ. Chỗ sân đá banh của thôn, những con bò kiên nhẫn gặm vạt cỏ khô trơ rễ trên đất đanh cằn. Thi thoảng vài con heo mọi lưng oằn, bụng vú chảy nhão chạm đất, đi lặc lè ục ịch về phía mương nước đã cạn dộp cả lớp rêu dưới đáy. Minh họa: Tuấn Anh *** Đám thiêu ở đó. Hình hài cha tôi sau ba năm trời lặng yên dưới lòng đất bỗng chốc co rút, bật ngồi dậy trong đám lửa cháy phừng phừng. Ông hiện diện trong tôi lần cuối với cái gập người run rẩy khắc khổ trong tiếng lửa nấc. Hình ảnh đó đè lên trên tất cả những ký ức cũ của tôi về người. Những gì còn sót lại mãi mãi về sau trong tôi là một dáng ngồi xiêu vẹo khổ hạnh ruỗng nát. Là tiếng nứt nổ răng rắc vang vọng của những hốc xương giòn khô đang trong cuộc chuyển hóa về tro bụi. Và cả mùi khói nhợn đen từng cuộn cuộn tuôn ra một thứ mùi ngấy lạnh phả vào buổi chiều tháng chạp heo hắt gió. Dòng kênh nghẽn trơ đáy ngay dưới chân cầu, như một làn hơi tàn không còn chở nổi những tiếng kèn u uẩn về với biển. Mẹ tôi nói, ai đã lạc vào đó, bị vướng bùa mê sẽ không còn có thể tìm thấy lối ra. Những người đến đưa con người kia thoát khỏi vũng mê trở về, thường phải đền mạng, sẽ bị thư yểm côn trùng vào cơ thể rúc rỉa cho đến chết. Cái chết quằn quại và đầy bi hận. Những ám ảnh ma quái người lớn thổi vào trí óc tôi trong thời thơ ấu càng khiến cho ngôi làng này như được phủ bọc bởi một lớp khói sương đầy huyễn hoặc, một cõi ám chướng đầy hiểm nguy mà con người không thể giải thích. Không biết tự bao giờ, huyền thoại huyễn hoặc dựng lên những nỗi sợ trong tâm trí kẻ khác như những bức tường thành vô hình mà kiên cố cô lập ngôi làng. Cũng chính vì những điều đó mà chúng tôi kiên quyết khước từ, đến chết đói cũng không ăn những thức ăn có nguồn gốc từ vùng miền này. Những chiếc bánh bột gạo nhân mè được nướng rất thơm ở chợ trở nên ế ẩm khó giải thích. Những chiếc lu, thạp bằng đất nung đựng nước mát thơm mùi đất đai nhưng thường bị những người đàn ông lấy búa nện vỡ toang khi mấy chị vợ vì không biết đã trót đội về nhà. Những món đồ chơi của trẻ nhỏ làm bằng đất nung mộc mạc bị xếp xó, thậm chí, bị chôn sâu dưới đất để âm hồn oan nghiệt không theo đó mà nhập vào lũ trẻ. Chúng tôi, từ nhỏ đã biết nhận diện và lánh xa giống người có đôi mắt tròn và lông mi dài, quăn, sống mũi cao, môi trầm, nước da đen ngăm và tiếng nói chắc như sấm rền, mùi mồ hôi còn thoang thoảng mùi khét của than, của máu dã thú và làn hơi ẩm mục của lá rừng. Chúng tôi phải tự tìm cách bảo vệ mình trước thế giới hoang dã ma thuật đầy dọa nạt luôn ám ảnh tâm trí. Họ sẽ biến chúng ta thành những nô lệ để trả thù. Sau khi lưu đày, thầy cúng của họ sẽ cắt cổ chúng ta bằng những câu liêm bén ngọt. Chúng ta bị biến thành những con ma hời, chỉ còn chiếc đầu lâu cùng những túi ruột lòng thòng bay lang thang trong đất trời và hú lên những tiếng oán hờn căm hận trần gian. Rồi trong hình hài đó, đêm hôm khuya khoắt, chúng ta sẽ bay về quê nhà cắn vào cổ những người thân yêu khi họ đang ngủ say để hút máu. Và, cứ thế, như một cách truyền bệnh dịch, những con ma hời gieo rắc nòi giống quái nghiệt của mình cho khắp làng mạc. Có