Truyện Ngắn và Thơ!

Thảo luận trong 'Cà Phê - Trà Đá' bắt đầu bởi Phúc Thịnh, 19/4/12.

  1. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tháng bảy[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nhân Ý [/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tháng bảy năm ấy, một năm trong thập niên 1960, trời mưa thúi đất. Cứ hễ chiều đến là các sợi nước dài, mỏng mảnh lại lướt thướt nối nhau rơi, triền miên không dứt, mãi cho đến tận sáng hôm sau. Để rồi ngừng chẳng bao lâu, đến xế chiều lại lướt thướt mưa. Và không biết có phải vì nhiều mưa hay không, năm ấy trúng lớn mùa cá nục.

    Những chiếc nốt(1) chạy buồm đầy khẳm nhộn nhịp vào vào ra ra cửa biển. Cá được chở về thị xã bằng xuồng, bằng xe lam, đổ đống ngồn ngộn trước cửa các nhà lều(2) muối nước mắm. Những người gánh cá cong oằn cả lưng, còn đám trai lều(3) thì mệt bã người, chẳng còn ai nhấc nổi chiếc bồ cào trộn muối nữa, đành để cho những đống cá cứ mặc tình phơi mưa phơi nắng, những đôi mắt cá chết trắng dã ngước nhìn trời, thân cá sình lên xọp xuống, máu chảy thành những dòng lớn, đỏ lòm hoặc đen thẫm, chạy ngoằn ngoèo men theo bờ lộ trước khi đổ xuống cống. Mùi tanh tưởi ban đầu bao trùm lên khắp thị xã, sau biến thành mùi thối, sau nữa đúng là mùi xác chết. Như thể có hàng trăm cái xác người thối rữa treo lơ lửng ở khắp các hang cùng ngõ hẻm vậy.

    Tôi năm ấy là một chú nhóc mười hai tuổi, về quê ngoại ở Phan Thiết để nghỉ hè. Ông ngoại tôi có một trại cưa nhỏ, chuyên đóng ghe cho người đi biển. Nhà là căn nhà chồ đóng bằng ván thô nằm trườn dài nửa trên bờ nửa dưới sông giữa một xóm nhà được gọi tên là xóm Lò heo, đa phần dân trong xóm sống nghề đồ tể. “Cọp Khánh Hòa ma Bình Thuận” mà, thiên hạ thời ấy ai cũng đồn là xóm có nhiều ma. Rằng tối tối ma heo kéo đi cả bầy, luẩn quẩn khắp ngõ làng nẻo xóm đến gần sáng mới biến đi, nhất là trong những đêm tháng bảy lê thê mưa dầm, đêm đầy bóng tối và bóng các oan hồn vất vưởng. Những người đi uống rượu về khuya còn đoan chắc rằng có khi họ trông thấy cả những con ma người lất phất bay trên nóc nhà ngoại tôi, vừa bay vừa hát những câu hát sầu não mê hoặc, mà ai nghe trọn hết những câu hát ấy sẽ trở nên nửa điên nửa dại vì mất hết linh hồn. Nhất là trên nóc nhà bà Cả Mạnh, đêm nào cũng có ma bay. Đó là chưa kể đến ngôi trường Bạch Vân bỏ hoang, cách đó chỉ chừng trăm bước chân chứ bao nhiêu, cứ hễ chiều xuống là tuyệt đối không ai dám đi ngang qua. Bởi vì bao nhiêu lời đồn đãi đã xoay quanh ngôi trường ấy, từ chuyện ma bay, ma ném đá, ma xõa tóc ngồi than khóc trên ngọn cây me, hễ thấy ai đi ngang qua là nhảy xuống quặp chặt lấy cổ không gỡ ra được..., đến ma le lè lưỡi, ma vòng treo cổ trên xà nhà...

    Bọn trẻ con chúng tôi tối tối rúc cả vào nhà mình, hoặc có đi đâu thì tay bấm chặt ấn quyết theo kiểu Phật Bà Quan Âm, miệng lầm rầm không ngớt câu niệm Nam Mô A Di Đà Phật, kẻo bị ma giấu vào bụi tre đố ai tìm được, miệng bị trét đầy đất sét mà cứ tưởng là bánh trái. Chẳng biết có phải nhờ thế hay không mà sau này tôi nghiệm ra rằng chẳng có đứa nào trong bọn trẻ con chúng tôi thật sự từng gặp ma cả. Mà ngay người sống trong những ngôi nhà có ma bay trên nóc, thật ra cũng chưa từng thấy ma. Nhưng nỗi sợ ma thì rất thật, và nỗi sợ ấy cùng với những bóng ma oan khuất cứ đương nhiên mà sống chung với người, đương nhiên len lỏi vào mọi ngóc ngách tâm hồn và cuộc đời chúng tôi, đương nhiên cũng như mùi cá mắm nồng nặc vẫn lẩn quẩn sống cùng vậy thôi.

    Bà Cả Mạnh làm nghề giết mổ trâu bò. Nhà của bà là ngôi nhà hai tầng, bề thế và đẹp đẽ nhất trong cái xóm nghèo ấy, nghe đâu trước kia là của một ông sĩ quan, được xây cùng lúc với ông hoàng thân Pháp đã xây lầu Ông Hoàng bên Phú Hài. Nhà đẹp lắm, đắp cả phù điêu ở các đầu cột và đầu tường, nhưng lúc này đang bắt đầu rệu rã. Nhà quay mặt ra sông. Lòng sông trước nhà đổ đầy những đầu trâu đầu bò đã róc sạch thịt da. Trên bờ là một khoảng đất rộng trồng mấy hàng dừa, thường có vài con bò được buộc ở đó, chúng vừa phẩy đuôi đuổi ruồi vừa hấp háy những đôi mắt ướt mơ màng, buồn thiu nhơi cỏ. Đó là chỗ để bà Cả và những người lái bò chiều chiều ngồi chồm hổm trên đất cát cò kè, thương thảo giá cả cho những sinh mệnh ngắn ngủi và vô tội. Qua khoảng đất đó là sân trước, có một dãy chuồng để nhốt những con bò đã thuộc sở hữu của bà, xong mới tới nhà chính. Lò mổ ở sân sau, có cửa hậu để vận chuyển thịt ra chợ.

    Tôi chơi với hai thằng cháu nội bà Cả nên thường vào nhà bà chơi nhưng chưa thực sự trông thấy việc giết mổ bao giờ, vì việc ấy chỉ làm vào lúc gần sáng, khi chẳng có đứa trẻ con nào thoát ra khỏi các giấc ngủ đầy mộng mị của chúng cả. Chỉ nghe kể đó là một công việc ghê rợn của sự giết chóc: những cú chày vương vãi máu và óc. Những bắp thịt điên lồng lên vì hoảng loạn. Những tiếng rống đau đớn, thảm thiết, hờn oán. Ròng ròng mọi thứ chất lỏng thoát ra khỏi một cơ thể sống: máu, đờm nhớt, mồ hôi, cứt đái, nước mắt, nước mũi...

    Sống chung với bà Cả là gia đình ông Thân, con trai thứ ba của bà. Hai người con trai lớn làm ăn buôn bán ở Sài Gòn. Những người con gái kẻ lấy chồng gần người lấy chồng xa, có con đều gửi cho bà Cả nuôi. Ông Thân học hành làm ăn không tới đầu tới đũa, ở lại với mẹ lấy vợ đẻ con, lúc ấy đi lính địa phương quân, đóng lon thượng sĩ, doanh trại ở bên kia sông. Đám cháu nội ngoại của bà Cả sống cùng trong mái nhà ấy không phải là ít, nhưng hiếm con gái, duy nhất chỉ được chị Hạnh, con gái lớn của thượng sĩ Thân.

    Chị Hạnh học trên dì Út tôi một lớp, được nhiều người yêu thích theo đuổi, trong nhà thì nhất mực được cưng chiều, nhưng chị lại rất ít nói, sống xa cách với mọi người. Chị đẹp lắm, cái đẹp vừa đài các vừa trong trẻo của một thiên thần. Tôi là một thằng nhóc lêu lổng có tiếng mà lắm lúc không cưỡng được việc nằm im thin thít hàng giờ như một con mèo rình mồi để nhìn chị chải tóc, trong lòng dậy lên một thứ gì đó mà sau này lớn lên mới hiểu nó chính là sự mê đắm. (Về sau, mỗi khi nhớ về quãng thời gian ấy, tôi vẫn tự hỏi phải chăng sự mê đắm đó là mối tình đầu của mình? Lúc đó tôi có chút khái niệm nào về tình yêu đâu, làm sao hiểu nổi những xúc cảm mộng mị kỳ lạ lúc ấy chính là thuộc tính của ái tình. Hay thực ra đó chỉ là libido? Như là một thứ dục tính có tính chất tiềm ẩn?).

    Tóc chị Hạnh dài, khi ngồi lên bộ ván ngựa thì ngọn tóc vừa chấm mặt ván. Chị bôi một thứ dầu gì đó lên tóc rồi ngồi cả buổi dùng một chiếc lược sừng chải cho dầu ấy tan hết vào chân tóc, mắt không rời một cuốn sách nào đó mở rộng đặt trên bệ cửa sổ. Những cuốn sách ấy lạ lẫm biết bao đối với tôi, cho đến lúc ấy tôi chưa từng ngồi yên đọc cho hết dù là một quyển truyện nhi đồng. Kín cửa, Ngộ nhận, Buồn ơi chào mi... và hàng đống các truyện tình ái lãng mạn khác, đều do anh Hoàng mang sang cho chị mượn. Anh ấy sắp vào Sài Gòn học đại học, là con trai duy nhất của ông thiếu tá tiểu khu trưởng, người khét tiếng về sự chuyên quyền.

    Phòng chị Hạnh ở trên lầu, có cửa sổ mở xuống sân sau. Tối chị đóng cửa sổ lại khi đi ngủ. Không ai biết rằng vào mỗi sáng tinh mơ tiếng rống thảm thiết của những con bò đang giẫy chết có chui qua được những khe cửa hở, len lỏi vào các giấc mơ thanh tân của chị hay không. Các giấc mơ không có máu và nước mắt, chỉ có tình yêu và hạnh phúc.

    Chuyện xảy ra sau ngày rằm tháng bảy, nên lễ Vu Lan năm ấy mọi người trong xóm vẫn cùng đi chùa với nhau trong tâm trạng rất vui vẻ, có cả mấy thằng cháu của bà Cả Mạnh nữa. Sân chùa rộng mênh mông mà hôm ấy chật kín người, không có chỗ chen chân. Lũ trẻ con ngồi đầy các dãy bàn trong nhà trù và trong nhà khách chờ bữa cơm thí, đám khác không tìm được chỗ thì chạy nhảy ngoài sân, chờ xô cộ sau lễ cúng cô hồn các đẳng.

    Trong chánh điện cũng đông người, khói hương mù mịt. Các vị Phật ngồi đứng trên các tòa sen, mắt khép, vẻ mặt thanh thản bao dung. Các thầy cũng lim dim mắt chuông mõ boong boong, miệng đọc bản danh sách dài vô tận những vong nhân đang được thân nhân cầu xin xá tội. Lũ chúng sinh bên dưới, từ bà hàm hộ(4) tay đeo kín hột xoàn đến chị gánh cá có đôi lòng bàn chân bị miểng chai cắt nát, từ bác xích lô mặt mày đen đúa nhăn nhúm đến ông thầy giáo trắng trẻo đạo mạo..., thảy đều xì xụp lạy, xì xụp cầu xin. Quang cảnh trang nghiêm là thế, mà không khỏi nhiều lúc mọi người đồng loạt khịt mũi hoặc bịt mũi, không chịu nổi cái mùi xác thối cứ hỗn hào chen lấn với đám khói hương lãng đãng bay khắp chánh điện.

    Được một lát dì Út kéo tôi ra ngoài chờ giờ xô cộ. Dì nói: Mày có thấy ứa gan không, mấy cái bà đó tay thì đeo hột xoàn, chân thì bước qua đống cá chết sình trước nhà lều mấy bả, rồi tới đây nam mô, lạy lạy, làm dơ cả cửa chùa. Mấy bả muốn cầu xin cái gì nữa? Bao nhiêu tiền chưa đủ sao, bao nhiêu con cá đang nhởn nhơ bơi lội ngoài biển bây giờ thành đống chết sình như vậy còn chưa đủ sao? Phật nào mà chứng cho mấy bả... Dì Út tôi lúc ấy sắp lên lớp đệ nhị, bắt đầu hiểu những điều tôi lờ mờ chưa hiểu, thường hay bị bà ngoại mắng là con người lý sự. Lúc ấy tôi chỉ thấy đó là chuyện người lớn, mắc chi mà dì phải nóng giận đến vậy. Khi xô cộ xong, hè(5) được mấy chiếc bánh bò bánh ít dập nát đất cát gói trong tờ lá loan(6) mang về, tôi tung tăng vừa nhảy vừa hát, mà không hiểu sao dì Út vẫn không buông tha, tiếp tục rót vào tai tôi những lời u ám: "Mày biết bà Hạnh xóm mình giống mấy bà hàm hộ ở chỗ nào không? Ở chỗ họ cùng sống trên những xác chết đó". Tới đây thì tôi vùng bỏ chạy, thật tình tôi không muốn nghe những chuyện rối rắm và xúc phạm đến chị Hạnh của tôi như vậy.

    Hôm sau ngày mười sáu, bà ngoại tôi cúng cô hồn. Lúc bà ngoại cúng cháo thí thực, dì Út đứng bên cạnh bảo tôi: "Tháng này là tháng cô hồn rong chơi, mày có đi đâu phải cẩn thận, kẻo gặp quỷ ma xúi bẩy làm điều bậy bạ đó". Xế trưa tôi đi theo bà ngoại ra cầu sông để thả chiếc bè kết bằng bẹ chuối chở đầy chè bánh cho những người mà ngoại tôi giải thích là những người Hời, xưa kia là chủ của vùng đất này. Lúc ấy tôi trông thấy anh Hoàng ngồi trên bờ sông, trước sân nhà chị Hạnh. Tôi vẫy tay gọi nhưng anh không trả lời. Không ngờ ngay hôm sau đã xảy ra cái chết bi thảm của anh làm rúng động cả thị xã, có phải chăng ma quỷ đã xúi bẩy anh làm cái việc quá đỗi sai lầm ấy? Vụ tự tử dữ dội ấy xảy ra ở một cái giếng cạn bỏ hoang trong khu gia đình binh sĩ nằm bên kia sông. Anh đã ném một trái lựu đạn, tay kia cầm một trái khác, cùng nhảy theo nó xuống đáy giếng. Trái lựu đạn nổ, kích trái kia nổ theo, thân xác anh bị bằm xé hai lần, nát tan như xác pháo.

    Những tin tức loại đó lan truyền rất nhanh trong đám trẻ con chúng tôi. Khi tôi nhanh chân chạy đến thì đã có mặt hàng trăm đứa khác, đang chen lấn bao chặt lấy miệng giếng để nhìn xuống. Những đứa xem xong thì chen ra ngoài, mặt mày xanh lét. Có đứa ói, có đứa òa ra khóc nức nở. Tôi không dám chen vào xem, chỉ nhìn thấy mấy vết máu dính trên thành giếng đã tự nhiên run lẩy bẩy, mà thật tình lúc ấy cũng chưa biết ai nằm dưới đáy giếng. Một lúc sau tôi trông thấy dì Út. Dì hét lên: "Mày chạy mau lên, thật mau, báo cho bà Hạnh hay liền". Tôi lắp bắp: "Tại sao? Tại sao phải cho chị Hạnh hay?". Dì hét lên: "Ảnh là anh Hoàng, là người yêu của bà Hạnh. Trời ơi, sao mày ngu quá vậy, đồ con bò! Mau lên!". Tôi vừa chạy vừa run vừa khóc vừa té bầm dập vì trượt nước mưa vừa tự hỏi, tại sao vậy nhỉ, tại sao lại là người yêu của chị Hạnh được, không phải chỉ là bạn thôi à?

    Thành ra tôi là người đầu tiên cho chị hay cái tin dữ ấy. Ban đầu mắt chị mở to ngơ ngác, rồi sụp xuống, ánh lên thứ ánh sáng hoảng loạn, đau đớn. (Về sau tôi nghĩ đôi mắt ấy có lẽ rất giống mắt những con bò hấp hối bên dưới cánh cửa sổ phòng chị). Chị gào lên: "Mấy người vừa lòng chưa? Mấy người bắt tôi giết anh ấy, đã vừa lòng chưa?". Rồi chị đổ gục xuống, như một cây chuối bị dao chém ngang.

    Người ta bàn tán đồn đãi rất nhiều về vụ tự sát đó, nên không khó khăn gì cho tôi trong việc ráp nối chúng thành câu chuyện có đầu có đuôi, có cả những lời bình luận. Anh Hoàng và chị Hạnh yêu nhau, nhưng không được gia đình chấp thuận. Cha anh ấy là chỉ huy trực tiếp của cha chị Hạnh, cho rằng mối tình ấy không xứng đáng, làm uổng phí tương lai sự nghiệp con trai ông. Trong khi gia đình chị Hạnh kiếm sống bằng nghề hạ tiện, thượng sĩ Thân là thuộc cấp dưới quyền, ít học, tính tình lại ương bướng làm sao mà kết thành thông gia được, thì con trai ông cứ khăng khăng rằng chưa làm lễ đính hôn thì nhất quyết không vào Sài Gòn đi học.

    Sáng thứ hai ấy, trong doanh trại có lễ chào cờ, mọi sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ đều có mặt đủ, xếp hàng ngay ngắn dưới sân. Sau lễ ấy, như thường lệ, ông thiếu tá lôi các lính tráng phạm lỗi ra chửi bới và phạt. Thượng sĩ Thân hôm ấy không biết ma đưa lối quỷ dẫn đường thế nào, lại lớn tiếng bênh vực cho người lính tài xế đang bị ông thiếu tá mắng mỏ. Thế là bao nhiêu bực bội, tức tối trong lòng ông thiếu tá bấy lâu nay tuôn trào cả lên đôi bàn tay. Mặt đỏ rần, ông hét to lên, thẳng cánh tát vào mặt thượng sĩ Thân. Không phải chỉ một cái, mà cái nữa, cái nữa, cái nữa, cái nữa, cái nữa... Càng tát càng say, càng hả hê, càng sung sướng.

    Ban đầu ông Thân ngớ ra ngạc nhiên, nhưng sau đó cúi đầu chịu tát. Cả một sân người im phăng phắc. Nỗi nhục đi qua cổ họng, ông thượng sĩ nuốt đánh ực xuống bụng. Ông biết nếu mình đánh lại ông thiếu tá thì nắm chắc chuyện phải ra tòa án binh. Nỗi nhục ấy, trưa về đến nhà, lại trào lên lần nữa lên đôi cánh tay ông Thân, ông thẳng cánh tát vào mặt con gái. Mặt chị Hạnh sưng vù, ông xô chị vào một căn phòng kín, khóa trái cửa nhốt lại. Ông cho rằng chính chị đã rước nỗi nhục đến cho ông, và ông sẽ không bao giờ tha thứ cho chị cái tội đã yêu con trai của kẻ thù.

    Anh Hoàng không biết chuyện chị Hạnh bị cha đánh và nhốt. Chiều ấy anh đến tìm chị. Người trong nhà không cho vào, anh bỏ ra ngồi suốt buổi ở bờ sông trước sân nhà, chỗ những người lái bò thường ngồi hút thuốc, mặc cho mưa cứ từng sợi từng sợi dài ướt đẫm áo. Anh cũng hút thuốc, liên miên, nối điếu này với điếu kia, không nói với ai một lời nào, cũng không lần nào ngước mắt nhìn lên cửa sổ nhà chị. Ai mà biết được anh đang suy nghĩ những gì! Anh ngồi đấy đến tối, rồi sáng lại đến ngồi đúng vào chỗ cũ. Mặc cho mưa rơi. Cha chị không đuổi anh ấy đi, mà đe dọa chị đủ điều, buộc chị viết thư tuyệt tình. Chị khóc sưng mắt, rồi chị viết. Mẹ chị mang thư ra, không ai biết chị đã viết gì, anh đọc xong lẳng lặng vò bức thư ném xuống dòng nước sông đang chảy. Hôm anh ném thư xuống sông đúng là hôm rằm, người trong xóm đều ở cả trên chùa. Sau hôm ấy là ngày tôi đã vẫy gọi nhưng anh không trả lời. Hôm sau nữa anh lại đến, nhưng ngồi không lâu thì cha anh đến với hai người lính ngồi trên xe Jeep. Anh không cãi cọ gì, ngoan ngoãn ngồi vào xe, nhưng tuyệt đối không hé răng nói lấy một lời, mặc cho ông bố la hét điên cuồng trên xe.

    Khi về đến nhà thì cơn giận của người cha lên đến cực điểm. Ông lôi anh xuống xe, rồi đánh anh tới tấp bằng hai sợi dây nịt nhà binh chắp lại. Con ông không bao giờ hiểu ông, và trời ơi, có phải là cũng chưa bao giờ ông hiểu con ông? Những đầu móc kim loại trên các sợi dây nịt xé rách thịt da anh, cũng là xé rách cõi lòng ông. Đánh mệt rồi, ông sầm sầm nhảy lên xe lái đi. Từ khi con còn nhỏ, từ khi vợ ông mất đi, từ khi ông nhận ra cuộc đời mình nhiều nỗi cô đơn hơn là niềm vui thú, thì đây là lần đầu tiên ông đánh con trai của mình. Đứa con mà ông quý còn hơn sinh mệnh ông. Khi người cha đi rồi, anh Hoàng mím môi đi xuống nhà sau, lặng thinh như một nấm mồ. Lúc ấy anh đã không hề nói với ai một lời giã từ, hay một lời trăng trối, hoặc gửi lại cho ai một dòng chữ nào. Cũng không lý gì tới người chị gái nãy giờ vẫn nước mắt lưng tròng cố chen vào giữa cuộc xung đột của hai cha con. Bởi thế không ai đánh hơi được cái chết đang rình rập, không ai ngờ đến sự nguy hiểm của việc anh đi xuống nhà sau. Ở đó, trong hốc tường, anh biết chỗ cha anh cất giữ lựu đạn. Có thể lúc ấy anh chỉ nghĩ đến cái giếng, là nơi trái đạn có thể nổ mà không gây hại gì cho ai khác.

    Sau này không bao giờ tôi còn gặp lại chị Hạnh nữa. Lúc ấy người ta mang ngay chị vào Sài Gòn sống với hai người bác, còn tôi cuối tháng ấy cũng rời quê ngoại trở lên Đà Lạt để bắt đầu năm học mới. Mấy năm sau tôi được nghe kể rằng chị Hạnh ở Sài Gòn lúc tỉnh lúc điên, khi lên cơn bốc cả cứt chó mà ăn. Nhưng một người khác lại quả quyết rằng đã từng gặp chị ở Vũng Tàu, bấy giờ mới lấy chồng, sống trong khu cư xá dành riêng cho cố vấn Mỹ trồng đầy hoa đại trắng. Dù tỉnh hay điên, hẳn chị đã quên đi câu chuyện cũ. Tôi vẫn hằng mong như thế, bởi vì nếu cứ phải nhớ những điều đau đớn thì làm sao mà sống nổi.

    Ở trên đời, quả là rất khó lý giải được tâm tình của con người, mà việc đoán được mỗi con người sẽ phản ứng như thế nào trong mỗi tình huống lại càng khó hơn. Về cái chết của anh Hoàng người ta quy cho nhiều lý do rất khác nhau. Người cho rằng vì được nuông chiều quá đáng mà hình thành trong anh những cơn nư giận cũng dữ dội quá đáng. Người thì bảo đó hoàn toàn là một câu chuyện tình, tỏ rõ sức mạnh của tình yêu, có khi còn mạnh hơn cái chết. Rất nhiều người khác lại đoan chắc rằng chẳng qua do ma xui quỷ khiến mà thôi. Riêng dì Út tôi (sau này lớn lên không còn tin dị đoan hay ma quỷ nữa, lại đi học môn triết ở đại học Văn khoa Sài Gòn) một hôm nhân nói chuyện với tôi về thuyết hiện sinh của Jean Paul Sartre, dì nhắc lại câu chuyện cũ: "Mày có biết tại sao ông Hoàng ổng chết không? Cha ổng từ nhỏ đến lớn sống trong nền giáo dục của Khổng tử, tin chắc vào một xã hội theo trật tự quân sư phụ. Trong khi đó lại để cho ông Hoàng đọc tiểu thuyết quá nhiều, nhiễm vào đầu ông cái triết lý hiện sinh, cho rằng tha nhân là địa ngục, còn cái cá nhân tôi của mình thì bất khả xâm phạm. Thế thì chuyện xung đột là đương nhiên phải xảy ra rồi, ai thua thì chết thôi". Rồi dì kết luận một câu xanh rờn: "Bởi vậy mày đừng có tưởng rằng chữ nghĩa mà không giết được người".
    [/FONT]
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chú thích:
    Trong truyện có dùng một số từ ngữ địa phương:
    (1) Nốt: Thuyền gỗ lớn chạy bằng sức gió, dùng để đánh cá nục.
    (2) Nhà lều: Nhà xưởng để sản xuất nước mắm. Gọi là lều nhưng thường rộng lớn và được xây dựng kiên cố.
    (3) Trai lều: Nhân công làm việc trong nhà lều.
    (4) Hàm hộ: Chủ nhân của xưởng sản xuất nước mắm.
    (5) Hè: Giành giật.
    (6) Lá loan: Một loại lá rừng bản rộng, thời ấy được dân Phan Thiết dùng để gói thức ăn (Cũng giống như lá sen được dùng ở Vũng Tàu, hay lá chuối ở Sài Gòn).
    [/FONT]
     
    No MercY, LeTruongps and 5dola like this.
  2. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thanh minh trời trong sáng[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ma Văn Kháng[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]- Ngồi lui vào, cậu Chương!
    - Em ngồi thế này là tốt lắm rồi!
    Chương dụn dịn đôi bàn tọa làm phép, đáp lời người chị cả bệ vệ, trên chiếc ghế cạnh người lái, mắt vẫn đăm đắm nhìn con đường nhựa từ phía trước đang hun hút trôi tuột vào gầm xe. Trong lòng chiếc commăngca Rumani đít vuông, ghế dọc, loại xe cổ lỗ đã trở nên hiếm hoi trong những ngày này, không hiểu chị cả moi ở đâu ra để thuê lên Yên Kỳ thanh minh này, chật níh người và lủng củng những là đồ đoàn. Hai bên và đuôi xe bạt che bịt bùng. ánh sáng chỉ còn lối vào duy nhất là mặt kính phía trước, soi lờ mờ vào lòng xe hình một chiếc tiểu sành, dăm cái làn tua tủa chân hương, cùng một đống lổng chổng những đồ vàng mã, gồm mũ mãng, ngựa nghẽo, hình nhân con nhài, thằng ở và ti vi, cát xét.

    Trong làn sáng mờ mịt như bụi ấy, hơn chục người ngồi hai bên thành xe cũng chỉ là những khối hình lồng phồng, những áo bạt, áo mưa, măng tô và khăn chùm đầu. Ngay cạnh Chương là hai mẹ con người phụ nữ không quen biết cũng vậy. Chương ý tứ né mình để không ép vào cái áo bạt phủ trùm cả hai mẹ con, để đứa bé mười hai tuổi ngả vào lòng mẹ chợp đi một giấc trong yên bình. Đêm qua, để sửa soạn cho chuyến đi, ai mà chẳng thấp thỏm. Còn hôm nay, việc ở nghĩa trang, chắc cũng sẽ còn vất vả.
    - Ông Hoan, cô Nhu, cậu Chương, cô Tuất, các vị này, hôm qua nhìn giời sầm sì tôi cứ lo. Hôm nay ông ấy giáng cho một trận mưa thì... khốn nạn cái thân mình! Ơ, cái Lộc dễ ngủ quá nhẩy. Này, cô Nhiên, tôi đổi chỗ cho cô lên ghế trên này cho nó thoải mái nhé.
    Người phụ nữ không quen biết ngồi cạnh Chương cựa động, nghiêng gương mặt hình trái tim, khe khẽ:
    - Dạ, em ngồi thế này là tốt lắm rồi ạ.
    - Ông Hoan vậy! Ngồi trên này chễm chệ như rễ bà góa, sướng bỏ xừ đi lại còn...
    - Ông ấy không dám bỏ bà ấy một mình dưới này đâu.
    - Cái cô Nhu này! Gớm quá thôi!
    - Này, tám giờ hơn đêm qua, ti vi sắp sang phim truyện rồi mà trời vẫn cứ xập xùi mới sầu đời chứ.

    Chị cả lại bỏ qua tất, lại trở lại chuyện thời tiết giọng oang oang, rất phù hợp với gương mặt tròn vằnh, phúc hậu, đẹp một cách sang trọng, ngời ngời vẻ tự thị và đáo để, tiêu biểu cho loại đàn bà đang xuất hiện trên thương trường, ý thức đầy đủ về quyền lực của đồng tiền và tài năng kình lịch của mình.
    - Chương trình phim truyện trên ti vi đêm qua chiếu trên đoạn nào nhỉ?
    Cuối xe vọng lên một giọng nữ yếu ớt. Chị cả vuốt hai mép, quay lại:
    - Hồng Lâu Mộng ấy à? Tao vừa xem vừa ngủ chập chờn. Hôm nào mày bảo chồng mày nó kiếm cho tao một bộ tao đọc! Mấy chục ngàn tao cũng mua, Nhu à.

    Nhu, em gái út, sau Chương, chui ra khỏi cái khăn len xù xụ quanh cổ, nhìn sang phía đối diện:
    - Việc gì phải nhờ em. Anh Hoan có đủ bộ sáu tập đấy này!
    Hoan, anh trên Chương, ngồi cạnh bà vợ bé nhỏ, mặc măng tô dạ, đội mũ lông Mông cổ, bỏ cặp kính cận dầy cộm, cười nửa miệng:
    - Còn trẻ chả đọc, giờ đọc gì được.
    - Còn trẻ còn trăm công ngàn việc, còn kiếm ăn, còn nuôi con, còn làm giàu. Ai có là ông giáo mà mọt sách như cậu được!
    Chiếc xe rùng mình qua mấy ổ gà liên tiếp. Người trong xe đã qua cơn ngái ngủ, tỉnh giấc. ồn ào tiếng người, tiếng đồ vật va chạm. Vợ Hoan tách ra khỏi chồng, nhỏ nhẻ:
    - Trông sách dầy mà ngại. May mà có phim.
    - Phim lề dề, sốt ruột bỏ mẹ! - Chị cả phán: Về sau nó thế nào, cô Nhu?
    - Về sau, Giả Bảo Ngọc cưới vợ. Lúc vén khăn che để xem mặt cô dâu, cứ tưởng là Đại Ngọc, hóa ra lại là Tiết Bảo Thoa.
    - Cái con Tiết Bảo Thoa thế mà gớm nhỉ!
    - Chị có để ý đoạn kể về sinh nhật nó không? Con này nó ngồi cạnh Giả Mẫu. Giả Mẫu cho nó quyền chọn món ăn gia nhân bưng lên hầu. Nó chọn toàn món ăn mềm, vì biết rằng Giả Mẫu già, răng đã rụng nhiều. Được phép Giả Mẫu cho chọn vở diễn đêm sinh nhật, nó chọn toàn vở vui, vì biết cụ già không ưa tích buồn thảm.
    - Khôn mọc lông trong bụng chưa!
    - Phải nói là nó xảo quyệt!
    - Nhưng, cô có công nhận là nó xinh không?

    Tiếng chị cả lấp trong tiếng gầm đột ngột của chiếc xe. Đuôi xe phát tiếng nổ bành bạch và phụt khói đen. Lướt qua bên trái xe, bóng những chiếc Toyota, Nissan bóng loáng. Chiếc xe tụt lại, càng xa thành phố, đường càng xấu, nó càng có vẻ khó nhọc. Mặc dầu anh lái đánh tay lái rất điệu nghệ, nhưng chiếc xe vẫn thi thoảng lại xóc tung lên. Chiếc tiểu sành giáng đánh kịch xuống sàn xe. Đồ đoàn nẩy lóc xóc. Người như vào cuộc chơi du đẩy. Và chị cả như một nhạc trưởng tài ba, quán xuyến, điều khiển tình cảm của tất cả mọi người, lại reo vang: "Tỉnh ngủ cả chưa! Hôm nay rãn xương cốt, về tha hồ mà đau nhức nhé!". Cả chiếc xe cũng rộ lên tiếng cười, vui, quen thuộc như tự năm nào đó truyền về. Năm nay, lại như thanh minh hàng năm, năm chị em họ Đinh, đứng đầu là chị cả, với ông em trai kế tiếp là ông giáo Hoan, anh nhà báo Chương muộn mằn chưa vợ, sau nữa là Tuất, em gái và cuối cùng là Nhu út ít, cô mẫu giáo, cùng những người thân, như một bộ lạc hùng hậu, lại thuê riêng một ôtô, lên nghĩa trang viếng mồ mã của gia tộc, kể từ cha mẹ ngược lên ba đời trước, đã quy tụ về.

    - Nhưng mà các cô các cậu có thấy: quý tộc của nó ra quý tộc không? - Đột ngột, chị cả ngắt tiếng cười, xoay trở lại câu chuyện Hồng Lâu Mộng: - Từ cái ăn cái ở đến dáng đi, điệu đứng, nét cười, giọng nói của nó, phải nói là khác hẳn bọn vai u thịt bắp, mò cua bắt ốc chứ!
    - Ai bảo với chị loại mò cua bắt ốc nó không biết ăn chơi?
    - Ăn chơi thì cũng dùi đục chấm mắm cáy, cũng là bọn phàm phu tục tử. Thằng giám đốc cũ của tao văn hóa lớp nhất trường làng, nghe nói giờ cũng bồ nhí như ai. Khốn nỗi vẫn cứ lòi đuôi là thằng bỉ tiện, khố rách áo ôm. Nói cứ ngọng líu ngọng lô. E lờ nói thành en nờ. Có cái đẹp nhất là cái l. nói cũng sai.
    - Ha ha ha...
    - Tao nói điêu tao chết. Học ăn cũng phải năm đời, còn học mặc cho thanh lịch cũng phải mười đời mới được. Quý tộc, phong kiến nó cũng là tinh hoa giòng giống mới có. Chứ sao! Mày mà diệt nó là mày lụn bại đấy. Đấy, nhãn tiền rồi.
    Ôi, chị cả! Chương nhìn lên, nao nao bồi hồi. Sao hôm nay chị cả da ngà mắt phượng như phát tiết anh hoa, lồng lộng một ngôn ngữ thấu triệt và ý tưởng sắc sảo lạ lùng vậy. Chị cả, một thời thanh nữ huy hoàng, bẩy năm liền chiến sĩ thi đua ngành dệt, lên đến trưởng phòng, ngấp nghé danh hiệu anh hùng lao động, tuổi thân, ba lần đò chưa xong, phẫn tức điều gì, vì cơn cớ gì mà rũ tuột mọi công việc và vinh quang, trở về? Trở về làm một thứ dân, thoạt đầu với một cái mâm xôi chè ở góc phố, rồi khi Chương ở chiến trường về, đã thấy bà nghênh ngang một sạp vải lớn nguy nga giữa chợ, hơn cả cửa hàng vải quốc doanh. Và toang toang: "Cái lý ở đâu lại không cho người ta làm giàu. Từ cái lý trái nước ngược gió nào mà động một tý là tước đoạt với bắt bớ?" Ôi, con gái Ninh Hiệp, kẻ thừa kế đầu đàn của giòng họ, vẫn là cái loại người tay đao giáo ngựa ghê ghớm, tài ba vậy! Chim ra khỏi lồng không trông trở lại. Vậy đó nhưng, chị cả đâu có sợ. Cùng nghề đan thúng cùng nghề đan nia. Phải lúc thất bát vẫn bằng bản năng và những kinh nghiệm đã truyền đi trong máu, tin rằng: của đi rề rề, của về nghễu nghện. Chỉ một tay chị cả xây dựng cơ đồ. Quy tụ lại cả giòng họ tứ tán bằng mối liên hệ bền chặt. Xây lại nhà thờ tổ. Lập lại gia phả. Sơn son thếp vàng lại hoành phi câu đối. Sửa sang phần mộ tổ tiên. Bỏ một triệu đồng thưởng cho kẻ nào giảng nghĩa được ba chữ "Môn tử môn" trên bức hoành gắn trước cửa nhà thờ tổ, vì lo rồi đây mải mê làm giàu mà làm quên hết lời dạy thâm thúy của ông cha.
    Đợi chị cả dứt mạch chuyện đầy sức quyến rũ và lấn át, Chương mới rụt rè tham gia câu chuyện:
    - Nhưng mà chị có thấy truyện Hồng Lâu Mộng kết thúc buồn không?
    - Buồn cái gì?
    - Cuối cùng là cái chết.
    - Ôi trời!
    Chị cả vung hai tay lên trời, kêu tắc nghẹn. Chương hơi bị bất ngờ. Ông giáo Hoan, lại bỏ kính, lấy khăn lau hai con mắt mưng mưng, ngờ ngệch.
    - Phải nói là... chết là một trong những cái phát minh vĩ đại của tự nhiên.
    - Cái gì vĩ đại?
    Chị cả quay phắt lại. Ông giáo ngập ngừng:
    - Cái chết là vĩ đại. Vì không chết thì không có sự sống.
    - Chết mà cũng vĩ đại! Hay đấy nhỉ!
    Ông giáo liếm mép:
    - Đấy là một quan niệm, trước hết của phương Đông. Chính vì thế mà phương Đông quan niệm đi tảo mộ khác hẳn phương Tây. ở phương Tây ngày tảo mộ, gọi là Fêtes de morts, là ngày hai tháng mười một. Thời tiết lúc ấy thường u ám. Còn ta, thanh minh trong tiết tháng ba. Lúc này, cỏ non xanh rợn chân trời. Kìa kìa, chị xem, trời có đẹp không?

    Ô tô đã leo hết dốc, đứng trước nghĩa trang xanh đầm màu cỏ tươi trên các triền đồi. Cảm hứng vì cảnh sắc mùa xuân mơn mởn ngoài trời; đứa con gái ngủ trong lòng người phụ nữ xa lạ cạnh Chương đã choàng dậy. "Đến rồi, hả mẹ?" Đôi mắt to trong veo của nó rụt rè hỏi mẹ. Chị cả nhảy xuống xe, lảnh lót ra lệnh:
    - Mẹ con cô Nhiên và tất cả các cô cậu đi đâu làm gì cũng một giờ là có mặt ở đây để về Hà Nội nhé!

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Những làn sương tím nhạt cuối cùng đã bốc bay và vòm trời mùa xuân điểm những chấm én nhỏ chao liệng, xanh bình yên, xoải đôi cánh mềm, ôm trọn cả khu mộ rộng mênh mang.

    So với năm ngoái, nghĩa trang đã uy nghi hơn và bề thế hơn. ở những khu mộ cũ, nhiều ngôi đã được xây cất lại. Đa phần được tôn cao. Nhiều ngôi lên mái che, kiểu cách đền miếu thiêng liêng hoặc giống một căn nhà nhỏ thân mật ấm cúng. Khu mộ mới mở ra trên những triền đồi đá ong ở phía tây. Những ngôi mộ mới leo dốc, hợp cùng với cả vạn ngôi mộ cũ trắng xám một màu xi măng, trập trùng theo nét lượn mềm mại của những eo đồi, trong thế chập chờn trôi dạt. Thoáng một chút hư huyền như một hơi sương phả, cõi chết hiện ra với ấn tượng mạnh mẽ đến bất ngờ. Cái chết không cô đơn. Cái chết đã thành một lực lượng hùng hậu mạnh mẽ vì sự vĩnh hằng của nó. Cái chết đã bước ra trình diện với một tầm cỡ ngang vai với cái sống!

    Chương thoát khỏi ám ảnh bị lụy như mọi lần, khi đến đây, giữa đường biên của đời sống trần thế, và thế giới của cái chết. Mọi người đều nghĩ mình bất tử. Nhưng Chương thì Chương hiểu: lẽ ra anh đã nằm dưới đất này từ lâu rồi. "Sau trận B52 ở Vĩnh Linh vừa rồi, còn được ngồi viết thư cho chị cả là hạnh phúc quá tầm mong muốn của em". "Chị cả ơi, sau những ngày chiến đấu ở thành cổ Quảng Trị, viết thư cho chị, em tự hỏi: phải chăng em đã được sống hai lần?".

    - Nào đứng cả vào đây. Cậu Chương, cậu mải nghĩ gì thế? Hồi mẹ mất, cậu ở Vĩnh Linh. Còn lúc sang áo cho cụ, cậu lại ở Quảng Trị. Có đúng không?

    Chương nghe lời chị cả quay lại. Mọi người đã quỳ trước mộ mẹ. Ngôi mộ vừa được sửa sang. Chị cả đã nhờ một kiến trúc sư vẽ kiểu. Gờ thành mộ và mặt mộ ốp đá rửa màu dâu tây điểm trắng. Mộ chí gắn cả ảnh mẹ in trên nền sứ. Trên mộ, lặng lẽ những khóm trường sinh phun những chấm hoa li ti, đỏ như son.

    Chị cả và Nhu đặt đồ cúng lên trước mộ. Hoan cùng vợ và cô Tuất đứng chụm lại che gió xòe diêm, thắp hương rồi cắm ra các ngôi mộ xung quanh. Gió từ xa hắt lại, khói hương quẩn, xanh mơ.

    Chương ngồi xuống giúp chị cả lấy đồ vàng mã đặt bên cạnh mộ chí. Những thỏi vàng, sấp tiền. Chiếc ti vi. Chiếc cát xét.
    - Gửi cho cụ cả đô la à?
    - Trần sao âm vậy. Người chết không hẳn là người sống thật, nhưng cũng không phải là người chết hẳn. Dưới ấy giờ tiêu cả đô la. Có bán đủ các mặt hàng. Nhưng, chị vẫn muốn gửi tất xuống cho cụ, sợ cụ chưa biết ti vi, cát xét là gì, không biết đường mua.
    - Ừ, hồi mẹ sống, Hà Nội chưa có ti vi.
    - Buồn cười, tôi đưa bà đi xem phim ở rạp Kinh Đô. Lần sau, mua vé đưa bà, bà bảo: Tôi xem rồi, tôi không xem nữa đâu.
    Nhu đặt lên nóc mộ một đĩa hoa lan. Chị cả nghiêng đầu, rũ tóc, chải:
    - À, con này nó còn nhớ bà rất thích hoa lan.
    - Lúc thay áo, trong túi áo bà, em thấy có hai bông lan héo thơm sực.
    - Mày là đứa được bà yêu nhất!
    - Sao bảo chị!
    -Tao ấy à? Bà ghét nhất tao thì có.- Chị cả cười, hai mép vạc sâu, gò má đội lên tròn nhẵn, đỏ rạn hơi trầu cay: - Bà bảo tao là đứa lồng hổng nhất nhà. Tao không chịu tuân phục phép tắc gia giáo. Chúng mày có biết không? Bà bắt tao lấy ông Sâm, giờ là ông lang đông y ở khu phố mình ấy. Tao nhất quyết không chịu. Chỉ vì thấy lão hói đầu. Sao tao sợ người hói thế! Bà bảo tao: "Hai gia đình đã hứa hẹn rồi, mầy đừng để người ta chan tương đổ mẻ vào mặt tao!" Tao cũng kệ. Tao cãi văng tê. Tao cãi hỗn: "Cụ đi mà lấy ông ấy". Nghĩ lại, giờ già rồi, mới thấy thương bố mẹ. Có hôm tao kiếm được lãi to lắm. Tao mua ngay một cân giò, một cân lạp xưởng, nghĩ phải đem biếu mẹ thì mẹ còn đâu! Thì ngày xưa, miếng ngon miếng ngọt cụ không bù chì bù chít cho con cái thì cho ai? Nào, lui ra cho tôi khấn bà.

    Thoáng cái, mặt chị cả đã ngấn lệ. Chị quỳ hai gối lên cỏ, đối diện với ngôi mộ, khăn vấn chỉnh tề gương mặt tràn đầy thành kính, rưng rưng:
    - Này, Nhu, Chương, ông Hoan, các cô các cậu... theo tôi khấn mà học để khấn bà với các cụ chứ. Ngộ năm sau tôi không còn nữa thì làm sao.

    Lẽ ra có thể nói một câu gì đó thỉ thui điều gở chị cả vừa nói, thì mọi người lại như những đứa trẻ ngoan ngoãn, nhất loạt quỳ xuống sau chị cả, nét mặt trầm tư, phảng phất ánh hồi quang thiêng liêng lặng phắc. Cho tới lúc, đột ngột, một tràng pháo nổ, đục một lỗ thủng vào cõi tịch mịch, chị cả mới dứt lời khấn, đứng dậy chép miệng:
    - Khổ, người chết đã vậy. Còn người sống? Đấy, cắm cúi vào việc mình, không hiểu hai mẹ con cô Nhiên đâu rồi!
    Chương ngước lên phía đồi cao. ở mép đồi, gió rồ dạt lớp cây dại, những ngôi mộ in vào nền trời những hình khối mấp mô.
    - Hai mẹ con cô ấy ở trên kia. Cô ấy viếng mộ ai thế, chị?
    - Chồng cô ấy. Trước hai vợ chồng cô ấy cùng một tổ thợ với tôi. Thôi, cậu Chương hay ai lên hỏi han người ta nhé. Đừng để mẹ con cô ấy lủi thủi. Giờ tôi đến với hai ông lão nhà tôi đã, rồi ta chia nhau lần lượt đi thăm các cụ trong giòng họ.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thì ra đã quy về đây hài cốt cả hai người chồng chị cả. Chị cả năm nay năm mươi hai. Chị lấy chồng năm 1968. Chồng chị là đại úy, đồn trưởng một đồn biên phòng ở biên giới Lai Châu. Anh hy sinh khi chiến đấu hai năm sau ngày cưới. Năm 1975, chị cả tái giá. Ăn ở với người chồng thứ hai được ba năm thì người chồng bị tai nạn giao thông chết. Chị lặn lội lên tận vùng núi Lai Châu tìm hài cốt đưa người chồng thứ nhất về, đúng dịp cải táng người chồng thứ hai, đưa di thể của cả hai người lên đây. Năm ngoái chị cả lấy người chồng thứ ba. Có tuổi rồi, lấy nhau cho có danh nghĩa vợ chồng chính thức, chứ thực ra chỉ là sự sống ghép đôi để nương tựa đỡ đần nhau. Quả nhiên chị trở thành điểm tựa của người chồng ngay sau ngày đăng ký không lâu. Ông đã hơn sáu mươi tuổi, là cán bộ công đoàn về hưu, mắc bệnh xuyễn nặng, lại bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người đã hơn nửa năm nay.

    Như vậy là tính đến đời Chương là đời thứ sáu thì riêng gia tộc họ Đinh của Chương, và những người quan hệ, đã có tới gần một trăm người đã khuất được quy tập cả về đây. Họ họp thành một xóm nhỏ, đông vui.

    Còn hai mẹ con người phụ nữ trẻ này, thì Chương có cảm giác họ đơn lẻ và bơ vơ thế nào. Bật lửa, châm hương hộ người phụ nữ đã có lúc Chương gần như gầm mặt xuống vì ái ngại, xót thương. Đứa con gái cao đến tai mẹ, hai cái bóng trơ vơ, cùng một màu áo đen tuyền đứng chắp tay, trước ngôi mộ mới đặt, như một nỗi sầu thảm ngắn đọng từ tiền kiếp.
    - Em mới đưa nhà em từ Gio Linh về định đưa về từ lâu nhưng ngặt cái, cháu Lộc còn nhỏ quá!
    - Anh nhà hy sinh ở Quảng Trị?
    - Nhà em, theo giấy báo tử là hy sinh ở Quảng Trị và an táng ở nghĩa trang phía Nam tháng tám năm 1972. Phía Nam mênh mông thế, biết đâu mà lần. Em đến hỏi tỉnh đội Quảng Trị, cứ nghĩ là khó mà tìm nổi. Nhưng cũng nhờ trời phật run rủi anh ấy còn được gặp vợ con nên em hỏi đúng ngay anh đại úy là bạn chiến đấu cùng một tiểu đội. Thế là đích thân anh ấy đưa em đến chỗ bìa rừng, nơi anh ấy chôn cất nhà em.May quá chưa có ai động cuốc, đào xuống là thấy ngay. Mà đúng là nhà em thật. Bọc ni lông kín hơi nên hình nhà em còn rõ lắm.
    Chương đưa tay che khói, mắt anh cay xè.
    Người phụ nữ tiếp:
    - Nhà em hy sinh sau khi ra Bắc cưới em. Hồi đó, em đã có linh tính, sẽ có điều chẳng lành xảy ra với anh ấy. Đã định bảo hay là hoãn làm lễ thành hôn đi. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, thấy thương anh ấy, thương mình quá. Anh ạ, hồi còn chiến tranh, anh có biết điều truyền tụng gần như dị đoan này không: ở mặt trận, hễ đơn vị nào có hai người trùng tên nhau, thế nào cũng chết cả hai. Ngoài ra, anh nào đi phép ra Bắc lấy vợ, về thế nào cũng không vẹn toàn!

    Nắm hương cắm trên nóc mộ chồng bỗng quẫn gió, mù mịt khói đặc và đột nhiên bốc lửa cháy đùng đùng. Đứa bé gái đang đứng cạnh mẹ, liền nằm ập xuống, giang đôi tay ôm mặt mộ, gào: "ối, bố ơi!" Người phụ nữ vội quay lại. Đứa bé gái nức nở.
    - Bố ơi, con trông thấy bố rồi! Sao bố không về với con!
    - Lộc, con!
    - Mẹ ơi, con trông thấy bố rồi. Mặt bố có vết máu. Đầu bố quấn băng trắng. Tay trái bố cũng quấn băng, quần áo bố rách nát hết!
    Người mẹ lay vai con, lưỡi líu lại, lật bật. Đứa con huẩy mình, mặt thiêm thiếp:
    - Ừ, ừ, con ở đây với bố cơ. Con ứ về đâu.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]"Nào, nhìn lại lần cuối đi. Một năm nữa mới trở lại đây cơ đấy". Chị cả nói dõng dạc. Chương quay lại, đưa mắt bao quát cả một vùng đất rộng; trong im lặng Chương có cảm giác anh đang mở hết các cửa sinh lực để thu nhận hết nguồn thần lực thiêng liêng ở nơi đây đang tràn vào bản thể, để làm cái việc cao cả nhất là khai mở một miền đất mới trong cõi tâm linh bí ẩn của chính mình.

    Cái chết quả thật là một phát minh vĩ đại của tự nhiên. Chết là một đức lớn của trời, là cái tất yếu buồn rầu, là sự ngắt đoạn một giòng sinh hóa liên tục tuôn chảy dạt dào. Đối với Chương thì cái chết là bạn bè thân thuộc cầm tay nhau. Cái chết bản thân nó chẳng thể là đáng kinh tởm hay rực rỡ ánh hào quang đáng tôn vinh. Cuộc đời nào mà chẳng có tai ương. Vậy thì câu chuyện còn lại là trong phạm vi cho phép, con người vẫn có thể dành cho mình sự lựa chọn thật bình tĩnh. Vì cuối cùng thì như chị cả nói: người chết không phải là người còn sống, nhưng cũng không phải là người chết hẳn, vô tăm tích; người chết còn tạo lập với người sống một mối liên hệ vô hình, nhưng bất tử và vô cùng linh thiêng. Ôi, chị cả! Người phụ nữ ít chữ nghĩa nhất nhà, nhưng sống trọn vẹn với cuộc đời bằng toàn bộ tâm lực của mình. Chị cả là sự sáng tỏ.
    Chị cả lau nước mắt rầm rề trong hai hố mắt, bước lên xe:
    - Thôi, ông bà, cha mẹ, hai ông và các vị ở lại nhé. Nào, đã đủ cả chưa? Chú lái nổ máy đi!

