[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trò đùa chân thật[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đặng Khiết Anh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đố anh cái gì có tăng mà không có giảm? Nếu anh trả lời đúng thì anh sẽ là bạn em, nếu sai… em sẽ là bạn anh. - Dễ ẹt! - Một câu trả lời chính xác chứ không phải dễ ẹt hay khó quá - Em tên gì? - Anh khỏe không? - Cà phê không? - Sắp 8 - 3 rồi, anh tặng bà xã cái gì, em tư vấn cho. - Tặng em. - Anh ít lời quá. Cứ nghĩ anh là ông già là em thấy sợ. - Triết lý như em mới là già. - Anh nhớ lưu số điện thoại của em vào. - Em tên gì? - Em ngủ chưa? - Vì sao tình yêu dễ tan vỡ hơn tình bạn? - Vì tình yêu thiếu sự cao thượng. - Đơn giản vì hai cái cốc đặt chồng lên nhau bao giờ cũng dễ vỡ hơn hai cái cốc đặt cạnh nhau. - Cao thủ. Có nhận học trò không? - Anh nhiều kinh nghiệm hơn em, không cần phải tầm sư học… yêu. - Anh đang đi tìm cho mình một cái cốc. - Đặt bên cạnh hay chồng lên? - ??? - Khoảng cách tuổi tác có quan trọng trong tình yêu không? - Với cao thủ thì không. Hôm nay lại có giờ lập trình hướng đối tượng, môn học mà bọn sinh viên cho là khó nuốt nhất. Nhung cũng không ngoại lệ. Bao nhiêu là định nghĩa, khái niệm cứ làm đầu óc cô rối tung lên. Nào là thừa kế theo public, theo private, rồi còn theo protected. Cái nóng buổi trưa oi bức làm cô không sao tập trung được. Nhưng cô vẫn chăm chú nhìn ông thầy, không phải để nghe giảng mà để… đoán xem ông bao nhiêu tuổi. - Ba mươi lăm. Không, đâu trẻ thế! Bốn mươi. À, mà không chừng bốn lăm cũng nên. Già quá! - Ôi, tay thầy không đeo nhẫn, thầy chưa vợ! Bỗng ánh mắt ông thầy lướt qua cô. Hết hồn. Ủa, mà sao cô lại sợ? - Anh đi công tác bao giờ về? - Chủ nhật. Có quà miền Tây cho em. - Làm sao anh đưa? - Em gặp anh. - Em sẽ gặp. Nhưng chỉ khi nào em chững chạc. - Vậy em cần bao lâu để chững chạc? - Cũng còn tùy. Đôi khi cuộc sống làm con người ta chững chạc sớm hơn họ nghĩ. Nhung dạo này thay đổi nhiều quá. Bạn bè ai cũng bảo cô như thế. Cô cũng cảm thấy như thế. Cô cứ ngỡ mình hồn nhiên, mạnh mẽ, không thích sự ủy mị, lãng mạn trong tình yêu. Nhưng cô đã lầm. Cô lầm thật. Sống hai mươi mấy năm, lần đầu bước vào tình yêu cô mới thấy mình đa sầu quá, đa cảm quá. Sến! Sến thiệt là sến! Cậu con trai đầu tiên làm tim cô rung động, rồi lại chính cậu làm nó vỡ tan tành. Khi yêu, cô như lửng lơ trên chín tầng mây, rồi bỗng rớt xuống cái rầm. Đau đớn. Tê tái. Cô tưởng như mình không thể vượt qua cú sốc này. Giờ cô mới biết thiên đường không phải là nơi dành cho tất cả mọi người. - Em ngủ chưa? - Làm thế nào để luôn yêu đời? - Thêm một chút vô tư và khờ dại. Tuần sau cà phê không? - Anh sẽ bị sốc nếu gặp em. - Lý do? - Vì em rất đẹp! - Cầu trời cho em được như vậy. - Anh nên cầu trời cho mình có cơ hội được chiêm ngưỡng vẻ đẹp này một lần. - Nhất định anh sẽ có. Mấy tháng đã trôi qua, cú sốc tình đầu cũng đã vơi đi nhưng nó vẫn còn lãng đãng theo Nhung hoài. Nhớ làm gì con người đó. Con người đã lấy tiền ra để thử lòng cô. Cô đâu cần tiền, cô cần tình cảm. Người ta cần những gì người ta không có hay những gì người ta lỡ đánh mất. Ừ mà thôi, thông cảm cho hắn. Hắn đã bị một con bé lừa cả tình lẫn tiền nên cái nhìn của hắn trở nên thiển cận. Một con chim sợ bị thương lần nữa. Và cô cũng như hắn, sợ mình lại đau. - Yêu đi mày! - Làm chi? - Có kinh nghiệm. - Mỗi tình yêu có cung bậc riêng của nó. Không thể lấy kinh nghiệm tình yêu này làm bài học cho tình yêu khác. - Lại sến! Mùa thi đến gần, cả bọn sinh viên cuống cuồng. Một số lo “học ngày không đủ tranh thủ học đêm”, số khác lại lo làm “phao” để “quay phim”. Cũng phải thôi, trước giờ chỉ biết cà phê, bida, karaoke, học làm gì cho mệt. Còn cô, cô mãi lo yêu, lo đau khổ để giờ phải vắt giò lên cổ. Chết tiệt! Cái môn khó nuốt lại thi vấn đáp, thi vấn đáp thì lấy gì mà quay. Thi tự luận không biết thì còn có thể phịa, ông thầy bà cô nào thương tình phết cho vài điểm vì có công chép. Đằng này, thi vấn đáp chưa kịp phịa đã phải im mồm. Trước giờ thi, ngoài phòng cả bọn sinh viên nhao nhao ồn ào thấy sợ. Trong phòng, năm ông thầy như năm ông chánh án gọi từng tên lên xử. Nhung hồi hộp tột cùng, tim cô đánh trống trong lồng ngực. Cô cảm thấy lo sợ. Không phải sợ thi rớt mà sợ phải đối diện với ông thầy mà cô đoán mãi không ra tuổi. Nếu phải đối diện với ông, cho dù kiến thức của cô có “thâm hậu” đến đâu đi nữa thì cô cũng rớt - cô nghĩ thế. Không hiểu sao cô lại mất bình tĩnh khi đối diện với ông. À, mà cô biết, biết rõ lắm. Cô cảm thấy có lỗi với ông, cô sợ ông phát hiện ra cô... Nhưng, hú hồn! Ông trời vẫn thương cô, cô không phải đối diện với ông mà với ông thầy mặt còn non choẹt. - Em tự cho mình bao nhiêu điểm? - Nếu thầy thấy em chưa đủ điểm để đậu, thầy hãy hỏi thêm câu khác đi thầy. Em sẽ không thi lại. - Vì sao? - Vì em chỉ có học lại, thi lại vẫn rớt. Trả lời xong cô cười, ông thầy cũng cười. Bảy điểm, một kết quả không quá tệ. Tệ sao được với sức học làng nhàng của cô. Mùa Euro đến gần. Cũng may kỳ thi cũng đã kết thúc. Cô có thể để cho trái tim mình chạy theo nhịp bóng lăn, có thể theo dõi những đôi chân tài hoa của các chàng trai, đặc biệt là những chàng trai Séc. Cô yêu đất nước Séc, con người Séc, nơi cha cô từng sinh sống. ° ° ° - Có xem đá banh không? - Cá độ không? - Trận Anh - Pháp. - Em bắt Anh. Em xem có một mình. Buồn quá! - Mời em cùng xem trận chung kết với anh. - Nếu có đội em thích. - Cầu trời đội Anh của em vô địch. - Không, em thích Séc. Còn anh? - Anh thích Séc. - Anh dã man thật! Bao nhiêu đêm dán mắt vào màn hình, Nhung cứ lờ đờ, thấy người mình mê muội. Nhưng không sao, cô hỉ hả lắm. Séc của cô là đội duy nhất toàn thắng ở vòng đấu bảng. Tuy mở màn chật vật trước Latvia nhưng họ đã chơi tưng bừng trước Hà Lan và thảnh thơi trước Đức. Con đường vào chung kết của Séc rộng mở, bởi họ sẽ gặp Hi Lạp ở trận bán kết - một anh chàng tuy đã gây bất ngờ trước các ông lớn Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp nhưng không thể gây bất ngờ trước Séc của cô được. Nhưng cuộc sống không phải là một “đối tượng” được “lập trình” sẵn, đặc biệt là trong bóng đá, mọi chuyện không thể nói trước. Séc của cô đã bị quật ngã, cô vẫn thẫn thờ không tin những gì đang diễn ra trước mắt. - Em thích tên của anh. Nghe hay hay. - Em tên gì? - Không biết em là ai anh có bực không? - Em không cho anh cơ hội. - Nhưng em cũng đâu biết nhiều về anh ngoài một cái tên. - Anh có một ước mơ là gặp em. - Em muốn hỏi anh vài điều. - Em cứ hỏi. Anh tự tin trả lời. - Anh cầm tinh con gì? - Ngựa. - Anh lưu vào điện thoại: tên Nhung. Ba mươi tám, ba mươi tám. Có già quá so với cô không nhỉ? Nhưng cao thủ thì không màng đến khoảng cách tuổi tác cơ mà. Thiếu gì những cô gái vẫn lấy những “anh” đáng tuổi cha chú họ làm chồng. Nhưng sao cô lại so sánh tuổi ông thầy với cô? - Em ngủ chưa? - Dạ chưa. - Dạ chưa? Anh đoán em còn là sinh viên. Đúng không, Nhung? - Vậy thì có vấn đề gì không? Không có tín hiệu trả lời. Thôi chết rồi, có lẽ “anh” chê cô trẻ con, hay vì lý do nào khác? Cô cứ suy nghĩ mãi, cô day dứt vừa lo vừa sợ. Cô đã nói dối, cô đã cho rằng mình là một phụ nữ trưởng thành thật sự, cô đã tạo cho mình vỏ bọc của một người lớn tuổi hơn cô nhiều. Cô đâu muốn thế. Thực chất cô già lắm, cô không hề non nớt, cô sợ người ta đánh giá cô chỉ qua cái tuổi, qua bề ngoài mà chưa nhìn được thấu suốt tâm hồn cô. Cô trằn trọc suốt đêm. Cuối cùng cô quyết định gửi một tin nhắn mà cô nghĩ trước sau gì cũng sẽ phải gửi cho dù kết cục câu chuyện có thế nào đi nữa: “Em xin lỗi… thầy. Thật sự em không muốn nói dối thầy. Em đã nhiều lần muốn nói ra sự thật nhưng em không đủ can đảm. Thật lòng em thích nói chuyện với thầy. Nói chuyện với thầy, em được sống thật với tâm hồn già dặn của mình, được là chính mình, đó là điều hạnh phúc”. Sau khi tin nhắn được gửi đi, cô vẫn không thể cảm thấy thanh thản, nhẹ nhõm chút nào. Cô cứ bần thần, lo sợ một điều không rõ. Cô sợ thầy sẽ biết cô là ai, cô sẽ phải đối mặt với thầy ra sao? Nhưng trên hết, cô cảm thấy mình có lỗi. Cô đã vô tình đưa thầy vào trò đùa. Nhưng không phải, cô không đùa. Cô nhận ra tình cảm cô dành cho thầy có gì khang khác, không đơn thuần là tình thầy trò. Tình yêu ư? Không, không phải. Đó chỉ là sự rung động nhất thời của cô thôi. Cô đã vấp ngã trong tình yêu rồi, phải nhìn nhận vấn đề sâu sắc hơn chứ. Cô không thể lại rớt từ chín tầng mây xuống, cô không thể tự làm cô đau một lần nữa. Thế nhưng, cô cũng không phủ nhận những xúc cảm non nớt trong tâm hồn già dặn về cuộc sống của cô dành cho thầy. Không đúng, không phải dành cho thầy mà dành cho người đàn ông vẫn chuyện trò với cô qua những tin nhắn, người đàn ông cô tưởng tượng vẫn đang hiện diện bên mình. Khi đối diện với thầy bằng xương bằng thịt ngoài đời, cô không thấy dấy lên một cảm xúc nào là bằng chứng của tình yêu. Thay vào đó chỉ là sự ngưỡng mộ và kính trọng. Một tối mưa tầm tã, ngồi buồn trong căn phòng vắng, chiếc điện thoại rung lên tiếng chuông quen thuộc. Nhìn nó, cô thấy hồi hộp lạ thường. Cầm điện thoại mà tim cô đập thình thịch. Một tin nhắn: “Đừng nặng nề. Dù sao thầy cũng vui khi trò chuyện với em. Em hãy quên trò đùa này đi. Chúc em học giỏi”. Cô mỉm cười, thấy lòng mình nhẹ nhõm. Thầy đã tha thứ cho cô. Đúng, cô phải quên trò đùa này thôi. Trò đùa đối với thầy nhưng lại là chân thật, chân thật với một người.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trọ ở chốn văn chương[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Thị Như Khanh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hết một năm, tôi quyết định lấy tiền dành dụm mua chiếc xích lô mà trước đây tôi phải thuê của dì Sáu. Nhưng không phải thuê xe thì thuê chỗ ở, bởi cuối cùng tôi cũng không đủ gan lì để đêm đêm vác chiếc xích lô về ký túc xá. Nhờ cô Mai ở toà soạn mà tôi nhận giao báo chỉ cho, tôi thuê được một phòng nhỏ trong chung cư của một nữ nhà thơ. Một căn phòng dường như đã bị bỏ quên lâu lắm. Tuy nhiên bàn ghế vẫn y nguyên, một cái giường tầng vẫn y nguyên và cả bốn giò phong lan đã héo khô nhưng nhìn kỹ vẫn thấy một chút lõi xanh xanh còn thoi thóp. Căn phòng nhỏ xíu với khung cửa sổ chiếm gần hết bức tường. Buổi chiều hôm mới dọn tới, tôi làm móc treo bốn giò phong lan lên cánh cái quạt trần cổ lổ sĩ đã hư, cứ nghĩ biết đâu có ngày nữ nhà thơ lại nhớ tới nó, rồi trèo lên bệ cửa sổ, thõng hai chân ra ngoài, nhìn xuống khoảng sân ximăng đã sụp lở, lồi lõm, mọc đầy rêu của cái chung cư bốn tầng hình chữ U này. Hoá ra căn phòng ở lầu bốn của tôi là một đầu nhánh của chữ U. Cứ ngồi nấn ná tới trời tối mịt thì tôi biết thêm rằng, chung cư này đã bỏ trống hơn một nửa, lác đác những căn phòng ở lầu dưới sáng đèn, còn ở lầu bốn chỉ duy nhất có căn phòng ở đầu nhánh kia của chữ U, tức là có cửa sổ đối diện với cửa sổ phòng tôi. Và, mặc dù cách một khoảng, bên dưới là mảnh sân sâu hút, tôi vẫn thấy rõ ràng hai dãy kệ sách lớn với bộ bàn ghế bằng gỗ, qua khung cửa sổ đó. Sau nữa tôi biết được, người ở bên đó là một nhà văn mà mới nghe tên tôi đã thầm vị nể. Nhà văn ấy, lần đầu tôi được bắt chuyện là lúc ông đang viết. Hôm đó, lúc đứng ở ngoài cửa kêu "chú ơi", tôi thật sự rất hồi hộp. Một lúc sau mới có tiếng mở cửa, ông nhà văn ở trần, mặc quần cụt xuất hiện sau hai cánh cửa mở toang, tóc ông đã có nhiều sợi bạc và ông không đẹp, nhìn biết ngay là người không lao động chân tay. Tôi móc thẻ sinh viên ra rồi nói: "Con là sinh viên sư phạm văn, con ở cái phòng ngang mặt chú nè, chú cho con mượn sách đọc, chừng rồi con đem qua trả". Ông nhà văn nhìn cái thẻ, nhưng vẻ như không phải muốn coi mà chỉ thắc mắc đó là thẻ gì, rồi ông nói: Ờ, cháu vô nhà đi". Ông còn dang tay đẩy thêm cánh cửa, nhưng nó đã rộng hết cỡ rồi. Vô phòng, ông lại chỗ bệ cửa sổ đứng, tôi ngồi xuống cái ghế gỗ tròn, ngó quanh quất. Tới khi, thấy ông nhìn ra ngoài cửa sổ, tôi đứng dậy chỉ cho ông thấy tôi ở bên kia, nhưng ông chỉ khẽ gật đầu, còn mắt ông cố với nhìn ánh đèn hắt ra từ căn phòng ngay dưới phòng ông, tức là ở lầu ba. Cuối cùng ông nhà văn cho tôi mượn hai cuốn văn học Liên Xô, còn mấy tập thơ tôi hỏi thì ông nói vì nó mỏng lắm, ông không lục liền được, nhưng ông sẽ kêu "con Thương" - con gái ông - lục cho, khi nào có ông sẽ "hú" tôi. Tôi dặn ông đừng "hú" tôi ban ngày vì tôi đi học, còn đi làm nên thường khuya mới về. Ông nhà văn vừa đuổi theo đập kỳ được con gián chui ra từ lỗ trống mà ông mới rút mấy cuốn sách, vừa nói: "Ờ, chú cũng có thằng con trai, nó cũng vừa học vừa làm vất vả lắm". Đêm đó về, tôi cứ trằn trọc. Tôi có mấy bài thơ và hai cái truyện ngắn chỉ mình tôi biết, chắc bữa nào tôi sẽ đưa ông góp ý giùm, ờ mà khi học, có gì không hiểu, tôi sẽ nhờ ông lý giải, tôi mừng lắm. Tới lúc thiu thiu, tôi vẫn còn bồng bềnh trong cái ánh sáng vàng ấm của chụp đèn bàn rọi lên phím máy chữ trong phòng ông nhà văn mà quên khuấy mấy câu ông trả lời tôi, thực ra ông có trả lời tôi đâu, ông toàn nhắc con ông thôi. Sau này tôi nhớ lại, trước đó tôi đã gặp ông hai lần. Một lần ở con hẻm dẫn vô chung cư. Đêm đó tôi đạp xe về khuya, trời lại vừa đổ cơn mưa, hẻm lầy lội và hiu hắt, thì có hai chiếc Honda nghiêng ngửa chạy ào vô, bốn người trên xe hát vang dậy. Đến sân, họ thả xuống một người rồi quay ra. Người đó là ông nhà văn. Ông còn đứng đó la: "Ừ, tụi mày về đi", rồi mới xiêu vẹo đi vô. Tới ngang nhà xe, ông cười toe, nói lớn với bác giữ xe già nua: "Chào bác Ngộ nghen!". Còn lần thứ hai, là ở ngay cầu thang chung cư, tôi thấy rõ ràng ông xỉn bét nhè đang rượt đuổi một bà, nhưng ông chạy không nổi, nên ngật ngừ một lúc rồi thôi. Lúc đó tôi chưa biết ông là ông nhà văn ở đối diện phòng tôi và tôi cũng vô cùng khó chịu, nhưng tôi không dám có thái độ gì, vì e dè nghĩ, nhiều khi là giỡn. Rồi từ đó về sau, tôi rất hay gặp ông, vì tôi đã quen với ông và hễ ở đâu có dáng ông là tôi rất chú ý. Lúc thì tôi với ông nói chuyện rất thân ái mỗi khi tôi đọc được tên ông trên báo hay sách ông vừa in, mặc dù ông hay lơ đễnh còn tôi lễ phép thái quá. Lúc thì tôi thấy bạn bè đưa ông về, và cũng nhiều lần tôi chứng kiến lại vụ rượt đuổi khi say khướt của ông, khi là bà này, khi lại là cô kia. Đúng là tôi cũng khó chịu, nhưng lại muốn đưa ra những lý do bênh vực cho ông, bởi vì tôi cảm mến chữ nghĩa của ông lắm. Và có điều khiến tôi cũng yên tâm cho ông, không như thói thường ở chung cư, ở đây rất lạ, mọi người cứ sống rất tự do, mà chẳng thấy cảnh tụm năm tụm ba xì xào to nhỏ. Sau này tôi mới biết, đây là một chung cư trước cấp cho ngành văn hoá, rồi những ai thức thời khá giả đều đã ra mua nhà riêng, còn lại hình như đều là những người lận đận. Ông nhà văn và gia đình ông thuộc nhóm tới đây sớm nhất và còn ở tới bây giờ. Khi tôi tới lui mượn sách tới lần thứ ba, thì tôi gặp Thương, con gái ông. Bữa đó đã khuya, tôi vừa gõ, cửa đã mở, không phải ông mà là một cô gái, cũng còn trẻ như tôi, cao, tóc dài rẽ ngôi với một khuôn mặt ngây thơ và xanh xao. Tôi thấy cô hơi yếu đuối nhưng rất đáng yêu. Cô không nói gì, nhưng vẻ mở cửa có ý là "vô nhà đi". Ông nhà văn nằm dài trên sàn gạch bông ngáy khò khò, trên giường cái mùng đã sập xuống nhưng chưa vén góc. Trong khi tôi nói trả sách và hỏi mượn mấy cuốn mới thì Thương leo lên giường tấn mùng rất tự nhiên. Xong xuôi rồi, cô bước xuống kêu: "Ba ơi" rất lớn, ông nhà văn đứng dậy trèo vô mùng như người máy. Thương kéo hai chân ông lại cho ngay ngắn, cho ông ôm gối, tấn mùng xong mới lại cầm mấy cuốn sách tôi trả, nói: "Học sư phạm mà anh cũng chịu đọc quá". Rồi cô để sách vô kệ. Tôi để ý thấy cô để đúng ngay chỗ mà hôm trước ba cô đã lấy ra. Từ đó đến lúc lấy sách mới cho tôi, Thương không nói thêm gì nữa. Rồi cô lấy cái thùng nhựa đỏ, tôi đoán là chứa nước đá, để ngay dưới gầm giường của ông nhà văn, cẩn thận đóng bớt cánh cửa sổ. Tôi nhìn Thương, còn cô thoáng nhìn ra trời đêm đầy sao. Khi quay lại nhìn thẳng vào mắt tôi đang chăm chú đứng ngó, tôi thấy cô lộ vẻ khó chịu, nên vội từ giã ngay. Từ đó, tôi không đến phòng ông nhà văn vào buổi tối nữa mà qua vào buổi sớm mai. Đối diện với phòng ông nên tôi biết, dù đêm qua có say đến mức nào, cứ bốn, năm giờ sáng là phòng ông đã sáng đèn và khẽ vang tiếng máy chữ. Tôi tránh đối mặt với Thương, mặc dù từ đó cô vô tình đã thành mục tiêu chú ý mà tôi không cách gì cưỡng lại được. Tôi biết được Thương với mẹ và em trai ở trong căn phòng ngay dưới phòng của ông nhà văn. Ở đó, mẹ Thương hàng ngày ngồi làm những con búpbê bằng len để bỏ mối cho một cửa hàng bán quà lưu niệm. Một diễn viên múa sớm bỏ nghề và bỏ cả nhan sắc vì căn bệnh rụng tóc, mà theo lời Thông - em trai của Thương - nói với tôi khi chúng tôi đã tạm thân nhau là: "Mấy nghề bạc bẽo đó, vướng vô rồi thì có tài hay không, đến kết cục cũng một cuộc đời tàn tạ mà thôi". Tôi cũng có hỏi lại: "Tàn tạ là sao mậy?", nó trả lời: "Thì có giống ai đâu". Thật sự tới lúc này, trong tôi vẫn còn cái cảm giác bồng bềnh mỗi khi nhớ tới ánh sáng vàng của chụp đèn bàn rọi trên phím máy chữ, cả cái mùi say say của khoanh nhang muỗi đặt bên cạnh. Và tôi im lặng. Thông tiếp: "Chắc ba em cũng biết vậy, nên lúc thường bắt con cái học kinh tế, vậy mà nhỡ xỉn lên là ổng nói khác". Cho nên, Thông học kinh tế, Thương cũng học kinh tế, nhưng Thương thi đại học hai năm mới đậu, vào đại học lại lưu ban một năm, kết cuộc là hai chị em học chung một khoá. Thông còn kể: "Vô giảng đường hơn bốn năm bả không có một người bạn, không bắt chuyện, người ta hỏi thì cười, ai mà chơi với mình, học mà không vô trường làm sao giỏi nổi". Còn Thông, ba năm đại học, đã làm được ra tiền giúp đỡ rất nhiều cho mẹ. Tôi cảm thấy khâm phục Thông, tôi đạp xíchlô chỉ đủ nuôi tôi ăn học, còn Thông kiếm tiền một cách khôn ngoan bằng việc kinh doanh. Thông cùng bạn đấu thầu dịch vụ photocopy ở thư viện trường. Thông bất mãn với cha, giúp mẹ nhẹ việc tiền nong, cũng cố ý quyết làm cho Thương "sáng mắt". Hơn nữa, Thông chán ngấy chung cư cũ rích này, nơi mà mỗi ngày lên đến lầu một phải chịu đựng tiếng đàn cò ò e của ông thầy đờn mù đã hết thời, lên đến lầu hai phải chạm mặt những cuộc nhậu dai dẳng ở phòng cạnh cầu thang của một tay hoạ sĩ trẻ. Thông khổ sở với những cuộc rượt đuổi của cha trong cơn say xỉn, thành ra chán luôn chỗ trú ngụ của mình, cái nơi mỗi ngày mẹ Thông ngồi đan búpbê len mà mặc áo váy đẹp như đi múa. Thông ghét cái máy hát cứ rền rĩ những khúc ca Nga rồi tới nhạc giao hưởng, cái nơi mà Thương có nhà thì chỉ biết chúi mũi đọc sách. Thông chẳng thấy có gì hay, thậm chí khó hiểu sao người ta lại thích những điều vu vơ ấy cả một đời người được? Nhất là đối với Thương, Thông cho rằng cô sống không ra gì. Hằng ngày, sớm mai và tối khuya Thương đều lên "thăm" cha, còn trong ngày thì đi biệt. Chính Thương đã dẹp không cho cha đi xe nữa, nên tôi mới thường gặp cảnh bạn bè ông nhà văn đưa ông về. Thương ít nói thành lời, đôi khi lời nói có vẻ kiêu, nhưng hình như ý của Thương không phải vậy. Có lẽ Thương ít nói là vì không biết làm cho người đối diện thông hiểu, chứ không phải là cô không biết nói gì. Thương rất hay nói chuyện với cha, nhiều đêm tôi đứng ở phòng mình nhìn sang thấy hai cha con ngồi nói chuyện tới khuya, thỉnh thoảng còn vung vẩy đôi tay. Đó là khi ông nhà văn không say. Thường thì mỗi khi tôi ghé nhà chơi (đây là căn phòng ở lầu ba), lúc nào cũng gặp mẹ Thương. Khi thì bà ngồi đan, mình mặc áo váy rất duyên dáng, nhưng tôi ngại nhìn lên mặt bà, với mái tóc giả mềm, ép sát vào đầu, đôi mắt cực kỳ dò xét và nét mặt thay đổi rất lẹ. Lúc nào cạnh bà cũng có cái máy hát cũ kỹ du dương những bài ca lạ lẫm với tôi. Một vài lần, bà ngủ, mắt khép nhưng vẫn ngồi trên ghế dựa, tôi vẫn cứ sợ bà chỉ giả vờ ngủ thôi. Còn Thương, lâu lắm tôi mới gặp cô ở nhà một lần, mà những lúc hiếm hoi đó, Thương lại dọn dẹp, nói đúng hơn là đánh bóng nhà cửa sạch đến nỗi tôi thật sự e dè khi bước chân vô. Thông nói Thương ít khi tới trường. Tôi nghĩ, không biết cô gái mỏng mảnh với khuôn mặt ngây thơ kia sẽ đi đâu cả ngày này tháng nọ? Thỉnh thoảng tôi lại thấy cô đi ngoài đường cùng một người, hoặc một người đưa về tới cổng, toàn bạn trai, quanh đi quẩn lại cũng chỉ vài khuôn mặt, áo quần trông có vẻ xốc xếch nhưng không phải rách rưới, một đôi người râu tóc xồm xoàm. Nhưng không hiểu sao tôi cứ nghĩ, cô gái ấy làm sao có thể là bạn gái để nắm tay hay chở đi chơi, rồi dẫn về ra mắt gia đình của riêng một ai được? Đôi lúc gặp Thương ở nhà, thường thì tôi phải ngại ngần làm kẻ dàn xếp giữa sự dằn dỗi vì bẽ mặt của mẹ Thương và sự im lặng vô lối của cô, và còn phải trân mình chịu luôn những câu bóng gió giả tạo của bà. Còn nếu như có thêm Thông thì sẽ thành cái tựa như một trận chiến. Khi đó, Thương quên hết mọi thứ và chĩa mũi dùi về mọi phía. Và tôi thấy rõ ràng sự khinh miệt trong từng câu nói của cô, lần nào tôi cũng vừa buồn vừa sửng sốt. Bà mẹ đa phần đứng về phía con trai trong những chuyện về đời sống. Nhưng có một vài lần hiếm hoi, bà lại bất ngờ quay hẳn về phía con gái, đó là ở những chuyện gọi nôm na là tinh thần. Tôi cảm thấy bà thật sự hiểu và đôi lúc thấy thương cho sự lạc lõng của Thương, nhưng nhiều lần bà lại có vẻ thầm ganh cả với con gái của mình. Còn đối với Thông, bà thông đồng và hay ra vẻ sợ nó, nhưng thực ra bà đâu có sợ. Những lúc khác, trong căn nhà đó hoàn toàn im lặng, ai cũng có suy ngẫm của riêng mình, nhưng ác thay, chúng lại lệch nhau một cách mỉa mai. Có một điều đặc biệt, hầu như trong căn phòng tầng ba không bao giờ nghe nhắc đến ông nhà văn của tôi, người cũng là một thành viên trên danh nghĩa. Hình như đã thành một quy ước bất thành văn, ông đã là của riêng Thương, cả quyền và trách nhiệm. Chỉ có một lần tôi chứng kiến họ nhắc tới ông. Hôm đó, tôi xuống giúp Thông đóng lại những tấm nilông che nước thấm xuống từ trên nóc. Ở nhà có đủ ba người. Tôi leo lên đóng, còn Thông đứng trên thang và đưa đinh. Vô tình, Thông buông một câu trống không: "Tiền trong ngân hàng cũng gần đủ rồi, bữa nào rút ra cất nhà nghen?". Xung quanh im lặng, Thông tiếp tục: "Nhà nhỏ thôi, rồi dọn khỏi chỗ quỷ này cho rồi!". Bất ngờ, nó quay hẳn người lại trên cái thang: "Mẹ nín thinh vậy, mẹ cũng chịu mà?". Bà mẹ giật mình như người bị lật tẩy, liếc nhìn Thương, rồi ậm ừ: "Sao cũng được!". Thông tiếp: "Vậy sẵn đây nói luôn, chị Thương, bữa nào chị nói với ba, nhà mình tính cất nhà trên miếng đất ở chân cầu Sài Gòn đó, để ổng tính!". Tôi cảm thấy mẹ Thương đang soi mói nhìn tôi rồi trừng mắt với Thông, nhưng tôi vẫn làm ra vẻ bình thường, ngoắc Thông đưa tiếp đinh. Thương vẫn lơ đãng như mọi khi với vẻ "thật ra là vậy, nên anh có biết hay không cũng có sao đâu". Nhưng tôi cố chờ, vẫn không nghe Thương nói gì. Lúc ấy bà mẹ tự nhiên nói lớn: "Đất đó là của mình mà, phải không?". Thương nói "không" một tiếng lạnh, lại thấy cô cười vu vơ. Im lặng thật lâu, tôi đã đóng hết đinh mà vẫn trù trừ chưa xuống. Lại nghe Thương tiếp: "Đất đó cô Sáu mua để chôn cất ông bà, rồi làm đất chung luôn!". Bà mẹ cố dịu giọng: "Nhưng mà lúc đó ba mày cho mượn tiền!". Thông chêm vào: "Từ đó tới giờ có trả đồng nào đâu". Giọng Thương tự nhiên lớn hẳn: "Tôi không biết mấy chuyện đó, vậy ba không phải con ông bà nội à?", rồi cô giật tới giật lui mấy trang sách. Thông cũng lên giọng: "Chị không biết thì thôi, tôi chỉ nhờ chị nói với ba chớ không cần chị đóng góp gì thêm đâu. Cất nhà mới chị cũng ở, có chút chuyện chị không giúp được sao?". Thương gấp sách: "Ai cần thì nói, tôi không biết nói mấy chuyện này!". Mẹ Thương giọng uất ức: "Hồi đó, lúc mang bầu mày, ổng còn kêu tao phá bỏ...". Tôi nghe buồn. Thương giọng vẫn tĩnh, lạnh lùng: "Ba chưa bao giờ nói xấu mẹ một lời!". Nói xong cô thong thả bước tới cái móc treo, với lấy chiếc áo ấm có những chấm hoa nhỏ li ti, và đi ra cửa. Tôi cũng ngại ngần nói với Thông, tôi về bắt nồi cơm rồi qua. Tôi có chào mẹ Thương, bà có gật đầu nhưng dường như không hay. Thật ra tôi đi theo Thương, tôi đi trộm, núp ló theo sau. Tôi theo cô ra khỏi chung cư, đi vòng vèo qua những dãy nhà cũ chập choạng trong ánh chiều, qua những gờ tường lâu lâu lại bất ngờ có một chậu bông rực rỡ, rồi tự dưng cô đứng lại, ngó quanh quất rồi lại đi. Và, cuối cùng, cô chui vào một buồng điện thoại công cộng. Tôi đứng một lúc lâu, núp sau thân cây to vệ đường mà nhìn Thương. Giữa đám lá vàng lác đác rơi vòng, cô đứng trong khung kính trong veo, mặc cái áo lấm chấm hoa, tóc rẽ ngôi, điện thoại cầm tay và khóc. Còn tôi, một đứa trẻ mồ côi lăn lộn mà sống cô đơn giữa đời đã hai mươi mấy năm nay, lần đầu tiên trong đời mơ hồ biết được cảm giác cô độc là thế nào. Sau lần đó, không hiểu sao tôi e ngại không dám đến căn nhà tầng ba và cả căn tầng bốn bên trên. Nhưng tất cả những người trong nhà tình cờ gặp tôi đâu đó, thái độ họ vẫn bình thường như không có chuyện gì. Tôi nhân tiện có dịp gặp ông nhà văn ở cầu thang mà gởi trả ông mấy cuốn sách. Thông thỉnh thoảng vẫn gặp tôi và vẫn kể này kể kia cho tôi nghe. Riêng Thương, chẳng hiểu sao tôi vẫn cứ dõi theo mỗi lần cô đi về chung cư, mỗi lần cô ngồi trước cửa sổ căn phòng tầng bốn đối diện phòng tôi. Riết rồi tôi biết gần như chính xác lịch trình đi về của Thương. Và tôi vẫn có những lần đi trộm theo cô mà không biết để làm gì. Tôi càng lúc càng hoang mang, vì nghĩ có ngày cái bước chân trộm theo của mình sẽ bại lộ. Rồi tôi tự hỏi, hay nữ nhà thơ cho tôi thuê nhà cũng bỏ quên tôi như bốn giò phong lan của bà? Tôi mong bà lắm, để tôi trả cho rồi tiền thuê nhà chất chồng đã nhiều tháng. Và tôi sẽ dọn khỏi chỗ trọ buồn bã ở chốn văn chương này. Nhưng những người tôi thoáng gặp ở đây, biết đến khi nào tôi mới quên cho được?[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trò trẻ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dương Văn Toàn [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]..."Chắc có lẽ Hà đã biết một chút ít về tôi. Nhưng bạn đã hỏi, thì tôi cũng tâm sự thật với Hà. Tôi mười chín tuổi - cái tuổi ngỡ ngàng đã đi qua nhưng già dặn thì chưa tới. Sinh viên năm hai, có một nỗi buồn riêng vì chưa có được một tấm tình yêu. Tôi là người dễ xúc động, thành ra dễ bị khổ sở và đôi khi đau lòng vì những chuyện tưởng như chẳng liên quan. Còn chuyện văn chương, Hà đọc thì đã biết rồi đấy. Tôi muốn để Hà tự đánh giá nó, như vậy sẽ công bằng hơn. Tôi cố gắng thu xếp việc học, việc đi làm vào một thời gian nào đó, tôi ngồi viết. Tôi thường viết vào những đêm khuya, khi bạn bè cùng phòng đã ngủ yên. Cái sự viết lách cũng chỉ là để tự giải bày những suy nghĩ của mình mà thôi. Còn nói về sự nghiệp văn chương nghe to tát quá. Nếu có lúc nào nghĩ đến, tôi vẫn nhủ lòng rằng mình vẫn chưa bắt đầu. Tôi có một vài truyện ngắn đăng báo. Bạn bè gọi đó là "đoản khúc", bởi vì ý tưởng thì lớn mà chưa nói ra được hết. Thành ra vẫn cứ vất vả những con chữ để nặn nọt ra một tác phẩm. Rồi gửi, may mắn thì được đăng, bằng không, coi như là kỷ niệm. Tôi chép tất cả những trang viết vào một cuốn sổ. Những khi buồn, vấp váp thì mang ra đọc, cũng thấy lòng bớt bải hoải, để rồi lại hy vọng, lại sống cùng với nhịp chạy đua hôm nay và để rồi lại ngồi viết. Tất cả tôi thế đấy, Hà biết không ?? Tôi sợ khi gặp, Hà sẽ buồn lây cảm giác cô đơn của tôi. Sở dĩ tôi nói với Hà điều này là bởi tôi tự cảm thấy mình là kẻ hay buồn buồn ngay cả lúc giữa bạn bè tấp nập. Ngày tôi lên mười sáu, mẹ tôi bảo "Con cần phải linh hoạt lên, cứ buồn buồn như thế rồi khổ đấy". Tôi nhìn mẹ, lúc đó nghĩ rằng, người lớn cứ chỉ doạ mà thôi, và bảo "Trực giác nhiều khi là sai lầm đấy, mẹ ạ". Rồi dần dần, tôi nhận ra rằng, mẹ đã đúng. Tôi cũng không có ý định giữ nỗi buồn riêng đâu, nhưng mà tôi sợ Hà không hiểu được mà thôi. Bởi lẽ, trong sâu kín tâm hồn mỗi con người, đều cất giấu một điều bí mật, như là để làm của riêng vậy. Con người lại vốn nhỏ bé giữa nhân gian vô cùng, thành ra cái nhân gian là kho bí mật khôn cùng. Tôi tin là Hà cũng nghĩ vậy thôi. Đọc thư Hà, tôi lại mong có ngày được vào trong đó để được gặp Hà. A' mà không biết Hà có mừng không, hay là lại thất vọng..." ..." Bây giờ, tôi lại đi làm thêm rồi, công việc cứ xoay mòng mòng. Nhưng tôi vẫn mong thư Hà và sẽ hồi âm thật sớm. Tôi đi làm thêm, những mong phụ thêm ba mẹ mà thôi. Công việc không vất vả lắm nhưng cần có kiến thức và lương tâm. Nếu thư tôi có hơi muộn cũng do công việc, Hà thông cảm cho tôi nhé"... Những lá thư chan chứa tình cảm gửi từ miền Bắc xa xôi làm Hà thấy bối rối. Cô viết thư trả lời ngay lập tức. Rồi lại nhận tiếp. Những lá thư dày thêm cùng những tờ lịch được xếp tỉ mỉ trong hộp đựng đồ lưu niệm. Cô thấy là lạ, tại sao có người lại quan tâm đến mình nhiều như vậy ? Bây giờ đã đang là mùa hè, vậy là Hà đã làm quen với Nguyên được gần một năm. Một năm với những lá thư, những tấm thiệp mừng và những băng casette chỉ in một bài duy nhất nhân dịp đặc biệt nào đó. Cô cũng không nghĩ tình cảm sẽ đi theo quy luật này đâu. Hà còn nhớ cái dòng tên in dưới nhan đề truyện ngắn bằng mực tím. Cô thấy hay hay, cái tên gợi chút gì đó hoang dại và thơ trẻ. Nhưng đọc văn, cô hình dung ra một con người sâu sắc. Chỉ có ai có được sự điềm tĩnh mới nhìn đời bằng con mắt sắc sảo và khoan dung như thế. Cô thích trò phiêu lưu, chuyện viết thư làm quen chỉ là trò đùa nhất thời mà thôi. Khi gửi thư đi, cô không hề có khaí niệm hay chút ý niệm nào về một tình bạn sau này. Cô chỉ nghĩ đơn giản, có truyện đăng báo hẳn đã ít nhiều gây chú ý cho một ai đó, vậy cứ thử xem hắn ta nói gì với mình. Nếu hắn im lặng tức là hắn biết được chân giá trị của hắn tới cỡ nào. Còn hắn hồi âm thì cứ coi như là ta gieo thêm một con xúc xắc nữa. Lâu lâu nhận thư, hãnh diện với tụi bạn cũng thú. Cô nhận được hồi âm, ngoaì bìa đề tên của một công ty liên doanh. Hà hiểu, hắn làm thêm cho công ty này. Đây là con đường sống của những đứa nhà quê ra tỉnh. Cô nhận thư hắn, vẫn những tình cảm chứa chan, thứ tình cảm mà cô không hề nghĩ tới. Hà viết thư hồi âm với những thú vị ngấm ngầm. Hà biết rằng, hắn là người lãng mạn. Ngày Valentine hắn gửi vào cho Hà một hộp quà lớn và bông hồng bằng pha lê với lời giải thích thay cho lời đề tặng "Tôi chẳng biết tặng ai trong ngày này cả. Bạn nhận lấy, chút chân tình thôi". Có lần cô viết thư bảo cô buồn, hắn gửi cho cô băng nhạc có in baì duy nhất "Don't cry". Hắn không mường tượng được và cũng chẳng bao giờ biết lúc bật băng nhạc lên, cô đã cười như thế nào. Chỉ thương baì hát, nó đi nhầm địa chỉ rồi... ..." Cũng vô tình thôi, tôi bắt gặp thằng bạn của tôi đọc thư của Hà viết. Có cả hình nữa. Tôi không biết các bạn quen nhau lâu chưa, nhưng tự dưng tôi thấy trống vắng thế nào. Đây là lá thư thứ ba gửi đi, Hà có biết những ngày qua tôi chờ tin Hà không ? Hay tại tôi đã nói gì phật ý Hà ? Hay là bạn đã thất vọng về tôi ? Tôi không trách không buồn, nhưng thói quen nhận thư vào chiều thứ bảy mách tôi về một sự mất mát nào đó. Giá như Hà ở gần, tôi sẽ đạp xe đến thăm Hà vào những buổi chiều như buổi chiều nay. Nhưng xa xôi quá. Không biết Hà đi vắng hay Hà đùa chơi mà tôi quay số máy Hà ghi đều được trả lời bằng giọng khó chịu "Hà không có ở nhà" hoặc "Không có Hà nào hết". Ai vô tâm đây, Hà ?" ..." Tôi đã không thể không viết cho Hà. Tôi đã nói cho Hà hiểu rồi, chỉ những ai biết buồn và hiểu nỗi bồn của mình thì mới trở thành người lớn mà thôi. Hà đã hết buồn chưa ? Có lẽ đây là lá thư cuối cùng tôi viết gửi Hà vì nhiều lúc, tôi nghĩ, đã làm phiền đến Hà. Caí gì cũng có giới hạn của nó. Hơn nữa, tôi không phải là một dãy số với vô hạn vô hồi những phép cộng phép nhân. Thôi, có lẽ Hà chưa hiểu tôi. Cũng đành vậy !"