khi con người cả ngôi làng này sẽ bị biến thành ma hời. Một bầy ma hời la eo éo trên những ngọn cây dương liễu, phả ra mùi máu tanh tưởi. Trong khi đó, toàn bộ phần còn lại của thân thể chúng ta sẽ bị thiêu cháy trên giàn lửa đỏ ở ngoài những cánh rừng. Mẹ tôi nói như thể đã trải nghiệm những chuyện ma quái ấy. Tôi nhìn thấy ánh lửa đèn dầu trong mắt mẹ nhảy rức rức nhập nhòe. Tôi ôm chặt mẹ khi ngoài cánh cửa có tiếng “xoạc” của một chiếc lá bàng rụng tiếp đất. Cha con sẽ bị như thế. Mẹ nói. Vì sao? Cha con đã ăn phải bùa mê thuốc lú của đàn bà trong ngôi làng đó. Cha sẽ bị cắt cổ hả mẹ? Tôi vươn cái nhìn đầy nước mắt sợ hãi về phía mẹ. Không. Khi lớn, con sẽ đưa cha về. Cha con sẽ lành lặn. Nhưng rồi con sẽ bị họ trả thù, thư yểm côn trùng vào trong người? Họ sẽ không làm vậy với đứa con trai. Họ chỉ làm vậy với người đàn bà đi giành lại người chồng trong tay họ. *** Người đàn ông đánh trần, ngực vâm như hai chiếc mã la thoa đầy mỡ thú vung tay cất chiếc khâu liêm cột ở đầu ngọn sào thọc sâu vào trong đám lửa cháy, móc vào hốc mắt của chiếc sọ người đang tua túa khói lửa từ trung tâm đám cháy. Anh ta bẩy chiếc sọ còn oi óp khói đen đi trong không gian theo một đường cầu vồng rồi thả xuống chiếc mâm thầy cúng đặt sẵn trên bãi cỏ. Thầy cúng nhắm mắt ngước lên trời cao lầm rầm quán niệm, rồi cúi xuống, vung cán rựa bổ một tiếng “bục” lên hốc sau của sọ. Người đàn bà trẻ có đôi mắt huyền buồn bã, môi mặt bợt tái đang khóc như muốn ngất lả trong tay những người đàn bà lớn tuổi. Còn đứa trẻ thì úp mặt vào ngực tôi. Tôi ôm chặt lấy nó và nghe vị chua mồ hôi trên cổ nó hòa tan trên cơ thể mình, như hòa làm một nguồn mạch. Tôi dỗ dành nó đừng khóc, dù, chính tôi lại thấy nghẹn ứ ở cổ họng và nước mắt cứ trào ra. Thầy cúng dùng chiếc kéo lớn gỉ sét, cắt trên phần xương trán của cha tôi bảy miếng tròn, rồi cho vào kút (2). Lần cuối cùng tôi nhìn thấy trên hộp sọ cha tôi một nụ cười khắc khổ và man dã. Một người đàn ông trẻ nhẫy mồ hôi bước đến và hắt mâm rượu còn những đốt xương vụn vào trong đống lửa cháy tàn, một phần còn lại hắt xuống dòng kênh trơ dộp đáy rêu vàng vọt. Rừng chiều nổi một đợt gió lạnh khiến tôi rùng mình. Tôi đặt thằng nhỏ vào tay mẹ nó, người đàn bà đang quằn quại như một bệnh nhân lên cơn co giật, mặt khướt mồ hôi và nước mắt. Tôi bước đến nhận từ tay thầy cúng chiếc kút nhỏ sau nghi thức xa lạ đẫm màu huyền bí. Ông nói, giờ đây anh có thể mang cha anh đi khỏi làng. Tôi gật đầu lặng lẽ bước theo con đê ngoằn ngoèo phía rìa làng, đi lần về quốc lộ. Tiếng khóc u uẩn của người đàn bà muốn trói chân tôi. Nhưng gió thổi dạt tôi đi xa ngôi làng với bước chân liêu xiêu, bủn rủn. Từng cơn gió thổi thông thống như đoàn người không nhân diện xô đẩy tôi rời xa tiếng kèn eo ắt như muốn khoét rỗng lòng dạ kia càng nhanh càng tốt. Bầu trời phía sau lưng như đang sụp xuống. Ngôi làng sau lưng như đang ngập trong khói xám của thứ âm khí nặng nề. Tôi ghì chặt chiếc kút vào ngực và bước sấp ngửa. Tôi chọn một gò đất cao, ngoảnh lại một lần nữa nhìn đoàn người hành lễ đi chậm chạp ủ rũ bên hàng rặng săng kê đầu làng, khăn áo lất phất trắng tời tã trong bụi khói mù mịt. Một đám khói đỏ ở rìa rừng đã cất cao, chạm tới tầng mây hoang lạnh của buổi chiều đông. Ngôi làng nằm sau rặng cây xương xẩu ọp ẹp và chìm khuất như khúc hát buồn tủi, xa vắng. Hơi nóng từ chiếc kút lan tỏa sâu vào lồng ngực tôi. Mùi rượu xuyên qua hơi thở tôi. Tôi bước đến cây cầu độc mộc bắc qua dòng kinh, đứng ngoái lại một lần nữa và đưa tay áo quệt dòng nước mắt chực vỡ òa. Trong đầu tôi lại vẫn hiện lên hình ảnh con người bật dậy ngồi xiêu vẹo trong lửa cháy phừng phừng. Tôi không muốn tin những gì còn lại của cha nằm gọn ở đây, trong chiếc kút nhỏ bé này. Tôi không muốn tin một cuộc hành trình rong ruổi của đứa con trai lần theo dấu vết người cha bất bạt chỉ để nhìn thấy sự cứu rỗi nảy lên từ đốm lửa thiêu buồn thảm giữa không gian nghi thức gặp gỡ và tiễn đưa xa lạ. *** Dì nói rằng, dì không bỏ bùa ổng. Tôi nhìn thấy sự chân tình trong giọng nói nghẹn ngào, đôi mắt hạt huyền đen thẳm của người đàn bà có thân hình xốc vác. Ổng chỉ nói rằng, ổng đang khổ đau. Ổng muốn tìm một chỗ nương náu. Dì nói. Và dì nhìn vào mắt ổng, dì tin. Tôi cười chua chát với ý nghĩ: làm gì có khổ đau, làm gì có ai bỏ rơi ổng, chỉ có ổng mới là người bỏ rơi vợ con để theo đuổi đam mê ích kỷ. Ông ấy đã là trụ cột của một gia đình chuẩn mực, hạnh phúc. Tôi từng nghĩ vậy từ khi nhận biết sự ra đi của ông. Và lúc này, tôi càng nghĩ vậy. Nhưng tôi lại dằn nén sự trách móc để lắng nghe người đàn bà tiếp tục bộc bạch may ra tìm thấy manh mối nguyên nhân cuộc ra đi của cha mình. Tôi ngồi gần bếp lửa và khều mớ than hồng. Thằng Keo tựa bờ mông tong teo vào vai tôi và chăm chú nhìn khuôn mặt chảy nhão của mẹ nó. Mùi mồ hôi chua khét từ mái tóc sém nắng của thằng bé khiến tôi cảm nhận mối dây liên hệ mờ nhạt giữa tôi và nó. Tôi muốn kìm nén những xúc cảm thân thương gần gũi. Tôi luôn giữ một khoảng cách nhất định với giọt máu đi hoang của cha. Nó thì ngờ nghệch, ngơ ngác trước những câu chuyện của người lớn. Đứa con nít năm tuổi yếu ốm còi cọc như nó cũng không sao hình dung được rằng, trong cuộc đời mình, lại có một người anh chung cốt nhục luôn trong vai diễn của kẻ lạ. Có lẽ đến mãi về sau, trong cuộc đời này, tôi và nó cũng chỉ là một thứ cơ duyên máu thịt run rủi, ở hai không gian cách biệt, khó gắn kết hay gần gũi. Người đàn bà kể lại những ngày cha tôi đến làng, chuyện ông ấy đã thổ lộ với bà về một mái ấm không hạnh phúc, về khát vọng được đi đây đó trong những chuyến buôn dài ngày. Rằng ông đã quá mỏi mệt với những tháng năm tù túng, bị buộc chặt trong những bổn phận quẩn quanh, những quan hệ đơn điệu nhàm chán dưới lớp áo êm đềm hạnh phúc, những trách nhiệm đóng kín đời sống. Dì lắng nghe và biết mình sẽ bước vào cái kịch bản mà người đàn ông khổ đau kia đang kiểm soát. Vậy là bắt đầu những ngày tháng cơ cực thiếu thốn, nhưng ông ấy luôn tỏ ra an vui. Dì nói. Dì, ổng và thằng nhỏ trôi dạt hết bãi chợ này đến làng mạc khác trên những chiếc xe lúc lỉu hàng gốm sứ. Dì giỏi buôn bán. Ổng cũng hết lòng giúp vợ, lo cho thằng Keo. Năm này qua tháng khác, không nhà cửa, không điểm