    Xe xuống dốc đồi. Khập khình bốn bánh rập qua các rãnh xẻ ngang mặt đường lấy nước tưới ruộng xuân. Mọi người đang cố ra khỏi cơn mộng mị dài. Lao xao trong xe những giọng người như từ hư vô vọng lại. Rồi như không thật, có tiếng ai đó ngơ ngác: "Sao lúc đi không qua đường này?". Rồi tiếng một người kêu bàng hoàng: "Sao chóng tới đường quốc lộ thế nhỉ?".
    - Ơ, cái Lộc lớn quá rồi! Lúc đi trời còn tối, bác không trông rõ cháu.
    Chị cả quay lại sau xe với hai mẹ con người phụ nữ nọ, cao giọng như muốn gọi mọi người trở về với thực tại:
    - Lớn sắp bằng mẹ rồi còn gì. Cháu học lớp mấy rồi, Lộc?
    - Dạ, lớp sáu ạ.
    Đứa bé nhỏ nhẻ. Chị cả nhã bã trầu, quài tay, day nhẹ vào cổ họng con bé, âu yếm:
    - Bố con phù hộ cho hai mẹ con con nhé. Rồi con sẽ xinh hơn cả mẹ, cả bố. Sẽ giỏi giang hơn cả bố, cả mẹ cho mà xem. Có đúng không?

    Chị cả chành miệng cười. Cười thật tươi. Cười thật giòn. Cười để lôi cuốn tất cả mọi người vào cuộc sống đang ở ngay bên mình, trong mình. Cười để khỏa lấp cái hố sâu thẳm trong lòng chị. Một đời đàn bà, hai lần chồng chết. Một đời người, chứng kiến bao cái chết. Một tay mình, hạ huyệt bao người thân, đắp mộ bao người ruột thịt. Cái chết cũng đủ hình, đủ dạng, nằm ngay ở cuộc sống này.

    Nhưng, hình như chị cả bất lực. Chỉ có một mình tiếng chị cả cười, tiếng chị cả nói. Cả cái xe đang còn la đà trong đám sương mù của những hư ảnh chập chờn của lẽ sinh tử. Mỗi người, lúc này đang chia hai. Một nửa còn ở lại với những ngôi mộ, nơi cư ngụ của linh hồn những người đã đi về cõi hư không, nhưng được quan niệm như một xứ sở có thật và gần gụi.

    Nhưng, một lần nữa, chị cả lại vặn cả nửa người, chồm lên lưng ghế. Một lần nữa lại tỏ ra cố gắng chế ngự mình và lôi cuốn người khác, lên giọng oang oang:
    - Nào, ai có chuyện gì thì kể lên cho vui nào! Rồi cũng phải để tất cả chuyện buồn vào một chỗ chứ! Đất nước này, chết là việc thường xuyên, cứ sau thương xụt xùi mãi thì sống thế quái nào được! à, ông Hoan, ông bảo chết là một phát minh vĩ đại. Thế còn sống?
    - Cũng là một phát minh vĩ đại!
    - Vĩ đại quá đi chứ nhỉ! à, nói tiếp chuyện Hồng Lâu Mộng đi. Cái cô Lâm Đại Ngọc vừa biết ăn cơm đã phải uống thuốc, về sau chết vì bệnh gì?
    - Vì ho lao!
    Ông Hoan đáp trịnh trọng. Chị cả ngừng cười. Chị quay nhìn cửa xe, thu mình lại và giọng bỗng se se:
    - Nghĩ cũng tội thật. Nhưng mà biết thế nào được nhỉ? Sinh hữu hạn, tử bất kỳ. Chuyến xe sau chắc gì còn tôi.
    Chương hơi chồm lên trong một phản ứng bất thường.
    Chị cả trở lại trạng thái đều hòa, quay lại, nhìn Chương, thản nhiên:
    - Vậy, tôi giao nhiệm vụ cho cậu Chương đây. Có nghe rõ tôi nói không đấy?
    - Chị nói đi!
    - Cậu ghi lại tất cả vị trí mồ mả, họ tộc người thân của gia đình mình lại. Còn các bài khấn, tôi giao cô Nhu!

    Có tiếng Nhu nói từ đuôi xe hắt lên. Tiếng máy gầm vang động. Chương ngồi tựa vào thành ghế, cố tạo một khoảng cách với hai mẹ con người phụ nữ nọ. Không cần phải cố gắng lắm, vì bây giờ chiếc xe đã rộng. Chiếc xe đã để lại tất cả những đồ cúng viếng ở những ngôi mộ. Sàn xe hoàn toàn trống. Bây giờ mới nhìn thấy những nốt rỗ, những mảnh sắt vá víu ở sàn xe. Thậm chí có chỗ thủng lớn bằng bàn tay, nhìn xuống thấy cả mặt đường đang vùn vụt chạy qua. Chiếc xe đã cũ quá rồi. Nhưng nó nhất định không chịu thua con đường. Nó còn bền bỉ và dẻo dai. Nó đang thồ một sức nặng mới. Từ nơi những người thân gửi xương cốt trở về, ai dám nói mỗi người chỉ có một mình mình. Điều đó rõ rệt nhất ở cơn khóc rấm rứt của đứa con gái người phụ nữ ngồi bên Chương. Chính Chương cũng vậy, Chương mang trong Chương bao nỗi niềm tâm tư. Chiếc xe còn có thể gặp lại Chương và mọi người ở thanh minh năm tới chưa biết chừng
    Chuyến xe sau sẽ không còn anh nữa.
    Xe vẫn chạy nghìn đời chỉ vắng anh thôi.
    Những chuyến xe không có khứ hồi...
    Chương nhớ tới mấy câu thơ di cảo của Chế Lan Viên trong nỗi nao nao thương nhớ rất vô hình và xa mờ.

    Cạnh Chương, người phụ nữ nọ ôm đứa con gái vào lòng, nghẹn ngào: "Nín đi, Lộc. Bố vui vì hai mẹ con mình lên thăm bố, chứ bố có buồn đâu, con!.
    [/FONT]
     
    No MercY, LeTruongps and 5dola like this.
  3. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thảo nguyên[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trung Trung Đỉnh[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi trở về bên ghè rượu uống dở chừng khi chiều, với cảm giác buồn xao xác. Đêm cao nguyên gió quất từng hồi ngoài sàn cửa. Thế là tôi đã về được với H'Noanh, bà chị kết nghĩa thời đánh Mỹ. Chị tôi nằm cuộn khoanh bên ghè rượu, trong tấm đô hoa nhàu nát, bên cạnh là cây đinh-yơng xộc xệch, già nua và cô độc. Nghe tiếng động chị ngóc đầu dậy, nói tiếng Kinh:
    - Mày đã về đấy em?
    - Chị chưa ngủ à? - Tôi hỏi.
    - Ngủ gì. Chị chờ em về chớ. Chờ hàng chục năm còn được nữa là từ tối đến giờ.

    Tôi vít cần rượu. Sao giờ này tôi muốn uống thêm, uống nữa, uống cho rõ say, để được chị tôi la rầy như hồi nào quá.
    - Chị treo võng cho mày rồi đó - chị nói và nhổm dậy nhìn tôi hút rượu.
    - Chị cứ nghỉ trước đi. Em còn uống nữa.
    Chị tôi cúi đầu thổi lửa. Đống lửa được đánh thức bùng lên. Chị ngồi nhìn tôi không nói. Tôi âm thầm hút rượu. Vị đắng trào lên, lan khắp cơ thể, sâu dần, đượm dần, cùng với vị ngọt xa xăm cứ như vừa mới đấy mới đây mà lại không sao với tới được. Tôi nhấn cần sâu thêm. Chị tôi mỉm cười. Tôi hút mạnh thêm. Vị đắng nguyên sơ trào lên khiến tôi nhăn mặt. Chị tôi dịu dàng nhấc cần rượu, xoay xoay rồi lại vít xuống cho tôi. Tôi bắt gặp mùi thơm tinh khiết và vị ngọt đằm, cay cay, cùng vị đắng chập chờn. Chị tôi mỉm cười khích lệ và tôi rướn cổ lên hút. Đã mười mấy năm nay tôi chưa có dịp về thăm chị. Mười mấy năm! Cũng bằng thời gian mười mấy năm tôi ở cùng chị trong rừng. Mười mấy năm! Nghe đơn giản thế thôi ư? Ngần ấy thời gian hai chị em tôi chung một kíp trực, chị trạm vào, em trạm ra, cách nhau con dốc Kon Từng, leo lên ba tiếng đồng hồ. Mười mấy năm, trưa nào chị em tôi cũng ăn chung bữa trên đỉnh núi heo hút, gió ào ào, lạnh thấu xương. Tôi nhận gùi đạn của chị, chị nhận gùi công văn của tôi. Tôi được nghe chị thổi đinh-yơng chừng mươi mười lăm phút lúc sắp chia tay. Rồi lại ai về đường nấy. Hiếm khi có dịp chị em mắc võng kề bên tâm sự. Chị tôi thuở ấy đâu rồi? Cái thời Mậu Thân sáu tám đường dây dồn trạm, dồn cung đường giao liên, hai chị em tôi được ở cùng nhau một trạm. Cái dáng cao cao khỏe mạnh và nhanh như con hoẵng, con nai lúc nào cũng cười được, lúc nào cũng vui được của H'Noanh đâu rồi? Pháo nổ sát bên, chị tôi cười ré. Tôi gùi đạn, chị gùi công văn lúc nào cũng gấp, cũng chạy, tôi trượt chân, chị trượt chân ngã trẹo tay, chị em cùng cười vang rừng. Ngày ấy tôi không nghĩ chị có thể già. Ấy vậy mà giờ đây, chị tôi trở thành một bà già đúng theo nghĩa ấy.

    Thời gian thật tàn nhẫn quá.
    - Thế thì uống đi - Giọng nói chị khàn khàn. Uống tới sáng cũng được, chị tiếp - Tưởng mày quên chị rồi.
    Tôi vít cần cho chị. Chị níu vai tôi ngồi xuống. Tôi nghe rõ tiếng rượu chuyển trong ghè roong roóc. Thế là chị tôi còn khỏe, tôi nghĩ. Khi trưa tôi về, mừng quá, chị đem ghè rượu ra mời bà con tới uống. Bà con đem rượu tới mừng ba bốn năm ghè. Cuộc vui của chị em tôi lan sang các nhà, lan tới nhà rông. Tôi bị cuốn vào cuộc vui giờ này mới về.
    - Mày vẫn ham vui quá - chị nói tiếng JRai, nhìn tôi âu yếm - Vui một, buồn mười em ạ.
    Tôi buông cần, cảm thấy chếnh choáng rồi gục đầu vào ghè rượu cố giữ thăng bằng.
    - Uống nữa đi, rồi rượu nó sẽ giải cho em đấy.
    Tôi cầm cần rượu chị trao. Chị tôi đưa bầu nước lên miệng ghè, đổ vào. Tôi hút cật lực. Rượu lạt dần.
    - Rượu cần mà uống dở chừng - chị tôi nói - Thế nào cũng bị say. Còn uống đến cùng - chị cười, níu vai tôi thêm mạnh - Rượu nó cứu mình khỏi say đấy. Càng uống càng hết say em ạ.
    Điều này chị đã dạy tôi hồi tôi mới về Trạm giao liên Kon Từng cùng chị.
    - Mày không về được chị cũng không trách đâu.
    Chị tôi cầm ống đinh-yơng lên phủi bụi. Rồi chị ngả người vào vách nhà, nghiêng đầu thổi. Những ngón tay chị bật bật nhoáng qua ánh lửa. Tôi ôm ghè rượu lắng nghe. Đêm sâu hun hút gió. Tiếng đinh-yơng chập chờn. Chị tôi sửa thế ngồi, âm thanh chuyển dần, sáng dần lên tựa hồ chị tôi đang đi trên rẫy lúa lúc chiều về. Tựa hồ chị tôi đang ngụp lặn dưới sông tìm ốc. Tựa hồ bản làng đang náo nức rước Mẹ Lúa về kho. Rồi tôi thấy chị tôi đang ngồi trên thân cây đổ bên suối Ia Bool, lưng đeo gùi đựng những trái bầu khô chứa đầy nước. Có tiếng con mang tác bìa rừng. Có con chim chao trên vòm cây. Có con trăn trườn dưới khe đá. Có con nhện đang giăng tơ trên mái hiên ngoài cửa hang đá. Tiếng suối chảy róc rách đâu đó cùng tiếng gió ngoài đồng cỏ. Chị tôi dần dần trẻ lại. Trẻ lại lúc hai mươi tuổi. Trên lưng gùi đạn. Trước ngực cây đinh-yơng. Những người lính B3 trẻ măng trêu chị. Tiếng chị cười vang rừng. Tiếng chị hát vang rừng. Và cả tiếng chị tôi thổn thức khóc trong lùm cây dọc đường. Có người lính gặp nạn chết trong lùm cây. Mưa sầm sập. Tiếng chân sầm sập. Chị tôi ngồi bên xác người lính chết sốt rét dọc đường. Bóng chị tôi hì hục đào hố chôn người lính. Rồi lại tiếng mưa đổ, tiếng vượn hú, chim cu rúc, tiếng cây đổ ngoài bìa nương. Âm thanh chiến tranh cào cấu đất đai, dội nát lòng người. Chị tôi lầm lũi bước. Phía sau lưng chị là những người lính mới lầm lũi bước. Một năm. Hai năm. Ba bốn năm ròng chị tôi bước lên bước xuống cùng những gùi đạn và nhúm rau rừng. Hàng ngàn người lính quen chị, thương chị, chia tay với chị. Hơn mười năm trên một quãng đường rừng. Rừng già từ thuở nào, còn chị tôi già đi từng ngày, từng tháng, từng năm. Chị tôi chợt buông chùm ống nứa, túm tay tôi dìu tôi lên võng.

    Tôi ngoan ngoãn làm theo ý muốn của chị.
    - Mày say thật à?
    - Say gì, nôn nao chút xíu thôi - tôi nói.
    - Sao mà bây giờ dở ẹc vậy em?
    Rồi chị tôi lại trở về thổi lửa. Ngọn lửa lại bùng lên. Khuôn mặt chị tôi nhòe dần cùng đám tóc bạc rũ. Chị hí húi lấy thuốc trong gùi ra quấn nguyên cả lá đưa cho tôi. Tôi ngậm điếu thuốc trườn ra mép võng. Chị cầm gộc củi đưa cho tôi mồi lửa.

    Tiếng chân chị tôi bước chậm trên sàn nhà. Đêm yên tĩnh. Gió giờ này đã nguôi. Tôi ngửa cổ rít thuốc. Tiếng đinh-yơng lại chập chờn ngoài sàn cửa. Tôi không dám cựa mình. Chị tôi đang tâm sự cùng tôi. Vẫn cái gùi giao liên ấy, hàng trăm hàng ngàn trái đạn, hàng trăm hàng ngàn ký gạo, ký muối trên một đoạn đường, chị tôi dùng nó gùi một gùi giấy khen, bằng khen, huân huy chương thành tích ngược về làng sau ngày giải phóng. Không ai nhận ra chị, ngoài già Rơ-Chăm-Đim. Già đưa chị về nhà già ở chung. Ma mí chị đã chết cùng ba người anh em trong một trận càn có B52 của Mỹ cuối năm sáu lăm. Chị theo bộ đội từ ngày ấy, không phải tự dưng chị muốn xa làng đâu. Bây giờ có hòa bình rồi, bộ đội khuyên chị ra Hà Nội học, nhưng chị ưng về làng. Về làng, chị đâu có hình dung được dân làng không ưng chị vì chị quên nhiều phong tục cũ, ham làm cán bộ, ham lên huyện nhận công văn chỉ thị, đôn đốc thúc giục dân xuống núi định cư. Già Rơ-Chăm-Đim chết trên đường dời làng. Làng khua chiêng phạt chị. Chị không thể thanh minh được điều gì. Lần thứ hai chị thành người cô độc sống ở bìa rừng.

    Nhưng rồi thời gian cũng lắng dần xuống. Chị tôi thui thủi gần chục năm trời. Không lên huyện. Không làm cán bộ. Không nói lời nào. Chị tôi như cái bóng sống cạnh dân làng. Một năm, hai năm. Mười năm. Dân làng thương chị, kéo chị về ở chung, khi tóc chị đã bạc và răng chị đã rụng rồi. Bao nhiêu huyền thoại về cô giao liên H'Noanh chỉ có những người lính B3 biết. Dân làng nhìn giấy khen. Giấy khen ai cũng có. Chị tôi phải làm lại từ đầu. Cây đinh-yơng thuở còn con gái, giờ đây chị lấy ra thổi. Giọng nó rè rè một lúc rồi ấm dần lên. Tôi loạng choạng bước xuống võng. Ngôi nhà tình nghĩa của tỉnh, của huyện làm cho chị mấy năm nay, cạnh những ngôi nhà của buôn làng, sao cứ thấy có cái gì xa lạ. Đành rằng chị tôi thì chẳng có tài giỏi gì để tự mình làm cho mình một ngôi nhà to đẹp thế.
    - Mày không ngủ à, em?
    Chị tôi ngừng thổi đinh-yơng hỏi. Tôi níu vai chị, ngồi nhìn buôn làng đang say giấc.
    - Em không muốn ngủ - tôi nói và gục vào vai chị. Chị đưa chùm ống nứa già nua lên thổi. Cây đinh-yơng ngúc ngoắc cùng dáng chị tôi ngúc ngoắc. Khi nói bằng lời không được, cả niềm vui và nỗi buồn của lòng người, cây đinh-yơng, một chùm ống nứa, là thần linh huyền diệu nói giùm ta. Chị tôi chừng như trẻ lại một lần nữa.
    - Mày vẫn ham vui quá em ạ.
    Tôi ôm ngang người chị, nhận ra sương sớm đang tràn xuống vòm cây Pơ-lang, tiếng chày giã gạo và tiếng gà gáy dồn đâu đó. Chị tôi ngưng thổi đinh-yơng, khe khẽ cất tiếng hát. Bài hát ca ngợi thảo nguyên thuở chị tôi bé như cái nấm, chiều chiều chạy thi với gió, chạy thi với chúng bạn và lũ chim te te cuối bãi. Bài hát nhắc tới ngày máy bay Mỹ thả bom xăng đốt làng, đốt đồng cỏ hồi sáu tám. Tôi ngơ ngẩn nhìn ra khoảng xanh vườn cà phê trĩu hoa thơm ngào ngạt, lòng thấy nao nao không rõ vui buồn. Cách đây mười mấy năm rồi nhỉ, vùng này là thảo nguyên.
    [/FONT]
     
    No MercY, LeTruongps and 5dola like this.
  4. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thập tự hoa[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trần Thùy Mai[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Khi bước vào căn gác nhỏ, điều đầu tiên đập vào mắt anh là chiếc cửa sổ nhỏ xíu có vòm cong sát trên mái ngói. Căn gác đơn sơ không có vật gì đáng giá, trừ chiếc dương cầm khá cổ xưa, nơi cô bé học trò của anh loay hoay với các nốt nhạc.
    “Chú Thắng biết không, mỗi vật trong nhà mẹ cháu đều đặt cho một cái tên. Cây đàn này là Suối, cái nệm kia là Êm Êm”. “Còn cái cửa sổ tí hon này là gì?”. “Mẹ cháu gọi nó là Mắt Bão”. Thắng nhìn qua khung cửa sổ nhưng anh chỉ thấy bầu trời bình an. Dáng vẻ cô bé khi bấm các phím đàn giống như nghịch vọc những hạt cườm hay vỏ ốc: lơ đãng, nghịch ngợm.
    Đó là chuyện của hai năm trước, khi Thắng mới bắt đầu dạy nhạc nơi đây. Bây giờ bé Mi mười hai tuổi. Khuôn mặt đã thoáng ửng một vẻ đẹp digan với đôi mắt có lông nheo đen mướt và đôi môi dày thơ ngây. Ngược lại, người đàn bà mẹ đứa trẻ này dường như ngày một lặng lẽ, đằm thắm hơn, mặc những chiếc áo sẫm màu hơn. Rồi dường như Thắng chỉ còn nhìn thấy chị mặc một màu áo đen. Những chiếc áo đen cổ trái tim với cây thánh giá bạc dưới ngấn cổ xanh. Một người đàn bà cô quạnh, sống đạm bạc, lại dám mua đàn dương cầm và mời thầy về dạy cho con như một đại gia quý tộc. “Hồi nhỏ tôi không được học nên tôi trở thành người mù nhạc, vậy mà trớ trêu thay tôi lại thèm nghe nhạc vô cùng. Điều tâm nguyện của tôi là cậu làm sao giúp bé Mi sau này sung sướng hơn tôi”. Thắng hiểu vẻ bùi ngùi sau lời nói của người đàn bà: chị muốn con gái mình sẽ giàu có hơn chị bây giờ, nên đã chuẩn bị cho con đôi cánh để bay từ căn gác hẹp ra ngoài thế giới.

    “Chú Thắng ơi, chú dạy cháu đàn bài này nghe. Cháu thích”.
    Thắng nhìn theo ngón tay nhỏ trên trang sách đầy nốt nhạc. “Chú chưa dạy sao Mi biết mà thích?”
    “Không phải Mi, mà mẹ. Thỉnh thoảng mẹ vẫn hát cho cháu nghe”.
    Aventura, nghĩa là lãng du. Tự nhiên Thắng mỉm cười. Bài ca nói về những cuộc phiêu lưu, trong khi người đàn bà luôn tự giam mình trong một góc, bên cái khuôn dập tranh nho nhỏ. Chung quanh chị đầy những bức tranh lụa xinh xắn mà cứ hai tuần một lần, người buôn tranh lại đến nhận và trả cho người vẽ những đồng tiền bèo bọt. Có lần Thắng đi lên lăng Tự Đức và thấy những bức tranh bày bán la liệt bên cổng lăng. Nét chấm phá thật có duyên trong mắt những du khách chỉ đến một lần. Nhưng tại đây, trong căn gác này, bên lọ mực và khung dập ngổn ngang, trông chúng mang cái vẻ bùi ngùi và nhàm chán của sự mưu sinh. “Đấy, cậu xem, lui tới vẫn thế, mục đồng và trâu, cô dâu và chú rể, Thiên Mụ và Tịnh Tâm. Tất cả là theo đơn đặt hàng, mỗi mẫu hàng ngàn bức y hệt nhau. Bây giờ tôi phát sợ vẽ, nhưng không thể ngừng lại.” Người đàn bà lôi dưới hộc tủ ra một bức tranh cũ trên lụa. “Chỉ riêng cái này là tôi đã vẽ ra mà không bao giờ bán đi”. Trên nền trắng ngà giản đơn, một con mèo đang uốn mình, trong bụng là hai mảng âm dương màu xám lam và đỏ thẫm. “Tôi vẽ bức tranh này khi đang mang thai cháu. Tôi tuổi Mão, con mèo là tôi đó. Còn cháu chính là vũ trụ mà tôi mang trong lòng”. Khi người đàn bà nói, trên khuôn mặt thấp thoáng vài nét hằn của thời gian là nét cười buồn trẻ thơ khiến mũi Thắng chợt cay cay. Anh cảm thấy sợ và vội vã xua đi cái cảm giác yếu đuối đó đi bằng cách quay về chỗ của mình bên đứa trẻ. Bé Mi quay sang ôm lấy vai anh, thì thầm: “Chú Thắng ơi, có chuyện này chú phải giúp cháu”. “Chuyện gì?” “Bí mật, cháu sẽ nói, nhưng chú phải hứa sẽ nhận lời”. “Cái gì? Có phải là chuyện liên quan đến bài Aventura không?”. Bé Mi phá ra cười: “Sao chú biết?”. Thắng làm ra vẻ ghê gớm:
    - Tại vì, chú có tài đọc được ý nghĩ của người khác.

    Buổi chiều, người đàn bà đi bộ đến trường tiểu học. Hai mẹ con dắt tay nhau đi thong thả ngược con dốc cao. Gió chiều mơn man mái tóc của đứa trẻ.
    - Mẹ ơi, hôm nay mẹ vẽ những gì?
    - Sông Hương và núi Ngự, Thiên Mụ và Tịnh Tâm, với mẹ ngày nào chẳng thế.
    Người đàn bà trả lời, như tự chế giễu mình. Những công thức của sinh kế, đó là vòng tròn khép kín khóa chặt cuộc đời và tâm hồn chị.
    - Sao mẹ không vẽ biển? Con chưa bao giờ thấy biển. Các bạn con bảo là biển đẹp và rộng vô cùng.
    - Khi nào mẹ cũng nghĩ về biển, nhưng chẳng có ai đặt hàng tranh vẽ biển. Mẹ biết làm sao được.
    - Có phải hiện giờ ba con đang đi ngoài biển không? Trên một chiếc thuyền thật lớn có lá buồm xanh?
    Người đàn bà gật đầu. “Sao mẹ không cho con đi với ba? Con thích đi xa, thật nhiều nơi. Bao giờ thì ba lại về hở mẹ?”
    “Bao giờ...” Người mẹ lúng túng. Chị tìm cách lảng tránh câu hỏi của con. “Bé Mi à, con có biết ngày mai là ngày gì không?” Bé Mi sung sướng reo lên:
    - Mẹ ơi, con nhớ. Mai là sinh nhật của mẹ. Con chờ từ lâu rồi, mẹ biết không?
    Hai mẹ con đã lên hết chiếc cầu thang gỗ và giờ này đang cùng ngã lăn trên tấm nệm có tên là Êm Êm. Người mẹ nằm ôm con, mắt nhìn lên cao, cười mãn nguyện. Đã lâu rồi, không ai nhớ ngày sinh của chị. Nhưng bây giờ, con chị đã lớn, đã biết yêu chị, và chị dường như không lẻ loi. Đôi mắt chị mơ màng dạo quanh căn gác, đậu lại trên bó hoa khô trên ngăn tủ. Bó hoa đã nằm đấy từ lâu rất lâu, trong chiếc bình gốm cũ, những chiếc lá cứng xốp và hoe vàng, còn hoa thì giòn và khô như những phiến đá mỏng. Tuy vậy, vẫn là những dáng hình của hoa, đẹp và khô lạnh.
    Đó là bó hoa người đàn ông đã đem đến cho chị vào ngày sinh nhật thứ hai mươi sáu. Người đàn ông đã ra đi, không phải trên một con tàu biển như nàng đã kể với đứa bé, mà trên những hoang tưởng về tương lai. Từ ngày đó nàng biết rằng trong tình yêu đàn ông rất khác đàn bà. Đàn ông khởi đầu một cách điên cuồng rồi dịu đi trong hèn nhát, còn đàn bà càng lúc càng giam mình trong kỷ niệm, ngu dại và xót xa.
    Bây giờ bó hoa khô đã nằm trên bàn tiệc nhỏ. Trên chiếc bàn vuông phủ khăn trắng, người đàn bà đặt đĩa bánh, đĩa trái cây, món xôi xéo và bánh gấc mà con nàng ưa thích. Giữa những màu xanh đỏ tươi sáng của món ăn, bó hoa khẳng khiu như bàn tay gầy guộc của quá khứ. “Mẹ ơi, con không thích”. Đứa bé nhăn mặt nũng nịu, không muốn năm nào cũng nhìn mãi một vẻ đẹp khô gầy. Người mẹ an ủi con:
    - Những vật cũ đều có linh hồn, mẹ rất sợ phải vứt chúng đi.
    Đứa bé không hiểu câu trả lời của mẹ, chỉ biết rằng những sắc màu thắm tươi, nhất định hấp dẫn và dễ thương hơn màu nâu khô của dĩ vãng. Ngọ nguậy một cách bất mãn trên chiếc ghế nhỏ, bé Mi nhìn quanh như tìm kiếm vô vọng một điều gì, rồi quay về khung cửa và đôi mắt digan bướng bỉnh chợt mở to ra, sững sờ hạnh phúc. Thắng đang ở trên ngưỡng cửa, trong tay anh có một bó hồng đỏ tươi.
    “Ôi, tuyệt vời!” Bé Mi hét lên, vui sướng, ôm choàng lấy cổ Thắng. “Chúc mừng ngày sinh của chị”. Người đàn bà cầm lấy tặng vật bất ngờ, cố giấu mặt mình sau mùi thơm của những đóa hoa.
    Chiều xuống trong niềm vui thơ ngây của đứa trẻ. Đối với bé Mi, một bữa tiệc nhỏ như thế này là một dịp lễ hội trong chuỗi ngày tháng lúc nào cũng mờ mờ như bóng mây. “Mẹ ơi, hôm nay con sẽ tặng mẹ một món quà. Chú Thắng ơi, giúp cháu đi. Con sẽ đang cho mẹ nghe bài Aventura, bài mà mẹ thích”.
    Anventura, nghĩa là lãng du. Người đàn bà mỉm cười nhìn Thắng: con chị đã muốn chị ra đi, đi khỏi cuộc sống nhỏ hẹp này.
    Nhưng bản đàn khó lắm mà đứa bé còn non dại. Thắng ngồi bên cạnh đứa bé, rồi cuối cùng anh xốc bé lên lòng mình, hai tay anh cầm lấy hai bàn tay bé nhỏ. Tiếng đàn và tiếng cười trong veo. Aventura. Những tiếng nhạc vươn dài, xuyên qua Mắt Bão. Cơn mưa và màn đêm cùng ập xuống. Người đàn bà quay đi rồi trở lại với ngọn đèn cầy trên chiếc giá nến cũ. Đứa bé đã thiu thiu ngủ trong lòng chàng trai. Anh đặt bé xuống giường và nhìn khuôn mặt thiên thần bình yên dưới ánh nến.
    Người đàn bà ngồi xuống. Màu áo đen của nàng làm nổi bật những chấm hoa hồng đỏ. Trên cổ nàng, một chiếc thánh giá bạc.
    Dường như cảm thấy ánh mắt chàng trai đậu trên ngực áo nàng, nàng nói, vừa như giải thích, vừa như thổ lộ:
    - Tôi không phải là giáo dân, nhưng tôi thường nghĩ rằng mỗi đời người đều có một cây thập tự phải mang.
    - Đó là tại chị. Chị đóng đinh đời chị vào dĩ vãng. Còn tôi, tôi thích nghĩ tới tương lai.
    - Bởi vì cậu còn quá trẻ. Còn tôi, tôi đã sống như người ẩn tu từ lâu lắm rồi, hình như ngày hôm nay tôi đang từ trên núi cao đi xuống giữa phố.
    Nàng vừa nói vừa đưa mắt nhìn bức tranh con mèo mang vũ trụ trong lòng. Trong ánh nến, dường như nó đang sống lại, với đôi mắt long lanh ướt. Đôi mắt nàng đã long lanh ướt như thế vào cái ngày người đàn ông đặt cả vũ trụ vào lòng nàng rồi ra đi. Đó là một mùa hè chói rực lộng lẫy trên những triền cát vàng tươi dưới trời xanh. “Em nhìn đi, không nơi đâu có những cồn cát nổi sóng như ở đây”. Người đàn ông bảo nàng. Nàng nhìn, và mãi mãi thu vào trí nhớ những gợn cát uốn lượn hình sóng nước: dấu vết của gió và của năm tháng trên một vùng hình như khô nhất thế gian. Nàng đã đem cả bó hoa ngày sinh nhật vào căn lều nhỏ. Bây giờ, trong những cánh hoa đã chết vẫn còn dư âm của hơi thở, những lời thì thầm, và cát.
    Hồi ức của người đàn bà nhỏ giọt, nhỏ giọt như những hạt nước, thấm qua lời kể trên đôi môi khô, mỏng manh, đôi mắt nhắm nghiền như mắt những người đang cầu kinh trong thánh đường. Đêm im lặng trong tiếng mưa. Thắng khẽ lay người đàn bà như muốn thức tỉnh nàng từ giấc mộng, nhưng nàng mở mắt ra mà không tỉnh, nàng không nhìn thấy anh, nàng đang ở trên những sóng cát.
    “Anh đừng đi”. Nàng nói như khẩn cầu, đôi môi lạnh run rẩy. Hai tay nàng nâng niu âu yếm phủi những hạt cát lấm lem tưởng tượng trên người đàn ông đang cúi xuống. Thắng định gỡ tay nàng, nhưng anh không thể. Anh khóc. Trong tay anh, một thân thể ấm mềm như con mèo âm dương uốn mình trong tranh. Con mèo có đôi mắt long lanh nhắm nghiền mê man hạnh phúc. Còn anh, anh đang cố sức giật nàng ra khỏi thập giá.
    Aventura. Tiếng đàn câm im lặng thổn thức dập dềnh giữa hai lồng ngực.
    Bên ngoài khung cửa sổ, gió thổi da diết trên những vòm cây. Gió thổi hoài, xuyên suốt cả đời người.
    Sớm hôm sau, đứa bé tỉnh giấc. Cơn mưa đã dứt, ngày lễ hội đã qua. Bé dụi mắt và kêu thét lên khi thấy mẹ đang nghiêng người qua khung cửa nhỏ, đưa bó hoa ra trước gió. Gió thổi, cuốn bay từng cánh, từng cánh, cho đến khi chỉ còn lại một bó xương gai.
    “Mẹ, mẹ làm gì thế?” Bé Mi chạy đến, ôm lấy mẹ. “Mi ơi, nếu mẹ giữ nó lại, thì một ngày kia, cũng sẽ chỉ là một bó hoa khô”.

    Thắng không dám quay lại căn gác cũ trong một thời gian dài, bởi một điều day dứt khó tả. Một điều gì đó làm anh nao lòng, và anh sợ phơi bày lần nữa sự yếu đuối của mình.
    Khi trở lại, anh không còn thấy hai mẹ con trong căn gác nhỏ. Mắt Bão đã đóng kín. Tất cả lặng lẽ đến bàng hoàng, những giai điệu bản đàn cũ như dâng lên giữa trời chiều.
    Thắng không biết ở một nơi rất xa, cô bé đang đứng bên mẹ, nơi một bãi vắng nhìn ra khơi. Người đàn bà đã đưa con về vùng đồi cát năm xưa, và giờ đây nàng đang vẽ biển. Biển mênh mông và xanh. “Mẹ, mẹ ơi, mẹ sai lầm lắm vì đã đi quá vội vàng. Con biết chú Thắng sẽ đi tìm con, nhưng làm sao chú biết được mình đã đi đến tận đây”.
    Người đàn bà lắc đầu: “Con ạ, chú ấy đã lên một con thuyền lớn, và sẽ đi xa, rất xa”.
    “Con không tin!” Đứa bé phụng phịu kêu lên, và người đàn bà bối rối. Huyền thoại đã cũ, nhưng tiếc thay là một huyền thoại có thực. “Con biết không, mỗi người đàn ông đều có con thuyền và giấc mơ của mình, họ đến bến để rồi lại đi, mẹ không muốn ngăn cản những chuyến đi ấy bao giờ”.
    “Còn con, con thì khác. Nếu con thương yêu ai, con nhất định sẽ giữ lại bên con”. “Có lúc nào đó, con sẽ như mẹ, cảm thấy sợ giữ lại bên mình những cuộc đời bị giam hãm. Vả lại...”
    Người đàn bà nghẹn ngào không nói được. Vả lại, người ta bảo sai lầm của mẹ là luôn thấy những người đàn ông đều tốt. Có thể người ta nói đúng, nhưng mẹ không thể khác đi, mẹ luôn nghĩ mọi người đều tốt. Thắng à, Adventura, đối với cậu là một dự phóng, còn đối với tôi chỉ là một ước mơ hoang tưởng mà thôi.
    “Mẹ ơi, dù sao đi nữa, lớn lên con sẽ đóng một con thuyền, con sẽ đi và tìm ra con thuyền của chú Thắng”. Người mẹ thoáng cười. “Biển mênh mông, chẳng ai tìm ra dấu tích của ai. Mà dù gặp, con đã là thiếu nữ, chắc gì chú ấy nhận ra con”.
    - Không, chú sẽ nhận ra. Vì con sẽ hát cho chú nghe bài hát Lãng du.
    - Sóng lớn lắm, nghĩa lý gì tiếng hát.
    Đứa trẻ khăng khăng:
    - Con sẽ hát to, át cả tiếng sóng.
    Người đàn bà mỉm cười. Bỗng nhiên nàng thấy như tâm hồn yếu đuối của mình đang dựa vào niềm hy vọng của đứa trẻ. “Bé này, con nhìn đây, ngày trước con cứ thích mẹ vẽ biển. Bây giờ mẹ đang vẽ biển cho con”. “Ôi thích quá, mẹ ơi! Mẹ cho con vẽ chiếc thuyền của con, mẹ nhé!”
    Bé Mi nhúng cọ vào những đĩa màu và vẽ lên bức tranh một con thuyền, dáng nguệch ngoạc nhưng rất chói chang, một con thuyền có lá buồm màu hoa hồng đỏ. Con thuyền chở ngọn lửa của trái tim non dại khơi từ những giấc mơ tro vùi của mẹ.
    [/FONT]
     
    No MercY, LeTruongps and 5dola like this.
  5. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thất bại ngọt ngào[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lê Minh Nhựt[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]"Gió đưa bụi chuối sau hè.
    Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ"
    .
    Nghe mẹ kể, hồi chị Hai tôi còn nhỏ mẹ thường ru chị ngủ bằng câu ca dao này. Nhất là khi ba tôi vắng nhà triền miên, mẹ ru nhiều đến nỗi hàng xóm phải than: cái bà này chỉ thuộc có một câu chắc, ru chi mà buồn nẫu ruột? Ai ngờ sau này lớn lên lấy chồng, lời ru ấy lại vận đúng vào người chị tôi.

    Nhà tôi có hai chị em. Theo cách nghĩ trẻ con của tôi hồi đó thì mẹ thương chị Hai nhiều nhất, kế mới đến tôi. Mẹ bảo chị Hai giống mẹ, giống từ nụ cười cái nheo mắt, đến cách đi cách đứng. Tôi hỏi: “Còn con giống ai?”. Mẹ cười, giọng nhợt nhạt: “Con giống hệt cha!”. Mẹ đâu có ngờ sau khi lấy chồng chị Hai cũng giống luôn mẹ cái gánh đoạn trường.

    Ngày gả chị Hai, ba tôi vắng nhà. Một mình mẹ cáng đáng mọi thứ mà đáng lẽ có một người đàn ông trong nhà thì mẹ đỡ vất vả biết bao. Ngày xưa nhà tôi cũng có một người đàn ông nhưng từ khi tôi biết nhìn biết nghĩ thì người đàn ông ấy chỉ là cái bóng ám ảnh thỉnh thoảng tạt về như khách vãng lai; vì thế mà tôi không thích mẹ bảo tôi giống ba. Gả chị Hai đi rồi chỉ còn lại mẹ và tôi trong ngôi nhà, mẹ tôi không khóc cũng không cười mà chỉ ngồi thừ một chỗ. Không rõ mẹ vui hay buồn?

    Hai mươi tám tuổi chị Hai ngồi ru con một mình, lặp lại hình ảnh mẹ khi xưa cũng bằng câu ca dao ấy. Chị tôi không phải người sắc nước hương trời nhưng nào xấu xí gì cho cam, lấy chồng sinh con rồi mà mấy gã trai mới lớn hễ đi ngang nhà là nhìn vào xuýt xoa: Gái một con trông mòn con mắt! Mẹ bảo ngày xưa mẹ cũng thế. Tôi thở dài như ông cụ: “Chị Hai sao y bản chính từ mẹ mà!”. Chợt tôi thấy mắt mẹ đượm buồn. Lần đầu tiên.

    Anh rể tôi là một doanh nhân thành đạt. Chị tôi tốt nghiệp đại học, sau khi lấy chồng ở nhà sinh con và làm bổn phận của một nội tướng. Hàng xóm ai cũng bảo chị Hai có phước, tu từ kiếp trước nên mới lấy được anh. Ban đầu tôi cũng tin như thế.

    Trước kia, anh rể tôi đã để ý chị tôi vì hai nhà ở gần nhau. Khi lên đại học mặc dù học khác trường nhưng điều đó càng làm tăng sự mê đắm nơi anh. Có lần tôi chứng kiến anh ra về trước khi hết giờ để đến trường đón chị, dù chẳng bao giờ chị cho phép anh được cái vinh dự chở chị về cả. Anh còn bảo tôi: “Phải đến trước để giành chỗ, không thôi thằng khác nó rước mất!”.

    Tôi biết rõ lúc ấy chị vẫn chưa chấm một anh chàng nào cả, kể cả anh. Vậy mà đùng một cái sau khi ra trường chị lại đồng ý lấy anh, nghe lời anh để ở nhà lo chăm sóc gia đình. Có lẽ đấy là gen di truyền từ mẹ chăng? Hỏi chị có yêu anh không thì chị cười, tôi lại gặng: “Chị lấy anh ấy vì lẽ gì?”. Lúc này chị tôi mới trả lời: “Vì anh ấy yêu chị!”. “Có thế thôi sao?”. “Ừ, thế thôi!”. Không biết ai đã dạy cho chị cái triết lý “lấy người mình yêu không bằng lấy người yêu mình”. Tôi đoan chắc rằng chị đã được mẹ “đầu độc” nên đem suy nghĩ ấy về kết tội mẹ. Kết quả là mẹ tôi bật khóc!

    Tôi lại làm một cuộc nói chuyện “sòng phẳng” với anh rể. Rằng: “Bây giờ anh có còn yêu chị tôi nữa hay không?”. Rằng: “Anh lấy chị vì thứ gì ngoài tình yêu (nếu có)?”. Anh rể thật sự bối rối trước câu hỏi của tôi, phải mất một lúc lâu sau anh mới trả lời từng câu từng chữ rành rọt còn hơn những gì tôi chờ đợi: “Thế này em vợ ạ! - anh vẫn thường gọi tôi như thế - Bây giờ anh không định nghĩa được yêu hay là không yêu chị cậu. Nếu bảo là không thì chắc vô lý, vì nếu không yêu thì sao anh lại lấy chị rồi lại có con? Bảo rằng yêu thì sao lại đến nông nỗi như thế này? Nhưng anh cam đoan với cậu là trước đây anh có một thời yêu chị cậu đến độ điên cuồng. Chắc cậu không hiểu vì có nhiều mâu thuẫn? Không sao, đến một lúc nào đó cậu sẽ hiểu. Yêu trước và yêu sau (hôn nhân) là hai chuyện hoàn toàn khác nhau”.

    Ngay lúc này đây, tôi thực sự muốn bật dậy tống cho anh một cú vào giữa mặt và thét lên rằng: “Ngụy biện, anh ngụy biện! Trước đây và ngay cả bây giờ anh chưa từng yêu chị tôi. Anh lấy chị tôi chỉ vì anh muốn chinh phục và sở hữu. Anh là một thằng đàn ông ích kỷ!”. Nhưng không hiểu sao tôi lại ngồi im và nhếch miệng cười như thể tôi đã hiểu và thông cảm vì tôi với anh đều là đàn - ông-với-nhau.
    Bỗng dưng tôi nghĩ đến ba tôi.
    Tôi có những giấc mơ về ba, lâu lắm rồi. Khi ấy tôi còn là một cậu bé nghịch ngợm, thích được ba cho đứng lên hai vai để nhìn xung quanh và gào lên: “Chị Hai, trông em này: em cao hơn cả ba nữa”. Chị tôi cười: “Vì em đứng trên vai ba mà!”. “Không, không phải! Sự thực là em cao hơn ba”. Chị tôi cuối cùng phải nhượng bộ: “Ừ, em sẽ cao hơn ba”, và cười tinh nghịch. Ba tôi cười. Mẹ tôi cũng vui lây. Còn tôi dĩ nhiên là cười vang nhất nhà vì tôi là người chiến thắng mà.

    Tôi nhớ có lần mơ thấy ba đi với người đàn bà khác mà không phải là mẹ. Hai người day lưng về phía tôi. Tôi kêu to nhưng ba không nghe. Tôi đuổi theo, nhưng càng chạy thì ba càng xa, cuối cùng thì mất hút. Thế là tôi gào lên khóc dữ, cả nhà giật mình thức giấc. Nhìn sang, thấy ba vẫn ở cạnh mình, tôi biết mình vừa nằm mơ và giấu bặt giấc mơ ấy luôn đến tận giờ.

    Tôi chưa từng hỏi mẹ có yêu ba hay không như đã hỏi chị và anh rể. Tôi nghĩ, yêu hay không yêu thì giờ này đối với mẹ chắc nó đã trở thành vô nghĩa. Còn giấc mơ xưa kia đã thành sự thật và tôi cũng chẳng buồn đuổi theo ba làm gì. Tôi muốn chứng minh cho ba thấy không có ba thì tôi vẫn đứng vững bằng hai chân của mình và sẽ-cao-hơn-ba. Mẹ và cả chị tôi nữa, họ cũng phải tập làm quen giống như tôi, nghĩa là phải “vứt bỏ” người đàn ông của mình.

    Rồi ba tôi về, lần này mang theo một đứa bé độ chừng bảy tuổi. Ba bảo từ nay nó sẽ sống với chúng tôi. Mẹ tôi không nói gì, chỉ lẳng lặng dắt nó ra sau nhà tắm rửa thay đồ cho nó và thu xếp chỗ nghỉ ngay trên giường của mẹ. Hình như mẹ chỉ còn là một chiếc bóng biết đi biết đứng và làm theo lời ba tôi. Tự dưng tôi ghét nó kinh khủng vì nó có cái cằm giống ba, cả đôi mắt nữa và qua nó tôi thấy có sự hiện diện của một người đàn bà khác trong nhà.

    Hay tin ba về, chị Hai ẵm con đến. Câu đầu tiên chị nói là khen đứa bé ấy ngoan và dễ thương. Tôi thật sự không hiểu mẹ và chị tôi trong lòng họ nghĩ như thế nào, có lẽ họ đã độ lượng đến mức yếu đuối rồi chăng?

    Đêm đó, khi chị Hai về và mẹ đã vào phòng với con-bé-xa-lạ, chỉ còn tôi với ba ngoài phòng khách. Ông ngồi trầm ngâm bên cái gạt tàn mà lâu lắm rồi tôi mới thấy nó được đem ra dùng. Không biết thời gian trôi qua bao lâu tôi mới nghe tiếng của ông:
    - Con trai, hãy tha thứ cho ba!
    Chỉ chờ có thế, tôi quay sang:
    - Tha thứ? Vì lẽ gì? Chẳng lẽ đến bây giờ ba mới nhận ra mình sai? Ngôi nhà này đâu phải chỉ là nơi để ba trở về sau những lần nếm trải cay đắng của sự thất bại. Thôi đi ba, mẹ và chị Hai thì có thể nhưng con thì không.

    Tôi nói trong sự hả hê pha lẫn chua chát đay nghiến. Tôi thấy mình bây giờ là một kẻ chiến thắng thật sự, mặc dù ngay sau đó tôi cảm thấy có chút hối hận nhưng chỉ thoáng qua rồi thôi. Ba tôi im lặng. Ông gục đầu xuống bàn và tôi thấy rõ tóc của ba đã bạc nhiều.

    Buổi sáng, mẹ pha một ly sữa và bảo con bé mang đến cho tôi. Trông nó khép nép đến tức cười, tự dưng tôi thấy mình cần phải ra oai. “Để lên bàn và ra ngoài” là câu đầu tiên tôi nói với nó. Con bé riu ríu nghe lời tôi; hình như nó khóc thì phải vì tôi thấy nó kéo vạt áo lén chùi nước mắt. Có thế chứ! Tôi mỉm cười đắc thắng.

    Ngày thứ ba, nó đã có đồng minh là mẹ tôi. Mẹ lấy trong tủ ra cái áo của chị Hai đem sửa đôi chút rồi ướm vào cho nó. Nó có vẻ thích lắm và nhoẻn miệng cười với mẹ tôi: con bé có một chiếc răng khểnh và hai lúm đồng xu.

    Ngày thứ tư, chị Hai tôi lại về. Lần này thì chưa chắc đã trở về ngay bên ấy vì nghe chị Hai thút thít kể lể với mẹ điều gì đó mà tôi nghe không rõ lắm. Ba người cùng ngủ chung một giường: mẹ, chị Hai và con-bé- xa-lạ. Chị Hai còn bày trò dạy cho con bé học thêu. Mẹ bảo con bé khéo tay, mai mốt thêu không thua gì chị Hai. Trong ánh mắt và lời nói của mẹ, tôi rõ ràng nhìn thấy sự trìu mến dành cho con bé - thứ ấy đáng lẽ chỉ dành cho chị em tôi.

    Anh rể lái xe qua năn nỉ chị Hai tôi về vì đứa con bên nhà khát sữa mẹ nên cứ khóc suốt đêm. Mẹ khuyên chị Hai nên về bên ấy để chăm sóc con, còn chuyện vợ chồng thì hãy cố gắng thu xếp với nhau cho thật ổn thỏa. Có con cái rồi nên mọi việc phải cân nhắc cho thật kỹ lưỡng, đừng đào thêm hố sâu ngăn cách nữa. Chị Hai tôi nín thinh. Anh rể thì một vâng hai dạ như có vẻ biết hối lắm. Đợi họ về tôi bèn nói với mẹ:
    - Còn cân nhắc làm gì nữa hở mẹ? Bảo chị Hai viết đơn ly dị, ra tòa. Sau đó bồng con về ở với mình. Thế là xong cái gánh nợ đời!
    Mẹ lắc đầu:
    - Mọi việc đâu có như con nghĩ. Hạnh phúc cả đời người đâu giống như bẻ một cành cây khô. Quyết định rồi đến lúc hối lại thì đã không kịp. Con chưa có vợ thì chưa hiểu được cuộc sống gia đình là như thế nào, nhất là tính nông nổi bồng bột của con, mẹ không sao yên tâm cho được.

    Đến bây giờ mẹ vẫn xem tôi như đứa con nít lên ba, mỗi bước đi đều phải có người dìu dắt. “Có quá nhiều thứ để con học hỏi rồi mẹ à. Mẹ không biết sao? Ngay từ chính gia đình mình đây!”. Mẹ tôi quay lưng đi - đấy là cách mà mẹ tôi thường dùng để chấm dứt cuộc tranh cãi bắt đầu nhem nhúm từ phía tôi. Mẹ ra sau với ba tôi và con bé đang đào đất trồng một cái cây ngay trong vườn.

    Quan hệ giữa tôi và con bé chẳng tiến triển được gì ngoài những lần tôi sai nó làm một số việc vặt vãnh và cả không vặt vãnh chút nào như chẻ củi chẳng hạn, cốt mong được một lần nhìn thấy phản ứng của nó (đương nhiên chỉ vào lúc mẹ tôi vắng mặt). Con bé như thể đoán ra ý đồ của tôi nên nó răm rắp làm theo khiến tôi luôn thất vọng. Riêng với ba, dường như khoảng cách giữa tôi và ba ngày càng giãn ra xa, lúc nào tôi cũng cảm thấy sờ sợ cái không khí trong ngôi nhà của mình. Anh rể và chị Hai tôi chắc đã có một thỏa hiệp nào đấy vì hơi lâu không thấy chị sang chơi. Thỉnh thoảng tôi còn thấy gia đình họ ngồi ở quán kem trông chẳng có gì là đang chiến tranh lạnh cả.

    Tôi không chắc mình sẽ chịu đựng được bao lâu nhưng trong hiện tại tôi đang cố gắng tạo cho mẹ thấy tôi đang dung hòa tất cả. Hay nói đúng hơn là sự im lặng vừa đủ để duy trì cảm giác yên ổn giả tạo của gia đình mình. Đôi khi tôi thoáng nghĩ: chính tôi đã đưa mọi sự vào bế tắc, tại sao tôi không thể giống như mẹ, giống như chị Hai mà lúc nào cũng muốn lật tung mọi thứ và làm đổ bể tất cả?