... Hà ngồi mơ màng trong phòng, mắt ngó lơ ra cửa sổ. Những trang thư viết không gửi xếp chồng trước mặt. Cô đang nghĩ những gì đã và đang xảy ra. Tự dưng, cô bật khóc. Lật lại những trang thư viết dở, cô đọc: "Anh ạ, tôi cũng đã biết buồn nhưng tôi không biết làm thơ. Tôi chẵng hểu vì sao mình lại hay buồn nữa. Những nỗi buồn quá lớn chỉ có thể làm tôi xót đau. Và tôi khóc. Tôi thấy mình trẻ con quá anh ạ". ..."Lemon tree" anh in tặng nghe rất hay, những mà Valentine đơn giản chỉ dành cho nhưng người yêu nhau thôi. Tôi rất vui, dù sao cũng cảm ơn anh"... Những lời ấy có thật lòng cô không ? Caí tự ái trẻ con đã buột chặt cô với ý nghĩ, mình không được thu hắn, mình phải là người có tâm hồn sâu sắc hơn hắn. Cô không nhớ những cánh thiệp tự tay hắn thiết kế và gửi tặng cô bỏ đi đâu mất. Chỉ tại căn phòng đã kín mít ảnh thần tượng và cả tá những bức tranh mua về từ gallery. Những lời tâm tình sau này của Nguyên cô lướt bỏ qua hết, chỉ đáp lại bằng thứ tình cảm hời hợt cố bôi cho kín trang giấy, khéo léo vun chặt lại bằng những lời hoa mỹ, và không quên một lời thanh minh "vì bận học quá nên..". Cô đánh quên cái kỷ niệm với Nguyên, cái tình bạn bằng thư ấy. Cô nhận được lá thư mới, lờ mờ hiểu vì sao người ta biết được địa chỉ của mình, bởi địa chỉ của anh ta và Nguyên giống nhau. Cô đi theo trò chơi với người mới. Cô nghĩ có keó dài thêm với Nguyên rồi thì cũng chẳng đi tới đâu. Nên chấm dứt thôi... Chiều nay, cô ngồi yên lặng trong căn phòng, lắng nghe phố chiều réo những dư ba hỗn tạp của đời thường. Cô thấy mình đi qua mười sáu mà vẫn vô tâm quá chừng. Cuộc sống ngoaì bức tường raò kia dường như của người khác chứ không có vướng bận gì đến cô. Cô bật khóc. Có sự đổ vỡ trong trái tim thiếu nữ. Chút tình cảm chênh vênh và quá ít ỏi cô dành cho tình bạn của Nguyên làm cô thấy mình phải thay đổi, phải làm một cái gì đó. Cô ngồi vào bàn, viết cho Nguyên "Mong anh tha lỗi. Có những trò đùa trẻ con để lại một khoảng trống buồn trong tâm hồn người ta. Tôi tin anh là người vị tha và tôi tin đời anh sẽ gặp những điểm sáng. Bởi chỉ có những cuộc đời phát sáng khi tâm hồn người ta tự phát sáng". Gửi thư, cô thấy lòng mình thanh thản. Chỉ có điều cô không hề biết rằng, Nguyên đã phải tranh thủ giờ nghỉ ở công ty để viết thư cho cô. Và có một lần, do sơ ý, anh đã bị nghỉ việc. Một tháng sau ngày gửi đi. Vẫn trên tờ báo quen thuộc, lại xuất hiện dòng tên ấy. Hà nhận ra mình trong truyện ngắn của anh. Cô thấy anh không chỉ hiểu mà còn biết cách giải quyết mọi nỗi buồn của đời mình. Cô cứ đọc đi đọc lại đoạn kết "Rồi mai này giữa vất vả đường đời, chẳng biết tôi có gặp được cô bé ấy không. Trò đùa trẻ con để lại nhiều kỷ niệm hơn là những nỗi đau cuộc đời, bởi trò đùa ấy là trò của trẻ con". [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trở về[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dương Thị Ngọc Bích[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cường hỏi với câu hỏi thường ngày: “Em đang làm gì đấy? Có nhớ anh không?”. Áp tai vào ống nghe, trái tim Hương nghẹn thắt. Nhớ! Có nhớ không ư? Cường làm sao hiểu Hương đang nhớ anh, nhớ đến mụ mẫm. Từng đêm Hương thao thức mong được nghe tiếng nói của anh, thế mà vẫn không dám gọi cho anh. Mặc dù Hương biết nếu gọi anh sẽ trả lời! Cường là người đàn ông mà Hương vừa yêu vừa tôn thờ, số phận éo le đẩy Hương đến với anh như trò đùa của tạo hóa. Ngày ấy, Hương quá đau khổ trước sự phũ phàng của người đàn ông bội bạc. Không ai hiểu Hương đã trưởng thành như thế nào? 16 tuổi Hương bước vào tình yêu nồng nhiệt, ngây thơ, say đắm. Có lẽ vì thế mà người đàn ông đầu tiên sợ, họ không dám đón nhận cũng như vượt qua tất cả. Hương trở nên bình thản lạnh lùng trước lời săn đuổi, nàng sợ phải nhận sự lừa dối. Hai mươi hai tuổi không phải là già nhưng cũng không còn trẻ thơ, đối với Hương quá khứ chỉ còn lại vệt đen mờ nhạt. Thêm một lần nữa Hương lại bị tình yêu xóa nhòa tâm trí. Hương lại bắt đầu tin, bắt đầu yêu. Người đàn ông Hương hy sinh không tiếc thân mình là bạn anh. Hương tin người đàn ông ấy mặc cho lời khuyên can hay sự răn đe ý nhị, lao vào như con thiêu thân. Đau đớn thay cho Hương khi người ta tàn nhẫn độc ác, không chấp nhận sinh linh bé nhỏ đang hình thành trong Hương, thì Hương nghĩ nó cũng đồng nghĩa với sự phản bội. Hương bơ vơ gục ngã chẳng biết làm gì? Anh xuất hiện như một phép mầu kỳ diệu giúp Hương đứng lên và Hương đã yêu, yêu anh với sự hàm ơn. Hương biết mình tồn tại bên anh theo từng giờ khắc nhất định. Hương không thể đòi hỏi ở anh những điều mà một người đàn bà cần có ở người đàn ông. Hương không trọn vẹn cũng như anh không còn tự do, anh thoắt đến thoắt đi. Anh còn phải trở về ngôi nhà có người đàn bà khác đang chờ đợi. Ngày tháng cứ lần lượt trôi đi kéo theo mối tình tội lỗi. Hương hiểu mình không nên yêu anh. Đêm quyết định phải xa anh, ngày gặp lại đón nhận sự chăm sóc, lời nói ngọt ngào ân cần. Chấp nhận sự trớ trêu ấy cũng là chấp nhận cuộc sống không có tương lai. Hương chẳng cần biết cũng chẳng cần hiểu khi bên cạnh có anh. Nhiều đêm, trong giấc ngủ Hương giật mình tự hỏi: “Nếu phải xa anh mình sẽ ra sao?”. Nghe người bạn khuyên, Hương chuẩn bị cho cuộc chạy trốn. Ngồi trên chuyến tàu từ lúc nửa đêm làm Hương se sắt, bóng hình anh lúc nào cũng hiện diện. Người ta bảo: Thói thường cái gì đã quen thì khó dứt bỏ, thật đúng với tình trạng Hương. Ba ngày trống vắng, Hương nhớ đến anh quay cuồng, mấy lần chạm tay tới điện thoại Hương lại rụt tay vì lo sợ, vì buồn tủi. Năm ngày tiếp theo đã xói mòn nghị lực, tăng dần nỗi nhớ. Hương đã gọi và nghe lại điệp khúc quen thuộc này! - Hương! Em có nghe anh nói không? Em sao thế, em ốm à? Em đi đâu mà không nói cho anh biết?... Hàng loạt câu hỏi được đưa ra còn Hương vẫn lặng im. “Anh lo lắng ư?”, điệp khúc quen thuộc vang lên cố hữu thì có phải anh nghĩ đến Hương không? Hương bật khóc biết làm sao được khi anh đã quá quen thuộc trong tâm tưởng. “Em muốn có anh, em muốn trọn vẹn có anh”, hét lên trong máy Hương lịm đi. Tỉnh dậy giữa vòng tay anh, Hương không còn tin ở mình, đôi mắt anh ấm áp sâu thẳm: - Em khỏe chưa? Từ rày đừng bỏ đi như thế nữa nhé! Nếu anh không tìm qua số điện thoại thì làm sao biết em ở đây. Gục mặt vào ngực anh nức nở, Hương nửa muốn đẩy anh ra, nửa muốn níu giữ anh lại riêng mình. Bây giờ Hương chẳng còn nghĩ gì được nữa, chỉ thấy mình thật hạnh phúc trong cánh tay anh, mong nó mãi là hiện thực. “Thuê bao quý khách vừa gọi đang ngoài vùng phủ sóng...”. Thẫn thờ Hương dập máy xuống, trong lòng tràn đầy câu hỏi “Không biết anh đi đâu? Làm gì? Tại sao anh lại tắt máy? Hay anh gặp phải chuyện gì?”. Đã hai ngày, anh không đến, Hương gọi điện cũng không được, rất muốn gọi về nhà cho anh nhưng không dám, Hương sợ phải đón nhận giọng nói nhẹ nhàng của người đàn bà ấy. Chưa một lần gặp nhưng Hương hiểu vợ anh quan trọng hơn Hương, mặc dù anh chưa bao giờ yêu vợ. Đó là lời anh kể và Hương tin, nên không bao giờ Hương trách anh, chỉ mong tình yêu mình sẽ xoa dịu nỗi buồn riêng anh. Sau sự cố xảy ra hôm đó Hương không còn nghĩ đến việc xa anh, trong Hương còn khao khát anh nhiều, nhiều lắm! Dạo này Hương linh cảm có chuyện gì sắp xảy ra, anh không còn say đắm mặn nồng như trước, muốn hỏi rồi lại sợ, lúc nào Hương cũng sợ, sợ anh buồn, sợ anh giận, sợ anh rời xa mình, cuối cùng Hương trở nên cam chịu, chấp nhận hiện tại. Hương thấy mệt mỏi, muốn phá tung tất cả, Hương thấy nhớ anh, mong được nghe giọng nói anh đến nao lòng. “Làm sao để được gặp anh bây giờ...?”. Đang chìm mình trong suy nghĩ, Hương giật mình khi nghe tiếng chuông điện thoại vang lên. “Chắc là anh rồi!”, lao vội đến, Hương cất tiếng hỏi vui mừng: - Alô, anh à! - Không! Tao đây, Tuyết đây! Mày đang chờ anh nào đấy? Hương chùng giọng: - Mày đang ở đâu? Gọi tao có việc gì? Khỏe không? - Tao đang ốm, mày có rảnh không, đi khám bệnh với tao đi! Bước chân vào cổng bệnh viện Hương thoáng giật mình trước một bóng hình quen thuộc lướt qua. Hình như là...? Sao anh lại vào đây? Lắc đầu, gạt vội cái suy nghĩ vớ vẩn ấy ra khỏi đầu. Chắc mình lầm. Nhưng không! Đúng là anh, lần này thì dù không tin nhưng Hương không thể phủ nhận được. Vóc người cao gầy, khuôn mặt góc cạnh và cái nhíu mày khi đang suy nghĩ kia thì chỉ là anh! Hương muốn lao đến ôm chầm lấy anh để xóa tan niềm nhung nhớ. Giật mạnh ra khỏi tay Tuyết, Hương sững người kịp nhận ra bên cạnh anh một người đàn bà xinh đẹp, nét mặt tỏ vẻ đau đớn nhưng vẫn không giấu được niềm hạnh phúc dâng tràn khóe mắt. Người đàn bà ấy hãnh diện dựa vào tay anh tin cậy lướt qua mọi người. - Mày để ý làm gì? Họ đi sanh ấy mà, sao đứng ngây ra vậy? - Tuyết lay vội cánh tay Hương sợ hãi. Bây giờ Hương mới hiểu mình là người thừa, chưa bao giờ Hương được đón nhận đúng nghĩa của sự chăm sóc. Anh là người chồng lý tưởng ư? Có lẽ đúng. Nhìn anh lau từng giọt mồ hôi trên trán người đàn bà kia một cách âu yếm nâng niu, thỉnh thoảng anh cúi xuống thì thầm vào tai người đàn bà những lời gì mà khiến nụ cười rạng rỡ của họ lại điểm trên nét mặt, Hương mới hiểu anh yêu người đàn bà ấy nhiều, rất nhiều. Bấy lâu nay Hương cứ ngộ nhận, vội tin, vội yêu, chỉ vì sự yếu đuối của mình. Người đàn bà đó liệu có hạnh phúc vui tươi khi biết chồng mình đang phản bội? Suốt cuộc đời Hương mò mẫm đi tìm tình yêu của riêng mình mà vẫn vô ích. Hương chỉ là kẻ đến sau đón nhận sự ban phát may rủi. Cường chưa một lần nói yêu, nhưng Hương đã lừa dối chính mình để rồi ngày càng sa lầy. Dựa mình vào tường nhìn qua song cửa, Hương không cầm được nước mắt. Trách ai? Trách Cường hay trách cuộc đời ác nghiệt? Không, Hương chỉ biết trách mình khờ dại, mù quáng, cả tin... Chạy vội ra khỏi bệnh viện, bỏ lại tiếng gọi của Tuyết, Hương như con chim cô đơn lạc lối, không phương hướng. Hương chỉ muốn thoát khỏi cảnh tượng đau lòng ấy. Hình ảnh lạc lõng nhói buốt khi một mình quyết định dứt bỏ sự sống của sinh linh bé nhỏ chưa kịp thành hình hiện lên trong mắt Hương tê tái. Hương muốn mình được hạnh phúc, muốn được một người đàn ông riêng mình mà vẫn không được. Không biết mình về nhà bằng cách nào? Lục tung những gì còn lưu giữ hình bóng anh, Hương vùi mặt vào từng chiếc áo của anh mà khóc. Giọt nước mắt mặn chát vẫn không xoa dịu được nỗi thất vọng cũng như nỗi đớn đau đang giày vò tâm hồn mình. Nhìn thấy phía trước chỉ là bóng đen bao quanh, phía sau một vực thẳm ngụy trang trong ánh sáng giả tạo của tình yêu. Muốn rời bỏ để ra đi, trả lại mọi thứ về chỗ cũ nhưng Hương vẫn không đủ can đảm. Lại một lần nữa tiếng chuông điện thoại vang lên thúc giục, thẫn thờ Hương nhắc ống nghe: - Alô! - Alô! Anh đây! Em có khỏe không? Có nhớ anh không? Đang làm gì? Giọng của anh bình thản, không có chuyện gì xảy ra, đó có phải là sự giả tạo? Hương hỏi trong hy vọng anh sẽ nói thật dù là một sự thật phũ phàng. - Mấy ngày rồi anh đi đâu thế? Em nhớ anh nhưng gọi điện không được. - À! Anh đi công tác vùng cao nên không bắt được sóng... Hương choáng váng. Cường vẫn nói dối. Lời nói dối thốt ra không ngượng ngập, trơn tru ngọt ngào. Hương thấy sợ và kịp hiểu ra điều mình phải làm. Đặt máy xuống, không một lời Hương lặng lẽ rời khỏi ngôi nhà, hòa mình vào dòng người. Sau lưng tiếng chuông điện thoại reo vang trong không gian yên tĩnh.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trôi giạt[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phạm Hoài Vũ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Khi Giáo sư Phước tìm được đứa con của mình cũng là lúc ông mất vĩnh viễn người đàn bà mà ông từng yêu thương. Ông tiếc nuối một tình yêu bị trôi giạt trong chiến tranh và ân hận vì lỗi lầm của mình. Hiền nép sâu trong góc tối của toa tàụ Những toa tàu thời chiến lầm lũi nối đuôi nhau chìm mãi trong đêm. Cả toa chỉ thấy nhập nhoạng ánh sáng tù mù của cây đèn bão, chốc chốc lại bùng lên cắt dòng suy tư đứt đoạn của Hiền... suy tư về chuyến đi đêm nay, ... về những năm tháng lênh đênh sông nước. Cả cái làng bến sông chẳng ai để ý đến chuyện mẹ con cô đã đến đây tự bao giờ, nhưng cái chuyện cha cô mất tích trong chiến tranh thì hình như ai cũng nói, ... nói không có mặt cộ Mẹ thường kể, hồi năm bốn mươi mẹ sống với người anh họ là bác Cử Giang ở thị xã Thái Bình. Rồi chiến tranh. Mẹ theo chân bạn hàng xén về một nơi rất xa, gọi là chợ Đống Năm. Rồi mẹ đưa Hiền về đây, một làng nhỏ ven sông Trà Lý. Bên này là đồng ngô mượt, gió lộng. Bên kia có những làng chạm bạc, ngói đỏ nhấp nhộ Mẹ con cô sống với cha con ông lái đò. Mẹ bảo cô gọi ông là thầỵ Con của ông gọi mẹ là ụ Cuộc sống êm ả trôi trên dòng sông. Hiền đi học. Học xong cấp một ở xã, cô lên học cấp hai trên huyện, rồi thi đỗ vào trường sư phạm. Sau ngày tốt nghiệp, cô được phân công về dạy ở trường cấp haị Hôm làm giấy tờ, người ta bảo cô khai lý lịch. Đến mục người cha, cô khai là lái đò. Bà tổ chức bảo không phảị Cô khai lạị Thấy cô lúng túng, bà buông thõng: "Khai là cha mất tích trong chiến tranh". Sau thời gian tập sự, cô được xét vào biên chế. Biên chế là việc hệ trọng. Người ta phải xét năng lực chuyên môn, phải xét lý lịch gia đình. Nhưng còn người cha mất tích trong chiến tranh. Không tìm đâu bằng chứng về sự mất tích. Thế là cô không được vào biên chế. Cô lại trở về với mẹ. Cô lại trở về với bến sông. Dòng sông bằng lặng. Những cánh bèo hoa tím trôi giạt hiền hòa, không biết về đâụ Đêm nay cô bước lên tàu ra đi là vì nể mẹ, không mảy may một niềm hy vọng mỏng manh. Mẹ bảo, dù thế nào, cô cũng phải tìm bằng được bác Cử Giang, vì chỉ có bác mới giúp được cộ Tàu đến thành phố thì trời rạng sáng. Cô hỏi tìm bác ở bất kỳ nơi nào gọi là cơ quan. Cũng may, bác là một luật sư có tên tuổi ở thành phố. Vì vậy, cô đã tìm được ông không mấy khó khăn. Câu chuyện của cô làm ông ngỡ ngàng. Chỉ có điều ông phân vân, là trong suốt ngần ấy năm không một ai nói cho ông điều gì về cộ Ông nhớ lại cái ngày vừa đỗ cử nhân luật, mùa hè năm 1938, ông về thị xã Thái Bình mở trường tự Ngay từ buổi đầu đưa tin mở trường, ông đã được mọi người mến mộ. Người ta mến mộ ông vì tiếng tốt của cụ thân sinh ngày trước, là cụ Tú Lâm. Thuở sinh thời cụ cũng mở trường tư theo tân học. Ông tìm đến ngôi trường ngày trước. Cỏ mọc um tùm. Mái ngói rêu phong. Cụ Tú mất đã mười năm. Các thầy mỗi người đi một phương. Chỉ còn một người duy nhất qua lại đâỵ Đó là cụ Giám. Cụ Giám là cậu họ, vốn là thầy đồ ở quê nhà bên huyện Trực Ninh, Nam Định. Cụ được cụ Tú mời ra trông coi trường sở. Người ta gọi cụ là ông giám thị. Về sau chỉ gọi là Cụ Giám. Sau khi cụ Tú qua đời, cụ bà về quê, riêng cụ Giám vẫn ở lạị Cụ sống cùng với vợ và cô con gái tên là Liên. Cụ bà và cô Liên ra chợ Bo mở hàng xén. Cô Liên vốn là trò ngoan của cụ Tú. Cô học sắp hết lớp "Pri-me Xuýp" thì cụ Tú mất. "Pri-me Xuýp" là lớp cuối cùng của bậc tiểu học thời đó. Sau ngày cụ Tú mất, trường đóng cửạ Cụ Giám phiền muộn suốt từ bấy đến giờ. Nghe ông Cử ngỏ ý muốn mở lại trường, cụ Giám lặng đi hồi lâu: - Anh Cử! Cậu thương nhớ cha anh. Cậu chỉ mong có ngày các anh về nối nghiệp. Bây giờ anh về, cậu trao lại cơ nghiệp cho anh. Còn nếu anh không chê cậu tuổi tác yếu hèn, thì cậu sẽ lại ra giúp anh như cậu đã tâm niệm trước vong linh của Bác Tú. Thế là ngôi trường được sửa lạị Ông Cử treo biển trắng với dòng chữ xanh "Trường Trung học Port Royal". Ai hỏi tại sao ông lại đặt tên như thế, ông chỉ cườị Học sinh thì mỗi người cắt nghĩa một kiểụ Người thì dịch sát nghĩa "Bến cảng huy hoàng", nơi ấy có những con tàu cập bến, có những con tàu ra khơị Có người thì nói, hình như ông có ý đặt tên trường bằng cái tên của tu viện Port-Royal được thành lập ở Paris từ bẩy tám thế kỷ trước, sau thành nơi hội tụ của các danh nhân, ở đó có những cuốn sách giáo khoa nổi tiếng đã ra đời, còn lưu truyền mãi đến ngày nay, như Ngữ pháp Port-Royal, Lô-gíc học Port-Royal. Thật chỉ một cái tên thôi mà ẩn dụ biết bao ý nghĩạ Cụ Giám trở lại công việc giản dị ngày trước. Ngoài cụ còn có cô Liên, con gái cụ, giúp ông Cử trông coi việc sổ sách. Trường không lớn, nhưng có đủ các lớp, từ lớp đệ nhất đến lớp đệ tứ, giống như trường cấp hai của ta bây giờ. Trong số các thầy giáo có một thầy tên là Phước. Thầy dạy tiếng Pháp và văn học. Thầy rất nghiêm khắc. Nghiêm khắc đến lạnh lùng. Hết giờ lên lớp là thầy ngồi đọc sách, ngày nào cũng như ngày nàọ Cô Liên chỉ gặp thầy vào những ngày phát lương. Điều duy nhất mà cô Liên nghe được ở thầy chỉ vẻn vẹn một lời khô khốc: "Merci!", tiếng Pháp nghĩa là "cám ơn". Cô đáp lại bằng cái cười xã giao cho phải phép. Nhưng một lần, sau khi nghe "Merci", cô không chỉ cười xã giao, mà còn lên giọng thách thức "Rien de quoi, Monsieur le Professeur", nghĩa là "Đâu có gì, thưa ngài giáo sư". Thầy trố mắt: "Parlez-vous francais, Mademoiselle ?", nghĩa là "Cô cũng nói tiếng Pháp, thưa cô ? ". Từ đấy hai người trở nên gần gũị Nhưng rồi chiến tranh. Dân chúng thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Nhà cửa, trường học, công sở đều bị phá hủỵ Phố xá trở nên một đống gạch hoang tàn. Ông Cử và các thầy mỗi người đi một phương. Cụ Giám cũng qua đời năm ấỵ Cô Liên theo chị em về buôn bán ở chợ Đống Năm. Bé Hiền ra đờị Luật sư hồi tưởng lại cả quãng đời đã chìm trong năm tháng. Từ ngày ấy đến nay đã quá nhiều năm. Ông không được tin gì về thầy Phước. Hồi ở Việt Bắc, ông có nghe nói thầy sang dạy ở một trường Việt Nam ở Quế Lâm bên Trung Quốc, gọi là Khu học xá. Sau hòa bình vào năm năm mươi tư, Khu học xá giải thể, thầy Phước về nước. Vừa đúng lúc một số trường đại học được thành lập ở Hà Nộị Thầy Phước về dạy ở một trường nào đó. Đấy là tất cả những điều mà ông nghe được. Cũng là vì ngay từ khi đóng cửa trường, nhiều bạn học trong ngành luật đã mời ông ra làm việc và từ đấy ông không còn mối liên hệ với các đồng nghiệp trong làng giáo học nữạ Ông mất hàng tháng trời để tìm lại bạn bè hồi trước chiến tranh. Ông đã gặp may, vì cuối cùng đã biết được tin tức về thầy Phước. Thầy hiện là giáo sư ở một trường đại học. Cái khó bây giờ là các trường đều sơ tán, tàu xe thời chiến khó khăn. Dù sao, việc đầu tiên là về Hà Nội, đến mấy trường đại học, ở đó mọi chuyện chắc sẽ rõ ràng hơn. Đại lộ Ba-bi-lô, nay là Đường Lê Thánh Tông, từ thời trước chiến tranh đã nổi tiếng là đường phố của học vấn. Từ đầu thế kỷ, người Pháp đã mở Trường Thuốc để đào tạo y sĩ Đông Dương. Sau này mở thêm các đại học khác. Lần nào có dịp về Hà Nội, Luật sư Giang cũng đi dạo trên đường phố nàỵ Ông đã gửi gắm ở đây cả một thời tuổi trẻ trong những năm còn học trung học và sau đó là đại học luật khoạ Từ phía Bệnh viện Đồn Thủy, ngày nay là Viện Quân y 108, ông lặng bước dưới lùm cây sấu, qua cổng Đại học Dược, rồi đến trường của ông. Tất cả nguyên vẹn. Vẫn những hàng cây xum xuệ Đôi cánh cửa lớn, đường bệ, nặng quá khổ đưa lối vào giảng đường lớn. Ông dạo quanh sân tìm lại bầu không khí còn đượm hơi ấm của ba mươi năm trước. Lần theo những lối đi thân quen, ông bước vào giảng đường. Những dãy bàn ghế hình cung, đổ dồn từ trên cao xuống bục giảng. Bình thản. Tôn nghiêm. Cuối cùng ông cũng biết được thêm nhiều điều về Thầy Phước. Thầy Phước hồi đó, nay là giáo sư văn học Pháp. Ông hiện có mặt ở Hà Nộị Nhà ở phố Nguyễn Gia Thiềụ Ông hồi hộp, trong lòng dội lên niềm vui xen lẫn nỗi lọ Sau một phút do dự, ông gõ cửạ Một người trạc tuổi ông bước rạ Luật sư lên tiếng trước: - Xin lỗi ông cho hỏi thăm, đây là nhà của giáo sư Phước ? - Vâng thưa ông. - Chào anh. Tôi là Giang, Cử Giang ở trường Port Royal. - Trời ơi! Anh Giang, mời anh vàọ ấy chết, xin lỗi, cho phép tôi thu dọn phòng... Bừa bộn quá. Chúng tôi sắp đi sơ tán mà. - Anh đừng bận tâm.- Luật sư thoáng thấy mọi người trong nhà đang nằm ngủ dưới sàn, chừng là vợ con của giáo sư, ông chuyển sang nói tiếng Pháp, - Đã ba chục năm... - Luật sư ngập ngừng- ... có chuyện rất riêng tìm gặp anh, ... anh cho phép nói tiếng Pháp. - Xin anh tự nhiên. - Giáo sư đỡ lời bằng tiếng Việt, vừa kéo ghế mời luật sư ngồi đối diện mình cùng một bên mép bàn làm việc. Giáo sư Phước bối rối: - Thầy trò chúng tôi đã đi sơ tán, người Mỹ sắp ném bom Hà Nộị Chắc anh biết. Gia đình tôi cũng chuẩn bị đi theo trường, nhà luộm thuộm. Anh chờ để tôi gọi vợ con dậỵ.. Luật sư đỡ lời, vẫn bằng tiếng Pháp: - Anh đừng bận tâm. Để chị và các cháu nghỉ. Tôi có chuyện muốn nói, nhưng liệu ở đây có tiện không ? - Anh đừng ngạị.., - Giáo sư trả lời vẫn bằng tiếng Việt. Luật sư Giang đưa giáo sư trở về dĩ vãng..., về cái thị xã thanh bình trước chiến tranh, về cuộc chia tay giữa thầy và trò, giữa những bạn đồng nghiệp. Cuối cùng Luật sư nói về cha con người giám thị... ngập ngừng: - Nhưng,..xin anh thứ lỗi, nếu như câu chuyện tôi sắp nói đây là không gửi đúng địa chỉ... - Ôi, anh Giang, xin anh đừng câu nệ. Lặng giây lát, Luật sư hỏi: - Anh còn nhớ cô Liên thư ký nhà trường không ? - Tôi nhớ.- Giáo sư Phước chần chừ, và cũng chuyển sang nói tiếng Pháp, chậm rãi, khẽ khàng. - Sau này anh có được tin cô ấy không ? - Có. Khi ở Việt Bắc, tôi gặp mấy phụ huynh học sinh. Họ đều cho biết cô Liên về chợ Đống Năm buôn bán, sau đã có chồng con. - Thế, thế...anh không được tin gì hơn nữa ? - Quả thật là không. Vả lại sau này tôi được tin cô ấy đã yên phận gia đình...Tôi nghĩ, hãy để cho cô ấy yên phận . - Không đâu, anh Phước ạ. Cô ấy không được yên phận, mặc dầu đã có gia đình. Cô ấy dõi trông anh ngần ấy năm trờị - Trời ơi! Anh nói sao ? Sao lại dõi trông tôi ? - Nói thế nào nhỉ ? - ông Cử Giang chần chừ. Anh có nghĩ đến một đứa con chung của hai người không ? - ..., mà một trong hai người đó là tôi ? - Anh không nghĩ là như thế ? - Trời ơi! Anh Giang, thật là quá sức tôi! - Tôi rất tiếc đã làm anh bận tâm. Mong anh thứ lỗị Có thể câu chuyện của tôi đặt ra không đúng lúc. Cũng có thể có một sự lầm lẫn nào đó. Rất có thể là như vậy, anh Phước ạ. - Không, anh Giang, trong mọi trường hợp, tôi xin cảm ơn anh về câu chuyện nàỵ Tôi xin thú thực với anh là có câu chuyện giữa tôi và cô Liên. Chỉ có điều, ... xin anh thứ lỗi là tôi đã không nói ngay với anh từ dạo ấỵ Nhưng còn đứa con? Đứa con ư ? Anh Giang. Anh cho phép tôi có thời gian. - Tôi cũng hy vọng có một sự lầm lẫn nào đó. - Luật sư ngắt lờị Anh cho tôi được cáo luị Đây là địa chỉ để anh liên hệ khi cần. Luật sư đi rồi, mọi người trong nhà đều thức dậỵ Giáo sư Phước bàng hoàng. Ông không giấu nổi điều sâu kín đang dội lên, từng hồi, từng hồi một. Người đầu tiên nhận xét là bà vợ: - Ai vừa nói chuyện với ba đấy ? Hình như có chuyện gì rất hệ trọng giữa hai người ? Ba có thể nói cho em được không? - Chuyện cơ quan thôi mà! - ông lảng chuyện vụng về. Hồi đó, lúc nào chẳng có chuyện cơ quan... người Mỹ ném bom miền bắc, chuẩn bị sơ tán các phòng thí nghiệm. Vợ ông biết rõ tình hình. Đêm đó ông trằn trọc. Ông hồi tưởng lại những kỉ niệm với cô thư kí nhà trường. Từ sau cuộc đối thoại ngắn ngủi bằng tiếng Pháp với Liên hôm lĩnh lương, ông bắt đầu để ý đến cộ Ngoài giờ làm việc, cô thích đọc các tác phẩm văn học Pháp. Cô quý trọng ông vì ông uyên bác. Ông giảng giải cho cô về nhiều thứ, nhưng cuối cùng đọng lại, hình như cô bị ông cuốn hút vào những truyện ngắn của Guy de Maupassant và Alfonse Daudet. Về sau cô được biết là ông đang học đại học hàm thụ văn học Pháp. Hai người, từ lúc nào đó, đã từ lòng mến mộ trở nên gắn bó. Với cô, ông là biển khơi trí tuệ. Còn với ông, thì cô như một ngôi sao chói lọi trên trời trong cái đêm cô tịch ở miền Provence xa xăm. Ông bàng hoàng sống trong cuộc hạnh ngộ giữa cái tỉnh nhỏ bình dị này... Rồi ngôi sao trên bầu trời thơ mộng kia đã tàn lụi theo năm tháng trên những nẻo đường chiến tranh, bãi ngô, sông nước. Ngay sau cái đêm trắng ấy, ông dậy rất sớm, tự châm bếp dầu nấu nước pha cà phê... Nói qua vài lời tạm biệt vợ, ông bảo ông lên chỗ sơ tán với sinh viên. Dắt xe đạp ra khỏi nhà vào đúng lúc nổi giông. Ông chần chừ, rồi vẫn lao xe về phía sông Hồng. Sau khi qua cầu chui, ông không đi Bắc Ninh để lên nơi sơ tán, mà đi về phía Hải Phòng. Trời dội mưạ Ông đạp hối hả. Những roi nước quất ngang mặt, nhòa đôi kính... Đến Bần, ông hỏi thăm nhà cô Hiền bán hàng xén. Trời mưa, cô chưa dọn hàng. Ông tìm lối vào nhà. Men theo bờ mương, băng qua quãng ruộng ngập nước, ông lội vào căn nhà cheo leo ở ngoài bìa một xóm trại giữa đồng. Ông bước vào sân. Do dự. - Chào cô,- ông lên tiếng, - xin lỗi cho tôi hỏi thăm đây có phải nhà cô Hiền, cô Hiền con gái bà Liên ? - Vâng thưa ông. Cháu là Hiền. Vậy ông là... - Vâng tôi là bạn của bác Cử Giang,.. Hiền trân trân nhìn ông. Nghi ngờ. Ngập ngừng giây lát, ông tiếp: - Nhân có việc về vùng này, tôi vào thăm mẹ con cháụ - Trời ơi! Bác là bạn bác Cử cháu... ấy chết, mời bác vào nhà. Để cháu đi đun nước. - Thế chỉ có mẹ con cháu ở đây thôi ư ? - Ông vừa hỏi, vừa tháo tấm vải mưa quanh cổ. - Thưa bác, nhà cháu... vừa chuyển quân vào sát tuyến lửạ Ông lặng thinh, nhìn ra ngoài mưa, lảng chuyện ... - Thì ra cháu không có tin tức về bố cháu hay sao ? Bác nghe nói, cháu vẫn sống ở nhà quê với bố mẹ cháu kia mà ? - Vâng, nhưng chỉ có mẹ cháu thôi, còn đấy là bố dượng cháụ Mẹ cháu chờ bố cháu mãị Cháu cũng chẳng biết là bao nhiêu năm. Rồi ông chia tay với xóm trạị Trời vẫn còn mưạ Một tuần quạ Rồi hai tuần. Lại một tuần nữa, kể từ cái hôm mưa giông. Lòng ông ngổn ngang. Ông sẽ viết thư cho Hiền. Ông sẽ dành cho con gái những tình cảm đặc biệt nhất. Ông đền bù cho nó tất cả những gì đã mất mát. Ông sẽ làm tất cả. Trước hết ông viết cho nó cái trang còn bỏ trống về người cha mất tích trong chiến tranh. Hơn thế, không chỉ là điền đầy một trang giấy, mà là trả lại cho nó cơ hội làm một con ngườị Nghĩ đến đó ông như trút được một nỗi đau nhân thế. Nhưng ông chợt nghĩ, ông sẽ nói với vợ con thế nào đây về một cuộc tình dang dở mà, suy cho cùng, chính ông là người có lỗị Ông vẫn giữ điều thầm kín nàỵ Cuộc tình kia cứ níu kéo ông, giày xé ông. Ông bất lực. Chỉ có thể ... sống để bụng chết mang đi... mang theo đến một nơi nào đó rất mơ hồ, bất định. Nhưng sự trớ trêu của số phận đã lại thách thức ông. Ông không thể câm lặng mãi... Ông sẽ phải mang sự câm lặng ấy phô diễn trước người đờị Và rồi... cái gì sẽ xảy ra ? Người đời sẽ chia sẻ với ông nỗi đau nhân tình. Con ông sẽ được sống trong tình cảm của cha nó. Nhưng còn người vợ đôn hậu đã cùng ông đi gần hết cuộc đờỉ Đáng ra bà có thể tự hào về một cuộc sống trọn vẹn hạnh phúc với ông, thì đằng này, ở đoạn xế chiều, lại phải ôm hận vì đã chọn lầm người bạn đời... là ông. Còn các đồng nghiệp của ông ? Họ sẽ lên án ông như một kẻ không có tư cách. Cơn bão táp suy tư thế thái nhân tình cứ dội lên... dội lên mãị Bốn tuần trôi quạ Rồi hai tháng. Cuối cùng ông quyết định. Không thể chậm trễ hơn được. Mấy đêm ròng dưới ngọn đèn tù mù ở nơi sơ tán, ông viết. Hà Bắc, 10-4-1966. Gửi Hiền, con gái của bạ Ba đã sống trong những ngày đầy sóng gió. Cuối cùng ba quyết định viết cho con. Chắc con nhớ người bạn của bác Cử Giang đến thăm con trong ngày mưa giông? Người đó chính là bạ Từ hôm ấy ba đã nhiều đêm không ngủ. Ba nghĩ về sự bất hạnh trong câu chuyện dang dở giữa ba và mẹ con. Nói cho cùng, ba là người có lỗị Lỗi của ba không thể nào chuộc lại được. Ba chưa được gặp lại mẹ con. Nhưng con có thể nói với mẹ rằng tuy cuộc đời trôi giạt, nhưng mẹ vẫn để lại trong lòng ba những kỉ niệm trong sáng nhất. Giờ đây, ba và mẹ con, mỗi người đã có một thân phận riêng tư trong cuộc đờị Những gì đã qua không có cách nào lấy lại được. Ba sẽ dành phần còn lại trong cuộc đời của ba để đền bù những gì con đã phải chịu đựng. Một tuần sau ba sẽ tới thăm con. Hãy nói với mẹ con, ba có lời thăm. Ba của con. Phước" Đúng một tuần, ông trở về xóm trạị Vừa bước vào nhà, mùi khói hương làm ông kinh hoàng. Trên bàn thờ là ảnh một người đàn bà đã luống tuổi, nhưng ông vẫn nhận ra vẻ mặt thân thuộc của cô thư ký Liên ngày trước. Đầu vấn tóc trần. Chuỗi hạt trắng nổi trên chiếc áo dài nhung the ông đã thấy Liên mặc hồi trước chiến tranh. Hai mẹ con Hiền đều chít khăn tang. Con gái của ông lạnh lùng nhìn ông trân trốị Không một lờị Nước mắt dàn dụa trên đôi gò má cháy xạm. - Con, - ông nghẹn lại, - Ba vẫn mong có ngày gặp lại mẹ con. Rồi ông cũng không cầm nổi lòng mình. Nước mắt trào rạ Ông run run, thắp ba nén hương. Im lặng. Ông sám hốị Bác sĩ bảo bà bị ung thự Đã ủ bệnh từ mấy năm trước. Bà chỉ ho thúng thắng. Người cứ gầy mòn. Không biết là bệnh gì. Trạm xá ở xã nghi bà bệnh lao, cho lên bệnh viện huyện. Huyện bảo không phảị Ba tuần trước đây ho nặng, nổi hạch khắp ngườị Đưa lên bệnh viện tỉnh. Tỉnh chuyển lên Bệnh viện K ở Hà Nộị Bệnh viện bảo về, cho bà ăn cái gì bà thích. Họ bảo bà bị ung thư tuyến giáp trạng đã đến giai đoạn di căn. Vô phương cứu chữạ Mọi người bảo vì bà quá khổ. Bà vĩnh biệt cuộc đời ở tuổi bốn lăm. - Ba ơị- Hiền như sực nhớ điều gì đó, òa lên khóc nức nở như một đứa trẻ. Thằng bé ôm chặt chân cô, lấm lét nhìn ông khách. Cô tiếp, - Mẹ trao cho con cái ống nứa nàỵ Mẹ bảo "nếu gặp ba thì thưa với ba, mẹ có lời vĩnh biệt". Ông như tỉnh lại, đón từ tay Hiền khúc ống nứa đã ngả màu vàng xỉn của bồ hóng như vừa rút ra từ gác bếp nhà quệ Ông thấy mình lảo đảọ Tay run rẩy, khẽ khàng rút từ trong ống nứa một cuộn giấy hoen vàng: Một tờ Giấy khai sinh đề ngày năm, tháng chín, năm một ngàn chín trăm bốn mươi sáụ Tên đứa trẻ là Nguyễn Thị Phước Hiền. Cha Nguyễn Trọng Phước. Mẹ Hoàng Thị Liên. Một bức thư bà viết cho ông hai mươi năm trước, vào ngày con gái ông đầy cữ. Thư viết bằng tiếng Pháp. Bà không muốn những người chung quanh biết chuyện riêng tự "Đống Năm, ngày 5-10-1946. "Anh yêu dấụ Em viết cho anh khi con gái của chúng ta vừa tròn một tháng, nói theo các cụ là nó được đầy cữ. Nó đã ra đời không có mặt anh. Em biết anh đang mong tin về con chúng tạ Bởi vì, anh biết đấy, lúc chia tay, em đã nói với anh điều mà em lo sợ. Nhưng em sẽ chịu đựng để chờ anh. Em sẽ thay anh nuôi con. Sao mà con giống anh. Em viết cho anh, nhưng em không rời đôi mắt nó. Đó là đôi mắt của anh. Đôi mắt hơi xếch như dáng quan võ trông rất ngộ, như chính đôi mắt của anh vậỵ Em ngắm nó đắm đuối như đang sống trong phút giây hạnh phúc với anh. Nhưng rồi em chợt buồn. Buồn vì thiếu anh. Buồn vì thương con. Con ra đời không có sự chăm sóc của cha nó. Em viết cho anh để kỷ niệm ngày con đầy tháng, nhưng em chẳng biết làm thế nào mà gửi được. Biết anh ở đâu mà gửi phải không anh ? Em sẽ giữ nó cho đến ngày chiến tranh kết thúc. Một năm. Cùng lắm là hai năm. Anh sẽ trở về. Em sẽ trao con cho anh. Anh đọc thư em. Em sẽ ngồi ngắm anh vừa nựng con vừa đọc. Rồi anh sẽ lại cho điểm bài văn tiếng Pháp của em. Rồi anh sẽ lại kể chuyện bằng tiếng Pháp, bắt em kể lại như một bài tập dịch. "...Chung quanh chúng tôi, những vì sao tiếp tục cuộc hành trình lặng lẽ, dịu hiền như một bầy cừu lớn, và bỗng nhiên tôi cảm thấy như có một vì sao trong số đó, một vì sao đẹp nhất, chói lọi nhất đã lạc đường, sa xuống vai tôi mà ngủ yên lành" Em đố anh truyện gì nào ? Anh nhớ đấỵ Anh vẫn gọi em là Stê-pha-net của anh, là cô chủ Stê-pha-net trong câu chuyện về những vì saọ Anh ơị Con nó khóc. Nó muốn mẹ bế, anh ạ! Vừa lọt lòng đã biết đòi cưng nựng. Em không chịu nổi nữa anh ơị Sao mà con đáng thương. Em không viết được nữạ Em sẽ còn viết cho anh. Em của anh. Liên. Ông ngây dạị Nước mắt lại trào rạ Ông chờ Liên viết tiếp. Nhưng có bao giờ nàng viết được nữa đâu! Cuộc sống gian lao đã làm kiệt sức nàng. Ông ở lại với con gái qua đêm. Hiền cố níu ông ở lại thêm với mẹ con cô cho nhà đỡ quạnh. Nhưng ông phải trở về. Từ đấy, dường như tháng nào cũng vậy, dường như ngày hai mươi tám tết nào cũng vậy, mọi người quanh phố Bần lại thấy một ông già với chiếc xe đạp tồng tộc, lặn lội về cái xóm trại heo hút giữa đồng không. Ông về đều đặn, kể cả những ngày mưa giông. Cả xóm biết ông là cha cô hàng xén. Cha con lạc nhau trong chiến tranh. Rồi ít lâu sau, phố chợ vắng bóng cộ Bạn chợ không thấy cô bán hàng. Có người bảo gặp cô dạy học ở đâu đó, mãi tận xóm Đầm Xa, cách trại của mẹ con cô hai quãng đồng. Riêng với giáo sư Phước thì câu chuyện vẫn còn được giữ kín. Cả ông và người con gái đều phấp phỏng chờ đợi một điều gì đó . Hối thúc. Lo âụ Trĩu nặng. Mơ hồ . Rồi bỗng bặt đi rất lâu không ai thấy bóng ông già về xóm trạị Mãi sau mới có người bảo ông đã qua đời sau một cơn đau tim. Hôm tiễn đưa ông, người ta thấy một thiếu phụ, dường như không ai quen biết, dắt đứa con trai, lặng lẽ xen trong dòng người bước sau linh cữụ Cả hai mẹ con đều không chít khăn tang mà chỉ cài kín đáo một dải băng đen khiêm nhường trước ngực. Ông mất năm 1972, sáu năm sau khi cha con ông tìm lại được nhaụ Tháng năm cứ trải dài phẳng lặng không gợn buồn vuị Làng bến sông ngày xưa xa vời vợị Nơi ấy có một người mẹ yên nghỉ trong đồng ngô ngút ngàn gió lộng. Sông Trà Lý hững hờ buông những cánh bèo hoa tím trôi giạt theo dòng. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trời mưa bong bóng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thùy Linh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mặc cho loa nhắc rằng đã sắp hết giờ viếng, người ta vẫn đứng dồn lại trước nhà tang lễ. Túm năm, tụm ba. Chụm đầu vào nhau thầm thì. Câu chuyện chen chúc không còn khoảng trống. Lời người nọ cắn đuôi lời người kia lao xao. Âm thanh giọng nói thấm vào nhau làm biến mất sắc thái của danh tính. Cái tai của anh từ sáng đến giờ bị thứ nước có 43%alc/vol dâng lên như thủy triều, ì oạp con sóng vỗ bờ. Mẹ kiếp, sao tăng trưởng như kinh tế Mỹ thế này? Khổ, hãm đủ cách, mỗi chiều vặn trái người nện tenit làm đồ thị cứ chỉ con số tám mươi mời chịu dừng lại. Giờ thì kệ? Xem ra sự nổi tiếng của ông tỷ lệ thuận với vòng bụng đấy nhỉ? Ơ, chính khách đến rồi kia kìa...! Sao lâu lắm không thấy cậu đến chơi với anh em? Thông cảm nhớ, tớ cũng muốn chơi lắm chứ, nhưng kẹt quá. Vừa đi châu Âu về ? Bên ấy thế nào? Tớ đi nhiều quá, chẳng còn cảm giác gì nữa. Chuyện, đi bằng tiền công thì cảm xúc cũng chai đi rồi, phải đi nhẹ cười sẵn, nói những lời đã nghĩ trước từ ở nhà, đúng không? Thằng xỏ lá! Chứ không à, tớ chẳng giấu các cậu, năm ngoái sau một phi vụ long trời lở đất, mua cho vợ con ngôi nhà, cho vào tiết kiệm của cô con gái cỡ gần tỷ để con bé yên tâm theo nghề kiếm chồng mà không sợ mấy thằng mất dạy nó hù dọa, còn bao nhiêu tớ đi châu Âu giải sầu. Một mình. Đến Hung vào quán cafe bên sông Đanuyp tình cờ quen một em, nhỏ xinh như gái Việt, trước đã từng sang đây học tiếng Việt. Tiếng Anh tớ còn nhớ một đoạn, tiếng Việt em gái nhớ một đoạn, khúc giữa để tay chân làm nốt, thế cũng đủ cùng nhau chuyến du khảo nền văn minh nhân loại... Hay bọn ta vào thôi nhỉ? Đứng thêm lát nữa còn sớm. Nửa tiếng nữa mới đưa cơ mà... Cái thằng chín xu đổi lấy một hào đến rồi kìa? Nó mà nghe thấy nó róc xương ra làm mắm Tấm Cám bây giờ. Ông nhầm, nó tự hào vì cái tính tiết kiệm như người Giecmanh, lễ giáo như học trò Khổng Tử, ăn mặc như Pariđiên đấy!... Lại quay về chuyện ăn. Thức ăn lúc nào cũng phảng phất trên người như mùi nước hoa Chanel. Mà phải số năm hẳn hoi đấy... Với tớ mùi mắm tôm chanh sủi bọt, thịt chó cứ là Chanel số một, cộng mới chai nút lá chuối là Chanel số hai, số còn lại cho các ông tự xếp loại, hà... hà... Học ăn. Học nói. Học gói. Học mở. Kinh chưa? Rõ khổ, cái đáng học đầu tiên lại là học ăn... Sao lại khổ? Có thực mới vực được đạo chứ? Ơ, thế hóa ra từ xưa đến nay ta không có đạo à? Thôi đi các bố, hết khôn dồn đến dại... Này, sắp được nghỉ mấy ngày lễ, cánh ta mở hội nghị Diên Hồng chứ nhỉ? Thử xem chàng chính khách có tài trợ được không? Các ông tưởng tôi giàu lắm đấy à? Thôi thì ông cấu đít số lẻ cái hợp đồng mà ông vừa đi châu Âu ký kết ấy? Ai bảo ông thế. Thế ông không biết phàm những gì dính đến kim đều để lại ánh hồi quang à? Thôi, đừng có nhìn vào túi nhau, muốn ăn thì góp, đáng gì! Nhất trí! Nhưng mà này tôi để ý, cứ sau một đám ma là cánh mình lại tụ tập, còn không đố nhìn thấy ai?... Nào các cha, đứng vào hàng đi, sắp hết giờ viếng rồi đấy. Vòng tròn người như cục kẹo singgum được kéo dãn ra bắt đầu uốn lượn vòng vèo tiến về phía cổng nhà tang lễ chất đầy vòng hoa với những dòng chữ trắng tinh khiết như lệ rơi. Anh lặng lẽ đi vào cuối hàng, không dám ngẩng gương mặt hây hây đỏ tỏa mùi thơm dìu dịu của Chanel số hai nhìn hàng người đáp lễ đứng bên lối đi. Lúc quay ra, người đồng nghiệp nhỏ thó và cũng là trưởng phòng của anh huých cùi chỏ vào mạng sườn. - Uống không? Anh lắc đầu: - Hẹn con gái rồi. - Có chuyện gì không? - Không. Vấn an nó thôi. Người đồng nghiệp túm lấy khuỷu tay anh lôi đi. - Vẽ chuyện. Còn được vấn an cả đời. Sợ không có sức thôi. Có chai tư bản người ta vừa cho, mang về là con vợ đem hóa giá liền... Đi... - Mới đầu anh hơi trì người lại, nhưng người đồng nghiệp tựa cả vào vai vào lưng anh để ủi đi. - Tưởng lập trường thế nào? - Người đồng nghiệp bật cười, rời vai khỏi lưng anh khi thấy bước chân trở nên nhẹ nhõm - Cứ tưởng phải ủi đống đá. Chả bằng bãi cát vãi. Đi đâu? - Đâu chả được! Họ đến một nhà hàng hẻo lánh ven hồ Tây. Giờ này vãn khách. Chỉ có hai đôi đàn ông đàn bà ngồi ở hai góc nhà hàng một nửa che lấp dưới tán cây vạn tuế, gốc to như chiếc cổ bướu đầy nếp nhăn. Cả hai cặp đều ăn rất ít vì trên bàn còn đầy thức ăn. Chỉ cười và thì thầm. Cả tám con mắt như tám cái gương chợt xoay về phía hai người vừa đến ồn ào kéo lê chân ghế kêu lục cục trên mặt sàn. Anh chợt soi thấy vẻ thô lỗ của mình trong tám cái gương ấy, khẽ cúi đầu xin lỗi. Chiều thoang thoảng như nồi canh suông nhạt nhẽo. Nhưng anh thích những chiều như thế này. Bởi có thể thêm bất cứ những gì anh muốn vào đại dương trống rỗng đến vô cùng này. Một chút mơ mộng. Một chút say đắm suy tư. Cả những lơ đễnh, dềnh dàng. Mọi nguồn cơn bực tức có thể bùng cháy bất cứ lúc nào trong cơn đổ lửa của mùa hè, khi chảy vào buổi chiều mơ hồ thế này, cứ như thể rót vào cái túi không đáy. - Hôm nay có sự gì đáng giá mà đi cả chai X.O thế này? Người đồng nghiệp gật gù vẻ đắc ý. - Rất đáng đấy? - Thăng chức à? - Ông nhìn xem tôi có cái vẻ của thằng được thăng chức không? Hôm nay tôi cưa với ông hết chai này. - Xem ra ông uống vẫn còn oách nhỉ? - Đây là công việc giống nhau duy nhất của cánh đàn ông bây giờ - Nói xong người đồng nghiệp có vẻ mỉa mai cười - Tôi thấy đàn ông không vì rượu thì chẳng có lý do gì ngồi lại với nhau. Tỉnh táo thì trở nên nhạt thếch và thủ đoạn. Uống đi? Đêm ấy anh tỉnh dậy vào lúc hai giờ sáng. Nằm trên giường tại nhà. Cũng không hiểu sao lại mò về được đến nhà. Lạ thật. Cổ nóng rực, khô rống rễnh. Khắp nhà không còn một hạt nước. Định mở cửa ra kiếm nước thì bị chốt ở bên ngoài. Ai vậy nhỉ? Hay hôm qua có ai đưa mình về? Ai. Người đồng nghiệp còn say trước cả anh cơ mà? Lại quay lại giường nằm. Vẫn còn cảm giác lơ mơ. Cả người như miếng bông thấm nước bẹp dính xuống giường. Cô quạnh. Bất lực. Rã rời. Mọi ý nghĩ bị kéo mỏng cho đến khi không còn phủ sóng được tâm trí nữa. Chiều nay họ đi cả chai X.O, rồi còn gọi cả chai gì gì không nhớ nữa. Lúc ấy nhãn mác chẳng còn quan trọng, miễn là acl/vol có độ trên 40, thấp hơn chỉ tổ chua miệng. Không thể dừng được, chả khác gì bị lũ cuốn Người sũng ra. Xương ống chân dẻo như bột, vo viên vào còn dễ hơn là duỗi thẳng. Cái tật uống rượu này bao năm rồi không sửa được. Kể cả là mất vợ, mất con cũng đành chịu. Hồi đầu còn kén người ngồi cùng, sau thì ai cũng được, nhất là những khi rỗng túi như chiều nay. Đã uống anh lại đặc biệt ít lời, và cũng chẳng nghe thấy gì nữa, thành thử tri kỷ tri âm hay người lạ người dưng cũng như nhau cả. Mỗi lần như thế, tỉnh dậy chẳng thấy trách người mà chỉ thêm ghét mình. Chưa hết cơn ghét này thì manh nha nguồn cơn bão lòng mới đã lại thấp thoáng ở đâu đó xung quanh anh. Lại bị cuốn đi. Cầm lòng vậy, đành lòng vậy. Đây là công việc duy nhất trong đời mà anh làm không bị gián đoạn vì bất cứ lý do gì, miệt mài, cần mẫn mà không cần một chút cố gắng nào. Thử hỏi không uống thì biết làm gì cho hết cái đời người dài đằng đẵng? Vợ bỏ đi Tây với người chồng mới rồi. Con bà ngoại nuôi. Trước đây khi ra tòa ly hôn anh nhận nuôi con bé. Anh đã là ông bố nghiêm chỉnh trong suất sáu tháng, nghĩa là đón con đúng giờ, nấu cơm cho con ăn đúng giờ, cho con đi ngủ đúng giờ để đảm bảo sức khỏe, và hàng ngày đèo con đi học cũng đúng giờ. Đơn giản. Rất đơn giản. Nhưng khi cái quỹ cố gắng của anh cạn kiệt thì anh thấy hóa ra sự mực thước là khó vô cùng. Một lần uống quá say anh quên cả đón con ở trường mẫu giáo. Không biết làm thế nào cô giáo con bé lại hỏi được số điện thoại của bà ngoại. Chỉ một cú a lố a lồ lập tức bão tố của những lời rủa sả dành cho thằng cha mất nết cuộn lên và cuốn con bé ra khỏi tay anh: Thực ra bà ngoại không tức đến thế nếu không có chuyện là sau đó bà gọi anh để đến đón con, nhưng lại có một giọng lè nhè nói rằng, khi nào tỉnh con sẽ đón cháu. "Đúng ba hôm sau nó mới tỉnh, thì lúc ấy con bé đã được cô giáo đưa trả về tao rồi'! - Bà ngoại kể với vợ anh khi điện cho chị về giải quyết gấp chuyện gia đình. Lại tòa án. Lại phân xử. Anh bị tước quyền nuôi con. Mà lúc đến tòa cũng có tỉnh hẳn đâu. Mọi đối đáp với tòa anh để vợ trả lời, không đồng tình, không phản đối, chỉ ngồi im mắt nhìn xuống đất vẻ nhẫn nhục, chịu đựng. Ra khỏi tòa án đã có ông bạn sẵn sàng thay người nâng khăn sửa túi đứng chờ để giúp ổn định tư tưởng. Đàn ông chỉ an ủi nhau bằng lời suông nếu không bảy phần giả dối thì cũng tám phần mượn ý vay tâm của người khác. Chỉ có cách uống. Uống sừng sừng, vỗ vai nhau một cái, chửi tục một câu là xong sứ mạng của người đỡ đầu tinh thần. Lúc khí thế dám đạp bằng thói an phận thủ thường cuồn cuộn dâng cao thì họ giã biệt ai về nhà nấy, sẵn sàng nghênh chiến với mọi sự. Nhưng khi giã rượu họ trở nên yếu đuối như kẻ đang tương tư sầu muộn cảm thấy thật bơ vơ. Cái đám bèo tấm ấy lại tụ đặc kín quanh nhau, chả gì bắt họ rời xa nhau thật lâu. Bởi' thế cứ hễ một người bị vợ con gây sự là người khác biết điều tản ra, không náu được thì cũng tìm cách ngụy trang sao vô can. Đến khi vợ chồng anh kéo nhau ra tòa, đám bạn bèo tấm vẫn cứ ngỡ anh chị làm mình làm mẩy với nhau. Chả kịp hòa giải nữa. Nhưng chắc chắn họ bỏ nhau không phải vì anh hay rượu. Đám vợ có chồng rượu chè chỉ hay cấu chí nhau, ít khi bỏ được. Đố ai nói được sự rã đám của một tập hợp người bằng nguyên nhân cụ thể nào đó? Nhưng có thể dẫn ra muôn vàn cái cớ. Cái cớ ở anh rành rành ra đấy, anh nào dám chối. Trong ba loại người cần thiết, loại có cũng như không và loại đáng bỏ đi thì vợ anh luôn nói anh đứng ở loại hai. Đám bạn ngây ngây cười vỗ vai anh, thế cũng là vinh dự tự hào rồi. Bây giờ thì anh tin mình là loại vô dụng thật. Vô dụng đến mức anh có trót làm chuyện gì lố bịch thì cũng chả ai tức giận nữa. Bởi nên tình yêu nguyên vẹn của con gái dành cho anh đến giờ phút này vẫn luôn làm anh ngỡ ngàng run rẩy. Tuần trước, lần gần đây nhất khi ghé thăm con gái cứ kéo tay anh qua song sắt, căn vặn khi nào được về sống với anh. Anh nói chẳng bao lâu nữa. Con gái hỏi: "Bao giờ bố tỉnh à?". Đành ậm ừ cho qua chuyện. Nó nói tiếp: "Kệ, con chả sợ bố say đâu, bố cứ cho con về với bố đi". Đến nước ấy thì anh đành lên xe phóng đi kẻo sợ mình khóc trước mặt con. Anh không nhớ chính xác mình bắt đầu uống rượu từ khi nào. Phàm người ta uống rượu chỉ khi vui. Khi ấy đầy những ước mơ dự định trong công việc, mỗi ngày là một thành quả mà đồng nghiệp bạn bè tới tấp đến chia vui. Đến khi thực tế xoay lại gương mặt thật của nó thì mọi dự định ước mơ thu dần lại như miếng da lừa của Bandắc. Tới lúc ấy thì anh mới biết là đã kết duyên với người bạn tâm giao vô hình vô ảnh, làm tê dịu sự phản kháng chỉ chực trỗi dậy. Tự bảo rằng chuyện ở ngoài ngôi nhà của mình thì phải đâu là nỗi buồn của riêng mình nhưng sao vẫn đa mang nặng lòng. Đời ơi là đời! "Anh tưởng mình giỏi lắm đấy mà ngồi chửi đời? - cô vợ đã rít lên trong cái lần say sũng người anh đã trót buột ra những lời cay đắng - Anh thử nhìn mình xem! Chả khác gì cái túi da đựng rượu: Đứng gần anh chỉ nghe thấy tiếng nước sủi ùng ục. Muốn sự thật gì? Có mà sự thật nằm dưới đáy chai ấy, hiểu chưa?. Nhất trí! Thì thôi không nói nữa. Nuốt vào vậy. Nhưng nuốt nhiều quá lại khao khát được chì chạt chan húp để nén lòng. Không đối thoại thì đối tửu vậy. Thành thử cứ vắng nhà suốt rồi uống nhiều hơn. Và đã học được thói nín lặng trước mọi sự. Trước còn muốn tung hê tất lật những chướng tai gai mắt, giờ thì hạ thổ cặp mắt mình dưới ba tấc đất cho rồi. Thế nên nhất quyết không được tỉnh. Anh đã tìm được cách gây tê nỗi đau đớn cho mình. Không thế thì chiều này làm sao có thể ngồi hàng sáu bảy tiếng đồng hồ với cái thằng đồng nghiệp trời đánh ấy. Là bạn đồng niên cùng thời đại học. Cùng làm cơ quan. Là cấp trên trực tiếp của anh. Bấy nhiêu đấy mà vẫn không là bạn được. Người này trước đây đã khiến bao hàng mi trên những cặp mắt thiếu nữ đập cánh bối rối. Đẹp trai. Học giỏi. Nhiều tài lẻ. Lấy một cô vợ thành phố. Tiếng nói phải để ý lắm mới thấy những di chứng trong việc thay đổi dấu một cách tùy tiện. Tài năng vừa khuôn công chức. Đạo đức hợp lý. Chỉ một thứ mà anh ta cho là tội tổ tông truyền đến tận đời anh ta mà bao nhiêu nước sông Hằng cũng không rửa nổi, là gốc rễ thấp hèn, cái mà anh ta luôn tìm cách giấu đi. Anh ta bọc kín nỗi mặc cảm trong cái bằng đỏ học ở nước ngoài, ở những mối quan hệ danh giá, ở ngôi nhà tuyền trang trí những cái mang từ nơi văn minh về... ở nơi làm việc ai cũng ngài ngại anh ta tuy lúc nào cũng mỉm cười thân ái vui vẻ. Không phải vì cái chức vụ anh ta giữ ghê gớm. Anh ta giống như một giọt mắm tôm vô tình rớt trên ngực áo, không nhìn thấy, nhưng cái mùi găn gắt, thum thủm cứ bám đuổi cho đến tận khi nào lột cái áo đó vứt đi. Và nỗi ám ảnh sẽ còn dính ở bất kỳ hơi thở nào đi qua hai lỗ mũi vài ngày sau đó. Đồng nghiệp tìm cách xa lánh bằng nụ cười ngọt ngào và những lý do thuyết phục đến mức chính họ còn tưởng là thật. Chỉ có anh là không sao cưỡng lại được lời rủ rê của người đồng nghiệp. Bởi lời mời của anh ta bao giờ cũng được ướp đủ các loại mùi Chanel quyến rũ mê hồn mang nhãn mác tư bản mà khi đọc lên âm thanh của nó còn ngân vang mãi như bản thánh ca... Hôm nay lại có nguyên chai X.O. Anh ta dám đem cả chai nước thánh mà mọi khi thường hóa giá hoặc chỉ nhấp từng ly nhỏ vào canh khuya trong phòng riêng lúc vợ con đã đi ngủ xoa dịu nỗi hận đời vốn không công bằng với mình, để uống mừng cơn hoạn nạn của một đối thủ của anh ta. Đã mấy lần nhìn vẻ vui mừng khốn khổ, lời lẽ cay độc bất nhẫn của người đồng nghiệp dành cho đối thủ, anh đã định đứng dậy hắt cả ly rượu vào mặt hắn, nhưng lần chần nghĩ ngợi một lúc lại quên mất và lạc sang ý nghĩ rối bung của riêng mình. Rồi lại uống. Lại lần chần, ngần ngại khi nâng ly rượu hắn rót cho anh một cách chân tình. Sau đó thì say. Mà những người say vốn hay thương nhau. Hình như họ đã ôm lấy nhau mà khóc. Có tiếng lạch xạch ngoài cửa. Anh hơi nhổm người dậy nhưng bỗng nhắm mắt lại. Trần nhà như đang rụng xuống. Còn căn phòng bị đặt trên cái đu quay tít mù. Anh nằm vật ra thở. Có tiếng bước chân khe khẽ tới gần. - Chú dậy chưa? Tiếng bé gái nhỏ nhẹ hỏi. - Anh cố mở mắt ra. Bé gái đứng bên cạnh nhòm nhòm mặt anh. Anh cố mỉm cười với nó. Bé gái nhoẻn cười. - Cháu chỉ sợ chú dậy rồi mà không ra được ngoài. Anh dịch người vào bên trong để lấy chỗ cho nó ngồi xuống bên cạnh. - Thế hóa ra bé con khóa cửa ngoài cho chú đấy à. Bé con cười tít mắt, kể: - Đêm qua lúc cháu ở ngoài ga về thì thấy chú cùng với cái xe máy đổ ở ngoài đường kia kìa. Chú chả biết gì nữa. Cháu cứ tưởng chú chết rồi cơ. May có một bác đi ngang qua, cháu nhờ bác ấy dắt xe và đưa chú về nhà. Xong cháu khóa luôn cửa lại vì sợ kẻ trộm. Nếu nó vào khiêng tất tật các thứ đi chú cũng chả biết. Thế chú uống rượu à? Anh cười ngượng nghịu gật đầu. - Uống thế thì vất vả nhỉ? - Bé gái gật gù ra vẻ hiểu biết - Cháu cứ tưởng uống rượu phải sướng lắm cơ! Anh bật cười. - ừ, đúng là vất vả thật! Thế bé con đi đâu sớm thế này? Bé con chìa bó báo vẫn cầm trên tay từ lúc vào đến giờ ra cho anh xem. - Chú cho cháu gửi ở đây nhé. Hôm qua những người đồng nát trả cháu nghìn rưởi, cháu đòi nghìn tám mà không chịu, cháu không bán nhưng bà ấy cứ đòi. Thế là bà ấy đánh cháu. Ban đêm cháu để dưới người rồi nằm đè lên ngủ, thế mà sáng nay bà ấy dậy sớm định lật người cháu lên để lấy. May mà cháu tỉnh dậy, chạy vội lên đây. - Bà ấy là mẹ bé con à? - Không. Mẹ cháu mà ác thế á? Chú cho cháu gửi ở đây, bao giờ được nhiều, mấy lại phải được giá cháu mới bán. - Chú có ít báo cũ đấy, bé con có muốn lấy không? Đôi mắt bé con rực lên lóng lánh những tia sáng. - Có chứ! Cháu phải đi nhặt từng tờ người ta vứt ở ngoài đường ấy. Tờ nào bẩn quá cháu lấy giẻ lau sạch cất đi. Thế mà cũng được nhiều ra phết. Bé con nhìn căn phòng trong ánh ban mai dìu dịu màu xám hắt qua cửa sổ tìm chỗ để cuộn báo. - Cháu để đâu cũng được. Bé con đặt cuộn báo vào nóc tủ buýp phê, sát tường. Anh cố ngồi dậy một lần nữa nhưng vẫn không xong, lại vật xuống. - Chú mệt à? - Bé gái chăm chú nhìn anh. - ừ có lẽ vậy! Anh bắt tay lên trán, khẽ thở dài - Bé con có thể đun giúp chú ấm nước được không? - Dễ ấy mà. Chú đun bằng ấm điện hay bằng bếp. - Cái ấm điện chú để trong kia kìa. Bé con đi vào. Tiếng vòi nước róc rách chảy vào ấm. Tiếng nắp ấm va loảng xoảng. Lâu rồi anh mới được nằm thư thái để lắng nghe cái tạp âm trong căn phòng của mình. Đôi khi người ta cứ hay thèm cái vẩn vơ như thế. - Bé con có thể mua giúp chú bao thuốc được không? Bé con chùi tay ướt vào cái quần cũ bẩn cóc cáy. - Thế chú có muốn ăn gì không? Đêm qua lúc chú nằm ngoài kia nôn sạch cả ra đất. Anh đưa tiền cho nó dặn mua bao thuốc lá và hai gói xôi để hai chú cháu cùng ăn. Bé con vụt chạy đi. Anh biết con bé mới gần một tháng nay từ lúc cứ tối đến nó về ngủ dưới gầm cầu thang khu nhà của anh cùng với một người đàn bà bệnh hoạn bủng beo, rụng mất mấy cái răng. Mới đầu nó hay sán lại xin anh và những người trong khu nhà lúc thì vài trăm bạc lẻ, lúc thì bất cứ cái gì có thể ăn được. Mới đầu người ta xua đuổi nó, nhưng rồi nhờ sự nhẫn nhục đầy vẻ biết điều nên nhiều người dúi cho nó lúc thì hai trăm, năm trăm, lúc thì cái bánh mỳ quá nhật cứng quèo, lúc thì bát cơm, quả táo bị thạch sùng gặm mất một góc... Bé con chả chê, bao giờ cũng tỏ lòng biết ơn bằng cái nhìn sáng rực và nụ cười tươi bất tận. Hằng ngày anh thường trở về nhà khá muộn với gương mặt ngây ngây hay cười vu vơ, sẵn sàng đùa cười với những ai trêu chọc mình một cách dễ dãi. Dù mới đến bé con này cũng biết chộp ngay lấy cơ hội của nó. Bé con đến sát bên anh, ngẩng nhìn anh cười thân thiện, giúp nhấc xoay cái đuôi xe bỗng nặng như bị ghì chặt xuống đất. Anh móc túi hào phóng cho nó khi thì hai nghìn, ba nghìn, thậm chí năm nghìn, hoặc trong nhà còn thứ gì ăn được, xoa đầu gọi nó là bé con, cái biệt danh xem ra nó khoái chí. Lần nào con bé cũng cầm những thứ xin được chạy vụt về gầm cầu thang, nơi mụ đàn bà bệnh hoạn đang trố mắt nhìn ra ngoài chờ đợi. Mặc dù mên mến con bé nhưng chưa lần nào anh nói chuyện với nó. Đúng ra từ bấy đến giờ chưa lúc nào anh tỉnh để có thể cùng tâm sự chuyện đời theo kiểu một già một trẻ. Bé con chạy vào. Nó để gói xôi của anh lên đầu giường, giục anh ăn và giở nắm xôi bé tẹo còn lại trong gói của nó ra ăn ngon lành. - Sao gói của bé con còn ít thế? - Cháu đưa cho bà ấy gần hết rồi. Đợi nó ăn hết phần, nhặt từng hạt xôi còn dính trên giấy vẻ thèm thuồng, anh bảo: - Bé con ăn nốt gói của chú đi. - Chú không ăn à? - Chú mệt! Bé con cầm gói xôi lên ăn luôn. - Thế này là cháu được no đến chiều rồi. Bé con nhìn xéo anh một cái vẻ kẻ cả. - Cháu đã từng làm thuê cho quán phở rồi đấy. Bà chủ bắt cháu làm tất. Cái gì cháu cũng làm được, đừng tưởng! - Sao đang làm ở đấy bé con lại bỏ đi lang thang thế này? - Tại bà ấy đấy! Bé con chỉ ra ngoài cửa. - Thế trước khi làm ở quán phở thì bé con ở đâu? - Anh gặng hỏi. - ở đâu á? Để cháu nhớ xem nào? - Bé con giả vờ nghĩ ngợi - A cháu ở dưới gầm cầu, chỗ mà xe lửa chạy qua ấy. Một lần đi ăn xin ngang qua quán phở, cháu làm giúp bà chủ quán, bà ấy thích quá cho cháu ở lại làm thuê. - Thế trước khi ở gầm cầu thì ở đâu? - Cái chú này hỏi gì mà khó thế - Bé con cười khinh khích - Trà ngấm rồi đấy chú uống đi. Anh nhấp chén trà bé con rót cho và cảm thấy cổ họng nóng rát dịu mát như vừa thấm cơn mưa bất chợt. - Chà, ngon tuyệt! Chưa bao giờ chú được uống chén trà ngon như thế này. Bé gái lại khinh khích cười. - Sao bé con lại cười? Không tin chú à? - Chú uống trà cứ ngon như ăn thịt ấy. Trông buồn cười lắm. Anh khoan khoái rít liền mấy hơi thuốc lá sâu xuống tận đáy lòng đang rỗng rễnh, khiến nó cuộn rực như nâng cả người lên bay bổng. - Ngày xưa mẹ cháu cũng hay uống trà lắm - Bé gái nhìn vẻ mặt ngây độn của anh chăm chú - Nhưng mẹ cháu không uống như chú đâu. - Mẹ cháu đâu rồi? Bé gái lắc đầu nhìn ra ngoài cửa sổ. - Cháu không biết! - Thế nhà bé con ở đâu cũng không biết à? Bé con bật cười. Nụ cười cứ tươi rói như không thể cười khác được. - Chú hỏi buồn cười thật đấy. Nếu biết thì cháu phải về nhà chứ. Cháu chỉ nhớ hồi còn bé mẹ hay đưa cháu ra công viên chơi buổi tối. Mẹ để cháu chơi ở chỗ các bà bán trà có cái đèn dầu ấy, còn mẹ vào công viên một mình. Mẹ không cho cháu vào đấy vì trong ấy toàn các bác ma thôi. Lâu lắm, phải đến lúc cháu sắp ngủ gật mẹ mới ra và cho cháu về nhà. Cái bà chủ nhà chỗ cháu ở ác lắm, không bao giờ cho cháu chơi với con bà ấy. Mấy lần mẹ cháu đánh nhau với bà ấy vì bà ấy đánh cháu. Mẹ cháu còn bảo không bao giờ cho cháu vào... vào... cái gì ý nhỉ - Bé con gãi gãi mái tóc rối vì không nghĩ ra điều cần nói. Nó bỗng nổi cáu với chính mình, đập vào đùi bồm bộp - Cái chỗ tuyền trẻ con ý, nhưng ở đó không có bố mẹ đi theo đâu. - A, chú hiểu rồi, có phải trại trẻ mồ côi không? -Đúng rồi, đúng rồi. Thế mà cháu không nghĩ ra... Chú uống trà nữa không? - Có cho chú chén nữa... Thế rồi sao nữa, bé con có nhớ không? Bé con rót thêm nước ở trong phích vào ấm trà, thủng thẳng nói tiếp: - Có một buổi tối, tự nhiên cháu thấy các chú công an đi xe ô-tô đến công viên đông ơi là đông. Tất cả mọi người chạy tứ tung... Bé con bỗng cười sằng sặc làm anh cũng phải cười theo. Nó ngửa cổ nhìn lên trần nhà như sợ cái cười ở trong miệng rơi ra mất. Mãi lúc sau mới kể tiếp. - Có một cô đang ngồi đái bên cạnh gốc cây, không kịp kéo quần cũng đứng lên chạy nên bị ngã, bị chú công an bắt được. Cháu thấy cô ấy khóc nhưng chú công an vẫn đưa ra xe ô-tô. Đêm ấy cháu đợi mẹ mãi mà không thấy đâu. Cháu đi khắp công viên nhưng chả còn ai. Đến sáng có mấy đứa ăn xin đi ngang qua rủ cháu đi theo chúng, thế là cháu ra ở gầm cầu. Rồi bé con lại cười khinh khích, khinh khích. Anh cũng khùng khục cười trong cổ họng. Nhìn con bé râm ran thế kia không thể không rộn lên theo nó được. - ở gầm cầu có một thằng rất buồn cười. Đầu nó ngoẹo sang một bên nên người ta toàn gọi nó là Ngoẹo. Ngày xưa nó bị bố nó say rượu cầm chân dốc ngược người đập đầu vào tường nên cái đầu bị vặn sang một bên. Nhưng mà nó chạy nhanh lắm chú ạ. Nhìn nó chạy ai cũng phải buồn cười. Người ta bắt nó chạy rồi mới cho cái ăn hay cho tiền. Nó bao giờ cũng xin được nhiều nhất và chia cho bọn cháu. - Thế bọn nó bây giờ ở đâu? - Cháu làm sao biết được? Có khi chúng nó vẫn ở chỗ gầm cầu ấy. - Bé con có muốn ra chỗ đó tìm chúng nó không? Bé con lại cười tít mắt, lắc đầu. - Chắc là xa lắm? Mới lại chúng nó cũng còn phải đi xin ăn như cháu ấy. Cháu bây giờ chỉ đi tìm mẹ thôi. Chắc là đi mãi thế nào cũng gặp. Tiền bán báo là để dành đi tìm mẹ đấy, cháu không ăn vào đó đâu. - Thật à? - Thật chứ! Mẹ yêu cháu lắm. Bé con đứng dậy vươn vai, chép miệng kiểu bà già, thở hắt ra một cái. - Cháu lại phải về đi làm đây. Trưa không kiếm được cái gì ăn bà ấy lại chửi cho điếc cả tai. - Bà ấy có họ với bé con à? - Họ gì mà họ với cái bà điên ấy. Bà ấy ăn khỏe lắm chú ạ. Có hôm bà ấy ăn hết cả hai cái bánh mỳ. Ăn thế kiếm sao cho đủ? Anh bật cười nghe cái giọng cụ non của nó. Bé con trợn mắt nhìn anh. - Cháu nói thật đấy! - Thế sao bé con lại ở với bà ấy? Bé con ghé sát tai anh thầm thì. - Cháu chỉ nói cho chú biết thôi đấy. Bà ấy biết chỗ mẹ cháu, nhưng bây giờ chưa nói được. Phải đợi đã. Chứ không cháu theo bà ấy làm gì! Chú không được nói cho ai đâu đấy. Nếu mà lộ ra thì người ta không cho cháu gặp mẹ nữa. Bà ấy bảo thế! - Được, chú hứa! - Cháu ra ga đây! Bé con chạy vụt đi. Ngồi mãi ở trong nhà bức bí nhưng lại chả biết đi đâu đành phi xe đến nơi làm việc vào buổi chiều. Lúc ấy mọi người đang tụ tập đông đủ quanh bàn nước, hình như bàn luận chuyện gì đó. Tất cả quay lại nhìn anh, những cặp mắt dò tìm háo hức. Bất giác anh đưa tay lên sờ da mặt mình mà anh biết chắc chắn đã bị ngót nước quắt lại, lộ rõ những lỗ chân lông thẫm mầu hõm xuống thường thấy sau khi rượu đã theo hệ thống kênh rạch