dừng. Nhưng rồi cuộc sống không thể cứ trôi lêu bêu bất định mãi. Dì tính phải trở về làng ổn định sớm để cho thằng nhỏ đi học. Chứ sống vậy lâu năm, đời sống bụi đường sẽ nuốt mất cuộc đời tương lai của nó. Về làng chưa kịp làm gì thì ổng đổ bệnh. Ổng không để dì được chăm sóc cho trọn nghĩa vợ chồng. Khối u trong gan của ông đến kỳ bộc phát. Ổng trải qua những cơn đau dai dẳng rồi kiệt sức, ra đi. Tôi nói, vậy mà mẹ con nói cha đã bị bỏ bùa, bị che mắt, không tìm thấy đường về. Nhiều năm trời, con đã tưởng rằng cha đã rất đau khổ ở ngôi làng này và cha mong ngày về với mẹ con con. Dì nhìn tôi. Và nói chậm rãi. Con à, cha con cũng hay kể về con trong những ngày tháng ở đây. Ổng tìm cách gặp con nhưng chính mẹ con đã ngăn cản quyết liệt. Mẹ con đã không thể tha thứ cho ổng. Có chuyện đó sao. Bao nhiêu năm con đã không hay biết. Có những bí mật trong đời sống gia đình mà cho đến khi chết, người ta không muốn thổ lộ cho ai được biết cả, kể cả những người thân yêu nhất. Những bí mật được giấu kín để bảo vệ cho nền tảng quan hệ các thành viên không bị lung lay, rạn nứt. Người đàn bà múc cháo ra tô, bưng lên bàn. Hai tô lớn và một chén nhỏ. Thằng Keo ngồi vào chiếc ghế đẩu, cặp chân gầy rộc bơi bơi trong không khí. Trong ánh sáng ấm áp tỏa ra từ bếp lửa, tôi nhận ra vẻ mặt đôn hậu nhưng kham khổ của người đàn bà. Con ăn đi. Bây giờ trách móc nhau cũng chẳng được gì. Ổng chết lâu rồi. Ba năm qua nằm ngoài bìa rừng, chắc ổng cũng suy nghĩ nhiều về chuyện đã làm với gia đình con, về những chọn lựa trong cuộc đời. Nhưng cho đến giờ, con vẫn không thể hiểu được, cho đến khi cha con bỏ đi, gia đình con vẫn êm ấm. Ba mẹ con chưa bao giờ nặng nhẹ với nhau một lời nào. Ba từng là người đàn ông trầm lặng. Ổng ít tỏ bày. Mọi tình cảm được biểu lộ qua việc làm, sự quan tâm dành cho con và mẹ con. Mẹ con không tha thứ cho ổng? Con không thể biết được. Nhưng chắc rằng, nhiều năm qua, bà sống rất buồn. Vậy thì con cũng không thể hiểu được điều gì đã xảy ra trong đời sống vợ chồng của ba mẹ con. Không phải vết thương nào cũng phơi bày ra để người ta có thể chữa lành. Có những thương tích trong đời sống vợ chồng nằm sâu âm ỉ ở bên trong, không dễ nhận thấy và làm lành được. Dì đã tin rằng, ổng đến đây trong tình trạng thực sự khổ đau, mất mát và tàn tạ. Ổng suy sụp và câm lặng, giằng xé và quyết liệt. Cho đến giờ phút này, dì vẫn tin ổng không lừa dối dì hay mẹ con. Ổng có chọn lựa của ổng. Và dì có nghĩ cuộc sống như thế này sẽ làm cho ba con cảm thấy hạnh phúc hơn? Dì cảm nhận được điều đó. Dì nhìn thấy giọt nước mắt và nụ cười của ông trong giây phút ông hấp hối. Và cả cái siết tay thật chặt. Giọng người đàn bà nghẹn lại. Thằng Keo ngừng ăn. Nó đưa mắt nhìn tôi, rồi nhìn mẹ nó. Bà nói với nó bằng một câu thổ ngữ mà tôi không thể hiểu. Thằng nhỏ lại ngoan ngoãn múc cháo cho vào miệng, len lén nhìn tôi. Nếu mẹ con thực sự muốn mang ổng về, thì dì không có ý kiến gì cả. Nhưng xin đừng dằn vặt ông ấy. Dì chỉ xin được trọn nghĩa tình với cha con bằng một lễ nghi gọi là nghĩa tận ở làng này. Ngày sống ổng đã nhiều lần đến những đám