    Nhưng tôi không thể nào thay đổi thái độ của mình đối với con bé xa lạ ấy cho được, nó giống như một cái gai nhọn ngạo nghễ chọc thẳng vào mắt tôi. Một cái gai mọc từ thân cây khác âm thầm chọc vào mẹ tôi mà tôi có nhiệm vụ phải nhắc cho mẹ sự nhức nhối ấy; tôi muốn bứng... à không, giẫm nát nó mới đúng cho dù có cày xới hết cả khu vườn. Một mặt tôi thấy mình quá độc ác và ích kỷ, khi ấy tôi bào chữa cho mình rằng: thái độ của tôi cũng dễ hiểu như phản ứng đào thải của cơ thể - phản ứng cần thiết để bảo vệ mình (?).

    Tôi không muốn mình đặt sự quan tâm thái quá về con bé kia, tôi muốn nhìn nó một cách dửng dưng như nó chưa từng hiện diện trong ngôi nhà này nhưng không hiểu sao mỗi cử chỉ của nó cứ như là diễn ra trong phạm vi thị trường đôi mắt của tôi.

    Ngay lúc này đây, con bé ngồi cặm cụi trước nhà thêu một chiếc khăn tay theo mẫu do nó tự vẽ ra: một gia đình đang quây quần bên nhau trong bữa cơm. Mẹ khẽ nói với tôi:
    - Con xem, con bé khéo tay quá đấy chứ! Mới mấy tuổi đầu đã biết việc. Chỉ tội một nỗi không thể nói chuyện được. Số nó rồi cũng sẽ khổ?
    Không hiểu mẹ nói với tôi những điều ấy để làm gì, “lung lạc” tôi chăng? Nhưng thật lạ, hình như những điều mẹ nói lại có tác động đáng kể: chẳng biết từ khi nào tôi lại thấy sợ những lời nói như tiên tri của mẹ. “Con xin mẹ, mẹ đừng nói về những điều gở. Nó chỉ là một đứa bé thôi!”. Mẹ tôi thở dài: “Ừ, một đứa bé thiếu may mắn!”. Qua giọng mẹ tôi nhận thấy có một sợi dây ràng buộc lạ lùng - thứ tình cảm nguyên sơ tưởng chỉ thuộc về hai chị em chúng tôi nay lại chia phần cho con bé có tên Duyên.

    Con bé ngừng thêu ngước lên nhìn mẹ và tôi, chắc nó đoán được chúng tôi đang nói chuyện về nó. Như có điều gì thôi thúc, tôi đưa tay về phía con bé:
    - Duyên! Lại đây anh bảo.
    Con bé tròn mắt ngạc nhiên. Tôi phải nhắc lại lần thứ hai. Nó vội vàng đặt khung thêu xuống nhanh nhảu đi vào, vai nó run lên và mắt thì long lanh chực khóc. Tôi mỉm cười trấn an:
    - Ngày mai anh dạy cho em tập viết nhé!
    Con bé quay sang mẹ tôi dọ ý rồi gật đầu, những giọt nước mắt long lanh lăn dài trên gò má bầu bĩnh của nó. Mẹ tôi cũng khóc. Ba tôi ở sau nhà đang vót mấy sợi nan cũng ngưng tay và ông mỉm cười.

    Lần đầu tiên tôi công nhận mình thất bại, thì ra nó không đến mức kinh khủng như tôi nghĩ; trái lại còn có mùi vị rất ngọt ngào là đằng khác.
    [/FONT]
     
    No MercY, LeTruongps and 5dola like this.
  6. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thầy giáo dạy triết[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lê Minh Khuê[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thanh Hà! Ở một vùng quê xa tít tắp gần biển, giữa những cái tên nôm na, ông giáo làng ước ao con gái mình sau này có thể vươn ra khỏi lũy tre, đi đến đâu cũng hòa nhập được. Ước mơ của cha gửi vào tên khai sinh cho con - Thanh Hà.
    Vào đến trường đại học, ngoảnh đi ngoảnh lại chỗ nào cũng thấy Thanh Hà. Thậm chí hai cậu con trai cùng lớp cũng tên là Hà. Thày giáo dạy môn triết năm cuối của trường đại học kỹ thuật mà Hà đang học, cũng tên là Dương Hà.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cứ đúng mười giờ mười sáng, Hà lên bến xe buýt từ phía Nam thành phố để đến trường đại học ở phía Bắc thành phố. Đứng ở nhà chờ xe vốn là nhà ngủ của cánh lang thang, Hà nhìn sang bên kia đường nơi ngồi chờ việc của một toán đàn ông khỏe mạnh. Trong đám chờ việc đó có cả những anh chàng đã tốt nghiệp đại học. Chỗ nào cũng có sinh viên tốt nghiệp đại học mà chưa biết đi đâu. Chị Thế bảo: thì phải có nhiều người đi học mới có việc cho thầy chứ. Thầy đông lắm. Chị Thu cũng bảo ở lớp chị có anh chàng tốt nghiệp đại học mà viết thư cho chị toàn lỗi chính tả?

    Chị Thu, chị Thế người cùng làng, đều đỗ thủ khoa đại học giờ đi làm tiếp viên nhà hàng, cho Hà ở nhờ, không phải trả tiền nhà. Chị Thế thường ngồi đánh phấn rất dày trước khi màn đêm xuống - Chị làm ở nhà hàng gần ga. Chị nhìn Hà bình thản: cứ học đi em ạ, đằng nào cũng nên có cái bằng.

    Nửa đêm về sáng hai chị đèo nhau về, nằm ngủ trên cái giường một. Hà kê ghế băng ngủ lối ra vào. Phòng mười hai mét. Muỗi tấu nhạc inh tai. Cái ao trước nhà. Nhà chủ đã bán cho một ông trên phố. Người ta sẽ lấy cái ao. Loáng một cái, sẽ nghễu nghện một cái nhà bốn tầng như cái đinh chọc lên một cách chướng mắt giữa đám nhà thấp mái, lồi lõm như hàm răng sâu. Chỗ nào cũng thấy những cái đinh. Ghê quá!

    Chiếc xe buýt to kềnh càng, chạy nối nam và bắc thành phố. Nhân viên nhà xe mặc đồng phục nhưng không thể nào đồng phục nổi sự lởm chởm của đám đông đi xe. Những cái ghế bị lột trần. Sàn xe như có cái xe rác đi qua mà đánh rơi rác. Vỏ bưởi lẫn với bùn đất, mẩu thuốc lá. Hà lặng lẽ rời ghế lên đứng cạnh anh tài. Nhìn cái cách anh ta lái xe, Hà thấy phục sát đất. Làm sao có thể giữ cho cái xe đi được khi bao nhiêu người đi dưới đường kia đều có vẻ muốn tự sát. Những cái xe máy lạng vào sườn xe buýt. Những kẻ đi bộ thản nhiên coi khinh tiếng còi. Mặt anh tài lạnh tanh. Có lẽ phải có máu lạnh mới làm được nghề này, giữa những đường phố ven đô mù mịt nhễ nhại những người. Một ông lạc quan đứng cạnh Hà, bắt chuyện với anh tài: xe máy nhiều thật! Vâng? "Ri di pi" của thành phố năm nay tăng bất ngờ! Vâng! Chà, chà, ta nằm trên đất tiên mà không biết, chú ạ!
    Vâng! Anh tài vâng vâng, mặt lạnh tanh. Ông lạc quan im dần.
    Xe buýt chết cứng trước cổng trường giao thông. Như mọi thứ trớ trêu ở đời, đoạn đường trước trường giao thông hôm nào cũng tắc. Sáng. Trưa. Chiều! Nửa tiếng đồng hồ. Hà lấy vở xem lại bài mà chẳng chữ nào vào nổi. Mọi thứ rối tinh rối mù.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lại có một người bình thản đi từ khu nhà ở giáo viên ra cổng trường. Thầy giáo dạy triết. Giữa những ông thầy dạy các môn thiết thực bận tối mịt tối mũi vì chỗ này vời chỗ kia gọi, thầy dạy triết rỗi rãi đến độ lười biếng, áo sơ mi nhàu nát khoác ngoài may ô màu cháo lòng, tóc đã lơ thơ bạc. Chẳng có vợ con, thầy không thiếu tiền. Nhưng cái vẻ buông xuôi của thầy nhắc tới sự nghèo hèn. Thường khi Hà tới trường chuẩn bị học cua chiều, thày đi ra quán cơm bụi. Tóc bù xù, mặt như chưa rửa, thầy lùi lũi vào quán ăn. Như đã thửa riêng một chỗ. Hôm nào thày cũng ngồi chỗ đấy, với một suất cơm thửa sẵn. Chẳng hiểu sao Hà hay quan sát thầy. Có lẽ do tâm trạng: một kẻ như Hà giữa chốn thị thành - Không muốn quay về gốc. Lại chẳng biết bám vào đâu ở cái ngọn này? Và do cả cái cách chẳng giống ai của thầy. Khi lên lớp, thày gọn gàng hơn nhưng trông vẫn là người chẳng thiết gì. Thầy nói, lúc đầu còn rời rạc, sau cứ hay dần lên. Về những điều mà bọn trẻ chằng còn mấy quan tâm nữa. Thầy nói cứ nói. Trò nghe thì nghe. Dù sao cũng phải nghe vì không đạt điểm môn của thày, có mã húp cháo. Thầy nói. Nói mà biết là người ta thờ ơ. Hà cũng đá từng ở vào số thờ ơ với thầy.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thế sao nghe được. - Chị Thu nghe Hà tả về thầy, bỗng như giật nảy người. Làm sao để một ông như vậy ở một mình?
    - Cũng có nhiều đứa đến với thầy rồi. Nhưng đến lại đi. Chúng nó bảo thầy vẫn chẳng khác gì thời thày còn là lính.
    Hà trầm ngâm ngồi bó gối trên cái giường một của hai chị, nhìn mưa rơi xuống ao, nền tảng của cái đinh tương lai. Tâm trí Hà hỗn loạn: sắp thi. Sắp ra trường. Việc làm...
    Hai cựu sinh viên, hai tân tiếp viên nhà hàng bỗng nhìn Hà chằm chằm. Chị Thế tỉnh táo hỏi: Phòng thày ở bao nhiêu mét?
    - Em chỉ đi qua. Nhưng có vẻ rộng lắm. Phòng khách độ hơn mười mét. Còn phòng trong không rõ.
    Chị Thế nhướn cao đôi lông mày đã sửa gáy gọn như lông mày người mẫu: - Nghe các chị ra lệnh này. Em phải vào ở trong căn hộ của ông giáo triết.
    - Không. Em chịu thôi. Thầy già khú.
    - Hơn mày bốn mươi tuổi là cùng chứ gì? Tao sẵn sàng lấy một ông tám mươi miễn là có việc làm...
    - Các chị nói vớ vẩn. Em gái quê. Thầy chả chịu đâu.
    - Lại tự ti rồi. Soi gương mà xem. Nếu thày như em mô tả thì em là hợp đấy. Nền nã, hơi rụt rè. Lại có vẻ hơi ngô ngố. Cứ thử xem?
    Chị Thu cười khanh khách:
    - Mất gì của bọ? Em nên ở lại thành phố này?
    Lời qua tiếng lại. Câu nọ câu kia đùn đẩy. Cuối cùng, hai chị ra một nghị quyết: Hà phải đi tới trường sớm hơn. Và phải ăn cơm bụi...

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quán cơm làm thấp hơn mặt đường. Nhưng cái bàn phủ ni lông kẻ ka rô đỏ. Hà nhìn đồng hồ và ngồi vào chiếc ghế thày vẫn ngồi, một cái ghế băng dài hơi cập kênh. Hà gọi món đậu rán, món canh, hai lát thịt. Suất cơm ba ngàn đồng. Suất cơm tươm tất của sinh viên.

    Thầy không nhớ Hà là sinh viên của khoa nào. Trường hàng ngàn sinh viên. Môn dạy của thầy hiu hắt, tháng một tiết học. Nhưng một cô sinh viên cứ ngày nào cũng vậy, vào đúng giờ thầy đi ăn đâ thấy ngồi ăn ở đó, ít nói, ý tứ và rụt rè... bỗng làm thầy chú ý. Rồi một hôm thầy hỏi tên. Em tên Hà. Trùng tên với thầy rồi. Thú vị nhỉ. Quê em ở đâu? à nói vậy thì thày nhớ ra em rồi. Tháng tới này thầy có tiết ở lớp em!
    Rồi một hôm nữa thầy bảo: "Ngồi lại gần đây. Thầy ăn một mình cũng buồn".
    Thầy gọi thêm món ăn. Thầy gắp sang bát cho Hà. Thầy ăn ít. Chỉ thú vị nhất là món đậu sốt cà chua ăn với dưa muối. Thầy nhâm nhi một li rượu trắng. Thầy bắt đầu nói chuyện. Bát đầu là nhưng trận bom B52 của Mỹ. Rồi những lần "có ai đó cứu thầy" khi thầy chiến đấu ở đường Chín năm sáu mươi chín. Rồi chuyện quê thầy mùa này chỉ thấy lụt là lụt. Thầy ở một mình nhưng mỗi khi có khách là rộn cả nhà. Thầy phải tiếp tế cho trẻ con trong nhà, cũng bở hơi tai. Người ta thấy thầy có một mình, cho là giàu. Người ta cứ nhận của mình mà chẳng ơn huệ gì sất.
    Hà kể chuyện quê. Chuyện đi xe buýt. Chuyện cái áo chỗ trọ. Vào buổi trưa nóng như hắt lửa vào mặt, thầy và trò bỏ dở cả cơm. Thầy rủ: vào nhà thày uống nước!

    Phòng khách phía ngoài, thầy để đầy sách. Những ông thầy dạy triết lúc nào cũng đọc nhiều sách. Các ông cũng hay viết. Nhưng thày Dương Hà không viết lách gì. Thày bỏ quân phục, đi học triết ở nước ngoài, học nhiều vẫn thấy mình như ếch ngồi đáy giếng. Thầy đọc sách cho đỡ buồn. Có thì giờ thầy đánh cờ với thầy giáo dạy sử, trường trung học, nhà ở ngoài phố gần trường. Hai ông đánh cờ miệt mài. Cứ thế rồi tuổi trẻ đi qua. Bây giờ thày đã "đầu bốn đít vô tư" - Bốn chín tuổi còn gì?

    Thầy cười buồn. Hàm râu có vẻ được thầy mất công săn sóc nhất. Vì cứ năm ngày không cạo râu, chắc chẳng ai nhận ra thầy. Hà pha nước trà. Cái tủ lạnh thầy để cóc cáy, trống không, được cái đá là nhiều. Sờ đến cái gì cũng thiếu. Thực ra thầy chăm cũng chẳng để làm gì?
    Thầy chưa uống nước đã ngả ra thành ghế ngủ la đà. Do nóng quá. Cái quạt phả ra toàn hơi lửa hầm hập. Hà nghe phảng phất trong nóng bức cái mùi nằng nặng của một người đàn ông lớn tuổi, ít tắm rửa. Cái mùi đặc trưng. Mùi già. Nhưng đã phiêu lưu, nhảy xuống hố vôi cũng phải nhảy.
    Trong khi thầy ngủ, Hà ước lượng diện tích căn hộ. Dự định sẽ kê cái giường ngủ vào giữa phòng, một bên kê bàn viết, một bên để cái đèn chụp chân cao. Có đèn chụp, căn phòng trông khác ngay. Sẽ quét màu vôi xanh. Treo vài bức tranh thiếu nữ. Bếp không thể kê thế này... Nói tóm, phải làm lại tất cả.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chị Thu, chị Thế cười sằng sặc khi Hà nói tới bàn chân thầy. Móng dài. Đen sì. Đôi dép nhựa của thầy cũng đen sì. Cổ áo của thầy mới khủng khiếp. Thầy chả thiết...
    Còn mọi chuyện thì tiến triển khá tốt. Em định tháng tới đây đỡ nóng, rủ thầy nấu cơm ăn. Em chỉ ăn cơm, chưa nên tính gì vội. Phải không? - Cũng được. Mày nên nhớ năm nay ra trường rồi. Bọn học cùng môn như mày đông như lợn con. Hay đi làm tiếp viên như bọn chị?
    Chị Thu hỏi. Chị Thế nhăn mặt:
    - Tiếp viên bây giở cũng bèo lắm em ơi. Cái thời các sếp nhà quê lấy tiền công đi chơi đã qua rồi. Thời bây giờ nhiều sếp phải móc túi uống cà phê đã đau hơn hoạn. Đi hát đi hò tiền túi móc ra đâu có rộng rãi được. Xem bọn chị đây này, vẫn chưa thuê nổi cái nhà ra hồn để chui rúc. Dành dụm vài trăm một tháng gửi thày u đã thấy xiêu vẹo rồi. Em phải tính cách khác thôi. Bắt cho được thầy!

    Hà bần thần lên xe buýt. Bần thần tính toán. Ngày lại ngày. Nóng và bụi. Hà kiên nhẫn chờ thày ở quán cơm. Thầy đưa tiền cho Hà tiện thanh toán phần thày. Hà sòng phẳng đưa tiền thửa cho thầy cuối mỗi tuần. Trong câu chuyện cơm bụi, thầy cũng hé mở cái bí mật đời thầy. Cũng có một mối tình thời chiến tranh, yêu một cô lính thông tin. Lính pháo yêu lính thông tin thì đẹp quá. Nhưng cô ấy chuyển ngành, chê thầy cái gì cũng chẳng nói ra.

    Kồi từ đấy, như cái dớp, chẳng hiểu sao thầy không giữ nổi một cô nào. Họ cứ đến nhà thầy ríu rít được ít lâu lại chuồn mất. Có lẽ do cái vía của thày nó dữ sao đó. Hơn ba mươi tuổi thày cũng cố như người ta. Cố chẳng được. Thôi thì đánh cờ cho qua ngày!
    Thầy cười buồn buồn. Trong những bữa cơm ngày nào cũng lập lại đúng giờ, Hà thấy thầy hình như cứ mới dần lên. Mỗi ngày một chút. Thầy đã đi giày. Và tóc thì cắt ngắn. Dường như thày đã chăm tắm.
    Chị Thu bình: Cá đang lừ đừ bơi gần mũi lưỡi câu? Chẳng hiểu sao Hà không thích các chị nói như thế nữa. Hà quay ra làm việc khác...

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Gặp thầy ngay ở chỗ xe buýt đỗ. Thày đi xe máy mượn của ai. Nhìn thấy Hà, thầy vui vẻ gọi: Hôm nay ăn cơm một mình nhé, thầy "nỏ ăn mô"!
    - Thầy đi đâu đấy?
    - Ra ga - Thầy cười hóm hỉnh - Đón "chùm khế ngọt". Đợt này có thằng cháu gọi bằng bác sắp cưới. Thầy phải dẫn "chùm khế ngọt" đi mua sắm. Rồi về quê. Ở quê cưới xin cả vào mùa nóng.
    Thầy vừa nói vừa cười. Hà nhìn thấy trong mắt thầy có cái gì như ngọn lửa.
    Nó lấp lánh, hồn nhiên. Cái áo sơ mi của thầy hôm nay trông cũng tươm tất.
    Có một vẻ mới lạ làm Hà hoang mang. Hay là thầy có ai?
    Hà chào thầy, quay đi một lúc thì nghe tiếng thày gọi: Hà? Quay lại, Hà thấy thầy vẫn đứng chỗ cũ. Khuôn mặt thày có vẻ trầm ngâm, trầm ngâm chứ không phải cái vẻ "thây kệ sự đời" như trước. Hà bỗng thấy bước chân ngập ngừng.
    - Ngày mai thày về quê mấy ngày. Em ở xa, đi học vất vả quá. Em tới nhà thầy quét dọn hộ. Nhân thể cho con mèo nó ăn hộ thầy. Cứ ngủ lại. Tự nhiên!
    Thầy đưa chìa khóa, Hà nhận và tự hỏi: đến nhà thầy mấy lần rồi, đâu có thấy mèo chuột gì?
    Hóa ra con mèo chứng y như chủ, chẳng mấy động cựa. Đi loanh quanh đâu đó ở ngoài, lúc về chui vào cái thùng thầy lót vỏ chăn, yên phận nằm ở đó. Thấy Hà mở cái thùng, nó rụt đầu nhìn ra. Cũng chả thèm có một tiếng meo!

    Những ngày thày về quê, sàn gạch được lau, đầu tiên phải cạo đất đi, lau bằng bao tải gai nhúng ướt dội nước cho trôi bớt đất. Và lau đi lau lại cho đến khi màu men nâu sẫm chói ngời lên. Thứ gạch men nâu cũ kỹ này người ta lát nền nhà từ những năm bảy mươi. Từ đó đến nay nó chưa hề biết đến mùi nước. Nhìn cái màu gạch tự dưng Hà xúc động. Nó cũng quá bụi, cũng tự nó lẩn đi giữa cuộc đời, y như thầy.

    Trên tường thầy còn treo một cái thắt lưng của lính. Có lẽ đó là kỷ vật hợp với thầy nhất. Nó không mới, cũng chẳng bao giờ cũ. Còn mọi thứ đồ đạc khác, cứ như rời rạc với thầy. Hà lôi cái bình gốm đẹp thầy dùng đổ bã chè, lau rửa xong, cắm mấy bông sen tươi. Tấm màn cửa mới tinh lay động khi cái quạt cây quay tới nơi. Dọn dẹp mất đứt ba buổi chiều. Chăn chiếu đã khô, Hà làm giường cho thầy. Nhìn cái gối đơn côi trên chiếu, lại thấy mình ctĩng thật vớ vẩn. Sợ gì chứ? Nghiễm nhiên căn hộ đã là của mình. Cứ ở lại với thày. Có sao?
    Con mèo rón rén đi dưới chân Hà. Cái vẻ khinh khỉnh của nó lảm Hà chột dạ.

    Chị Thế lại cười khanh khách: Tao như mày, giặt giũ chăn màn xong tao chui vào nằm ngủ. Cứ thế mà chờ!
    Các chị chằng phải chai sạn gì. Các chị thích đùa với mọi chuyện. Xem nhẹ mọi chuyện ở đời. Đơn giản thế thôi. Thầy gật thì ở. Thầy lắc thì đi. Nhưng trái tim Hà bắt đầu bướng bỉnh. Nó thức từ từ chầm chậm. Có lẽ cái hôm đầu tiên thày rủ về nhà uống nước. Nước chẳng có phải tự mình tìm lấy. Quay ra thày đã ngả mái đầu lốm đốm trắng đen lên thành ghế ngủ gà gật. Trong cái dáng ngồi ngủ của thầy có gì đó như một đứa trẻ thất vọng. Rồi hôm Hà nhìn thấy cái cổ sơ mi đen sì thầy mặc ở nhả? Hay là hôm nào nữa nhỉ, đến đúng lúc thầy dùng cái que gẩy đất ở móng chân. Cuộc đời thầy lẻ loi như quả trứng luộc thầy hay ăn trong quán cơm bụi... Hà đã tính bẫy thầy, tìm cách vào nhà thầy còn đời thầy không đáng kể. Nhưng lâu dần mọi chuyện lại khác đi mất rồi. Hà thổn thức khi thấy đã năm ngày mà thầy chưa về. Hay thầy đã có ai?
    Chị Thu chị Thế nháy mắt cho nhau, cả hai nhìn Hà
    - Mày đến nhà thầy ngủ đi chứ. Thầy nhờ trông nhà cơ mà. Quái nhỉ? Dọn dẹp xong khóa cửa để đấy!
    - Nhà thầy chẳng có gì để mất đâu. Thời buổi này ai lấy trộm sánh?
    - Nhưng mọi thứ đang tiến triển cơ mà!
    - Em không đến nhà thầy nữa đâu. Em gửi chìa khóa cho thày rồi.
    - Con điên! - Hai chị cùng thốt lên.
    Hà đi ra cửa, nhìn sang cái ao. Hóa ra họ đã đổ cát lấp gần hết cái ao. Giá như đời mình cũng được thu xếp nhanh chóng như thế nhỉ. Thôi vậy. Hôm qua vừa nhận được thư cha. Cha bảo thi xong thì về quê giúp cha là nấm rơm.
    Đang có mối lấy nấm của nhà mình. Thôi thế cũng được. Càng đỡ phải gặp thầy.
    - Em ơi. Ky cóp cho cọp nó xơi. Mày dọn nhà dọn cửa cho thầy, mày giặt giũ cho thầy mới tinh lên để cho đứa khác nó về. Ngu vừa vừa thôi em ạ?
    Chị Thế vừa bôi phấn vừa ngân nga như hát.
    Tình yêu cũng bất ngờ như nỗi đau. Nó len lén, êm dịu rồi bóp nghẹt lấy tim ta. Hà đứng dựa vào thành xe buýt, chẳng cảm xúc gì khi anh chàng phụ xe mặc đồng phục cứ chốc chốc lại nhổ toẹt xuống sàn xe. Ngang nhiên như đứng trên bãi rác... Hà đi lối khác vào trường. Chắc hôm nay thày đã ra. Đã mở khóa vào nhà. Có lẽ cốc sữa đầy Hà để cho con mèo chưa hết. Hà đã làm đúng lời thầy nhờ...

    Một bọn cùng lớp lao nhao gọi Hà ở lối đi.
    - Này Hà ơi, thầy triết cứ đi tìm mày như lính cứu hỏa tìm vòi phun ấy. Thầy dặn mày đến thì về chỗ thầy ngay.
    - Hà ơi, mày mua sơ mi cho thầy đấy hả?
    - Sao em mua cho thầy cái "thắt cổ" đẹp thế em ơi. Học với nhau mấy năm rồi, anh không ngờ em lại chọn màu siêu thế...
    Cả lũ thi nhau nói, thi nhau cười. Như một lũ khướu! Hà như say rượu, cứ là đà nứa tỉnh nửa không. Nói với lớp trưởng xin nghỉ học hôm nay, ngày cuối tuần, Hà ra cổng sang bên kia đường chờ xe buýt. Hà không đi thẳng về phía nam thành phố. Hà cắp cặp đi dọc con đường vắng ở khu phố trung tâm. Hàng cây đẹp nhất thảnh phố như có một bầu trời riêng ở bên trên. Không khí xanh sẫm vì màu lá trong sạch. Những biệt thự nằm sâu bên trong hàng rào sắt với nhưng vườn toàn cây... Thế giới ấy cũng chẳng bao giờ mình được biết... Hà nghĩ vẩn vơ, tự dưng buồn muốn khóc. Oái oăm thay khi người đàn ông Hà yêu đầu tiên lại là thầy. Nói cho cùng chẳng nên thử vận may kiểu này!

    Lang thang trong phố tới chiều tối. Hà lên chuyến xe buýt đã vắng người trở về nơi ngủ trọ. Cái ao trước sân lấp xong. Nhiều người đứng lố nhố bàn bạc. Có đèn trong phòng của mấy chị em. Quái. Có lẽ khách của chị Thu. Giờ này đáng lẽ các chị đã khóa cửa đi làm rồi chứ. Chị Thu ngồi quay lưng ra cửa. Trên cái ghế băng Hà vẫn ngủ, một người đàn ông lạ lẫm ngồi nói chuyện với chị Thu. Một người đàn ông phong trần tóc cắt cao, áo sơ mi sắn cao tay. Cái áo sơ mi Hà đi chọn mua, để sẵn trên giường giữa những chăn chiếu được Hà giặt giũ với bao nhiêu trìu mến.
    Chị Thu quay lại cười xòa: - Đây rồi!

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hóa ra cốc sữa con mèo ăn hết nhẵn. Thầy về muộn một vài ngày nữa chắc cu cậu phải đi tìm chuột mà chén.
    Trời hôm nay mát dịu. Giữa mùa hè thỉnh thoảng có một hôm khác lạ. Trăng trắng xanh trên bầu trời phảng phất mùi hoa lan. Hai người đoán xem mùi hoa lan ấy từ đâu. Và rồi ngạc nhiên quá khi tự dưng cứ muốn nói thầm thì.
    Hà ngồi vào cái ghế mây thầy mới mua, có lưng tựa. Một cái gì tròn tròn âm ấm rúc vào chân cô. Ô, con mèo? Lên đây nào? Thế, ngồi yên. Thầy ơi, con mèo y như thầy, nó đã hoạt động rồi này?
    Hà đùa. Tiếng cười trong trẻo như tiếng những hạt thủy tinh va vào nhau. Thầy im lặng đứng ở phía cửa nhìn vào căn phòng sáng trưng, thấy lạ như nhìn vào nhà ai. Đời thầy tưởng là ngổn ngang nhưng rồi lại thu xếp được.
    Thôi. Cũng cố mà sống như người ta.
    [/FONT]
     
    No MercY, LeTruongps and 5dola like this.
  7. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thầy Thế đi chợ bán trứng[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ma Văn Kháng[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Anh còn nhớ chỗ em vẫn ngồi bán hàng không? Ở khu vực thực phẩm, bên cạnh là cô bé Thuận bán đậu phụ ấy. Anh đi cẩn thận khi qua cái cầu sắt, có chỗ mục ải rồi, khéo tụt chân xuống thì khổ!
    Nâng cái làn cói đầy ắp trứng gà lên, ngoắc vào ghi đông chiếc xe đạp, còn cố quài tay ra sau đút một quyển sách dày cộm vào túi quần, thầy Thế mới quay lại nhìn vợ, gật gật đầu:
    - Em cứ yên tâm, đừng lo gì cho anh cả.
    - Kìa, đã đi bán hàng lại còn mang cả sách đi theo để đọc ! Quyển gì thế ? Không rời ra được à ? Hay là thôi, nghỉ một buổi cũng đã sao nào.
    - Chậc! Quyển sách bàn về văn học của Jean Paul Sartre anh mới mượn được ấy mà. Không sao đâu. Nhưng mà chân em hôm nay thế nào rồi ?
    - Hơ lá láng không ăn thua. Nhưng giã nghệ đắp lên thì thấy êm êm, không đau nhức nữa, có lẽ chỉ trưa nay là em có thể nhúc nhắc được rồi.
    - Nhúc nhắc là nhúc nhắc thế nào. Bong gân, kinh nghiệm rồi, phải án binh bất động ít ra là một tuần.
    - Tuổi tác rồi, sơ ý bước hụt một cái là mang họa cho cả anh. Thật tình, để anh đi, em áy náy lắm.
    Rút phựt cuốn sách ở túi quần sau, chạy vào nhà đặt lên bàn, thầy Thế quay ra, nắm ghi đông xe, quay lại nhìn vợ, mắt hấp háy ánh cười:
    - Thế nào, hết áy náy chưa, đã yên trí chưa ! Ui dào, bán mất quả trứng mà lại toàn khách quen của em ! Khó đến dạåy ngữ pháp Việt Nam, anh cũng còn chẳng sợ nữa là. Thôi, nắng rồi, anh đi đây !

    Chiếc xe lăn theo sức đẩy của hai cánh tay gầy.
    Đường làng khập khềnh mất một quãng. Lại gặp cây cầu sắt cũ và hai cái làn trứng ngoắc hai bên xe kềnh càng quá nên tay lái có lúc bị kẹt cứng rất khó điều khiển. Nhưng rồi cũng quen, nhất là khi xe đã lăn trên khúc đường nhựa đầu làng.
    Tuy vậy, từ đây, thầy Thế có cảm giác ngất ngư như là đang ở trong một thực tại chưa từng được biết đến. Chưa từng biết đến cả đám sương mù dày đặc phủ kín những khu vườn quả, tiếng bánh xe lao vun vút qua hai bên như những sinh vật đang ra sức bày tỏ ý chí của mình bằng hành động. Chưa từng biết đến, rồi sẽ có lúc mình bước vào cuộc mưu sinh, nghĩa là tạo ra một bản chất mới cho mình, bằng việc đi chợ bán hàng thay vợ như lúc này.

    Hừ, sáu mươi hai tuổi, rời bục giảng đã hai năm trời, là người lao động tự do rồi, thế mà mới nhớm chân vào cuộc kiếm sống đã thấy ngượng ngập, lạ lẫm quá ! Nhâm, vợ thầy, giản dị hơn. Mới buông viên phấn, vở soạn bài một tuần, cô đã thon thón hai đầu đòn gánh hai sảo giá đậu ra chợ xã, tìm chỗ ngồi, hớn hở chào mời: "Em mua giá cho cô đi. Giá cô ngâm nước sạch đấy !”. Ấy thế ! Phụ nữa chính là bản thân cuộc sống tự nhiên vậy. Họ ở trong lòng nó, họ sống với nó. Ngơ ngác là cái anh đàn ông. Dang dang dở dở là cái anh đàn ông. Ngang ngang ngửa ngửa là cái nhà ông giáo về hưu ở thôn quê ! Ở đây trẻ con chẳng cần học thêm làm gì. Chúng đào đâu ra tiền để trả công cho thầy. Mà thầy thì ngoài công việc dạåy trẻ con học ra còn làm gì nên ? Quét cái nhà còn bẩn. Giặt quần áo xong, vợ còn phải giũ lại. Cả đời mới chỉ làm đến chức tổ phó công đoàn phụ trách thu đoàn phí mà cứ nhầm lẫn lung tung cả. "Chỉ được mỗi cái tài dạy văn, chỉ được mỗi cái đầu ngẫm nghĩ giỏi hơn người thôi, ông ơi". Cô giáo Nhâm rên, trách yêu chồng. Trách yêu thật ! Vì học trò trong lớp ngồi nghe thầy giảng mà cứ như nhập đồng vào một thế giới khác. Mê mẩn cả tâm trí, có đứa mắt gà sắp ngủ, bị hỏi còn đổ tại vì thầy dạy hay quá. Trách yêu thật ! Vì đó là cái đầu có sức nghĩ sức cảm sâu xa khác thường, như nhìn hoa hồng thấy sự thủy chung, nhìn quả trứng thấy con gà sắp nở và cái lý sự con gà có trước hay quả trứng có trước?
    - Chào thầy Thế ! Thầy thay cô đi chợ đấy à ?
    Chiếc xe như vấp phải vật chắn. Nhìn sang ngang, thầy Thế cố giữ vẻ tự nhiên. Lời chào hình như phát ra từ một cái quán bên đường túm tụm bốn năm người đang vây quanh cái bàn cờ tướng vẽ trên nền đất. Hình như thôi, vì thấy trong đám đông chơi cờ ở quán nọ, hình như có bộ mặt xấc xược của Khởi, gã thuế vụ, tên học trò bất trị ngày xưa của thầy. Hình như thôi, vì nó giống như tâm trạng thầy phát ra và giống như một lời đồng vọng vẳng tới và ngay sau đó, nghe thấy tiếng còi xe máy thúc ở phía sau, thầy liền gật đầu nhẹ một cái để giữ phép lịch sự rồi đẩy xe đi, cảm giác như đã bước lên bục giảng, nghĩa là vào cuộc rồi.

    Sương đang bốc lên từ mặt đất như một hồn thơ phiêu lãng. Bên trái là dãy hàng quà sáng nhộn nhịp đông ken thực khách. Phở, bún, bánh cuốn, mì vằn thắn, bún chả, xôi giò, bánh bao ngào ngạt mùi vị. Như một vế đối, để chứng tỏ rằng sau cái ăn là cái mặc, đối diện với dãy hàng quà là dãy quần áo mùa đông đang ra sức phô trương màu sắc và kiểu loại. Treo trên dây căng, mắc áo, chất chồng tú ụ từng đống như rau dưa, hoặc gấp nếp xếp từng hàng tăm tắp là áo quần đủ kiểu, từng măng-tô, vét khuy chéo, bu-dông, tới sơ mi áo lót, su chiêng, quần xịp của các hãng nội địa, của Mỹ, Thái, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Chợ quê mà sang quá ! Đang cữ rét, hàng nào cũng đông. Nhất là hàng thùng, hàng second - hand. Trông hơi cũ một tí nhưng chất liệu vải ngoại, kiểu dáng và màu sắc lạ mắt. Dãy hàng này vừa xuất hiện ở bên cổng chợ đã như một tứ thơ rủ rê hồn người, khiến thầy vội bóp chặt tay phanh để hãm chiếc xe trứng vì mải nhìn mấy cái áo quần nọ, suýt nữa thầy đâm phải một gánh rổ rá ở bên phải đường.

    "Chỗ này đây !".
    Như đã tìm được chủ đề của bài thơ, thầy Thế cho dừng xe đúng vào khoang đất trống ở đầu dãy hàng thực phẩm tươi sống. Dựng chân chống, mắm môi mắm lợi, nhưng gượng nhẹ nhấc hai chiếc làn ra khỏi ghi đông xe, đặt xuống đất, thầy thở phào. Thật khéo, vừa lúc một thiếu nữ áo len màu huyết dụ, tóc búi cao, mặt nhẹ nhõm, chạy từ trong chiếc lều lợp tôn ra, miệng kêu liên tiếp: “Để em đỡ một tay”, rồi hai tay hai làn trứng nhanh nhẹn xách vào.
    - Chỗ ngồi của cô em ở đây ạ. Em tên là Thuận, học trò cũ của cô. Thầy dạy lớp trên, chắc thầy không biết em đâu. Cô đau thế nào, hả thầy ? Thầy vào trong lều này, ngồi nghỉ, để em xếp trứng ra đã.

    Nhanh nhảu và khéo léo quá. Thò tay vào trong làn, nhấc ra, lần nào cũng như lần nào, năm quả trứng xinh một ổ gọn trong bàn tay xòe của Thuận lại được đặt êm ru xuống lòng một cái sảo tre lớn. Lúng túng, thầy Thế chỉ còn biết đứng nhìn. Rồi sau một lần Thuận giụåc nữa, thầy đành bước vào trong lều.
    - Trứng bán thế nào đây ?
    Hàng vừa bày xong đã có khách. Nhìn ra, thầy Thế thấy khách là một thiếu phụ, váy dài xẻ cạnh, áo măng-tô tím, kính râm to, vai tòng teng ví đầm, điệu bộ đài các. "Câu khai đề thế là đã có rồi đây", thầy Thế nghĩ vui vẻ, nhưng chưa kịp đáp, Thuận đã ngẩng lên, nhanh nhảu:
    - Trứng tươi lắm. Cô mua mở hàng cho cháu đi.
    - Tươi hay là ung thối ?
    - Bốn trăm quả, cháu soi không sót quả nào. Quả nào cũng trong suốt, không hề có tí tia dây nào.
    - Không khéo bị mày lừa, trứng gà ta không mua lại mua phải trứng gà Tam Hoàng thì bỏ mẹ.
    - Cô ơi, trứng gà Tam Hoàng trông cái là biết ngay chứ. Trứng gà ta hai đầu nó thon thon thế này cơ mà.
    Kéo váy, người thiếu phụ ngồi xuống. Môi bìu bĩu như phải làm một việc cực chẳng đã, tay trái ôm ví, bàn tay phải có hai cái nhẫn mặt ngọc to sều, xanh đỏ cạnh nhau, lần rờ trên sảo trứng, rồi bất ngờ giật lên như chạm phải gai, chùi vào cạp sảo, nhăn nhó.
    - Khiếp quá, trứng dính cả cứt à ? Trứng này thì bán bao nhiêu ?
    - Cô ơi, cô cứ đi khắp chợ mà xem, chả có hàng nào được như của cháu đâu. Cô lấy cho cháu đi. Đúng giá mười ba, cô ạ.
    - Mười ba ! Mày bán cho ai giá đấy ?
    - Cô ơi, giá ấy là mềm nhất rồi đấy, cô ạ.
    - Đừng có qua mặt tao. Ranh con ! Nói thách tao vạch vào mặt bây giờ. Chín rưỡi!
    Quái, sao lại có cảm giác như đang đọc một đoạn kịch ấy nhỉ ? Thầy Thế nheo mắt. Thầy nhận ra cái mặt vênh vênh, cái điệu bộ, cái giọng nói ngoa ngoắt của ả khách kia có nét quen quen. Hay là cô ta từ một trang văn nào đó bước ra
    - Tao cho mày nói lại. Bao nhiêu ?
    - Cháu không nói thách đâu cô ạ.
    - Thì một chục chẵn đấy. Mày định chém đẹp tao bao nhiêu nữa, hả con ranh ?
    - Cô ơi, cô chửi thì cháu nghe, chứ không có giá ấy cô ạ. Cô xem trứng cháu mười quả như cả mười. Cô cứ lấy đi. Nếu cô mua ở đâu rẻ hơn thì cô đến giả lại cháu, cháu xin làm con cô.

    Hừ, một tiếng kêu đau đớn là dấu hiệu của nỗi đau. Nhưng, một tiếng hát đau đớn thì vừa chính là nỗi đau, vừa là cái gì cao hơn nỗi đau. Thầy Thế nghĩ tới câu văn trong một cuốn sách lý luận văn học và nhìn theo người khách đàn bà nọ quay ngoắt đi. Thầy bỗng chưng hửng vì Thuận vừa phủi tay đã chửi ả nọ là con đĩ mới sớm ra đã ám hàng bà, vừa xé mảnh giấy báo, bật lửa đốt, huơ trên mặt hai sảo trứng, miệng lầm nhầm như đọc thần chú, rồi bất thình lình nhấc một bên chân ném tờ giấy đang cháy nọ qua háng mình. Động tác đốt vía đốt vang ấy là lạ với thầy Thế, nhưng thầy nhận ra nó đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Chẳng khác gì một nhân vật kịch từ cánh gà bước ra sân khấu, khách là một người đàn ông đội mũ cối từ hàng bên đã bước tới. Và ông mới chỉ kịp nói: “Cho tôi ba chục quả nào”, thầy Thế đã bật reo to: "Kìa, ông chủ tịch Quát".
    - Ôi, thầy Thế ! Sao lại gặp thầy ở đây nhỉ?
    Thuận cười cười:
    - Để em nhặt cho bác chủ tịch huyện nhé. Thầy cứ nói chuyện với bác đi
    - Chủ tịch huyện gì nữa đâu. Về hưu nửa năm nay, giờ là phó thường dân rồi. Nghĩ cũng có cái sướng của nó, thầy Thế ạ. Cô đâu mà thầy phải đi chợ?
    - Nhà tôi bước hụt xuống cãi rãnh nước, bị bong gân chân. Thế em Tường có được đơn vị cho nghỉ phép Tết không, bác?
    - Dạ, em nó mới về hôm qua. Tít tịt Trường Sa, lại đang lúc phải trực chiến, được về phép coi như đơn vị khen thưởng. Cháu nó được phong trung úy rồi. Về đến nhà là hỏi thăm thầy cô. Để tối nay em nó sang thăm thầy cô nhé.
    Ba chục quả trứng đã được bọc gọn trong túi ni lông trao cho khách. Thuận nhận tiền, dúi vào túi áo vét của thầy Thế, khe khẽ: “Thầy giữ cẩn thận. Kẻ cắp ở đây sẵn lắm đấy !”.
    Nắng đã hoe vàng trên nóc các ngôi chợ xây. Ông Quát đi thì lớp khách khác đến. Đến cùng một lúc những ba người. Đến là ngồi xuống tự chọn, rồi móc túi trả tiền, không mà cả, so đo. Chà ! Ba người này vừa đi thì dồn đến mấy người khách đi xe mini, đi xe máy. Thì ra đa phần là khách quen. Khách quen là khách nhớ nhà hàng, là khách tin cậy. Tin cậy ở cô giáo. Cô giáo không bao giờ sai ngoa. Khách quen đến là bảo đếm hộ chục quả, hai chục quả không yêu cầu chọn lựa. Có người đến trả nốt tiền hôm qua còn thiếu. Cũng có người nắc nỏm khoe rằng hôm qua mua được mấy quả hai lòng hoặc hẹn ngày ấy ngày nọ để dành cho mấy chục quả thật tươi. Cũng có nhiều người trả tiền xong, ngửng lên nhìn mặt Thuận, mới ngơ ngác: “Ủa, hôm nay cô giáo Nhâm đi đâu mà mày lại bán thay cô, hả con ?”.

    Trong cái dồn dập của văn cảnh, thầy Thế có cảm giác như đây là một câu chuyện ăm ắp các chi tiết nghệ thuật làm mê mẩn người đọc mà thầy chỉ là kẻ quan sát. Nói đúng hơn thầy chỉ là cái túi đựng tiền mà cô bé Thuận ních vào mỗi lúc một đầy. Thầy là cái túi. Ý nghĩa ấy khiến thầy bất giác nhớ tới một câu triết lý trong cuốn sách thầy vừa đọc của Jean Paul Sartre: "Điều đáng kể trong cái lọ lục bình là cái rỗng không ở giữa".

    Chà ! Xung quanh cái rỗng không, tức thầy Thế, đầu óc toàn tư tưởng và kiến thức sách vở, lúc này là bức tranh sinh hoạt đầy màu sắc lạ lùng mà bây giờ thầy mới nhận ra. Đúng là cái tổ ong nhộn nhịp, tấp nập một cuộc sống thường nhật lý thú mà thầy chưa bao giờ để ý tới. Tíu tít người qua kẻ lại, huyên náo tiếng nói tiếng cười, lời gắt gỏng, câu rủa xả. Hàng rau, hàng măng, hàng cà, hàng bí, hàng bầu san sát chen nhau. Dưa hấu được mùa tròn thu lu to như cái nồi đất. Những bó măng tươi vàng ươi ưởi. Cà rốt đỏ gạch. Cà chua đỏ hồng. Trắng phau là những rổ cà pháo đầy có ngọn và xanh tươi đủ các sắc độ là đậu côve, rau cải, rau ngót và cải xoong. Bên hàng thịt hàng cá nối tiếp đó cũng chẳng kém phần chen đua.

    Thầy Thế có cảm giác bị lạc trí. Ôi ! Lại cũng là cái thói quen và tài nghệ nhìn quả trứng thấy con gà cùng mệnh đề triết học: con gà có trước hay quả trứng có trước và bên kia hoa hồng là sự chung thủy, thầy nhận ra cái khung cảnh chợ búa tạp nhạp, nhỏ nhặt vui vẻ và thiết cốt hóa ra là một hiện thực phản ánh trong nó tính đa dạng muôn màu của cuộc sống và thầy bao lâu nay có vẻ như chỉ là một khách du đứng bên lề đường !
    Ánh nắng một ngày đông tận đã tưới lên khu chợ một sắc vàng màu mỡ.

    Người mua kẻ bán lúc này đều như đã vào guồng, nhịp nhàng trong một hoạt động hài hòa. Nhìn hoạt cảnh này, thầy Thế nghĩ, đúng như người xưa đã nói, những việc khó nên được hoàn thành vào lúc dễ, nên bây giờ tất cả đã trôi chảy, hoàn bị như một tác phẩm thơ kiệt xuất, nghĩa là không thể làm được cái gì hơn thế nữa.

    Nhưng vào quãng mười giờ hơn, khi hai sảo trứng chỉ còn ba chục quả thì giống như vĩ thanh của một câu chuyện, trước mắt thầy Thế lại là người khách nữ mặc váy dài đen đã xuất hiện ở đầu buổi chợ. Câu chuyện chưa xong đâu. Đầu vở kịch có khẩu súng thì cuối vở kịch sẽ có tiếng nổ. Đó là quy tắc nghiêm ngặt của nghệ thuật. Ở đời cũng vậy chăng ?
    - Ai bán trứng đi đâu rồi ?
    Người thiếu phụ kênh kiệu hỏi, lồ lộ vẻ hoang mang.
    - Tôi đây.
    Lần này thì thầy Thế xưng danh. Thuận đã phải quay sang bán món hàng đậu phụ của em.
    - Còn toàn trứng ôi. Chín mươi tất cả, tôi lấy nốt.
    - Vâng, cô lấy đi.
    Đúng là đi vàng về xanh, đi hơn về kém. Người đàn bà kéo váy ngồi xuống, đưa tay ngót trứng vào cái túi vải in hình Con vịt Đô-nan nhãn hiệu Mỹ. Rồi phủi tay đứng dậy móc ví lấy tiền. Trong động tác đứng lên, cái kính râm như dán vào mắt bỗng trễ xuống, hai con mắt chị đột ngột hất cái nhìn như hai tia chớp vào gương mặt người đàn ông bán hàng. Thốt nhiên, thầy Thế như muốn giật lui một bước. Giây phút giao nhau của hai luồng mắt chấm dứt bằng việc thầy Thế ngoảnh sang bên tìm Thuận, lơ ngơ như cầu cứu và người đàn bà vội xách túi trứng đi. Thuận ngoảnh ngay mặt lại, hơi bất ngờ:
    - Thầy Thế, sao thầy bán rẻ thế ?
    - Ờ ờ...
    - Bán thế thì lỗ vốn thầy ạ.
    - Ờ ờ...
    - Kìa, thầy cầm lấy tiền con mẹ ấy nó trả ở sảo trứng đi. Nghèo rớt mồng tơi mà điệu chảy nước ra ! Cáo chết ba năm lại quay đầu về núi. Em biết ngay mà.

    Đúng là nước vừa chảy vừa nương theo những chỗ gồ ghề ở đáy sông. Ngẩn ngơ vì một mệnh đề cổ văn vừa sực nhớ, thầy Thế cứ để mặc Thuận vừa càu nhàu vừa vơ số tiền nọ đút vào túi áo thầy.
    - Ơ kìa, cô Nhâm.
    Quay lại, ra khỏi tất cả mọi ý nghĩ vẩn vơ, thầy Thế nhận ra vợ mình tay dắt xe, chân tập tễnh đang đi tới trong tiếng reo vui của cô bé Thuận.
    - Cô xem, thầy em có duyên bán hàng chẳng kém cô đâu. Hết sạch cả mấy trăm quả rồi đấy !
    Cô giáo Nhâm quệt một giọt nước mắt tưởng tượng ở gò má, sụt sịt:
    - Nằm ở nhà sốt ruột quá. Cô cám ơn em Thuận.
    Rồi quay sang chồng, giọng cô sụt hẫng nao nao:
    - Anh nghỉ đi. Để các thứ đấy em thu dọn cho.

    Thầy Thế đứng ngây. Cái gì vừa xảy ra nhỉ ? Gái thương chồng đang đông buổi chợ. Bên kia màu hồng của hoa là biểu trưng của tình chung thủy. Quả trứng đã nở thành con gà. Cuộc đời không thể là cái chợ lộn xộn đâu. Tất cả đều có trật tự lô-gích của nó đây. Và chung quy, con người vẫn là kẻ cần được sự thương yêu, nâng đỡ của đồng loại ! Mải nghĩ ngợi, cho tới lúc vợ thầy giật tay thầy hỏi: "Có chuyện gì thế, hở anh ?" thầy mới nhìn vào cặp mắt vợ, lòng dâng lên nỗi xôn xao trắc ẩn, ngập ngừng:
    - Nhâm à, em có nhớ cái Tý Tửu không? Con bé loắt choắt, mồ côi cha mẹ ấy. Ở với vợ chồng anh trai, nó bị chị dâu hành hạ đến là khốn khổ. Có bận nó bị lột trần, đuổi ra khỏi nhà đã chạy đến nhà mình, anh và em đã cho nó quần áo mặc, cho nó ăn ở nhà mình gần tháng trời. Sau, anh nó buôn ma túy bị đi tù. Chị dâu nó bắt nó phải tiếp khách, nó trốn ra thành phố, ít lâu sau lấy một người Mỹ già. Rồi theo chồng về quê. Vừa nãy anh thấy nó đến mua trứng. Khổ ! Chẳng hiểu nó lênh đênh chân trời góc biển, ba chìm bảy nổi, giờ sinh sống thế nào mà xem ra cũng tội nghiệp lắm.

    Tiếng thầy Thế chìm trong tiếng ồn ào của buổi chợ đang cữ đông rồi đột ngột bị ngắt quãng. Thuận vừa chống tay lên sườn, nhìn ra trước cửa hàng, chao chát:
    - Ông Khởi, đừng có dở trò hạch sách. Thầy, cô tôi mua vé chợ, đóng thuế chợ đầy đủ rồi !
    Trước hai cái sảo tre trống không là gương mặt to như cái tráp của một gã đàn ông. Gã tên Khởi nhân viên thuế vụ tên học trò hư đốn, lười biếng đã bị thầy đuổi học, cách đây hơn chục năm. Thầy đã nhác thấy bóng gã ở cái quán bên đường lúc đẩy xe trứng vào chợ. Giờ, chả lẽ là lúc gã đến quấy rầy thầy và cô. Giờ, chả lẽ theo quy tắc nghệ thuật là nhân vật nổi loạn, cưỡng lại ý định ban đầu của nhà văn ư ?