chằng chịt tưới đẫm cho từng tế bào của cơ thể để khi cạn đi làm nước bốc hơi theo. Một cảm giác tội lỗi chợt như một bóng đen chạy vụt qua khung cửa khi anh nghĩ rằng mọi người đã biết cuộc rượu tung giời nổ đất chiều qua. Câu chuyện bị dừng lại đột ngột vì sự có mặt của anh còn hiện rõ trong cái vẻ ngây ngây trên từng gương mặt và những cái nhìn toan tính. Anh cảm thấy mình khiếm nhã vì đã xuất hiện không đúng lúc. Anh giả vờ cắm mặt ngay xuống quyển sách để trên bàn nhưng phải nhắm ngay mắt lại vì cảm giác nôn nao bỗng từ ruột gan cuộn lên. Máu dồn ứ lên hai thái dương thắt nở như theo nhịp đập của quả tim, có lúc tưởng sắp bục ra. Anh ngồi lặng đi... Một người ngáp dài rồi vươn vai đứng dậy ra ngoài. Người thứ hai nói to lên là quên cái gì đó cần đi lấy về. Người thứ ba kêu mệt mà không khí trong phòng sao lại ngột ngạt đến thế... Lát sau trong phòng chỉ còn lại mình anh. Anh khẽ nhếch mép cười một mình. Như vậy là đài phát thanh tự do đã tìm được địa điểm mới thích hợp hơn để phát đi bản tin chiều. Từ lâu anh không được coi là cái trạm tiếp sóng đáng tin cậy vì cái vẻ lờ đờ ba phải, hết mọi sự quan tâm đến công việc cơ quan, hơn nữa lại thỉnh thoảng có những cuộc rượu khá mờ ám với tay trưởng phòng chính là đồng môn đạo tửu hôm qua. Kệ! Đỡ điếc tai! Anh thấy lòng thảnh thơi. Một lúc sau thằng cha quắt queo, còn nhỏ hơn cả gã trưởng phòng đi vào, đến bên nhìn vào quyển sách anh để trước mặt, liếc nhau một cái. - Giờ này ông vẫn còn quan tâm đến vấn đề nội bộ sinh thái à? - Y hỏi và châm thuốc hút, chìa bao thuốc có một điếu rút sẵn về phía anh - Ông hút thuốc? Đọc làm gì. Nếu ông cần biết, tôi nói qua cho mà nghe là ông nắm được ngay. Này, cái thuyết sinh thái bề sâu bây giờ xem ra phần nào có lý ông ạ. Loài người hư hỏng đến mức cần phải đảo ngược trật tự ưu tiên thừa hưởng truyền thống của họ, thậm chí phải hạn chế quyền lợi của họ, ông ạ. Có đúng thuyết ưu sinh nói thế không? Để gã không phiền nhiễu mình, anh nhũn nhặn. - Ông đọc rồi thì chắc ông nói là phải. Gã cười khùng khục. - Bỏ cái vẻ khiêm tốn đểu cáng ấy đi! Anh cười khẩy chẳng phản đối cũng chẳng ra thừa nhận. - Nhưng tôi khoái cái đểu của ông vì thực ra do ông chán bản thân mình, ông thấy mình vô dụng. Tay trưởng phòng bạn ông cơ, mới đáng tởm. Hắn ta đểu vì sợ người khác coi thường và rời bỏ mình. Tôi nói thế có đúng không? Anh nhìn gã tuồng như từ nãy không nghe thấy gì, vẻ bình thản dửng dưng. - Tôi muốn được đọc sách vì tôi sắp phải trả quyển sách này. Đến lượt gã dường như không nghe thấy anh nói gì, nhìn khói thuốc vẻ suy tư. Lát sau gã thủng thẳng nói tiếp như kiểu nói chuyện tâm tình. - Ông bạn đồng niên trưởng phòng của ông xem ra khó đấy nhỉ? Bao công chạy chọt phấn đấu, tội nghiệp! Anh cau mặt khó chịu. - Ông nói gì, tôi không hiểu? - Đấy, hứng khởi lên như thế có phải hay hơn không? - Gã lại cười khùng khục - Cái khuyết điểm lớn nhất của ông là ít chịu hứng khởi. Đến nước này thì tết nhất là im lặng. Gã khẽ thở dài có vẻ cám cảnh. - Xem ra đợt này bạn ông vẫn chưa được kết nạp, thấy bảo còn để phấn đấu tiếp. Lúc nãy họ vừa bàn tán như vậy đấy. Nếu thế thì cái chức phó giám đốc không đến lượt đâu vì nếu đợi thêm năm nữa thì quá mẹ nó tuổi rồi. Khổ chưa? Anh xoay hẳn người về phía y, nhìn rõ gương mặt như vừa được bơm hơi căng lên phởn phơ. - Các ông vừa ý rồi chứ? Gã không nhìn anh, vẫn cứ kiểu cười khùng khục. - Thế ông, nói thật đi, ông thấy bạn ông có xứng đáng chức phó giám đốc không? Anh lúng túng cúi mặt xuống quyển sách khi bất chợt gã ngẩng phắt lên, rọi ánh mắt sắc lạnh soi người anh. - Thực lòng tôi không quan tâm đâu, chỉ hỏi ông nghĩ sao về việc đó thôi cơ mà? Ông thấy chưa, nói thẳng lòng mình là một công việc nhọc nhằn nhất và chứa đựng khả năng đau đớn đấy. Gã cười rồi đứng dậy bỏ đi. - Anh bỗng bực bội gấp quyển sách lại rồi đứng lên. Không thể đọc được nữa. Cũng không thể ngồi lại chỗ này. Cho qua luôn ngày hôm nay đi. Anh ra quán trà cóc gần đó. Bà chủ quán vốn yêu quý anh, vui vẻ khoe ngay là có mười lít bản sắc dân tộc thằng cháu mới mang từ quê ra. Loại cất từ gạo nếp cái hoa vàng có thể xắt ra miếng được chỉ để dùng tại gia nhá, nhưng vì chú cũng là người nhà nên mời dùng thử. Thì làm một chén. Đằng nào anh cũng không định trở lại phòng làm việc nữa. Vừa nhấp đầu lưỡi, anh có cảm giác là một dòng lửa rừng rực làm phồng rộp khoang miệng rồi từ từ trườn theo cổ họng, rơi tự do xuống tận thăm thẳm đáy lòng nguội lạnh. Lập tức khắp người xốn xang, rạo rực, mọi ý nghĩ cựa mình tỉnh dậy. "Chú cứ tự nhiên. Hết nó lại mang ra cho. Cứ mười lít một lần. Gọi là say đến cả trứng chấy...". Khi anh uống xong cái tự nhiên theo lời mời của bà chủ quán hào phóng thì đôi tay trở nên yếu ớt như tay đứa trẻ, dắt xe máy chẳng khác dắt voi. Về được đến nhà thì trời vừa nhập nhoạng. Nhớ con gái cồn cào nhưng không dám đến với cái mùi không thể phong kín được này. Gọi điện sợ nó căn vặn vì sao không đến thăm. Mai vậy. Ngày mai nhất quyết không lội vào dòng sông chếnh choáng ấy. Anh bỗng ngồi thừ ra. Cõi chiều muộn tựa một lỗ đen xoay xoay, càng xuống sâu càng thấy thăm thẳm. Anh để mình dập dềnh trong khoảng không vô trọng lượng của nó. Căn phòng bừa bộn bỗng như khơi rộng, bốn bề trống trải gió lùa. Khối tĩnh lặng đặc quánh trĩu nặng đến tiếng tích tắc của đồng hồ cũng gõ thủng một lỗ hổng thật rộng. Nước mắt bỗng đâu rưng rưng thấm vào da thịt ứa ra ngoài. Cơ hồ mọi nỗi niềm cũng sắp tan thành nước chảy đi. Cuộc đời anh bỗng trải ra trước mắt như một lâu đài hoang phế. Những ngôi đền tình yêu đổ nát dang dở rêu phủ đang chen chúc cùng với đám cỏ hoang dại cằn cỗi của đời sống hiện tại. Những cội đá của mọi cố gắng bất thành sứt sẹo giống vết thương lở loét ngơ ngáo đứng nhìn trời. Những cánh cổng sắt hoen gỉ đổ xiêu vẹo đóng lại một tâm hồn mệt mỏi rã rời... Anh bỗng thèm một hơi thở nhẹ bên tai! Chỉ một hơi thở nhẹ thôi. Hơi thở nhẹ còn mơ hồ hơn cả một ý nghĩ chợt lóe bay qua tâm trí. Thế cũng được mà... Bất giác anh đứng lên đi ra ngoài không buồn khóa cửa. Anh đến gầm cầu thang gần đó. Bóng người đàn bà ngồi bó gối dưới gầm cầu thang hiện ra lờ mờ. Anh ngồi xuống bên cạnh thản nhiên như sắp vào cuộc trò chuyện. Bà ta cũng ngồi im không nói gì. - Bé con chưa về à? - Anh hỏi sau giây phút im lặng. Nó đi đón chuyến tàu chiều! Cái giọng the thé dính nhơm nhớp đờm trong cổ họng cất lên. Anh im lặng châm thuốc hút. Một cánh tay khẳng khiu giơ về phía anh. - Cho tôi hút mấy. Anh châm thuốc rồi đưa cho bà ta. Bà ta rít mạnh những hơi thuốc ngắn và ho sặc sụa. Giận dữ bà ta văng một câu chửi tục. -Sao bà không đi với bé con? - Khớp sưng tướng lết chả xong còn đi đâu? - Bà ta gãi sồn sột - Con ranh ấy còn bé gì nữa. ở quê được khối việc. Có vài người đi lên cầu thang. Thấy anh ngồi ở đó họ đi chậm lại tỏ vẻ ngạc nhiên. Anh quay mặt ra chỗ khác không có ý bắt chuyện nên họ tiếp tục đi nhưng ánh mắt vẫn còn quay lại phía anh. - Tôi có một đề nghị này muốn nói với bà... Bà ta nghe xong sững đi một lúc rồi dịch người về phía anh. - Cái gì? - Giọng bà ta đầy vẻ tò mò không giấu nổi. - Tôi hứa là nếu bà làm theo yêu cầu của tôi thì tôi sẽ cho bà một khoản tiền - Anh cố nhấn từng từ để tăng thêm phần quan trọng cho điều sắp nói ra. - Tiền à? Nhiều không? - Giọng bà ta háo hức. - Với bà tôi nghĩ là không ít. - Ông nói đi. Anh rít hơi thuốc cuối cùng rồi quẳng đầu mẩu ra ngoài xa, cố tình kéo dài thời gian để bà ta phải chờ đợi. - Bà hãy nói cho bé con biết là mẹ nó ở đâu nếu quả thực bà biết điều đó. Anh im lặng để lắng nghe phản ứng của bà ta. Bà ta ngồi im, húng hắng ho. Anh nhìn thẳng về phía bà ta chờ đợi. Họ như trong một cuộc bắt trò chơi. Anh dứt khoát không nói gì để buộc bà ta phải lên tiếng trước. - Nếu tôi nói điều này ông phải cho tôi tiền cơ... - Bà ta rụt rè nói nhưng không có vẻ gì sợ hãi. - Tôi đã hứa rồi mà. - Ông đưa trước tiền cho tôi. Anh lục túi lôi mấy đồng tiền nhàu nát ra vuốt cho thẳng và nhẩm đếm. - Tôi chỉ còn hai trăm, bà cầm lấy. Nếu bà nói sự thật thì ngày mai tôi sẽ cho thêm một trăm nữa. Tiếng cười nhỏ nhưng lổn nhổn trong cái giọng sưng tấy của bà ta. - Thật đấy nhá!....Ông biết không, tôi nói dối nó đấy. Tôi có biết mẹ nó ở đâu đâu. Chỉ nghe người ta kháo là con bé bị lạc mẹ ở công viên khi ở đấy người ta quây bắt gái làm tiền. Nó đang đi tìm mẹ... Ông tính tôi ốm yếu bệnh tật thế này không dựa vào nó thì khéo chả qua được mùa đông này... - Khốn nạn! Anh bỗng chồm lên xiết hai bàn tay quanh cổ bà ta. Người bà ta mềm nhũn đổ xuống đất và không kêu nổi một tiếng. - Khốn nạn đến thế là cùng! Anh rít lên, răng nghiến vào nhau trèo trẹo. Bỗng một sự tê dại chạy dọc cánh tay làm nó rã rời đau nhức khiến anh phải buông bà ta ra. Bà ta lồm cồm bò vào tận góc trong cùng gầm cầu thang như một con chó bị xua đuổi gầm gừ tự vệ. Anh thấy chạnh lòng, ngồi rũ ra thở hồng hộc. Chất men trong từng lớp màng mỏng tế bào vừa lắng dịu khi nãy giờ như được đổ thêm chất xúc tác bỗng vọt tăng nồng độ. Loạng choạng đứng dậy vịn tường, chưa lúc nào anh chợt căm ghét bản thân mình như lúc này. - Đêm nay bằng giá nào bà cũng phải nói sự thật cho bé con biết, nhớ chưa! - Anh bỗng chuyển giọng dỗ dành đầy vẻ dịu dàng nhưng hết sức rành rẽ. Cái rành rẽ chứa đựng sự kiên quyết tàn nhẫn - Nếu bà không nói tôi sẽ giết bà. - Vâng... vâng... - Giọng người đàn bà run lập cập - Nhưng... liệu nói ra sự thật có tốt cho con bé không đây? Anh xiêu vẹo bước đi. Có lẽ lâu lắm, không nhớ cách đây đã bao nhiêu năm, giờ anh mới ngồi lặng lẽ một mình suốt đêm dài mà không cần nhấn chìm trong cái thứ nước đắng ngắt đê mê kia. Lặng lẽ. Không khổ sở. Không cám cảnh. Không quằn quại. Chỉ lắng dịu sự chờ đợi. Anh dễ dàng hình dung vẻ khổ sở của bé con khi nó chạy đến với anh, nức nở với anh hệt như con gái mỗi khi gặp chuyện gì đó tủi thân... Anh sẽ bắt đầu cùng nó. Bắt đầu cái gì anh không biết? Bắt đầu từ đâu anh không biết? Nhưng phải bắt đầu. Dứt khoát là thế. Một bắt đầu là sự thật. Khoảng canh ba lòng anh bồn chồn không yên nên phải bước ra ngoài. Khu nhà yên ắng chìm trong gió lạnh đang nhả những hạt mưa lây nhây xuống mặt đất. Anh vươn vai một cái rồi đi về phía gầm cầu thang. Anh rón rén đi vào. Bỗng giật ngược người sững lại khi nghe tiếng rít lên the thé. - Đấy nhá, tôi nói rồi... Nhưng nó bỏ đi... Không phải tại tôi nhá... Anh quỳ hẳn xuống nền đất ẩm ướt để ngó vào gầm cầu thang. Người đàn bà ngồi thu lu trong góc, xo ro người để che lạnh. - Bà bảo sao? Bé con đi đâu? - Ngoài đường ngoài chợ ấy, còn đi đâu được nữa... - Bà kể lại đầu đuôi xem nào - Anh cố giữ lại không để giọng mình run lên. - Đêm qua nó về tôi nói hết cả ra. Nó khóc chửi tôi rồi nó ôm quần áo chạy biến đi... Thấy chưa, rõ dở hơi chưa? Anh cúi đầu nghe bà ta rủa xả những lời tục tĩu chặp nữa. Cũng chẳng biết bà ta rủa xả ai, anh, bé con, hay chửi chính bà ta? Anh bỏ về phòng. Có lẽ lâu lắm rồi, bao nhiêu năm cũng không nhớ nữa, đêm nay anh mới thấy mình tỉnh táo như có ngọn đèn tỏa rạng từ bên trong đến độ cả người như cục lân tinh đang phát sáng. Sự thật khi lộn trái ra cũng xấu xí và độc ác như sự giả dối vậy. Anh tê cứng như bị ngâm trong bể phoóc môn của một quyết định sai lầm. Sao bây giờ anh mới nghĩ ra điều này cơ chứ? Không chịu nổi bóng tối lem nhem trong gương mặt đen đúa phết quệt đầy tuyệt vọng lượt phấn mỏng, anh đứng dậy bật đèn. ánh sáng chớp lên tựa cái nháy mắt tinh nghịch rồi tắt ngấm. Bóng đèn đã bị cháy. Anh quờ tay trên mặt tủ buýp phê tìm kiếm thì vơ phải bó báo mà bé con cất vào đấy. Anh rút một tờ, xé một vạt bật diêm châm để tìm đoạn nến để đâu đó. Ánh lửa nhỏ như búp hoa sen nghiêng nghiêng trên đầu cây nến có những vệt kéo đen sì giống nước mắt của cô gái tân thời ngày nay bị dính đầy massca. Anh ngồi tựa lưng vào cánh tủ, ngay dưới bông hoa lửa. Tờ báo cháy mất một đoạn vứt bên cạnh. Bất giác anh cầm lên và giơ ra trước mặt. Có ba chữ to tướng đen sì chập choạng trong ánh lửa nhỏ hút lấy cái nhìn của anh: "Tìm TRẻ LạC". Định quẳng đi nhưng chút mơ hồ níu kéo nên anh đọc tiếp những dòng chữ nhỏ ngay sau đấy. "Mẹ là Hoàng Thị Hằng tìm con gái là Hoàng Thị Nga. Con đã bị lạc mẹ ở công viên Bách Thảo năm con lên bảy tuổi. Bây giờ con mười hai tuổi. Con có cái sẹo ở đầu gối do bị ngã lúc còn nhỏ. Ai có lòng từ bi đang nuôi nấng cháu thì xin báo cho mẹ cháu biết. Tôi xin hậu tạ!". Anh buông vạt báo xuống thẫn thờ nhìn qua song cửa sổ. Ngoài kia là đêm, là ngày, là gió bấc mưa phùn, là những điều anh đã biết, đã trải nghiệm, đã yêu thương, đã thất vọng, chán chường, là cả những điều anh chưa từng biết, là cả một thiên hà yêu ghét, giận hờn xa lắc mà sao vẫn thấy tù túng, ngột ngạt nhưng dễ gì rời bỏ... Có lẽ lâu lắm rồi, đã bao nhiêu năm không nhớ nữa, anh mới thấy mình lại phồng rộp trong nỗi đau khổ cuồng dại, nỗi phấp phỏng bất an cào xé, cảm giác được bứt phá từ đâu đó âm thầm lời giục giã dấn bước lên đường.[/FONT]
Tình yêu! Cuộc sống! Món quà tình Yêu Bích Thảo Chồng đi du lịch với cơ quan gần 10 ngày. Vợ hàng ngày vẫn phải lục đục dậy sớm đi làm, tối về lại lủi thủi một mình nấu cơm, xem phim rồi ôm gối đi ngủ. Vợ tủi thân lắm nhưng phải chấp nhận thôi, chuyến đi chơi của chồng vừa là để xả hơi sau cả năm làm việc vất vả, vừa là quyền lợi chồng được hưởng từ chế độ đãi ngộ của cơ quan. Vợ làm sao đành lòng ngăn chồng đi chơi được. Sáng hôm chồng đi, vợ chuẩn bị xong đồ ăn sáng rồi tạm biệt chồng, vội vàng đi làm. Chuyến đi chơi lần này, không thấy chồng hỏi lấy thêm tiền tiêu, lại sẵn việc vợ đang tủi thân nên cũng không đưa thêm cho chồng khoản “trợ cấp” nào. Tất nhiên tiền ăn ở đã được đóng từ trước, nhưng thường người ta đi chơi bao nhiêu khoản phát sinh. Không biết trong 10 ngày sắp tới chồng sẽ xoay xở thế nào, nghĩ đến đó, vợ chợt thấy hơi hối hận. Chắc là chồng đã “dự trữ” được một khoản kha khá nên mới đi mà không cần “nhận lương” của vợ như thế. Trong thời gian chồng đi du lịch, ngày nào vợ cũng nhắn tin, gọi điện tỉ tê tâm sự. Cứ nghĩ đến chuyện chồng được đi đây đi đó, thăm thú ăn nhậu, biết đâu trên đường đi lại gặp được cô em nào xinh tươi là vợ lại thấy "nóng trong người". Đến ngày thứ bảy, vợ gọi điện hỏi thăm thấy chồng kể đang nằm ở khách sạn. Hỏi sao chồng không ra ngoài đi chơi thì chồng giãi bày rằng đã hết tiền tiêu, đi đâu cũng thấy ngại. Nghe chồng kể vậy, vợ bỗng thấy mình thật ích kỷ và vô tâm, nghẹn ngào mãi một lúc sau vợ mới cất được lời động viên chồng. Thế là cả tối hôm đó, vợ bỏ lỡ bộ phim truyền hình yêu thích để buôn chuyện với chồng, mong cho điều đó giúp chồng thấy thoải mái hơn. Chồng đi chơi về. Vợ mở hành lý của chồng lôi đống quần áo chồng giặt qua loa ra để giặt lại. Vợ nhìn thấy ví của chồng nằm chỏng chơ dưới va li. Mở ví ra thì thấy bên trong ngoài giấy tờ cá nhân không có đồng nào. Vợ khúc khích cười trêu chồng: “Chồng em thành vô sản thật rồi, nhìn thế này em cũng chẳng dám đòi quà…”. Chồng đang ngồi uống nước ngoài bàn, cười tủm tỉm rồi lục trong túi ra một gói gì nhỏ nhỏ đưa cho vợ, nhẹ nhàng nói: “Quà của vợ này…”. Vợ đón lấy quà từ chồng, nhìn mãi mới nhận ra là túi hạt giống hoa. Vợ nhìn sang thấy chồng gãi đầu gãi tai cười chống chế: “Đi Đà Lạt thấy hoa này đẹp nên anh mua giống về cho em trồng”. Vợ bật cười trước điệu bộ dễ thương của chồng, ôm lấy cổ chồng thủ thỉ: “Cảm ơn chồng nhé, em thích món quà này lắm”. Vợ đem túi hạt giống gieo vào một chậu nhỏ, ngày ngày hồi hộp chờ cây mọc. Sáng dậy ra thăm thấy một mầm cây đã đẩy đất nhô lên, vợ hét ầm lên vui sướng gọi chồng ra xem. Chồng đứng nhìn vợ lăng xăng tưới cây và cười rất bí hiểm. Món quà của chồng sau một chuyến đi chơi thiếu thốn đã làm vợ vừa xấu hổ vừa cảm động và càng hạnh phúc bao nhiêu vợ lại càng thương chồng bấy nhiêu.
TÔI ,EM VÀ CƠN GIÓ Em đến đúng vào lúc mà niềm tin trong tôi về cái điều gọi là “tình yêu” đã cạn. Tạo hóa sinh ra con người ta theo cái cách kể cũng thật kỳ lạ. Tại sao không cho tất cả giống nhau đi để trái tim chẳng phải dành tình cảm đặc biệt đối với một người? Giá mà trong cuộc đời này ai cũng như ai thì tốt biết mấy. Nếu vậy thì chắc rằng tôi sẽ chẳng bao giờ phải nhớ về em nhiều đến thế này. Giống như một cơn gió, em đến và đi theo cái cách mà cho dù muốn thì tôi cũng chưa bao giờ có thể điều khiển được. Tôi đã từng thử giữ chặt lấy em, nhưng càng cố gắng nắm bắt tôi lại càng khiến em thêm rời xa tầm kiểm soát của mình. Những lúc ấy, tôi hoang mang, tôi sợ hãi, tôi cứ cuống quýt chạy đi khắp mọi nơi để kiếm tìm. Đối với tôi em chính là cuộc sống. Vì thế, tôi sợ lắm nếu đến một lúc nào đó em sẽ rời xa, sẽ tuột khỏi tầm tay với của mình. Nhưng cái gì đã là tất yếu thì nó vẫn phải diễn ra, ngay cả khi con người ta không muốn. Những điều mà tôi luôn e sợ rồi cũng trở thành sự thật. Em đã ra đi, bỏ tôi ở lại một mình. Tôi cũng phần nào đoán trước được kết cục của ngày hôm nay, chỉ không ngờ là mọi chuyện lại diễn ra nhanh như thế. Vắng em, tôi vẫn sống, nhưng là một sự sống lắt lay. Trái tim tôi ngày đêm mòn mỏi, nó héo que héo quắt cùng với sự tàn úa của tâm hồn. Sự ngây thơ xen lẫn hoang dại của em khiến tôi say mê (Ảnh minh họa)Đã có một thời gian tôi từng mất hết niềm tin vào cuộc sống. Sau bốn năm gắn bó, “mối tình đầu” đã vì giàu sang phú quý mà bỏ tôi đi lấy chồng. Ngay cả hai người mà tôi vẫn hằng kính trọng là bố và mẹ cũng đột ngột chia tay. Bố chạy theo một cô tình nhân trẻ đẹp, còn mẹ vì buồn khổ quá mà một thời gian sau cũng lâm bệnh rồi qua đời. Từ một người đàn ông lạc quan, bỗng chốc tôi trở nên hoài nghi về cuộc sống. Tôi không tin trên đời này có cái thứ gọi là “tình yêu”. Có lẽ con người ta đến với nhau là vì tò mò, vì thích thú, hoặc chỉ đơn giản là để lợi dụng nhau. Và một khi đã hết tò mò, hết giá trị lợi dụng thì… vĩnh biệt nhé “tình yêu”. Thế rồi em ùa đến bên tôi vào đúng cái lúc mà niềm tin trong tôi về cái điều gọi là “tình yêu” đã cạn. Em là một làn gió mát lạnh khiến tôi tỉnh thức cả con người. Làn gió ấy luồn sâu vào từng ngóc ngách, thổi tung đi hết những ngột ngạt, bí bách trong tâm hồn một kẻ đối với cuộc sống đang rất chán chường. Em giống như một thiên thần đến ban tặng cho tôi sự sống. Bỗng chốc tôi thấy thế giới xung quanh lại có màu sắc tươi sáng như thường. Em không giống như những người con gái khác, có quá nhiều điều đặc biệt mà tôi chẳng thể gọi chính xác thành tên. Em là một tổng thể hòa quện tất cả những thứ tưởng như là đối nghịch với nhau ấy. Em vừa ngây thơ vừa hoang dại, ngô nghê trong chính sự từng trải của mình. Em nhiệt thành, yêu thích tự do và luôn cháy hết mình cho cuộc sống. Em chỉ làm những điều mà mình thích, chỉ sống theo trái tim em mách bảo mà thôi. Em thông minh nhưng lại xen chút ngờ nghệch, lúc thì em cá tính, có khi em lại rất đỗi dịu dàng. Tôi không thể hiểu hết về em, mà em cũng chưa bao giờ cho tôi cơ hội ấy. Tôi chỉ nhận xét em bằng sự tinh tế của một người đàn ông đã trưởng thành, có lẽ cả bằng tư cách của một người rất yêu em và đã từng được em yêu nữa. Tôi chưa nếm trải cái cảm giác của người ta khi nghiện thuốc phiện là như thế nào, nhưng có lẽ nếu đem ra so sánh thì việc tôi say mê em chắc chắn cũng tương đương. Tương đương hoặc hơn. Tôi yêu em, tôi say em, và tôi đau những nỗi đau mà em đã để lại cho mình. Tôi nhớ em đến phát điên (Ảnh minh họa)Đêm cuối cùng ở bên nhau em nói rất nhiều. Em vòng tay ôm tôi thật chặt. Đêm đó cũng là lần đầu tiên em nói tiếng yêu tôi. Lần đầu và cũng là lần cuối. Tôi đã hôn em mê mải, trao cho em tất cả mọi say đắm của mình. Sáng hôm sau thức dậy, thứ mà em bỏ quên duy nhất chỉ là vài sợi tóc màu nâu bị vương trên gối mà thôi. Còn tôi, em không quên, mà là em cố tình bỏ lại. Thay vì chọn tôi, em đã chọn cách sống với lý tưởng của mình. Tôi ở lại, thấy tim mình trống rỗng. Tôi đau đớn, tôi nhớ em đến phát điên. Nhiều lần tôi đã toan vứt bỏ tất cả, để chạy đi kiếm tìm cơn gió ấy, nhưng tôi lại không có đủ dũng khí. Tôi còn bà ngoại đã già, còn trách nhiệm với cả một dòng tộc mà tôi là đứa cháu trai duy nhất. Cả hai bên gia đình nội ngoại bây giờ chỉ còn biết trông cậy vào tôi. Biết làm sao đây khi chính em là người đã dạy tôi rằng phải biết sống có trách nhiệm với cuộc đời. Em mâu thuẫn quá, em đã chọn cách sống vì mình vậy mà vì sao em lại bắt tôi phải sống có trách nhiệm?! Tôi ước chi mình được giống như em, cũng là một làn gió. Khi đó tôi có thể bay lượn, có thể tự do làm những điều mình muốn và được ngày ngày quấn quít bên em. Em đã mang đến gieo vào lòng tôi một hạt mầm của niềm tin vào tình yêu và cuộc sống. Nhưng rồi em ra đi, để mặc cái cây kia lại cho mình tôi chăm sóc. Thiếu em, nó héo hắt và úa tàn. Ở nơi xa xôi kia có khi nào em nghĩ về tôi không nhỉ? Còn tôi, ngày nào tôi cũng nhớ em và vẫn không ngừng hy vọng… Hy vọng đến một lúc nào đó cơn gió ấy sẽ mang em của tôi quay trở về S.T.congiola@
KHI NÀO NỖI NHỚ MỚI BUÔNG Tôi muốn sống thật vì thế tôi để mặc mọi cảm xúc trôi đi một cách tự nhiên. Tôi trở về nhà vào lúc 10h tối, cái giờ không còn sớm nhưng cũng chẳng phải là muộn đối với một người đàn bà vốn đã quá quen với sự phiêu dạt. Cởi chiếc áo vest mỏng đang khoác trên người ra, rồi tôi tiện tay quăng bừa nó xuống chiếc ghế sopha vốn đã vứt lổng chổng bao nhiêu là đồ đạc. Dòng nước mát lạnh cuốn phăng đi lớp trang điểm dày cộp và khiến tôi trở nên cực kỳ tỉnh táo. Bầu trời cao tít và thăm thẳm. Thỉnh thoảng có vài ngôi sao lẻ loi ẩn hiện mập mờ trong màn đêm đặc quánh. Tôi mở toang cả hai cánh cửa cho không khí tràn vào và xua hết đi những cái ngột ngạt, bí bách của căn phòng suốt cả ngày bị khóa trái cửa. Tôi bước ra ngoài ban công bằng hai bàn chân trần trụi, châm một điếu thuốc và đưa tay cởi bỏ chiếc nơ đang cột lấy mái tóc. Ở trong ngôi nhà của riêng mình, vì thế tôi chẳng muốn bị bất cứ thứ gì ràng buộc. Chẳng biết từ khi nào mà con người tôi lại trở thành như thế: một chút cá tính, một chút hoang dại và cả một chút bất cần. Cái hình ảnh tôi của hai năm về trước xúng xính trong chiếc váy màu hồng phấn và mái tóc dài bồng bềnh đầy mơ mộng bây giờ đã chỉ còn là dĩ vãng mà thôi. Tôi ngước mắt lên trời, hít hà một hơi thuốc rồi nhẹ nhàng nhả khói vào đêm. Em chọn cách ra đi (Ảnh minh họa)Từng vòng khói trắng tròn vo cứ lớn dần, loãng ra và rồi lại bị màn đêm nuốt chửng. Trong bong tối, dường như vạn vật đều tan biến hết, chỉ còn lại riêng mình tôi đứng vịn vào thanh lan can đầy màu rêu bụi. Tôi cợt nhả với những ảo ảnh mà làn khói trắng ấy gây ra, rồi tự cười, tự khóc. Ít nhất thì tôi cũng cảm thấy mãn nguyện vì lúc này đây tôi đang được sống thật với bản thân mình. Những nỗi nhớ chẳng thể gọi thành tên cứ bất chợt ùa về. Vì thế những miền ký ức xa xôi lại có cơ hội hiển hiện, lúc thì rõ mồn một, lúc lại quá đỗi mơ hồ. Trên cái ban công tranh tối tranh sáng, pha trộn một cách lộn xộn những mảng màu đối lập nhau này, có một người đàn bà nhỏ bé đang tựa lưng vào nỗi nhớ và ru mình bằng những chuỗi kỷ niệm mong manh. Ai đã từng nói rằng yêu đơn phương là một niềm hạnh phúc vậy nhỉ? Ngày ấy tôi cũng đã từng cảm thấy hạnh phúc thật. Hạnh phúc, hoặc giả là do chính tôi đã tự huyễn hoặc bản thân mình về cái điều hao hao giống “hạnh phúc” ấy. Sau này tôi càng ngày càng cảm thấy chán nản và muốn buông xuôi. Ái tình đã làm tôi mệt mỏi và khi không thể đứng từ xa nhìn người mình yêu tay trong tay với kẻ khác được nữa, tôi đã chọn cách ra đi. Là ra đi hay chạy trốn, chính bản thân tôi cũng không xác định được nữa. Khi người ta dành trọn cả trái tim để yêu thương một ai đó thì chắc chắn tâm hồn họ sẽ nát vụn khi tình yêu ấy bị khước từ. Cái thứ tình cảm chân thành, đắm đuối ấy đã cào xé trái tim để bây giờ cho dù thời gian đã xóa nhòa bớt nhưng những vết sẹo thì vẫn luôn còn đó, chằng chịt. Tôi đoạn tuyệt với quá khứ bằng cách chạy đến một chân trời mới để tìm lấy sự bình yên cho tâm hồn. Em đã từng đau đớn vì tình yêu đơn phương dành cho anh (Ảnh minh họa)Có rất nhiều con đường để sống, nhưng tôi lại chọn sự cô đơn cho chính bản thân mình. Cũng phải thôi, bởi người ta đâu có thể yêu thương ai với một trái tim không lành lặn. Mà cho dù có cố lừa phỉnh bản thân để đến với một người nào đó thì cũng chỉ là cái thứ tình yêu méo mó mà thôi. Vì thế tôi vẫn để mặc cho ai kia chờ đợi. Tôi còn có thể làm gì được nữa khi chính tôi cũng không thể biết rõ khi nào trái tim mình mới hết bị tổn thương. Có thể là một tháng, một năm, nhiều năm, hoặc sẽ không bao giờ… Tôi sợ cảm giác yêu, sợ cảm giác dành trọn tình cảm cho một người để rồi cuối cùng lại bị chính người đó khiến cho con tim mình nấc nghẹn. Tan nát… Có lẽ tôi sẽ chẳng thể trụ được nếu thêm một lần nữa bị cái thứ cảm giác ấy dày vò. Đau đớn và tuyệt vọng lắm. Cho dù là hơi ích kỷ, nhưng tôi muốn được sống thật với bản thân mình. Thà như thế để rồi khiến cho một vài kẻ ngốc nghếch mang trong lòng một chút buồn nho nhỏ, còn hơn là cứ cố gắng gồng lên, giả dối với chính cảm xúc của mình. Những yêu thương còn sót lại tôi sẽ nhặt nhạnh hết, gom góp vào để rồi đem tất cả chúng thả bay đi cùng với những tổn thương, mất mát của tâm hồn. Một mình đối diện với màn đêm đặc quánh, cảm giác thật thoải mái. Dường như mọi nỗi buồn, mọi ký ức đều bị nhuộm hết thành màu đen, không còn nhìn rõ được nữa. Những muộn phiền cứ chới với, ngấp ngoái để rồi cuối cùng cũng vẫn bị chìm nghỉm trong đêm đen mờ mịt. Tôi mỉm cười, tiếp tục đưa điếu thuốc đang lập lòe sáng lên môi, lại hít hà… và nhả khói… Những vòng khói trắng vẫn thế : tròn vo, to dần, loãng ra và rồi tan biến. s.t codon@