thiêu trong làng để ghi chép và tìm hiểu phong tục; ổng muốn khi chết sẽ được hành lễ theo một đám thiêu truyền thống ở ngôi làng này. Ổng nói với rằng, khi rượu thấm vào xương, lửa thiêu đốt nhục thể, con người tan vào trong nước, trong đất mà mình gắn bó, sống cùng con người, đời sống mà mình yêu thương, chọn lựa. Dì muốn tro bụi và những vụn xương còn lại của ổng tan ra trong đất đai của ngôi làng này, dù linh hồn có thể quy về nơi quê nhà trú ngụ. Người đàn bà tỏ ra cương nghị khi nói những điều mà những phụ nữ dễ mủi lòng như mẹ tôi có thể sẽ không cầm được tiếng khóc gào than thở. Tôi cúi mặt húp vội tô cháo thịt gà nấu loãng và mặn. Mắt tôi giàn giụa nước. Thằng Keo nhìn tôi lạ lẫm và rón rén. Rồi nó đưa chân khều khều lên đầu gối tôi. Tôi bắt gặp cái nhìn lo âu trong trẻo của nó. Tôi gặp trong nó nỗi buồn của mình những năm qua. Nỗi buồn như sợi dây mong manh nối kết giữa tôi và thằng bé xa lạ mà tôi sẽ phải nhận là em, đứa em trong trò lập trình cay đắng của số phận. Ổng có nói được với dì điều gì về chuyện trở về quê nhà trước khi mất không? Không. Ổng không nhắc gì đến... Không. Tất cả sức lực, ông dành để chống chọi với cơn đau đớn. *** Tôi bước lên một gò đất cao nhìn về chiếc cầu nhỏ vắt qua dòng kinh đi vào ngôi làng. Tôi cố gắng không để tâm trí mình bị chi phối bởi hình ảnh người đàn bà đội chiếc nón tơi cũ đứng ôm con năm tuổi bất động nhìn theo những bước đi của tôi xa dần về phía đường lớn, nhưng không thể. Đôi mắt hạt huyền đen thẳm vẫn trói chặt suy nghĩ của tôi. Cái nhìn thơ ngây và ái ngại của thằng Keo vẫn ăn sâu vào tâm trí tôi trong khi sức nóng từ chiếc kút đang vơi trên nhịp đập dần bình thản trên trái tim tôi. Cả mùi rượu cũng đã tan loãng, không còn cồn cào dậy men. Những gì vừa diễn ra như một giấc mộng. Tôi đứng như trời trồng. Những đợt gió chiều thổi vi vút. Không gian bao phủ bởi một màn khói đốt đồng ngái nồng. Mùi cỏ, mùi tro váng vất, thảng hoặc. Những chuyến xe khách về thị trấn quê nhà tôi vừa vụt ngang, ném lại những tiếng còi lạc lõng. Tôi nghe mắt mình cay xè. Tôi bị chôn chân trên nấm đất bên ngoài ngôi làng đã từng buộc chặt cuộc phiêu lưu của cha mình. Tôi ghì chặt chiếc kút vào ngực và quỳ xuống trên đám cỏ khô. Tôi nhận ra người đàn bà đội nón bế đứa con tất tơi tất tả đi về phía mình. ============================================== (1) Tên gọi khác: trâm bầu, chưng bầu, tim bầu, song re... mọc nhiều ở các tỉnh miền Trung Việt Nam. (2) Tiểu sành đựng tro sau đám thiêu.
Thơ... Thẫn... Thẫn... Thờ... Thơ với thẫn! Tình hư vô Sưu tầm Trang nhật ký viết tình ta ngày ấy Nét không nhoà tình vẫn còn đây Bao năm qua ngỡ dòng đời thay đổi Tình cũng tàn ai ngỡ chẳng đổi thay Ngày xưa đó có lẽ vì em không nghĩ Tình mai này chẳng cùng hướng bước đi Hay có lẽ em giả vờ khờ dại Ôm vào lòng mãi mãi mối tình si Tình đời giả hay lòng người giả dối Thương yêu nhau bằng câu nói đầu môi Ôi đáng sợ chân tình là ở đấy Em khóc cười ngậm đắng lệ tuôn rơi Rồi mai đây ai nhìn về quá khứ Có chạnh lòng mang nặng mối ưu tư Nhỏ một giọt lệ tình chào tiễn biệt Đưa tình về một chốn chẳng thật hư