    Không! Không có cuộc nổi loạn của nhân vật. Vì gã đã gật đầu quay đi, vì Thuận đã vừa lườm gã, vừa nhét vào túi gã tờ giấy năm ngàn rồi đập tay vào vai gã, suồng sã quát: "Thôi đi đi, tinh tướng nó vừa vừa thôi !".
    [/FONT]
     
    No MercY and LeTruongps like this.
  8. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thay tim[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Liêm Thế Quảng[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Điền có bệnh tim từ khi sinh ra. Chính vì có bệnh tim từ thuở lọt lòng mà hơn bốn chục tuổi đầu Điền vẫn chưa có vợ.
    Điền không muốn lấy vợ, đẻ con, sợ rằng không chừng một ngày nào đó mình nhắm mắt xuôi tay thì làm lụy đến người khác, và như thế anh cũng không nhắm được mắt. Bây giờ, nguyện vọng lớn nhất của anh là kiếm tiền, sau này nếu có cơ hội sẽ đi mổ để thay tim. Điền nghe nói có bệnh viện làm được việc này, chỉ có tốn nhiều tiền. Điền không sợ tốn tiền, bao nhiêu tiền cũng xứng đáng vì thay hẳn quả tim kia mà.
    Điền chỉ biết buôn bán vặt, bày hai cái sọt để bán hoa quả. Điền bày hoa quả ở lối vào cổng một bệnh viện. Nhìn những người bệnh ra ra vào vào, nhìn những bác sĩ và y tá mặc áo choàng trắng, tự đáy lòng, Điền có cảm giác thân thiết không sao nói ra lời, dường như anh sinh ra là đã có mối quan hệ khăng khít với họ. Lại nhìn đến hoa quả ở hàng của anh, nào hồng,nào táo, nào quýt, nào đào, thứ nào cũng giống như những quả tim đang đập nhịp.
    Điền đã kiếm được một món tiền, có đến vài nghìn tệ. Anh biết số tiền này còn cách khoản chi phí để thay tim xa lắm, nhưng anh vẫn vui. Hàng ngày sớm đi tối về, anh không cảm thấy mệt một chút nào, trái lại rất vững tâm. Có hôm tới lúc dọn hàng hãy còn thừa một ít hoa quả chưa bán hết, anh liền gọi những bác sĩ tan ca, mời họ mang về nhà ăn, không phải trả tiền. Lúc đầu, các thầy thuốc đều lấy làm lạ, người buôn bán sao lại biếu không hàng của mình cho người khác? Sau rồi họ quen nhau và các bác sĩ cũng hiểu, nhưng họ vẫn dúi cho anh ít tiền. Các bác sĩ không muốn ăn không của anh.
    Một lần khi Điền đang bán hoa quả thì bệnh tim của anh giở chứng. Anh ngất đi. Những người tốt bụng cõng anh vào bệnh viện. Các bác sĩ đều biết anh nên kiểm tra toàn diện cho anh. Kiểm tra xong, các bác sĩ sa sầm mặt, bảo anh, anh nên thay tim đi thôi.
    Điền vừa tỉnh lại nên sắc mặt cũng không ưa nhìn, anh nói:
    - Tôi chưa có đủ tiền để thay tim!
    Các bác sĩ im lặng. Điền cố xin về để bán hoa quả như cũ. Anh không rao nữa, chỉ mỉm cười rất tươi nhìn người qua kẻ lại. Rất nhiều người đã bị nụ cười của anh lôi cuốn và họ mua hoa quả cho anh.
    Một hôm, có vị giáo sư đầu bạc trắng bảo anh lên gác, vào một phòng họp có rất nhiều nhà lãnh đạo và chuyên gia đang ngồi. Giáo sư đầu bạc nói:
    - Theo kết quả kiểm tra lần trước thì tim của anh đã bắt đầu teo lại, vì thế phải mổ tim ngay.
    Điền không ngạc nhiên, dường như anh đã chuẩn bị sẵn chuyện này, anh đáp:
    - Nhưng tôi chưa kiếm được đủ tiền để mổ tim!
    Lãnh đạo và các chuyên gia đều cười:
    - Chỉ dựa vào bán hoa quả, biết đến bao giờ mới đủ tiền?
    Điền đáp:
    - Lúc nào tôi kiếm đủ tiền thì thay tim lúc ấy. Chưa kiếm được đủ tiền thì tôi chưa chết được. Các chuyên gia lại cười, giáo sư đầu bạc nói:
    - Anh không cần kiếm tiền nữa. Chúng tôi mổ miễn phí cho anh!
    Điền cho rằng các chuyên gia nói đùa, nhưng nhìn kỹ mọi người, anh thấy ai cũng nghiêm trang. Giáo sư đầu bạc lại nói:
    - Bệnh viện chúng tôi chưa thay tim cho ai, chúng tôi muốn thử lần đầu. Đương nhiên, mổ lần đầu có thể có nguy hiểm. Nếu anh đồng ý, chúng tôi có thể miễn cho anh mọi khoản tiền, hàng tháng còn cho anh tiền trợ cấp sinh hoạt để chúng tôi tiếp tục quan sát. Anh không phải bán hoa quả nữa.
    Điền toan cười, nhưng anh không cười nổi. Giáo sư lại nói:
    - Có điều, nếu mổ không thành công thì bệnh viện không phải chịu bất kỳ một trách nhiệm nào. Chúng tôi đã thảo một bản cam kết, nếu anh đồng ý thì ký vào bản cam kết đó. Đây không phải là chuyện nhỏ, anh nên suy nghĩ cẩn thận.
    Điền đỡ lấy bản cam kết, tay có phần hơi run. Xúc động chăng? Anh cảm thấy không phải. Sợ hãi chăng? Anh đâu sợ hãi. Thế thì vì sao tay lại run? Điền không suy nghĩ gì thêm nữa, anh ký luôn vào bản cam kết.
    Các chuyên gia đều thở phào.
    Đúng hẹn, ca mổ bắt đầu và thành công ngoài dự liệu. Điền trở thành người thay tim đầu tiên ở bệnh viện này. Điền được lên tivi, được lên báo, trong một thời gian Điền trở thành nhân vật nổi tiếng nhất ở thành phố này.
    Suốt hai mươi bốn giờ trong ngày, Điền đều được chăm sóc rất tỉ mỉ. Nửa năm sau, khi anh ra đến phố thì lúc này trông anh trắng trẻo và béo hẳn ra. Bất kỳ anh đi đến đâu đều thu hút rất nhiều ánh mắt.
    Điền lại bắt đầu sửa soạn gánh hoa quả của anh. Hàng xóm láng giềng bảo:
    - Anh cần gì phải kiếm tiền nữa, vì thế bày hàng hoa quả để làm gì?
    Điền đáp:
    - Tôi nhớ chúng lắm!
    Ai nấy nhìn anh bằng cặp mắt khó hiểu, họ đều nghĩ, người đã thay tim mà sao tâm tính vẫn như cũ?
    Nhưng hàng hoa quả của Điền cuối cùng đã không dọn nổi. Bệnh viện ra mặt ngăn trở anh. Bác sĩ bảo:
    - Anh cần nghỉ ngơi cần dưỡng sức, chúng tôi nuôi nổi anh cơ mà! Chúng tôi còn phải quan sát để có đủ số liệu làm chứng cớ.
    Thế là Điền được bệnh viện nuôi.
    Một năm trôi qua. Lại một lần nữa tên tuổi Điền được lên tivi, được lên báo: Người thay tim đã sống qua một năm.
    Hai năm, ba năm rồi bốn năm trôi qua... Điền sống trong những ngày bình thường và cũng đặc biệt.
    Nhưng vào lúc bệnh viện chuẩn bị long trọng chúc mừng người thay tim sống tròn năm năm thì Điền lại chết. Điền chết không phải vì lỗi của bệnh viện mà là do tự anh làm cho mình chết.
    Các chuyên gia rất thương tiếc cho cái chết của Điền. Họ nói, Điền rất có hy vọng trở thành người thay tim sống lâu nhất trên thế giới.
    Nhưng mọi người không hiểu vì sao Điền lại tự làm cho mình chết. Giáo sư đầu bạc hỏi các hộ lý xem trước khi chết Điền có nói gì không. Hộ lý đáp:
    - Anh ấy nói mình nhớ gánh hoa quả!
    [/FONT]
     
    No MercY, LeTruongps and 5dola like this.
  9. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thể Cúc[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trần Thùy Mai[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thể Cúc ngồi trên tấm phản gỗ lim, trước mặt là chiếc thố bằng sứ cổ đựng nước trong. Ánh nắng ban mai xuyên qua những đường chạm trổ dưới mái hiên, vẽ thành những chấm sáng trong trẻo trên tóc, trên má nàng. Những chấm nắng trong ngời ấy khi đậu vào má Thể Cúc cứ làm rực lên một mầu hồng tươi tắn từ dưới làn da mỏng và trắng như lụa.

    Bà phu nhân Trương Nguyên Cơ đang đứng cạnh đó, trông nom cho hai đứa hầu gái rim mấy thứ mứt trái cây. Thấy Thể Cúc cứ ngồi lắng nghe con hoàng yến đang hót trong lồng, phu nhân quở:
    - Thể Cúc! Con gái, làm chi cũng phải chăm chỉ, ý tứ. Cái nết vừa làm vừa chơi, không nên đâu con.
    Thể Cúc giật mình cười bẽn lẽn ý như biết lỗi. Nàng lại chăm chú xoi tim những hạt sen trắng, rồi đặt chúng trong thố nước mưa trước mặt. Hạt sen này, phu nhân phải cho người nói trước với quan Ngự Thiện trong cung mới có, bởi đó là giống sen bách diệp ở hồ Tịnh Tâm, vừa thơm vừa bổ, chỉ dùng riêng cho nhà vua. Nhưng vua Tự Đức thường nghĩ đến anh em chú bác của người, nên với những đặc sản được dâng tiến vào Đại nội, người dặn rằng các phủ đệ ai cần thì cho phép nói trước với Ngự Thiện để dành phần cho.

    Tối nay, rằm tháng sáu, Tùng Thiện Công mở tiệc xem hoa thưởng trăng trong Ký Thưởng Viên. Hơn một năm nay, kể từ ngày TùngThiện Công và Tuy Lý Công - hai ông hoàng nổi tiếng thơ hay - cùng nhau lập ra Mặc Vân thi xã, vườn hoa của hai phủ đã thay phiên nhau làm chỗ tao ngộ của giai nhân tài tử chốn kinh thành. Tài tử thì có Nguyễn Hàm Ninh, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát... giai nhân thì hàng đầu phải kể đến ba nàng công chúa em cùng mẹ của Tùng Thiện Công là Mai Am, Nguyệt Đình và Huệ Phố. Tiếp đến là nàng họ Hà, thứ thiếp của Tùng Thiện Công: nàng có vóc người óng ả, lúc nào cũng chỉ mặc đơn sơ chiếc áo tơ tằm mầu nguyệt bạch, khuôn mặt không phấn son, chỉ vẽ qua nét mày thanh tú. Tùng Thiện Công sủng ái nàng, đặt cho nàng cái tên là Uyên Sồ - con chim uyên non. Theo người xưa thì chim uyên ương sống thành đôi tương đắc với nhau, con mái gọi là uyên, con trống gọi là ương. Một giai nhân tài sắc nữa. là Đẩu Nương, một danh cầm. Vốn nguyên Đẩu Nương là con một kép hát ở An Cựu. Xuất thân thấp hèn, nhưng ở đây, Tùng Thiện Công giao kết với bạn thi ca không dựa trên địa vị, mà chỉ căn cứ vào chữ tâm, chữ tài. Vì vậy Đẩu Nương là khách quý của công phủ, không buổi họp nào vắng bóng nàng.

    Danh sĩ đến Ký Thưởng Viên vì quý mến Tùng Thiện Công, vì say tiếng hát, câu thơ, vì các giai nhân trong bữa tiệc xem hoa, nhưng còn vì một bóng hình chìm khuất bên trong những lớp cửa bàng khoa dày chắc: nàng Thể Cúc mười bảy tuổi, tiểu thư ngàn vàng của công phủ, nghe đâu vừa đẹp vừa hiền. Nhiều lần Tùng Thiện Công cao hứng lên định gọi con gái ra chào khách, mục đích là để khoe với danh sĩ ở kinh thành cô con gái rượu mà ngài cưng chiều như hoa như ngọc. Nhưng lần nào Tùng Thiện phu nhân cũng khăng khăng không chịu:
    - Con gái khuê các, có đâu lại chường mặt ra giữa ba quân thiên hạ như thế!
    Tùng Thiện Công cười:
    - Phu nhân không biết ý ta đó thôi. Tiệc rượu thưởng trăng này quy tụ bao nhiêu danh sĩ của kinh thành. Ta nhân đây mà kén rể, lo gì chẳng gặp người tài tuấn.
    Phu nhân vẫn cương quyết không đổi ý:
    - Dù có Trạng Nguyên Bảng Nhãn tới đây đi nữa, cũng phải đủ sáu lễ nạp thái nghênh hôn rồi mới được thấy mặt con gái tôi. Ngày xưa tôi lấy ông, làm lễ tơ hồng mới nhìn rõ mặt. Xưa vậy thì nay cũng vậy, không bỏ phép nhà được đâu.
    Tùng Thiện Công đành chiều ý phu nhân. Vì vậy trong khi giai nhân tài tử dập dìu bên tiệc hoa ngoài vườn Mặc Lan, thì Thể Cúc chỉ được quanh quẩn bên mẹ, trông coi cho thị nữ bưng nước, pha trà. Từ chỗ nàng ngồi, Thể Cúc có tò mò nhìn xuyên qua những cây dâu tiên và cây thanh trà xanh mượt trong vườn cũng chỉ thấy thấp thoáng nhưng bóng áo xanh, áo đỏ xa xa bên hồ vọng nguyệt.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tàn tiệc, khách về rồi, Tùng Thiện phu nhân dặn Thể Cúc trông coi kẻ hầu dọn dẹp, rồi quay về phòng riêng nghỉ ngơi. Thể Cúc vâng dạ. Dọn rửa không phải là chuyện đáng lưu tâm, đã có người ăn kẻ ở nhưng Tùng Thiện phu nhân là người chu đáo đến mức nghiêm khắc trong việc nội trợ. Hơn nữa, trong số bát đĩa dùng trong tiệc có hơn bốn mươi chiếc là đồ sứ ký kiểu tận bên Tàu do Đức Thiệu Trị ngày trước ban cho.
    Thể Cúc đang trông coi mọi việc thì cha nàng bước vào, trên tay cầm một tờ giấy hoa tiên. Vừa nhìn thấy, Thể Cúc đỏ mặt lên, nàng ngượng ngùng đưa hai bàn tay nhỏ nhắn lên che mặt. Tùng Thiện Công vuốt tóc con:
    - Mấy câu này của con có khí vị phong nhã diễm lệ, cha đem cho Đẩu Nương ngâm, quan khách ai cũng khen, kể cả bà cô Mai Am của con vốn rất khó tính!
    Thể Cúc càng đỏ mặt, nàng thỏ thẻ: "Ôi! Sao cha... Cha làm thế người ta cười con chết mất thôi. Mẹ con mà biết, thế nào người cũng rầy la con".
    Tùng Thiện Công khoát tay: "Ôi, mẹ con cũng là người mê thơ, ngại gì? Mê thơ đến nỗi cách nấu mấy món ăn bà ấy cũng đem soạn thành thơ tứ tuyệt!" "Cha ơi, thơ ngâm hoa vịnh nguyệt, mẹ con không thích! Đêm qua thấy trăng sáng quá, con cảm hứng viết đôi lời, không ngờ cha nhìn thấy".
    Tùng Thiện Công nắm tay con dắt lên thư phòng. Thể Cúc khép nép đứng hầu cha bên chiếc trường kỷ, nhưng Tùng Thiện Công nhất định bắt con ngồi xuống cạnh mình.
    Ngài lấy mấy tờ giấy hoa tiên khác, đưa cho Thể Cúc:
    - Có mấy bài họa lại đây, con hãy xem thử, bài nào con đắc ý nhất.
    Thể Cúc thẹn thò: "Ôi, con biết gì đâu, xin cha giảng giải cho con!" Tùng Thiện Công chỉ cười, rồi khoát tay ra hiệu cho con lui. Thể Cúc nhẹ chân rón rén cầm mấy tờ hoa tiên xuống thềm rồi khoan thai đi ngược hành lang về phòng khuê.
    Đêm ấy nàng cứ trăn trở không sao yên giấc. Trăng soi qua rèm thưa, chiếu sáng lên chiếc giường phủ lụa thơm. Ánh trăng đủ sáng để Thể Cúc đọc tới đọc lui mấy vần thơ của ai đó. Như có cơ duyên, nàng vừa đọc đã như nhìn thấy người ấy ngay trước mắt...
    Tùng Thiện phu nhân là người ít ngủ, đêm nào cũng trở dậy vài lần đi xem xét khắp dinh cơ. Nghe tiếng trở mình trong phòng con gái, bà bước vào, vén bức rèm the:
    - Thể Cúc, con chưa ngủ sao?
    Thể Cúc giật mình giấu vội tờ thơ dưới gối. Nàng nũng nịu:
    - Cây hoa mộc ngoài vườn thơm quá, làm con không sao nhắm mắt, mẹ ơi!

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cả công phủ rộn rịp tưng bừng, tiếng đàn tiếng hát véo von đón mừng quan khách. Hôm nay là ngày cưới của Thể Cúc! Hoa đèn kết rực rỡ từ ngoài cổng vào đến thềm tòa nhà Bạch Bí, nơi ở của đàn bà con gái trong phủ. Ai nấy đều hớn hở vui cười, riêng Tùng Thiện phu nhân vẻ mặt rầu rầu suốt từ sáng đến giờ chẳng hé miệng. Tuy không được vui lòng, nhưng vốn là người nghiêm cẩn, bà vẫn gượng giấu vẻ buồn.

    Khi Tùng Thiện Công quyết ý gả con cho Đoàn Trưng bà đã vâng lời ngay, không lời ra tiếng vào. Bà nghĩ việc gả bán con là quyền của chồng, đức ngài lại rất yêu con gái, ngài đã chọn ai tất phải là người xứng đáng. Hơn một năm kể từ ngày nạp lễ vấn danh, cứ mỗi lần kỵ giỗ, có mặt đầy đủ phu nhân các vương công đại thần ở điện Phụng Tiên là bà phải nghe những lời thì thầm:
    - Lệnh Công và phu nhân nghĩ sao lại gả tiểu thư cho anh chàng thư sinh mặt trắng ấy? Thiếu gì Trạng Nguyên, Bảng Nhãn ước ao mong làm rể quý phủ. Phu nhân mà không vội nhận lời người ta, thì tôi đã đứng ra làm mối tiểu thư cho cậu Cả con quan tam phẩm Trương Cửu Nghi...
    Phu nhân Tùng Thiện Công chỉ cười cảm tạ:
    - Cảm ơn phu nhân có lòng thương cháu. Nhưng việc này Đức Ngài đã quyết phu xướng phụ tùy, tôi đâu dám bàn ngang.
    Trong thâm tâm bà cũng một lòng một dạ nghĩ như chồng: chàng họ Đoàn ấy tuy là con nhà dân dã, nhưng tướng mạo khôi ngô, tài học lại thông tuệ, nhất là chí khí tỏ ra hơn người. Thế còn hơn trao con vào một tay công tử cậy quyền cậy thế, hư đốn rong chơi, hay một cử nhân, tiến sĩ chỉ biết tầm chương trích cú, khiếp nhược cầu danh? Cứ cách ba năm lại có khoa thi, Đoàn Trưng đã có tài thì lo gì tương lai không rộng mở?

    Trong khi Tùng Thiện phu nhân yên lòng theo ý chồng thì Uyên Sồ lại lo lắng. Có lần nhân khi chén rượu cuộc cờ, thấy Tùng Thiện Công vui vẻ, nàng khéo gợi chuyện hôn nhân của Thể Cúc rồi thăm dò:
    - Kể về trai tài gái sắc thì họ Đoàn với Thể Cúc xứng đôi vừa lứa. Chỉ e là...
    - E là sao? Nàng cứ nói đi, đừng ngại.
    Uyên Sồ mỉm cười. Tùng Thiện Công lúc nào cũng thích nghe giọng nói của nàng, giọng của con uyên non.
    - Thiếp chỉ e nhà họ Đoàn ấy thanh bạch quá, Thể Cúc quen an nhàn nơi công phủ về đó e không chịu nổi vất vả...
    Tùng Thiện Công đón lấy tách trà bát tửu từ tay người đẹp nhấp một ngụm rồi gật đầu:
    - Nàng lo thế là phải. Nhưng ta có ý của ta. Đoàn Trưng rất có tài, chỉ tội nhà không giàu có, lại ở quê xa. Ta dựng nên mối nhân duyên này là cốt để hai anh em họ Đoàn có chỗ dựa mà dùi mài kinh sử, chờ dịp tiến thân với đời. Vì vậy, hắn sẽ ở rể tại nhà ta, chứ đời nào ta để con ta về nhà họ!
    Quả thực Tùng Thiện Công không hiểu sao lại có một tình cảm sâu đậm với chàng trẻ tuổi này từ khi mới gặp. Sinh trong cung vua, cả đời sống trong nhung lụa, nhưng ông hoàng tử này lại có tấm lòng gần gũi với những người dân nghèo lam lũ. Một lần trong tiệc thơ, ông đọc bài thơ Tiền trầu của mình:

    Thân tuy còn, nhà đã tan
    Mình ra khỏi ngục, vợ sang nhà người
    Miệng nhai trầu, bế con côi
    Cùng chồng ly biệt lệ rơi bên đường!


    Cả tiệc thơ ai cũng chau mày thương cảm, xót xa cho cảnh ngộ người đàn bà trong thơ. Chỉ riêng chàng trai họ Đoàn nghe xong đã không buồn thương, lại còn cười khanh khách. Uyên Sồ bắt bẻ:
    - Chàng trai kia, người có lòng sắt dạ đá hay sao, nghe cảnh thương tâm thế mà còn cười được?
    Đoàn Trưng nghe vậy chẳng áy náy, còn cười to thêm. Chàng bảo:
    - Lệnh công ngồi trong đền vàng, lâu lâu ra ngoài nghe kể đôi chuyện nên mới chau mày rơi lụy. Còn tại hạ là kẻ thường dân sống nơi thôn dã, chuyện quan lính, hào lý bức hiếp dân xảy ra như cơm bữa, nếu mỗi lần nghe mỗi lần khóc thì e đến nay tại hạ đã tan thành nước rồi! Xin hỏi phu nhân, ta ngồi đây, chung quanh toàn là kỳ hoa dị thảo, chén bát toàn là đồ trân quý, bánh trái, rượu trà toàn thức hảo hạng, ta cứ làm thơ mà giúp dân bớt khổ được sao?

    Uyên Sồ không ngờ chàng trai lại nói dõng dạc như thế, chưa biết đối đáp như thế nào để vừa trị cho chàng ta cái tội láo xược, mà vừa khỏi mang tiếng là không quý khách. Những người trong tiệc đều có ý không bằng lòng, chỉ quan Hàn Lâm Nguyễn Hàm Ninh là cả cười, gật gật đầu: "Hắn ta nói cũng có lý đấy chứ?" "Nhưng mà vô lễ quá!" Một người khác chen vào. Giữa lúc mọi người còn xôn xao thì Tùng Thiện Công đã đứng dậy, lại gần... ông rót một chén rượu, tự tay mời chàng trai, mặt ông phảng phất một nụ cười hiền từ... Ông bảo: "Khổng Tử đã dạy "Hậu sinh khả úy", nên sợ kẻ sinh sau! Này chàng trẻ tuổi, nghe thơ ta hôm nay, chỉ có mình anh là hiểu được lòng ta!"

    Ý định gả Thể Cúc bắt đầu nảy sinh trong lòng Tùng Thiện Công từ đó. Về sau này, ông thường xuyên cho lính về An Truyền mời chàng lên phủ chơi. Mỗi lần đến chàng chỉ mặc bộ áo nâu buộc thắt lưng gọn gàng, tay xách theo một cút rượu làng Chuồn, nồng và đượm, từ lâu đã nổi tiếng ngon trong dân gian.

    Điều mà Tùng Thiện Công lẫn phu nhân không nghĩ tới là nhà họ Đoàn không chịu gửi rể! Không ngờ Đoàn Trưng ngang tàng phóng khoáng thế mà lại có bà mẹ rất nghiêm khắc. Lần đầu đến công phủ bà chỉ mặc một chiếc áo vải mầu nâu đơn giản, vẻ mặt nghiêm nghị, chẳng tỏ vẻ gì vui mừng quỵ lụy vì được kết thông gia với một nhà quyền quý bậc nhất trong cả nước. Điềm đạm bà bảo:
    - Đức ngài và phu nhân có lòng thương mến con trai tôi, muốn kết duyên lành, tôi đâu dám không lãnh ý. Nhưng xưa nay theo đạo thường, gái phải theo chồng mới hợp lẽ. Gia cảnh chúng tôi tuy bần bạc, nhưng quyết không để con trai tôi nương nhờ quý phủ, để mang tiếng với người đời là trai ở nhà vợ...
    Đoàn mẫu vì lễ phép mà dừng lời ngang đó, nhưng cũng để người ta nhớ đến câu tục ngữ Trai ở nhà vợ như chó ở gầm chạn. Đoàn mẫu về rồi, cả khu nhà Bạch Bí xôn xao. Bà Tiểu Bạch, vợ thứ của Tùng Thiện Công, vừa nghe câu chuyện đã chau mày, nhả vội miếng trầu đang nhai vào chiếc ống phóng đồng:
    - Cha chả, cái bà ấy chẳng biết chi là trời cao đất rộng. Họ đã làm bộ làm tịch thế, chúng ta cần chi mà phải cầu! Cái gã thư sinh ấy thì có đáng kể gì so với nhà ta?
    Người buồn nhất chắc chắn là bà Nguyên Cơ. Bà không muốn xa con, không muốn con làm dâu vất vả trong nhà người. Giữ đạo vợ nên bà không dám trái ý chồng, nhưng cũng thầm mong đức ngài bãi bỏ chuyện hôn nhân kia. Ai ngờ, Tùng Thiện Công chỉ vuốt râu cười:
    - Thế mà người ta thường bảo: "Đàn ông nông nổi giếng khơi, đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu". Ta thấy bà mẹ này thật có khí phách hơn người, ta rất trọng nể! Xuất phủ về nhà họ Đoàn thì đã sao? Lấy chồng thì phải theo chồng, chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo. Từ xưa đã thế!
    Vậy là đám cưới Thể Cúc vẫn y theo ngày đã định.
    Tùng Thiện phu nhân hầu như giao cho bà Tiểu Bạch lo toan mọi việc. Hơn hai tháng trước ngày nghênh hôn, bà bắt Thể Cúc luôn ở bên mình, chăm lo, rèn sửa cho nàng từ nết ăn, nết ở. Phần lớn thời gian còn lại bà ở trong phòng, chẳng biết làm gì mà cứ thui thủi một mình.

    Hôm nay thì Thể Cúc sắp đi rồi! Dưới bến sông, chiếc thuyền rước dâu đang chờ sẵn. Tùng Thiện phu nhân vào phòng con. Thể Cúc đội khăn vành, khoác áo gấm xanh, khuôn mặt non tơ lần đầu được trang điểm phấn son. Thấy mẹ vào, nước mắt nàng chảy quanh.
    - Đừng khóc con ạ! Gái lớn thì phải xuất giá, ai chẳng thế? Mẹ dặn con, đã đi lấy chồng thì phải trọn đạo vợ. Bổn phận làm dâu thì trước hết phải thờ cha mẹ chồng cho trọn vẹn! Nay mẹ cho con, trong gói này là số vàng hồi môn của con, trên đường đi nhớ giao cho con Hồng cất giữ, tính nó cẩn thận, chu đáo. Còn đây là cuốn Thực phổ bách thiên, gần một trăm món ăn mẹ soạn thành một trăm bài văn vần để con dễ đọc dễ nhớ. Mấy tháng nay mẹ cố hoàn thành cho kịp ngày con vu quy. Mẹ mong sao đây là cuốn cẩm nang để giúp con sau này lo cho chồng, cho mẹ chồng, rồi truyền dạy cho con cháu mai sau!
    Thể Cúc đón lấy cuốn sách từ trong tay mẹ, nàng xúc động khóc ngất đi, hai tỳ nữ phải kèm hai bên dìu ra nhà ngoài làm lễ. Pháo nổ vang, xác pháo hồng rơi rắc khắp khu Tiêu Viên tráng lệ. Xong lễ, đoàn người đưa dâu với đèn lọng rực rỡ đi qua Ký Thưởng Viên rồi xuống thuyền hoa ngược ra sông Hương xuôi về làng An Truyền.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ba năm sau... Nhà họ Đoàn từ ngày có nàng dâu cành vàng lá ngọc cũng vẫn nếp sống như xưa. Tùng Thiện Công và phu nhân đã cho con gái nhiều của hồi môn, ý định cho đôi vợ chồng dùng của ấy mà xây cất lại nhà cửa khang trang, cho Thể Cúc khỏi phải chịu kham khổ vì nơi ăn chốn ở. Nhưng Đoàn mẫu khăng khăng không chịu. Tính bà vốn khí khái đến mức có khi gàn dở. Tuy Thể Cúc không phải con vua, nhưng ở làng An Truyền xa xôi này, người ta xem nàng tôn quý chẳng khác gì bà chúa. Mà cái cảnh ngộ những nhà quan cưới công chúa về làm dâu thì ai cũng biết rồi, dân gian đã đặt câu vè để giễu: Chân giày, chân dép vô ra. Kêu dâu cũng lỡ, kêu bà khó kêu. Đỏng đảnh như tinh đầu đèo... Huống chi, nhà họ Đoàn là nhà bạch đinh! Cũng vì mấy câu vè ấy ám ảnh mà Đoàn mẫu quyết không để cho người trong xóm trong làng cười chế mình là kẻ cầu danh hám lợi.

    Thể Cúc cũng chiều ý bà, từ cảnh nhung lụa trong công phủ nàng vui vẻ chấp nhận sống trong căn nhà tranh ba gian hai chái. Những nữ tỳ theo hầu, nàng cũng chiều theo ý mẹ chồng cho về phủ hết, chỉ giữ lại con Hồng để đỡ tay đỡ chân nhất là khi nàng sinh đứa con đầu lòng. Theo lệ con so về nhà mẹ nên Đoàn mẫu vui lòng cho nàng về công phủ để sinh nở. Con đầu lòng của nàng là con trai. Nàng muốn Đức vương đặt tên cho nó, nhưng ngài bảo cha phải đặt tên cho con thế mới đúng. Đoàn Trưng ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
    - Ta đặt tên con là Khởi, nghĩa là đứng dậy. Tùng Thiện phu nhân nghe cái tên của cháu ngoại, chẳng hiểu sao chợt hồi hộp, phấp phỏng không yên. Bà bảo:
    - Lệ thường khôn lớn mới gọi bằng tên, nay cháu còn nhỏ, ta hãy đặt một cái tên xấu xấu, để cho quỷ thần chê mà không quở đến.
    Thế rồi người nhà gọi thằng bé là Ngáo.
    Hết ba tháng mười ngày, Thể Cúc thu xếp đưa con về lại nhà chồng. Từ giã cảnh giàu sang về nơi thanh bần đạm bạc, nhưng lần này nàng dường như nóng ruột muốn về... Thấy mẹ cố giấu làn nước mắt rưng rưng sau vẻ mặt trang nghiêm, nàng thương mẹ quá. "Mẹ ơi! Đừng lo cho con, con sống nơi dân dã đã quen rồi!" Nàng nói như an ủi mẹ. Tự thâm tâm, nàng nghĩ: "Giờ đây ở nơi nào đi nữa, khổ bao nhiêu ta cũng thấy vui sướng, miễn là được sống bên chàng!"

    Giờ thì cu Ngáo sắp lên ba. Nàng đưa thằng bé cho con Hồng bế đi chơi trong xóm. Phần nàng đang ở trong bếp, chế biến mấy món ăn mà Đoàn Trưng yêu thích. Thể Cúc bây giờ đã thuộc nằm lòng những câu nói vần trong cuốn sách mà mẹ nàng trao tặng. Canh bầu mùi thích lá hanh hao. Cho biết rau hành bỏ bí đao. Hầm mít lại ưa sân với lốt. Bí ngô thời phải tỏi gia vào. Có lẽ dự đoán trước con gái mình sẽ sống thế nào, Tùng Thiện phu nhân chỉ soạn ra có hơn ba mươi món là thức ăn sang trọng dùng trong ngày lễ tiệc kỵ giỗ, còn lại là tất cả món ăn thường trong dân gian. Hồi chiều, nghe chồng bảo đến tối có anh em bạn bè của chàng đến chơi nên Thể Cúc lo soạn sẵn cơm rượu. Chỉ có mấy món đơn sơ, nhưng nàng nêm nấu thực kỳ công, mong sao chồng được vui lòng.

    Bày dọn sẵn, nàng lui vào phòng trong, dỗ con ngủ rồi lên ngồi cạnh mẹ chồng. Đoàn mẫu dạo này đã yếu lắm rồi, mắt nhìn không rõ nữa, nhưng tai vẫn rất thính. Bà sờ soạng cầm tay Thể Cúc, nhướng mắt lên:
    - Con à, mẹ thấy có tiếng ai lạ phải không? Tiếng thằng Trưng, thằng Trực, thằng Ái, sư Quý, sư Viên thì ta nhận ra rồi. Còn giọng ai mới tới nữa?
    Thể Cúc nhỏ nhẹ:
    - Dạ, có hai người lạ. Con không ra phía trước nên không biết là ai. Bữa qua con nghe chồng con nói, mới kết giao được hai người bạn là Tôn Thất Cúc, quan Hữu quân ở điện Càn Thành và Nguyễn Tăng Hựu hình như làm chức Suất đội thì phải.
    Đoàn mẫu nghĩ ngợi một lúc rồi bảo:
    - Con ta xưa nay rất ghét bon chen kết thân với chỗ quan quyền, sao nay lại quen với người của triều đình? Ta nghe nói lão Hựu này là quan trông coi dân phu xây lăng vua ở Vạn Niên. Bọn quan lại ấy rất tàn độc, người làng ta bị chúng bắt đi, hành hạ đánh đập rất dã man, nhiều người chịu không nổi mà chết oan.
    Thể Cúc vừa đấm lưng cho Đoàn mẫu vừa kể: "Nghe chồng con nói, quan Suất đội bảo là lệnh Hoàng Thượng truyền xây lăng trong sáu năm, nhưng vì quan Thống Chế Nguyễn Văn Chất muốn lập công cứ khăng khăng tâu lên vua là chỉ cần ba năm cũng đủ. Vì vậy mà dân phu phải làm đêm làm ngày không nghỉ. Việc này, có lẽ chính Hoàng Thượng cũng không được biết!
    Đoàn mẫu thở dài. Một đời làm dân bà đã chứng kiến biết bao nhiêu điều cơ cực. Nhưng chưa bao giờ dân khổ bằng lúc này! Bà bảo:
    - Mỗi khi về thăm, con nên bẩm với Đức Ngài đem những nạn ách của dân mà tâu lên Hoàng Thượng, họa chăng Người nhìn thấu mà mở lượng cho dân được nhờ.
    Thể Cúc ngập ngừng, không nói. Thực ra từ trước, khi triều đình chưa khởi công xây Vạn Niên Cơ, Tùng Thiện Công đã biết được nhiều nỗi cay đắng của người dân. Không cay đắng sao được, người Pháp đã đánh vào miền nam, ba tỉnh miền đông đã cắt đứt cho chúng. Ba tỉnh miền tây, vựa lúa của cả nước cũng đang trở thành miếng mồi thơm, chẳng biết còn mất lúc nào. Tiền tài vật lực đều dồn cho việc chiến trận, trăm thứ trăm thiếu, giặc giã nổi lên như ong... Chứng kiến bao nhiêu cảnh ngộ nhưng Tùng Thiện Công vốn bản tính hiền hậu, ông chỉ biết đưa tấm lòng mình vào thơ chứ chẳng dám tâu trình với vua. Mà muốn tâu trình e cũng khó, vì từ thời Đức Minh Mạng lên ngôi, ngài lại muốn hạn chế quyền lực của các hoàng thân nên đã đặt ra lệ các hoàng thân quốc thích tuyệt đối không được giữ binh quyền, làm quan chức, không được tham dự, bàn tán vào việc triều chính. Trải mấy đời lệ ấy đã thành quen, không ai dám trái.

    Đêm ấy Đoàn mẫu ngủ yên giấc rồi, Thể Cúc trở về nằm bên con thao thức. Tiếng Đoàn Trưng và các bạn của chàng nói chuyện ở ngoài vườn xa, nàng chẳng nghe được gì. Nhưng nàng cũng nhận ra là hôm nay họ không ngâm thơ. Uống rượu mà lại chẳng ngâm thơ, chẳng biết họ nói với nhau những gì mà quá canh ba tiệc vẫn chưa tan?
    Xa xa đã có tiếng gà mới thấy Đoàn Trưng trở vào ngả lưng bên nàng. Thể Cúc trở dậy, giặt khăn nước mát lau mặt cho chồng. "Hôm nay chàng uống nhiều quá!" Nàng khẽ trách, giọng nàng dịu dàng, âu yếm. Đoàn Trưng nằm yên, chàng nắm lấy tay vợ, nhìn thẳng vào mắt nàng như muốn nói điều gì quan trọng lắm. Thể Cúc cầm quạt, quạt mát cho chồng, khẽ hỏi:
    - Có việc gì sao chàng chẳng nói cho thiếp nghe?
    Đoàn Trưng mỉm cười, chàng lắc đầu. Rồi chợt chàng cầm chiếc quạt nan trong tay vợ, kéo nàng nằm xuống bên mình:
    - Để anh quạt cho. Em đã vất vả cả ngày rồi. Mấy hôm nay mạ yếu mệt có làm khó cho em lắm không?
    Thể Cúc cười sung sướng. "Không, mạ thương em nhiều lắm". Luồng gió từ tay chồng quạt mát cả tâm can nàng, nàng chìm dần vào giấc ngủ.
    Nhưng đến gần sáng thức dậy, nàng thấy Đoàn Trưng đang ngồi quay mặt ra vườn, đăm đăm ngó ánh trăng tàn ngoài liếp cửa.
    Thì ra suốt đêm, chàng không ngủ! Thấy chồng đăm chiêu, nàng không dám gọi, chỉ len lén bước tới sau lưng chàng. Vừa lúc đó như nghĩ đến một việc gì, chàng nghiến răng buột miệng nói lớn:
    - Tàn bạo!
    Chàng đập mạnh tay vào án thư bên cạnh làm cái nghiên mực nẩy lên, mấy tờ giấy bay xuống đất.
    Thể Cúc sợ quá, nàng run rẩy, cúi xuống nhặt mấy tờ giấy. Trên những dòng chữ thảo đang được viết dở, nàng đọc thấy mấy chữ Trung nghĩa ca.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đoàn mẫu gắt, giọng khàn khàn:
    - Đã bảo đưa thằng cu vào đây cho bà!
    Thể Cúc bảo:
    - Không được đâu mẹ ạ! Nó mà vào nó lại phá không cho mẹ yên đâu! Mà con lại đang bận tay đây này...
    - Nhưng nó khóc đòi, bà nóng ruột lắm!
    Đoàn mẫu nằm sấp trên giường, áo kéo lên để lộ tấm lưng gầy với làn da khô héo lấm tấm đồi mồi. Thể Cúc ngồi cạnh, cầm bình nước nóng áp lên lưng mẹ chồng. Mấy hôm nay Đoàn mẫu lại bị chứng khớp từ vai xuống lưng đau nhức. Trong người ê ẩm nên bà sinh ra khó tính, gắt gỏng luôn. Thể Cúc thấy con khóc mếu ầm ĩ, vội quay ra bảo:
    - Hồng! Bồng em ra vườn mau lên!
    Con Hồng dỗ dành cu Ngáo, ôm thốc nó lên đưa đi, nhưng thằng bé không chịu, giãydddành đạch, oằn mình kêu ầm lên. Thể Cúc vừa lăn bình nước nóng vừa bảo:
    - Mặc nó, cứ đi đi, mau lên!
    Không ngờ Đoàn mẫu quay lại, hất mạnh tay nàng ra, gắt:
    - Ta đã bảo đem nó vào, sao các người chẳng đếm xỉa gì đến ta thế! Các người chẳng coi ta ra gì nữa sao?
    Thể Cúc ôn tồn:
    - Xin mẹ bớt nóng, mẹ đang yếu trong người, không thể để cháu vào quấy quả được
    Đoàn mẫu càng giận:
    - Phải rồi! Quyền ở cô! Cô là bà chúa, cô muốn làm gì thì làm!
    Lời nói cay chua của mẹ chồng làm Thể Cúc khựng lại, nàng không ngờ lại bị đối xử bất công như thế. Tủi thân quá, nàng òa lên khóc.
    Đoàn Tư Trực, em Đoàn Trưng, vừa đi đâu về, nghe thấy tiếng ồn ào liền chạy vào, can mẹ:
    - Mẹ khó tính thế? Chị cả có lỗi gì đâu mà mẹ cũng bắt ne bắt nét.
    Đoàn mẫu đang giận, thấy con nói ngang, cơn giận càng bốc lên như lửa. Người đang mệt, tinh thần bị tổn thương, thế là giây lát trợn mắt, chân tay run cầm cập, ngất đi.
    Thể Cúc và Tư Trực sợ quá xúm vào lay gọi. Con Hồng cuống quýt chạy đi mời Đoàn Trưng về. Cả nhà ra sức xoa bóp chân tay, giật tóc mai. Mãi Đoàn mẫu mới hồi tỉnh dần. Tư Trực bảo:
    - Mẹ bệnh, giận vui bất thường, hay là chị tạm lánh mặt một lát.
    Thể Cúc gật đầu xuống bếp ngồi sắc thuốc. Nàng cũng xúc động quá, bưng mặt khóc tỉ tê. Thấy chồng bước xuống, Thể Cúc phân trần:
    - Thiếp không có ý ngỗ ngược, mẹ trách oan cho thiếp.
    - Làm cho mẹ chết đi sống lại mà gọi là oan sao? - Đoàn Trưng gằn giọng.
    Thể Cúc không dám tin ở tai mình nữa. Sao có thể thế được? Người chồng hết mực thương yêu nàng sao giờ này lại hồ đồ và lạnh lùng với nàng như thế? Nàng nức nở:
    - Tôi ở với chàng bao nhiêu năm nay, tôi ăn ở có phải đạo không lẽ nào chàng chẳng biết? Sao hôm nay lại nói ép cho tôi? Hay là chàng đã thay lòng đổi dạ không còn thương thiếp nữa?
    Đoàn Trưng vẫn lạnh lùng không nói. Chàng đến bên giường Đoàn mẫu. Bà đã tỉnh lại, cơn đau khớp vẫn hành hạ bà, cộng thêm cảm giác bực bội sau cơn xô xát. Bà nói dấm dẳn:
    - Thôi anh không phải lo cho tôi nữa. Tôi cũng chẳng sống được bao lâu nữa đâu!
    Đoàn Trưng an ủi bà:
    - Xin mẹ tha thứ, đừng giận con mà thêm mệt mỏi trong người. Vợ con có lỗi bất kính với mẹ, không thể dung được, ngày mai con xin đưa trả về phủ.
    Đoàn Mẫu tuy khó tính nhưng không phải là người ác tâm, bà chưng hửng nghe con trai nói. Nó nói thật hay là nói để cho bà vui lòng? Bà vội can:
    - Thôi con, việc nhỏ trong nhà, sao đến nỗi phải làm to chuyện như thế?
    Nhưng Đoàn Trưng đã quyết, chàng khăng khăng không đổi ý. Thể Cúc sững sờ... cả trời đất đảo lộn trước mắt nàng. Nàng quỵ xuống, ôm mặt hồi lâu mới nói được mấy tiếng nghẹn ngào:
    - Chàng đã có ý ruồng bỏ, thiếp dù có gắng phân trần cũng chẳng ích gì, chỉ xin chàng cho thiếp đưa con theo về ngoại. Con còn nhỏ quá, để thiếp chăm lo. Đến bao giờ lớn lên thì quyền ở chàng!
    Nước mắt nàng ràn rụa ướt má. Cuộc hôn nhân của một thiên kim tiểu thư ở kinh thành, ai ngờ lại kết thúc bẽ bàng như thế! Đoàn Tư Trực động lòng, đưa mắt nhìn anh.
    Đoàn Trưng vẫn lạnh lùng không nói.
    Mấy hôm sau Thể Cúc ngược thuyền về dinh.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Từ hôm về lại phủ, Thể Cúc như người mất hồn, cứ thờ thẫn hết ra lại vào chẳng thiết làm gì mà cũng chẳng muốn nói năng với ai. Đã lấy chồng là thể giá ở nhà chồng, người đàn bà bị chồng bỏ, đem trả về cho cha mẹ, chẳng những không còn mặt mũi nào nhìn ai, mà cả cha mẹ cũng tủi hổ lây... Giá mà cha mẹ nàng cũng hống hách như các nhà quyền thế khác thì họ Đoàn khó mà ăn yên, ở yên cho được! Nhưng Tùng Thiện Công là người phúc hậu, không bao giờ vì hiềm riêng mà sinh thù oán. Ngài chỉ âm thầm buồn! Người đời vẫn thường bảo: "Gái chồng rẫy chẳng chứng nọ thì tật kia". Hay là con gái mình cậy thế xuất thân phú quý, xúc phạm đến gia tộc bên chồng? Trong lòng ông thầm trách chàng rể gàn, có gì sao không dạy vợ mà đang tay ruồng rẫy như thế!

    Tùng Thiện phu nhân thì tin chắc con mình không bao giờ là người không giữ đạo vợ, bà thầm trách chồng sao không có cặp mắt tinh đời, đem đứa con ngàn vàng gả cho thằng rể gàn dở nhẫn tâm! Tuy bà chẳng nói ra lời, nhưng Tùng Thiện Công vẫn cảm thấy sự trách cứ âm thầm của vợ, lòng ông vì thế cũng không nguôi. Giá cái đêm rằm tháng sáu ấy ông không bỗng dưng nghĩ đến việc chọn Đoàn Trưng làm rể, biết đâu duyên phận của Thể Cúc sẽ khác đi, yên ả hơn, an nhàn hơn!

    Hôm nay cũng đêm rằm... Tùng Thiện Công trong lòng miên man buồn, ngài lững thững bước xuống hành lang rộng nối sang khu Bạch Bí. Một bóng ai gầy gầy ngồi dựa cột, lặng thinh nhìn trăng. Ngài nhìn lại: chính là Thể Cúc.
    Nàng ngồi bó gối, tóc vẫn dài trùm lưng, trong tay cầm cuốn giấy đầy những chữ thảo. Tùng Thiện Công cầm lên, ánh trăng sáng đủ để ngài nhìn rõ. Ngài nhận ra nét chữ của Đoàn Trưng.
    - Trung nghĩa ca - Ngài lẩm bẩm rồi giở tiếp vào trang trong. Tùng Thiện Công đọc một lúc, bụng bảo dạ:
    - Chết chưa nó lại dám bình luận về việc của Hoàng thượng sao? Thể Cúc con không nên đưa cho ai đọc bài ca này. Để ta cầm về cất giữ cho con.
    Thể Cúc không nói gì, chỉ đưa mắt nhìn theo cha đang cầm cuốn giấy trở lên nhà, đôi mắt ảo não của nàng đầy vẻ tiếc nuối. Đó là những vần thơ của chồng nàng, khi chia tay nàng đã đem theo làm kỷ niệm. Dù chàng đã xử tệ, thì nàng cũng không thể quên con người chàng trong bao năm qua, con người mà nàng vừa yêu thương vừa kính nể.
    Đêm ấy Tùng Thiện Công thắp nến, đọc lui, đọc tới bài ca. Đôi vai gánh đá xương mòn. Mông trôn roi đánh chẳng còn mảnh da. Thì ra dân các vùng phụ cận kinh thành đang chịu cảnh khổ sở thế này đây! Vốn có lòng nhân hậu, Tùng Thiện Công suốt đêm không sao nhắm mắt.
    "Nước nhà còn nghiêng ngửa, dân đói nghèo, thiên tai đeo đẳng, đã thế còn bày cảnh ức hiếp dân... Một khi dân không chịu nổi nữa, họ nổi lên thì liệu cả hoàng thất có yên được mà ngồi trên thiên hạ hay không? Mà sao ta khiếp nhược thế, không dám tâu lên Hoàng Thượng!".
    Canh năm chưa rạng, Tùng Thiện Công đã trở dậy, gọi người hầu lấy nước súc miệng, rửa mặt. "Lấy cho ta chiếc áo chầu, ta muốn vào cung xin bệ kiến Hoàng Thượng".
    Ngài vừa xỏ tay vào chiếc áo rộng mầu đỏ thêu rồng bốn móng thì chợt nghe tiếng huyên náo ồn ào, rồi Uyên Sồ xô cửa chạy vào. Nàng Uyên Sồ thường bước đi êm như ru, vậy mà giờ đây chân đi lính quýnh, mặt tái ngắt không còn giọt máu:
    - Bẩm Tướng Công, nghe nói Đoàn Trưng nổi loạn, đêm qua đã kéo người vào cung xâm phạm Hoàng Thượng!
    Tùng Thiện Công kêu lên một tiếng hãi hùng. Trời tối sầm trước mắt. Ông chỉ kêu được một tiếng rồi ngã quỵ. Uyên Sồ chạy đến đỡ, nhưng rồi nàng cũng khuỵu xuống cạnh ông...

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đoàn Trưng không phải người nhất thời manh động, chàng đã sắp đặt trước rất chu đáo về việc lật đổ vua Tự Đức để phò Đinh Đạo, con trai của An Phong Công Hồng Bảo lên ngôi. Thật ra việc tôn phò Đinh Đạo đã nhiều người nghĩ tới, họ vốn là thủ hạ của An Phong Công ngày trước; Tự Đức lên ngôi đồng nghĩa với phái An Phong Công thất thế, lòng họ tất nhiên không khỏi uất ức. Cái án xử giảo dành cho An Phong Công làm xúc động nhiều quan chức trong triều, vì vậy trước đây những ai có cảm tình với Hồng Bảo thì nay lại có thiện ý với Đinh Đạo - con trai Hồng Bảo, sau khi cha chết đã bị buộc đổi sang họ Đinh là họ mẹ. Đoàn Trưng xuất thân dân dã, không phải thủ hạ của Hồng Bảo, chưa từng chịu ơn ăn lộc của nhà ai, chàng và các anh em đồng chí của chàng tôn phò Đinh Đạo vì đó là cách duy nhất để gạt Tự Đức ra khỏi guồng máy quốc gia. Cũng như phần lớn kẻ sĩ trong nước, chàng đã thất vọng vì thái độ nhu nhơ, khiếp nhược của hoàng đế đương thời trước sự hàm dọa của giặc Pháp. Càng thất vọng hơn khi guồng máy dân chủ ngày càng quan liêu, dân chúng khổ cực trăm đường. Nói gì đến những nơi xa xôi, ngay làng Dương Xuân cách kinh thành chưa đến nửa ngày đường, dân phu ở Vạn Niên ngày ngày tắm mình trong máu và nước mắt mà ở kinh thành vua quan nào ai để mắt đến!
    Chỉ có một cách: Thay đổi người cầm đầu đất nước. Mà muốn thực hiện điều đó thì phải dùng bạo lực.
    Nghĩ thế nên từ khi giao kết với Tôn Thất Cúc, người trông coi cấm binh trong Hoàng Thành, Đoàn Hữu Trưng, Đoàn Tư Trực thường xuyên đến gặp Nguyễn Tăng Hựu, Lê Văn Cơ, hai vị quan ở công trường Vạn Niên. Hai người này tuy làm quan nhưng thấy bọn Nguyễn Vân Chất, Nguyễn Văn Xa đày đọa dân phu quá tàn độc, họ rất căm phẫn! Cả hội cùng nhau chích máu ăn thề, quyết tâm làm việc lớn: Cứu nạn cho dân, mà cũng xoay chuyển luôn vận nước!