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trong quán phở gia truyền[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tạ Duy Anh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hắn nghe người ta đồn đại khá nhiều về một quán phở kỳ lạ, khách đến phải xếp hàng. Ai muốn ăn phải dậy từ rất sớm hoặc đến vào lúc đêm khuya. Đến sớm ăn phở nước đầu. Đêm khuya thì ăn phở vét. Chỉ hai thời điểm ấy là vắng khách. Hắn đã sống qua thời tem phiếu nên hiểu thế nào là việc đi xếp hàng. Nửa đêm gà gáy, dù mưa rét cũng không được ngại. Cứ phải xếp được lốt ở cửa hàng gạo mới yên tâm. Hàng chục người mũ áo lụp xụp lặng lẽ đứng thành hàng với một sự kiên nhẫn mà có lẽ không thể gặp ở đâu khác. Những khuôn mặt vốn đã hốc hác vì thiếu chất, nay lại thêm mất ngủ trông vật vờ, như những hồn ma chờ ăn cháo thí. Ngần ấy năm, hắn để ý hầu như không ai bỏ cuộc khi chưa thấy cô nhân viên, phần lớn là xấu xí và cong cớn, tuyên bố ráo hoảnh: "hết hàng". Đó là điệp khúc kinh hãi nhất mà chả ai có quyền vặn vẹo. Giờ đây tưởng chuyện xếp hàng đã thành một thứ di sản văn hoá. Vậy mà vẫn còn chuyện phải xếp hàng mới ăn được phở thì kỳ lạ thật. Hắn không giấu được cảm giác thú vị. Đó là đặc tính chung nhân loại. Khi cái gì mất đi mới thấy tiếc và gán cho nó đủ thứ giá trị. Giả sử cái thời xếp hàng trở lại thì thật khủng khiếp. Nhưng có người và ngay cả hắn cũng đã bắt đầu kể về nó bằng niềm hãnh diện, hãnh diện nhất là được thấy mình như những nhân chứng của lịch sử. Oách lắm chứ. Vì thế sau nỗi thú vị, hắn cảm thấy buồn. Hoá ra độc quyền bất cứ cái gì, kể cả vai trò nhân chứng về thời xếp hàng, cũng không dễ, không có gì đảm bảo chắc chắn về vị thế. Điều đó càng thôi thúc hắn phải đến tận nơi cái quán phở kia. Và hắn quyết phải ăn một trong những bát phở đầu tiên. Hoá ra lời đồn đại là sự thật. Đúng là người ta xếp hàng để chờ ăn một bát phở sáng thật. Điều đó giờ đây đang đập vào mắt hắn. Điều khác với thời hắn xếp hàng mua gạo là bây giờ mặt mũi ai nấy béo đỏ, ăn mặc tươm tất chứ không mê đụp như trước kia. Bắt chước mọi người hắn cũng cầm sẵn tiền trong tay và đứng vào hàng. Hắn cố nghểnh cổ lên để nhìn về phía quầy, nơi có độ ba, bốn người đang thoăn thoắt thái, đập, xóc bánh phở, nhận tiền của khách, chan nước dùng, hò hét quát lác... dường như họ không thể nhanh hơn được nữa. Nhưng hình như khách hàng không hài lòng với tốc độ quá chậm chạp của họ. Điều đó khiến cả hai bên luôn ở vào tình trạng căng thẳng. Khách hàng giải toả bằng những câu trách cứ của người đóng vai trò thượng đế. Người của nhà hàng thì chỉ im lặng, đúng với bổn phận của kẻ luôn mong được phục vụ. Có lẽ họ đã quen đến mức không còn cảm xúc nữa, mặc kệ ai muốn nói gì thì nói. Mặc kệ luôn cả sự cãi cọ, tranh chấp chỗ đứng của khách hàng. Người này bảo họ đến lượt trước, người kia cãi lại, người khác thừa cơ chìa tiền ra, khua vào tận mặt nhân viên nhà hàng. Trong thời gian ấy thể nào cũng lại có ai đó lợi dụng chen lên, khoái chí với sự nhanh chân của mình mặc những người phía sau gào lên đòi lôi cổ kẻ chen ngang mất lịch sự ra. Thành ra thứ vung vãi nhiều nhất là nước bọt. Hắn cũng dính một cục nước bọt của ai đó phi thẳng vào gần tai. Hắn cảm giác rất rõ bãi nước bọt đặc quánh của một gã nhất định bị bệnh hôi mồm. Phía trước hắn một phụ nữ cũng phải vài lần lén đưa tay chùi nước bọt ở cổ đồng thời ý tứ đặt hai ngón tay bịt vào lỗ mũi. Khổ thân nàng, thân gái bị ép giò thế kia chỉ để ăn một bát phở liệu có đáng không? Mà đâu chỉ có mình nàng. Phía sau hắn các bà các cô vẫn lần lượt nhập cuộc, oang oang nói chuyện về băng vệ sinh siêu mỏng chỉ hợp với người hẹp háng. Tất cả những điều đó không chỉ đập vào mắt mà vào cả ngũ giác hắn. Hoá ra có những thứ thuộc về bản sắc thật sự, nghĩa là bất chấp thời gian, những biến động xã hội... nó cứ trơ ra, không sức mạnh vật chất, tinh thần nào thay đổi được. Ví dụ như chuyện xếp hàng đây. Ở đầu hàng bỗng xảy ra cãi cọ. Một ông khách đang đòi đổi phở vì không đúng với yêu cầu của ông ta. "Tôi gọi tái gầu cơ mà, sao lại cho tôi tái nạm?". "Thôi, dùng tạm đi! - Ai đó góp lời. - Người ta trót làm rồi. Hôm khác ăn tái gầu". Có tiếng cười nổi lên. Ông khách quay sang vặc nhau với người vừa nói: "Ông nói cho Tây nó nghe. Mất tiền mua chứ ăn xin chó đâu mà phải nhận cái thứ mình không thích". Ông khách kia im lặng trong khi ông đòi đổi phở thì vẫn đứng như ăn vạ, tay bê bát. Nhân viên nhà hàng vội nhận lại, mặt vẫn vô cảm. Nhưng muốn đổi thì phải chờ bởi chẳng ai chịu nhường khi đến lượt mình. "Chị cho đây đi chứ?" - Ông khách đòi đổi phở sốt ruột giục nhân viên nhà hàng. "Vâng, bác chờ cho một lát". "Chờ, chờ, tôi ăn xin à?". "Làm cho tôi đi đã. Của tôi hai trứng". "Đến lượt tôi". "Cái ông này, giẫm cả vào chân người ta!". Người phụ nữ trước mặt hắn lại lặng lẽ đưa tay chùi mặt, lần này là má. Hắn đã gần đến lượt, có thể nhìn thấy nồi nước phở sôi ùng ục, lộn nhào đủ thứ trong đó. Hắn quan sát đám nhân viên nhà hàng. Toàn những tay tổ của nghề băm thịt. Miếng thịt bò đỏ au, chỉ trong tích tắc đã nát nhừ dưới lưỡi dao. Rồi bẹt một cái, cả cục thịt bị băm nhừ ấy bám chặt vào bản dao và cứ thế tay nhân viên trút thẳng vào bát phở. Trong thời gian hắn nghĩ lung tung thì tay nhân viên đã kịp làm tới bốn miếng như vậy, không miếng nào khác miếng nào. "Thế có định làm cho tôi không thì bảo?" - Ông đòi đổi hàng bắt đầu nổi cáu. "Có ngay đây ạ!" - Một nhân viên nhà hàng vừa đưa tay ý tứ gãi sườn vừa nói. Sau đó chị ta lại thoăn thoắt bốc bánh phở. "Cứ có ngay, có ngay... nhưng có đ. đâu!". Tay nhân viên đang băm thịt dừng lại nhìn nhanh người vừa văng tục. Hình như anh ta định nói gì đó nhưng chỉ thấy quai hàm bạnh ra rồi lại xẹp xuống. Khách tiếp tục đến, tiếng quát lác của mấy gã trông xe nhặng xị cả lên. Ông khách chờ đổi từ phở tái nạm sang tái gầu cuối cùng cũng được toại nguyện. Ông bê bát phở ra tìm chỗ ngồi nhưng mọi dãy bàn đều đã chật cứng. Loanh quanh mãi cuối cùng ông ngồi xổm ngay trên nắp cống chạy dọc vỉa hè, nơi cũng có vài người không chiếm được chỗ ngồi như ông đang húp xì sụp, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng. Họ chẳng để ý đến điều gì khác ngoài khoái cảm tạo ra do cách ăn ngốn ngấu. Cuối cùng cũng đến lượt hắn chìa tiền ra. Giống như ông bị nhầm phở lúc trước, hắn không sao kiếm được một chỗ ngồi ăn đàng hoàng. Ngay cả một chỗ ngồi xổm trên nắp cống ngoài vỉa hè cũng không còn. Thế là đành đứng ăn vậy. Hắn cố tập trung cảm giác để tận hưởng hương vị của từng miếng phở và tìm cái lý do của những sự nhọc nhằn kia. Mùi nước phở quện lẫn mùi nước cống bốc lên khiến hắn thấy lờm lợm. Nhưng hình như chỉ mình hắn cảm thấy như vậy - Xung quanh mọi người đều cắm cúi ăn, cốt sao xong thật nhanh để thoát khỏi chỗ này và để không bị xô đẩy bởi những người mới đến. Bỗng tiếng ồn ào nổi lên rồi chỉ thấy mấy tay trông xe lao vào vơ vội những chiếc ghế cáu bẩn ném đại vào phía trong cửa hàng, bất chấp việc ai đó chửi toáng lên. Một cùi tay thúc phải hắn đúng lúc hắn đưa bát phở lên húp. Chưa kịp nói gì thì người vừa gây ra sự cố - trông qua cũng nhận ra ngay là một giáo sư - nói như van: "Xin lỗi nhé". Hắn thấy chính ông ta cũng đang khốn khổ với chiếc áo bị những sợi phở ướt bám vào. "ăn mới chả uống, khổ quá đi vác đấu!". "Này- hắn hỏi ông kia - ông có thấy ngon không?". "Ngon chó gì. Làm sao mà ngon được cơ chứ. Đã chả có chỗ ngồi lại còn phải chạy mấy ông trật tự". "Thế sao người ta vẫn cứ ra vào nườm nượp thế kia hả ông?". "Thì ông hỏi ngay chính ông ấy". Hắn nhìn đồng hồ. Một tiếng cho bữa sáng. Hắn nhìn dòng người vẫn tiếp tục nối vào, mặt ai nấy đầy nhẫn nhục một cách khổ ải mà cám cảnh. Hắn lại thấy lờm lợm ở cổ họng. Hắn tự nhủ sẽ chẳng bao giờ bước chân vào quán phở này nữa. Nhưng rồi bất đắc dĩ hắn lại phải đến. Như hôm trước, vẫn cả một dãy người dài dằng dặc. Hắn đứng phía sau một người đàn ông ăn mặc rất trí thức và hắn hớn hở ra mặt khi nhận ra ông ta chính là vị giáo sư hôm nọ. Hình như ông đã liếc tìm chỗ trên nắp chiếc cống ngoài vỉa hè, bởi cũng giống như hôm nọ, mọi dãy bàn đã kín đặc, người đứng người ngồi lố nhố. "Chào ông" - hắn chủ động lên tiếng trước. "Vâng, chào anh" - ông giáo sư uể oải chào lại, rõ ràng ông ta không muốn kéo dài thêm sự quen biết. Nhưng hắn thì lại không nghĩ thế. Hắn vừa nảy ra ý định là muốn tìm xem lý do nào khiến ông giáo sư trở lại quán phở này để một lần nữa - và có thể nhiều lần nữa - chịu cảnh cơ cực nhường kia chỉ vì một bát phở cho bữa sáng. "Tưởng sau bữa hôm nọ thì các vàng ông cũng không đến đây nữa" - hắn nói bâng quơ nhưng rõ ràng là đang nối lại mạch chuyện với ông giáo sư. Ông giáo sư không giấu giếm vẻ mặt khó chịu trước sự quan tâm quá đáng của gã lắm chuyện này, cố ý không trả lời. Nhưng hắn không chịu bỏ cuộc. "Ông ăn ở quán phở này mấy lần rồi?". "Làm sao tôi nhớ được!" - Ông giáo sư khẽ cười khẩy. "Sáng nay ông có nghe thời sự không, chả biết chiếc xe khách bị đổ hôm trước có thêm ai bị chết?". Ông giáo sư quyết tâm quay mặt đi. Hắn đổi chân cho đỡ mỏi, hỏi tiếp: "Theo ông bọn trẻ không thèm nghe lời người lớn có nguyên nhân từ đâu?". "Thôi, kệ chúng nó! - người phía sau khẽ bảo hắn - Đứa nào không biết lo thân thì cứ việc chết. Vả lại người lớn cũng có ra gì đâu. Hẵng lo bữa sáng đi đã...". Nhưng hắn vẫn bám theo ông giáo sư: "Thế nào ông, phải có nguyên nhân chứ? Giới các ông phải hành động đi chứ...". Đến đây hắn chỉ thấy ông giáo sư khẽ xoay người lại, nhìn chòng chọc vào mắt hắn, hàm bạnh ra còn tiếng nói thì được nước bọt hộ tống phun như mưa. "Tôi ước ngay bây giờ là thằng đầu đường xó chợ để có thể tát cho anh một cái. Anh để cho tôi yên có được không?" "Sao ông lại nổi cáu với tôi?" - hắn thật sự ngạc nhiên. Ông giáo sư chưa kịp trả lời thì nhân viên nhà hàng hỏi "Bác dùng loại gì ạ?". "Cho tôi phở hôm nọ, à vâng, tái nạm". Rồi ông kiên nhẫn đứng chờ để tự tay bê bát phở ra vỉa hè, vừa ăn vừa loanh quanh tìm chỗ ngồi. Ông ăn như được lập trình sẵn, bao nhiêu sự khổ ải hiện hết lên mặt. Trong khi đó hắn cứ nghĩ mãi mà không tìm ra lời giải thích việc ông giáo sư nổi nóng. Ông ta đáp lại lời hỏi thăm của người khác như vậy đấy. "Nào, có ăn không thì bảo!" - Người phía sau khẽ gắt lên. Hắn vội chìa tiền ra. "Anh dùng loại gì ạ?". "Cho tôi ...loại gì cũng được. Nhưng mà này, sao ông ta lại nổi cáu với tôi?". Lời của hắn rơi tõm vào đâu đó trong khi nhân viên nhà hàng có vẻ khó xử. Hắn bưng bát phở, còn đang ngần ngừ thì đã thấy tiếng gắt um lên: "Được rồi thì ra đi để đến lượt người khác chứ". "Vâng, xin thông cảm. Tôi ngạc nhiên thật đấy...". Không ai thèm hiểu hắn đang nói gì. Hắn thấy khinh bỉ, xấu hổ, thương hại, căm ghét... tất cả cứ lộn tùng phèo trong đầu. Hắn chỉ muốn hắt toẹt mớ ý nghĩ ấy, như hắn vừa làm thế với bát phở, nhưng không phải xuống miệng chiếc cống hôi hám kia... "Đồ điên"- mọi cặp mắt hướng về hắn đều để lộ ra ý nghĩ ấy. Nhưng kể cả hắn điên thật thì cũng mặc xác hắn, đám đông vẫn lầm lụi nhích từng tí một, như là họ không còn mối bận tâm nào khác quan trọng hơn việc phải ăn bằng được một bát phở gia truyền.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trống rỗng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mai Sơn[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phòng tôi ở thuê chung vách với phòng của một cặp vợ chồng trẻ. Người chồng rất kín tiếng, mặt mũi lầm lì, đi đứng khó khăn, nghe nói mình mẩy đầy thương tích, không rõ vì những trận đánh thời chiến tranh hay vì những trận đòn thù giang hồ thời hòa bình. Thật không thể biết được. Cũng nghe phong phanh người vợ vốn là nữ sinh nhà nghèo, bỏ học giữa chừng đi bán cà phê đèn mờ và được người đàn ông ra tay nghĩa hiệp, yêu thương, rồi cưới làm vợ. Những ngày đầu về với nhau, họ tạo nên những chuỗi âm-thanh-con-người khoái lạc bất tận. Tôi phải mở nhạc từ chiếc cát-xét to lên để át bớt đi... Lâu dần tôi quên rằng bên kia tấm vách gỗ ván có một suối nguồn hạnh phúc hân hoan đang chảy. Bỗng một sáng sớm tôi bị đánh thức dậy bởi những tiếng rên rỉ. Tôi định lờ đi thì nghe rõ hơn đó là tiếng rên rỉ vì đau đớn, vì bị hành hạ thể xác chứ không phải tiếng rên rỉ của hoan lạc. Thoạt tiên tôi chạnh lòng, nghĩ ngợi đôi chút. Nhưng rồi tôi chắc lưỡi… và để át đi tiếng rên-đau đó, tôi mở cát-xét. Nhưng ngày hôm sau, những tiếng động bạo hành từ người chồng và những âm-thanh-bị-hành-hạ từ người vợ vang lên lớn hơn, dồn dập hơn. Tôi bắt đầu thấy mình thở gấp, mặt nóng bừng. Và tôi quyết định gõ cửa căn hộ láng giềng. Người đàn ông mệt mỏi mở cửa ra, ngạc nhiên nhìn tôi: - Ông muốn gì? Tôi hỏi thật rành rọt: - Anh đánh vợ anh, phải không? Sự kinh ngạc trong mắt người đàn ông biến thành sự khiêu khích: - Chuyện riêng của vợ chồng tôi, ông hỏi làm gì? Tự dưng tôi nổi nóng, không kềm chế được. Tôi nói gằn giọng từng tiếng: - Tôi chỉ muốn hỏi có phải mấy ngày nay anh đánh vợ anh không? - Nếu tôi không trả lời thì sao? - Không được, anh phải trả lời chứ! - Ông có điên không? Tôi không trả lời. Xin ông tránh ra cho tôi đóng cửa. Người đàn ông đưa tay định kéo cửa; tôi giữ tay anh ta lại. Và tôi bỗng ôn tồn: - Tôi đề nghị anh dừng chuyện đánh đập vợ anh đi. Đó là cách gián tiếp tôi tự trả lời câu hỏi do tôi mới đặt ra. Rõ ràng là mấy ngày nay anh đánh vợ anh, và tiếng rên la, khóc lóc của chị ấy đã lọt qua nhà tôi. Vẻ khinh ngạo và tức tối hiện rõ trên mặt người đàn ông: - Ông thật là tò mò. Tự nhiên tôi mất bình tĩnh, buột miệng: - Tôi thề tôi không tò mò, không biết mảy may chuyện gì diễn ra giữa hai vợ chồng ông từ khi tôi đến đây ở. Chỉ hai ba ngày nay tôi mới thấy khó chịu vì tiếng khóc của vợ anh… - Đây là chuyện riêng tư của gia đình tôi. Yêu cầu ông để cho chúng tôi tự giải quyết… Ông không có quyền can thiệp. - Không, tôi có quyền chứ. Tôi không phá đám hạnh phúc của anh, tôi không có bổn phận phải chia sẻ hạnh phúc với gia đình anh; nhưng khi tôi nghe thấy tiếng khóc, là dấu hiệu của kẻ yếu bị đàn áp, thì tự nhiên, phải, rất tự nhiên, như anh thấy, tôi phải gõ cửa nhà anh thôi. Người đàn ông hét lên: - Nó là vợ tôi. Tôi là chồng nó. Đây là sự va chạm của chén đũa chung đụng. - Không được. Ngay cả khi tôi biết anh đang tự hành hạ mình, anh tự ép xác mình đến chết, anh tự làm khổ nhục mình thì tôi vẫn gõ cửa nhà anh như thường, để ngăn chặn cơn điên loạn làm hư hỏng hiện hữu của anh. - Ông đang nói huyên thuyên, ông biết không? Ông mới là điên. - Tôi không muốn nói gì với ông nữa. Chỉ yêu cầu ông ngưng dùng bạo lực với vợ ông. Nếu tôi điếc, hoặc nếu tôi nghe tiếng khóc đau đớn mà tưởng là tiếng khóc hạnh phúc thì tự nhiên anh sẽ được quyền làm tất cả những gì anh muốn làm, như không có người hàng xóm là tôi bên kia vách. Nhưng tôi không điếc, cũng không lầm lẫn. Rõ ràng là vợ ông bị bạo hành. - Thôi được, ông về đi. Suốt thời gian trò chuyện tôi không thấy vợ anh ta đâu cả. Từ sau hôm đó, tôi không nghe thấy tiếng rên đau đớn của người phụ nữ bên kia vách ván. Tôi cũng không thoáng nghe những tiếng rên rỉ hoan lạc như ngày nào. (Điều này tôi nhận ra một cách tình cờ sau nây khi không nghe chiếc cát-xét trong nhà tôi phát ra tiếng nhạc xập xình). Nhiều ngày và nhiều ngày sau… Một tối, mùi hôi thối từ đâu ập vào nhà tôi… Linh tính mách bảo tôi có người chết ở phòng bên. Tôi vội chạy sang… Xác người phụ nữ khoảng hăm lăm tuổi, miệng bị nhét đầy giẻ, nằm sóng soài dưới nền nhà. Trong giờ phút kinh hoàng đó, không hiểu tại sao bộ máy mỹ cảm trong tôi lại cắc cớ nổi lên hoạt động để tôi rùng mình nhận ra đây là người phụ nữ đẹp nhất mà tôi từng trông thấy. Một cảm giác bất lực xâm chiếm tâm hồn tôi. Tôi bải hoải chân tay, đứng chôn chân nhìn. Trong đầu không hề có ý nghĩ phải tìm người đàn ông chồng của người phụ nữ này. Không có ý nghĩ phải đi báo công an. Không có ý nghĩ về bất cứ điều gì. Trống rỗng. Trống rỗng để cho cái gì đó đổ vào. Và cảm giác phạm tội dâng lên, lớn dần trong tôi. Tôi chạy về phòng, thu dọn quần áo cùng mấy thứ linh tinh, vội vã chạy đi trước khi có người nào chứng kiến vụ án. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trót đã buộc ràng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hoàng Quân[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chị tôi lăng xăng như thể đám cưới chị. Chị tươi như hoa. Nếu không thấy hai đứa con nhỏ bu theo chị như cái đuôi, không chừng khách có thể đến chúc mừng chị cũng nên. Đám cưới cậu em, mỗi thành viên trong gia đình, được phép mời bạn bè của mình, để tái ngộ với cố nhân trong không khí tưng bừng của tiệc tùng. Nhìn đâu cũng thấy nam thanh, nữ tú. Tiếng cười, tiếng nói lao xao. Cũng vui. Bàn của phe chị tôi đa số quý ông, một vài khuôn mặt tôi nhận ra là những cây si cổ thụ ngày xưa của chị tôi. Chị cười tở mở, ra dấu: - Thư, Hà qua đây chơi một chút đi. Dẫn mấy ông ra mắt luôn. Hà quay qua chồng: - Mình qua bàn chị Tiên nhe anh. Tôi xô ghế đứng dậy, quay qua đám bạn, chỉ chỉ, ý nói: “Ngồi đây nghe, tao biến một chút.” Chị Tiên rộn ràng: - Sao? Mấy người nhận ra con Hà không? Chắc không hả. Hồi đó, nó nhỏ chút xíu hà. Thấy nhà có khách nó trốn biệt. Ông xã nó đây, coi vậy mà bầu đoàn thê tử đông đúc lắm, chỉ thua bà Âu Cơ một chút thôi. -Chị kéo kéo vai áo tôi. - Đây, đây, mấy người mà không nhận ra con nhỏ này là là... thôi đó nhe. - Chị chưa để cho ai có phản ứng, đi tiếp một đường giới thiệu.- Nó đó, tiều phu chuyên chặt cây đó mà. Có tiếng cười, ai đó ngâm nga: Em ơi em ở lại nhà, Vườn si em đốn ráo... Tôi nhận ra anh Linh nghệ sĩ. Anh Linh nhẩn nha: - Anh thấy Thư y như hồi xưa, không thay đổi gì hết. - Làm điệu bộ như anh cả, lên giọng - Sao, lập gia đình chưa? - Ủa, bộ anh thấy mặt mũi Thư hắc ám lắm hả, không sắm nổi một ông chồng sao?- Tôi lườm lườm. Thêm nhiều tiếng cười thích chí: - Chết rồi, thằng Linh hỏi chuyện mà không coi giờ. Hồi xưa, con Thư phá duyên mày, mày xém đập vỡ cây đàn mà quên sao. Thấy anh Linh quê quê, tôi ngài ngại: - Nói chơi chút xíu. Thư bắt chước nhân gian, cũng chồng con đề huề chứ bộ. - Kéo ông xã lại đây đi. - Chồng con Thư không có đây, nhưng có thằng kép nhí của nó ngồi kia kìa. Chồng chị Tiên phát biểu xong, cảm thấy có duyên, cười hề hề, ngoắc ngoắc con trai tôi: - Cu Tí, qua đây chào mấy bác cái coi. Khi cu Tí ngoan ngoãn đứng vòng tay, líu ríu trong miệng chào bác, chào cô... ai nấy quên đi đề tài chồng tôi, tôi nhẹ nhõm. Cứ mỗi khi ai hỏi sao đám cưới cậu em mà không thấy chồng tôi, tôi lại quanh quẩn trả bài, rằng số ngày phép trong năm hạn chế, rằng chồng tôi không xin nghỉ phép vì hãng của anh đang có những dự án thi công cao điểm, rằng... Tôi vừa cố tìm ra những lý do thật dễ hiểu, chính đáng, vừa lái câu chuyện tới những đề tài khác để người ta không đặt thêm những câu hỏi mà tôi chỉ biết nói thầm: Biết trả lời sao! Ông anh họ, đến mời chúng tôi đi ăn trưa, ngạc nhiên: - Ủa, chồng em kỳ này không về à? - Dạ, có chứ. Nhưng anh về sau, tụi em phải về cho kịp dự đám cưới rồi phải trở lại Đức trước, tại cu Tí đi học. - Ồ, sao không thu xếp đi chung cho vui. - Ông anh như chợt thấm ý, bật cười.- Mà không chừng đi riêng lại vui hơn. Thằng này khéo thiết kế thiệt. Hồi nào nó về đây, anh phải hỏi nó có chiến lược gì mà Thư cho nó độc lập tự do vậy. - Đâu có, anh muốn đi chung, nhưng thời gian này ở hãng ảnh người ta không cho lấy ngày phép. Tôi vờ nhìn những xe cộ nườm nượp, ngại ông anh thấy điệu bộ nói láo không có căn của tôi. ... Tôi trình diễn điệp khúc này từ lúc báo tin cho gia đình lớn biết, chỉ hai mẹ con về Việt Nam dự đám cưới cậu em tôi. Trên điện thoại, cô bán vé quen, có lẽ đang dò trong máy, lẩm nhẩm: - Mùa nghỉ cao điểm nên hơi khó kiếm vé đó, hy vọng ba chỗ không đến nỗi nào. Tôi nuốt nước miếng, ờ, tại sao mình không nghĩ ra điều này: - À, à, hai vé thôi. Ông xã mình không lấy ngày phép được nên đi sau. - Sau mấy ngày, để mình coi bây giờ luôn, chứ mùa hè nhiều khi hút vé lắm. Tôi nuốt lần nữa, lúng búng: - À, ờ, ông cũng đang điều đình với đồng nghiệp, chưa biết ra sao. Tôi suy nghĩ, sẽ bàn với chồng, anh sẽ mua vé ở những đại lý của người Đức, như vậy tiện hơn, tiện cho tôi hơn. Tưởng tượng, cô bán vé ngồi tán dốc với bạn bè,... Biết bà X ở khu Westpark không? Mắc cười lắm, vợ chồng bả về Việt Nam đi như vầy ha, lúc bả với thằng con trai trên đường qua Thái Lan trở lại Đức, máy bay của ổng đang tà tà xuống phi đạo Tân Sơn Nhất. Hông chừng, lúc trên mây, hai ông bà có thể gởi nhau nụ hôn gió... Tôi cảm thấy bực bội, như thể mang đôi giày nhỏ hơn chân một hai số. Càng nghĩ, tôi càng giận mình tật lười, phải chi tôi chịu khó gọi đến các văn phòng du lịch của người bản xứ, chẳng ai mảy may suy nghĩ, khi biết một mẹ một con đi du lịch xa. Tôi không dám nghi cô bán vé người Việt có tật ngồi lê đôi mách. Nhưng trí tưởng tượng của con người nhiều khi phong phú một cách đáng sợ. Lần sinh nhật đứa cháu, tôi hứa sẽ phụ làm cho cháu ổ bánh. Trước sinh nhật, phải đi công tác xa bất ngờ, tôi tiếc một dịp gặp gỡ gia đình và nhiều bạn bè trong không khí vui vẻ cởi mở. Tôi gọi chị Tiên, xin lỗi: - Em buồn quá trời đất, lâu lâu mới có dịp đông vui như vậy. - Tôi giơn giỡn cho bớt vẻ nghiêm trọng. - Thôi, người ta được bữa giỗ, lỗ bữa cày. Còn em, phải đi cày, nên mất phần ăn chơi. Mới hay ăn đồng tiền của quân tư bản, trày vi tróc vảy. Những háo hức khi đi làm nơi xứ lạ không còn nữa. Tôi mong cho xong việc, hết ngày để về nhà. Chủ nhật, người bạn đồng nghiệp rủ đi brunch ở nhà hàng sang trọng nào đó, nghe đâu có hải sản các loại và sâm banh. Nghe đến tôm cua nghêu sò, tôi dễ yếu lòng. Nhưng, nghĩ, đi làm với hắn cả tuần lễ, mà cuối tuần còn gặp hắn nữa, chẳng có gì hứa hẹn. Cái tật của hắn hay than van, thể nào hắn cũng lằm bằm, xếp đì hắn. Cái tính hay so do, thể nào hắn cũng thăn thỉ, xếp thiên vị tôi. Người hắn to như voi, từ Singapore bay qua Mã Lai, hắn phải nhét người ngồi theo du khách. Còn tôi, như con chuột nhắt, lọt thỏm trong ghế thương nhân. Tôi đã bao lần cắt nghĩa, đó là lối làm việc cứng nhắc của tổ chức, chớ xếp không liên quan gì đến chuyện này. Tôi bay từ Đức, bất kể bay gần xa, vé được xem là đường trường, theo hạng thương nhân. Còn hắn ở Singapore, bay vèo một cái tới Kuala Lumpur, nên máy cứ tự động nhả cái vé hạng “kinh tế” cho hắn. Tôi vờ diễu: “Như vậy, trên máy bay ông có cảm giác là tourist. Còn tui, lúc nào cũng phải nhức đầu vì chữ business.” Chẳng biết tại tôi diễu nhạt quá, hay hắn chẳng có một giọt máu khôi hài trong người, hắn chẳng thèm vén mép cười khuyến mãi cho tôi một nụ, chỉ lẩm bẩm, stupid, stupid. Nghĩ tới đó, tôi tưởng như con tôm hùm đổi mùi thum thủm, rượu nổ đổi vị chua chua. Tôi giả vờ tiếc rẻ: - Uổng chưa, sao bây giờ ông mới rủ. Tui hẹn đi chơi với Tennie rồi. Lần khác vậy. Nói xong, tôi lại cầu cho hắn đừng có hỏi Tennie, lằng nhằng, rằng chúng tôi đi chơi những đâu. Tôi nhảy lên xe buýt thành phố, đi thăm vườn lan. Đi thơ thẩn giữa những hoa lá ngay hàng thẳng lối, tôi cảm thấy dễ chịu, lòng nhẹ nhàng. Nghĩ thầm, khi nào vợ chồng con cái về Việt Nam sẽ ghé Singapore một ngày. Lẩn thẩn, không biết chồng tôi có thích không khí tĩnh lặng của vườn lan chăng. Hay chúng tôi đi phố, để anh coi máy móc, nghe người ta nói đồ điện tử ở đây đi trước thị trường Âu Châu xa. Còn cu Tí, chắc sẽ tranh thủ dắt cu đi vườn bách thú ban đêm. Buổi chiều, tôi gọi về Đức, háo hức: - Sao, hôm qua ăn sinh nhật vui không anh? - Ừ, đông lắm. Anh chị mời quá trời bạn bè. Nói hồi hết chuyện, anh về sớm, nghe đâu mấy người ngồi tán dốc tới nửa đêm. Tôi về lại Đức hôm trước, hôm sau chị Tiên gọi điện thoại, giọng bí mật: - Cuối tuần ni ghé tao chơi đi. - Chắc chưa được đâu, em đi cả 10 ngày, lu bu quá. -Tôi uể oải. - Mi đang một mình đó hả? -Chị nhỏ giọng. - Dạ, có chi không? - Nếu được, hai vợ chồng mi thu xếp xuống tao, cho đám bạn gặp. - Chị hạ giọng thêm- Tụi nó thấy chỉ có hai cha con đi ăn sinh nhật, rồi lại về sớm, tụi nó đồn rùm lên là là... - Chị gần như thều thào.- Tụi bây bỏ nhau rồi, mi đi mất đất. - Ui trời đất ơi, ai nói giỡn chi độc địa vậy! -Tôi thảng thốt. - Đâu có giỡn, họ đoán già đoán non, xầm xì miết. Hôm kia vợ chồng anh Minh chịu hết nổi gọi qua tao, hỏi sao không khuyên giải, nói phải trái với tụi bây đi, chớ như vậy tội nghiệp cu Tí quá. Tao nói chi thì nói, chẳng ai tin cả! Chỉ có nước tụi bây tới cho họ biết là không có chuyện gì cả. - Kệ họ chớ. Kỳ cục thiệt. Ai đâu sao mà xấu mồm. -Tôi xẵng giọng. - Tùy ý mi. - Giọng chị giận dỗi, có lẽ vì tôi không xem tin chị báo là nghiêm trọng. - Nói cho mi biết như vậy thôi, chớ không, ít bữa lại trách, sao tao nghe mà giấu. - Dạ, tối nay, tụi em bàn với nhau. -Tôi ngao ngán. Cuối tuần đó, vợ chồng con cái chúng tôi kéo nhau “ra mắt” mấy họ. Trước mặt bá quan văn võ, vợ chồng tôi như hai nghệ sĩ ưu tú, má tựa vai kề, xuất sắc diễn tuồng, “Sự gì Standesamt (1) đã kết hợp, loài người không được phân ly.” Có lẽ chúng tôi giỏi sắm vai, nên được nhờ đứng ra đại diện nhà trai trong một đám cưới xập xình rình rang. Số là, một người quen sơ, một thanh niên đơn thân độc mã xứ người. Khi cậu ngỏ lời cầu hôn, nàng và cả ba thế hệ của gia đình nàng đều đồng ý. Có điều, họ yêu cầu cậu phải tìm người đại diện cha mẹ, nhất là trong tiệc cưới trước ba làng, bảy xóm. Cậu chẳng có cô dì chú bác ở gần. Bố mẹ cô dâu nằng nặc đòi cho được một cặp đủ đào, đủ kép, thuận buồm mát mái. Cậu gõ cửa nhà chúng tôi, trao thiệp hồng, trăm sự nhờ chúng tôi đứng ra thay mặt phụ mẫu của cậu trong ngày thành hôn. Tôi ngại quá, chỉ quen biết hời hợt, hơn cậu năm ba tuổi, chẳng hề biết cha mẹ cậu là ai. Cậu năn nỉ: - Anh chị chịu khó giúp em đi. Em có đề nghị mấy cặp, mà nhà gái bảo nhất định chỉ nhờ anh chị. - Tụi này sẽ cố gắng. - Chồng tôi xiêu lòng. Đến “ngày vui,” chồng tôi diện bộ đồ vét mầu sậm, tôi điệu áo dài gấm đài các chính hiệu ... mẹ chồng. Trên sân khấu, chữ song hỉ đỏ loét, chói chang phía sau, bầy rồng phượng bằng giấy phất pha phất phới, đèn tứ phương tám hướng chiếu vào đôi uyên ương và “anh chị sui gia,” chồng tôi trịnh trọng mấy lời với quan khách. Tôi vờ cúi đầu để nhắc bài cho chồng, theo như “diễn văn” gia đình nhà gái đã soạn sẵn. Anh thợ chụp hình đeo máy, sửa đèn lăng xăng: - Chị ơi, làm ơn ngước mặt lên để chụp hình. Tôi phải vâng lời đạo diễn, chỉ còn biết hy vọng chồng tôi sẽ bài vở trót lọt. - Chà, bà sui coi cũng sáng nước cản đó chớ. - Anh phó nhòm bấm lia lịa. Đang đứng giữa trung tâm vũ trụ tôi không dám phì cười. Anh chàng này coi bộ không theo dõi những tiến bộ của khoa học kỹ thuật về những đồ phụ tùng xe hơi. Ngày xưa, khi đi ngắm nghé xe hơi, người mua ưa nhìn kỹ cản xe. Thấy cản móp méo, biết xe có dĩ vãng nhiều giông tố. Ngày nay, cản xe bằng loại nhựa đặc biệt, ủi cột đèn, tông vách tường, tài xế chỉ cần ngó trước ngó sau, không ai thấy, thì biến luôn, kẻo bị bắt, phải bồi thường sửa những bất động sản bị hư hại. Còn xe, lau chùi sơ sịa, bóng loáng, đem chưng nơi thị tứ, thiếu gì kẻ qua người lại để mắt. Nước cản còn sáng, đâu có dè dàn máy bị chấn động với những hậu quả bất ngờ. Rồi cũng xong, nhà trai nhà gái vui vẻ cả làng. Người ta cám ơn chúng tôi rối rít. Tôi mong đôi trẻ ngày nào cũng vui như ngày hôm nay. Sẽ loan phụng hoà minh ít nhất vài chục năm. Kẻo không, người ta lại tìm chúng tôi mắng vốn, rằng chúng tôi không nhẹ vía, mát tay. Châu và tôi lần quần trong tiệm sách cả tiếng đồng hồ. Vừa lựa sách, tôi vừa tính xem đem được bao nhiêu về Đức. Tôi với lấy cuốn Không & Sắc và cuốn Phật Giáo trên kệ sách thảy vào giỏ sắt. Châu tròn mắt: - Gì đó mày? Bộ tính đi tu hả? - Ừ, mày có quen chùa nào không? Nghe nói mày bây giờ thế lực lắm.- Tôi tỉnh bơ. - Giỡn thiệt mày? Trong chùa không có tiểu thuyết tầm xàm bá láp, không có máy hát cho mày nghe lão ca sĩ ruột của mày rao giảng kinh tình yêu đâu. - Thì kiếm ông hoà thượng bất giới nào đó, ổng kể chuyện, ông hát cho nghe. - Tôi cà tửng. - Giận đời, giận người gì mà đòi xuống tóc vầy nè. - Châu quay hẳn nhìn tôi. - Nói chơi thôi, bộ có gì buồn hả Thư? Thôi, mua bây nhiêu sách đủ rồi. Tao dẫn mày đi ăn, tao mới khám phá ra tiệm ăn bánh khọt ngon ác liệt lắm. Tôi tức cười, coi bộ bắt thóp nhỏ bạn được rồi. Hễ thèm ăn thì giả bộ rầu rầu là có tiểu yến, đại yến. Tôi vờ xụ mặt: - Cám ơn mày. Bộ, mày tưởng ăn no căng diều là biến buồn thành vui sao. - Tao dẫn mày lên Lý Thái Tổ coi cây với cá kiểng nhen. Rồi tối mình đi uống cà phê nghe nhạc.- Châu thành thật. Tôi như mở cờ trong bụng, tưởng mình như Bao Tự đang õng à, õng ẹo làm nũng. Tôi muốn diễn tiếp màn kịch, xem thử nhỏ bạn dám “chơi bạo” như vua chúa ngày xưa chăng. Mà nhìn vẻ lo lắng của bạn tôi thấy mình ác, nên vạch miệng đến mang tai: - Thôi, giỡn nhiêu đó đủ rồi. Tao đang reo vang reo, ca vang ca, sức mấy mà buồn. Mặc kệ đám lòng bong rối rắm, tao rất hùng cường, mai lệ huyền. Ghẹo mày chút cho vui. Thấy mấy cuốn sách này, nghĩ, chắc Ba tao thích. Chớ tao, chưa cần tới đâu. Tao còn phải tham sân si giữa cuộc đời trần tục này vài chục năm đặng còn trả dứt nợ nhà cửa. Cô Lan ngày xưa sung sướng thiệt, giận Điệp là đùng đùng xách túi chạy lên chùa. Đám bạn tôi nhận thấy “sự cố kỹ thuật” trong đợt về quê này của vợ chồng tôi. Tiễn mẹ con tôi ra phi trường Tân Sơn Nhất, Ngân lúc lắc tay tôi: - Chiện đâu còn đó. Mày yên tâm, ổng dzìa đây, tụi tao tới ba đầu sáu tay lận mà. Tụi tao ngồi trụ đây chờ ổng đến. Ổng ra khỏi máy bay, tụi tao ốp ổng liền, săn sóc tới nơi tới chốn, đừng có hòng mà quậy. - Ấy, ấy, xem nào, em tôi sao lại mày hoa ủ dột thế này. Tươi lên chứ. -Hồng sửa sửa tóc của tôi. - Nó buồn, tại sắp xa quê hương nhớ tụi mình đó mà. - Châu làm trò. Đầu óc tôi đang đầy những mối lo lẩm cà lẩm cẩm, có tên lẫn không tên. Đã vậy, tâm trí tôi cứ líu ríu quanh những giả thuyết về những lý do chồng tôi sẽ đưa ra, khi có ai hỏi sao lại về Việt Nam, lúc vợ con đã rời nơi đây. Các anh em của chồng tôi ai nấy đã thành gia thất. Đâu có lý do về dự đám cưới của người nhà. Bà con cũng chẳng thấy ai bắn tiếng có giỗ chạp. Chính tôi cũng mù mờ về lý do chuyến đi của chồng tôi. Tôi đã buồn khi anh tỏ ý không muốn về Việt Nam cùng gia đình tôi để dự đám cưới cậu em. Tôi lại buốt lòng hơn, khi anh gợi ý, rằng tôi nên sáng tác một lý do chính đáng về sự vắng mặt của tôi trong dịp trọng đại này của gia đình. Tôi đau sững người, khi anh trả lời, nếu tôi đi không có anh, anh sẽ đi không có tôi. Có lẽ anh chỉ muốn chứng tỏ cho tôi biết: quân tử nhất ngôn. Ba đứa bạn thi nhau trổ tài cố vấn hôn nhân, trọng tài, thám tử, phóng viên chiến trường... Vi thư tường thuật tại chỗ bay tới tấp như bươm bướm. “Mặt trận miền tây vẫn yên tĩnh. Ảnh ngoan lắm.” “Bu thằng cu Tí ơi, rờ-tút lại nhé, chuẩn bị đón phu quân tung cánh chim tìm về tổ ấm”... Cứ đà này chắc ba con bạn tôi nhấp nhỏm đi hốt hụi non, gom tiền cho tôi gặp bà Hạnh Phước đặng nâng cấp điện nước. Tôi rên thầm, bạn ơi là bạn, bè ơi là bè. Tưởng đâu cái bịnh lanh chanh chỉ có ở nữ sinh trung học, chớ có dè mấy nữ quái trung niên cũng lâm trọng bịnh như vầy. Tôi tiếc không có webcam cho tụi nó thấy mặt tôi đang sầm xuống, nặng chình chịch, tối om om. Tôi giở giọng dao búa cảnh cáo,- Đứa nào mà còn viết email lằng nhằng về đề tài này, tao bảo máy cấm cửa địa chỉ đứa đó! Khổ quá! Tụi nó làm như tôi đang ngậm cam thảo luyện giọng, để cao giọng véo von Tình Nghĩa Đôi Ta Chỉ Thế Thôi. Có chăng, nếu hát, tôi chỉ dám khàn khàn bắt chước ông ca sĩ nhạc rock, tóc tai lỉa chỉa như trái chôm chôm, rằng, I don’t wanna talk about it... Đứa thì mời chồng tôi đi ăn, rồi tình cờ, ghé qua tiệm sách, đứng thật lâu bên tấm tranh thư pháp, ra dấu chồng tôi mang tấm tranh đến quày trả tiền: Nên chăng, thú nhận điều này, Anh không thể sống một ngày vắng em. Tôi nhíu mày, trán nhăn chằng chịt như Einstein. Tính theo phép toán này, anh chết queo từ đời tám hoánh rồi, vì vắng em đến đến mấy chục lần của một ngày lận mà. Nhỏ bạn tôi gà cho chàng câu thơ coi bộ hơi lạc quẻ. Đứa thì rủ chồng tôi đi ăn chè, rồi kè anh đến đường Hồ Tùng Mậu, đạo diễn cho anh mua dĩa của một nam ca sĩ trẻ đang rất ăn khách tại Việt Nam ...Như xa xôi nay quay về gần gũi, yêu em, vì chỉ biết đó là em... Chả là hôm trước tôi viết thư, kể, đã nghe ca sĩ đó hát bài Em Đã Thấy Mùa Xuân chưa? Xao xuyến bồi hồi, nên nghe một lèo mấy tiếng đồng hồ chỉ một bản nhạc. Sau đó, cứ lẩm nhẩm ca và có cảm tưởng hình như đang thấy mùa xuân. Thật ra, tôi cũng hơi cường điệu, khi khen dĩa nhạc tụi bạn gởi tặng. Tưởng, chỉ để thăng hoa hạnh phúc người tặng. Vậy mà, tụi nó tưởng tôi tương tư ca sĩ. Đứa thì lùng khắp chợ Bến Thành, khuân cả một thúng trâm cài lược dắt, rỉ tai chồng tôi, bảo làm quà cho hiền thê. Để tôi hoa hoè lên sợi bạc sợi xanh, mà chúng nó vẫn lếu láo lý giải, bởi sớm yêu nên tóc vội phai màu. Anh nhất nhất nghe lời “chỉ đạo,” dù không thoải mái khi nhớ đến mấy rổ kẹp tóc của tôi đã không ngừng dành dân lấn đất phòng tắm ở nhà. ...Nói chung, ông Tơ bà Nguyệt ngày xưa có chăm chỉ se tơ hồng chắc không thể nào “nhiệt tình cách mạng” hơn mấy nhỏ bạn của tôi. Trên đường từ phi trường về nhà, chồng tôi hớn hở: - Anh tìm mua được cái dĩa này cho em, chắc chắn em sẽ thích. Anh bấm lịch kịch, máy cứ báo no disc. Anh chắc lưỡi: - Máy trong xe hơi nhạy quá, không đọc đuợc các dĩa đốt. Về đến nhà, anh vội vàng thử ngay. Tôi đã quen dùng máy nên góp mẹo: - Anh đừng bỏ vào máy Panasonic, máy tốt, kén dĩa lắm. Anh thử bỏ qua máy Red Star. Tiếng nhạc dạo mở đầu bản nhạc vang lên, đến nốt thứ ba tôi đã nhận ra giai điệu bài hát. Không phải vì tôi là thiên tài âm nhạc với khả năng thẩm âm siêu việt, mà, bởi tôi đã có thời kỳ mê tít nhạc phẩm này. Đã bao lần, tôi để dĩa nhạc vào máy, bấm bản số 10, bấm nút repeat. Cứ vậy, tôi ngồi rỉ rả viết thư cho bạn bè, kể, đi dự đêm nhạc thính phòng, nghe chính nhạc sĩ trình bày nhiều tác phẩm của ông, nhưng đối với tôi, bài hát này đúng là tuyệt chiêu của chàng... Có lần, tôi đang mơ màng mở cửa hồn em vào đó rong chơi, em có thấy tình anh ngát hương hoa. chồng tôi đi ngang qua: - Ủa, sao bữa nay ảnh ca nhừa nhựa, nghe ớn ăn quá vậy. - Không phải giọng Tuấn Ngọc. - Tôi mím môi, với tay tắt máy. - Không phải thì thôi, có gì đâu. Người sao mà... kein Sinn fuer Humor (2). - Giọng anh cụt hứng. - ... Đâu phải lâu lắc gì, mới năm ngoái đây thôi mà. Anh không hề nhớ tôi đã quấy rầy chồng con nhiều ngày với bài hát này. Ôi chao! Mấy con bạn khi mở lớp đào tạo đặc biệt cho chồng tôi về gout nhạc của tôi mà không “tập huấn” tới nơi tới chốn, nên bài ca hạnh phúc chồng tôi đang trình diễn đâm ra lạc điệu, lỗi cung. Tôi tưởng như nghe tiếng thở dài của chính mình. Có lẽ anh phải gồng mình, như tôi trân người để cả hai chịu đựng được những ý thích của nhau. Anh hý hoáy mở cuộn giấy to, háo hức: - Anh tính đi tìm lịch thư pháp cho em, mà bây giờ sớm quá, chưa có nhiều để lựa. Anh nhờ Hồng viết thư pháp dán vào lịch đó. Anh trải tấm lịch ra, tôi liếc nhanh hàng chữ lả lướt trên giấy dó của Hồng, ...thì em ơi đó là tình yêu chúng ta... Tôi nhớ mấy hôm ở nhà Hồng thọ giáo thư pháp. Hồng lên giọng, xuống giọng: - Đấy nhé, mày phải chờ cho tâm nó tịnh thì mới phóng bút đưọc. Cấm ăn to nói lớn. Chớ có mà thời phụng chảo, bún giò. Cứ nghe đến chân là tránh cho xa. - Kể cả chân tình luôn sao? - Tôi thẽ thọt. - Tất tần tật. Chân chính chân phụ gì cũng làm tay run lẩy bẩy, chữ nghĩa như mèo quào, gà bới, chả ra thể thống gì sất, mang tiếng học trò của tao. Ối giời, chờ ngày mày ngoáy cho ra vài nét, không biết đến năm dậu, năm thìn. Đây, nghía đi, thích tấm nào tao thí cô hồn cho mày. Hồng đưa tay khoát một vòng những tranh treo ngang, treo dọc đủ cỡ trong phòng khách. Gì đây, Nếu ai bảo yêu nhau là đau khổ, Xin một đời đau khổ để yêu nhau. Hồng thao thao: - Tác giả là ái nữ của một nhà văn nổi tiếng. Nàng xuất khẩu, diễn tả một cái sự rất chi là huề vốn, mà xem ra áp dụng được cho nhiều trường hợp. Ấy chết, mày không nên vận vào người mấy câu thơ đau dãy tê tê như cua kẹp thế này. Đấy, tao bảo nhé, cứ túm câu này về mà gối đầu giường. Ối giời, nghe này, Nếu có điều gì vĩnh cửu được..., nghe mát cả tim gan phèo phổi. Hồng vừa kéo dài giọng bắc, rất bắc của nó, dù ngày bố mẹ Hồng di cư vào Nam, nàng chưa chào đời, vừa đưa tay gỡ tấm thư pháp. Tôi chận tay Hồng: - Thôi, để đó cho mày. Phải chi ông nhạc sĩ sáng tác bài hát này sơm sớm, có lẽ thuở đó tôi đã có lúc phơi phới tựa đầu lên vai anh, em sẽ thấy mùa xuân về rất nhẹ... Còn bây giờ thì..., tôi sửa giọng tự nhiên: - Ừ, mày có nhiều câu hay hay. Nhưng thôi, để tao về nhà, bày nghiên, bày bút, coi thử rồng phượng bay múa ra sao. Nhìn chồng lăng xăng trình làng những món quà cho tôi, trong những nỗ lực cho-vừa-lòng-em, tôi tưởng như thấy hai vợ chồng đang rướn cổ hít lấy hơi thật dài, để cùng nhau nín thở qua sông. Người ta hay chúc tân lang, tân giai nhân một cách vô tâm: trăm năm hạnh phúc. Nhảm quá! Nhảm quá! Theo công thức này mà cọng trừ nhân chia, vợ chồng chúng tôi còn quãng sông quá dài. Nhìn sang, chẳng thấy đâu bến bờ. Đâu đó, tôi nhớ loáng thoáng có đọc được một lời nhắn nhủ khả thi hơn: Phu thê trót đã buộc ràng, Thì xin nhẫn nại cưu mang vợ chồng... [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chú thích: (1) Standesamt: Sở hộ tịch (2) không có óc khôi hài. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Truyện cổ tích dành cho người Lớn[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Nhật Ánh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mọi chuyện đều bắt đầu từ cái tính ưa bay nhảy của tôi. Từ xưa đến giờ, hai chân tôi đố có mà ở yên được một chỗ. Hồi nhỏ đi chơi, bao giờ tôi cũng mò về nhà sau giờ cơm. Trăm lần y một, thật là tài! Còn mỗi buổi tối, khi đến giờ đi nhủ, lần nào bố mẹ tôi cũng thay nhau bò xuống gầm giường, gầm tủ và thò đầu vào các ngách cửa tối om om để tìm tôi. Nhưng vất vả vậy mà nào có tìm thấy. Lúc ây tôi đã tót đi chơi tận đẩu tận đâu rồi, có tài thánh cũng đừng hòng mò ra. Sau này cũng vậy, tôi mà đã trốn học thì thầy giáo chỉ có nước lắc đầu. Nhưng đùng một cái, như những người đàn ông khốn khổ khác, tôi lấy vợ. Có những điều mà khi còn độc thân nghe người ta nói tôi không tin, tôi cho là chuyện mê tín dị đoan. Nhưng bây giờ, khi đã là một ông chồng hẳn hòi như ai, tôi mới cay đắng nhận ra đó là sự thật. Chẳng hạn như vợ và thói rong chơi là hai thứ xung khắc nhau như nước với lửa, không thể nào hòa hợp được. Nếu tôi muốn làm vừa lòng vợ thì phải bỏ cái tật lông bông, còn nếu tôi muốn làm vừa lòng tôi thì không còn cách nào khác là phải bỏ... vợ. Nhưng tôi thì lại không thể lấy ai bỏ ai, bên nào tôi cũng thích. Thế mới khổ! Vợ tôi thì muốn tôi sau khi đi làm về phải thường xuyên ở nhà, mặc dù nếu có ở nhà tôi cũng chẳng đở đần gì được vợ mấy tí. Cô ta nói: “Ðàn ông con trai là trụ cột gia đình, đâu co thể bỏ đi chơi hoài được. Chẳng thà ở nhà anh nằm khoèo trên giường, em còn thấy dễ chịu hơn!” Mặc dù vợ tôi hứa hẹn cái khoản “nằm khoèo” rất hấp dẫn nhưng tôi lại không khoái làm trụ hay làm cột, dù là cột cẩm lai đi nữa. Cây cột suốt đời đứng hoài một chỗ, chán thấy mồ! Tôi thì tôi lại thích đi nhậu nhẹt và chơi bài với bạn bè hơn, có khi tôi còn tếch ra tận miền Trung suốt cả nửa tháng để theo dõi một đội bóng đá cưng của tôi tranh giải A1 toàn quốc. Tình trạng nhì nhằng giữa hai bên đưa đến lắm điều bất hạnh. Gia đình tôi hục hặc luôn. Ðể chống lại tôi, vợ tôi dùng đủ mọi cách, kể cả việc cầu viện đến bố mẹ chồng. Một hôm tôi về thăm bố mẹ, chưa kịp bước chân qua khỏi cửa, đã nghe bố tôi hét tướng: - À, thằng kia, mày bỏ nhà đi đâu cả tuần nay hả? Vợ mày qua đây khóc om sòm, mày có biết không? Rồi không đợi tôi trả lời, bố tôi chỉ tay ra đường: - Xéo ra khỏi nhà tao ngay! Ði mà chạy theo mấy con ngựa cái của mày, đồ ma cà bông! Bộ mặt giận dữ của bố tôi và con dao cạo râu trên tay ông không cho phép tôi hó hé lấy một tiếng. Tôi đi thụt lùi ra đường cho đến khi đạt được một khoảng cách an toàn mới dám quay mình bỏ chạy. Tôi trở về nhà với một tâm trạng vừa xấu hổ vừa phẩn uất. Càng nghĩ ngợi tôi càng giận vợ. Trăm sự cũng tại cái thói lẻo mép của cô ta. Hừ, lần này tôi sẽ cho cô ta biết tôi là người chồng như thế nào! Ở đó mà thóc với mách! Nhưng rất may là vợ tôi đi vắng. Hình như cô ta đi ra chợ từ sáng sớm. Tôi thở phào nhẹ nhõm, bởi vì tôi cũng chưa biết tôi định sẽ là người chồng như thế nào. Thế là, một mình một cõi, tôi gieo mình lên ghế và lần đầu tiên trong đời tôi bật khóc nức nở. Khóc mộ thơi, có trớn, tôi càng khóc ngon lành. Cứ nghĩ đến gương mặt hầm hầm của bố tôi, tôi không sao kìm tiếng khóc lại được. Hừ, tôi mà là đồ ma cà bông! Lại còn chạy theo những con ngựa cái nữa chứ! Bạn có bao giờ lắng nghe tiếng khóc của mình chưa? Nếu chưa, bạn hãy cố gắng khóc một lần và thử lắng tai xem, nó lạ lắm! Tôi vô cùng ngạc nhiên khi nhận ra tiếng khóc của mình rất đỗi du dương và từ khi phát hiện ra điều đó, trong quá tình khóc, tôi cố gắng lên bổng xuống trầm và nhấn mạnh các nhịp cho nó càng du dương hơn nữa. Trong khi tôi đang say sưa luyện giọng thì có ai đó dặt tay lên vai tôi. Thế là đang khóc nghệ thuật tôi liền chuyển qua khóc tự nhiên. Lúc này tiếng khóc tồ tồ của tôi đủ súc khiến đá phải xúc động. Phụ nữ khóc là chuyện thường tình nhưng một khi người đàn ông đã rơi nước mắt thì vấn đề quả là nghiêm trọng, gia cang tan tành tới nơi chứ chẳng phải đùa! Phải thế mới được, phải cho cô ta thấy rõ tội trạng của mình! Tiếng khóc trong lồng ngực tôi cứ tuôn ra như suối. Vợ tôi vẫn đứng im lặng sau lưng tôi. Hình như cô ta đang bối rối gặm nhấm khuyết điểm của mình và đang nghĩ cách làm lành với chồng. Hừ, nhưng đâu có dễ dàng như vậy được! Ðừng có hòng tôi tha thứ ngay! Phải để cho cô ta biết thế nào là sự dày vò của lương tâm! Nghĩ vậy tôi càng nức nở tợn. Vợ tôi dường như không thể chịu đựng lâu hơn nữa,cô ta bắt đầu khịt mũi và đưa tay vuốt tóc tôi, nhỏ nhẹ hỏi: - Tại sao con khóc? - Cái gì? – Tôi kinh ngạc khi nghe vợ tôi kêu tôi bằng “con”. - Tại sao con khóc? - Vợ tôi lại hỏi, vẫn không thay đổi cách xưng hô. Thế này thì quá lắm! Tôi quay phắt lại và kinh hoàng nhận thấy trước mặt mình không phải vợ mà là một ông già râu tóc bạc trắng đang nhìn tôi bằng ánh mắt hiền từ. - Ông là ai? Ông vào nhà tôi để làm gì? – Tôi la hoảng. Ông già lạ mặt mỉm cười: - Ta là Bụt. - Bụt gì? – Tôi không hiểu. - Thì là Bụt chứ Bụt gì! Như trong chuyện cổ tích ấy mà! Tôi nheo mắt: - Hừ, chuyện cổ tích chỉ dành cho trẻ con thôi. Tôi không bị ông lừa đâu! Ông già đưa tay sờ râu: - Con không tin ta ư? - Tôi không tin, ngàn lần không tin! Tôi sẽ kêu công an! Không để ý lời đe dọa của tôi, ông già nhướn mắt: - Vậy thì con hãy nhìn đây! Ngay tức khắc, ông già biến mất như một làn khói. Tôi đưa tay dụi mắt và lập tức làm dấu thánh. Quái thật, thế mà tôi cứ tưởng thời xưa mới có Bụt thôi chứ! Ngờ đâu Bụt ở ngay nhà mình. Bụt lại hiện ra, cũng đột ngột như khi biến đi: - Con tin ta rồi chứ? Tôi gật đầu, vẻ khúm núm: - Con tin. - Thế thì con hãy trả lời câu hỏi của ta, tại sao con khóc? Trong một thoáng, tôi nhớ ra trước đây Bụt cũng hỏi cô Tấm một câu tương tự. Thế là, bằng lòng tin cậy và nỗi xó xa của người chồng đau khổ, tôi bắt đầu kể cho Bụt nghe hoàn cảnh khốn đốn của mình, hy vọng rằng cùng là giới mày râu Bụt có thể dễ dàng thông cảm nỗi khổ của tôi. Quả vậy, nghe xong, Bụt hỏi liền: - Bây giờ ta có thể giúp con được gì? Mọi việc diễn ra đúng hệt như trong những câu chuyện cổ. Tôi đã chuẩn bị sẵn câu trả lời: - Bụt làm sao giúp cho con đi chơi mà vợ con không biết! Bụt nhún vai: - Ồ, tưởng gì! Cái đó thì dễ thôi! Mặt mày tôi rạng rỡ hẳn lên: - Chừng nào Bụt mới giúp con? Bụt nhìn tôi bằng ánh mắt tinh quái: - Bắt đầu từ ngày mai, con muốn đi đâu thì đi. Vợ con sẽ không hề hay biết. Trong khi tôi sững sờ vì sung sướng thì Bụt khoát tay: - Còn bây giờ thì ta đi đây! Khi nào cần ta, con cứ gọi ta ba lần, ta sẽ đến! Tạm biệt! Khi Bụt đi rồi, tôi mới chợt nhớ ra mình đã quá đắm chìm trong ngây ngất nên quên cảm ơn Bụt. Nhưng có lẽ chả sao, tôi tự nhủ, đã là Bụt thì chẳng ai chấp nhất gì cái chuyện nhỏ nhặt đó. Ngày mai ta sẽ sống một cuộc đời mới! Say sưa trong ý tưởng chói lọi đó, tôi đã mỉm cười độ lượng với vợ khi cô ta xách giỏ đồ chợ vào nhà. Cô ta cũng cười đáp lại vẻ thân thiện của chồng, không hề hay biết tí gì về những âm mưu hắc ám trong đầu tôi: “Ở đó mà cười! Ngày mai nhà ngươi sẽ biết tay ta!”. Sáng hôm sau, tôi tót ra khỏi nhà từ sớm tinh mơ. Thật bụng thì tôi vẫn còn bán tín bán nghi về khả năng mầu nhiệm của ông Bụt thời quá độ này. Nhưng cứ đánh bài liều thử xem sao. Tôi ở chơi nhà thằng bạn đến trưa trờ trưa trật mới mò về nhà. Tôi đặt chân qua ngưỡng cửa mà trong bụng hồi hộp không thể tả. Vợ tôi đang ngồi rửa chén dưới bếp. Nghe tiếng tôi về, cô ta không tra hỏi hoạnh họe như mọi khi mà vẫn ngồi lặng lẽ làm việc. Thoạt đầu tôi nghĩ là vợ tôi giận tôi. Nhưng không phải. Suốt buổi chiều hôm đó, không khí trong gia đình tôi rất vui vẻ, thân ái. Vợ tôi không hề nhắc đến việc tôi đi chơi bỏ cả cơm trưa. Quan hệ giữa hai vợ chồng êm đẹp đến nỗi tuồng như sáng nay không phải tôi đi chơi đô-mi-nô ở nhà bạn bè mà là đi ngân hàng lãnh tiền trúng số độc đắc vậy. Ðiều đó khiến tôi ngạc nhiên một cách sung sướng. Qua hôm sau, phát huy thành quả đạt được, tôi bỏ nhà đi suốt hai ngày. Và khi tôi trở về, áo quần xốc xếch, vợ tôi cũng không hề cằn nhằn lấy một tiếng. Không thèm quan tâm đến vai trò “trụ cột gia đình” mà tôi đã cố tình từ bỏ, cô ta đối xử với tôi ân cần như thể tôi vừa đi chinh phục sao Hỏa về. Không khí trong nhà ngọt ngào cứ như là ướp mật. Thật không thể tưởng tượng, hệt như chúng tôi đang hưởng tuần trăng mật vậy. Trong những giây phút đẹp đẽ đó, tôi nghĩ đến ông Bụt với lòng biết ơn sâu sắc và sự ngưỡng mộ không cùng. Bụt thế mới là Bụt chứ! Chả trách cô Tấm nhoáng một cái đã thành bà hoàng chức trọng quyền cao. Từ hôm đó, chả cần phải lấm la lấm lét, chả cần phải rào trước đón sau, hễ muốn đi chơi đâu tôi chỉ có việc xỏ chần vào giày và tót ra đường. Ba ngày, một tuần, rồi nửa tháng, thời gian vắng nhà của tôi cứ tăng lên theo cấp số nhân, không làm sao kềm lại được. Thoạt đầu tôi còn thả rong loanh quanh trong thành phố, sau đó tôi tếch ra Vũng Tàu tắm biển, tôi bay lên Ðà Lạt hóng gió cao nguyên. Có khi cao hứng, tôi theo bạn bè vù về các tỉnh miền Tây nằm chơi suốt cả tháng, bỏ mặc nhà cửa cho một tay vợ tôi trông nom. Ấy vậy mà cô ta nào có than thở lấy một lần, thật khác hẳn trước kia! Thậm chí vợ tôi còn tỏ ra ngày một âu yếm hơn, làm như tôi trước nay không hề bước ra khỏi nhà lấy một bước vậy. Còn tôi, tất nhiên là tôi không dại gì kể ra ba cái chuyện rong chơi đàn đúm của mình. Lờ tịt mọi thứ, mọi chuyện đã có Bụt lo, tôi tha hồ vui chơi thoả thích và lẳng lặng tiếp nhận sự nuông chiều quá đáng của vợ. Một hôm đang ngồi trong quán nước, tình cờ tôi gặp cô bạn của vợ tôi. Sau vài câu chào hỏi, cô ta đột ngột nói: - Anh dạo này siêng đi chơi ghê! Tôi giật thót người. Quỷ tha ma bắt cô ta đi! Thế này thì hỏng bét! Tôi rủa thầm trong bụng và lập tức chối phắt: - Ðâu có! Chắc chị lầm tôi với ai! Cô ta cười cười: - Thôi đi, đừng có chối! Tôi gặp hai vợ chồng anh đi chơi thảo cầm viên hoài. Tuần nào tôi chẳng dẫn con tôi ra đấy. Chà, còn giở giọng nói kháy ra nữa! Tôi là chúa ghét trò chuyện với loại đàn bà này. Có giỏi thì cứ kể tuột cho vợ tôi biết đi! Làm gì phải quanh co! Thấy tôi sầm mặt, cô bạn tỏ vẻ ngạc nhiên và thận trọng cáo từ. Nhưng chưa hết. Ở đời chẳng thiếu gì người độc mồm độc miệng. Hôm sau, tới phiên bà hàng xóm tôi châm chọc: - Sao dạo này thấy cậu ở nhà hoài? Mặc dù khó chịu trong lòng tôi vẫn phải trả lời, giọng lấp lửng: - Có gì đâu, bác! - Có chứ! – Bà hàng xóm gật gù – Tôi thấy cậu thay đổi nhiều. Trước kia có bao giờ tôi thấy cậu dẫn vợ đi coi hát hằng đêm như lúc này đâu! Tôi bước vào nhà, đóng sập cửa lại, bỏ mặc bà già đứng ngơ ngác bên kia hàng rào. Hừ, xiên với xỏ, lắm điều! Chuyện mình không lo, cứ đi chõ mũi vào chuyện thiên hạ, quỉ quái gì thế không biết! Trong cơn bực tức, tôi nằm nhà suốt một ngày, không thèm ló mặt ra đường. Tôi giận tất thảy mọi người. Trừ vợ tôi. Cô ta lúc nào cũng chăm sóc tôi tử tế, lại không nói cạnh nói khóe một lời. Tôi giận cả Bụt. Lỗi này là do Bụt cả thôi. Ðáng lẽ Bụt phải tính đến chuyện che mắt tất cả những người quen thân như đã che mắt vợ tôi. Còn cứ để như thế này thì nguy to. Ðã là Bụt mà cũng mất cảnh giác! Lần đầu tiên, tôi nghĩ đến vị thần hộ mệnh của tôi với một chút khinh thường. Tuy nhiên, tôi càng ghét loài người thì loài người càng tìm cách tỏ ra mình đáng ghét tợn. Bố tôi đến thăm vợ chồng tôi cũng không ngoài mục đích nói với tôi vài lời: - Bố thật mừng khi thấy con chịu sửa đổi tính nết. Thật chẳng hay ho gì cái trò chạy rong suốt ngày ngoài đường. Bố tôi chưa kịp nói hết lời, tôi đã chui đầu vào mền và bịt chặt hai tai lại. Tôi nằm trùm mền, mồ hôi túa ra dầm dề, vừa giận dỗi vừa ấm ức. Bố con mà còn đến thế thì thôi! Nhưng khi nỗi bực dọc lắng xuống, tôi lơ mơ cảm thấy có một điều gì đó bất thường trong toàn bộ câu chuyện này. Tôi lạnh toát cả người khi nhớ ra bố tôi là người không thích bỡn cợt, quanh co, móc ngoéo. Vậy thì những điều ông nói với tôi mang ý đồ gì? Còn cô bạn của vợ tôi, còn bà hàng xóm, họ dại gì mà xiên xỏ tôi để chuốc lấy thù hằn! Nhưng chẳng lẽ những chuyện họ nói lại là có thật? Vô lý, ngàn lần vô lý! tôi đâu phải hạng người thích đi coi hát, đi chơi thảo cầm viên với vợ. Vả lại, tôi đâu có làm những chuyện đó! Càng nghĩ ngợi, tôi càng cảm thấy đầu óc rối tung và nhức như búa bổ. Hẳn là có một trò mà mãnh gì đây! Nhưng đó là trò gì? Ðợi cho bố tôi ra về, tôi tốc mền ngồi phắt dậy. Vợ tôi lập tức chạy đi lấy khăn ướt định lau mặt cho tôi. Nhưng tôi đã kịp túm lấy tay cô ta, hỏi bằng giọng hớt hải: - Em ơi, điều gì đã xảy ra? Vợ tôi trố mắt: - Anh hỏi gì em không hiểu. Ðiều gì là điều gì? Tôi kịp nhận ra mình đã quá vội vàng. Tôi cố trấn tĩnh và đặt một câu hỏi khéo léo hơn: - À không, anh định hỏi là tuần vừa rồi anh và em đã xem những phim gì? Vợ tôi cốc nhẹ lên trán tôi một cách âu yếm: - Anh đãng trí quá! Phim “Cô gái bên hồ”, “Số phận trớ trêu” nè, rồi “Tấn thảm kịch trong buổi đi săn”, “Ảo vọng tình yêu” nè! Mà anh hỏi để làm gì vậy? - Hỏi cho biết thôi. Bởi vì tối nay anh định rủ em đi xem phim. Vợ tôi lắc đầu: - Thôi, hôm nay mình ở nhà đi. Anh đang ốm mà! Tôi gieo mình xuống giường, thở dài não nuột. Thế là rõ. Có một tên bịp nào đó đã đội lốt tôi sống trong căn nhà này trong những ngày tôi đi vắng. Hắn đã đánh lừa tất cả mọi người, kể cả vợ tôi. Và hắn đã làm đủ mọi trò nịnh đầm, hèn gì mà vợ tôi chẳng tử tế với hắn và với... tôi. Hừ, một tuần mà đi xem phim với nhau những bốn lần! Tôi đấm tay xuống giường đánh “rầm” một cái khiến vợ tôi đang giặt đồ cũng phải tức tốc chạy lên: - Gì vậy anh? Tôi ôm bụng: - Anh đói. Em chạy ra đầu ngõ mua giùm anh tô phở. Sau khi dùng kế điệu hổ ly sơn dụ vợ ra khỏi nhà, tôi thu nắm tay và nghiến răng gọi Bụt ba lần. Ngay lập tức, Bụt xuất hiện. Trước điệu bộ hung hăng như con gà chọi của tôi, Bụt vẫn tỏ ra bình tĩnh: - Ta có thể giúp gì cho con nữa đây? Tôi nhăn nhó: - Thôi, thôi, con lạy Bụt, con chẳng cần Bụt giúp gì nữa sất! Con chỉ cần Bụt cho con biết đứa khốn nạn nào đã lẻn vào nhà con khi con đi vắng, con sẽ xé xác nó ra! Bụt mỉm cười: - Con đừng có phát rồ như vậy! Con đã chẳng từng nhờ ta giúp con đi chơi mà vợ con không biết đó sao! Con xem ta đã thực hiện yêu cầu của con tốt như thế nào! Tôi bứt tai: - Thì là tốt thật! Nhưng còn cái tên bịp nào đó... Bụt nhún vai: - Không phải là tên bịp. Ðó là một cọng hành. Ta đã biến cọng hành thành một người giống hệt con và cho nó sống trong nhà lúc con đi vắng. Có vậy thì vợ con mới không hay biết chuyện làm của con được. Tôi thở phào: - Chỉ là cọng hành, nhưng là một cọng hành cực kỳ tốt bụng. Không những đóng tròn vai của con mà nó còn giúp con trở thành một người chồng mẫu mực dưới mắt vợ. Nó dẫn vợ con đi xem phim, nghe ca nhạc, đi hóng mát... Tôi nóng nảy cắt ngang lời Bụt: - Thế tối nó ngủ ở đâu? - Tất nhiên là ở nhà con. Tôi liếm môi: - Ở phòng khách chứ? - Sao lại phòng khách? - Bụt nhướn mắt – Nó ngủ ở phòng ngủ, đúng nơi con vẫn nằm, bởi vì nếu không, vợ con sẽ nghi ngờ... Tôi cảm thấy máu nóng dồn lên mặt: - Thế... thế... Nhưng tôi không làm sao cất nên lời. Cuối cùng tôi đành nuốt nước bọt hai, ba cái rồi im bặt. Hỏi thẳng ra thì thật bất tiện. Tôi có cảm giác lồng ngực mình sắp sửa nổ tung. Hàng trăm dấu hỏi cứ quay tít trong óc. Hừ, cọng hành thì cọng hành chứ! Nó chỉ là cọng hành khi nó chưa thành người kia, còn đã hóa thành người rồi thì nó làm những trò bậy bạ gì chỉ có trời mới biết! Tôi bần thần hỏi Bụt: - Thế bây giờ nó đâu? - Cọng hành ấy à? - Vâng. - Nó đây. Bụt thò tay vào túi áo lấy ra một cọng hành còn tươi chìa ra trước mặt tôi. Tôi ngắm nghía cọng hành một hồi và không giấu vẻ nghi hoặc: - Bụt biến nó thành người xem! Chiều ý tôi, Bụt vuốt nhẹ lên cọng hành. Cọng hành. Cọng hành lập tức phình ra, cao lên và trong nháy mắt biến thành một người đàn ông trước vẻ mặt kinh hãi của tôi. Thật là quái quỉ, hắn giống hệt tôi, cái tên bịp đó! Dòm hắn tôi cứ tưởng mình đang soi gương. Ngay khi vừa hiện hình người, hắn đã bộp chộp nháy mắt chào tôi, cái mặt trông điểu không thể tả. Tôi không dằn được cơn giận, định chồm lên thoi cho hắn một quả nhưng Bụt đã nhanh tay gõ lên đầu hắn. Do đó, tay tôi chưa kịp chạm vào người hắn thì hắn đã trở lại là một cọng hành bé xíu, mảnh mai nom đến là vô tội. Tôi chìa tay ra: - Bụt cho con mượn cọng hành đi! - Ðể làm gì? - Xem qua một tí. Tôi tưởng Bụt sẽ từ chối, nhưng không. Tôi cầm lấy cọng hành quan sát thật kỹ và bỗng nghe nhói nơi tim khi phát hiện ra chùm rễ lòa xòa ở phía cuối cuống hành. Thế này thì hỏng bét! Tôi rủa thầm trong bụng và nhanh tay cho cọng hành vào miệng nhai ngấu nghiến, bất ngờ đến nỗi Bụt cũng không kịp can thiệp. Nhìn tôi hùng hổ ăn sống nuốt tươi tên bịp bợm, Bụt chỉ biết lắc đầu: - Con làm hỏng hết! Từ nay ta biết lấy ai ở nhà để thay thế con? Tôi xua tay lia lịa: - Thôi khỏi, khỏi! Tự con ở nhà lấy được rồi. Từ nay trở đi Bụt đừng có dắt bất cứ tên khốn nào vào nhà con nữa, dù nó là cọng rơm, cọng tỏi hay cọng gì gì... Tưởng Bụt giúp thế nào chứ giúp kiểu đó thì con không ham. Nghe tôi trách móc, Bụt tặc lưỡi: - Thì ta biết làm thế nào! Bất cứ sự dối trá nào cũng đều phải trả giá cả, làm sao khác được. Nếu con không muốn thì thôi, ta đi đây. Chào con! Bụt đến và đi khỏi đời tôi hư ảo như trong một giấc mơ, hệt chuyện cổ tích. Nhưng tôi kthì không mơ một chút nào. Tôi biết từ nay về sau tôi sẽ phải là trụ cột trong nhà, sẽ phải chăm sóc vợ nhiều hơn, dẫn vợ đi xem phim, nghe ca nhạc, đi dạo mát... nói chung là làm tất cả những điều mà thằng chồng mẫu mực chết tiệt kia đã làm. Và lạ lùng làm sao, tôi đã làm tất cả những điều đó trôi chảy đến không ngờ, dường như trước đây chính tôi chứ không phải một ai khác đã làm thay cho tôi. Cô bạn của vợ tôi, bà hàng xóm, bố tôi và ngay cả vợ tôi nữa, chắng ai nghi ngờ gì về tính liên tục trong nếp sống gương mẫu của tôi. Nói cho đúng ra thì vợ tôi cũng có một thắc mắc nho nhỏ. Cô ta thường hỏi tôi: - Sao dạo rày bỗng dưng anh lại thích nhai cọng hành vậy hả?[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trưa rừng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Đạt[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi không ngờ đẩy cái xe chở nước nặng hết sức. Con dốc, nhìn không ghê gớm bao nhiêu, lúc này nó ghê gớm khủng khiếp. Bà chủ quán nói: “Cám ơn ông”. Tôi không thể thấy gương mặt bà chủ quán khi bà cố tình tránh không để tôi nhìn. Nhưng tất nhiên tôi biết bà là một nhan sắc. Hai chàng trai thì tôi chỉ mới thấy lần đầu, một chàng phục sức lôi thôi, chàng kia phục sức công tử con nhà giàu. Chàng phục sức công tử con nhà giàu nói: “Ông già còn gân dữ”. Tôi duỗi đôi chân đau thấp khớp, lúc này đau mỏi gấp một ngàn lần. Ly cà phê sữa đá đặt trên mặt bàn. Tôi nhìn phía sau lưng bà chủ quán, nhớ một khoảng cách của gần hai mươi năm dĩ vãng, lưng em rắn chắc như thân cây ổi… Chàng phục sức công tử con nhà giàu lại nhìn qua tôi, nói: “Uống cà phê sữa đá cho khoẻ, bố già”. Những trưa rừng cao như chưa bao giờ trông thấy. (1) Rừng thông ngút ngàn, nắng trong suốt cõi mênh mông. Liệu đã có ai đặt chân trên ngọn núi phía rất xa kia? Ông bỏ đi từng ấy năm, tôi nghĩ ông không nên trở lại đây làm gì nữa. Trở lại cùng ảo tưởng? Tất cả những gì ông nghĩ, chỉ là ảo tưởng mà thôi. Cả thằng bé nữa, nó cũng không thuộc về ông để ông nghĩ ngợi, hiểu theo bất cứ nghĩa nào… Tôi không nên trở lại đây, đúng vậy. Ảo tưởng thì… Không chừng cả người nghĩ rằng mình không ảo tưởng, cũng có thể chỉ là ảo tưởng rằng mình không ảo tưởng. Không chừng ngọn núi phía rất xa kia cũng là ảo tưởng của kẻ phiêu lưu. “Hồi sáng sớm tôi thấy ba cậu ăn điểm tâm trong tiệm mì bác Xá Xíu”. “Ông già tớ về Sài Gòn ấy mà. Tớ sẽ xài cái Nokia mô-đen mới nhất, có cả chức năng chụp hình nữa. Ông già sẽ vào mua ở chỗ đại diện chính thức của hãng Nokia Nhật Bản”. Nói xong, chàng công tử lấy ra trong túi quần cái điện thoại di động nhỏ xíu, mở ngó như cô gái soi gương, “Không có một miếng sóng”. “Chỗ này núi rừng, không có sóng. Cái mô-đen mới nhất cũng vậy thôi. Mà dùng điện thoại để nói chuyện chứ cần gì chụp hình”. Chàng công tử cười lớn tiếng, “Ông già tớ đề nghị vậy đấy chứ, không xài thì uổng”. “Thì cậu là cục cưng mà. Cưng thì phải đi đôi với chiều. Chiều như chiều vong”. Chàng công tử ngó bạn, cái nhìn tiếc rẻ, “Tớ mà đạt giải học sinh giỏi văn toàn quốc như cậu, ông già tớ ấy à, lấy ngay một cái xế hộp cho tớ”. “Tuổi bọn mình mà đi xe hơi làm gì?” “Cậu giỏi văn, nhưng ngố thấy mẹ. Tuổi nào mà không biết hưởng thụ. Cơm dâng tận miệng mà chê, chỉ là thằng ngố”. “Cái cậu nói không phải là cơm. Mà cậu sao không bao giờ chịu hiểu ai khác, kể cả thằng ngố? Khi cậu chịu tìm hiểu thằng ngố, cậu sẽ thấy nó không ngố đâu”. Chàng công tử lại cười lớn tiếng, “Tớ hiểu chứ, tớ rất hiểu bạn mình, bạn mình nghèo đành phải an phận, phải học cho giỏi để thoát kiếp nghèo”. Tôi có cảm tưởng chàng công tử sắp ăn quả đấm của bạn, nhưng chỉ có cái nhìn ngao ngán của chàng trai phục sức lôi thôi. Tôi cũng ngao ngán hết sức. Cái ông nào mà là cha của chàng công tử, hiển nhiên giàu có và xuẩn ngốc. “Ông già cậu, tớ nghe nói là nhà văn, đúng không?”. Chàng trai phục sức lôi thôi lắc đầu, “Ba tôi thỉnh thoảng có dịch sách chứ không phải nhà văn. Nói chung thì ba tôi làm nghề tự do, nghĩa là làm bất cứ công việc gì, khi không có ai đặt dịch sách”. “À, tớ có thấy ông già cậu một lần, ở hiệu sách. Trông ông già cậu bụi bụi, giống bố già bên kia. Tớ có thấy mấy ông nhà văn, nhà thơ, trông đều bụi bụi như vậy. Nhà văn, nhà thơ, nhà nghèo đều ở chung một nhà”. Chàng trai phục sức lôi thôi không nói gì, cái nhìn mênh mông hướng về phía rừng thông ngút ngàn. Chàng công tử lại cười lớn tiếng, và nói: “Cả nhà báo nữa, tớ quên mất. Nhà văn, nhà báo song sinh chứ gì. À, hỏi cậu: cái nhà ở cũng như quần áo mặc chứ gì. Thế có phải là y phục xứng kỳ đức không?” “Đúng mà cũng không đúng. Có thể mấy ông ấy thích phục sức như vậy mà thôi, còn chẳng phải ý nghĩa câu đó phải hiểu như vậy”. “Cậu nói khó hiểu quá. Nghèo thì ăn mặc xuềnh xoàng, giàu thì áo quần bảnh bao, chẳng phải đúng là y phục xứng kỳ đức à?” “Tất nhiên là không phải. Cậu cũng không rành nữa: nhà văn, nhà thơ có thể nghèo, nhưng nhà báo không nghèo đâu. Với lại, nhà văn, nhà thơ là nghiệp, họ vẫn có thể có nghề khác trong việc mưu sinh. Nghề và nghiệp không chỉ là từ kép đâu. Nghĩa là cũng có nhiều nhà văn, nhà thơ không nghèo tí nào cả. Mà sao cậu cứ đèo queo cái vụ giàu nghèo vậy?” Chàng công tử lại cười lớn tiếng, và nói: “Chứ còn gì khác ở đời này: người giàu và kẻ nghèo. Danh phận và số kiếp, cũng quy ra có vậy mà thôi”. “Vậy thì, ta hình dung thế này cho có ấn tượng: Người giàu ở thế cúi xuống, bắt tay ban phúc cho kẻ nghèo ở thế ngước lên. Vì thế tôi sẽ mỏi cổ để gặp cậu”. Chàng công tử vẫn lại cười lớn tiếng, và nói: “Không dám đâu, vì tớ nể cậu. Dĩ nhiên tớ nể cậu vì cậu học giỏi, và dĩ nhiên cậu sẽ đứng vào hàng ngũ người giàu”. “Cho tôi thêm vào: người giàu cũng học giỏi!” Có tiếng bà chủ quán gọi một trong hai chàng trai: “Hưng ơi, mẹ nhờ một tí này”. Tôi xin thú nhận, vô cùng hồi hộp. Chào bà chủ quán, tôi nói: “Bà nói đúng, tôi không nên trở lại đây làm gì nữa. Ấy tuy nhiên chỉ đúng vào đúng lúc này, lúc tôi đã gặp thằng Hưng. Nghĩa là, ảo tưởng cuối cùng của tôi vừa rớt xuống”. Ngọn núi phía rất xa kia hiển nhiên có thật, như chàng trai phục sức lôi thôi đang uống cà phê ở quán trên đồi. Tôi muốn gặp hai cha con chàng trai, ngồi uống cà phê hay rượu hay bất cứ gì đấy, trên ngọn đồi này, nhìn ngọn núi phía rất xa kia. Rừng thông ngút ngàn, nắng trong suốt cõi mênh mông, sao quá đẹp như một nỗi buồn không gì có thể an ủi.