    Nửa đêm mồng tám tháng tám năm Bính Dần, dưới sự chỉ huy của nhóm Đoàn Trưng, Đoàn Trực, toàn bộ dân phu đói khổ ở Vạn Niên Cơ nhất tề nổi dậy, bắt trói Thống Chế Xa rồi mỗi người cầm một cái chày giã vôi, chạy thẳng vào cung cấm, quyết hạ bệ Tự Đức, phò hoàng tôn lên ngôi. Đã bao ngày bị đè đầu cỡi cổ, nay đã vùng lên được họ reo mừng rầm trời, xông thẳng vào cửa Ngọ Môn, khí thế như vũ bão. Hữu quân Tôn Thất Cúc làm nội ứng, mở cửa Đại Cung Môn, nhờ vậy quân khởi nghĩa nhanh chóng kéo nhau đến điện Càn Thành.
    Nghe tiếng hò la vang trời, Tự Đức trở dậy. Cung nữ, thái giám nhớn nhác chạy đến:
    - Nguy lắm rồi xin bệ hạ tạm lánh ra phía sau cung rồi tìm đường thoát đi.
    Tự Đức lật đật chạy vào sau nội tẩm. Người hầu đóng sập cửa Tả Sương lại, vừa đúng lúc quân nổi dậy ập vào:
    - Hôn quân trốn rồi, bỏ chạy rồi!
    Có tiếng ai đó nói lớn bên ngoài. Lại có tiếng một người khác:
    - Quân ta vây chặt bốn phía y chạy đường nào cho được? Chắc chỉ tạm trốn sau tẩm cung mà thôi!
    Đó là tiếng Đoàn Tư Trực đang chỉ huy quân khởi nghĩa.
    Tiếp đó là tiếng reo hò, tiếng chân người rầm rập, rồi hai cánh cửa bị xô thật mạnh. Tự Đức vẫn lánh phía sau, chỉ cần cánh cửa bật ra là một vương triều thay chủ. May sao cho Tự Đức, một thị vệ liều thân đứng chắn, hai tay ra sức đè hai cánh cửa, cố cưỡng lại sức xô từ ngoài vào. Hai cánh cửa lúc xô vào, lúc bật ra. Người thị vệ đang chắn cửa vẫn cố hết sức chống đỡ. Bỗng trong một phút cánh cửa hé ra rồi bật vào, một tai của chàng trai bị kẹp vào giữa hai cánh cửa, máu ứa ra ròng ròng nhỏ giọt.
    Nhà vua từ chỗ ẩn nấp nhìn ra trông chừng, thấy vậy hô vội mấy tên thái giám chạy ra giúp sức. Người thị vệ ấy thật dũng cảm, vành tai bị hai cánh cửa kẹp đứt lìa, máu tuôn ướt áo, vậy mà vẫn nghiến răng chịu đau đè chặt cửa không buông.
    Mấy cung nữ còn lại quanh vua xanh xám cả mặt mày. Bên ngoài đảng nghịch thì đông, chúng cứ nhất định phá cửa thì làm sao số người ít ỏi bên trong chống lại cho nổi? Cái chết đã đến gần trong gang tấc.
    Bỗng bên ngoài có tiếng huyên náo, có tiếng đao kiếm va chạm loảng xoảng, hơn nửa canh giờ chưa thôi. Rồi có tiếng ai đó quát lớn:
    - Bên trong hãy mở cửa ra! Chúng tôi là lính Kim Ngô đến cứu giá, đã trừ xong đảng giặc!
    Nhận được tín hiệu quen thuộc, chàng đội trưởng thị vệ buông tay, ngã lăn xuống đất ngất đi. Lúc này nhà vua mới nhận ra đó là Hồ Oai, Chưởng vệ đội quân Long Vũ trấn giữ Càn Thành.
    Trong thời gian hai bên giằng co trong ngoài cánh cửa, hai cánh quân Kim Ngô và Dực Trảo đã kịp đến vây đánh phía sau những người nổi dậy. Vốn là những người nghèo khổ, ốm yếu, không hề được tập luyện, họ không thể chống nổi sự đàn áp của quân lính, người chết tại chỗ, người chạy tháo thân. Đoàn Trưng và các thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa đều bị bắt!
    Cái tai bị đứt của Hồ Oai đã cứu vãn một triều vua.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Từ rạng sáng ngày mồng chín, dân kinh thành ai đi qua cửa Chính Đông đều nhìn thấy một ông già mình mặc áo xô, đầu chít khăn xô đang quỳ giữa đường, đầu đội sớ, mặt quay về phía hoàng cung. Đó là Tùng Thiện Công Miên Thẩm đang quỳ xin chịu tội: các án mà Đoàn Trưng gây ra không nhỏ, đó là tội phản nghịch, theo luật thì phải tru di ba họ: họ cha, họ mẹ, họ vợ.
    Hoàng Đế Tự Đức vừa thoát nạn lớn, khí chất ngài vốn ốm yếu lại bị xúc động mạnh nên ngày hôm ấy mình rồng không yên. Lại thêm đám loạn vừa dẹp tan, hoàng cung nhốn nháo, các quan vào ra xin thánh chỉ, nhà vua không lúc nào rảnh mà nghĩ tới tình cảnh ông chú ruột. Mãi đến chiều tối, trống thu không đã điểm, Tùng Thiện Công nhức nhối cả thân mình, muốn ngất đi mà không dám ngất, mới thấy một quan Thái Giám từ trong cung cỡi ngựa ra. Viên Thái Giám không đem chiếu chỉ của vua, chỉ truyền lệnh:
    - Hoàng Thượng truyền Hoàng Thúc cứ về nhà tạm nghỉ, công tội đâu đó sẽ định đoạt sau.
    Tùng Thiện Công gạt lệ, run run đứng lên, hai tay dâng sớ nhờ quan Thái Giám về dâng lên Thánh Thượng.
    Mấy ngày sau cả tòa phủ đệ ngập tràn không khí tang tóc. Ký Thưởng Viên lặng lẽ, hoa lá bơ phờ không ai chăm tưới. Trong khu nhà Bạch Bí luôn nghe tiếng khóc thút thít, trên những mặt người võ vàng là những đôi mắt sâu trõm vì lo sợ...

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quan tam phẩm Trương Cửu Nghi cỡi ngựa tiến vào, hai bên là đội quân thị vệ đội nón đỏ, mặc áo đỏ nẹp vàng. Cổng phủ mở rộng. Trong sân, cả nhà Tùng Thiện Công Miên Thẩm quỳ trước hương án, chờ nghe chiếu vua.
    Trương Cửu Nghi chưa vội truyền đọc, nhìn quanh một lượt xem có đủ mặt con trai con gái trong phủ không. Ông hắng giọng, nhìn quanh:
    - Có vợ và con của nghịch Trưng ở đây không?
    Tùng Thiện phu nhân đang quỳ, ngẩng mặt lên thưa:
    - Bẩm tiện nữ là vợ của kẻ nghịch, đã là tội nhân của triều đình nên chúng tôi đã cho trói giam riêng một nơi. Còn cháu thì đang ở đây chờ lệnh.
    Bà đưa mắt nhìn cu Ngáo đang được một thị tỳ bế quỳ bên cạnh. Thằng bé chẳng biết gì, hai tay cầm một chiếc ngù lông mầu xanh, vừa nghịch vừa cười. Ả thị tỳ vội giữ cái nắm ngù, nắm tay thằng bé chắp lại. Thằng bé ngước lên nhìn, đôi mắt hạt nhãn tròn xoe đen láy.
    Quan tam phẩm Trương Cửu Nghi truyền:
    - Cho gọi vợ nghịch Trưng ra quỳ nghe chiếu thư.
    Lát sau hai thị nữ xốc nách Thể Cúc ra. Nàng mặc áo trắng xõa tóc trên mặt chẳng còn chút khí sắc nào. Hai thị nữ vừa lơi tay thì hai đầu gối nàng sụm xuống, nàng quỳ gục đầu trên mặt đất.
    Trương Cửu Nghi bắt đầu truyền đọc chiếu vua:
    "... Nghịch Trưng đem lòng hung bạo, toan phạm đến Thánh Thể, tội ác ấy thực tày trời không thể nào dung thứ" Lòng người ai cũng oán ghét y, dù có mười lần đem giết cũng chưa xứng tội. Trẫm vốn lòng khoan thứ không muốn chấp kẻ vô loài nhưng phép nước rành rành, không thể để loạn mối giềng xã tắc. Nay theo Tam Pháp Ty nghị án, xử nghịch Trưng và đồng đảng thật nặng để làm gương.
    Đinh Đạo tuy không trực tiếp chủ xướng việc ác nghịch nhưng để cho đảng phạm lợi dụng, nay xử cho thắt cổ. Mẹ, vợ và các con cũng đều phải thắt cổ cho tuyệt mầm họa.
    Đoàn Hữu Trưng, Đoàn Tư Trực cùng bè đảng 13 người đều phải xử lăng trì, bêu đầu, gia sản sung vào công quỹ.
    Toàn gia họ Đoàn từ già đến trẻ đều xử trầm hà, không để sót ai. Riêng vợ của nghịch Trưng vì đã bị y đuổi về, tình nghĩa vợ chồng đã dứt nên tha cho tội chết. Tùng Thiện Công kén rể không tinh cũng đáng trách phạt. Lẽ ra thì phải cách hết chức tước, tịch thu gia sản. Nhưng Trẫm nghĩ tình hoàng thúc là người nghiêm cẩn, phúc hậu, vậy đặc cách tha cho mọi tội, chỉ cắt hết lương bổng trong tám năm. Vậy đủ thấy lòng thương mến của Trẫm đối với cốt nhục trong hoàng thất..."
    Chỉ truyền ra, cả nhà Tùng Thiện Công như trút được mối lo, ai nấy dập đầu bái tạ. Chỉ một mình Thể Cúc khóc rống lên, lết về phía quan truyền chiếu:
    - Xin đại quan bắt thiếp đi, cho thiếp được chết!
    Giờ đây nàng đã hiểu vì sao Đoàn Trưng đuổi nàng về phủ. Chàng đã lo trước những tai họa có thể xảy ra, và đã nghĩ đến con đường sống cho nàng! Nàng khóc nấc lên uất nghẹn:
    - Trời cao đất dày ơi? Chồng tôi trung nghĩa mà chết, tôi còn cầu sống làm chi nữa!
    Quan truyền chỉ cau mặt, hừ một tiếng:
    - Làm giặc mà còn tự xưng trung nghĩa! - Thấy Thể Cúc lê đến níu vạt áo mình, ngài rẫy mạnh ra, quát:
    - Ai chết, ai sống đã có lệnh vua! Tưởng muốn chết là được sao?
    Uyên Sồ và mấy thị nữ chạy ra lôi nàng lui.
    Họ kéo nàng đến trước án thư, sợ sệt khuyên nhủ:
    - Nhà vua tha tội chết cho tiểu thư, phải dập đầu tạ ơn Thể Cúc lắc đầu sặc lên khóc. Bỗng nàng nghe tiếng Tùng Thiện phu nhân tha thiết van lơn:
    - Con ơi, con thương cha, thương mẹ thì gắng quỳ xuống dập đầu đi con!
    Tiếng nói của mẹ nàng làm nàng tỉnh trí lại một chốc. Nàng gắng gượng khấu đầu lạy, Tiểu Bạch và Uyên Sồ dìu hai bên, đỡ nàng đứng lên, quỳ xuống, họ nói giùm nàng:
    - Tội nhân là Thể Cúc xin tạ ơn khoan hồng của Thánh Thượng!
    Như cái máy, nàng cũng nói theo: "... Tạ ơn khoan hồng của Thánh Thượng!" Rồi nàng khấu đầu lần cuối, và chợt thấy đất tối sầm như mở ra, sâu hút dưới chân nàng.
    Khi đứng dậy, Thể Cúc không còn nhớ gì nữa. Nàng đã mãi mãi trở thành một con người khác.
    Nhiều năm sau, đêm đêm những người sống gần tòa phủ thường nghe xa xa tiếng ru con rất thảm thiết. Họ thường đồn nhau là tiếng của ma cây đào, vì nghe chẳng giống tiếng người.
    Không ai biết đó là tiếng một người đàn bà điên được nuôi riêng trong một biệt phòng nơi khu nhà Bạch Bí.

    [/FONT]
     
    No MercY, LeTruongps and 5dola like this.
  10. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thế trận linh xà[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trần Hạ Tháp[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nơi đây gần như hoàn toàn hoang vắng. Chỉ thấy lau lách ngàn xanh, chập chùng núi dựng. Cảnh vật vừa âm u vừa hùng vĩ. Không phải bận bịu hàng hoá gì trong xe, tôi thong thả bước xuống giữa gió chiều lồng lộng. Ngày xưa... từng là chỗ bí mật luyện quân của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn. Nguyễn Huệ. Ráng đỏ trời chiều tưởng như oai linh còn hiển hiện đến bây giờ.

    Có tiếng động lạ lùng khó hiểu đâu đây. Thì ra, là tiếng... lạc bò. Một khoảnh đất rộng, khá bằng ẩn bên sườn đèo. Đàn bò chừng dăm, mười con đang bình thản tới lui gặm cỏ. Từng vỏ lon bia bị bóp méo một đầu, đeo ở đùi mỗi con. Bên trong thả cuội sỏi gì đó, khi lúc lắc loại lục lạc này vang lên âm thanh khô khan gây chú ý từ xa. Đây rồi... Một ông già đen điu rắn chắc ngồi lặng lẽ sườn non. Một cây roi quăn queo và chiếc nón rộng vành để ngửa...

    Thấy tôi tìm cách lại gần, ông già gật gù:
    - Xe cậu ngoài kia. Xe hỏng?
    - Vâng. Chào cụ.
    Tôi tìm tảng đá, ngồi gợi chuyện cho qua thời giờ. Ông cụ chừng bảy mươi rất mạnh và cô độc. Tôi nghĩ, một nơi thế nầy quá buồn. Ông cụ ít nói, có lẽ năm thì mười hoạ gặp người lạ chuyện trò nên thế. Đến khi vừa nghe tôi tự giới thiệu vài câu chiếu lệ, về công việc mình đang còn theo đuổi... ông cụ bỗng sáng mắt lên và lộ vẻ vui mừng rất đột ngột:
    - Tôi rất mong gặp những người như cậu. Xin cậu... giúp tôi.
    Chưa hiểu ông cụ muốn gì, tôi lại tần ngần nhìn quanh. Ông cụ lại nói ngay khiến tôi càng ngần ngại hơn vì sự thân mật sốt sắng này:
    - Mời cậu về nhà tôi nghỉ lại hẵng hay. Bây giờ thì xe chưa thể chạy được đâu. Sáng mai liệu không để cậu trật chuyến là được. Cứ tin tôi đi. Không việc gì bất trắc cả. Nhà tôi ở... trạm nghỉ của nhân viên quản lý đường đèo An Khê này đó. Gần đây thôi. Mái lá kia kìa...

    Thấy tôi vẫn im lặng, nét vui biến mất trên khuôn mặt ông cụ. Không hiểu sao, tôi lại nhận lời nhưng thật tình bày tỏ:
    - Không phải lo gì, thưa cụ. Chỉ vì chuyện gì đó của cụ chưa biết rõ làm sao hứa giúp? Vả lại việc viết lách báo chí như cỡ cháu chỉ là hạng xoàng. Nhưng,thì thôi.Cũng đến cụ vậy. Cứ coi như được tá túc nhà cụ đêm nay. Xin cảm ơn cụ trước.
    Trở lại xe báo cho mọi người đồng hành xong, tôi đeo xách tay nhẹ nhàng lên vai đi theo ông cụ chăn bò. Loong Koong... Loong Koong... Hướng thấp dần vào thung lũng ẩn khuất, cỏ lau xào xạc. Tiếng chân của người và thú bên nhau dồn dập đìu hiu. Núi vòi vọi vây quanh trùng điệp với lối mòn đất đỏ cheo leo. An Khê, nơi một thời ngoạ hổ tàng long.

    Con rể ông cụ là nhân viên trạm đèo vùng này. Là một trạm nghỉ tạm thì đúng hơn. Ông cụ cho biết thực ra nhà của họ dưới chân đèo chứ không phải ở đây. Công việc cụ được tập thể trạm giao cho là phát triển chăn nuôi. Loại kinh tế linh động, tận dụng môi trường đặc biệt vùng đèo. Dăm mười hôm cụ mới về thăm nhà một bận. Khi nghe tôi tỏ ý ái ngại về sức khoẻ người già như cụ lại phải lên xuống núi mỗi ngày - quả là công việc khó khăn... ông cụ bấy giờ rất vui, nói như đùa:
    - Trẻ mỏ luyện... quyền. Già leo núi. Không đổ chút mồ hôi ăn cơm không biết ngon. Các cậu ngày nay - Ông cụ phá ra cười, bỏ lửng câu nói thật lâu. Hình như không tiện với kiểu nói ấy, ông cụ bỗng nghiêm nghị hơn - Tuy chăn bò tập thể trạm để làm vui, nhưng mà riêng tôi, còn thêm một ý nghĩa rất... thiêng liêng, vẫn canh cánh bên lòng. Thật đấy.

    Trạm vắng người. Qua loa xong bữa tối đạm bạc thì trăng hiện ra đầy huyền ảo giữa núi đèo. Ông cụ bước tới gian giữa thắp nén nhang cắm vào liếp phên. Ba róng cây chắc nịch, gác ngang làm giàn treo bỏ đồ đạc. Bên trên có tấm vải điều đã quá cũ, bạc màu. Trịnh trọng vái xong mấy vái, ông cụ cẩn thận cất tấm vải đi. Hiện ra... Cái gì? Một phiến đá Thanh lớn nhưng đã... vỡ thành mấy mảnh. Tất cả chúng được đặt khớp vào nhau theo thứ tự nguyên hình. Phiến đá chừng sáu tấc dài, bốn tấc rộng, dày non tấc hơi mảnh mai theo hình khối hộp. Viền khung được tạc chung quanh. Ở ngay giữa lòng nổi lên ba chữ Hán chạm chân phương nét vô cùng sắc sảo. “Linh Xà Miếu”. Đây là loại biển chữ bằng đá Thanh xa xưa. Vua chúa vẫn thường cho chạm trổ gắn vào tiền đường các kiến trúc tôn quý. Tôi nhẩm mãi... Để chắc rằng mình vẫn chưa hề nghe, đọc thấy về một ngôi miếu như thế này bao giờ cả. Niên đại nào? Ở đâu?

    - Thì ra, cậu cũng đọc được tên miếu.
    - Cụ thu giữ vật này làm gì? Bây giờ thì miếu ở đâu? Thưa cụ, nói thực kiến thức cháu cạn hẹp - Tôi lờ mờ đoán hiểu ý muốn của ông cụ - ắt khiến cụ lại nhọc công. Cháu chưa từng nghe, biết đến miếu này.
    - Ồ, không - Ông cụ lắc đầu xua đi - Làm sao cậu rành được chuyện bí ẩn dòng họ Bùi nhà tôi. Cậu chỉ nghe là... đủ. Là coi như giúp tôi. Còn tin hay không tuỳ cậu. Ngày xưa... Chừng vào thời Hậu Lê. Dòng họ Bùi nhà tôi vốn từ một tỉnh phía Bắc vào đây.

    Cụ tổ họ Bùi di cư vào nam sinh cơ lập nghiệp. Cụ chỉ ở quanh quẩn vùng đất ngày nay là Bình Định - Quy Nhơn. Đến cụ tổ đời thứ hai sinh toàn gái, sau mới có một út trai nối dòng. Đời thứ nhất đốt than quá vất vả. Cụ tổ đời thứ hai chuyển sang nghề buôn muối biển lên rừng, đổi lấy hàng hoá đem về. Thời bấy giờ không phải ai cũng làm được việc nầy vì không chỉ gian lao mà còn vô cùng nguy hiểm. Cọp dữ đã nhiều, giặc cướp còn nhiều hơn. Bà cụ tổ đời thứ hai là gái Bình Định, võ nghệ rất cao cường. Khi lấy chồng, bà chọn nghề buôn muối để mưu sinh.
    Mỗi chuyến đi thường nửa tháng xa nhà. Khác với người ta, họ đem theo cậu út trai khi vừa lên chín tuổi. Cụ tổ Út, khi ấy đã tạm thông thạo vài thứ côn quyền nhập môn. Các cụ đem theo con để khỏi nhớ, đồng thời gọi là khỏi trễ nải việc truyền nghề bên lưng. Đoàn buôn muối cứ thế... Một thời chẳng biết sợ ai. Cuộc làm ăn ngày càng nên sự nghiệp.

    Đó là lúc Chúa Nguyễn ở Đàng Trong bị quyền thần Trương Phúc Loan làm hại. Dân tình ta thán. Giặc cướp như ong.
    Một hôm, đoàn buôn muối qua đây - nay là đèo An Khê - thì phát sinh sự cố. Hai kẻ đón đường xuất hiện, đưa ra thách thức hết sức lạ lùng buộc các cụ phải bỏ đường buôn. Hễ bất kỳ ai, dùng vũ khí nào... họ vẫn tay không giao đấu. Miễn thắng được cứ ngang nhiên qua lại. Nếu không, cấm lai vãng từ đây! Cụ tổ họ Bùi rút đao nhảy ra nhưng chỉ chớp mắt bị kẻ ấy cướp lấy đao lập tức. Kinh hoàng, bà cụ tổ ra tài múa roi vùn vụt xông lên. Vẫn không hạ được con người ấy. Ngược lại, hắn không làm gì đoạt nổi ngọn roi gia truyền. Tưởng chỉ có vậy, bà ngừng tay cười bảo như chẳng có việc gì:
    - Chưa thắng được nữ nhi, nam nhân cứ kể là... thua cuộc. Mau tránh đường ra, ai lo phận nấy. Đừng trái lời giao ước.
    Tên chận đường này quay sang người đi theo nãy giờ vẫn còn đứng lặng lẽ bên đường. Hắn cung kính thưa:
    - Thuộc hạ e phải rút kiếm ra thôi, không thì bọn họ chưa phục. Thế thì trái lời thực. Xin Nhị gia ra tay thu phục một phen.
    - Đúng lắm. Việc nhỏ chưa phục, ắt đại sự ít người tin. Kẻ đi bán buôn còn giễu cợt tất anh kiệt phải khinh khi rồi đó. Lui ra mau. Còn chư vị - Người ấy quay sang đoàn thương buôn - Ta một lời nói ra không hề thay đổi. Ai là người chưa phục, cứ việc bước ra. Ta cùng chư vị cũng đều dân nước cả. Kẻ có thế không lộng hành vô đạo. Người vô lực, chớ vì thế mà hèn mọn, a dua. Nếu không, vị tất xứng gọi kẻ anh hùng. Xin chỉ giáo...

    Người ấy mặt chữ điền, mắt sáng, mày xếch ngược như cánh đại bàng đang bay. Giọng nói âm vang lồng lộng. Chỉ chờ có thế, bà cụ tổ múa roi xông vào quyết một lần sinh tử. Thật kinh hồn. Không thấy người ấy dùng thế võ gì, chỉ đảo người vài vòng thì ngọn roi đổi chủ. Bà cụ tổ tay không! Thất vọng, đoàn buôn muối đành phải quay về. Trước khi ra đi các cụ hỏi rằng:
    - Xin để lại một vài lời. Mong nói rõ nguồn gốc võ nghệ, ắt về sau tất có ngày tái ngộ? Chúng tôi chỉ hận mình học nghệ chưa tinh.
    - Hay đấy. Nghe đây. Ta chẳng phải quan binh, cũng không hề là giặc cướp đón đường mãi lộ. Xét các ngươi đều là võ sĩ, không ngờ chỉ biết đem công phu tổ truyền ra mưu cầu hai chữ “lợi, an” riêng lấy nhà mình. Đâu rồi? Những lời thề lúc bái tổ nhập môn. Vì nước quên thân, anh hùng thượng võ... Các ngươi vốn là chỗ nương nhờ của dân. Nay lúc cần, quay lưng miễn an ổn gia cơ là xong đấy phỏng? Thế cũng còn biết đến câu sĩ diện dám hỏi tên ta? Lập tức quay về nói lại lời này. Bảo, nếu ai đã coi là hào kiệt trong đời cứ đến chân núi này. Để xem thử là chân tài hay chỉ là giả mạo.Tuy cùng một môn phái Tây Sơn, nhưng rất khác với ta đấy. Các ngươi có biết đang làm tổn hại oai danh của môn phái đến nhường nào..? Nguyễn Huệ là danh tánh của ta. Mong các ngươi nhớ lấy lời này... Cáo biệt.

    Về sau cụ tổ Út truyền lại rằng, trong khi người lớn uất ức nát cả tâm can, cụ là thằng bé con chẳng ai để ý, lắng nghe hai kẻ chặn đường kia to nhỏ cùng nhau. Người trước nói với người sau:
    - Cái cơ thu phục nhân tài của Nhị gia quả thực là diệu dụng khôn lường. Đừng nói thuộc hạ mà ngay Đại gia hay Tam gia... e rằng không dám đảm đương. Kế “Khích tướng” chỉ chừng ấy cũng đủ khiến đại sự của chúng ta sớm được cáo thành. Nay mai...
    - Thầy ta từng dạy bảo, ít Đức thì vị tất người Trí đã theo về. Còn kém Tài sao thu phục kẻ Dũng? Kế An Dân ở đó! Chỉ tiếc rằng người sớm vân du như hạc nội mây ngàn. Bao giờ lại được nghe lời giáo huấn?
    Cụ tổ Út nói, võ nghệ con người ấy cao thâm đến độ khôn lường. Mà đến việc cơ trí, mưu lược... cũng không ai đoán nổi. Người có một không hai trong thiên hạ bấy giờ.

    Ấm nước sôi sùng sục. Ông cụ chăn bò dừng lại chế một bình trà. Nhang đã gần tàn nén trên gian thờ. Ông cụ lại đốt, lại vái. Tôi tưởng như không còn nhớ đến chiếc xe lỡ chuyến trên đèo. Câu chuyện đi vào hồn tôi bao giờ như gió cứ uốn lượn ngoài kia, trên những rừng lau dậy sóng.
    .......Trên đường về Quy Nhơn, đoàn buôn muối chán nản vô cùng.
    Nỗi hận, nỗi buồn đeo nặng.Cụ tổ họ Bùi đời thứ hai dừng ngựa.Với trách vụ của người trưởng đoàn, của người chồng, người cha, người môn sinh võ phái, cụ nói lời tối hậu:
    - Ai giúp ta xoá được mối nhục này? Chỉ còn lấy cái chết để tạ tội không tròn được đạo nghĩa với anh em. Ý ta đã quyết. Sau này con phải đứng trên cha. Đừng để nhục, phải ghi nhớ lấy hôm nay. Một lời, xin bái biệt...
    Mọi người sững sờ cúi mặt nhưng không hề ngạc nhiên vì lời báo tử ấy. Đất võ Bình Định có câu “Mất mạng còn danh. Mất mặt vô dụng”. Lời khuyên trong lúc này là xúc phạm. Để đúng câu “Anh hùng mã thượng”, cụ tổ đời thứ hai vẫn ngồi trên mình ngựa. Khi cụ rút đao nâng lên thì trời cũng đã về chiều...

    Cụ tổ Út, bấy giờ còn nhỏ chưa thông luật lệ khóc run bần bật. Người cha nổi giận quát mắng:
    - Im ngay. Ta phải tạ tội để giữ sạch võ phái. Chết vinh, sống nhục.
    - Đáng phục. Lợi, thì chia với mọi người. Lỗi, nhận thay cho tất cả không cầu an sợ chết mới là người võ sĩ chân chính. Biết tự nhận nhìn ra lẽ phải ấy là kẻ Trí. Khó, nhưng sửa được mới đáng gọi người Dũng trên đời. Hà tất phải uổng đi mạng sống. Buông đao xuống!
    Đột ngột lời nói vang lên như một lệnh truyền. Một tiên ông ư? Kẻ đang bước ra từ sườn núi. Không. Đấy là cụ già quắc thước tướng mạo phi phàm, râu bạc chùng trước ngực, người phục sức như nông dân. Một cây trượng trúc kỳ dị, ngoằn nghoèo - hệt như đường uốn ở giữa “Vòng tròn Thái Cực”. Lạ lùng hơn, thân trượng trúc như dát bạc lấp lánh màu kim tuyến sáng chói lên trong tia nắng trời chiều. Đấy là một con rắn nhỏ đang quấn quanh trượng trúc.

    Đoàn buôn muối giật mình nhìn nhau sửng sốt. Họ biết con rắn bạc ấy là một linh vật, tuy nhỏ bằng ngón út nhưng cực kỳ quý hiếm. Một loại Quốc bảo nước mà các vua Tàu từng ra sức chiếm đoạt...
    Gọi là Kim Tuyến Linh xà hoặc Kim Tuyến xà hay ngắn gọn hơn là Linh xà cũng thế... Người đi núi nhiều năm cũng chỉ được nghe mà chưa tận mắt bao giờ. Sở dĩ gọi thế vì truyền thuyết bảo rằng, Linh xà không nọc độc. Ngược lại, còn có chất giải độc trong nước miếng rắn này. Bởi thế mọi nọc độc kinh hồn nhất đều trở thành vô dụng trước Kim Tuyến Linh xà. Chính nó là “Đại khắc tinh” của mọi loài độc vật chết người... Gặp nó, dù là Hổ mang Bành chúa cũng lập tức tránh xa. Từ ngàn xưa, ngườiTrung Hoa bắt dân Giao Chỉ cống nạp ngọc trai, sừng tê giác - đặc biệt nhất - Kim Tuyến Linh xà. Vì Giao Chỉ là nơi duy nhất trên thế gian linh vật này sản sinh và cư ngụ. Nó chỉ thích hợp thuỷ thổ của vùng rừng núi Trường Sơn đầy linh khí. Ai thu phục và nuôi dưỡng được Linh xà... Đấy phải là bậc kỳ nhân trong thiên hạ.
    Vảy bạc của nó thay ra, làm bảo vật cứu mạng. Bất kỳ hổ mang, rắn rết cực độc nào cắn phải... chỉ cần đắp vảy vào đấy, vảy bạc hoá đen, lấy ra đem ngâm vào rượu tốt... vảy đen hoá... bạc như ban đầu. Kẻ đeo vảy trong mình ra vào hang động, tay không bắt hổ mang đều chẳng hề gì. Gọi là Linh xà Thần dược. Cứu mạng trăm người...

    Các cụ tổ họ Bùi ngỡ ngàng nhìn người mới đến, biết là bậc kỳ nhân. Tất cả xuống ngựa thi lễ, cúi mình xin chỉ giáo. Cắm cây trượng trúc trước mặt mọi người - chỉ thẳng vào đấy - bậc kỳ nhân nói những lời chí cốt:
    - Ngoằn ngoèo như thế kia, cũng là hình thể nước ta. Đấy là “Tượng” của Linh xà, tinh vi huyền diệu khôn lường. Nhờ vào đây, các anh hùng ngộ ra cách gìn giữ vững chắc sơn hà. Binh pháp đời Trần gọi là “Linh xà Trận pháp” hay “Thế trận Linh xà” cũng thế... Rất khác với “Trường xà trận” của binh pháp Trung Hoa (do Tôn Võ Tử sáng tạo ra, lừng lẫy thiên hạ từ thời Đông Chu). Linh xà Trận pháp của nước ta rất uyển chuyển và vô cùng bí hiểm... Không hề bị phá vỡ vì lối dụng binh thần tốc, vũ bão của “Ưng trận” hay là Thế trận Chim Ưng, vốn là khắc tinh chuyên chế ngự Thế trận Trường xà, nhất là khi Trường xà biến hoá thành Trường xà Quyện địa.

    Linh xà, tuy sống ở núi rừng nhưng sinh sản ở những miền cửa biển. Chính vì thế mà có đủ “Khí linh” của núi sông, thuỷ hoả... Nước Nam ta có hình thế như một “Đại Linh xà”, có Trường Sơn làm “Sống lưng”, lấy biển Đông mà vùng vẫy sinh hoá. Thế trận ấy trên đời không có chỗ thứ hai. Đó là hình thể hết sức đặc biệt. Uốn lượn linh động như “Lượn sóng nhấp nhô”. “Sức Nước chính là sức Dân” vậy.
    Linh xà Trận pháp lấy núi để công, dựa nước mà thủ. Núi thì kiên cường, nhìn xa thấy rộng. Nước thì nhu hoà mà bền vững. Không ai phá nổi núi, vì núi tự bền.Chẳng thể ngăn xẻ nước, vì nước vốn tụ. Tổ tiên ta ngộ lấy Thế trận Linh xà có một không hai nầy mà bảo vệ đất nước đến bây giờ. Qua bao thăng trầm, bao tàn độc xâm lăng... của những kẻ thù cường bạo nhất... nước vẫn vượt lên mà trường cửu.

    Bậc kỳ nhân nói tiếp:
    - Nay đất nước đang hồi quốc nạn, ngoại bang lợi dụng dòm ngó không yên. Biết sự an nguy trong phút giây nầy là trọng, nên ta vân du khắp cõi trời tìm người đủ tài đức để bí truyền Linh xà Trận pháp... Nhân qua đây, gặp cơ duyên nói đôi lời chí cốt... Chư vị vẫn còn chấp mê chưa tỉnh ngộ? Võ học của cha ông để lại nhằm giúp dân, chống giặc, hà cớ gì đem dùng vì mưu lợi cá nhân? Nếu những lời nói của người đã chặn đường trên núi kia là đúng, là... lấy làm nhục nhã thì liệu có rút đao tự xử... Thế cũng đã để lại tiếng xấu muôn đời. Sống hay chết đi liệu rằng sẽ thay đổi được gì không? Cái tiếng “khi sư, diệt tổ”...

    Tất cả đoàn buôn muối không biết tự bao giờ, đều đã quỳ xuống trước cây trượng trúc. Cụ tổ họ Bùi tâm hồn sáng tỏ, bái lạy tạ ơn xin chỉ cho con đường chính đáng. Thì ra Linh xà Trận pháp đã được trao truyền cho con người siêu quần... Nguyễn Huệ. Sau đó không lâu, tất cả đều trở thành nghĩa quân Tây Sơn. Nghe nói lại rằng, Nguyễn Huệ lập tức đến nơi thầy xuất hiện. Bậc anh hùng xúc động bái vọng giữa không trung, nói cùng chư tướng sĩ:
    - Tuy lánh mặt nhưng thầy vẫn sống giữa lòng dân. Người... âm thầm giám sát, giúp đỡ, thử thách ta. Đệ tử nguyện đến hơi thở cuối cùng không để mai một đi lời dạy của thầy. Vì nước quên thân. Vì dân phục vụ.

    Về sau, Quang Trung Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Xã tắc lại an bình. Thêm lần nữa, “Ưng trận” bị Thế trận Linh xà chế ngự. Sau khi ca khúc khải hoàn, Hoàng Đế lập tức truyền cho dựng lên Linh Xà Miếu ở ngay tại nơi đã từng có trượng trúc quấn Linh xà xuất hiện. Hằng năm, vua thân chiêm bái. Kỳ lạ thay, từ đó mười dặm chung quanh miếu không tìm ra hổ mang, rắn độc. Tự mọc đầy cây thuốc trừ rắn là Bách - Xà - Thiện - thảo. Loài cây lá như rau “Răm”, có những đoá hoa nhỏ như nút áo, màu vàng đậm xinh xinh.

    Ông cụ ngừng kể. Tấm vải điều lại được nâng lên lưng chừng.
    Mắt ông cụ chú mục nhìn vào khoảng... xa vời. Tôi kính trọng hồi ức của con người ngồi trước mặt. Gió đỉnh đèo An Khê vút qua như ngựa sải trên lau lách về khuya. Một đám mây bay qua. Trăng chìm vào trong vùng tối.
    ......Cho tới khi Gia Long lên ngôi... Linh Xà Miếu bị đập phá tan tành, tiêu vong tông tích. Ai lai vãng nơi nầy thì bị tội. Cụ tổ đời thứ ba, còn gọi là cụ tổ Út nghĩ ra cách giả làm tiều phu. Cụ lén thu lượm được mấy mảnh đá Thanh nầy, đem chôn vào nơi kín đáo. Dặn rằng, sau phải hàn gắn cho nguyên lành mà thờ phụng trong nhà. Riêng nền miếu ấy nên lai vãng để trông chừng. Mấy đời sau... có cách gì thuận tiện thời thế, là lúc cố tu bổ lại mà thờ. Quan trọng hơn, vẫn là ý nghĩa của Linh Xà Miếu. Con cháu không được quên, phải nhắc nhở lưu truyền câu chuyện ấy... Lời dặn dò, hết một đời thì bảo lại đời sau. Cứ thế. Đời cụ nội của lão chăn bò này - Cụ ấy là chắt gọi cụ tổ Út bằng ông cố - thì rời đất Quy Nhơn, ngài về dưới chân đèo An Khê này cốt gần nền miếu hơn để trông chừng cho thuận lợi. Cho đến hôm nay, lão chăn bò nầy đã có thêm đời con và đời cháu. Như vậy dòng họ Bùi kể từ khi vào lập nghiệp đã đến mười đời. Đều... nghèo cả. Hoá cho nên chỉ làm được có thế. Thật đáng buồn. Đời tôi... Sức tôi... chẳng còn bao lâu nữa. Lòng dạ xốn xang.

    Ông cụ nói đến đây, đưa cánh tay xương xẩu quệt ngang khuôn mặt răn reo đầy những vết chân chim. Tôi xúc động không biết nói gì hơn:
    - Thì ra các cụ đều chịu... sống nơi đây vì lời di chúc của tổ tiên để lại. Đến từng ấy thế hệ vẫn không vì nghèo mà bỏ đi xứ khác.
    - Cậu thấy rồi. Một công hai việc. Tôi xin chăn nuôi bò của tập thể Trạm đèo nầy để làm... vui. Để nhẹ đi phần nào gánh nặng con cái phải lo toan... Ngày nào hay ngày ấy. Ngoài ra, cái chính là để sớm hôm còn lai vãng với nền miếu ngày xưa... Những mảnh đá Thanh kia được cụ nội tôi quật lên, đem về nhà hương khói. Tôi mang theo để tạm nơi đây, tiện bề tưởng niệm. Mai chiều... Hết đời tôi thì giao cho thằng con cung thỉnh về nhà. Đấy... Cái nền Linh Xà Miếu chính là chỗ cậu với tôi gặp gỡ lúc ban chiều... Một khoảnh đất bằng cheo leo bên sườn đèo An Khê. Nơi ấy vẫn có thể tìm ra nhiều gạch đá xưa bị đập vỡ và vùi chôn bên dưới.

    Bàng hoàng... Tôi nào ngờ, nhờ vào tiếng... lạc bò mà chân đã từng đặt lên nền Linh Xà Miếu. Trước mặt tôi là hậu duệ đời thứ tám của dòng họ Bùi. Cụ không làm người chăn nuôi theo nghĩa thông thường. Cụ đang chăm coi và lưu giữ linh thiêng. “Cảm ơn cụ” - Tôi thầm nói trong lòng. Dù văn hoá vật thể, có khi theo định luật thời gian mà tàn lụi nơi nào... Thì cứ vẫn còn những giá trị “phi vật thể” để bảo lưu, bổ khuyết. Miễn sao, còn những người như cụ. Những người thật đơn giản, vô danh thoạt tưởng như chẳng có gì... để nói, để bỏ chút thì giờ đồng cảm, lắng nghe...
    - Cậu nghe xong câu chuyện dòng họ Bùi nhà tôi rồi đấy. Không có cơ hội nói ra, lòng tôi vẫn khắc khoải chưa yên. Dù sao, thì cậu cũng là người lấy chữ nghĩa viết lách làm trọng. Từng đã có vài người biết rõ câu chuyện này. Kết quả, họ đều cười tôi không giữ cái đáng tiền. Họ lấy làm bực mình, phiền toái khi đã phải tốn công sức ngồi nghe một người chăn bò... ngớ ngẩn như tôi.
    - Nhưng đấy là ai? Họ có... ý kiến nào không. Thưa cụ?
    - Có lẽ những kẻ chuyên bán buôn đồ cổ. Hoặc là người chỉ muốn tìm cơ hội cầu may. Nhìn thấy từng mảnh đá Thanh đã vỡ ra... họ vừa ý bảo nếu không, chẳng biết bên trong còn có bí mật nào? Họ chỉ mơ vàng bạc, hay gì đó miễn đem bán mua đắt giá. Họ không cần ý nghĩa cha ông.
    Tôi chia sẻ nỗi lòng bằng một câu hỏi chẳng lấy làm hy vọng:
    - Có khi chức trách, nơi thẩm quyền này nọ... sẽ giúp đỡ cụ không chừng. Nếu chịu khó đi... một vài nơi đâu đó?
    - Chẳng ai tin những việc mà sách sử đến bây giờ không tìm ra căn cứ. Sẽ không có thời gian và... tốn kém cho các việc này. Đi lại nhiều nơi chỉ tổ phiền hà lắm khi... tai tiếng. Tôi muốn hương linh được yên nghỉ hơn là để các ngài bị xúc phạm vì thiếu sót đời sau. Nếu có sai lầm, tội lỗi ấy thuộc về ai... Các ngài hay chính của chúng ta? Thôi thế...

    - Không đâu, thưa cụ. Lỗi ấy thuộc về cả một triều đại nối theo sau nhà Tây Sơn. Triều Nguyễn. Khi mà người viết sử làm quan. Họ có nhiệm vụ hiểu “chính đáng thay vì là chính xác”. “Chính” đồng nghĩa với đương triều. Còn “đáng” mà lắm khi chưa “xác”. Việc thực, vẫn rất có thể không “đáng” ghi vào, đôi khi còn cần nêu phủ nhận. Thế nhưng “đáng hay là xác” chỉ mới riêng quan niệm ở một Nguyễn triều kia. Bởi “lịch” thì luôn phải tiếp tục “trải qua” để xét soi, phê phán do nhiều thời đại khác về sau. Sử đúng nghĩa - ngoài chính sử từ các sử quan ấy - còn song hành phần “ngoại sử”, phần “truyện” để bổ khuyết gẫm suy và nhận định. Chính sử là chính đáng, song ngoại sử chẳng kém phần quan trọng với đời sau... Thưa cụ những lời kể và chứng tích đang có này... Nền miếu, đá Thanh kia. Kể cả cụ lẫn kẻ đang lỡ độ đường này... Đủ để làm nên nơi đây một thiên ngoại sử về ngôi Linh Xà Miếu. Vâng, thưa cụ. Dẫu chính sử đối với cụ không là chỗ còn trông mong gì nữa... Vẫn còn đây phần ngoại sử ngay trong con tim, khối óc. Nơi ấy không giấy tờ, không chữ nghĩa... Không cả đắn đo gì mà những kẻ viết chính sử kia thường canh cánh bên lòng... Phải thông cảm cho các sử quan cụ ạ. Đấy là những con người khốn khổ. Không như chúng ta, chỉ bận trí “công hay tội của triều đại” mà thôi. Họ đồng thời phải tự trả lời câu hỏi “công hay tội cho ngay chính bản thân mình”? Một câu hỏi không thể né tránh trước triều đại đang sống. Khác với câu hỏi từ phía lịch sử đơn thuần. Câu hỏi trước triều đại - dù chưa mang tính vĩnh cửu bao giờ - luôn khắc nghiệt vì không đợi kẻ viết sử nằm dưới nấm mộ sâu mới ban hành phán quyết về chức năng một con người từng cầm bút... Lẽ ấy, mọi ngành đều không thiếu vỹ nhân. Duy sử gia thì thưa cụ, thử hỏi có bao nhiêu Tư Mã Thiên ở dưới gầm trời...?

    Ông cụ gật gù, trên mặt đã có lộ sắc vui. Tôi không dám coi thường những người như cụ. Không dám bỏ ngang lời tâm tư kia, hoặc bắt buộc lòng mình nói theo cách... để một người chăn bò thu nhận. Không. Vì ít ra chính tôi cũng đang tự nhắc nhủ bản thân mình. Rằng, mớ chữ nghĩa quá nhỏ bé mà tôi viết ra - chưa bao giờ ngờ nổi - vẫn còn được một người như cụ thật sự mong chờ và trân trọng. Một món nợ nặng trĩu không biết mấy linh hồn... Là tiếng kêu nghẹn tắt của chín, mười thế hệ. Hoàn toàn không đơn giản như hai bữa cơm rau để tôi cứ ung dung... rồi quên lãng.

    Kiếu biệt vào sáng hôm sau, tôi trở về xe đang khởi động trên đèo để ra đi. Ông cụ dậy sớm hơn. Bếp lửa bập bùng. Một bóng lặng lẽ ngồi bên ấm trà bốc khói. Đôi ba trái bắp nướng lót lòng. Hạt cứng to, hồng tím như màu “ba zan” muôn thuở nơi đây. Bên lối mòn lau lách xào xạc, đàn bò đứng đợi sẵn bao giờ lưng đẫm ướt sương đêm.
    Cho đến khi yên vị chỗ ngồi, tôi vẫn thấy rõ hình ảnh cây roi toe tua ông cụ còn huơ huơ trong màn sương mây vây bủa. Xe chạy vào eo núi khác che khuất... Từ đó đến nay có một thứ tiếng mãi theo tôi, còn đeo đẳng bên lòng... Loong Koong... Loong Koong... Mười năm đã qua đi. Tôi chưa hề trở lại đất An Khê. Mười năm tôi lận đận theo đời. Vẫn dặn mình đừng để mất chút niềm tin nơi những người như cụ. Tự nơi lòng tôi còn món nợ qua đèo. Xin cụ cứ an tâm về ước vọng cao quý của đời mình.
    Thưa cụ, nếu cụ còn sống - Tôi tin thế - khi đọc thấy những dòng này chắc cụ có chút ít vui lòng. Cảm ơn cụ đã tin tôi. Niềm tin mà tổ tiên cũng đã từng trao cho cụ.
    [/FONT]
     
  11. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thèm... hôn[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trần Nhà Thụy [/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trời đất ơi!. Lâu quá rồi, không hôn một em gái nào!

    Giữa bàn cà phê dăm bảy người lơ đãng, Ngoan bỗng dưng bật nói thật to, như là vừa phát hiện một điều lý thú, hay phát giác chuyện động trời. Tuy nhiên, giọng của hắn thì buồn thiu, như đó là điều tệ hại. Vài người ngó theo ánh mắt của Ngoan, xem thử có em gái nào vừa đi qua, khiến anh chàng bỗng nảy sinh liên tưởng không. Nhưng, không có một em gái nào.

    Đám xe ôm cười hô hố. Nhưng mặt Ngoan thì tỉnh rụi. Bảy Dậu - một người đàn ông trung niên lực lưỡng, râu ria xồm xoàm vỗ vai Ngoan một cái thật mạnh, cười ha hả: “Bộ đang chán gấu mẹ vĩ đại hả chú em? Tao có một mối không đến nỗi tệ, nếu thích gật một cái, tao kêu. Hôn hít cái đếch gì. Đánh vật tơi tả luôn”. Đám xe ôm lại cười ha hả. Mặt Ngoan hơi sượng. Anh chàng rít một hơi thuốc, mắt nheo nheo, nói như chỉ cho mỗi mình nghe: “Tui có thèm cái khoản đánh vật đâu. Tui thèm hôn kia mà!”.

    Nói rồi, Ngoan đứng lên rời khỏi bàn cà phê, đi lại chỗ dựng xe của mình.

    Ngoan năm nay ba sáu tuổi, đã có một vợ hai con trai. Ngoan có mười năm làm công nhân xưởng in. Nhưng gần năm nay, đường tắc, kẹt xe liên tục khiến Ngoan không thể đảm bảo giờ giấc, đành xin nghỉ ở nhà. Tính Ngoan là vậy, hắn không thích để ai xài xể mình. Ở nhà, không biết làm gì tiện hơn là chạy xe ôm. Ai mà không chạy xe ôm được. Xách xe chạy ra đường thì thành thằng xe ôm. Nói vậy thôi, chứ trong cánh xe ôm xóm đường tàu này, Ngoan có người bảo kê nặng ký là chú Bảy Dậu - người cùng xóm.

    Còn lúc này đây, Ngoan ngồi trên xe mà cảm thấy bứt rứt không yên. Tự nhiên cái ý nghĩ quỷ quái thèm hôn lại đến. Chắc chừng bảy năm rồi hắn và vợ hắn không hôn nhau. Nói rõ hơn là hai cái miệng không còn gắn vào nhau, để cho lưỡi lùa lách nhau. Khoảng chừng bảy năm, đối với Ngoan việc đánh răng trước khi đi ngủ cũng rất chểnh mảng, tùy hứng. Còn lưỡi thì chẳng bao giờ được cạo sạch bằng cái thanh nhựa vốn vẫn xuất hiện trong ống đồ dùng vệ sinh cá nhân. Chừng bảy năm, Ngoan thấy vợ vẫn đánh răng, cạo lưỡi đều đặn hằng đêm, nhưng đó có lẽ chỉ do thói quen sạch sẽ tỉ mỉ của phái nữ, chứ chẳng phải làm sạch miệng để… hôn nhau.

    Khi còn làm ở xí nghiệp in Ngoan có chơi với một ông nhà thơ sồn sồn. Ông nhà thơ này sống độc thân, nên thỉnh thoảng có dẫn Ngoan đi ăn nhậu, chơi bời tí chút. Thật thà mà nói Ngoan cũng có vài cô gái ở ngoài, nhưng cũng chẳng bao giờ hôn nhau. Ý của Ngoan là miệng chẳng bao giờ gắn vào nhau. Vồ vập lắm thì cũng hôn nháo nhào, dúi dụi đâu đó rồi chợt buông, chợt hẫng, rã rời. Miệng lưỡi như bị bỏ quên ở đâu, bị đánh rơi từ tận kiếp nào.

    Ngoan chợt buồn và chợt thèm. Thèm hôn.

    Có lẽ nụ hôn chỉ thực sự đến khi hai người yêu nhau, muốn khám phá lẫn nhau. Nụ hôn là một hình thức cũ, nhưng nội dung thì luôn luôn mới. Ngoan nghĩ nôm na vậy. Rồi hắn lại miên man tiếp: “Chẳng lẽ mình lại bi kịch như thế sao? Chẳng lẽ đã đánh mất nụ hôn rồi hay sao? Mình già cái chắc rồi?”- Những ý nghĩ dớ dẩn ấy cứ bám riết lấy Ngoan, ngay cả khi hắn đang chạy ngoài đường chở khách.

    Khách của Ngoan là một cô gái rất trẻ, có thể nói là xinh. Cô mặc một chiếc quần jean, áo pull khá mốt, như thông thường chúng ta vẫn thấy ở những cô gái trẻ. Cô không xách, đội cái gì cả. Như từ trong nhà bước ra, ngoắc xe ôm chở đi dạo chơi một vòng vậy. Ngoan nhìn cô gái, cảm thấy một chút lạ lẫm, buồn cười: “Em không cầm mũ bảo hiểm theo hả?”. Cô gái trẻ nhìn Ngoan: “Chú chạy xe ôm chú phải có mũ bảo hiểm cho người ta chứ. Chú không có, tui kêu xe khác?”. Chú và con. Giọng nghe rất xấc. Ngoan thấy bất mãn tới mức muốn đuổi cô gái đi. Nhưng nghĩ phận xe ôm, hắn tự cười thầm, cầm cái mũ bảo hiểm đưa cho cô gái. Một cái mũ bảo hiểm màu xanh, như mũ công nhân cầu đường, bạc màu, trầy trụa. Cô gái cầm cái mũ bảo hiểm ngắm nghía: “Cái mũ này chú lượm ở đâu vậy? Sao chú không mua cái mũ mới, dán hình decal ngôi sao Hàn Quốc cho đẹp. Mũ gì, nhìn thấy ghê”.