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trực giác[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trần Kim Trắc[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nếu nói là hôn nhân sắp đặt e không đủ nghĩa có lẽ nên dùng cụm từ “hôn nhân tùy hứng” giàu ngụ ý hơn. Hai ông được mời dắt con đi dự đám giỗ. Ngắm hai đứa trẻ nõn nà sáng sủa dễ thương, trong khi chén chú chén anh, bèn ngoéo tay nhau sau này chúng nó trưởng thành, học hành đỗ đạt thành nhân, chúng mình kết làm thông gia! Được! Vậy thì dô trăm phần trăm, cụng ly! Trớ trêu thay, trường hợp này ứng vào số phận của tôi. Theo thời gian tuổi lớn ngày càng cộng thêm, mặc nhiên mỗi lần tôi ở trường về thăm nhà, bà con lối xóm mừng đón rót thêm một câu: Cậu Ba sướng nhé ! Chắc mẻm được làm rể ông chủ vườn bưởi cưới cô mo-de tân cổ giao duyên, đẹp như hoa hậu. Con gái ông chủ vườn bưởi mang sắc đẹp miệt vườn lên thành phố học. Trai làng tiếc nuối từ nay cây lá vùng gạo trắng nước trong trống vắng một bông hồng, cảm thấy như mình mất đi một quyền sở hữu. Nghe đâu học sư phạm được hai năm cô rẽ ngang để tham gia hoạt động nghệ thuật. Múa làm nền minh họa cho ca sĩ hát, có phải là múa ba lê đâu mà phải qua trường lớp, chỉ cần biết khiêu vũ học vài bước đi theo nhịp hát, có sắc đẹp, có thể hình bốc lửa là bầu sô chấm ngay. Mơ ước được nổi trội đã toại nguyện ngay bằng con đường tắt ngắn nhất. Giữa trưa, có tiếng xe ngừng trước nhà con chó vàng gâu gâu mấy tiếng nhìn ra thấy ông Vườn Bưởi sai con lái xe hai bánh đến viếng thông gia tương lai là ông Vườn Cam Sành, cha tôi. - Mới về hả mậy! - Dạ cháu về nghỉ hè. - Ráng học cho giỏi, có mảnh bằng lận lưng rồi về cưới vợ. Ba mày đâu? - Dạ ba cháu mặc áo rồi ra ngay, mời bác và anh ngồi chơi cháu đi pha nước. Ông Vườn Bưởi hồ hởi: Tôi đem hai tấm vé mời này đến cho anh chị, mời anh chị chiều nay đi xem con dâu tương lai nó biểu diễn, đoàn nghệ thuật của nó trên thành phố về lưu diễn ở tỉnh nhà, dịp may hiếm có, hai ông bà có mặt đúng giờ nghe! Tôi đón trước cửa rạp. Con mắt thứ ba: Trực giác đối với phụ nữ là con mắt thứ ba. Nó nhìn thấy trước những gì mà đàn ông không thấy. Nhưng có phải nó luôn luôn nhìn “đúng” mọi việc? Nhạc xập xình nổi lên, đèn khán phòng tắt, một vòng ánh sáng màu đưa ca sĩ xuất hiện theo từng bước đi. Vòng ánh sáng đổi màu mấy lượt cho đến khi nghệ sĩ xòe cánh chim nghiêng chào sàn diễn mới bừng sáng lên lồ lộ một thân hình xiêm y tiết kiệm vải. Cô Thu Loan vút cao giọng ca theo động tác múa hòa nhịp với dàn nhạc rộn ràng. Khán phòng bị kích động, có tiếng rít lên the thé. Bà Cam Sành là mẹ tôi chưng hửng. Trong mắt bà, con dâu cô Thu Loan ngày nào duyên dáng gái miệt vườn, nhịp sống nào nhanh chóng lôi cuốn nó vào vòng thác loạn đến vậy. Dòng xoáy của mốt đã nhào nặn cô gái vườn bưởi, cô nữ sinh chợ huyện, tận trong mơ ước, tận trong ham muốn nổi trội bằng con đường tắt, không phải do học vấn đào tạo, tài năng và phẩm hạnh mà cô chưa đủ vươn tới để biến mình thành cô gái khác. - Về thôi ông à! Tôi không xem nữa đâu. Ông kéo áo giữ bà lại: - Bà ráng ngồi lại chút nữa đi. Đứng lên bây giờ người ta nói mình phá đám. Từ đó cho đến khi vãn hát, ngồi trên yên xe ôm xốc xốc theo các lươn sóng con đường làng mùa khô, bà Tư vườn cam hoàn toàn sống trong trực giác. Với người phụ nữ, trực giác là một giác quan đặc biệt của tâm hồn không những chỉ trong đời sống thực tế mà cả trong sự khôn ngoan của trái tim. Trực giác là con mắt thứ ba của người phụ nữ luôn luôn mở ra một cách nghiêm khắc để quan sát và cảm nhận mọi mặt đời sống nghĩa là mọi hành động của con người quanh ta, nó là một dòng sông chảy nhanh liên tục không đê điều, không ngại tràn bờ, không giới hạn. Nó như chiếc phao cứu sinh để người phụ nữ khỏi bị nhấn chìm, khỏi bị người khác qua mặt. Đối với chị em, trực giác cũng là những dự báo. Người phụ nữ thiếu trực giác, người phụ nữ ấy không thông minh. Những sự hiểu biết không kinh qua trực giác không thể là sự hiểu biết của chính họ. Về đến nhà, thay áo xong, mẹ tôi giở nắp cái vỏ dừa ủ ấm trà, lấy ra hai cái ly đặt trên cái bàn mặt nguyệt cẩn đá cẩm thạch giữa nhà rót trà cho cả hai người. Hai ông bà ngồi ghế tràng kỷ, tâm trạng má tôi như nước tràn ly: - Không xong đâu ông ơi! Ông hứng chí ông hứa kết thông gia cam bưởi gì mặc ông, tôi nhất định không giao mạng con trai tôi cho hạng gái này, rước nó vào nhà mình, lên mâm ông nhìn nó bẹo ngực ra mà nuốt trôi cơm được sao? - Tôi cũng đang phải khó nghĩ như bà đấy! Bà có trực giác chẳng lẽ trực giác của tôi bị câm ? Một đời trồng cam sành, chẳng lẽ nhìn vỏ ngoài trái cam, tôi không biết quả nào chua, quả nào ngọt, quả nào chai quả nào mọng nước, quả nào bị sâu đút? Nhưng đã trót hứa với người ta, một lời nói ra tứ mã nan truy, ngãng ra cách nào đây cho khỏi mất lòng hàng xã, đã trót bảo với con trai rằng lớn lên mình sẽ cưới cho nó gieo bao nhiêu hy vọng ước mơ, bây giờ biết giải thích cách nào đây để nó khỏi thắc mắc rằng mình đã chọc gậy vào bánh xe can thiệp thô bạo vào quyền tự do hôn nhân của nó? Tưởng đâu con trai đã ngủ, đâu ngờ cách bức vách trong buồng hắn vẫn vảnh tai nghe. Đến đây hắn tung chân ngồi dậy, quấn mình trong chăn lù lù bước ra. - Hoan hô! Hoan hô má! Đã can thiệp vào hôn nhân của con. - Ơ! Cái thằng này, con cái bị cha mẹ cản trở hôn nhân đứa nào chẳng nổi khùng, sao mày lại hoan hô? Tại sao vậy? Nói! - Dạ! Trước nay ba muốn chứ con có muốn đâu? Đẹp thật đó, nhưng trái tim của con chưa hề thổn thức. - Vậy con đồng ý cho ba má từ hôn với họ? - Vâng! Có sao đâu? - Hay là mày đã có đám khác? - Dạ chuyện đó trời biết! Trực giác của má tôi lại chuyển sang một đề tài mới thuộc về thì tương lai. Vậy đến bao giờ mới có cháu cho má bế đây. Có quen đứa nào con cứ đưa về đây cho má coi mắt. Quyết định xù như vậy rồi, nhưng sợ mất lòng, biết nói sao đây, cha tôi lần lữa mãi. Đến khi tôi tốt nghiệp ra trường nhận nhiệm sở có lương rồi, ông Vườn Bưởi đến giục. Cha tôi buộc lòng phải né tránh ý nghĩ thật của mình bằng cách chế ra một lý do khác. - Anh ơi! Anh biết đó, trước nay anh thương yêu con cháu Loan như thế nào, tôi quý mến cháu thế ấy. Anh hiểu cho sinh con đâu dễ sinh lòng, thằng trời ơi nhà tôi lớn lên nó khác lắm, vợ chồng tôi đang khổ vì nó đây. Con anh mà lấy con tôi, tôi e sau này nó sẽ khổ, chứ tôi đâu có dám chê con anh. - Con anh nó ăn học đỗ đạt, ra có công tác đàng hoàng sao anh lại ghét nó. - Đâu phải ai có bằng cấp rồi đều là người có tư cách. Thằng trời ơi nhà tôi nó ngỗ ngược lắm. Nó mắc phải cái bệnh dễ tức khí lắm. Anh biết mà, kẻ hay tức khí là người không rộng lượng hẹp hòi, cố chấp - trái ý một chút là đùng đùng, bực bội đòi bỏ nhà đi. Con gái anh như con chim non, như tờ giấy trắng, thử hỏi anh có đành lòng giao sinh mệnh của cháu cho một thằng trời đánh như thằng con tôi. Nếu tôi vì tình riêng mà thúc đẩy cuộc hôn nhân này khác nào tôi biết trước mà vẫn làm điều ác, là tôi có tội với anh. Sau này hạnh phúc của chúng đổ vỡ tôi biết ăn làm sao nói làm sao với anh đây? Vậy mất lòng trước được lòng sao, anh hỉ xả cho phép tôi rút lui vụ này. Tôi quý trọng gia đình anh nên phải xấp mặt nói thế chứ ngàn lần ông Vườn Cam làm sao dám chê ông Vườn Bưởi. Anh vui lòng cạn với thằng em ly rượu này để cho phép thằng em thật lòng tạ tội. - Thì uống! Thiếu gì mối, nước trong, nước ngoài đủ cả, vậy sau này tôi đem gả chỗ khác đừng có trách nghe! Tôi đem toàn bộ câu chuyện kể cho Thuận - người yêu tôi nghe, lúc ấy nàng còn một năm nữa mới ra trường Đại học Kinh tế - ở Lương Phú, Tiền Giang đang nghỉ hè. Nàng xỉ lên trán tôi đến cong ngón tay: “Hay tức khí như vậy, sau này ai chịu cho thấu?”. - Em đừng lo, đó là ông già bôi tro trát trấu cho anh trở thành con ngáo ộp để cho người ta chê ủng chê ôi vậy mà. Anh năm nay hai mươi bốn, tuổi con rắn mà là con rắn nước hiền lắm. Như cục bột vậy, ai muốn nắn thành bánh gì thì nắn. - Xạo! Con trai anh nào chẳng vậy, cộc thấy mồ. - Thói xấu anh đã có cách khắc phục từ lâu rồi. - Xạo! Tôi ngỏ ý muốn đưa nàng về ra mắt gia đình cho biết. - Không nên đâu, má anh là người giàu trực giác bỗng dưng con gái đến nhà con trai, bà sẽ nghĩ gì? Anh cho em một tuần lễ. Cuối tuần tôi về thăm nhà, trịnh trọng đặt ra trên bàn 5 lọ nắp rộng - một lọ mứt chùm ruột, một lọ chuối ngào dừa hạt điều, một lọ trái tắc ngâm đường, một lọ mắm ruột, thưa rằng do người tự tay làm kính biếu ba má nếm thử. - Ai vậy! Có phải người này hớp hồn con trai của ba má rồi không! Ngon đấy ăn được, nếm thử đi ông! Tôi lấy ảnh nàng đưa ra: “Má xem đi, cho đủ công dung ngôn hạnh”. - Trăm phần trăm con gái nhà lành đó má! - Mới công dung thôi ! Còn ngôn hạnh nữa. Con phải đưa cô ta về đây cho má hỏi thăm với chứ! - Má cho phép rồi đó nghe! Vậy con sẽ rủ cô ấy về. Cho điểm mười nghe má! Đò máy chở khách qua sông Tiền từ Vĩnh Kim về Phú Đức 20 phút xuất bến một chuyến. Tôi kéo con vào lòng ngồi bên vợ. Tôi ngẩng lên, trước mặt tôi trên hàng ghế đối diện là Loan. - Chào Loan, cô về Tết à! Anh ấy đâu? - Ảnh về đón giao thừa bên nội của ảnh còn tôi về ngoại. Sau Tết anh mới về đón. Tôi hướng về hai cô gái ngồi hai bên: - Còn hai cô này? - Hai đứa nó bế con cho em. - Bé xinh quá. Năm mới tôi thành tâm chúc Loan được hạnh phúc. - Hạnh phúc ư? Còn xa lắm mới với tới. Tôi thấy Loan ngoảnh mặt nhìn ra ngoài sông rộng ươn ướt bờ mi. Vợ tôi bóp vào tay tôi có ý nhắc nhở bảo đừng nói nữa e chạm đến vết thương lòng chưa đoán được. Bất ngờ cô ấy quay mặt lại hỏi vợ tôi: - Chị Thuận, anh ấy sống với chị như thế nào? - Chồng em hả! Cũng dễ chịu thôi! - Vậy mà người ta bảo tất cả đàn ông đều dễ tức khí hung hăng và vũ phu. - Em cầu mong trong số đó không có ông xã nhà chị! Sáng mồng 6 Tết, tôi lái xe đưa vợ tôi đi chợ quê. Trong khi chờ đợi nàng đi mua sắm tôi vào quán cà phê gọi một ly đen. Chợt thấy chồng Loan một mình bước vào, tôi bắt tay anh kéo ngồi xuống cùng bàn: - Chúc mừng anh hạnh phúc, hiếm có người nào thương vợ con bằng anh, mỗi cháu bé có riêng một cô bảo mẫu - Sướng nhất trần đời là anh. Anh ấy đưa bàn tay ngửa cổ, cứa ngang qua thè lưỡi nói: “Thôi anh ơi, đừng có quá khen, sợ không kéo dài được đến năm con chó! Mới bị bà già vợ giũa cho một trận bực mình bỏ ra đây đây! Yêu với đương là đau khổ, mà chưa có đau khổ thì chưa có khôn. Khi người ta ngưỡng mộ một con người về một mặt nổi trội nào đó, người ta vỗ tay và người ta nhầm lẫn rằng đối tượng ấy toàn bích trên tất cả các bình diện, người ta cưới nhau rồi thấy không phải vậy người ta vỡ mộng. Cưới nhau về sống chung rồi mới biết, cô ta sinh con, nhưng không thích làm mẹ. Đêm ngủ không bao giờ thay tã cho con, cứ để cho bé tè ra mặc sức thấm vào nệm bông ướt đẫm ra như bãi bùn còn mẹ thì ngủ thẳng cẳng, sáng ra bỏ máy giặt quay cho khô. Ông bà già tôi thương cháu bỏ tiền ra thuê cho mỗi đứa cháu một cô giữ em, chứ tôi cũng chưa có nghề sống bám vào trợ cấp gia đình làm gì có tiền thuê bao dữ vậy? Cơm nước không biết nấu, ở nhà còn phải có một cô cơm nước giặt giũ lau nhà nữa. Chỉ có giỏi xách tiền đến mỹ viện thôi. Biết thế tôi kiếm một cô vợ bình dân làm nội trợ, nuôi con đều giỏi. Anh ma giáo lắm đó, hồi ấy anh đánh bài chuồn để tôi phải gánh cái của nợ. Vậy mà còn về mách bà già vợ đòi ly dị với tôi, đổ cho tôi là hay tức khí hung hăng, dùng quả đấm. Tôi vốn nóng tính mà! Trái tai gai mắt là tôi nện. Ai muốn biết hình mẫu gia đình cá thể ra làm sao xin mời đến nhà tôi! Một anh đàn ông, một người đàn bà và ba cô giúp việc. Cuốn phim đời lướt qua trong đầu tôi như một ký ức, tôi phục lăn đầu óc trực giác của mẹ tôi. Càng phục tài cha tôi bịa ra hình tượng nhân vật hay tức khí là tôi để hồi hôn, lại ứng vào anh chồng đang tố khổ vợ trên bàn cà phê này.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trời thôi mưa bao giờ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lê Đại Anh Kiệt[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ly rượu vơi, ly rượu lại đầy. Dũng chạm ly với cái bóng của mình, anh không uống rượu mà đang nhắm nhá hương vị nồng cay, đắng chát của sự thất vọng. Chưa bao giờ Dũng tự nguyện rủa mình tệ hại đến mức này, chưa bao giờ Dũng thất bại thảm hại đau đớn đến mức như vậy. Dũng uống, lại uống mãi đến khi Duyên hiện ra. Phải rồi, chính Duyên đó, đôi mắt thâm quầng, đôi mắt u uẩn như chất chứa hàng vạn cơn mưa, dông bão. Dũng ngước mắt nhìn Duyên chờ đợi như anh vẫn hằng chờ đợi từ nhiều năm nay. Duyên đứng từ xa, vẻ hững hờ. - Duyên! Sao Duyên không đến với Dũng. Duyên im lặng ngoảnh mặt đi hướng khác. Cử chỉ ấy như ngọn roi quất vào trái tim rớm máu của Dũng. Anh cúi đầu lựa lời: - Thực tâm anh không bao giờ muốn Duyên phải buồn, khổ. Anh chỉ muốn đem đến cho Duyên niềm vui hạnh phúc, xoa dịu nỗi buồn của Duyên, không ngờ Dũng bất tài, vô duyên, khuấy động thêm nỗi buồn… Duyên vẫn im lặng, những câu hỏi nhọc nhằn của Dũng cũng chảy vào hư không. Nỗi buồn sâu kín của Duyên như khối băng sơn lừng lững dòng tâm sự. Dũng như những ánh nắng yếu ớt không đủ sức làm biến dạng hay sưởi ấm. Dũng lại rót rượu và nhấm nhá. - Duyên biết không! Duyên khổ một Dũng khổ đến mười. Có sự trừng phạt nào nặng nề hơn sự trừng phạt của bản thân mình. Có nỗi khổ nào lớn hơn nỗi khổ của tình yêu đặt không đúng chỗ. Có sự ân hận nào bằng sự ân hận đã làm người yêu của mình đau khổ. Dũng chẳng dám xin Duyên tha lỗi. Dũng chỉ mong Duyên hãy quên đi những lời nói, hành động ngông cuồng của Dũng, Duyên hãy nhẹ nhõm trở lại cuộc sống bình thường. Dũng chẳng bao giờ gặp lại Duyên. Dũng sẽ ra đi, để thế giới của Duyên được bình yên, thanh thản. Gương mặt Duyên vẫn không đổi sắc. Đầu cô cúi thấp như hàm ý sự đồng tình. Lại một ngọn roi khác quất mạnh vào trái tim. Dũng cong oằn thân người vì đau đớn. - Phải rồi! Sự hiện diện của Dũng đang là một bóng ma ám ảnh lên tâm trí Duyên. Duyên cứ yên tâm, Dũng đủ bản lĩnh để tự bóp chết tình yêu đẹp đẽ của mình, bóp chết tương lai và mọi niềm hy vọng của mình. Miễn sao Duyên không còn buồn nữa. Dũng cúi đầu rót rượu và lại uống một mình. Khi anh ngước mắt lên thì hình Duyên không còn nữa, ảo ảnh ta ra thành màn nước mưa. Một cô nhân viên phục vụ ngồi sà vào chiếc ghế trống bên cạnh Dũng: - Sao vậy anh? - Buồn! - Vì sao? Bị bồ đá đít à? - Không? Tình đơn phương. - Ồ! Đúng rồi! Xấu trai như anh dễ bị sốc kiểu này lắm. Nào thôi! Đừng uống rượu nữa. Đi chơi với em cho vui. Em sẽ chiều anh mọi thứ trên đời. Cô phục vụ bàn - một loại điếm trá hình thõng thẹo cười cười nói nói. Dũng gạt phăng đi. - Cô hãy đến các bàn khác. Để tôi yên. - Ồ! Anh chàng nào cũng vậy cả. Mới bị cú sốc nhẹ đã vội than trời trách đời đất, oán hận cả nhân gian. Đi với em đi, anh sẽ thấy thế là tình yêu, hạnh phúc. Giọng cô gái ngọt ngào mà dửng dưng như những lái buôn thường mồi chài mua bán món hàng. Dũng im lặng lắc đầu ngán ngẩm. Cô gái suy nghĩ một lúc, ánh mắt cô sáng lên: -À! Hay anh chê em xấu! Được rồi, em sẽ giới thiệu bạn em! Hoa khôi của quán này. Dũng nhìn cô gái bằng ánh mắt thương hại, làm sao có thể giải thích cho cô hiểu anh đã chán ngán những tình hờ duyên tạm. Anh đã ngấy đến tận cổ cái trò chơi xác thịt hay những cuộc truy hoan động cỡn mà những người trong cuộc không cần biết gọi tên nhau. Nhan sắc, vóc dáng, những đường cong mỹ lệ… có một thời kỳ đã tạo cho anh không ít thích thú. Nhưng những ham muốn thể xác ấy cũng có giới hạn nhất định, anh đã vượt qua giới hạn ấy bằng sự chán nản đến cũng tởm lợm. Dũng đưa tay vào túi quần lấy ra một xấp tiền: - Đây! Anh boa cho em! Cầm lấy và đi đi. Cô gái lắc đầu quầy quậy: - Không! Em có làm gì đâu mà lấy tiền. Em làm điếm nhưng không ăn xin. Em thích sòng phẳng. Vẻ ương bướng bất ngờ của cô gái làm Dũng ngạc nhiên. - Nếu thế thì em làm ơn sang bàn nào khác! Hôm nay anh thích ngồi một mình. - Chẳng ai thích ngồi một mình cả! Chẳng qua người ta không gặp người vừa ý với mình thôi. Em cũng chẳng muốn quấy rối anh làm gì. Nhưng ông trời bắt thế! Dũng giương mắt nhìn cô gái, anh định to tiếng quát tháo nhưng cô gái thong thả giải thích: - Anh thấy đó! Trời mưa tầm tã! Quán chỉ có mỗi mình anh là khách, không ngồi với anh em ngồi với ai bây giờ. Dũng nhìn quanh. Mây vẫn giăng đầy trời dán ánh đèn đường vào khối nước màu trắng xám. - Thế em cứ ngồi, nhưng hãy yên lặng. - Ngồi yên thì em có cái gì. Em phải là người mẫu hội hoạ đâu? Này! Chắc cô ấy đẹp lắm hả. Dũng chán nản, nếu trời không mưa có lẽ anh sẽ đi tìm quán rượu khác. Dũng trả lời lấy lệ: - Không đẹp cũng không xấu. - Thế có gì anh lại mê muội đến như vậy? Đó chính là câu hỏi mà Dũng vẫn thường tự vấn, anh ngập ngừng: - Cô ấy có những thứ mà người khác không có? - Cái gì? Gia sản khổng lồ? Cổ vật?… Hay là cô ấy có mùi vị đặc biệt… Giọng nửa đùa nửa thật của cô gái làm Dũng tự ái, anh không cho phép bất kỳ ai được xúc phạm đến Duyên. - Không! Cô ấy không giàu, không đẹp, không còn trẻ nữa, nhưng cô ấy có nỗi buồn riêng tư, cô ấy có tấm lòng đôn hậu và nhất là sự trung thực hồn nhiên của trẻ thơ. Tôi yêu cô ấy đến điên cuồng chỉ vì những đức tính ấy. Cô gái nhìn Dũng từ đầu đến chân với vẻ nghiêm nghị hơn nhưng giọng nó của cô vẫn pha đầy sự đùa cợt. - Tội nghiệt thật! Một tình yêu lý tưởng như thế lại bị từ chối. Ồ, nhưng nếu thật anh chỉ yêu cô ấy với lòng cao thượng như vậy việc gì anh phải đau khổ. Dũng run rẩy rót một ly rượu, câu hỏi vô tình của cô gái như vết dao rạch vào vết thương đang rỉ máu. - Tôi dại dột! Tôi nóng nảy! Giá tôi cứ để tình yêu ấy chết lặng trong lòng mình, âm thầm với chính mình. - Thế anh đã làm gì? - Tôi đã bày tỏ với cô ấy, tôi đã khuấy động nỗi đau của cô ấy. Tôi đã phá vỡ đi sự cân bằng… Cô gái chép miệng thương hại Dũng! - Anh định mượn rượu để tìm quên ư! Tôi xin lỗi đã quấy rầy anh. Thực tình! Bù lại tôi hy vọng có thể xoa dịu nỗi buồn của anh. Nào! Đi với tôi, xem như tôi chiêu đãi anh miễn phí - một ngoại lệ đấy. Dũng lắc đầu, đôi mắt cô gái thoáng qua nỗi buồn tủi: - Xin lỗi! Cô trẻ đẹp, cũng dễ thương nữa. Giá như gặp cô lúc khác tôi đã chủ động, chứ không đợi cô phải nhọc công mời mọc. Nhưng… Duyên đã chiếm lĩnh mọi ngóc ngách trong tâm tư, tình cảm của Dũng. Tinh thần thể xác anh rũ rượi trong mặc cảm có lỗi. Cô gái ngồi ủ rũ, nỗi buồn của Dũng như đã thấm vào tâm trí cô. Tình yêu - một căn bệnh, một loại độc dược, có thể giết chết cả một đời người. Thế nhưng tình yêu ấy giống như loại phấn hoa gieo rắc cuộc sống ở khắp mọi nơi. Nó đánh thức dậy trong đáy sâu tâm hồn mỗi người những bản ngã nhân tình. Dũng nhìn cô gái, miệng anh cười như mếu: - Nào bây giờ ta đi. Chúng ta sẽ sống với nhau một đêm. Dũng muốn hợp thức hóa số tiền dự định bao cho cô gái nhưng một lần nữa cô gái lại lắc đầu từ chối: - Bây giờ tôi không muốn! Anh không phải gượng ép làm gì. - Tôi đi nhé. - Cô đi đâu? Trời đang mưa. - Tìm một chỗ yên tĩnh, suy nghĩ về cuộc đời mình. - Thế thì cứ ngồi lại đây. - Cũng được. Họ ngồi bên cạnh nhau, mỗi người một hướng về một thế giới riêng tư của mình. Vũ trụ của anh thật mơ hồ nhưng quá sức bao la. Người ta vẫn mãi mãi trôi đi trong vũ trụ riêng tư của mình. Bao giờ thôi mưa? Bao giờ cho những khoảng cách tinh thần được gần lại để con người có thể hiểu, cảm thông và dìu dắt nhau đi hết đoạn đường khổ ải.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trời xanh trên mái cao[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phạm Ngọc Túy[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cứ cho là chúng mình sẽ gặp nhau trong giấc mơ, hoặc là trong tưởng tượng. Nhưng cần thiết gì điều đó. Nơi anh ở hẳn thuộc khu trung tâm thành phố, đông đúc và náo nhiệt? Có đủ hàng quán vui nhộn, khu giải trí, khu học hành, và hẳn và nhiều cỏ xanh? Ở đây, vào mùa nắng cũng như mưa, thế giới bên ngoài khép lại ngoài khung kính. Tất cả thu hẹp lại nơi những vầng mây trắng. Chúng bềnh bồng như bông, nhẹ như tơ. Mây là con thuyền trôi bên dòng sông trời, trôi đi trong khoảng thời gian vô tận giữa ngày và đêm. Suốt bốn mùa nơi đây không có một tiếng gõ nào khác ngoài nhịp đập của trái tim. Không có hình ảnh nào sống động hơn ngoài những đám mây. Có khi nào anh nghĩ rằng, anh sẽ ngồi trên con thuyền ấy trôi qua cửa nhà em, dừng lại và chúng ta gặp nhau? Ngày...tháng...năm Hôm nay mưa suốt ngày. Mưa xua tan những nhọc mệt, những nỗi ám ảnh. Mưa xua đi những đám mây trắng và em vẫn tin là một ngày nào đó anh sẽ đến đây. Chiếc lá mỏng manh trên cành đã bị gió cuốn phăng rồi. Mưa thật dữ và em nghĩ là em cần có anh. Như cây cần có lá. Đêm cần có lửa. Có lẽ không có gì rửa sạch ô nhiễm bằng mưa và không có gì hơn là ngồi lắng nghe khúc nhạc mưa khi người tình không tới. Anh sẽ đến chứ? Lẽ nào anh không đến khi mà em biết chắc rằng anh đã nhận ra em. Ngày...tháng...năm Đêm trời tạnh ráo. Đêm trong như một tiếng chuông ngân. Em khó ngủ vì cái chân đau. Đêm nay sao rất nhiều. Có một nơi tinh tú ngự trị nhiều nhất là nơi này đây. Chúng nghịch ngợm xô đẩy nhau. Có ngôi thật sáng. Có ngôi mờ nhạt. Thỉnh thoảng có ngôi bỏ cuộc, lọt vào chỗ em nằm, sao rụng ấy mà. Em tưởng tượng vì sao rụng ấy là anh. Ngày...tháng...năm Đêm qua có một vì sao rụng bên gối em nằm.Tỉnh dậy mới hay là con đom đóm ngủ quên. Chiếc lá phiêu lưu lên đến ngọn đỉnh trời kể cho em nghe chuyện bà Tiên có chiếc đũa thần kì. Bà Tiên sẽ chúc phúc cho chúng mình. Nhưng làm sao tới được ngọn đỉnh trời? Đến ngày nào con thuyền Mây chở anh dừng lại bên cửa sổ phòng em? Đến bao giờ thì ngôn ngữ hoàn thiện được tính chất của nó là giao thoa và cảm thông. Đến bao giờ thì tần số của anh bắt được những lời từ trái tim em. Rằng em yêu anh. Ngày...tháng...năm Khuya nay em thắp hai mươi ngọn nến. Bạn bè tới rất đông với vô số quà. Chúng cười nói, hát hò, đàn guitaz những bản cổ điển rồi ôm nhau nhảy. Có hoa tươi và bánh, có rượu và con trai, con gái. Có đủ thứ để người ta vui, người ta thụ hưởng và người ta tỏ tình. Ông hàng xóm có nhã ý tặng chục bông hồng cùng hai cái ampli. Cuộc vui chóng tàn. Giờ thì còn lại em một mình trong căn phòng ngổn ngang li tách, muỗng nĩa, và vỏ chai. Chiếc bánh sinh nhật vẫn còn nửa. Em đứng nhìn khung cảnh này, nhìn rất lâu và thầm nghĩ rằng vì sao không có anh. Anh không đến khác nào ngày không có nắng và đêm sau không có lửa. Rồi em bước lên phòng. Giờ đây còn lại mình em. Ngoài cửa, cây hoa trạng nguyên mỏng manh và lẻ loi. Đêm nay chưa có vì sao nào rụng. Khuya lắm rồi. Tiếng động và âm nhạc đã rời xa. Bây giờ chỉ còn tiếng sương rơi trên lá trạng nguyên. Ngày...tháng...năm Đêm qua em nằm mơ. Có phải nhà anh ở bên kia sông? Bao giờ cũng có nắng vàng bên ấy và con thuyền Mây nhớ chở nắng vàng qua sông dùm em nhé. Hôm nay không ai đến, không một tiếng người, và âm nhạc. Chỉ còn em với mảnh trời xanh. Trời xanh trên mái cao. Nhà rộng mênh mông chỉ có một mình em. Có một lúc em nghĩ rằng con thuyền Mây anh phiêu lưu qua bến bờ Đại Tây Dương, phiêu linh lục hải, lưu lạc giang hồ rồi cũng trở về chốn cũ. Anh biết không? Chỗ đẹp nhất cho chúng mình là biển ngân hà rực rỡ hàng đêm. Con sông Ngân Hà sẽ là nhịp cầu cho chúng mình gặp nhau... Những trang giấy xé ra từ một cuốn sổ, có lẽ là sổ nhật ký, có thể là những lá thư không gởi. Tôi nhặt được thật tình cờ lúc cúi xuống nhặt mẩu thuốc hút dở rơi vào trong thùng rác, Nó là một thùng cacton cũ đã rách, đựng đủ thứ phế thải từ căn gác nghèo nàn. Tôi đến đây lần chót để xem xét và kiểm tra lại các hộ dọn nhà, coi họ còn bỏ sót gì không. Cái có thể gây ra tai nạn cháy nhà, ví dụ thế. Nét chữ tròn trịa, mềm mại, mực màu xanh. Chữ viết rõ ràng rất đẹp. Những trang ghi chi chít chữ này mà nếu chữ viết xấu hẳn không lôi cuốn ngay sự chú ý của tôi đến thế. Khu nhà ổ chuột này xuống cấp vì quá tải. Cư dân ở đây sống đủ các nghề: chạy xe ôm, bán hàng xén, thợ thủ công... nhưng phần đông là làm thuê...được lệnh dọn đi tới một nơi khác. Hãng thầu do tôi đứng tên trúng thầu và lần đầu tiên tôi đặt chân lên căn gác của mụ Ba Thêm - người phụ nữ nổi tiếng ở đây vì cách làm ăn mờ ám. Căn gác hẹp, thấp, đầu gần đụng sát mái. Tôi nhìn ra ngoài ô cửa. Ngoài cửa có một cây thanh mảnh, ít lá. Và trời cao, muốn nhìn cho rõ phải cúi đầu thấp chút nữa - trời trong và xanh - “trong như tiếng chuông ngân!” Có cái gì mâu thuẫn, tương phản giữa hai sự kiện làm tôi ngây ra một lúc. Từ dưới thang gác tiếng chân dậm thình thịnh của mụ Ba Thêm bước lên. - À, giấy của con nhỏ đó. Nó ở đây. Mẹ nó gởi được mấy tháng tiền thuê nhà, rồi biến! Tui phải lo cho nó nữa đấy. Tôi ngắm mụ ta. Với tướng đi, giọng nói của đàn ông, làn da ngăm, trông mụ hợp với vai trò người chủ chứa. - Cô ta còn đi học à? - Nghỉ lâu rồi. Nhận đỡ mây tre về đan. Mùa đông móc mũ len, khăn quàng bỏ chợ. Mùa hè bán coc, ổi...mấy bữa nó học nghề làm móng chân. Có một ông có vợ mê con nhỏ, cho nó tiền đi học nghề. Được ba tháng, mụ vợ cả tới đánh ghen. May con nhỏ không có nhà. Thế là hết! Tui bảo nó hay làm nghề bán quán, bưng phở cho người ta. Nó không nghe. Nó nói, ưng học nghề thợ may mà thiếu tiền. Má nó thì biền biệt. Tôi đang băn khoăn tự hỏi, ngày mai khu nhà này dọn đi hết-người ta đã đi phân nửa rồi. Từ sáng sớm đến giờ tiếng xe tải chạy vô, ra, tiếng người lên xuống các cầu thang, gọi nhau ơi ới ồn ào. Chỉ có nơi này yên lặng vì nó là ngôi nhà nằm ở cuối khu vực. Cô nhỏ sẽ làm chi để sống. Từ dưới cầu thang lại vọng lên tiếng chân. Bước chân êm nhẹ, nghe là biết ngay của một cô gái. Tôi nhìn cô chăm chú. Hai món tóc mai dính vào thái dương, má đỏ au, có lẽ vì vừa đi một chặng đường dài. Cô đẹp. Làn da trắng, tóc đen dài, mũi cao thanh tú, cô lôi cuốn ngay sự chú ý của tôi Tôi cảm thấy vô cùng căng thẳng. Cô không nhìn ai, mà hấp tấp bước tới thùng giấy loại. - Mất rồi! - mụ Ba Thêm vọt miệng- Thằng Tí lấy cuốn sổ rồi. Cô đứng thẳng người, hai mắt mở to nhìn mụ. Vẻ như vừa đánh mất một kho báu. - Trời ơi. Lẽ ra bà cho tui biết để tui rượt theo, đòi lại. - Chà, ai mà biết. Thấy mi quên, tao tưởng mi vứt... thằng Tí xin về chép bài, nó nói, giấy trắng còn nhiều. Cô nhỏ thất vọng. Cúi đầu, không chào ai, cô bỏ xuống thang. - Nì! mụ Ba Thêm gọi giật. - Chi nữa, me? Giọng nói cô nghe ráo hoảnh. - Đây ông ni có giữ mấy tờ giấy. Ông lượm trong sọt rác. Cô chợt nhận thức sợ có mặt của tôi. Cô bối rối. Tôi vội vã mở cặp, đưa cho cô hai tờ. Cô hấp tấp vồ lấy, đôi mắt đen láy vụt sáng. Rồi nhìn tôi với vẻ biết ơn, cô trở gót một lần nữa. - Rứa là ít. Bữa hôm, nó ghi chi chít một quyển. Má nó tới thăm, chụp xé. - Xé à! Cô ta có bồ chứ? Tôi hỏi vô duyên. - Hờ... tui không biết. Chỉ có ông nớ có vợ, mê như điếu đổ, rồi thôi vì vợ ghen quá... ờ mà con nhỏ đó... nói chung nó cặm cụi trong nhà, ít ra ngoài lắm. Bữa ni đi học nghề làm móng chân, xe cộ rần rần... Tôi từ giã mụ Ba Thêm, xuống gác. Cò tin được không, trong cái thành phố nhỏ bé này, nửa năm sau tôi mới tìm ra cô. Qua tiệm uốn tóc Phù Dung, được biết cô đã bỏ nghề. Qua mụ Thêm bán phở, cơm bình dân, cô hiện bán càphê. Dịp may đến với tôi: một người bạn ở Hà Nội vào, mời tôi uống café- loại đặc biệt- tôi rủ anh đến quán Mưa. Quán này luôn bỏ đèn mờ sau 9 giờ tối với những cô phục vụ xinh đẹp. Không hiểu sao, ở Hà Nội mà bạn tôi cũng biết cô Mưa. Anh đòi gặp cô ngay. Khó tưởng tượng được đó là cô. Cô mặc chiếc robe sac bằng kim tuyến xanh lục hở một khoảng cổ, cho thấy một chiếc giây chuyền lồng mặt ngọc hình trái tim. Làn da cô trắng. Tóc đen chải bồng lên nhưng vẫn để xõa. Mắt đen láy. Bà chủ, thân hình béo phục phịch trong bộ vetcan đắt tiền vừa đưa cô đến vừa cười: - Đây, cô Mưa của quán Mưa. Cái dáng vẻ thanh xuân, sức sống dồi dào ở làn da mịn, bộ ngực cao và thân hình cân đối. Khung cảnh thích hợp, đèn nửa tối nửa sáng, nhạc nhẹ, rượu ngon. Người ta gọi bia rượu tùy thích. Dĩ nhiên bạn tôi uống rượu. Cái đẹp hôm nay của cô Mưa là cái đẹp hoàn thiện của cô Mưa đi chân trần, tóc rối bời, khuôn mặt đỏ gay trong căn gác hẹp và chiếc cầu thang bụi bặm bẩn thỉu đầy rác. - Một chai nữa nghe? Tiếng Mưa thỏ thẻ bên tai. Tôi ngồi trơ như phỗng đá, thầm nghĩ bao nhiêu mong đợi của mình, nay gặp một thực tế khác hẳn. Tương tự như sự tương phản giữa trang viết của nhà văn với cuộc đời. Tàn nhẫn đến thế ư? Khuya lắm tôi mới đưa được anh bạn si tình ra khỏi quán. Dọc đường về khách sạn, tôi kể cho anh nghe chuyện tôi gặp Mưa, mất tháng trời dò tìm tông tích cô. - Đến bây giờ, anh vẫn chưa vợ chứ gì? bạn tôi hét vào tai tôi. Làm sao có thể nói cho bạn tôi biết- ngay từ những trang viết của Mưa, và sau đó gặp cô tôi đã yêu cô? Gió bão cuộc đời đã cuốn phăng chiếc lá trạng nguyên qua những bến bờ nào? Con thuyền Mây là anh đã ghé bến mà em có còn là cô gái ấy? Làm sao có thể thấy được sao rụng vào gối- con đom đóm ngủ quên. Những lúc mệt mỏi, tôi dở lại trang viết của cô (tôi đã giấu đi một tờ), tưởng như đọc tâm hồn cô, ở một nơi như thế, lại có được một trái tim trong trắng. Chỉ với sự thuần phác ngây thơ, người ta mới thấy được trời vẫn luôn luôn xanh, và con thuyền mây vẫn chở nắng vàng qua bên kia sông. Nhiều năm sau tôi mới cưới vợ, vẫn cất giữ trang viết và hình ảnh cô trong đáy tim. Phải chỉ với trái tim, nghệ thuật mới khởi đầu và sáng tạo giúp con người phục sinh. Mưa là một kẻ sáng tạo và đến bây giờ- trong đáy lòng tôi thì cô vẫn chỉ là cô.