    Nói vậy, nhưng cô gái vẫn đội cái mũ lên đầu, nói địa chỉ cần đến. Ngoan “tắt giọng” luôn từ đó. Trong khi chở cô gái đi, hắn nghĩ: “Một cô gái trẻ đẹp như thế này. Nếu chỉ nhìn thôi, mình đã có thể rất muốn hôn. Nhưng khi nghe cô nói chuyện vô duyên như thế, thì liệu có hôn được nữa hay không?”. Trong khi Ngoan nghĩ, thì cô gái tiếp tục nói: “Con ngựa. Cái thằng bồ của tui. Nó kêu tới chở tui đi ăn sáng, uống cà phê mà giờ này lặn đâu mất tiêu. Tui định gọi cho nó, mà điện thoại hết tiền. Con ngựa. Tui tới phòng trọ nó mà gặp nó đang úm con nào là tui... thiến”. Cô gái nói rất hăng, vành mũ bảo hiểm cứ thụi vào lưng Ngoan liên tục. Ngoan trân mình chịu đựng, hắn cảm thấy thật chán nản, nhưng ý nghĩ thèm hôn vẫn không rời. Tất nhiên là không phải với cô gái này.

    Buổi cơm tối khá đạm bạc, lèo tèo vài con cá nục chiên, rau muống luộc và nướng rau muống. Ngoan kêu vợ chiên thêm mấy cái trứng cho hai thằng nhóc. Vợ Ngoan lườm hắn: “Hoang phí. Mà ăn trứng thì bổ béo cái gì? Giá cả đang leo thang chóng mặt. Cả nhà phải tuyệt đối thực hiện chính sách tiết kiệm”. Nghe vợ nói vậy, Ngoan lại “tắt giọng”. Được cái hai thằng nhóc cũng dễ nuôi. Chúng ăn uống xì xoạp, loáng cái đã đứng lên vuốt bụng căng tròn như cái trống. Thôi vậy cũng được rồi, chưa đói là may. Ngoan tự an ủi. Còn lại hai vợ chồng. Vợ Ngoan bỗng nhỏ nhẹ: “Hôm nào có tiền, anh mua cho em một cân thịt heo ngon để em làm heo quay cho cả nhà ăn. Lâu quá không ăn heo quay, em thèm!”.

    Vợ Ngoan nấu ăn tương đối khéo, riêng món heo quay có thể nói là số một. Ngoan cũng thích ăn heo quay với bánh hỏi. Nhưng nghĩ đến đó Ngoan chợt thấy mắc cười: “Trời đất, trong khi mình đang thèm hôn thì bả lại thèm heo quay, thiệt là tréo ngoe!”.

    Đêm đó, đi nằm rồi, Ngoan nghĩ sao, chợt nhổm dậy đi đánh răng. Đứng trước chiếc gương trong nhà tắm, Ngoan nhe hàm răng ra, thấy ố vàng khói thuốc, lưỡi nhuộm nâu màu cà phê. Ngoan thấy ngán ngẩm với hàm răng của chính mình. “Có lẽ, nên bỏ thuốc lá thôi” - Ngoan vừa nghĩ vừa đẩy bàn chải thật mạnh, đến mức va vào lợi, bật máu.

    Những buổi tối sau đó, Ngoan tiếp tục triển khai đánh răng, cạo lưỡi đều đặn. Nhưng hắn vẫn chưa tìm ra “lý do” gì để hôn vợ. Một đêm, trong khi đang ôm nhau, vợ hắn âu yếm hỏi: “Anh thấy kem mùi bạc hà với mùi dâu mùi nào dễ chịu hơn?”. Ngoan cười: “Anh thấy mùi bạc hà sảng khoái hơn. Mùi dâu tụi con nít chắc khoái”. Vợ Ngoan nói: “Nhưng em lại thích mùi dâu. Anh nghe thử có dễ chịu không”. Nói xong, vợ Ngoan ghé miệng mình vào mũi hắn phả một làn hơi nhẹ. Hắn thấy thơm thơm, làm bộ hít hít, nhưng rồi lại nói: “Mùi này của con nít mà”. Vợ Ngoan nghe vậy liền rụt mình lại, không nói gì, lẳng lặng quay lưng, úp mặt vào tường.

    Xe chạy qua một con đường đất vắng, rợp mát bóng cây, rồi quẹo qua sân banh. Một cái sân đất nhỏ vẫn thường làm nơi tụ tập cho bọn nhóc trong xóm đá banh vào buổi chiều. Bọc quanh sân banh là những hàng cây tràm bông vàng tươi tốt. Chạy tắt qua sân banh là đến nhà dì Chín. Ngoan đang chở dì Chín đi chợ về nhà. Dì Chín là mối ruột mà Ngoan mới kiếm được gần tháng nay.

    Đường vào nhà dì Chín còn có đường đi khác, nhưng Ngoan vẫn thích tắt qua lối này. Mỗi khi chạy ngang qua sân banh, hắn nghĩ: “Mai mốt dắt tụi nhỏ ra đây đá banh chơi!”. Nghĩ vậy nhưng rồi có rảnh rang bao giờ đâu. Chuyện áo cơm cứ tối mặt tối mày.

    Chợt Ngoan thấy dưới gốc một cây tràm, có một đôi trai gái đang quấn vào nhau, mắt nhắm tịt lại, hai môi không rời. Trời đất, mới hơn chín giờ sáng mà đã hẹn hò ra đây, tình tự quá cỡ. Ngoan muốn ngó lảng đi vì xấu hổ, nhưng rồi hắn cứ mở to mắt nhìn. Lồng ngực Ngoan như rung lên. Tay lái hắn loạng choạng, rồi bất thần ngã uỵch một cái. Đôi trai gái nghe tiếng động chợt rời ra. Ngoan hoảng hồn đỡ dì Chín dậy. Cũng may không sao. Nhưng giỏ đồ ăn thì văng tung tóe.

    Khi Ngoan đưa dì Chín về đến nhà, hắn lung búng nói xin lỗi, không nhận tiền. Nhưng dì Chín kiên quyết ấn tiền vào tay hắn rồi nói: “Ngày mai khỏi rước dì nữa nghen. Mày chạy ẩu quá. Để dì kêu người khác”.

    Ngoan quay xe về bến, buồn thiu. Vậy là hắn đã để mất mối làm ăn vì một chuyện bá láp là nhìn người ta hôn. Ngoan cảm thấy không thể tha thứ cho mình. Thế nhưng, khi “tua” lại cảnh đôi trai gái trẻ đang đắm chìm vào nhau, Ngoan lại thấy bứt rứt không yên. Cơn thèm hôn lại đến.

    Ngoan bất ngờ nhận điện thoại của nhà thơ sồn sồn, nhân viên kỳ cựu của nhà in. Nhà thơ sồn sồn bảo: “Gần tết rồi, nhà in đang cần thợ làm ca đêm. Chú mày thu xếp được không?”. Ngoan nói ngay: “Dạ, được”. Nhà thơ sồn sồn hỏi: “Vậy tối mai đi làm luôn nghen”. Ngoan vồn vã: “Làm luôn tối nay cũng được”. Nhà thơ sồn sồn cười: “Tối mai đi. Chiều tối nay hai thằng mình kiếm chỗ cụng ly cái cho vui, hả?”. Ngoan cười: “Dạ, nhất trí”.

    Gặp nhà thơ sồn sồn, sau khi làm vài chai, Ngoan dốc bầu tâm sự. Hắn kể chuyện bỗng dưng thèm hôn. Chuyện hắn thèm hôn mà con vợ thèm heo quay. Chuyện hắn nhìn thiên hạ hôn nhau mà té ngã xe, mất mối làm ăn. Chuyện thời buổi gì mà kiếm tiền khó khăn… thí mộ nội.

    Nhà thơ sồn sồn nghe hắn nói xong, bèn cười độ lượng: “Chú còn thèm hôn là tốt, không có gì phải xấu hổ cả. Chứng tỏ tuổi thanh xuân của chú vẫn tràn trề. Nhưng hỏi thiệt, xưa giờ chú hôn được mấy em rồi?!”. Ngoan gãi đầu: “Dạ, nếu gọi là hôn cho ra hôn thì chỉ có mỗi con vợ em!”. Nhà thơ sồn sồn bật cười: “Dở ẹc. Hồi trẻ cỡ tuổi mày, là tao hôn muốn… mòn cái lưỡi”. Ngoan xua tay: “Xạo. Vậy sao đến giờ anh còn ở một mình?”. Nhà thơ sồn sồn nheo mắt: “Lắm mối tối nằm không. Chú không nghe hả. Nhưng nằm không mà hồi tưởng lại những nụ hôn thì cũng đã lắm nghen”. Ngoan bối rối: “Bây giờ mà hôn con vợ, nói thiệt tui thấy nó kỳ kỳ làm sao đó. Nhưng, đâu có con nhỏ nào tự nhiên đưa cái mỏ nó cho mình hôn đỡ thèm?”. Nhà thơ sồn sồn bật cười: “Chuyện đó thì tao cũng bó tay thôi. Tao chỉ có thể giúp chú em được một chuyện”. Ngoan hỏi: “Chuyện gì?”. Nhà thơ sồn sồn lấy trong túi ra mấy tờ giấy năm chục dúi vào tay Ngoan, giọng chân tình: “Cầm lấy đi, lát về ghé tiệm heo quay A Sáng mua một ký về cho vợ con. Tiệm A Sáng không tệ đâu!”.

    Ngoan về tới nhà thì đã khuya. Hai thằng nhóc đã ngủ say. Vợ Ngoan vẫn còn thức ngồi kết bông vải. Đây là công việc cô vừa kiếm được để làm thêm vào dịp tết. Ngoan lẳng lặng đi thẳng vào bếp, mở bịch thịt heo quay xếp đầy một dĩa to, phần còn lại cất vào tủ lạnh. Vợ Ngoan vẫn cắm cúi làm, coi như không thấy Ngoan trên đời. Cho đến khi Ngoan đặt dĩa thịt heo quay trước mặt thì cô nàng mới ngẩng lên: “Heo quay hả? Tiền đâu mà anh mua? Sao không mua thịt về cho em làm?”. Ngoan tủm tỉm: “Heo quay tiệm A Sáng cũng không đến nỗi tệ đâu. Anh làm thử một miếng rồi. Em ăn đi!”. Vợ Ngoan cầm lên một miếng, bỏ vào miệng ăn ngon lành. Nhưng rồi cô lại hỏi: “Bữa nay anh vô mánh hả?”. Ngoan lắc đầu: “Mánh mung gì đâu. Anh làm mất mối dì Chín luôn rồi”. Mặt vợ Ngoan hơi xị xuống: “Sao vậy, mối ruột mà? Anh làm ăn kiểu gì vậy”. Ngoan tủm tỉm cười: “Em đừng lo, ngày mai anh đi làm xưởng in lại rồi. Làm ca đêm, ban ngày anh sẽ ở nhà kết bông với em!”.

    “Tối nay em đánh răng kem bạc hà, anh nghe có dễ chịu không?” - vợ Ngoan thỏ thẻ. Ngoan nghiêng người đưa mũi vào sát miệng vợ. Mùi hương bạc hà thơm thơm. Ngoan ướm thử miệng vào môi vợ. Cô để im, nhưng tay ghì lấy người Ngoan thật chặt. Ngoan quyết định sẽ hôn thật đậm đà. Hắn áp sát khuôn mặt của mình vào mặt vợ. Nhưng đúng lúc đó thì cô nàng đẩy hắn một cái thật mạnh: “Trời ơi, anh chưa đánh răng hả? Miệng anh mới nhậu về hôi quá. Đi đánh răng đi ông tướng”.

    Ngoan vội nhảy khỏi giường, vào nhà tắm đánh răng thật kỹ. Hắn đẩy bàn chải thật mạnh, va cả vào lợi, bật máu. Xong, hắn thử thở vào lòng bàn tay. Vẫn còn nghe mùi hôi. Hắn lại quẹt kem, đánh răng một lần nữa. Lần này thì hắn không quên dùng thanh nhựa nạo sạch lưỡi.

    Ngoan hân hoan bước ra. Hắn mường tượng một bữa hôn đã thèm. Nhưng khi chui vào giường thì hắn thấy vợ đã ngủ say tự lúc nào. Trên môi cô nàng là một nụ cười tươi tắn lạ lùng. Không biết là vì đang mơ thấy nụ hôn của Ngoan hay vì mấy miếng thịt heo quay hồi nãy?!
    [/FONT]
     
    No MercY, julie, 5dola and 2 others like this.
  12. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thiên di[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dương Bình Nguyên[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tháng Chạp. Mây lừ đừ trên những ngọn đồi. Ở cái thành phố tràn sương và gió này, mùa đông làm cho mặt trời cũng thành khô xác. Ngoài chợ, những bộ quần áo sặc sỡ hơn, những đứa con gái cũng nồng nàn hơn trong màu son môi ấm áp.

    Anh ngồi thừ, suy nghĩ. Những con chữ hiện lên rồi lại bị bôi đen và trôi đi mất. Mùa đông sẽ bắt đầu như thế nào nhỉ ? Anh hình dung. Và tự dưng như những đốm lửa sáng bừng trong căn bếp nhỏ. Người ta sẽ bắt đầu mùa đông bằng những căn bếp ấm sực, có tiếng vo vo của ấm nước reo, có tiếng cành cây nổ lép bép trong lò và những chiếc bánh ngô vàng rộm, thơm lừng. Anh nhận ra cái không gian ấy quen thuộc đến mức, chỉ cần quờ tay ra trước mặt thì mọi thứ đã hiện lên. Một hình dung rất rõ rệt.

    Anh bắt đầu trang viết của mình bằng những vệt ký ức thơ ấu như thế. Phan ở rất xa. Phan sẽ phải hiểu về cuộc sống của anh như thế nào? Và trong căn phòng máy lạnh, trong tiếng ồn ào của xe cộ, trong khi người ta vẫn còn ám ảnh của thảm hoạ ITC thì Phan có hiểu được không? Con trỏ ẩn hiện trên màn hình. Anh mơ hồ nhìn ra những đỉnh đồi. Mùa đông, những đỉnh đồi như một đám cỏ khô lớn, mềm và mượt. Những đám cỏ tranh mạnh mẽ và tỏ rõ uy lực xanh biếc vào tháng 7 cũng lướt đều trong gió, kéo theo những thanh âm hun hút. Anh thường leo lên đó, ngồi hàng giờ nhìn về thành phố với những ống khói cuốn vòm cổ lỗ. Từ đó nhìn xuống, thành phố giống như một tấm áo cũ, dẫu có rộng hơn nhưng là những mảnh can nối, có một vài điểm nhấn nhưng là những miếng vá nhiều hoạ tiết của một cô thợ may vụng về. Có cảm giác như từ khi anh biết leo lên đồi cho đến bây giờ, khi đã là một người đàn ông thất bát đủ chuyện, cả công việc lẫn tình yêu, thì thành phố này vẫn vậy. Nó không làm cho người ta rợn ngợp, bất ngờ. Khi dải khói màu lam nhẹ xuất hiện trên vòm ống nhà anh cũng là lúc vào bữa cơm chiều. Nhiều năm qua đi, mẹ anh chẳng già hơn nữa. Bà chẳng cản anh điều gì bao giờ. Ngày anh từ bỏ ồn ào xa xôi phía của Phan trở về, bà đón anh ở cửa một cách bình thản. Bà đỡ chiếc ba lô bạc nắng của anh rồi đi lấy nước từ bể ra đầu vườn cho anh rửa mặt. Khu vườn ba anh trồng từ những ngày anh bé xíu, khi vườn cây đung đưa quả thì sự rạn vỡ đã đẩy ba anh ra đi. Ba anh không về. Anh đi học, rồi đi làm một mình. Hai năm bê bết với những công việc tối mắt, hai năm gặp Phan và ba trong hơi thở gấp gáp giữa hai cours làm thêm. Tất cả là cái thành phố nhoè nhoẹt đèn đường và ồn ào tiếng nhạc. Anh bảo Phan: Anh về nhà đây. Cô không buồn bã hay giận dỗi: Vâng. Chẳng giữ được anh đâu, em biết. Tiếc là em chưa tới đó để biết mùa đông. Cô đưa anh ra ga, dúi thêm một chiếc áo lạnh. Chiếc áo không đẹp, cô mua hàng hạ giá trong một tối mùa mưa bất chợt gặp trên đường. Xứ này chờ cái lạnh kéo đến còn khó hơn chuyển băng từ châu Âu sang làm sân băng Kỳ Hoà. Cô mua bởi thích cái màu xám là lạ, mua vì thích cái gì ngược hẳn với tính cách mình. Cô mang chiếc áo đưa cho anh: Bây giờ thì không cần đâu, nhưng đến ga Hàng Cỏ thì anh sẽ nhớ em nhiều hơn đấy.

    Chiếc áo ấy bây giờ trong tủ kính. Mẹ anh mất đã hai năm rồi. Phan xa anh hai năm. Những di ảnh của mẹ anh ép nhựa và lồng khung, cái anh treo tại cây cột gỗ gần cầu thang, cái anh treo trong căn bếp nhỏ. Anh ngại nhìn những khung hình chết lặng trên ban thờ. Khi ấy mọi thứ không còn thân thương nữa mà đã là hai thế giới. Một tấm ảnh lớn anh treo trong phòng làm việc. Mẹ nhìn anh hiền hậu, thoáng như một nét cười.

    Chiều đã trễ tràng lắm rồi. Mây lùa xuống tận chân đồi, kèm theo tiếng kêu thảm thiết của bầy chim di trú. Gió mạnh lên, tiếng cửa sổ va vào nhau như những mảnh vỡ. Anh ngừng tay gõ bàn phím, đi vòng lên tầng hai, khép lại những ô cửa mở. Và dưới nhà bếp như có tiếng động mải miết của loài sinh vật lạ. Anh bật công tắc điện. Lần đầu tiên kể từ nhiều tháng nay, anh mới để ý những vụn củi trong khoang chứa đã gần cạn kiệt. Những năm trước, mặc gió rét, mẹ anh vẫn cần mẫn ra chợ bờ sông chọn những bó củi chắc nịch, thơm thoang thoảng và đượm lửa cả đêm. Mùa đông, cái bếp bỗng ấm sực bởi mùi củi khô chẻ, mùi lửa thơm thơm và mùi áo mẹ thoảng hương cốt trầu. Giờ căn bếp chỉ là những lúc sáng dậy, rỗi rãi anh đun ấm nước pha trà và tiện tay úp một bát mì tôm với những cọng hành tươi non cùng rau cải cúc. Thảng hoặc, mỗi chiều muộn, anh cùng mấy người bạn đốt lửa pha cà phê và hát lại những bài ca. Nó không là căn bếp nhỏ xíu sực nức mùi dầu chiên và dậy mùi hành tỏi những ngày nghỉ Phan chuẩn bị bữa cho cả nhà. Anh chợt nghĩ, có nên cho Phan biết chuyện này không nhỉ? Và ba nữa, ba đã quá già. Cái ngày vô tình anh gặp ba ở ga Hoà Hưng, anh còn phải lay hỏi đủ điều. Ba như một khúc củi cháy dở, một khúc củi tong teo trong chiếc áo bảo hộ và chiếc xe Honda tróc hết sơn đầu. Nguyễn, về với ba- ông nói trong cơn xúc động đến nghẹt thở. Anh ngồi sau xe ông, cảm thấy đôi tay ông bóp rúm phanh xe mỗi khi lỡ trớn và đôi môi ông mấp máy muốn nói điều gì. Ba, con vào đây làm việc. Anh không ngờ ba đã già đến vậy. Nhưng anh lại chẳng thể quên, phải rồi, cái ánh mắt và nốt ruồi đuôi mắt trái. Mẹ anh không quên điều gì. Và anh đã khắc dấu mỗi khi anh bước vào phòng mẹ, lần mò trong cái rương cũ xỉn để lật xem trộm nhật ký, cái ảnh của ông đã là một vật gần như ám ảnh không thể xa rời. Anh muốn nhìn lại thật rõ, anh biết mình không lầm lẫn. Chỉ là những đám mây đậu xuống khuôn mặt, để hằn lại những nếp nhàu của tuổi tác và sự khó nhọc trong cuộc sống mỗi ngày. Ba đi làm có cực lắm không ba? Cũng thường, con. Bây giờ ba sống với ai, ba? Ba đang ở cùng một con nhỏ. Một con nhỏ người dưng. Nhưng mà thương.
    Con nhỏ người dưng đó là Phan. Phan hồn nhiên hơn nhiều so với hình dung của anh. Ngày lại ngày anh nhớ khuôn mặt ấy. Mỗi ngày nghỉ anh thường chở cô đi vòng quanh thành phố, kiếm tìm những thú vui bé nhỏ tưởng như chẳng đến bao giờ. Phan reo lên với tất cả sự hồ hởi xen lẫn ngạc nhiên. Đôi tay quen thêu hoa trên những tấm gối đến mỏi nhừ giờ được thả lỏng bỗng thấy cuộc sống nhẹ nhõm đi nhiều quá. Phan nhìn anh, đầy hàm ơn. Sự trìu mến trong ánh mắt Phan làm anh hoảng sợ.

    Anh đi làm mải miết, hốt hoảng lo bị cúp lương. Anh nhìn những con đường mình đi, thấy chúng chỉ là những cái rãnh người ta xẻ ra dưới gầm trời này, càng đi càng lún sâu dần. Đó không phải là Nguyễn của cái ngày sinh viên hồ hởi. Mẹ anh viết thư vào, những con chữ dài đều của cái thời chưa cải cách. Mẹ bảo, Nguyễn ơi về đây thôi. Mẹ chẳng thể đi đâu được nữa. Cái mảnh đất này là cuộc đời mẹ mất rồi. Anh thường cho những ý nghĩ lẩm cẩm của các cụ già là điều có thể xoay chuyển được. Những lý do hoà hợp gia đình, gần con gần cháu bao giờ cũng dễ dung nạp vào đầu các cụ hơn. Anh muốn tạo dựng cuộc sống trong cái nhịp đập ồn ào này. Dẫu mỏi mệt, dẫu đua chen nhưng nó làm cho người ta ngộ ra nhiều điều. Anh lấm láp, dầu mỡ lem nhem nhưng mọi thứ cũng có thể trôi đi một cách giản đơn hơn khi có ba, có Phan bên cạnh. Mẹ vào với con đi mẹ, cả ba nữa mà. Anh đưa ra lời khẩn cầu cuối cùng. Ba ư? Con nghe từ đâu vậy ? Không, con đâu có nghe, con nhận ra ba đấy chứ ? Mẹ không tin sao, mẹ nói chuyện với ba nhé. Ba ơi... Không còn nghe được tiếng điện thoại đầu kia nữa. Những tiếng tút dài vô nghĩa đến tàn nhẫn. Mẹ đã không nhận được ba. Làm sao có thể giải thích được. Anh chợt nhận ra những ngày qua mình đã vô tình sống trong những sự dày vò không dứt. Ngày anh đáp tàu ra Bắc, mang theo chiếc áo xám của Phan thì mẹ đang thoi thóp trên giường bệnh. Thái Nguyên như một tấm thân gầy gò, lạnh đến run người. Những người y tá giương đôi mắt nhìn anh hệt người hành tinh lạ. Tại sao đến giờ này mới về chứ ? Con với cái. Mẹ anh như một thân cây khô vẫn nhìn anh mỉm cười. Rồi như có sức mạnh kỳ diệu, bà đã dần hồi tỉnh và trở về nhà. Trong hương hoa cây vườn, trong tiếng chim mùa di trú, bà nằm yên trên giường và trôi vào miền tịch lặng, không để lại dấu vết nỗi buồn nào trên mặt đất. Chỉ riêng anh còn lại hai nửa dằn vặt chẳng dễ gì lý giải được. Anh ở lại. Cuộc sống bắt đầu như vậy. Không vui, chẳng buồn.

    Lại là một lá thư khá dài, anh viết về mùa đông của những đốm lửa và những chiếc áo len xanh. Lá thư như nhịp cầu nối để một ban mai nào đó tỉnh dậy, Phan chợt nhận ra những đốm lửa ấy đã đến bên mình. Anh ngồi lặng hàng giờ, nhìn những con chữ chạy mải miết trên máy vi tính. Giá mà mọi thứ đơn giản, có thể cuộc sống đã khác đi thay vì những lá thư kéo dài từ tháng này qua năm khác. Tuổi trẻ của Phan là những tháng ngày miệt mài bên khung thêu với những bức tranh hoa mang tính công thức. Đôi mắt cô luôn luôn chăm chú nhìn xuống. Và mỗi ban mai, cô soi mình trong gương, thấy những vết kim thời gian đâm li ti trên đuôi mắt. Thời gian với nhan sắc vốn không là bạn bè.

    Tháng Chạp màu xám chì. Vậy giêng hai sẽ là xanh non? Liệu có là xanh non? Anh ngồi ngẫm nghĩ mãi. Có thể không khi mà những đốm lửa sáng trong những căn bếp be bé như của anh cứ thưa thớt dần. Và tuổi tác sẽ xếp đá trên vai anh nặng trĩu. Như ba anh bây giờ. Ba anh mới thật lạ kỳ. Con à, Phan thật tội đấy. Anh không muốn nhắc nhiều đến điều ấy. Một cô gái với đôi chân không lành lặn nhưng tâm hồn lại quá nhạy cảm với những biến cố mỗi ngày. Ba anh thấy Phan đang lang thang trên những con đường gồ ghề Gò Vấp, tràn đầy bụi và lấm láp những dáng người qua. Con đi đâu đây ? Không có tiếng trả lời. Này, cô gái, cô đang đi đâu ? Một cái nhìn câm lặng, một sự hồ nghi. Cô đi đâu, bác sẽ chở về? Không về đâu. Có cái gì như sức nặng ngàn cân ghìm ông xuống. Này, nhà con ở đâu ? Con không biết. Thế con đi đâu? Con đi tìm nhà, tìm mẹ. Mẹ con tên chi? Con không biết, tên là Mẹ. Này, cô gái, hay là về chỗ bác, ăn chén cơm, mai rồi tính. Cô gái ngồi nhẹ nhõm trên chiếc ghế sau xe. Lồng cồng chạy về nhà, khu chung cư cũ kỹ và mỏi mệt trong tiếng nhạc vàng những lúc chiều muộn. Bác ở đây làm gì ? Để sống, cô gái ạ. Bác đưa con về đây làm gì? Để sống. Thật vậy hả bác? Cả khu chung cư xôn xao khi thấy Phan về đây. Lão Thiện lấy con nhỏ này làm vợ hả? Bậy nào, nó nhỏ xíu, chắc là con riêng ở đâu lão dắt về. Ui dào, chuyện đời. Mười năm. Mọi đồn thổi cũng qua. Những buổi chiều nóng nực và mỏi mệt trong tiếng nhạc vàng cũng rất quen thuộc. Cái cô gái nhỏ bé yếu ớt ấy được đi học thêu, được dạy phối mầu trong những bông vải li ti như những chùm hoa cúc dại. Người ta đặt hàng, kiếm tiền làm lụng trong xưởng dệt mỗi tháng bỏ lợn nhựa chừng vài trăm ngàn. Rồi đi học bổ túc cấp ba, rồi vô đại học ban đêm, học qua học lại cái bằng Anh văn, vi tính. Là ba anh bảo, cứ đi học, chứ chưa chắc mai mốt đã làm được gì. Bởi vì Phan gần với cuộc sống của những chiếc gối thêu hơn. Cuộc sống bộn bề như một nồi lẩu thập cẩm. Nóng lạnh có đủ, cay xè như xả ớt, thanh ngọt như nước dùng. Tàm tạm thôi, con - ba thường nói chuyện vậy với anh trong những lúc rảnh rang ngồi nhâm nhi ly rượu thuốc. Tàm tạm là ba anh phải chạy thêm vài cuốc xe ôm mỗi ngày để bù đắp cho đồng lương hưu vốn chưa bao giờ thôi còm cõi. Rồi cũng phải đi qua cái tàm tạm chứ, ba? Qua thế nào, con? Qua thế nào? Anh nói với ba chuyện làm mai kiếm cho Phan một tấm chồng. Đời người phụ nữ giống như hoa phù dung, kiếm một cái gia đình, sinh một đứa con và lo toan vui vầy với cái tổ kén ấy. Hôm đó hình như Phan đi làm về rất muộn, những ngón tay sưng vù vì mũi kim thêu đâm phải quá nhiều. Nửa đêm đang ngủ anh nghe tiếng lục tục trong buồng. Rồi tiếng mở cửa khe khẽ. Một bóng người chui qua vội vã. Phan! - anh gọi giật. Phan chập choạng tìm lối đi trong đêm, cái chân tập tễnh như kéo dúi thân hình xuống. Phan, đi đâu bây giờ? Cô gái quay lại, nhào vào lòng anh. Những giọt nước âm ấm. Thôi nào, vào nhà đi, còn ba, còn anh. Vào nhà. Những điều ấy đã theo Phan ở lại.

    Phan ở lại. Còn anh thì ra đi. Anh về với những đốm mắt bàng bạc của mẹ trong bệnh viện. Cố tránh không nhắc tới Phan, không buồn vì Phan nhưng rồi cũng chẳng ngờ những cái nỗi vô tình lại ám ảnh người ta dài lâu đến thế. Những ngày cuối năm, Phan chạy thoát khỏi hỏa hoạn, điều đầu tiên là tìm một bốt điện thoại và gọi cho anh. Anh biết không, cháy rất dữ, còn ba nữa. Em... Không còn nghe được tiếng nói nữa. Vài giờ sau trên mạng đã có toàn bộ hình ảnh của vụ cháy. Thảm khốc. Anh nghe tai mình như ù đi. Bởi vì anh quá sợ hãi khi những mối liên hệ thân thiết cuối cùng của anh sắp sửa mất đi. Đêm ấy, khi anh đang chuẩn bị hành lý để vào Nam thì cô lại gọi ra, hai ba con đã bình an. Nhưng ba lo, lỡ hôm nay không có anh mà ba có bề gì, ai sẽ lo cho chu tất? Thôi nào, đừng nói những chuyện không có thật. Chúng ta vẫn đang sống, như vậy đã là một niềm vui lớn rồi. Cô ngập ngừng, chừng nào thì anh vào? Chẳng lẽ anh không nhớ gì Sài Gòn sao? Anh không nghe tiếng cô mà thấy rất rõ tiếng gió va vào khung cửa sổ. Ở đó, suốt những ngày thơ ấu, anh thường nhìn lên những ngọn đồi. Và cũng từ đó bắt đầu cho anh những ý nghĩ về cuộc chinh phục những đỉnh cao.

    Bây giờ cuộc sống của anh khá nhạt nhẽo. Anh chẳng còn nghĩ được đến những đỉnh cao. Cuộc sống chẳng lẽ mãi là những hoài niệm và những lá thư dài? Hai năm rồi.

    Sài Gòn trong anh đang là thành phố với rất nhiều ánh đèn. Ở đó anh từng nghĩ tới những đỉnh cao. Ngoài cửa sổ, có loài chim nào đang mải miết bay trong mùa di trú. Anh mỉm cười. Có lẽ đã đến lúc ta phải nghĩ ngợi nghiêm túc rồi, phải chăng đời người cũng có những cuộc thiên di?
    [/FONT]
     
    No MercY, julie, 5dola and 1 other person like this.
  13. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thị trấn hoa quỳ vàng [/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trần Thuỳ Mai[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bây giờ, Ng. cũng không nhớ tại sao hai người lại chọn cái thị trấn xơ xác ấy làm nơi gặp gỡ. Mười năm trước họ không biết gì về nó, ngoài địa danh bất chợt nhặt ra từ trí nhớ mông lung, địa danh mơ hồ, gợi lên một vùng đất xa xôi ven biển. Dường như sự lựa chọn ấy cũng có tiền định, vì trong những giấc mơ cản đường thoáng của mình. Ng. luôn luôn thấy người ấy hiện ra trước mắt nàng giữa tiếng sóng gầm dữ dội. Biển. Biển sôi trào, và trái tim nàng cũng sôi lên như biển.

    Trong mười năm trời, năm nào họ cũng gặp nhau vào ngày tháng ấy, bên chân sóng ấy. Lần này Ng lại đến, y như trong lần đầu nàng bước xuống xe và ngơ ngác nhìn ánh nắng hoe vàng, lấm tấm bụi. Mỗi năm, thị trấn mỗi khác đi, những ngôi nhà như sinh nở thêm, mái tôn, mái ngói xúm xít quanh bến xe. Mấy chiếc dù hoa sặc sỡ vừa mọc đây đó, như những chấm màu vui vui trên khung cảnh lộn xộn của một vùng nửa thôn quê, nửa phố xá. Chỉ có ngọn gió thổi qua đỉnh rặng phi lao là vẫn thế, đẫm mùi nước mặn, mùi nồng nàn của ngàn khơi.

    Ng. gọi một chiếc xe ngựa, người xà ích khẽ lắc đầu, tiếp tục dong cương. Tiếng vó lách cách trên đường một điệp khúc đều đặn buồn. Ng. nhìn theo một lát mới nhớ ra bây giờ xe ngựa chỉ dùng để thồ gạch đá. Tuyến xe lam vừa thành lập đã lấy hết khách đi lại trong thị trấn. Ng. lau mồ hôi trên trán, đặt chiếc túi xách xuống vệ đường. Nàng tiếc nuối cái ý nghĩ sẽ đi ngựa đến nơi hẹn bên kia bờ biển, y hệt như khi nàng đến lần đầu, bao nhiêu năm nay nàng vẫn lặp lại đúng như thế, như thể cử hành một nghi lễ thiêng liêng đã thành truyền thống. Khi đó nàng mặc chiếc áo đẹp nhất của mình, mớ tóc dài bay theo gió, đôi giày păng túp trắng, ngồi một mình sau lưng bác xà ích, tiếng vó ngựa gõ rộn ràng như nhịp tim sôi nổi trẻ thơ. Chiếc xe đi qua những con đường bụi bặm, những con đường toát lên mùi tỉnh lẻ, với những hoa quỳ vàng mọc ngơ ngác từ lùm bụi, ven đường. Ngay lần đầu đến đấy, nàng đã tìm ra một địa danh mới: Thị trấn hoa quỳ vàng. Từ đó mãi mãi nàng chỉ dùng cái tên ấy khi muốn nói về hành tinh nhỏ bé mà hai người đã chọn.

    Thị trấn hoa quỳ vàng. Lúc đó, nàng cũng mặc áo vàng, và giờ phút họ gặp nhau bên bờ biển, mặt trời chiếu những tia vàng chói lọi xuống mặt sóng xanh. Người đàn ông muốn giữ Ng. lại trong tay, nhưng nàng né tránh và chạy vòng quanh các gềnh đá. ”Em không mong gặp anh ư?“ Ng. nghe những lời ấy lẫn trong tiếng rì rào của biển, tiếng nói trầm, ấm làm nàng hồi nhớ một tuổi thơ không thường được dỗ dành và chợt rưng rưng nước mắt. Nàng vừa gật đầu vừa dụi mắt vào vai người đàn ông ”Thế tại sao?“ ”Em cũng không hiểu. Dường như những gì em quá đỗi trông chờ, khi hiện đến, đều làm em hoảng sợ“. Nàng thì thầm, và cảm thấy mình run rẩy. Người đàn ông bật cười, tiếng cười nghe rất xa vì bạt đi trong gió. Ngoài những ngọn đèn đánh cá bắt đầu sáng lên, và cả hai người trong phút lơ đãng xuất thần, đều ngỡ rằng những vì sao vừa đột ngột rơi xuống mặt nước. Một đứa bé có khuôn mặt màu đồng hun, tay bưng một rổ đầy cua, dừng lại trước hai người mời mọc. Ng. chọn một con lớn nhất và tháo lại buộc cho nó bò về biển. Ðứa bé tròn mắt nhìn, rồi bỡ ngỡ cười ngây ngô, còn người đàn ông thì hiểu rằng đấy là một tục lệ tôn giáo mà Ng. đem theo từ thành phố cổ xưa nơi nàng ở vào một ngày vui trọng đại, người ta có thói quen chia sẻ niềm hạnh phúc của mình với tạo hoá bằng cách đem lại cho những con vật sống mà tưởng chừng chúng đã mất. Ng. nghịch ngợm xoè bàn tay che trước mặt mình khi khuôn mặt người đàn ông ghé sát gần bên. Nàng thì thầm qua khẽ tay:
    - Nó bắt đầu cuộc sống lần thứ hai, cũng như em hôm nay.
    ”Anh cũng vậy“. Người đàn ông nói, dứt khoát kéo hai bàn tay nàng xuống và ngạc nhiên thấy chúng mềm như lá cỏ. Họ hôn nhau lần đầu, hệt như trong giấc mơ. Sóng gầm lên trong bóng tối, và biển cũng rối tung theo gió.

    Họ ở lại một lữ quán nhỏ hẹp mang cái tên rực rỡ. Hướng Dương. Cái tên quá đẹp, quá sang trọng so với căn phòng trống trải, chiếc ghế tựa cũ kỹ và ngọn đèn trần đã cháy từ lâu. Nhưng thật kỳ lạ, cả hai người chẳng hề thấy vẻ khập khiễng đó. Khi ấy, họ tràn ngập niềm tin mãnh liệt rằng tình yêu của mình có thể biến mọi xó xỉnh nghèo hèn thành thiên đường trên mặt đất. Chính ở căn phòng đơn sơ còn thoảng chút ẩm mốc đó, lần đầu tiên trong đời họ nhận ra linh hồn cũng như thân thể của mình là một thứ nhạc cụ kỳ lạ, chỉ vang ngân dưới bàn tay sinh ra để dành riêng cho nó. Gió biển thổi lồng lộng qua cửa sổ, tấm drap trải giường được phủ sơ sài bồng bềnh những đợt sóng. Trăng cũng vào theo cửa sổ. Có vị mặn của biển và có vị mặn của da thịt; có cái dịu ngọt của trăng, và nỗi dịu ngọt của vuốt ve. Bắt đầu từ phút đó cả hai không nói một lời nào, đều hiểu mình đã thành hai nửa của một con người duy nhất.

    Sau này, năm nào trở lại thị trấn hoa quỳ vàng, họ cũng gặp nhau, nơi lữ quán ấy, căn phòng ấy. Nơi mà họ đã đắm mình trong khúc hát địa đàng, lần đầu tiên và mãi mãi. Suốt năm này qua năm khác, khúc nhạc ấy hoài vang vọng trong ký ức rất riêng của hai người, như một tiếng gọi tỉ tê, lặng lẽ, đau đớn, không ngừng thôi thúc họ đạp lên những vành đai để quay trở lại.

    Và bây giờ, Ng. đang đứng một mình trước thị trấn cũ. Cảm giác say sóng làm Ng. váng vất trước ánh sáng lúc sắp trưa. Dù rất mệt, nàng nhất định khước từ chuyến xe lam ồn ĩ và chất chồng quang gánh. Do không thể tìm lại chuyến xe thổ mộ và con ngựa bờm vàng mọi năm. Ng. đã nảy ra ý muốn ngông cuồng là sẽ đi bộ, từng bước, từng bước lặng lẽ đến nơi vùng biển cũ. Nhưng Ng. không đi đến được cuối đường, mặc dù nàng đã thấy hiện ra dưới chân dốc bãi cát dài trắng xoá, với những ghềnh đá đen nhám lỗ chỗ vết hàu. Ðôi chân phù nề chợt nhói lên đau nhức, khiến Ng. phải dừng lại ở một khách sạn trong lòng dãy phố chính của thị trấn.

    Khách sạn mới xây, khá tiện nghi, ở đó những người phục vụ đã đem đến cho Ng. nước nóng và muối để ngâm đôi bàn chân sưng phồng dị dạng. Ngồi trong phòng, Ng. nghe tiếng di chuyển bàn ghế, tiếng nhân viên đi lại rộn rịp, tiếng tính toán chi phí vọng lại từ phía hội trường. Hình như ngày mai là ngày chính thức khai trương khách sạn. Hoá ra Ng. là một trong những người khách đầu tiên. Cô bé bồi phòng với đôi mắt ửng đỏ đưa cuốn sổ lưu niệm đến cho Ng. viết cảm tưởng. Ng. mỉm cười ghi và ký tên, không nghĩ ngợi:
    ”Tôi đã đến. Tôi ở lại. Và tôi mong muốn được quay trở lại“

    Ng. gập cuốn sổ lại, mường tượng nhớ một hôm nào từ lâu lắm rồi, vào một năm nào đó không rõ, khi cùng với người ấy đi dọc theo bãi biển hoàng hôn, nàng đã nghe dân chài nói với nhau về một lời sấm đang lan truyền trong dân gian. Lời sấm tiên báo rằng cái thị trấn nhỏ đáng thương này được thành lập trên một doi cát phù du đang bị xói lở dần dần và chỉ trong thời gian ngắn sẽ hoàn toàn sụp đổ. Ngày hôm ấy ở bến xe, các tiệm phở, các quán ăn người ta xôn xao về điềm báo khủng khiếp ấy. Mặc dù biết rất rõ những lời đồn thường không có gốc rễ, không hiểu sao, tối hôm ấy Ng. cảm thấy bầu trời dường như nặng nề hơn. Khi dừng lại trên ghềnh đá, nàng xiết chặt tay quanh lưng người đàn ông yêu dấu, như thể anh sắp bị cuốn đi cùng với doi đất mỏng manh.
    - Rồi tất cả sẽ sụt lở hết, và mình chẳng bao giờ gặp nhau lần nữa Ng. thì thầm. Gió biển thổi tan tác những âm thanh trên môi nàng run rẩy.
    ”Không thể có điều đó. Với anh sẽ chẳng bao giờ có kết thúc cả, cho dù mình sẽ già đi, sẽ không còn nữa“. Người đàn ông trả lời sau khi hôn nàng rất lâu- Anh hiểu câu nói của nàng theo nghĩa khác. Buổi chiều ấy anh cũng chọn một con cua biển và thả cho nó đi theo con của Ng. xuống chân sóng với hy vọng đôi tình nhân sẽ bắt đầu lại cuộc sống, không cô đơn, và sẽ gây dựng nên một vương quốc của loài cua bên dưới những ghềnh đá này.

    Ng. duỗi thẳng những ngón chân tê dại trong nước, mỉm cười. Bây giờ có lẽ cả những sinh vật mà họ thả hàng năm xuống biển đang sinh sống nơi miền rong rêu ấy, phía xa kia, chúng đang góp phần chứng minh bãi biển ấy, ghềnh đá ấy là vĩnh viễn. Ðôi chân Ng. như dịu lại trong nước muối mặn. Cách đây ba hôm, rất đột ngột, cơn phù xuất hiện, có lẽ là dấu hiệu của bệnh suy tim hay suy thận gì đấy như nhiều người phỏng đoán. Lẽ ra Ng. nên đi khám và nghỉ ngơi vài hôm. Nhưng ngày ấy đã đến và Ng. không thể không lên đường. Nàng không thể bỏ một cuộc gặp gỡ đã thành điều giao ước thiêng liêng, vào giờ đó, ngày đó; ngày giờ ấy, nơi chốn ấy đã trở thành điền lễ, với sự chứng kiến của lữ quán nghèo nàn và thơ mộng. Trên đường đi, Ng. cảm thấy đôi chân sưng tấy trong đôi giày nhỏ. Nàng can đảm chịu đựng nỗi đau nhức trong hồi ức về chuyến đi đầu tiên mười năm về trước. Mười năm về trước, xe tàu cực kỳ khó khăn như thể hai bến xe nằm ở hai hành tinh khác nhau. Chiếc xe đưa Ng. đi trong khói than mù mịt, tiếng máy nổ ì ạch mệt mề, vượt năm trăm cây số trong vòng hai ngày đêm; trên băng ghế chật chội, Ng. ngồi im lặng, hai chân tụ đầy máu. Hồi ấy Ng. mạnh khoẻ, vô bệnh và suốt hành trình nàng vừa chịu đựng đôi chân đau nhức vừa nhớ lại câu chuyện nàng Maryushka đi tìm người yêu mòn dập hết ba đôi giày sắt. Lần đầu tiên đến vườn địa đàng của mình, trong hạnh phúc nàng không nhớ gì về cơn đau nữa, nhưng lúc nửa đêm về sáng, nàng đã phải nén tiếng rên rỉ để khỏi làm kinh động giấc mộng tuyệt đẹp còn vương vấn đâu đó trên những chăn nệm bồng bềnh gió biển.

    Và bây giờ, cũng cơn gió ấy, ngọn gió vĩnh viễn thổi qua đây, lần này lại thổi rối mái tóc Ng. khi nàng ngồi soi lại dung nhan bên cửa sổ. Với hai ngón tay, nàng xoa nhẹ khắp khuôn mặt; lần đầu tiên Ng. nhận ra thứ kem thường ngày hình như đã biến chất, không ăn da như mọi lần. Nàng xoa rất lâu và cuối cùng lại dùng khăn ướt lau sạch tất cả, vì thấy chẳng thà để làn da trần như thế trông lại được mặt hơn. Một chút hồng cam trên môi, một chút xanh trên mi mắt làm khuôn mặt nàng tươi lên và thoáng vẻ trẻ thơ kỳ quặc. Gió, gió và gió, Ng. chải lại mái tóc rối, dùng chiếc khăn mỏng buộc chặt lại, theo cầu thang bước xuống đường. Trời vẫn nắng một thứ nắng hư ảo, chập chờn theo lối mòn dẫn ra bờ biển cũ.

    Ng. bước đi, bàn chân nàng vùi sâu vào lòng cát nóng ấm. Nàng ngạc nhiên, hơi bâng khuâng khi thấy hai bên vệ đường vắng bóng những bông quỳ vàng. Từ nơi nào đấy, vẳng lại âm điệu của một bài hát buồn xa xưa. Ði theo tiếng nhạc Ng. tìm đến một quán cà phê ven đường quán cà phê mà mỗi năm nàng đều nhìn thấy từ trên ban công nhỏ bé của lữ quán. Nhưng lần này, không hiểu sao đã đến đây, nàng vẫn không tìm được trong những dãy phố lố nhố đối diện tấm bảng hiệu quen thuộc- Tấm bảng đề hai chữ Hướng Dương với một bông quỳ vàng rất to làm nền- Dấu hiệu thường năm vẫn cho hai người biết cuộc hành trình đã đến, họ đã trở về điểm xuất phát đó để có nhau sau một năm lăn lội trên trần gian. Vào lần gặp gỡ năm ngoái, màu sơn vàng của bông hoa đã phai gần hết và tấm bảng gỗ cũng nứt nẻ. Có thể người ta đã thay đổi nó bằng tấm bảng khác và nhân đó, đổi luôn cả tên để hy vọng thay đổi luôn số phận ế ẩm của lữ quán. Thuở đó đã nhiều lần người đàn ông bảo Ng: ”Anh tin là có định mệnh trong cuộc gặp gỡ tay ba này. Anh, em và Hướng Dương. Em thấy không, nó giống mình một cách kỳ lạ“. Ng. chỉ cười, trong niềm hân hoan say đắm của hạnh ngộ nàng trở nên lơ đãng đến nỗi chẳng hiểu người yêu muốn nói gì. Mãi hôm sau khi ngồi trên chuyến xe rời thị trấn, nàng đắm chìm trong những hồi tưởng dịu ngọt và chợt cảm thấy cũng như cái lữ quán, cuộc đời hai người luôn luôn có hai thực tại, một thực tại mỗi ngày, tầm thường, bất lực, cay đắng va thực tại trong khát vọng, huy hoàng, rực rỡ, không bến bờ. Ng. trực nhận vì sao hai người lại gắn bó với nhau như thế, cả hai đều muốn vươn tới cái gì đó bên ngoài cuộc sống đầy giới hạn này. Tại đây, trong căn phòng ấy, họ đến với nhau, kể cho nhau nghe tất cả những cuộc phiêu lưu trong một năm ròng. Chỉ một đêm thôi họ đã sống cho đủ ba trăm sáu mươi lăm ngày, và chẳng bao giờ dám ở lại lâu hơn, bởi vì cũng như tất cả những kẻ không đầy đủ trên đời, họ cảm nhận hạnh phúc như một thứ bánh thánh chỉ có thể kính cẩn đụng môi đến một lần mỗi kỳ rước lễ.

    Bao giờ cũng vậy, buổi sáng người đàn ông dậy sớm, thu xếp hành lý và lặng lẽ ra đi, trong lúc Ng. nằm quay mặt vào vách giả vờ như còn ngủ. Họ đã giao ước với nhau không bao giờ nói lời từ biệt, để suốt năm sau đó vẫn mãi mãi sống cùng nhau trong ký ức. Một đôi lần, không tự chủ được, người đàn ông xoay mặt Ng. lại trong đôi bàn tay để hôn nàng trước khi ra đi, người Ng. nằm yên, bất động mắt nhắm nghiền. Khi tiếng chân đã xa rồi. Ng. mở mắt, những giọt mặn rơi xuống hai bên thái dương nóng hổi, những giọt nước mắt đẫm mùi gió biển. Adam và Eva còn có nhau khi bị đuổi ra khỏi địa đàng, còn Ng. chỉ có một mình khi từ giã căn phòng đầy gió.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bây giờ căn phòng đầy gió ấy ở đâu. Tại sao tôi có thể quên được căn nhà thiết thân dường ấy chỉ vì nó thiếu đi một tấm bảng, một cái tên. Dù sao thì cũng không phải chỉ duy nhất trí nhớ của Ng. Có lỗi. Ðúng là đã có sự thay đổi, từ bao giờ, nàng không biết. Có lẽ sự thay đổi ấy có dần dần từ rất lâu nhưng đến bây giờ Ng. mới thực sự nhận ra. Trong ánh sáng chập chờn- Thứ ánh sáng kỳ lạ có màu của ráng chiều và bọt nước- Ng. rẽ thẳng ra bờ biển. Sóng ào ào xô vào ghềnh đá. Một cô gái dân chài đi ngược lại phía Ng. đầu đôi thúng nặng, đôi má màu nâu hồng. Thân thể thiếu nữ khoẻ mạnh căng tròn làm Ng. không nhận ra đó là đứa bé mọi năm- Mùa đông qua, cô bé gái đã lớn phổng lên đến mức không ngờ. Ðiều an ủi Ng. là cô ta vẫn nhận ra nàng mặc dù ánh mắt thật lạ kỳ, chiếu vào khuôn mặt Ng. soi mói như thể nàng đang mang một vết nhọ trên muĩ. Ng. mỉm cười nhớ lại những con cua biển khi nghe chất giọng địa phương lơ lớ quen thuộc- Giọng nói mà thuở xưa nàng nghe lạ tại đến nỗi tưởng mình đang tiếp xúc với một thứ thổ ngữ xa lạ. Ng. hỏi thăm về lữ quán Hướng Dương và được cô gái cho biết nó không còn nữa. Lữ quán bé nhỏ và nghèo nàn không còn khách tới kể từ khi thị trấn mọc thêm nhiều khách sạn có cửa kính, có bàn ghế kiểu mới và những ngọn đèn trần luôn cháy sáng. Cô gái chỉ nhớ có thế, còn lữ quán thực sự chấm dứt vào ngày nào, bây giờ biến dạng ra sao, nhữnng người trong lữ quán đi đâu thì cô không biết rõ. Giờ đây, từ bờ biển nhìn lên, trong dãy phố mới lô nhô, không ai xác định nổi căn nhà nào thực sự là Hướng Dương ngày xưa. Nó đã tự biến đi, tự xoá tên trong cái trí nhớ của người qua lại.

    Ng. quay đi. Nàng chợt nhớ mình quên không cầm theo chiếc kính mát. Gió chiều thổi mạnh, mắt nàng bắt đầu nheo lại trước những đợt cát biển. Biển, biển và biển. Mặt trời đã xuống rất thấp, những đám mây hình thù quái dị sáng rực lên trên mặt sóng. Ng. nhìn thấy trong màu vàng của mây những hình ảnh quá khứ, rõ ràng, lặng lẽ. Ðã có một lần thôi, hai người đã phá lệ và ở lại với nhau dưới vòm trời ấy hơn một ngày một đêm. Chiều hôm trước, con cua biển trước khi trở về với sóng đã hốt hoảng kẹp vào tay nàng. Vết kẹp sưng lên và sáng hôm sau khi xoay mặt nàng ra khỏi vách tường để giã từ, người đàn ông nhận ra Ng. bị sốt. Nàng đẩy hai bàn tay anh ra và bảo hãy đi đi, nhưng anh không đi. Trong vòng tay của anh, nàng lại chạnh nhớ một tuổi thơ không mấy khi được vỗ về và chợt thút thít khóc như đứa trẻ.

    ”Anh đi đi“. Ng. cố gắng nói một lần nữa. Trong trí óc đầy những huyền tưởng và chuyện thần tiên, nàng vẫn thường bị ám ảnh bởi lời của bà tiên dặn cô bé lọ lem không được vui chơi quá nửa đêm. Cô bé đã quên và đã trở về với y phục tả tơi rách nát. Những phép màu của bà tiên thời tuổi nhỏ nay nàng đã hiểu là phép màu của tình yêu. Nàng tự biết người đàn ông của mình là một luồng gió ngang ngược không chịu dừng lại trong bất kỳ thung lũng nào, nên đã quyết tâm cầm giữ anh bằng sự vô hạn của cả vòm trời. Nhưng ngày hôm đó khi bàn tay anh đặt lên vầng trán hâm hấp sốt của Ng. nàng chợt thấy lòng dấy lên một ước muốn rồ dại, được giữ chàng lại trong vòng aty mình vĩnh viễn.

    Dĩ nhiên điều đó không thể được. Nàng vốn đã biết điều đó không thể được. Gió biển mặn thổi vào mắt nàng cay nồng.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Giờ đây mắt nàng cũng một cảm giác cay nồng như thế. Anh, em và Hướng Dương, bộ ba không còn nguyên vẹn. Rất có thể chiều nay, người đàn ông sẽ đến, như đã mười năm nay anh vẫn đến vào ngày ấy, giờ ấy, với chiếc túi bạt trên vai, mái tóc dầy rậm và đôi mắt nâu lơ đãng quen thuộc. Rất có thể hai người sẽ lạc nhau trong thị trấn nhỏ xíu này, khi cùng đi tìm một địa chỉ không còn nữa.

    Ng. đã quay về đến vùng phố xưa kia có Hướng Dương. Nàng bước vào quán cà phê với ý định ngồi đấy để nhận ra người đàn ông khi anh đi qua. Tiếng bản nhạc xa xưa vẫn vọng ra từ chiếc Stereo kiểu mới có ghi chữ Autoreverse trên bộc băng: Suốt buổi chiều băng nhạc được quay đi, quay lại trong một vòng tròn âm thanh khép kín. Ng. bước tới chiếc bàn con ngoài cùng, ngồi xuống. Có một người cùng ngồi xuống với Ng. Ðó là bóng nàng trong chiếc gương dài trên vách. Ng. tỉ mẩm soi mình trong thời gian trống rỗng. Ðôi chân phù nề. Khuôn mặt mệt mòi. Nàng nhận ra màu áo vàng không còn thích hợp. Ng. muốn về lại khách sạn để thay chiếc áo khác dễ nhìn hơn nhưng chợt thấy một cảm giác lành lạnh chạy dọc sống lưng. Nàng đột nhiên nghĩ đến ánh mắt của cô gái bán cua. Cô ta vừa nhận ra, vừa không nhận ra nàng nữa.
    Ng. ngồi im trong quán nhìn ra xa rất xa. Biển. Biển và biển.Những đám mây quái dị đủ màu đang sà sát xuống mặt sóng.

    Nửa giờ sau nàng lặng lẽ ra khỏi quán. Người đàn ông không đến. Hướng Dương không còn, chàng không còn. Và tôi cũng không còn. Với đôi chân phù nề. Ng. trở về khách sạn. Gió thổi bay nhoà những dấu chân nàng trên cát.

    Ngày mai khách sạn sẽ làm lễ khai trương. Hội trường trang trí đủ màu sắc xanh đỏ. Cuốn sổ lưu niệm Ng. vừa viết hồi sáng đang nằm trên chiếc bàn phủ khăn ren. Ng. băng qua hành lang để trở về phòng: Nàng thu dọn quần áo son phấn cho vào túi du lịch. Trong khi kiểm tra lại họp kem thường dùng, nàng đã phát hiện ra không phải là kem đã biến chất mà chính làn da mệt mỏi của nàng đã khô lại sau một chuyến đi xa.

    Nằm một lát, Ng. trở dậy mở cửa sổ nhìn ra phía biển, nơi đã từng có một lữ quán Hướng Dương dưới ánh mặt trời. Một bóng người đang đi đi lại lại trên con đường ven biển. ở rất xa, nhưng Ng. vẫn thấy rõ dáng đi quen thuộc ấy, với chiếc túi bạt trên vai, và dầu tất cả đường nét đều xa mờ, nàng lại thấy từ ký ức mái tóc rậm và đôi mắt nâu lơ đãng. Ðôi mắt ấy đang tìm cái bảng có vẽ bông quỳ vàng. Bông quỳ vàng chỉ còn trong tưởng nhớ. Bông quỳ vàng...

    Ng. gục xuống thành cửa sổ. Lúc ngẩng lên, mặt trời đã biến mất, những đám mây đột ngột xám lại như màu tro. Ng. thấy người đàn ông của mình ngồi trên ghềnh đá nhìn ra khơi. Anh đã kiếm tìm và đã thất vọng, như bao nhiêu người đi tìm điều gì đấy không có trên đời. Sóng quật trắng xoá vào những hòn đá đen trơn nhẵn. Phía dưới những hòn đá ấy, có lẽ vẫn tồn tại cả một vương quốc của loài cua biển đang góp phần chứng minh rằng doi đất ấy không bao giờ sụt lở như lời sấm vu vơ một thuở nào xa lắm.

    Ng. ngồi lặng im cho đến lúc quanh nàng chỉ còn đêm tối. Tôi đã đến, đã hạnh phúc và đã đến lúc ra đi. Hãy ra đi không từ giã, bởi trong giao ước của chúng ta, không có lời giã từ.

    Sáng hôm sau, trên chuyến xe rời thị trấn Ng. mệt mỏi thiếp đi, nàng mơ thấy hai người gặp nhau trên ghềnh đá cũ. Gió thổi tóc nàng rối tung bên vai người đàn ông, và nàng thấy hai bàn tay mình chợt mềm như lá cỏ, nàng thấy nắng chiều chiếu những tia vàng chói lọi trên mặt sóng xanh. Nàng thấy lại vòng tay ấm và cái hôn vị mặn- Giây phút của phép lành đã ban cho nàng sự sống lần thứ hai trong đời. Ðúng vào lúc ấy, ngọn gió lốc chợt thổi lên, cuốn xiết; mặt biển tở nên một vực xoáy khổng lồ; trong tiếng cát bay dữ dội, doi đất cong cùng thị trấn hoa quỳ vàng từ từ bị cuốn theo dòng cuồng lưu vô tận. Ng. thanh thản mỉm cười và nép mình trong vòng tay người yêu dấu trong khi cả hai cùng với ghềnh đá trôi theo một hành trình xa hút. Hành trình ấy dẫn đến một xứ sở rất xa, xa hơn mọi ánh sáng mặt trời- Bởi vì chính mặt trời cũng không vĩnh cửu.
    [/FONT]
     
    No MercY, julie, 5dola and 1 other person like this.
  14. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thị trấn hoài niệm[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dương Bình Nguyên[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đã có những tháng năm dài, Nguyễn thường ngồi nhìn màn hình máy tính trong đêm, đánh lên đó những con chữ về đời mình rồi xóa đi một cách không thương tiếc. Không ngủ được. Ngồi nhìn vào bóng tối trong căn nhà trọ trên phố, nó cảm giác như mình đang tồn tại trong một cõi nào khác với mặt đất trần tục.

    Cuối cùng thì cũng về đến nhà Nguyễn, cái thị trấn với con dốc cắt ngang phố như một cây thập tự. Gian nhà Nguyễn giờ được quây mặt tiền cho người ta mượn bán hàng khô, những gói bỏng nhuộm phẩm xanh đỏ khiến liên tưởng tới những bông trái cho ngày tết. Lũ trẻ con thập thò nhìn Nguyễn, mua những quả bóng bay đầy phẩm rồi thổi phì phẹt, lúc sau đã nhoe nhoét hai bên má màu xanh lẫn với màu hồng. Thị trấn có một dãy nhà chạy dọc bên đường cái, mùa đông bụi trôi về đỏ những ngọn bàng. Đất này không biết trồng gì, người ta thả hoang cho những bầy dê, bò chạy. Giống như cô gái điếm từng một thời xuân sắc, thị trấn của Nguyễn giờ nằm hiu hắt với những ngọn đồi góa chồng, nham nhở những hố sâu một thời từng mang đến sự hào nhoáng giàu có cho thị trấn. Những hố vàng và từng đoàn người tha nhau đến chui vào lòng đất, mong kiếm một cuộc đổi đời. Nguyễn bảo, giờ về nhà thấy buồn. Ngày trước, lúc tao còn bé, sầm uất lắm.

    Lúc nào Nguyễn cũng nói về thị trấn ngày nó còn bé, nhưng đó vẫn là một mảnh đất xa mãi không ai tìm lại được. Ngay cả Nguyễn, bằng tất cả tình yêu thương chắt chiu sau năm tháng khó nhọc, giờ thị trấn cũng đã như một miền cỏ hoang. Vậy mà ông già tao bỏ mạng ở đây. Thị trấn này biết bao người tự tử. Vàng mà. Vàng! Thật chả đáng.

    Nguyễn nói rồi quay đi. Nghe như có tiếng gió rít qua tai. Nguyễn lúc nào cũng buồn. Suốt những buổi chiều ấu thơ Nguyễn ngồi nhìn ra đường, khóc trong bóng tối xuống dần. Nguyễn lớn lên với ông nội. Ông nội mất, nó bỏ ra thành phố. Đời Nguyễn buồn như chén rượu nhạt...

    Chúng tôi leo đồi. Lâu ngày chạy xe thành phố nhiều, chân mỏi. Nguyễn chỉ, kia là mộ ông già, cỏ mọc tràn vào hoa. Hoa chết hết rồi. Thôi để ông già bạn bầu với cỏ dại. Tôi đứng lên đỉnh đồi, nhìn trời, thấy đất này cây này đẹp thật, mà sao người ta sống lầm lụi quá. Đi ngoài đường cũng ít ai ngẩng mặt lên. Nguyễn gọi tôi, mày qua chào ông già tao đi, mày là người bạn đầu tiên tao giới thiệu với ông già. Cuộc đời không cho Nguyễn nhiều tình người nên nó quý từng mụn bạn vặt vãnh. Vặt vãnh như tôi.

    Nguyễn bảo, dạo sau này tao ít về quê, nhưng chẳng biết làm sao nữa. Về quê thì lại thấy đời chán thật. Mình là một đứa lạc loài... Đến lúc này tôi vẫn không cắt nghĩa được, Nguyễn đã sống được trong chừng ấy năm bởi điều gì. Nó bạc bẽo với chính bản thân mình. Bạt mạng. Như một con thú hoang cô đơn. Nguyễn không có gì liên quan đến tôi, kể cả từ hình thức đến tính cách. Chúng tôi chỉ có một điểm chung là những cái nhìn quá góc cạnh. Tôi và nó. Vì bị cô lập, vì cô độc mà hợp nhau lại như tìm một điểm tựa, một niềm tin trên con đường dài không có bạn bầy. Nguyễn luôn là một điều bí mật, bí mật cả trong từng việc làm của nó, khiến chẳng ai có thể hiểu một cách rành mạch. Nguyễn yêu nhiều, rồi tình tan nhanh. Kể cả đến bây giờ, tôi vẫn không ghép được khuôn mặt ấy, cái ngang tàng ấy của hiện tại vào những mảnh vụn quá khứ quá nhiều nước mắt. Tôi đã từng cho rằng, đang có một hội chứng hoang tưởng trong những người trẻ tuổi, hay thích gắn kết những chi tiết trong phim ảnh thành câu chuyện của đời mình. Trên những trang blog, rất nhiều cô cậu non tơ đã kể vẻ rất sành đời, đã nói về quá khứ của mình rất đỗi bi thương, nhưng thực chất họ mới bước qua tuổi mười lăm và chưa bao giờ biết đến mùi của những giọt mồ hôi khó nhọc. Tôi rất không muốn tin một đứa như nó lại sống một ấu thơ không ra gì. Nguyễn ít cởi lòng. Nên những gì về nó giống như những giọt nước rơi lơ mơ trong những câu chuyện giữa những buổi uống rượu đêm buồn. Sau nhiều cuộc nhậu, chúng tôi coi nhau như huynh đệ. Huynh đệ rồi biết rõ cuộc đời nhau. Cuộc đời như những trang giấy nham nhở. Để rồi đến giờ tôi vẫn không biết Nguyễn sống vì những điều gì.

    Đã có những tháng năm dài, Nguyễn thường ngồi nhìn màn hình máy tính trong đêm, đánh lên đó những con chữ về đời mình rồi xóa đi một cách không thương tiếc. Không ngủ được. Ngồi nhìn vào bóng tối trong căn nhà trọ trên phố, nó cảm giác như mình đang tồn tại trong một cõi nào khác với mặt đất trần tục. Rồi nó buộc phải lôi cái hộp thuốc trong túi xách, lấy ra một liều rồi vả hết vào mồm. Luôn là những liều an thần. Không ngủ được. Tao cũng không biết khi tao ba chục tuổi, tao còn nhớ được gì không. Nhưng mà không ngủ được, phải uống. Cảm giác như khi uống thuốc ngủ, Nguyễn tìm được mình trong giấc mơ dễ dàng hơn.

    Chúng tôi xuôi đồi. Những cây hoa dại mùa đông nở những bông không hương. Buổi tối, chỉ có quán cơm duy nhất giữa thị trấn, chủ quán ngồi vêu chờ đám xe tải chạy đường dài. Chúng tôi ngồi ăn cơm với thịt nhím xào. Rượu không? Bà chủ hỏi, ngực trễ phơi cả một vườn lê già. Nguyễn cười, cho chai rượu ngô. Rượu ngô lâu ngày tôi không uống, từ ngày xa nhà, giờ bất chợt lại thấy nhớ. Nguyễn nói, rượu ngô như chăn đơn cũ, người mới cầm thì chê thô, người đắp lâu lại thấy ấm ngào ngạt. Hóa ra chúng tôi cùng ra đi từ những xó rừng, cùng thích thứ rượu bần hàn mà thôi. Nhưng sao tôi khác Nguyễn, tôi đã không bạt mạng được như nó, tôi đã không tự quyết định được mọi chuyện của cuộc đời mình một cách rành mạch? Tôi cũng không biết nữa. Nhưng tôi đã yêu em, đã nhìn thấy em đi cùng Nguyễn, đã thấy những giấc mơ vụn dưới chân mình, mà tôi đã không thốt lên được lời nào. Tình yêu như một giấc mơ buồn thảm mà mãi sau này, khi mọi thứ đi qua rồi, tôi cũng thấy mình có lỗi.

    Bà chủ quán dọn rượu rồi ngồi hóng chuyện. Dạo này thị trấn nhiều chuyện rùng rợn lắm. Thằng chồng con Huê mới nhảy lầu tự tử . Nợ nhiều quá, không trả nổi, đầu gấu nó lùng, trốn mãi sao được. Chiều đó qua nhà tôi uống rượu, rồi đêm đến nghe đánh bụp như quả mít rụng. Sáng sau người ta thấy nằm im lìm trước nhà. Sợ lắm. Đất này bạc bẽo mà. Bà chủ quán nói với Nguyễn. Nguyễn ngồi im uống rượu. Rồi đột nhiên Nguyễn hỏi, cô Huê giờ sao? Bà chủ quán bảo, thì vẫn vậy. Con đó số hồng nhan, mới hơn ba chục tuổi đầu mà góa bụa. Một mình sống thôi. Chả có con cái gì. Nó mới mở một sạp hàng nhỏ, bán miến rong với nấm hương cho người ta mua về xuôi. Nguyễn bảo, nhà cô ấy ở đâu? Bà chủ quán hỏi, tính đến thăm hả? Mày còn trẻ, còn trai tân, mắc mớ gì mà đến? Nguyễn bảo, kệ mẹ tôi, bà hỏi tò mò quá. Bà chủ quán bảo, đến chỗ nào có cái chùm chuông gió treo điếc tai hàng phố thì là nhà nó. Thanh niên đẹp trai vậy mà tính khí khó ưa. Nguyễn bảo, mày cứ ngồi đây, chờ tao. Rồi bỏ đi. Bà chủ quán được dịp nói chuyện về cô Huê. Ngày trước cô Huê là mối họa của đàn bà thị trấn. Biết bao nhiêu gã đàn ông đến, săn tìm và người ta đồn cô đã ngủ với tất cả đàn ông thị trấn. Cô Huê đẹp. Tôi cắt lời bà, bà có thấy ai ngủ với cô ấy chưa? Quỷ sứ! Cậu ăn mắm ăn muối đâu mà hỏi chuyện vớ vẩn vậy? Mà lạ lắm, đám tài xế xe tải hôm nào đi về cũng mang cho nó nắm tiền, túi hoa quả. Họ bảo, có quà đón tay nó đi xa về gần may mắn. Nó là cái thần tài. Mà cậu là thế nào với cái thằng Nguyễn trời đánh? Là bạn. Bạn bè gì cái thằng này, ngày nhỏ nó đập không biết bao nhiêu người. Nhiều đứa mụ mị vì ăn đòn của nó. Mà tôi thấy cậu hiền lành quá. Nó hiền mà nó ăn thịt bà được đấy - tiếng Nguyễn bất chợt vọng lại. Nguyễn đã về, rót rượu ra chén, uống một mình. Bà chủ quán hấp háy mắt, không giấu được nỗi tò mò. Con Huê sao? Sao là sao? Thì tôi hỏi xem nó như thế nào mà? Như thế nào thì liên quan gì đến nhà bà? Biến ngay! Biến thì biến, thanh niên gì khó tính như ông già. Nguyễn ném tiền lên bàn. Tan một bữa tối. Bữa tối vắng trong thị trấn vắng, ảm đạm.

    Chúng tôi ngồi hút thuốc dưới gốc cây bàng cụt ngọn. Thi thoảng có chiếc xe tải chạy ậm ạch qua. Mùa đông lạnh như một nắm cơm khô. Nguyễn rít thuốc như tích tụ trong lồng ngực mình một bình khói. Rồi bảo, cô ấy đã không còn yêu tao nữa. Hóa ra bao nhiêu tháng bao nhiêu năm, bạt mạng cả cuộc đời nhưng Nguyễn vẫn không đổi thay được chính mình, không dứt bỏ được xứ này như dứt bỏ một thứ quá khứ buồn đau. Vì sao? – Tôi hỏi. Tao cũng không biết nữa. Tao đã đi qua đời con gái của cô ấy. Nhưng cũng chả trách được. Tao đối với cô ấy chả ra gì... Những ngày cũ kỹ ấy, hóa ra với Nguyễn không chỉ là những ngày tháng dằn vặt. Nó còn có cả một tình yêu thầm lén và cuồng dại. Khi Nguyễn biết mình là người đàn ông đầu tiên của Huê, gần như Nguyễn đã ngất đi. Một tình yêu mà mãi sau này, Nguyễn vẫn không sao quên được. Không ai cho Nguyễn cái cảm giác ngây ngất ấy. Những người đàn bà đi qua đời Nguyễn đã gom góp từng ngày sự khinh miệt trên mặt nó. Để rồi hôm nay, khi tôi hiểu nó sống vì những điều gì thì điều ấy đã vỡ vụn mất rồi. Ngày Huê cưới chồng cũng là ngày Nguyễn bỏ thị trấn về thành phố. Huê lấy một người đàn ông làm chủ những chuyến xe hàng. Huê có yêu người đàn ông đó không? Đến bây giờ Nguyễn vẫn không trả lời được. Nhưng lòng người thiếu phụ ấy đã vĩnh viễn khép lại sau khi chồng cô mất. Nguyễn đã không còn lại gì với thị trấn, ngoài một tình yêu bị nhốt giấu trong lòng người như huyệt mộ và một nắm xương tàn của cha.

    Tao muốn về Hà Nội quá, Nguyễn bảo. Tôi gật đầu. Và khoác túi, bước ra ngoài, tìm một chiếc xe tải để vẫy xin đi nhờ. Nguyễn lụi cụi trong nhà rất lâu. Như thể ngắm nhìn ngôi nhà thơ ấu lẫn trong bóng tối. Đến khi tiếng xe chạy tới, Nguyễn lao ra cùng tôi. Chúng tôi leo lên thùng xe chất đầy những bao thảo quả. Nguyễn bảo, thôi, coi như tạm biệt.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Một câu chuyện rất cũ. Hai năm rồi, phải, cũng phải đến hai năm rồi tôi mới chợt nhớ lại. Một ngày mùa đông nào đó trong cuộc đời mình, mình đi trên một hành trình không phải để cho mình mà cũng không vì điều gì cả. Tôi đi như một điểm tựa cho Nguyễn sau biết bao câu chuyện. Tôi sợ nó tự tử, chính xác là như vậy. Hai năm kể từ ngày đó, kể từ ngày Nguyễn lên máy bay vào Sài Gòn để bắt đầu một cuộc sống không cần thuốc ngủ để tẩy rửa, tôi cố tình không liên hệ với Nguyễn. Không phải vì những hiểu lầm trong một mối quan hệ tay ba như người ta thêu dệt về tôi sau này mà đơn giản để Nguyễn bắt đầu ở một nơi không có nước mắt. Cuộc sống của tôi sau hai năm cũng mang nhiều biến động. Một gia đình và một tình yêu. Tôi chỉ chợt nhớ lại Nguyễn khi một ngày rảnh việc sục sạo các blog để tìm ý tưởng cho một chương trình quảng cáo. Cái blog ấy không biết của ai, nhưng nó gợi lại cho tôi về cái thị trấn đầy hoài niệm ấy. [/FONT]
     
    No MercY, julie, 5dola and 1 other person like this.
  15. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thoáng xôn xao con gái[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hạ Nguyên[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]- Chị ơi, làm ơn cho tôi hỏi...
    Trước mặt tôi là một gã con trai với hàm răng trắng bóng đều tắp và một nụ cười chẳng biết tròn hay méo, chủ nhân của câu hỏi ngượng ngập ấy. Bàn tay mượt mà của nhỏ Vân cận nhéo vào tay tôi và tôi chợt hiểu: Nạn nhân của những trò cười sắp diễn ra sẽ là tên con trai này.
    - E... hèm... chẳng hay em hỏi chi?
    Nhỏ Vân sửa lại cặp mắt kiếng và nghiêm mặt hỏi "nạn nhân". Khuôn mặt của gã con trai chẳng rõ màu gì. Có lẽ, đó là bức tranh nguệch ngoạc của một tay họa sĩ vụng về khi pha hổ lớn màu đỏ và màu tái xám. Duy chỉ có đôi mắt đen lanh lợi của hắn đã chứng tỏ bản lĩnh không đến nỗi xoàng của con trai khi bị một lũ con gái tinh nghịch như chúng tôi áp đảo.
    - Tui... hỏi thăm có phải đây là trường Kim Đồng không?
    À... như vậy là hắn ta chuyển tông để lặp lại quân bình thế trận. Gã chuyển cái cặp to sù từ tay trái sang tay phải và xốc lại cái giỏ Adidas trên lưng, tỏ ý muốn chấm dứt cuộc hội ngộ bất đắc dĩ này. Nếu tôi đoán không lầm thì đây chính là một tên nhà quê lên đây học lớp chuyên Toán . Nhỏ Vân cận vẫn chưa chịu buông tha tên nạn nhân khốn khổ sau trận cười "hợp đồng tác chiến" của bọn tôi:
    - Bộ em tính xin vô họp lớp Chồi hay sao mà hỏi trường Kim Đồng?
    Tên con trai kịp nhìn lên tên trường Kim Đồng treo tuốt bên trong và bước đi vội vàng như chạy trốn khỏi đám con gái quái ác. Thế là buổi đầu gặp gỡ ấy, hắn đã có cái tên mới do chúng tôi đặt cho: "Gã nhà quê".
    Đúng như tôi đoán, gã học lớp chuyên Toán, tên Phương, ở huyện Châu Thành. Vì hai lớp chuyên Văn và chuyên Toán có những tiết học chung nên thỉnh thoảng nhỏ Vân lại khều tôi: "Ê, mày... "gã nhà quê" đang chiêm ngưỡng bọn mình với ánh mắt căm thù".

    Những lúc ấy tôi thường quay lại để dòm "dung nhan" của hắn, và nụ cười tôi chợt tắt ngay khi thấy ánh mắt rất lạ của gã đang chăm chú nhìn mình. (Chẳng hiểu tâm hồn "chòi văn" của tôi có quá hư cấu hay không nữa).

    Chẳng hiểu vô tình hay cố ý, những bữa ăn tập thể (hai lớp chuyên được nuôi ăn học theo chế độ ưu đãi của Tỉnh) bao giờ hắn cũng ngồi đối diện với bọn tôi. Những sự kiện ấy lặp đi lặp lại đến nỗi bọn lớp chuyên Toán đã kháo với nhau: "Thằng Phương trồng cây si lớp Văn...". Riêng nhỏ Vân cận thì quả quyết:
    - Nguyên ơi! Ác giả, ác báo... Gã nhà quê ấy si mày rồi. Bữa nào đi học về mà mày không có đuôi...
    Tôi đỏ mặt chẳng dám hé nửa lời vì sợ cái miệng của nhỏ Vân còn hơn cái loa phóng thanh, sẽ làm cho khu nội trú gièm pha. Và chẳng hiểu sao, tôi cũng thường lén quan sát Phương những lúc anh ta lẽo đẽo sau lưng chúng tôi từ trường về khu nội trú. Tôi còn âm thầm theo dõi nhưng mẩu chuyện nhỏ nhặt mà các chị em lớp chuyên Toán nói với nhau có liên quan đến Phương. Qua đó, tôi được biết, "gã nhà quê" là người được tuyển vào lớp chuyên Toán với số điểm cao nhất, và anh ta đã là niềm hy vọng lớn nhất đối với thầy cô hướng dẫn lớp chuyên Toán. Có những hôm chuyên Văn của chúng tôi ra chơi sớm, chẳng ai khiến tôi đưa mắt nhìn vào cái bàn cạnh cửa sổ có "gã nhà quê" đang chăm chú nhìn lên bảng. Chúng tôi vốn có máu nghệ sĩ của những "chòi văn" thường hay rong chơi, đùa tếu và xem bọn "chú học" của lớp chuyên Toán là những cỗ máy khô khốc... Thế mà, tim tôi có lúc đã bồi hồi gõ nhịp như trống trường khi cảm nhận mình bị gười khác nhìn từ hành lang lớp học. Bao lời giảng của thầy dẫu thật hấp dẫn cũng rơi rớt đâu mất. Nhỏ Vân tinh ý đẩy cho tôi mảnh giấy có dòng chữ: "Rơi vào mê hồn trận rồi ư ?".

    Thật đúng là tai họa đối với tôi, vì thời gian dự kỳ thi Quốc gia không còn bao lâu nữa thì tôi bị bệnh. Tôi nằm trên giường, gắng gượng cầm tập lên nhưng đầu óc quay cuồng. Nhìn những chiếc lá xanh non rung rinh trên cành bã đậu ngoài hiên mà lòng tôi cứ héo sầu, bất lực... Giờ này, các bạn tôi đang miệt mài với những mẫu đề luận, còn tôi nằm lại ở phòng nội trú với căn bệnh không mời mà đến.
    - Nguyên!...
    Tôi không quay lại nhưng nghe giọng nói bất chợt gọi mình đã biết ngay đó là Phương theo một linh tính kỳ lạ.
    Vội vàng chùi nước mắt, tôi quay lại và muốn bật cười khi thấy dáng điệu lúng túng của Phương. Trên tay Phương lỉnh kỉnh đường, sữa, sách... Đặt các thứ lên cái bàn bên vách phòng, Phương kéo ghế lại cạnh giường, run run hỏi:
    - Nguyên đã bớt chưa?
    Tôi mỉm cười gật đầu. (Chắc nụ cười của tôi cũng méo mó như lần đầu Phương cười khi gặp bọn tôi). Trong tôi đang dâng lên một cảm giác khó tả - vừa ngượng ngùng, vừa cảm động đến e ngại...
    - Đang giờ học sao Phương đến vậy?
    - Giờ này, không... có ai... Phương... sợ...
    Tôi nhìn Phương và bỗng phát hiện ra điều kỳ lạ trong đôi mắt anh: Đôi mắt đen cứng cỏi ấy tràn ngập tình... thương. Người tôi như chơi vơi và lời nói trở nên lập cập, chẳng hiểu mình đã nói gì...
    Bất chợt, Phương đặt tay lên trán tôi và nói:
    - Nguyên còn nóng đây nè...
    Tôi run rẩy, miệng lắp bắp như đang lên cơn sốt:
    - Đ...ừng... Phương! Và bàn tay tôi đưa lên gạt tay Phương ra. Cái va chạm tự nhiên cũng đủ cho tôi nhận ra bàn tay của Phương cũng nóng hầm hập. Phương bối rối, rụt tay lại và khuôn mặt đỏ bừng. Nghe tiếng lũ bạn nhao nhao ngoài cuối hiên dãy nhà, tôi cuống quýt:
    - Phương... Phương về... đi!
    - Ráng... khỏe... Phương.... về
    Phương lúng túng vội vàng ra về. Lới nói ngập ngừng và đôi mắt như mãi còn lưu luyến. Tôi chỉ kịp kéo mền trùm kín đầu thì tiếng guốc của lũ bạn gõ nhịp ngoài cửa. Nhỏ Vân đã nói ngay:
    - A... chàng thăm nàng. Đường, sữa, sách... Ôi...
    Nhỏ Vân đã kịp phổ biến ngay bản tin sốt dẻo đủ để các bạn nữa cả hai lớp chuyên Văn và Toán biết được. Còn tôi chỉ muốn bật khóc trước bao lời trêu ghẹo của bạn bè. Bên kia phòng nam, anh chàng Phương cũng đang được bạn bè chất vấn...
    Nhưng thời gian đâu để cho chúng tôi có dịp trêu ghẹo nhau mãi. Kỳ thi Quốc gia đã đến và qua đi, còn chúng tôi phải chia tay. Trong buổi chiêu đãi của Sở giáo dục, có bạn đã rơm rớm nước mắt khi nói lời giã biệt. Riêng tôi, tôi đã ghi mãi khuôn mặt của từng người bạn trong ký ức học trò. Trong đó, hiển nhiên, gương mặt của "gã nhà quê" là rõ nét hơn cả, bởi những dòng chữ để lại trong quyển lưu bút của tôi, Phương viết rất đa nghĩa... - mà chỉ có tôi mới có thể hiểu hết.
    [/FONT]
     
    No MercY, julie, 5dola and 1 other person like this.
  16. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thói quen[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thanh Hương[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đến lúc này thì tôi hiểu rằng mọi chuyện sẽ phải kết thúc. Như sự lựa chọn cuối cùng. Thật ra tôi muốn mình có tất cả. Quân bảo tôi: "Bà tham lam quá...". Năm năm trong trường đại học với một mối tình đầu, đủ biến tôi thành một người đàn bà hãnh tiến.

    Thắng, gã đàn ông học cùng lớp, bặm trợn và nhàu nát nhận xét: "Em là người nhiều tham vọng và không thiếu thủ đoạn".

    Tôi ba mươi tuổi, từng làm ở ba cơ quan nhà nước. Và dừng lại ở một dự định tốt đẹp với chút danh vọng hư vô như sương khói. Tôi biết mình đã làm được nhiều điều mà khối kẻ phải ao ước. Nhưng những cái đó cũng chỉ được cấu thành bằng quyết tâm và nghị lực, thứ tôi được di truyền từ cha. Tôi không quen dùng thủ đoạn, ngoại trừ việc lấy chồng. Anh hiền lành, ngã vào quyết định của tôi, trong niềm hạnh phúc. Giá tôi có thể cố gắng đơn giản để yêu anh, anh chẳng có gì mà nói. Tôi tuyên bố: "Em sẽ đi học cao học! Anh im lặng sắp xếp cho tôi mọi đồ dùng cần thiết, đưa tôi lên tầu. Cẩn trọng buộc nút ba lô vào giá hàng, rồi xuống ôm con gái dưới sân ga nhìn theo tầu chạy. Đứa con là chiếc cầu nối để ba tuần tôi lại nhảy lên tầu, vượt một trăm tám mươi cây số về với anh, vội vàng như một bà buôn chuyến rồi tức tốc ra đi.

    Tôi quen Thịnh trong quán cà phê. Đêm sau có tiếng gõ cửa.

    Thịnh với ba bông hồng đỏ thắm đứng trước cửa phòng. Tôi quá quen những cuộc viếng thăm đột ngột như thế, thản nhiên nhận bó hoa, sửa soạn, nụ cười hết sức dịu dàng. Mùa đông năm ấy lạnh thấu xương. Tôi rất thích xuống phố vào những đêm lạnh cắt thịt da. Quân cứ nằng nặc bắt tôi phải đi bộ từ trường ra toà soạn báo, nơi chúng tôi thường tụ tập. Những đêm lang thang trở nên tuyệt diệu. Tôi kể cho Quân nghe về Thịnh. Quân bảo: "Giai nhỏ chết chị rồi. Bà yêu tôi còn hơn..." Quân đa tình giống nhà ngoại cảm, tưởng thôi miên được tất cả các cô gái trở thành người tình. Vài hôm nó lại thì thào vào tai tôi: "Có một em ưa lắm". Khuôn mặt bừng sáng, hồn nhiên đến lạ. Đã hai năm nay, bọn tôi bao giờ cũng có bốn đứa. Hùng vừa đi Pháp được hai tháng. Lưu Ngọc, sau những lời yêu đương tưởng như rất chân thành với tôi, gã cũng bỏ chạy khỏi nhóm theo một người đàn bà khác. Chỉ còn tôi và Quân. Thằng bé thương tôi như báu vật. Đi cạnh Quân, bao giờ nó cũng lo sợ những chiếc ô tô đang phóng như bay trên đường kia có thể đè nghiến lên tôi bất cứ lúc nào. Từ khi tôi có Thịnh, Quân ý tứ hơn. Nó mong tôi tìm được niềm an ủi. Thi thoảng nó nhắc tôi ân cần về sự kín đáo.

    Đêm nào Thịnh cũng tới phòng tôi, lặng lẽ với Richard Clayderman qua những bản nhạc không lời phát ra từ chiếc casset ọp ẹp. Tôi lẩn tránh ánh mắt đắm đuối của Thịnh, che giấu bối rối trong trò đùa tinh quái. Tôi yêu Thịnh bằng tâm hồn cô bé mới lớn mang hình hài một ả đàn bà từng trải. Thịnh bảo: "Tôi sợ em coi tôi như trò đùa". Phải rồi, nếu có thể coi tất cả là trò đùa thì sẽ đơn giản hơn nhiều. Tôi mong điều đó, nhưng luôn khốn khổ vì những buổi chiều mùa đông hiu quạnh, huống chi tấm chân tình của Thịnh.

    Tôi bị cuốn theo cơn lốc yêu đương của Thịnh và sửng sốt nhận ra những giọt nước mắt nhớ nhung vào đêm đầu tiên Thịnh đi công tác vắng. Tôi rủ Quân xuống phố. Đêm không còn thú vị nữa. Tôi biết, tôi đã yêu Thịnh thật mất rồi. Dư luận bắt đầu xì xào. Thịnh tuyên bố: "Tôi sẽ cưới em". Tôi hốt hoảng hệt lần nghe tin em gái tôi bị băng huyết. Thịnh đánh thức niềm đam mê trong trái tim tưởng chừng chai cứng của tôi bao năm qua. Dù thế, tôi cũng không thể vứt bỏ hiện tại để có Thịnh. Con gái tôi năm tuổi. Đó là khoảng thời gian dài dằng dặc biến chuyển một con bé ngông cuồng dưới hình hài một người đàn bà mập mạp với những tư duy chính xác là tôi bây giờ. Đời là một đường thẳng tắp, dài bất tận. Thịnh là người lữ hành quần áo xốc xếch lôi tôi đến trước ngã ba đường, và bảo hãy lựa chọn đi. Tôi ồn ào đi từ đường thẳng ấy đến trước mênh mông ngã ba mà không biết bước sang ngả nào. Tôi cuống quýt và đau đớn khi phải lựa chọn. Tôi muốn có Thịnh, và quen câu hỏi: "Em còn tiền tiêu không?" của chồng qua điện thoại mỗi ngày. Chồng tôi tin tưởng tuyệt đối vào lòng chung thủy của tôi như phép nhân của những đồng tiền anh kiếm được. Tôi thương anh. Giá hy sinh quãng thời gian lớn lao và mọi thứ vật chất khác để làm anh vui lòng, tôi cũng chẳng từ đâu. Lấy tôi, anh thiệt thua đủ điều. Tôi quyết đoán còn anh thì nhẫn nhịn. Mẹ tôi lo sợ: "Chẳng biết chúng mày có ở được với nhau không?" Nhiều lần cãi lộn với chồng, ý muốn nổi loạn bị đè bẹp khi con gái tôi thỏ thẻ: "Con thương bố, thương mẹ lắm..." Câu nói ấy có đủ sức không đưa chân tôi trở lại con đường cũ giữa ngã ba này? Gặp con gái tôi, Thịnh tuyệt vọng: "Khoảng cách giữa chúng mình sâu quá". Quân bảo: "Bà dừng lại thôi. Tôi lo lắm".

    Đã lâu, tôi không biết khóc. Nước mắt trốn biệt mà tự dưng cứ đầy ăm ắp. Sau hôm gửi con gái về bà ngoại, chiều nào tôi cũng khóc. Tôi hình dung gương mặt con với cặp má phúng phính đỏ như trái táo chín. Tôi hôn vào đó, nó chép miệng: "Mẹ thật vẽ vời!". Số phận con gái tôi gắn chặt cùng sự lựa chọn của tôi bây giờ. Nước mắt phức tạp giống ý nghĩ. Khi tôi khóc vì thương con. Lúc tôi khóc cho mối tình với Thịnh. Nước mắt hiện hình một mùa đông năm sau, trái tim tôi co ro rét khi không còn có Thịnh. Tâm trạng bất ổn. Tôi khóc như mưa gió. Tôi cười sằng sặc. Quân bực bội: "Bà giống con điên". Chao ôi, giá tôi điên được để vô thức xéo nát hoặc nâng niu bất cứ cái gì có trên tay.

    Tôi vẫn nhìn cuộc sống bằng con mắt bàng quan của những nhận thức, xem chừng khập khiễng. Tôi gom tất cả lũ mèo, chó bằng sứ Thịnh mua tặng, ném từ tầng tư xuống. Tiếng sứ vỡ vợi bớt chăng dằn vặt trong tôi? Chiều nay, tôi phóng xe một mình xuống chùa Hà. Bao giờ bế tắc và đau khổ, tôi cũng đi lễ chùa. Mùi trầm ngan ngát, vẻ u tịch và thâm nghiêm của nhà chùa làm tôi bình tĩnh lại. Tôi muốn mình thành kính được như những ni cô kia với niềm tin bất diệt vào chốn không cùng. Mọi hận thù, yêu đương, đau khổ sẽ thành vô nghĩa. Tôi cố gắng tìm lại đức tin cho mình ở tiếng rì rầm cầu nguyện. Nhưng khi về, vẫn nguyên vẹn là tôi đầy ham muốn. Thịnh nói rằng, tôi là tình yêu mà anh tìm kiếm. Tôi cãi: "Tình yêu là thói quen". Thói quen bao giờ cũng khó bỏ. Tôi quen có Thịnh hằng đêm cũng như quen có một chốn trở về sau mỗi lần mệt mỏi. Tôi nghĩ, gia đình là tài sản cố định. Thịnh bị xúc phạm nên cương quyết. Lần đầu tiên, tôi hiểu không phải mọi cái trong tầm tay là đều giữ được.

    Đêm nay, tôi tập xa Thịnh, đánh vật với thói quen một cách khó nhọc. Nhìn đâu cũng thấy hơi hướng của anh. Góc bàn học, bức ký họa trên tường, tới chăn đệm cũng sực hình bóng Thịnh. Tôi rên xiết. Thịnh ơi, người ta có thể lấp đầy khoảng trống này thay vì một thói quen khác có được không? Tôi cảm thấy hoang mang cho lập luận của mình. Tôi không thể đặt lên vai Thịnh cả gánh nặng dĩ vãng của tôi, dù Thịnh sẵn sàng chấp nhận. Thịnh tìm tôi: "Tôi muốn giới thiệu em với gia đình". Tôi lắc đầu, Thịnh thở dài. Bước chân anh nặng nhọc xa dần. Anh đã đi rồi, mang theo cả tình yêu cuồng nhiệt dành cho tôi. Nhìn bóng anh lầm lụi đi dưới làn mưa bụi, tôi muốn chạy theo gọi anh trở lại. Tại sao Thịnh không thể coi tôi như một người tình? Anh vẫn lấy vợ và tôi giữ được gia đình.

    Nhưng Thịnh không giống những người đàn ông tôi gặp. Anh đam mê và quyết liệt quá. Tôi sợ, dù hơn đa số đàn bà ở tính cách mạnh mẽ và tâm hồn lãng đãng, tôi vẫn không thể đi quá cái hữu hạn của một đời người. Một nửa thời tuổi trẻ của tôi đã trôi qua cùng những quyết định vội vã. Đeo đẳng, giam hãm tôi là cả mớ luân thường, đạo lý. Tôi chấp nhận mất Thịnh hôm nay để giữ lại hai điều: Nụ cười của con gái tôi và cuộc đời của Thịnh.

    Đến một ngày nào đó Thịnh sẽ quên tôi, quên một thói quen cũng tự nhiên như khi nó đến. Biết đâu anh sẽ cảm ơn tôi vì sự lựa chọn này.

    Tôi lại cùng Quân xuống phố hàng đêm. Mùa đông bỗng dài hơn, khắc nghiệt và lạnh lẽo quá chừng.
    [/FONT]
     
    No MercY, julie, 5dola and 1 other person like this.
  17. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thư tình[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quý Thể[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trao cho Hải cây bút bi xong Hà rất tự tin, nhủ thầm: Thôi nhé, bây giờ thì đủ cả tem, thư, phong bì, giấy, bút. Chỉ còn đợi chừng nào chàng thấy hứng, bên cốc cà phê đen, điếu thuốc cháy, phì phèo thổi những vòng khói, thả hồn theo mộng, nắn nót viết lên lời tỏ tình mùa xuân, thế là xong!

    Hà là nhân viên bưu điện, ba mươi hai tuổi, có nhan sắc, có duyên, có vị trí, có nghề nghiệp vững vàng. Tóm lại nàng có đủ cái mà người con gái cần để kiếm một tấm chồng xứng đáng. Thế nhưng không hiểu tại sao cho tới tuổi hoàng hôn rồi nàng vẫn còn đơn chiếc? Mẹ nàng đổ thừa "Con gái hưởng đức cha", cha mày xưa nổi tiếng đào hoa, bây giờ con gái gánh chịu. Đời cha ăn mặn, đời con khát nước… Nàng thấy nói như thế là oan cho cha. Cha nàng tuy bay bướm nhưng chẳng làm hại đời người con gái nào mà chính những người đàn bà kia làm ông khổ thì có.

    Hà đứng trông coi quầy hàng sách báo của bưu điện tỉnh. Nơi đây bán cả dụng cụ văn phòng, tem và phong bì, giấy viết thư… Quầy lúc nào cũng đông khách. Thường thường là người tới xem báo mà chẳng mua, tiếng lóng gọi là "xem cọp". Nhiều nhất là mấy cô cậu học sinh, sinh viên, có nhiều cậu học sinh tiểu học phải kiễng chân lên mới với tới được tờ "Nhi đồng". Đặc biệt hơn cả là các bác hưu trí, nhất là ngày nào có tin tức đặc biệt. Tội nghiệp, túi tiền quý cụ cũng chẳng được dồi dào nên cũng tự nguyện gia nhập vào đội ngũ xem báo cọp. Thế nhưng Hà không khi nào dám nhắc nhở. Trong số khách hàng Hà chỉ chú ý tới một người, sau này Hà biết tên, ấy là anh Hải. Anh là một trường hợp vô cùng đặc biệt. Hình như anh ấy là một nhà văn, nhà thơ, hoặc người làm công tác văn học, nên anh chỉ mua một tờ báo Văn nghệ. Tờ báo danh tiếng và uy tín này bán không chạy, bưu điện mỗi tuần chỉ lấy năm tờ, báo về lúc hai giờ trưa ngày thứ bảy hàng tuần thì đúng ba giờ anh Hải đến. Anh đúng như một cái đồng hồ, không sớm không muộn một phút. Có khi anh đến, báo đã bán hết, anh tiu nghỉu ra về. Sau này khi đã có chút cảm tình với anh, Hà thường lấy một tờ giấu dưới quầy hàng, dành cho anh Hải. Lúc đầu anh không biết tấm thịnh tình, sau anh biết, anh cũng chẳng tỏ thái độ gì cả, chỉ tỏ ra là người lịch sự, lần nào, nhận tờ báo trên tay Hà, anh cũng tỏ lời cảm ơn.

    Sự đúng giờ của anh vô tình đã tạo cho Hà một cái gọi là "phản xạ có điều kiện". Suốt tuần cô thắc thỏm chờ đợi cái buổi chiều thứ bảy. Và cái phản xạ ấy lại vô tình làm nặng thêm cái tình cảm của cô.

    Có thể nói Hải không phải là người đàn ông hấp dẫn phụ nữ ngay từ cái nhìn đầu tiên. Anh không đẹp trai, không diêm dúa chải chuốt, không nịnh đầm, không xun xoe với phụ nữ, không mồm mép. Anh nói năng khiêm tốn, cử chỉ chừng mực. Xưa nay Hà cũng rất ngưỡng mộ người đàn ông phảng phất nét lạnh lùng, khinh khỉnh như anh. Hải lu mờ trong đám đông, một thời gian rất lâu Hà mới chú ý đến anh. Khi đã chú ý rồi cô lại phát hiện, anh ấy thực sự là một người đàn ông trí tuệ. Và anh chính là món quà muộn màng của thần ái tình gửi cho nàng. Tình yêu lớn dần trong nàng, nó thầm lặng như những đóa hoa đêm nở trong vườn. Cùng với tình yêu, càng ngày nàng lại càng thấy chàng toát lên một thứ ánh sáng hiếm có của sự thông minh đĩnh đạc, một nhân cách chính trực hiếm có. Anh Hải vẫn là anh Hải trước đây, nhưng đối với nàng, anh ta đã hóa vàng từ lúc nàng yêu. Mỗi chiều thứ bảy anh đến lấy báo nàng chú ý từng cử chỉ nhỏ nhặt của anh. Hình như càng về sau anh càng nán lại với nàng lâu hơn, nói nhiều hơn, nhìn nàng chăm chú hơn và ánh mắt say đắm hơn. Ở giữa chốn đông người anh nói với Hà nhiều câu mà Hà tin trong ấy chứa đựng bao nhiêu là tình tứ, chỉ có những trái tim đập cùng một nhịp và một đầu óc thông minh thông cảm, mới hiểu. Những câu nói thâm thúy hiếm có, người ngoài không làm sao hiểu nổi ý nghĩa sâu sắc.

    Hà nghĩ, thôi thì ta tạo mọi điều kiện, giúp anh chàng này phương tiện cho anh tỏ tình. Hay hơn cả là tỏ tình bằng một lá thư. Thi vị biết bao! Hà trách con người hiện đại hình như để mất dần tính lãng mạn. Giờ đây người ta cho thư tình là thứ xa xí phẩm, cũ kỹ lỗi thời, và không còn cặp tình nhân nào tỏ tình bằng thư. Hà vẫn lưu luyến cái lối tỏ tình tuy cổ điển này nhưng chứa bao nhiêu lãng mạn dễ yêu. Từ đó khi bán báo cho Hải, thay vì thối lại tiền lẻ, khi thì Hà trao chàng con tem, chiếc phong bì và xấp giấy viết thư màu xanh, và mới đây nhất là một cây bút bi. Phương tiện đã đủ, bây giờ tới phần chàng. Hà tin chắc, ai chứ người thông minh như chàng thế nào cũng phải hiểu phải làm gì với những thứ ấy.

    Thế rồi cái buổi chiều định mệnh cũng đến. Hà ngồi chờ như ngồi trên đống lửa. Đúng lúc ấy có tiếng chuông điện thoại. Hà nghĩ, ai gọi điện thoại vào cái giờ gay cấn này? Hay chàng gọi để báo tin không đến lấy báo. Hay điện thoại tỏ tình? Vô lý, làm thế còn gì là thi vị? Hay chàng ốm không tới được, gọi điện cáo lỗi? Cô Thoa ngồi trực điện thoại, nói: "Hà, Giám đốc kêu!". Hà nghĩ, sao rủi thế, lại nhằm lúc dầu sôi lửa bỏng này mà kêu. Chàng đến đây ai tiếp, ai nhận thư? Nàng thầm trách ông giám đốc. Cả tuần không gọi lại nhè lúc người ta đang chờ đợi con quay số phận ngã ra ở cái mặt đen đỏ nào. Hà rời quầy đi tới cầu thang dẫn lên lầu. Nàng đứng trước tấm cửa gỗ lớn đánh vec-ni láng bóng có gắn tấm bảng đề "Giám đốc". Nàng gõ cửa, nàng mong cho công việc chóng qua để trở lại đón chàng. Hình như giám đốc đang tiếp khách. Hà tựa lưng vào tường tưởng tượng. Có thể chàng đứng lại chờ mình. Cũng có thể chàng không trao bức thư tận tay vì chỗ ấy luôn luôn đông người. Chàng là người công chính, chàng sẽ giữ danh tiết cho mình. Cũng có thể chàng đặt bức thư trong một quyển sách gấp lại trao cho nàng. Bức thư có thể ướp hương, sao lại ướp hương? Đàn ông ai dùng dầu thơm? Đây là lá thư tình đầu tiên mà. Còn mình hành động sao nhỉ? Làm sao để chàng hiểu mình đã biết trong sách có thư. Mình nhận sách, lật vài trang, thấy bóng dáng phong bì xanh, mỉm cười, gật đầu… Dòng tưởng tượng đang xuôi chảy thì có tiếng giám đốc:
    - Vào đi!
    Hà đẩy cửa bước vào. Nhìn sắc diện giám đốc nàng biết có chuyện chẳng lành. Ông lục trong cặp ra một phong thư, đẩy tới trước mặt Hà, nói:
    - Đọc đi!
    Hà cầm lên, đúng là loại phong bì màu xanh, chung quanh viền xanh đỏ vẫn thối lại cho Hải. Nàng nghĩ, không lẽ anh chàng này đãng trí đến nỗi gửi thư cho mình lộn sang phòng giám đốc? Thôi cũng chẳng sao, miễn nội dung nó là một lời tỏ tình. Mình gái chưa chồng, anh ta trai chưa vợ, có yêu nhau thư từ cho nhau cũng không phải khuyết điểm, tội lỗi gì, phê phán mình sao được? Mà sao giám đốc mặt mày hầm hầm thế này? Ông giám đốc lại giục:
    - Lấy ra đọc đi, sao tần ngần mãi thế?
    Nàng mở ra, tờ giấy đúng là loại giấy nàng trao cho Hải. Tờ giấy run rẩy trong tay nàng, tại sao chàng chỉ viết có mấy dòng, ngắn ngủi thế này? Hà nghĩ, không chừng anh chàng tỏ tình theo kiểu hiện đại, kiểu tụng kinh ba chữ: anh - yêu - em. Cũng được đi, song làm thế còn gì là thi vị? Tội nghiệp, cũng có thể chàng ta trăm công ngàn việc, quá bận. Giám đốc thấy nàng mở thư, mơ màng vẫn chưa chịu đọc, lại giục:
    - Đọc nhanh đi!
    Hà nhắm mắt lại, trong nàng nổi lên một trận cuồng phong. Nàng định thần, mở mắt ra lắc đầu, nghĩ, can đảm lên, đối diện với sự thật đi. Hà đọc. Không, nàng đánh vần từng chữ:

    Kính thưa ông giám đốc Bưu điện tỉnh.
    Thưa ông.
    Gần đây ngành bưu điện viễn thông có nhiều tiến bộ, trình độ ngang với các nước trong khu vực. Phục vụ khách hàng rất tốt, cung cách văn minh. Riêng tôi, với tư cách là khách hàng thường xuyên, chỉ xin góp một ý nhỏ. Đề nghị bưu điện đổi một số tiền nhỏ lẻ để thối lại khách hàng. Đừng khi thì thối bằng con tem, khi thì bằng cái phong bì, tờ giấy, cây bút. Khách hàng lấy mấy thứ linh tinh ấy làm gì? Về nhà họ cũng ném thôi… Ấy là cung cách phục vụ không văn minh tiến bộ, con đẻ của thời kỳ bao cấp. Mong lần sau khuyết điểm ấy được quý ông khắc phục!