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trong bóng rừng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hồ Dzếnh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nói đến rừng, tôi quên sao được lớp nhà lá đẹp đẽ của ba tôi dựng trên một cánh đồng lớn, lớp nhà đổ xuống sân một đường bóng dài đậm, mỗi lần mặt trời nghiêng xuống dãy đồi cong. Chính ở nơi đó, tôi lớn lên, giữa những cuộc kinh doanh còn bề bộn của ba tôi. Chính ở nơi đó, trên đôi mắt trong và sáng của tôi, lần đầu tiên bóng rừng núi chạy qua, ánh sáng chiều phản lại và hai thứ này cùng nhịp nhàng trong tôi những cảm tưởng về thế sự buồn rầu và cảnh đời hùng tráng. Tôi thở cái hương rừng mọi rợ, yêu say mê mùa sim vừa chín đến, và tự mê hoặc mình bằng cách mê tín những bùa phép của dân Mường, Mán xung quanh. Trước nhà tôi, thường thường đi về những người mặc áo chàm ngắn cỡn, tay cầm lăm lăm dao quai. Trong đám người đó, lẩn vào những khuôn mặt mùa xuân đặc biệt sáng lên bởi những cặp mắt to và trong suốt. Bóng họ bình yên trộn vào bóng rừng thẳm và mỗi bước chân gieo xuống đất, làm sống lại những nỗi u kín của ngày xưa... Tôi có trông theo toán người xa lạ ấy thì bất quá cũng chỉ để buồn vơ vẩn trước những sợi khói lam chầm chậm tỉa khỏi mấy nóc nhà chơ vơ trên lưng chừng núi. Nhà tôi ở quay mặt ra hướng Bắc, gió tiện lối vào, đem theo về lòng tôi nỗi hoang mang của bốn chân mây vắng ngắt. Ba tôi thường ngồi ngó ra khoảng cao rộng, lâu hàng giờ không nói và thỉnh thoảng gợi về cho tôi, bằng những câu chuyện kín đáo hơn tiếng thở dài của người, cả một xứ Trung Hoa bí mật, cái tình yêu tiềm tàng trong tôi, âm thầm như một niềm đau xót. Tôi ngơ ngác theo từng chiều mắt, dò từng sợi tóc bay lên của người, và sau khi không biết được thêm điều gì, tôi cất tiếng hỏi: - Ba tìm gì đấy, ba? Ba tôi không đáp, đưa mắt nhìn xuống ngọn đèn dầu lạc. Những cử chỉ ấy, thoạt đầu còn làm tôi khó chịu, sau tôi quen dần đi, và thầm nhủ như thế này: - Ba mình già rồi. Chỉ biết hút thuốc phiện. Thôi kệ! Tôi nghĩ thế, rồi bỏ ba tôi, chạy đi tìm các trẻ nhỏ thân mật đến nỗi bây giờ tôi đâm ngờ cả những sự thân mật nhất mà loài người ban cho tôi, vì cớ là không còn tình gì trên thế gian, dưới mắt tôi, đẹp hơn thứ tình tôi đã để trôi mất. Mỗi lần nghe anh tôi học về sự hại của thuốc phiện, tôi sốt sắng chạy lên gác, lại bên bàn đèn của ba tôi, mà khuyên người: - Này ba ạ, thuốc phiện tối chi là hại đấy. Nó làm cho người ta xấu đi và tồi lắm. Ba bỏ thuốc phiện đi, ba ạ, không nhỡ nguy mất. Một nụ cười hiếm hoi nở trên đôi môi của ba tôi. Người thủng thẳng: - Ai bảo con là thuốc phiện làm cho người ta xấu đi? - Anh Hai học thế! Ba tôi đáp lạnh nhạt: - Không có thuốc phiện thì ba đã chết từ lâu rồi. Không có thuốc phiện cũng không có con ngày nay. Tôi ngạc nhiên, trụt đôi guốc, trèo lên giường rồi hỏi gặng: - Thế thuốc phiện nó... đẻ được ra người ta, à ba? - Đẻ thì không đẻ được, nhưng nó giải được thủy thổ bất phục. - Giải được thủy thổ bất phục là gì, hả ba? - Là như có sơn lam chướng khí thì thuốc phiện đánh cho tan ra. - Thế sơn lam chướng khí là gì, ba? - Là hơi núi, khí đất không hợp với người ta. - ờ... ờ... Thế sơn lam chướng khí nó có biết đánh ba không mà ba đánh nó? - Nó quấy ba như quấy mọi người. Ba hút thuốc phiện cho tiêu nó đi. Ba tôi vốn hà tiện lời nói. Người khó khăn và nghiêm. Tôi còn nhớ rõ cái sống mũi dọc dừa trên một khuôn mặt xương gầy. Mẹ tôi bảo ba tôi giàu vì có hai cái tai nhọn. Tôi, tôi tin rằng ba tôi giàu vì ba tôi là người Trung Hoa. ýnghĩ ấy đem tôi đến một cuộc phỏng vấn ngây thơ này: - Ba hả, tại làm sao người Tàu không ở bên Tàu lại cứ sang bên nước Nam? - Tại vì người Tàu thích đi ra ngoài. Tại vì người Tàu nghèo, dân nhiều, gạo ít. Tại vì ở bên Tàu lắm cướp. Cướp nó ở rừng, cướp ở đâu cũng có ăn, vì nó ăn cướp. ở vùng đây, ba tôi chiếm một địa vị khả quan. Không phải người có quyền tước gì, nhưng vì người buôn bán phát đạt nên được những cái đầu to, mặt lớn nể. Thêm nữa, ba tôi có tài ngoại giao, có cái oai thầm của những người Trung Hoa khiến kẻ bên cạnh phải sợ vì, những kẻ gian phi xa lánh. Ba tôi thường bảo trong đời một người đàn ông, không nên sợ gì hết, cứ thẳng mà tiến, ngang nhiên mà làm. Nhưng ba tôi làm tôi nghi hoặc câu nói cứng đó, nên tôi hỏi: - Thế ba không sợ dì Hai là gì? - à chuyện, người ta là đàn bà, nể người ta một chút cũng chẳng sao. Nơi ba tôi đi lại thân mật nhất là gia đình ông Châu Khâm. Ông Châu Khâm sống yên lặng ở trên một chiếc nhà sàn với người vợ, cô con gái - cô Fin - và con chó mực. Cả ba thứ động vật sau này đều học được tính chủ, nghĩa là rất ít nói, ít cắn, mơ màng. Cô Fin thì ngày ngày vẫn quay tơ, để tiêu bình thản thời giờ bằng cách rút hết guồng sợi này đến guồng sợi khác. Đời nàng như một dòng suối tù hãm, trên dải nước chết chỉ hơi lờ mờ gợn bóng mây, nó là những vẩn sống buồn bã, không đủ sức hun ấm động mạch cơ chừng đã chết lạnh trong người nàng. Fin có đôi mắt rất đẹp, vì chúng rất to và sáng, nhưng không phải là gương thông minh mà là biểu chứng của một tấm lòng ngây dại. Đôi mắt ấy, ngày nay vẫn còn mở trong trí tôi, như một ảnh hình khó mất. Chúng tôi thường sang chơi nhà Fin bằng xe ngựa. Không biết tôi có nên gọi đó là chiếc xe ngựa không, vì đó thực là mấy mảnh gỗ chắp lại thành hình mui thuyền, và đúng là có họ gần với chiếc xe bò kéo. Tuy nhiên, giữa cánh đồng lúa non thì con gái, chiếc xe ấy cũng đã đem lại cho tôi những giờ phút khoái trá, khi tôi thấy giàn giụa ra hai bên mình màu cỏ xanh thắm, đậm đà thêm vị hương sắc thanh bình của thôn quê. Mỗi lần chiếc roi ngựa hạ xuống, mỗi lần chiếc xe chạy mau thêm, tôi rùng mình bảo ba tôi: - Ba nhỉ, những con rắn con nhái chắc chả dám lên cắn con đâu. Tôi còn nhớ con đường trải thứ đá răm từ ngoài ngõ chạy vút vào nhà Fin, nên mỗi lần xe ngựa của chúng tôi đến, Fin đều dừng tay việc nhìn lên vì nghe tiếng bánh sắt lăn trên đá. Ba tôi để tôi ngồi cạnh mẹ Fin và Fin, rồi lên gác hút thuốc phiện với ông Châu. Tôi ngồi chăm chú ngắm Fin đắm chìm trong công việc, trong lòng trẻ nhỏ thốt nổi dậy một thứ rung động thầm kín, cái cảm giác đẹp đẽ mà tôi không tìm thấy được nữa trên đường đời. Trái hẳn với bản tính của những người Kinh trẻ tuổi, Fin rất ít nói. Nàng hồn hậu và nghiêm nghị, tươi tắn nhưng mơ màng. Nhiều lúc Fin nghiêng đầu, lắng tai vào không khí, tựa hồ như nghe ngóng một tiếng gì huyền bí, trong cái dáng điệu lơ đãng rất đáng yêu. Năm ấy, tôi lên mười và Fin lên tám. Bầu trời sáng và rộng, luôn luôn thấy những buổi hiền hòa, cây xanh gió mát nhịp nhàng với nhau như trong một bài thơ cổ. Tuần lễ một lần, ba tôi đánh xe ngựa sang nhà Fin, và cứ thế, yên yên, lặng lặng, trong tôi đã nảy nở tự bao giờ mối thiện cảm sâu xa đối với người em gái Kinh lai Mán. Một lần tôi đột ngột hỏi Fin: - Fin này, Fin có muốn lấy chồng không? Fin lấy tôi nhé? Fin nhìn vào mắt tôi hồi lâu rồi cười: - Lấy nhau là cái gì? - Là ăn cơm với nhau, như ba và mẹ tôi ấy. Không hiểu sao, Fin vụt cười lên một cách vô cùng lạnh lẽo: - à! Lấy thế thì không lấy. Đương vui, bỗng như bị ai đánh, tôi sa sầm ngay nét mặt xuống. - Thế là... Fin không thích tôi rồi nhé. Để tôi bảo ba tôi không đánh xe sang đây nữa cho mà xem. Tôi rơm rớm nước mắt, chạy mách ba tôi thực. - Ba này, Fin nó ghét con, nó không chơi với con, về đi, ba ạ. Ông Châu ngồi dậy, nhại cái miệng mếu của tôi, rồi cười: - Không, Fin nó thích con đấy, nó không ghét con đâu. Ra ngoài chơi rồi chốc nữa ông đánh nó cho. Tôi thui thủi lại ngồi cạnh Fin, đưa mắt buồn nhìn cảnh rừng núi trước mặt, tâm hồn lần đầu rạo rực trong những cảm giác chán nản mênh mông. Lúc ấy, tôi mang máng nhận thấy rằng Fin là người con gái kỳ lạ, không bao giờ có thể trở nên bạn tôi. Và sau này, mỗi lần nhớ đến Fin, tôi vẫn rùng mình trước vẻ lạnh lẽo ấy. Một hôm, tôi và Fin vào cánh rừng nhỏ gần đấy hái sim. Chúng tôi đi giữa hương mùa thu mới chớm, thanh sắc kỳ lạ của cỏ hoa không quen tên. Lòng tôi rộn lên một niềm say sưa, còn lòng Fin thì vẫn lạnh lẽo. Khi đến một gốc cây gần đấy, tôi chỉ tay bảo Fin: - Fin này, ổi chín quá, tôi hái cho Fin ăn nhé. Fin vẫn đi, trả lời buông thõng: - Tôi không ăn, anh muốn ăn thì lấy. Tôi tức giận nhìn Fin bước đi, hằn học, nhủ thầm: - Đã làm bộ thế, ta cho biết tay. Rồi tôi gọi Fin: - Fin ạ, con ong nó đốt tôi. Fin hốt hoảng chạy lại, hỏi tôi: - Ong đốt đâu, anh có đau không? Tôi cầm lấy bàn tay Fin hờ hững đưa ra, và sau câu nói: - Nó đốt thế này này. Tôi cắn mạnh vào tay Fin với tất cả sức điên rồ của một tấm lòng thơ trẻ. Tôi chỉ buông Fin ra cho nàng giãy giụa trên mặt đất, khi những tiếng kêu bất thần của Fin làm tôi chợt tỉnh. Tiếng kêu ấy làm giật mình ông bà Châu, ba tôi, và tất cả, người cầm súng, người cầm dao chạy lại cứu, vì đều ngỡ là chúng tôi bị nạn. Tôi quên làm sao được đôi mắt hờn oán của bà Châu, đôi mắt dữ dội của Fin nhìn tôi, sự yên lặng đầy miệt thị, lãnh lẽo như nước đá của con người sinh ra tôi. Tôi xấu hổ, đi lại phía sau, đưa tay áo ra gạt nước mắt... Cuối năm ấy, ba tôi mất, vết xe ngựa hằn trên dải đường đưa đến nhà Fin đã mòn dần đi, và chận lên đó những bước chân yếu ớt của chúng tôi, những người đôi lúc sang nhà Fin để làm sống lại chút ít sự thân thiết ràng buộc hai gia đình. Ông Châu bỏ tiền ra mua con ngựa trắng của ba tôi và giữ hộ ít hàng cho khỏi bị tịch ký. Thời gian êm đềm trôi qua, tôi và Fin đã lớn. Xung quanh người con gái mười sáu tuổi ấy, mùa xuân bắt đầu rạo rực, ngày tháng bắt đầu thêu hoa. Fin đẹp một cách mọi rợ trong bóng rừng đã thấy nàng lọt lòng mẹ rồi sẽ đi lấy chồng. Rồi tôi lên hai mươi, Fin mười tám tuổi. Cách đây hai năm, nhân dịp nghỉ hè, tôi về chơi nhà ông Châu. Ông Châu già rồi, sinh lực tàn như ánh đèn dầu lạc. Mẹ Fin và con chó mực đã chết. Riêng Fin vẫn đẹp. Nàng vẫn ngồi quay chỉ, đạp guồng, mắt vẫn nhìn những đường trắng của lớp chỉ chạy đi, quên rằng thời gian bên nàng đã thay đổi tất cả. Tôi ngồi cạnh Fin, hôm đó là một buổi chiều, một buổi chiều sương đục lờ mờ rây trên dải núi đằng xa. Tôi nhắc lại cuộc chơi bời ngày nhỏ và hỏi Fin: - Fin còn nhớ ngày nào tôi cắn tay Fin không? Nhưng Fin trả lời hời hợt: - Lâu quá rồi, ai mà còn nhớ được! Nói xong, Fin không tỏ vẻ gì buồn bã cả. Fin điềm nhiên một cách lạnh lẽo, cả đến khi nghe tôi hỏi nàng câu thứ hai: - Cô Fin sắp lấy chồng chưa? Fin đáp một giọng lơ lớ: - Tôi sắp lấy, anh nà. Tôi lấy một người con trai làng tử tế lắm. Không dưng, lòng tôi nhói lên, như bị ai chích. Rồi tôi chợt hiểu. Tôi hiểu rằng, trong lòng người con gái của xứ rừng núi này, ẩn một cảm tình khác, nó chỉ đặc biệt ràng buộc với những cái gì thuộc về quê hương, mà không có sức mạnh nào, quyền phép nào, dẫu nhiệm màu, cao cả ở trên thế gian này mua được. Nhiều lần, ở xa, nhớ đến người con gái vô tình đi qua ngày tháng của tôi, tôi mang máng nghe tỏa từ quãng mênh mông một tiếng gọi gì buồn bã, một tiếng gọi không hiểu chính của lòng tôi hay của khu rừng linh thiêng nghìn đời lặng lẽ: - Em Fin! Em Fin! Tôi còn yêu Fin được đến ngày nay, đó chỉ vì tôi ở xa Fin, và không bao giờ tôi gặp Fin nữa. Muôn trùng sở dĩ rạo rực được lòng người, vì muôn trùng là nỗi thương nhớ mênh mông của những tấm lòng rất bạn.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trong cơn mưa[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phạm Thị Hoài[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cơn mưa cuối thu kéo dài tám tiếng đồng hồ, bao nhiêu năm nay tôi không có một cuộc ngồi trọn ca như thế. Kỷ lục ngồi lần thứ nhất của tôi ở thời thơ ấu, kỷ lục lần thứ hai thời trai tráng, lần thứ ba này tôi đã ngoại tứ tuần. Tám tiếng đồng hồ này là của trời cho, chỉ có trời hiểu rõ rằng tôi đến điểm hẹn trắng tay và lúc đi khỏi vẫn thế. Ðiểm hẹn là một quán cà phê bình thường, sạch sẽ vừa phải, phục vụ vừa phải, cũng nhạc cũng đèn màu chung chung, cũng nâu đen đá chanh cam xoài và côla côla, trên tường cũng ảnh gái trai ngoại quốc cười phô phang, dưới đất bàn ghế cốc chén cũng mỗi chiếc một kiểu tạm bợ. Tôi ngồi xuống một trong những chiếc ghế nhỏ thấp, bất tiện, khi giọt mưa đầu tiên rơi xuống và thầm hoảng: chính Vi đã chủ động chọn nơi này. Nàng quá nhạy cảm, quá hồn nhiên hay thậm chí vô tình? Thành phố này chi chít quán cà phê, nếu cho mỗi quán một chấm nâu thì bản đồ sẽ toàn một màu sôcôla như thể đấy là màu dân tộc. Tôi từng biết trong số đó vài quán đặc sắc. Một quán nổi tiếng vì tiên phong trong việc rải sỏi và kê những gốc cây phạt phẳng làm bàn ngoài vườn. Công cuộc thơ mộng hoá ấy bây giờ đã lạc hậu, cạnh hồ Thiền Quang có hai cái quán sát nhau khách ngồi tràn ra vỉa hè, mỗi quán một chấm nâu thì bản đồ sẽ toàn một màu sôcôla như thể đấy là màu dân tộc. Tôi từng biết trong số đó vài quán đặc sắc. Một quán nổi tiếng vì tiên phong trong việc rải sỏi và kê những gốc cây phạt phẳng làm bàn ngoài vườn. Công cuộc thơ mộng hoá ấy bây giờ đã lạc hậu, cạnh hồ Thiền Quang có hai cái quán sát nhau khách ngồi tràn ra vỉa hè, mỗi quán gầm rú một chương trình vidéo, bên này tung trưởng vèo vèo, bên kia lắc mông gân cổ, rơi ngẩn ngơ giữa hai quán là lập tức sẽ được hai đội phục vụ bên một tay giằng như xé xác phanh thây. Gần sứ quán Thuỵ Ðiển thì có một dạ quán gồm mấy dã nhà gỗ sơn xanh chia thành vô số buồng bé xíu cách nhau một tấm cót. Tôi đã thử một buồng. Buồng bên trái và buồng bên phải trình diễn stereo những pha giật gân chẳng kém hồ Thiền Quang. Buồng nào cũng có then cài. Muốn nói gì thì nói, đứng trước những dãy buồng biệt giam loã lồ không lời nào tả tôi đã được bật cời. Một quán nữa ở gân Viện Văn, ông chủ mắt kèm nhèm có bộ sưu tầm nổi tiếng vì vài ba học sĩ tài ba nghiện ngập. Một quán nữa ông chủ là thi sĩ quốc cấm. Một quán nữa bà chủ ngoài nâu đen đá... còn nói được dăm câu tiếng Pháp và biết pha cốc tay. Thiếu gì những cái chấm nâu lừng danh, sao Vi chọn nơi này? Có người bạn mở tiệc sinh nhật thấp thập, tôi đến, lẫn trong những tên tuổi va leng keng vào nhau, bản thân tôi cũng có một cái tên vượt quá mọi tầm kiểm soát của tôi, mỗi ngày vang lên ít nhất dăm ba lần trên các kênh thông tin đại chúng. Ba cô con gái của chủ nhân khác nhau kỳ lạ, như theo một kịch bản cố tình. Dễ thế lắm. Ông bạn tôi là kịc tác gia ăn khách, giường ngủ của vợ chồng ông phải là một sân khấu tại gia. Cô đầu nối nghiệp bố, ba mươi lăm tuổi đã là một nữ tác giả giàu bản lĩnh, độc đáo bậc nhất đương thời. Cô có kiểu đi lại chào hỏi trong đám đông gồm toàn những người hâm mộ và những người dè bỉu như đi chợ khảo giá, hàng nào cũng ghé mà chẳng mua hàng nào. Cặp mắt thông minh và bình thản, dáng vẻ đàng hoàng và cô đơn, chẳng phải nữ hoàng quyền uy, chẳng phải người đàn bà có bộ ngực phả mùi thơm của bếp, may ra có chăng một chút huyết tộc xa xôi với tôi? Cô thứ hai đẹp hiếm thấy, vẻ đẹp, vẻ đẹp nhờ phúc tổ tông, không mất công gì mà sang trọng quý phái. Loại phụ nữ này bị nhầm thời đại. Hoặc nhầm quê hương. Nổi danh và tốt mã như tôi cũng chẳng bao giờ dám hạ một câu tán tỉnh. Trước cái cần cổ thẳng vút như ngó sen và vầng trán được tuyển chọn cho vương miện ấy tôi cứ thấy mình là một thằng vô sản lưu manh, Chẳng lẽ tôi phải đứng cách một sân rồng, úp mặt xuống đất để tâu lên rằng, bẩm người nữ, sắc đẹp của nàng làm chúng tôi xấu hổ! Nghe thối lắm. Không trách đến giờ nàng chưa lấy được chồng. Vi, cô gái út, thật nhỏ nhoi so với hai người chị, nhưng chính nàng mới là phát hiện đầy ân huệ của riêng tôi. Nàng không đẹp, không sắc sảo, nàng dễ lẫn trong đám đông. Cái duyên bề nổi của nàng chỉ toả ra từ sự trẻ trung không vướng bận khiến những kẻ từng trải nao lòng. Văn nghệ sĩ chúng ta những kẻ trải đời đau đời đã viết đã ca đã hoạ đã diễn đủ điều quanh cái sự trẻ trung tươi rói ấy rồi, nhắc lại cũng thối lắm. Nhng tôi vẫn nao lòng: nàng nhiều tin cậy quá! Một chàng tốt số nào đó chỉ cần cầm tay nàng, nhìn sâu vào mắt nàng, bảo đi với anh nhé, là nàng sẽ cứ thế mà đi, cứ thế áo chẳng thay chẳng xin tiền bố, nếu hắn bảo, chờ anh nghe cưng, là nàng sẽ cứ thế mà chờ đợi suốt đời. Tuổi trẻ chí góp vốn phần nào cho sự cả tin trong vắt ấy. Tôi biết khối em gái đa nghi như Tào Tháo, nói câu nào các em ấy cũng nhắc: "Ông anh cứ đùa!" Người chị cả với cái nhìn xuyên thấu muôn thuở và bộ óc siêu phàm hẳn là hoài nghi tất cả rồi chấp nhận tất cả như một giả thiết. Vả lại cô ấy đã quen trong giới nghi kỵ và bảo vệ lẫn nhau. Không có món ứng xử cực kỳ tế nhị ấy văn nghệ chúng ta thành công nông binh ngay. Người chị hai thì cần gì một niềm tin hỗ trợ, sắc đẹp dễ sợ của cô ấy thay thế hết, chỉ không thay được một tấm chồng. Cô ấy là đại diện lộng lẫy cho một nhóm càng ngày càng đông phụ nữ Việt Nam độc thân vì lý do danh dự. Ông bố có lẽ chẳng còn gì hơn ngoài một đám tang nhiều vòng hoa hơn tang thủ tướng để chờ đợi, các nghệ sĩ bước vào tuổi chầu giời thường nhẩm trước mình sẽ tổng cộng các khoản bao nhiêu vòng hoa. Và tôi cùng đám khách khứa, chúng tôi có nhiều đấy chứ. Anh nào cũng có tiếng và một chút miếng, chính thất và những mối tình phụ cấp giữa thời lạm phát toàn diện. Ðôi khi chúng tôi có cả quyền lực, thứ quyền lực rơi vào tay kẻ nghệ sĩ bao giờ cũng méo mó tội nghiệp. Chỉ thiếu vắng lòng tin cậy, mà lại kiêng không nhắc đến nó để khỏi mang tiếng cổ hủ hoặc cải lương. Mưa ào một đợt, rét ào theo. Phố đã lên đèn, mưa thành tưng chuỗi cườm ánh sáng. Ðài nhà ai phát bản nhạc sáu giờ quen thuộc. Cùng với khúc "Hồn từ sĩ", đó là tác phẩm giàu sức thuyết phục nhất trong nền âm nhạc thiếu tự tin của chúng ta. Tôi là khách duy nhất. Chủ quán ngán ngẩm đặt một ly cà phê đen xuống rồi bỏ vào nhà trong. Chiếc đồng hồ to tướng tích tắc ngay sau gáy tôi, tôi sẽ thành chuân vị cho con lắc, thời gian sẽ bò từng giây, mưa từng chuỗi thế nào Vi cũng tới. Nàng đã cho ngay địa chỉ này, nàng rút nó ra từ trí nhớ, đặt vào tay tôi, tự nhiên như thò tay vào túi lấy kẹo cho trẻ. Tôi không dám rủ nàng đi với tôi, tôi không dám dụ nàng chờ tôi suốt đời, tôi chỉ xin nàng một cái hẹn, lấy cớ có một bài hát viết cho riêng nàng. Tôi ca sĩ quốc gia từng hát cho du lịch Vũng Tàu, cho dâu tơ tằm Bảo Lộc, cho thuốc lá Thăng Long, cho Thuỷ điện Sông Ðà, cho hoả táng Hoàn Viên, cho sinh đẻ có kế hoạch... Bây giờ một bài hát cho Vi... Thêm hai khách rũ mưa bước vào. Họ không phải vợ chồng. Vợ chồng thường hằn những nếp gấp của mình lên nhau. Hai mươi năm, không, chỉ mười năm, thậm chí năm năm cộng hưởng vợ chồng hao hao nhau, chung một vốn từ vựng, một trường cảm xúc, một kho hành vi biểu đạt, một quy định bất thành văn cho các phản ứng. Cứ ngửi bà vợ thấn phấn con én là y như ông chồng mặc Slip Thái Lan. Quá trình thẩm thấu ấy diễn ra tự nhiên, ăn mòn cả khoảng cách cuối cùng giữa họ. Họ cư xử như những kẻ hoàn toàn miễn dịch, miệng người này hôi mùi vì đêm trước thì dáy tai người kia đóng cặn từ Tết năm xa, em ợ chua công khai, anh trung tiện bừa bãi, và không hiếm người hiển nhiên cho đấy là chuẩn mực của hôn nhân. Cặp này không thế. Họ cũng chịu đựng nhau, người này cũng vô tình mang chút gì của người kia, cũng thuộc về nhau theo một nghĩa nào đó, nhưng khoảng cách giữa họ rõ ràng quá. Lại càng không phải cặp tình nhân thuở ban đầu, cử chỉ của họ quá thân mật, họ trao nhau âu yếm theo lệ thờng, và điều quan trọng là gương mặt người thiếu phụ mệt mọi không có cái ánh sáng làm tôi nhói tim ấy, tạm gọi ánh sáng Vi. Gương mặt chị ta đã tắt ngấm, mồi vào đấy bao nhiêu núi lửa nó cũng chẳng bùng lên nữa. Bây giờ tôi vỡ lẽ, gương mặt vợ tôi cũng đã tắt ngấm, mọi trạng thái tình cảm không thể xuyên thủng lớp da căng thẳng thường trực, thỉnh thoảng may ra đắp đổi bằng vẻ lãnh đạm thoạt nhìn đầy minh triết, để bày ra dù chỉ một lần. Vợ tôi hẳn cũng lo âu phiền muộn, cũng sướng như bất kỳ ai. Nhưng sướng ở đâu, tủi chỗ nào tôi không còn sờ đợc, chúng tôi nằm bên nhau đêm đêm như hai trái mít ruột thịt, gai gài vào nhau mà chẳng biết bên trong thế nào. Truy tìm thủ phạm rồi cũng chẳng cứu vãn được gì. Và nỗi xót xa trong trái tim có thể rất cải lương của tôi, và ánh sáng khiếp đảm của các sân khấu sót lại từ thời Pháp thuộc, và bầu không khí vô chính phủ trong những phòng thu thanh nửa thủ công nửa hiện đại, và công chúng. cái khối chất lỏng có thể chảy tràn bất kể loại khuôn nào và chỉ ưa rủ ngủ hay bị chọc ngoáy vào chỗ kín, công chúng vĩ đại ít tiền ít thời gian của chúng ta, và giới phê bình khổ sở cha bao giờ thoát khỏi mặc cảm nghiệp dư, và bạn bè đồng nghiệp những Bá Na sinh ra không có Tử Kỳ và toàn bộ họ hàng gần xa với cái quyền của máu mủ là vơ vào mà chẳng hiểu gì, và giọng hát của tôi, nghệ sĩ nhân dân, hát cho tất cả mà chẳng cho tôi... mọi thứ ấy có thể cứu vãn được gì? Vậy mà bây giờ tôi trông chờ ở cái ánh sáng hạnh phúc và tin cậy bừng lên trên một gơng mặt mặt thiếu nữ. Giá tôi ngỏ lời, người chị cả chắc chắn sẽ bảo: "Tôi chả giúp được gì anh đâu" kèm theo nụ cười cảm thông, tôi sẽ phải cảm ơn dù bị từ chối. Người chị hai chắc sẽ bảo: "Cảm ơn anh xin hẹn dịp khác", cô này thì vừa từ chối vừa cảm ơn. Vợ tôi chắc sẽ bảo: "Trời ơi lại chuyện gì thế này!" để tôi biết rằng nên để cô ấy yên, tồn tại như hai trái mít cạnh nhau thì không nên hẹn hò. Còn Vi nhận lời, tôi đã nói tuổi trẻ chỉ góp vốn phần nào cho sự cả tin trong vắt, còn lại khó mà giải thích. Thêm một khách, một cô gái, một người đàn bà thì đúng hơn, tôi thích chữ đàn bà vì cái âm hưởng u trầm và nâu xám của nó. Tóc ướt từng lọn tôn gương mặt nhợt nhạt, có lẽ đẹp nếu cặp môi không tô chói chang như thế kia. Cô ta lướt nhìn ba con người im lìm, cặp mắt dạn dĩ, gọi to một câu: "Ông chủ đâu rồi!", tới ngồi góc đối diện tôi, chưa ấm chỗ đã rút bao thuốc từ chiếc túi nhựa Liên Xô xỉn màu, nâng niu rít từng hơi, hai đường chỉ chạy dọc khoé miệng hiện rõ trong đốm sáng đầu điếu thuốc. Là dấu hiệu của tốn nhiều nước mắt. Cặp tình nhân lâu năm lập tức chụm đầu to nhỏ, câu chuyện ướt sũng nước mưa của họ được lau khô, họ phục hồi lòng tự tin cũng nhanh như khi đánh mất. Mặc kệ trời đất trời cuối thu vần vũ, mặc kệ những hẩm hiu của người đời, thế giới của họ lại viên tròn. Cô gái nhìn tôi. Tôi cự tuyệt bằng cách nhìn trời. Các vị muốn gì nào? Phân tích tâm hồn các vị không phải việc của tôi, vả lại điều đó thật lố bịch trong cảnh mưa như xoá mọi hẹn hò toan tính ham hố của cả đám chúng ta, như lối đùa cao ngạo đầy răn dạy của các thế lực siêu nhiên, rằng đám chúng ta rút cục cũng nên biết thế nào là tín ngưỡng. Phân tích tâm hồn tôi cho các vị lại càng lố bịch. Tôi đã hát từ năm mời ba tuổi cho một nhân loại mà tôi thực lòng yêu, trong đó có các vị. Nhân loại đáp lại tôi bằng vỗ tay và tiền, thế là sòng phẳng, nhưng chẳng vị nào ban cho tôi cái ánh sáng hạnh phúc và tin cậy không vướng bận ấy, tạm gọi ánh sáng Vi. Cầu cho nàng không biết gì về cái nghề dễ loè người ngoại đạo và dễ hãi kẻ am tường nhất này. Lũ ca sĩ chúng tôi nào khác những lang băm thọc bừa giọng hát đầy vi trùng của mình vào màng nhĩ người ta. Cầu cho nàng không biết gì về những cuộc công diễn trong đó các nghệ sĩ nhân dân cứ phải nhòm mồm nhau cho xong một sự hài hoà chắp vá. Không biết gì về công nghệ sản xuất và tiêu thụ hàng ngàn ca khúc giống nhau như một đàn nòng nọc. Cứ lấy âm nhạc mè nghiện... Bảy tiếng đồng hồ sau gáy tôi. Tôi từng lập những kỷ lục chờ đợi cao hơn. Lần thứ nhất khi mẹ tôi người hát hay nhất thế gian qua đời. Tôi đã bắt chước tất cả các nhân vật bị lừa trong những câu chuyện cổ, vùi mình vào góc vắng khóc ròng để chờ Bụt hiện. Tôi khóc thật nhiệt tình. Khi trong người không còn giọt nước nào và tôi thấy mình nhẹ đến nỗi phải ôm khư khư một hòn gạch để khỏi bay mất thì tôi gào, rồi cuối cùng không còn một âm thanh nào ra hồn và tôi thấy mình tan nát như cái trống ếch tã bục, đến nỗi phải ngậm chặt miệng để khỏi vỡ nốt theo cái lỗ thủng xấu xí ấy thì thôi rên ử, vì dứt khoát phải gọi Bụt hiện, mà Bụt chỉ nghe tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rên. Tôi đã phát hết mọi tín hiệu và chờ vô vọng, mẹ tôi nhập quan, rồi nhập mộ, người hát hay nhất trần gian vẫn bỏ tôi mà đi vào lòng đất. Lần thứ hai khi tôi đã trưởng thành, tình cờ giữa đường gặp người bạn quý. Ðó là người duy nhất có thể ngồi bên tôi hàng tiếng đồng hồ, cả hai không cần nói gì mà vẫn dễ chịu. Chúng tôi nhìn sững nhau sau ba năm bặt tin, cười vang đường phố, rồi anh ấn tôi vào một quán trà ven đường, hẹn đi gấp một công chuyện ở gần, chậm nhất chỉ mười lăm phút. Tôi đã ngồi suốt buổi chiều, uống đến độ không còn là máu mà là nước trà chảy xanh lè trong huyết quản. Bạn tôi chẳng bao giờ quay lại. Mười lăm phút đầu tôi giữ nguyên nụ cười trên môi, mười năm phút sau bồn chồn, mười lăm phút sau nữa lo âu, mười lăm phút sau nữa hoảng hốt. Rồi một buổi triền miên van nài số phận đừng chơi ác thế, và cuối cùng là đầu hàng, chấp thuận. Bạn tôi mất tích hàng tiếng đồng hồ, không cần nói gì mà vẫn yên lòng. Lần này không phải nước trà mà cà phê sẽ chảy trong huyết quản. Tôi chẳng khóc, chẳng gào, chẳng rên mà im lặng tuyệt đối, lẽ nào số phận lại chơi ác tôi lần nữa? Tôi có đòi hỏi nhiều lắm đâu, chỉ cần nàng tới, để tôi khẳng định rằng gương mặt trẻ trung, giản dị, hạnh phúc và đầy tin cậy của nàng là có thật, không phải một khái niệm siêu hình, không phải sản phẩm của những hoang tưởng chấp chới như phép tồn tại của kẻ nghệ sĩ bất đắc dĩ và bất đắc chí là tôi. Rằng bài hát nằm trong túi áo tôi không theo đơn đặt hàng. Nàng phải tới, để tôi hát một lần không múa may không đèn chiếu không dàn nhạc ào ào như dội cùng một thứ nước sốt lên mọi món ăn. Tám, chín, rồi mười tiếng đồng hồ lần lượt điểm huyệt gáy tôi. Mưa vẫn thế, đều đều, như chứng tỏ trời còn sung sức lắm, trời không phải kẻ đầu tiên bỏ cuộc. Vậy tôi cũng không được phép bỏ cuộc, bất chấp cái linh cảm quái ác bắt đầu ngấm lạnh vào lục phủ ngũ tạng, rằng toàn bộ cuộc hẹn hò bất lợi này chỉ bám vào một câu nói vô tình, một địa chỉ vu vơ. Tiệc tùng át nháo khiến người ta nói năng như nhấp rượu, ghé môi vào rồi quên mình đã uống ở cốc nào. Rất có thể nàng đã chân thành trong phút ấy, rồi đã tặc lưỡi, thậm chí đã quên. Hay đơn giản chỉ vì thời tiết. Các thiếu nữ mỏng mảnh lắm, mưa gió thế này họ sợ trôi thẳng ra biển. Nhưng được chờ còn hơn chẳng có gì mà đợi. Cơn mưa này hoá ra niềm ưu ái trời dành cho tôi. Nếu tôi quyết định nên biết thế là tín ngưỡng thì niềm tin đầu tiên của tôi cụ thể là về già tôi sẽ được thêm một lần đợi chót. Bốn cuộc chờ làm mùa cho một đời tròn. Chủ quán cau có xuất hiện, chửi đổng một câu về thời đã khó, trời lại chó má thế, lầm bầm mởi khách ra cho nhà đóng cửa và vung chổi, xô bàn ghế ầm ầm. Cặp tình nhân mệt mỏi đỡ đau đứng dậy, người đàn bà liếc nhanh tôi, người đàn ông liếc nhanh cô gái rồi cả hai nhìn nhau ý nhị. Bây giờ họ ra mưa, mỗi người một xe, đạp về cái tổ khô ráo của mình. Chưa bao giờ người Hà Nội ngoại tình ồ ạt, ngoại tình lấy được, ngoại tình mệt mỏi như bây giờ. Tôi nép dới mái hiên chật, mùi nước hoa sát bên cạnh. Cô ta lại châm thuốc, bâng quơ: "Chưa về à? " Tôi nhìn kỹ. Quả là một gương mặt biết quá đủ thế nào là nước mắt, và bất giác đáp: "Chưa". Mùi nước hoa bắt đầu bủa vây tôi. Chẳng lẽ mọi kết thúc đều như trong văn chương lá cải thế này sao? Câu chuyện của tôi đã mở đầu đâu đến nỗi! Hút xong điếu thuốc, cô ta quăng tàn đánh vèo vào ma. Lại bâng quơ: "Thế nào?" Tôi im lặng. Chẳng lẽ lại thú thật rằng cả cái ham muốn ấy tôi cũng không còn nữa, và xin cô một lời phán xem thế là ổn hay thế là đáng tuyệt vọng lắm rồi. "Gần đây thôi...", cô ta lẩm bẩm như hết kiên nhẫn rồi bỗng vùng vằng: "Mất đứt buổi tối..." và dằn dỗi bỏ đi. Thực ra tôi có cảm tình với cô. Cô đầu tư thời gian cho nghề của cô, không tranh thủ chụp giật như mấy chị ven hồ Thiền Quang. Các chị ấy bình thường bán một mẹt thuốc lá, khách yêu cầu thì bỏ mẹt đứng lùi vào một gốc cây, xong xuôi trở lại mẹt, khách thường lấy thêm một điếu châm lửa rồi thong thả đạp xe đi, điếu thuốc ấy các chị cũng tính tiền. Tôi gọi: "Cô đi đâu? Mưa lắm!". Cô ta đứng lại, cười khích lệ: "Gần đây thôi..." Tôi chìa tay, nhận được năm ngón tay phụ nữ rất mềm. Ðúng lúc tôi bắt đầu xúc động vì những ngón tay tự nhiên và ngoan ngoãn ấy thì cô ta nhích ra, từ từ, thận trọng, như sợ bị giữ lại. Khi đã cách tôi ba bước, trong a, cô ta nói: "Ông anh cứ tâm trạng đi, còn mưa hết đêm cơ đấy! Gì chứ tâm trạng thì đây cũng khối!". Tôi nhìn cô ta. Cô ta nhìn tôi. Cả hai cười phá lên. Rồi cô gái lao mình vào mưa, miệng "bái bai", tay vẫy vẫy. Tôi vẫn đứng như thế, chân tê lạnh, người trống rỗng không một cảm xúc hay ý nghĩ nào hết. Một lúc nào đó từ trong quán vọng ra tiếng chuông thứ mười hai. Vi không đến. Nàng vừa là người hát hay nhất trần gian, vừa có thể ngồi bên tôi hàng tiếng đồng hồ, không cần nói gì mà vẫn dễ chịu. Nhưng nàng không đến. Giọt mưa cuối cùng rơi vào khoảng hai giờ đêm. Những đêm mưa lành lạnh thế này các thiếu nữ thường ngủ say lắm. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trong mưa có nắng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thanh Nga[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Em biết giải thích thế nào cho sự ra đi của cuộc tình này đây? Tại anh? Tại em hay tại sự ngu ngơ khờ khạo để đến bây giờ em không cắt nghĩa cho mảnh vỡ tình đầu này. Ngày hôm qua, khi anh đánh đàn bản tình ca “I say that I love you” anh bảo rằng em là tất cả, rằng nếu có một ngày em bỏ xa anh, anh sẽ hận em và hận cả cuộc đời này. Vậy mà hôm nay anh nói tiếng chia tay nhẹ nhàng như một lời mời em đi ăn kem. Và phải chăng còn dễ dàng hơn vì đâu phải em luôn đồng ý với tất cả lời mời của anh. Em nhìn anh ngỡ ngàng và khó hiểu. Anh đùa? Không! Anh đã ra đi sau câu nói ấy với một lời giải thích vẻn vẹn “gia đình em quá xa để gia đình anh với tới”. Chấm hết! Khuất bóng anh rồi, mặt đất dưới chân em rạn nứt, em thấy mình từ từ rơi vào trũng lõm của miền đau – một cảm giác chao chát, vỡ òa. Em cũng không hiểu sao mình không thể khóc lúc đấy, người con gái đa cảm, yếu đuối trong em trở nên xơ cứng và lãnh đạm. Còn bây giờ khi nghe từng nỗi đau đang ngậm nhấm, em lại không còn nước mắt để mà khóc. Những lần gặp anh, em gặng hỏi nguyên nhân, anh vẫn điệp khúc “Hãy tha lỗi cho anh” rồi lại ra đi, không giải thích, không cho em giải bày. Đơn giản vậy sao anh? Không phải vì em muốn níu giữ một cái gì đang rơi khỏi tầm tay – cái hạnh phúc mong manh dễ vỡ, là là như sương khói – mà vì em muốn mình thanh thản. Anh à ! Thôi mình không yêu nhau nữa nhưng sao lại lấy đi của em niềm tin vào anh, vào cuộc sống? Anh biết là em yếu cả về thể chất lẫn tinh thần mà, sao lại phủ nhận tình em bằng lý do vô lý như vậy? Em không trách anh, cũng không hận anh đâu vì tình yêu có thể đến trong nhau bằng những phút giây không thật phải không anh? Chiếc cầu hạnh phúc anh và em vừa xây chưa ráo hồ đã vội tách đôi về hai ngả, quăng em về phía dòng xoáy cuộc đời. Mất anh rồi, niềm tin cũng chỉ là ảnh ảo. Có lẽ nào trái đắng tình đầu lại quá đậm vị vậy sao anh? Anh! Có lẽ lòng anh cũng không sung sướng gì đâu đúng không? Anh vốn dĩ được mọi người yêu mến mà giờ đây tất cả đều nhìn anh bằng con mắt khác. Anh tìm đến rượu để quên đi tất cả nhưng men say ấy chỉ là chất xúc tác nhấn chìm anh mà thôi. Hãy chấm dứt bi kịch này đi anh. Nếu tình yêu hai ta không đủ sức mạnh để tồn tại nữa thì hãy để nó ra đi nhưng anh không thể đánh mất cuộc đời mình. Đừng lo em sẽ hờn trách anh, chúng mình không có duyên nên mới vậy, đúng không anh? Anh đã giúp em hiểu được dư ba của cuộc đời – không hề giản đơn chút nào. Em dẫu buồn, dẫu thất vọng và đau đớn cũng sẽ chấp nhận sự thật. Vết đau này với em thật khó để xoa dịu nhưng em biết mình cần phải làm gì bởi một điều thật giản dị “ cơn mưa nào cũng chứa nắng bên trong”. Phải không anh?[/FONT]