    Giám đốc:
    - Đọc xong chưa? Đó cô thấy không. Bây giờ là kinh tế thị trường, khách hàng là thượng đế. Qua rồi cái thời bao cấp, bán mà như cho, như bố thí. Nay mai tôi họp cả sở phổ biến bức thư điển hình này. À mà…
    - Thưa?…
    - Không có tiền nhỏ tiền lẻ thối cho khách mua báo sao? Nói lệnh của tôi bảo cô Thu bên tài vụ đi tới ngân hàng đổi một số tiền lẻ.
    - Thưa không. Quầy tôi vẫn có tiền lẻ, có nhiều nữa. Cả đống trong ngăn kéo!
    Giám đốc giật mình há hốc miệng:
    - Thế sao không thối lại cho khách hàng để họ kêu ca?
    Hà:
    - Xin ông đừng quan tâm. Đây chỉ là ý kiến của một người bất thường…
    Giám đốc:
    - Bất thường là sao?
    - Bây giờ hạng người này nhiều lắm và xã hội cũng đã đặt cho họ rất nhiều tên…
    - Tên gì?
    - Người chạm mạch, đứt dây, té giếng, tam tam…
    Giám đốc:
    - Cô nói mấy cái từ đó tôi chưa nghe bao giờ, tôi không hiểu…
    - Vì ông xa rời thực tế, bây giờ người ta nói tiếng lóng nhiều lắm.
    Ông giám đốc:
    - Cô đừng dùng tiếng lóng nữa, nói tiếng thường, tiếng nước ngoài cũng được.
    Hà:
    - Thưa ấy là "thằng khùng"!!!
    Nói xong Hà rất sung sướng. Ít nữa Hà cũng đã nhận xét ấy là một thằng khùng, rất xứng với hắn. Cô rời phòng giám đốc, lòng thấy nhẹ tênh. Hà vốn lạc quan, nghĩ, may quá không nhờ chuyện này mình lấy phải anh chàng đó sẽ đẻ ra một lũ khùng con, tệ hại biết bao.
    [/FONT]
     
    No MercY, julie, 5dola and 1 other person like this.
  18. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thoa[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]An Bình Minh[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chưa bao giờ tôi được ngủ một giấc say đến như thế. Tỉnh dậy đầu óc nhẹ lâng lâng, mà phải mấy phút sau tôi mới biết mình đang ở đâu; rồi cũng phải mấy phút sau nữa, tôi mới cảm nhận được không khí yên lành, trong veo, văng vẳng tiếng chim hót. Tôi nằm rốn lại trên sạp, tận hưởng cái phút giây yên ả. Vậy là mình đã ở xa mặt trận, sẽ không còn phải lo địch sẽ nống ra bất cứ lúc nào; không phải đề phòng lính mũ nồi xanh phục kích, không phải luồn rừng, nấp kín để tránh bị trực thăng quây lại bắt sống... Giờ thì tôi đã có thể chắp nối được tòan bộ sự việc xảy ra cho đến đêm qua.

    Cách nay hơn một tháng, mũi văn công xung kích chúng tôi được vào sát mặt trận. Phía trong kia, khoảng ngót ba chục cây số là thành Huế. Ở đấy súng nổ ầm ì; quân ta đã cắm cờ trên nóc Ngọ Môn và hiện đang cố thủ giữ thành. Tin vui chiến trận và mật lệnh văn công quân đội sẵn sàng vào biểu diễn mừng chiến thắng trong thành phô, làm nức lòng chúng tôi. Thế rồi cũng ngay sau đấy có tin mặt trận bị vỡ, quân địch phản kích. Chúng tôi nhận lệnh rút ra tuyến ngoài. Chỉ có lệnh mà không một lời giải thích.

    Đó cũng là lần đầu tiên tôi nếm trải cảnh rút lui. Cứ đi, cứ chạy (theo giao liên) mà không biết đi đâu, bao giờ thì dừng lại. Không thể nói khác đi được: chúng tôi thực sự hoang mang. Dưới đất, ba chục người cả nam lẫn nữ, lăn lê, bò toài, quần áo tả tơi. Trên trời là lũ trực thăng quần đảo, phát loa kêu gọi "các chiến binh cộng sản thua trận hãy về với chính nghĩa quốc gia".

    Cho đến sẩm tối hôm qua thì mũi văn công bị trực thăng chia cắt đội hình. Tôi và Quyến bám lấy nhau, gạt cây rừng, nhằm hướng tối nhất mà chạy; chạy trong tiếng bom nổ, tiếng đạn bắn mà không phân biệt được khi nào là bom, khi nào là đạn...

    Rồi hai đứa tôi lọt thỏm vào một vùng lửa và nhận ra một con đường. Đúng khi ấy thì Quyến bị ngất. Tôi quặp cò bang tay phaưi, kéo xềnh xệch trên đường, chạy tiếp. Xung quanh lửa vẫn cháy rực trời. Chạy cho đên lúc kiệt sức và tuyệt vọng, tôi đặt Quyến vào sau một gờ đá, giơ súng bắn chỉ thiên ba phát, sau đó lăn ra nằm thở, sẵn sàng tử thủ. (Ở tuyến đường Trường Sơn có quy định: bắn một phát súng là tắc đường, hai phát là cấp cứu, ba phát là có người chết. "Ba phát súng là có thằng báo tử. Một nhóm công binh mang cuốc xẻng đi đào mồ" - Lính vẫn hát tếu, ghép với nhạc Bài ca năm tấn như thế).. Chừng non nửa tiếng sau, tôi nghe lao xao tiếng người và liền đó có tiếng một cô gái : "Ai vừa bắn !". Thế là tôi và Quyến đã được các cô gái của một đơn vị thanh niên xung phong mang về đây.

    Nhận dạng xong nơi mình nằm, tôi thong thả ngồi dậy, lười nhác đi ra cửa. Đại đội thanh niên xung phong đóng trong một cánh rừng săng lẻ. Những cây săng lẻ vỏ màu vàng ngà, nhẵn thín như cây ổi, cỡ hai người ôm đang mùa trổ hoa. Những chùm hoa to màu tím nhạt tạo cảm giác vui buồn lản lộn. Săng lẻ là một thứ cây lạ, dưới tàn lá của nó, thường không có cây gì mọc được. Vì thế mà dưới đất bao giờ cũng sạch bong.

    Mạch suy nghĩ vẩn vơ của tôi bị ngắt bởi có tiếng con gái ở đâu đây. Rất nhanh, liền sau đó, tiếng cười, tiếng hát, tiếng trêu chọc, cấu chí nhau vang lên khắp nơi, khiến cho cả cánh rừng như bừng tỉnh. Xuất hiện trước mặt tôi là một cô gái đã cứng tuổi. Tôi nhận ra Xoan - đại đội trưởng đại đội thanh niên xung phong, người đã dẫn tốp nữ đi cứu tôi và Quyến đêm qua - Xoan mời tôi sang lán của cô uống nước.

    Xoan có mái tóc dày, đen. Khuôn mặt của cô không đẹp, nhưng lại không có một nét nào xấu. Với cái dáng to khỏe mà không thô, trang nghiêm nhưng vẫn đằm thắm, đã khiến cho tôi ngay từ đầu có thể cảm nhận được ở cô sự chân tình, tin cậy. Sau câu thăm hỏi tình cảnh đơn vị của nhau, Xoan phác một kế hoạch: Trước mắt, tôi và Quyến cứ nghỉ lại đây cho hồi sức. Xoan sẽ liên lạc các nơi để tìm lại đơn vị cho chúng tôi. Với các cô, đường Trường Sơn thuộc như bàn tay này, việc tìm đơn vị cho tôi chắc không có gì khó.

    Thế là tôi và Quyến ở lại đơn vị nữ thanh niên xung phong ấy. Ngay từ phút đầu, tôi đã nhận ra mình là trung tâm chú ý của các cô gái (chỉ tội cho Quyến, cô như bị lọt thỏm vào quên lãng). Tình cảnh ấy đã bắt tôi phải vận động hết công suất. Thôi thì đủ trò. Ngoài tiết mục biểu diễn: hát, đọc thơ, làm ảo thuật; tôi còn kể chuyện thời sự. Chuyện thành phố, chuyện làng xã, chuyện Liên Xô, chuyện Trung Quốc, vốn đã cũ rích, nay được tôi khoaăc áo mới thời gian, vậy mà vẫn cứ làm các cô gái tròn xoe mat, thích thú. Bù lại, tôi được săn sóc tối đa, được ăn của ngon vật lạ do các cô hái lượm, săn bắt.

    Tôi như chuột sa chĩnh gạo, không phải mó tay vào bất cứ việc nặng nhọc nào, cho dù đó là việc đích thực của đàn ông. Tất cả đều do một tay các cô lo liệu, cáng đáng, kể cả chuyện đi săn. Mặc cho tôi dò hỏi, bộc lộ lòng ham thích, viện cớ tôi là khách, đại đội phải có trách nhiệm bảo vệ an toàn để còn trả tôi về đơn vị, nên các cô vẫn tỉnh bơ, không chiều. Chỉ đến khi một đĩa thịt cheo thơm phức bưng lên, và nghe các cô kháo nhau: "Hoài của, bắn hụt một con lợn rừng cỡ hơn tạ thịt", tôi mới được biết rạng sáng nay, có một tốp ba cô gái vừa đi săn về.

    Mấy ngày sống ở đại íõi, tôi mới thấy đủ cái tài của các cô thanh niên xung phong. Cũng ở đại đội này, tôi mới giật mình hiểu ra cái chất chinh chiến giang hồ của tôi (dù đã được coi là nhất đoàn văn công) chưa thấm tháp vào đâu. "Suy cho cùng anh vẫn chỉ là một anh lính cậu". Các cô bảo tôi như vậy sau cái buổi sát hạch ngẫu hứng. Chả là xin mãi không được đi săn, tôi làm bộ dỗi, tuyên bố: Nếu không cho đi săn, tôi sẽ không ăn thịt rừng do các cô bắn. Các cô cũng chả vừa, liền đặt ra một cuộc thi bắn súng. Nếu tôi thắng, sẽ được theo các cô vào rừng săn bắn, còn nếu thua thì nghỉ khỏe, miễn khiếu nại. Mục tiêu là tổ kiến vống trên cành cây khô cách chừng ba mươi mét; tư thế bắn tùy chọn. Máu anh hùng của tôi nổi hứng, tôi tỳ súng vào thân cây. Sau tiếng nổ, tổ kiến không một chút rung rinh. Cả đại đội cười vang rừng. Đến lượt các cô trổ tài "liền chị", Xoan trịnh trọng tuyên bố:
    - Bọn em chỉ cần đến loại hai của đại đội. Con Thoa đâu, làm nhiệm vụ.
    Tôi biết cô bé Thoa này ngay từ buổi sáng hôm đầu tiên ở đại đội. Đó là cái cô gái mười bảy tuổi, em út của đơn vị. Lúc tôi đang ngồi ở lán của Xoan thì Thoa đi qua cửa, cô dừng lại và cứ đứng chôn chân tại chỗ nhìn tôi. Thấy vậy, Xoan bật cười bảo: "Vào thì vào, đi thì đi; sao lại đứng như trời trồng thế kia". Thoa như bừng tỉnh, xách xô nước lững thững đi ra suối.

    Ngay từ đầu, tôi đã bất ngờ vì vẻ đẹp của Thoa: Dáng người thanh mảnh, mặt trái xoan, mắt nâu, chân dài, eo thắt, vai thon nhỏ. Ngay đến phải so với Quyến, diễn viên múa xinh nhất nhì đoàn văn công thì Thoa vẫn ăn đứt. Khỏi phải nói, tôi đã nghĩ những gì khi nhìn thấy Thoa. Nếu tôi không khôn hơn Thoa thì có lẽ chính tôi, cũng sẽ nhìn cô trân trân như cô đã nhìn tôi vậy.

    Tôi vẫn có quan niệm người thế nào thì nơi công tác, làm việc phải như thế. Không nói đâu xa, ngay trong đoàn văn công thôi: Con gái múa ắt phải xinh hơn con gái hát, còn con gái kịch ắt phải có duyên, nhí nhảnh hơn cả con gái hát và múa. Vậy mà một người như Thoa, sao lại có mặt cái ở nơi sống chết cận kề này. Dù thế nào thì tôi cũng chỉ là một thằng con trai rất thích con gái đẹp. Thoa đẹp thế, làm sao dửng dưng cho được. Thế là từ đó, tôi luôn tìm dịp thoát khỏi ánh mắt của hơn năm chục cô gái, khéo léo nhìn riêng Thoa. Lần nào cũng vậy, khi lia được ánh mắt đến Thoa thì tôi đều bắt gặp Thoa cũng đang nhìn lại. Không như tôi, Thoa không nhìn trộm, cô có cái nhìn thẳng thắn, nhưng thật khó tả và lần nào cũng làm tôi xốn xang. Ánh mắt của sự tuyệt vọng, giống như ánh mắt để dành cho những cuộc chia ly.

    Phải thú thật là tôi rất thèm được nói chuyện một mình với Thoa. Song tôi lờ mờ hiểu rằng, tôi đang là của chung cả đại đội, riêng tư lúc này một điều hết sức dại dột. Xoan - một con gà đông cảo mẹ, chăn dắt bảo vệ bầy đàn - sẽ sẵn sàng xù lông mổ cho tôi một phát, rồi tống cổ tôi khỏi đơn vị.

    Và bây giờ, Thoa len ra khỏi đám con gái đến đứng trước mặt tôi. Dù mặc một bộ quân phục rộng thùng thình, tôi vẫn nhận ra vẻ đẹp của cô. Thoa đón khẩu AK từ tay tôi. Hình như tay Thoa hơi run run. Tôi cảm thấy điều này chính từ đôi tay của tôi. Vẫn là người khôn hơn, tôi vui vẻ khỏa lấp "mời cô bé" và neă sang mõt bèn, chờ. Thoa giương súng lưỡng lư, rồi cô nói nhỏ với Xoan: "Em bắn con chim chích". Tôi không thấy con chim chích đâu; trong lùm lá tít trên cao kia, chắc chỉ có thể nhìn thấy những quả đa vàng vàng, bé xíu. Cái chính là tôi đang bị hút hồn bởi gò má thanh tú, làn da mỏng, mịn màng có những mạch máu li ti. Và bàn tay nữa, đôi tay nuột nà với những ngón tay thon thả. Thoa lướt nhẹ ngón tay trỏ ngoài vòng cò súng, rồi từ từ đặt vào lẫy. Đầu ngón tay hồng lên khi cô kéo cò… Đôi tay như thế này làm sao lại có thể là tay cầm choòng, cầm cuốc. Tôi đã đọc ở đâu đó trong đám sách số tướng rằng, người có đôi bàn tay đẹp ắt sẽ có cuộc sống nhàn hạ, sung túc. Có thể lắm chứ. Mai kia khi mà chiến tranh kết thúc. Tiếng nổ vang lên cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi. Liền sau đó, con chim chích bé bằng đúng quả đa rơi ngay trước mặt tôi. Mọi người reo hò. Tôi cũng reo hò. Thật lòng thán phục.

    Thế rồi tôi cũng tìm được đơn vị, đồng đội của tôi may mắn không ai hề hấn gì. Hôm chia tay, gần như cả đại đội thanh niên xung phong đi tiễn tôi và Quyến. Ngay từ đầu, tôi đã nhận ra thiếu bóng dáng Thoa, song phải đợi đi một quãng đường, tôi mới đủ can đảm hỏi Xoan về sự vắng mặt của "Thoa xạ thủ" (kể từ sau cuộc thi bắn, tôi gọi Thoa như thế). Xoan cho biết: Thoa đang khóc ở nhà. Cô nhất định không chịu đi tiễn tôi. Lúc gần chia tay, Xoan nói giọng bùi ngùi:
    - Con Thoa gửi lời xin lỗi anh. Hôm nọ nó dại. Vì phải nghe lệnh em, nó đã không dám bắn trượt.
    Nghe vậy, sống mũi tôi cay cay. Ra thế, nhưng tôi nào oán trách Thoa. Tôi đang nhớ đến Thoa đây. Nhớ như in khuôn mặt trẻ thơ có những mạch máu nhỏ li ti, lòa xòa những sợi tóc mai và đôi bàn tay nuột nà với những ngón tay thon thả
    - Nhưng nó không khóc vì chuyện ấy đâu - Hồi lâu sau, Xoan nói nhỏ, giọng ngập ngừng vừa đủ cho tôi nghe.
    Vắng Thoa, cuộc tiễn càng lúc càng trở nên dùng dằng, ngượng ngập khó tả. Tiếng nói cười chỉ ngưng một giây thì lập tức cái không khí trầm lặng, nặng nề đã vây chặt lấy chúng tôi. Cho đến tận phút cuối, tôi vẫn thầm mong có tiếng gọi của Thoa, có bóng Thoa mảnh mai xuất hiện đâu đó trên lối mòn đi tắt…

    Đến đầu dốc dẫn ra con đường lớn, Xoan và đám liền em dừng lại. Chúng tôi chia tay và ngay lúc đó, một cảm giác không rõ ràng cứ vương vít trong tôi. Có cái gì đó giống như sự luyến tiếc, giống như mình vừa bỏ quên mất một thứ quý giá, không bao giờ còn thấy nó trên đời. Triền dốc cuốn chân tôi lập bập, keo tôi ra con đường lớn mà tâm trí tôi thì lại như ở lại nơi những mái lán lúp xúp dưới tán rừng bằng lăng già, hoa tím lặng lẽ.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chúng tôi vào lại chiến trường, mãi nửa năm sau mới trở ra. Khi về đến đông Trường Sơn, đoàn văn công chúng tôi (lúc này đã hợp các mũi xung kích) được lệnh ghé vào biểu diễn cho một bệnh viện tâm thần tiền phương. Bệnh viện có khoảng 30 chục y - bác sỉ và hơn một trăm thương bệnh binh, trong đó phân nửa là bệnh nhân tâm thần.

    Văn công đến làm náo loạn cả bệnh viện. Đúng ra thì cũng tại những người bệnh tâm thần. Ngay khi chúng tôi dựng sân khấu đã thấy họ tốp năm, tốp ba dè dặt tiến ra xem. Một người trong nhóm còn nhại giọng tuồng, hét lên, chế diễu: Đoàn chúng tôi, nay ở mai đi - chẳng biết nói gì, xin anh con lợn... Nhưng họ nào có đứng yên tại chỗ; chỉ mươi phút sau, tất cả bọn họ đã cùng lao vào giúp chúng tôi làm sân khấu. Làm rất nhiệt tình và với một sức lực đáng ngạc nhiên; (chỉ có điều làm thì ít mà phá thì nhiều). Thấy chúng tôi khiêng những tấm ván để ghép sân sân khấu, họ cũng bắt chước, nhưng lại chạy tuốt ra xa, quẳng xuống rãnh nước. Chiếc ru lô cuốn dây điện kéo từ máy nổ vào sân khấu, nặng phải hai người khiêng thì họ chỉ cần một; người này vác chạy ra máy nổ, lập tức kẻ kia lại vác chạy vào sân khấu. Cứ thế họ làm rối tinh, rối mù cả lên. Phải đến khi có bác sỉ chuyên khoa ra quát, tất cả mới răm rắp, tự động sắp hàng ngồi chờ.

    Không có gì vui vẻ khi phải biểu diễn cho bệnh nhân tâm thần. Những người bệnh ngồi nghiêm trang, song họ làm chúng tôi dở khóc, dở cười. Trên sân khấu, hát bài nào thì phía dưới họ múa may, quay cuồng theo bài hát đó. Chỉ cần trông những động tác của họ, biết ngay trước đây họ đã từng làm nghề gì. Đông nhất vẫn là lính lái xe. Có tới hơn chục anh chăm chú say sưa, nghiêng ngả vặn vô lăng, người nhún nhẩy theo nhịp xe chạy, khi chúng tôi hát Chào em cô gái Lam Hồng.

    Chúng tôi đã quen phục vụ trong mọi hoàn cảnh và cho rất nhiều loại khán giả; nhưng chưa lần nào phải hát múa trong tâm trạng như hôm nay: Vừa thương cảm, vừa đau buồn. Thế rồi xuất hiện một tình huống bất ngờ; đúng lúc tốp ca nữ với đồng phục thanh niên xung phong cất lên: Hỡi cô gái Trường Sơn, bao đêm em đi mở đường... thì một người con gái đứng bật dậy hét: "Tất cả chị em! Ra mặt đường làm nhiệm vụ"... Rồi người con gái ấy lao vào bóng tối. Ở tít xa vẳng lên tiếng khóc thảm thiết: "Chết hết cả rồi. Hu hu... Trời ơi chúng nó chết hết cả rồi...". Buổi biểu diễn vẫn phải tiếp tục, nhưng tôi thì không còn tâm trí nào mà diễn. Không thể nhầm được, tôi đã nhận ra tiếng người con gái ấy.


    Đêm diễn tan, tôi või đi tìm Xoan. Những y - bác sỉ ở đây biết rất rõ về cô. Họ kể, cách nay bốn tháng, Xoan đã phải chứng kiến một cảnh đau lòng: Đại đội thanh nièn xung phong của cô đã bị B52 chụp gọn, một nửa hy sinh, một nửa bị thương. Xoan đi họp ở cụm về, đúng lúc cảnh tang tóc ấy xảy ra. Sau hai ngày đào bới, chôn cất đồng đội, Xoan mất trí, lang thang khắp cánh rừng săng lẻ...
    Tôi tìm được Xoan khi cô đang đắp những ngôi mộ bé bằng nắm tay và khóc. Xoan nhìn tôi trân trân, vô cảm. Tôi nhẹ nhàng ngồi xuống bên cô, cất tiếng gọi:
    - Cô Xoan, tôi Minh đây. Cô có nhận ra tôi không - Xoan nghiêng đầu ngắm tôi. Hai tay Xoan quắp lên vai, ngón chĩa ra phía trước, cái đầu ngó nghiêng, lơ láo hệt như con bọ ngựa đang nhận dạng đối thủ. Rồi bỗng cô trợn mắt co rúm người, thét lên: "Thoa...! Con Thoa chết rồi... hu hu". Tôi lay hai vai Xoan gọi... Xoan vùng lên chạy về phía hội trường. Bóng cô xiêu vẹo, mái tóc đen, dài bay xõa xợi. Hai tay cô múa may:
    - Chúng mày ơi! Các em ơi! Thoa ơi...
    [/FONT]
     
  19. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thư tình mùa xuân[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Quý Thể[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Buổi trưa, trong tiếng nện búa chát chúa của lão Tòng thợ thiếc bên kia hàng rào dâm bụt, và trong mùi phân lợn nồng nặc, mùi phèn chua lòm nhà mụ Mười Dư gió thổi sang, tôi bắt đầu viết: "Trong tâm hồn em như có ai kéo sợi dây treo những chiếc chuông đồng tí hon, reo lên khúc nhạc giáng sinh thánh khiết, và trong tim em những bông hoa ái tình hàm tiếu lặng lẽ toả ngát hương...". Tôi đọc đi đọc lại ngâm nga và lấy làm thú vị. Tôi không làm công việc văn chương, tôi không phải nhà văn, tôi viết thư tình, khổ nỗi, không viết cho tôi, viết cho người, nói theo từ ngữ thời thượng bây giờ là "gia công" thư tình. Tôi mới viết được mấy hàng, con gái lớn nhà tôi bồng em tới hối: - Viết xong chưa, chị Lan đội lưng thúng gạo tới đổi thư.

    Ôi cái nghề không giống ai này mà cũng có lúc đắt giá thế. Mỗi khi cần nơi yên tĩnh để làm việc "đầu óc" tôi thường lấy chiếc võng dù ra treo một đầu vào góc chuồng heo, một đầu vào gốc cây mít ướt. Nhà tôi chật quá, nghèo quá, trong nhà chẳng có bàn ghế nào ra hồn để làm cái buya-rô, ngồi chễm chệ viết lách. Sau tôi thấy ra vườn nằm võng viết tốt hơn. Tôi viết thư tình, ít nữa những áng văn chương tình tứ cũng phải chào đời trong khung cảnh phong lưu thi vị một chút. Sau này nằm võng viết đã thành thói quen. Chỉ với một tấm bìa lịch, thêm cái kẹp quần áo giữ tờ giấy, thêm một cây bút bi nữa là đủ "văn phong tứ bửu". Nằm võng viết bút bi, không phải dễ, phải chúc bút xuống mực mới ra. Cây bút lúc nào cũng dựng đứng như thầy đồ viết chữ Nho.

    Trong thời buổi mới bắt đầu đi vào nền kinh tế thị trường kiếm nghề tương đối dễ. Song vì cái lý lịch của tôi, có mấy năm bị bắt lính, lý lịch màu xám tro, chính quyền địa phương phê tệ quá nên xin việc nơi đâu cũng bị từ chối, không lẽ tôi chịu khoanh tay chết đói, tôi lấy cái vốn cha mẹ cho kiếm sống. Ba má tôi cũng biết người như tôi mà để lại vàng bạc châu báu bao nhiêu tôi cũng bán ăn cả, chỉ còn nước để thứ vốn gì mà ăn mãi không mòn, bán không hết, thời nào cũng kiếm được miếng cơm manh áo lương thiện. Đó chính là cái chữ. Nhờ cha mẹ tốt tính con và có tầm nhìn chiến lược mới cứu tôi sống nổi. Thời lính Mỹ chưa qua nhiều, cái thời ít người biết tiếng Anh là cái gì, học để làm chi? Thế mà mẹ tôi, một người đàn bà nhà quê già cả, chạy tiền cho tôi đi học tiếng Anh. Lúc đầu tôi rất chán, chỉ tìm cách trốn học. Chỉ mấy năm sau, thì việc học tiếng Anh đã thành phong trào, người người mới rủ nhau đi học xin làm sở Mỹ. Lúc đó trình độ tôi đã kha khá. Tôi từ anh học trò xoàng được mời dạy tiếng Anh cho ba đứa con gái đi làm sở Mỹ. Đời tôi lúc này lên hương, không lên như diều nhưng cũng mát mặt với đời. Thế rồi nước nhà thống nhất, Mỹ cút ngụy nhào. Nghề thầy giáo tiếng Anh không còn đắt giá nữa và tôi cũng theo thời thế đi làm hợp tác xã ăn công điểm. Tôi còn kinh hãi cái thời buổi nghe tiếng kẻng vác cuốc ra đồng, cuối mùa lúa gặt về chất như núi đầy kho, song tới phiên mình, sau khi trừ đủ thứ phí, xã viên được đâu lưng thúng lúa đội về nhà độn thêm khoai sắn ăn mới no. Giờ đây ngồi viết thư tình, một thứ lao động nhẹ, viết chừng một buổi được chục ký gạo, ăn được mấy ngày, tốt quá.

    Số là trong cái xã Cận Sơn này mọc lên một nhà máy may áo quần và giày dép xuất khẩu, gọi là liên doanh giữa Hàn Quốc và ta. Cũng nhờ cái xã Cận Sơn nằm cạnh thành phố, đất rộng, không gây ô nhiễm cho phố phường, cạnh đường tiện giao thông, nên nơi đây được những nhà kinh tế chọn làm nơi sản xuất. Bên đối tác họ lo mọi thứ, bên ta chỉ có miếng đất hoang. Miếng đất này không liên doanh cũng chẳng làm được việc gì. Cuộc liên doanh làm ăn này đem lại vô số cái lợi cho địa phương. Tôi không biết mỗi năm nó đóng góp cho ngân sách quốc gia bao nhiêu, chỉ thấy cái lợi trước mắt là lâu nay mọi thứ phí tổn chính quyền bắt dân gánh, nay có liên doanh với bọn nhà giàu nên chúng nó gánh cả. Còn một mối lợi to lớn lâu dài, xưởng thu nhận trai gái trong xã làm công nhân. Mấy anh chàng Hàn Quốc mắt ti hí, ăn kim chi, xa nhà cần bạn gái, cần bạn tình. Mấy cô gái nhà quê, nay cũng đã biết tập tành ăn diện son phấn rất cần chồng, cần đô-la, cần xuất ngoại... Hai bên có nhu cầu giao tiếp song bị con sông ngôn ngữ cách biệt. Tôi chính là cây cầu nối hai bờ. Tiếng ta, tiếng Hàn ai biết đâu nên họ khoán trắng cho tôi đóng hai vai. Tôi viết cho trai rồi tôi viết cho gái. Tôi tha hồ viết, tha hồ tung hứng. Tôi tự tiện cho họ thân mật, khăng khít, hờn giận, xa rời. Tội nghiệp, cả hai bên trai gái đều tin tôi. Họ giao phó cho tôi tất cả, và tôi thường hoàn thành xuất sắc vai trò cây cầu cho đôi lứa. Cũng đã có một vài đám cưới.

    Sau tôi giật mình. Những cặp tôi viết thư giùm họ lấy nhau rồi họ đâu cần tôi nữa. Đã là vợ chồng với nhau trai Hàn gái Việt giao tiếp với nhau bằng tay chân, cũng hiểu và cũng sống được. Bây giờ thì tôi bắt chước kiểu mấy ông thầy thuốc áp dụng cái phương pháp gọi là "nuôi bệnh", chữa cho bệnh nhân kha khá, rồi chữa lai rai để con bệnh còn cần đến mình còn chịu trút hầu bao. Với cây bút tôi cho bọn trai gái gần nhau, xa nhau, giận hờn rồi lại làm lành, lại giận dỗi... Tôi nghiệm ra rằng con người ta chỉ tốt khi mới vào nghề, khi tay nghề đã cao rồi người ta luôn luôn quan trọng hoá cái nghề của mình, làm khó, hành hạ người khác để trục lợi. Bây giờ không như buổi ban đầu lấy gạo, lấy mắm. Tôi lấy tiền, tiền Việt, có khi đòi đô-la. Cuộc sống tôi lên dần dần.

    Nhưng rồi tôi lại đâm hoảng. Tháng ngày vùn vụt thoi đưa, tuổi già sắp đến. Bốn mươi rồi năm mươi, mặc dù tôi đã có một đời vợ hai đứa con gái. Vợ chết tôi ở vậy nuôi con. Mới làm gà trống nuôi con được mấy năm tôi thấy mình đã rất cần gà mái. Tôi nghĩ mình còn trẻ quá, không lẽ cứ sống độc thân buồn bã với cái nghề chẳng giống ai này?

    Lâu nay tôi sống trong khung cảnh toàn màu hồng của những bức thư tình do tôi sản sinh ra. Sống mãi, tính toán mãi với chuyện tình kẻ khác lần hồi ảnh hưởng đến mình, cũng thèm chuyện yêu đương. Nó ngấm từ từ lúc nào đến nỗi tôi cũng không hay. Khi hay ra thì tôi đã yêu. Tôi yêu một cô giáo ngày ngày vẫn qua lại. Tôi yêu đôi má hồng ngọt ngào như trái cây chín tới.

    Tôi đã bị nhiễm cái chất độc tình yêu do tôi làm ra từ lúc nào tôi không hay, đến khi phát hiện được thì cái "chất độc da cam" đã thấm đến xương tuỷ, không còn cách gì giải được.

    Bây giờ đây tôi viết thư tình cho tôi. Một bức thư tình vô cùng quan trọng trong cuộc đời xế chiếu của tôi. Tôi đặt mọi hy vọng vào lá thư đầu tiên và cuối cùng này. Nếu thất bại tôi tự nguyện không làm nghề gia công thư tình nữa. Mình chữa bệnh cho mình chưa xong đi làm thầy cho người khác sao được. Song xưa nay tôi vốn là người tự tin. Tay nghề viết thư tình của tôi đã được rèn luyện đến mức thượng thừa. Lá thư của tôi thừa sức đốt cháy mọi quả tim băng giá, thừa sức phá tan mọi thành luỹ e dè... Chỉ cần một đoạn ngắn thôi cũng đã có thể làm cho nàng mềm lòng. Và thế là tôi thắp đèn lên viết. Thế nhưng không dễ, bác sĩ có tài giỏi cách mấy cũng chỉ chữa bệnh cho người còn bệnh của mình khó lắm thay. Tôi đã thức gần suốt đêm, hút hết một gói thuốc, uống ba cốc cà phê, xé bỏ không biết bao nhiêu bản nháp. Tôi nắn nót viết, tôi chọn lọc được bao nhiêu tinh hoa đông tây kim cổ kể cả sao chép nguyên văn hay phóng tác từ tác phẩm "Những bức thư tình lừng danh trên thế giới", một loại bí kíp võ công, một loại kinh điển trong lĩnh vực thư tình. Hoá ra mấy bậc vĩ nhân cũng đều là những thiên tài trong lĩnh vực thư tình, kể cả thiên tài quân sự Napoleon. Tôi viết lần thứ nhất, đọc lại thấy chưa ưng ý, tôi viết lần thứ hai, rồi thứ ba. Cuối cùng gần sáng, sau khi đã vò xé hàng trăm bức thư rất dày, mới được một bức thư tôi rất hài lòng. Đó là một lá thư tràng giang đại hải, một áng văn chương tuyệt tác không chê vào đâu được và tôi mạnh dạn gởi cho em. Gửi thư đi rồi tôi chờ đợi mỏi mòn. Tôi mới thấy thông cảm và thương những cặp tình nhân mà lâu nay tôi đã hành hạ và dựa vào nỗi khắc khoải đó để kiếm sống. Trời ơi, yêu khổ đến thế này ư? Xưa nay tôi không hề chú ý tới chuyện qua lại phát thư của lão Lộc. Lão này có chiếc xe đạp phượng hoàng với cái chuông reo, tới nhà ai lão bóp chuông ra nhận thư. Bây giờ tôi mới chú ý tới từng chuyến đi của lão và mong mỏi tiếng chuông xe đạp của lão Lộc biết bao. Và rồi gần một tháng sau tôi mới nhận được thư trả lời. Tôi run rẩy nhận cái phong bì màu xanh có dán con tem hình hoa bướm, tôi mừng rỡ đến nỗi muốn lao tới ôm hôn bộ mặt sần sùi lúc nào cũng đỏ như gà chọi và hôi mùi thuốc rê rượu trắng của lão phát thư. Tôi vội vàng vào nhà lấy kéo xắp một đường thật mỏng, đưa lên mũi hít một hơi dài. Hình như chẳng thơm tho gì cả. Nàng không biết cái thuật lấy nước hoa ướp giấy viết thư, thôi thì cũng thông cảm cho nàng, nhân vô thập toàn mà. Tôi mở mắt ra. Ủa, không phải thư nàng, mà là lá thư của tôi đã gửi nàng trước đây. Thoáng thấy nhiều nét mực đỏ gạch nát bức thư tôi. Những nét bút tàn nhẫn sỗ sàng, gạch xoá một cách không thương tiếc. Đúng là kiểu chữ của mấy cô giáo chấm bài học trò dốt. Tôi sực nhớ ra người tôi yêu là một cô giáo dạy văn. Cô không trả lời mà xem bức thư của tôi như bài làm của học trò sau khi gạch xoá nhiều nơi, cô phê: Chữ xấu, khó đọc, sai chính tả, không nắm vững ngữ pháp, ý tứ diễn đạt lộn xộn... Lần sau trực tiếp gặp nhau, có gì nói miệng... sướng hơn!!!
    [/FONT]
     
  20. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thư trắng[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tô Vĩnh Hà[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cuộc đời bên ngoài sách vở đôi khi trở nên quá nặng vì bao nhiêu nỗi buồn, lo âu, mất mát, những câu hỏi không biết trả lời sao nhưng không thể ngừng tìm kiếm câu trả lời...

    Cảm giác Tết có lẽ là cảm giác có thật nhất trong đời. Hình như nó bắt đầu mọc thành tóc rồi tróc thành gầu vào khoảng đầu tháng Chạp. Tôi nhìn đâu cũng thấy Tết. Hiệu sách và hàng quán bán báo gọi Tết bằng những tờ lịch. Các cô người mẫu hở một nửa đùi với một phần ba, phần tư ngực được treo khắp nơi. Tết hiện hữu bởi dáng vẻ nửa như mời chào, nửa như thách thức ấy.

    Trên các đường phố là những gương mặt trĩu nặng lo âu của người lớn, người già. Họ lo để ăn Tết. Thế nhưng chắc chắn rằng không đâu và không nơi nào mong Tết bằng chúng tôi - những sinh viên năm thứ nhất. Hầu hết lũ chúng tôi đều vừa trải qua lần xa nhà đầu tiên, lần xa nhà dài nhất trong đời. Chúng tôi sắp được trở về sau một chuyến đi xa đầy hãnh diện, trở về với vòng tay rộng mở, ánh mắt rạng rỡ của cha mẹ...

    Chúng tôi vừa học vừa nuốt nước bọt vì nghĩ đến các món ăn mà sắp sửa đây ở nhà sẽ ưu tiên cho những cái dạ dày đói khát của mình. Còn mỗi giờ nghỉ hết tiết thì lớp đúng là một cái chợ giời thông tin về giá vé tàu, xe!

    Trong cái ồn ào rộn rã của giờ nghỉ hết tiết 2 hôm đó, đột nhiên, tôi nghe thấy một âm thanh hình như là một tiếng nấc cố ghìm. Tôi nhìn quanh. Ơ bàn cuối, góc phải của lớp học, cái Uyên đang gục đầu trên mặt bàn, đôi vai hơi rung lên như kiểu một người bị khó thở. Tôi xuống chỗ Uyên, ngồi sát bên nó. Uyên chẳng thèm nhúc nhích. Thật ra Uyên và tôi chưa biết nhau nhiều. 4 tháng học cùng lớp chưa đủ để hiểu nhau chứ đừng nói đến chuyện chia buồn sẻ khổ. Tôi lay nhẹ vai Uyên: "Này. Không thèm ngẩng mặt lên để nhìn Sa một chút sao?". Uyên lúc lắc đầu như có vẻ xin lỗi nhưng vẫn gục mặt xuống bàn. Nó không muốn tôi và chúng bạn thấy nó vừa khóc? Tôi vỗ nhè nhẹ lên vai Uyên rồi đứng dậy đi về chỗ của mình. Chuông vào lớp đã reo lên rồi.

    Suốt cả giờ học tôi cứ liếc mắt về phía Uyên nhưng chẳng hề phát hiện ra điều gì. Gương mặt xinh xắn của nó chỉ biểu lộ một "tình cảm" duy nhất: Sự bình thản đến mức vô hồn. Tan học, tôi vội vàng gấp sách vở rồi đi theo nó. Uyên đi thật nhanh, như bị ma đuổi. Thầy Hiệp nói, nữ sinh viên không được phép đi quá nhanh mà cũng không nên đi quá chậm. Hình như cái Uyên chả nhớ đến lời thầy. Mà cả tôi cũng quên luôn lời thầy khi phải đi gần như chạy mới theo kịp nó.
    - Uyên làm mình theo hết cả hơi! - Tôi nói trong hơi thở hổn hển.
    Uyên dừng bước, nó tránh nhìn vào mắt tôi, lạnh lùng hỏi:
    - Sa tìm tớ có việc gì?
    Tôi bối rối rồi cười:
    - Cậu tra bài mình à? Mình cảm thấy cậu đang có chuyện gì đó thật buồn. Mình nghĩ nếu cậu có thể chia sẻ với ai đó, có thể cậu sẽ thấy ổn hơn...
    Sa cười buồn:
    - Mình xin lỗi. Thật ra... Thật ra thì... - Uyên nhìn thẳng vào mắt tôi - Sa ạ, có những điều khó nói lắm. Nó luôn có ở đâu đó trong đời, nhưng để chỉ ra thật rõ ràng lại là chuyện khác.
    Cái âm sắc lạnh ngắt trong câu trả lời của bạn tôi không phải là giọng nói của nó thường ngày. Uyên là người vui tính, nó vẫn có thể cười khi lớp trưởng báo tin nó bị điểm 3 lúc kiểm tra giữa học trình mà. Tôi giả vờ như không để ý đến vẻ sốt ruột của nó, nói:
    - Mình muốn nói chuyện với Uyên. Tại sao cậu không cho mình biết chuyện gì đã xảy ra? Mình biết chắc có một cái gì đó đang làm cậu phải buồn.

    Uyên nhìn xuống đôi giày đã cũ bọc ngoài hai bàn chân mà tôi biết chắc rất ưa nhìn. Người Trung Hoa nói đôi bàn chân của người con gái là bộ phận đầy dục tính. Vì thế, hàng ngàn năm, họ phải bó chân để làm vui lòng đàn ông. Thế nhưng vào lúc ấy tôi cho rằng tôi đang thương cái đầu của Uyên hơn hai bàn chân.
    Uyên nói như thảng thốt:
    - Mình lên văn phòng khoa để nhận thư trắng. Sa hài lòng chưa?
    Trong ngôn từ của lũ sinh viên chúng tôi, thư trắng là giấy mời lĩnh tiền của bưu điện. Đứa nào nhận thư trắng nhìn mặt là biết ngay, vì nụ cười còn hạnh phúc rạng ngời hơn cả lúc nhận thư người yêu. Nhất là vào những thời điểm... hết tiền. Uyên nhận được thư trắng mà sao lạ thế, dứt khoát là nó có chuyện gì rồi. Tôi cười, ra vẻ không nhận thấy sự khác thường ấy của Uyên:
    - Khiếp, thế mà giọng cậu nhọn hoắt như cái răng khểnh đầy khiêu khích. Còn câu hỏi thì u tối hơn cả mấy cái chữ cậu xăm trên cánh tay. Mình đi cùng nhé, được không?
    Uyên kéo tay áo trái xuống, che đi mấy chữ xăm N.P.A.U.. Tôi định bụng lúc nào có thể sẽ hỏi nó vì sao lại xăm một hàng chữ đen như thế trên một cánh tay trắng và đẹp đến thế.
    - Nếu Sa thích.
    Chữ "thích" được phát ra đồng thời với cái quay lưng. Uyên rảo bước. Còn nhanh hơn cả chạy. Tôi chỉ còn cắm đầu chạy đuổi theo Uyên.

    Trước cửa văn phòng khoa không một bóng người. Tôi nhìn nhanh về phía ô đựng thư từ của lớp tôi - S. K.27. Nơi đó có một xấp phong bì nhưng hình như chẳng có cái nào màu trắng! Tôi liếc nhanh qua Uyên. Tôi biết chắc là nó đang nghĩ giống tôi bởi nỗi thất vọng vương đầy trên mí mắt của nó. Uyên cầm lấy tập thư như thể muốn lôi tuột mọi nỗi buồn ra khỏi cuộc đời. Nó lật nhanh từng chiếc rồi thảng thốt:
    - Khô... ông có. Làm sao mình có thể về Tết đây?
    Uyên quê ở Hưng Yên. Đó là miền đất tôi nghe nói nhãn lồng rất ngon. Xa và chắc chắn phải có nhiều tiền mới về được. Tôi kéo tay Uyên:
    - Tụi mình lên căngtin uống chút gì đi.
    Bây giờ thì không phải tôi mà chính cái Uyên mới là người đi theo như một cái bóng thẫn thờ. Phải đến lúc ngồi xong xuôi, trước hai ly nước, tôi mới mở miệng:
    - Chắc bố mẹ cậu chưa có đủ để gửi vào. Uyên đừng lo nghĩ quá.
    Uyên sững nhìn tôi hồi lâu rồi bảo:
    - Bố mẹ mình mất sớm. Mình sống với bác. Bác mình đông con mà nghèo lắm...
    Uyên bật khóc. Hai hàng nước mắt lặng lẽ hướng về phía sân trường. Ngoài sân thật đông người lại qua, trông dáng ai cũng náo nức với dáng đi của Tết. Hình như chẳng có ai buồn?
    Tôi bối rối:
    - Nếu vậy thì biết làm cách nào? Đành phải đợi thôi. Thế nào cũng phải về ăn Tết chứ...
    Uyên cười gượng trong tiếng nấc:
    - Đã lâu rồi, Tết với mình chỉ là những nỗi buồn. Mình ghen tỵ với những người xung quanh đang vui vẻ đón tết. Đó là một tình cảm xấu. Sa đừng nhướng mắt lên thế. Mình hiểu rõ mà. Tuy thế, có những lúc Uyên chẳng biết đi đâu và về đâu nữa...

    Sau buổi nói chuyện đó, tôi cũng chẳng có dịp nói chuyện với Uyên nữa. Tôi vội vàng về quê ăn tết. Trên suốt chặng đường dài về nhà tôi cứ băn khoăn rằng, không phải tôi đã quan tâm tới bạn mà thật ra tôi hỏi, biết nỗi buồn của cái Uyên chỉ để thoả mãn tính tò mò ích kỷ của mình. Dường như có cái gì đấy giống với nỗi ân hận đã chảy qua trái tim kém cỏi của tôi. Nhưng chỉ một thoáng mà thôi. Rồi tôi chặc lưỡi: Cuộc sống là vậy. C'est la vie mà! Chẳng ai có thể mang nổi những hoàn cảnh, những tâm trạng đầy khúc mắc của tất cả mọi người xung quanh mình. Lòng tốt và sự cảm thông không có nghĩa gì hết ngoài một tiếng thở dài rồi, để gió cuốn đi, để gió cuốn đi...

    Ra tết, tôi không gặp Uyên. Một vài ngày rồi vài tuần trôi qua cũng không thấy nó đến lớp. Ai cũng thắc mắc tại sao nó bỏ học dễ dàng như thế. Để vào được trường đại học khó biết chừng nào.

    Riêng tôi, biết rõ nguyên do mà không dám kể với ai. Tôi bị mặc cảm là mình có lỗi. Tôi muốn gào to lên rằng: "Giá như tất cả đều cùng góp lại một khoản tiền cho Uyên về ăn Tết. Giá như tôi không nghe với sự thờ ơ". Ôi trời... Biết bao cái "giá như" đứng ngây ngô trước sự hững hờ của con người.

    Đến ngày sinh nhật, tôi ước ao "giá như" có tiền để mời mấy đứa bạn đi ăn chè. Lớp tặng cho tôi một bông hồng và cuốn sổ nhỏ. Cái đó thuộc về "tiêu chuẩn" mà ai cũng có. Một niềm vui nhỏ bên cạnh nỗi buồn thầm lặng của đời sinh viên. Bất ngờ tay lớp trưởng giơ ra trước mặt tôi một chiếc phong bì màu trắng. Tôi mà lại được nhận thư trắng? Bố mẹ thường gửi tiền cho tôi qua người quen, hàng tháng họ vẫn chuyển cho tôi mà. Ai vậy nhỉ? Tôi vừa phân vân, vừa náo nức, kéo mấy đứa bạn thân cùng lớp đi nhanh ra bưu điện.

    Đó là giấy mời lĩnh tiền của Uyên gửi. Trên chỗ ô chữ nhỏ xíu dành để viết thư là mấy dòng chữ ngắn ngủi: "Mình đã có việc làm. Mừng sinh nhật bạn. Mình chỉ có thể mời bạn ăn mấy ly chè. Chúc Sa và các bạn trong lớp học tốt".

    Tôi thấy mắt mình hơi cay cay khi đọc những dòng chữ ấy. Tôi đưa nó cho cái Hoà. Hoà vừa đọc vừa khóc. Nó là đứa "mít ướt" nhất trong lớp mà. Hoà đưa trả thư cho tôi với đôi mắt đỏ hoe: "Tội nghiệp cho Uyên quá".

    Sau lần ấy, tôi luôn cố hỏi tìm địa chỉ của Uyên. Tôi đến bất kỳ lớp nào, miễn là có người quê ở Hưng Yên để dò hỏi, nhưng tất cả đều vô ích. Tại sao Uyên không hề cho tôi biết nó làm việc ở đâu? Nó đang làm gì, đang sống ra sao nhỉ?

    Hôm nay tôi lại nhận được một chiếc phong bì màu trắng. Nó không phải là thư trắng. Nhưng đấy là lá thư từ một người mà tôi đang mong tin nhất trên đời. Thư của Uyên. Tôi bóc thư bằng những ngón tay run rẩy, bằng cả hơi thở đứt đoạn.
    "Sa ơi!
    Mình đang ở một nơi rất xa. Xa đến mức Sa không thể tưởng tượng nổi đâu. Hôm qua mình có đến thăm nấm mồ nhỏ bé của Phan Thanh Giản - người đã phải bước vào lịch sử với tên gọi "mãi quốc". Hồi ở trường, lên thư viện tìm đọc những sách sử hồi xưa viết về ông, mình cứ băn khoăn mãi là Phan Thanh Giản có thể là một kẻ "bán nước" thật không khi ông và họ hàng của ông nghèo đến thế? Tại sao bán rẻ dân tộc rồi ngay sau đó kết thúc cuộc đời của chính mình bằng một liều thuốc độc? Sự thật là như thế nào nhỉ? Ngày xưa, hồi đi học, mình đã hoang mang trước không ít điều được ghi trong sách sử. Còn giờ đây, bị giật ra khỏi sách vở, những hoang mang ấy trở nên xa xôi và to tát với mình quá, vì mình hàng ngày phải đối mặt với những trắc trở của cuộc đời, cuộc đời nhỏ bé của mình. Và mình đã bất lực, Sa ơi.

    Chắc chắn Sa và những bạn bè trong lớp S.K.27 "của ngày xưa" sẽ coi khinh mình lắm khi biết dù chỉ một phần thôi của cái gọi là sự thật trong cuộc sống tồi tệ của Uyên. "Việc làm" mà có lần Uyên đã nói, thực ra chỉ là mở bia, bóc khăn lạnh, lau mặt cho khách rồi phải gồng mình ra mà chịu đựng những hành động không hề khác nhau của mọi con đực trên trái đất này. Vậy mà mình vẫn phải cười với những kẻ ấy. Ngược lại sẽ là mất việc. Sẽ là không biết đi về đâu, bấu víu vào đâu, thậm chí là không biết ăn gì để sống. Mình cũng không hiểu tại sao mà mình đã trượt nhanh đến thế, và rồi cứ thế này, mình sẽ trượt tiếp đi đâu? Mình không thể kể hết với Uyên những khổ sở của cuộc đời mình từ nhỏ đến giờ, mà mình cũng chưa kể được với ai cả. Nhiều lúc chỉ ước có một người ngồi xuống bên mình, hay được trở lại cái giây phút mà Uyên đã ngồi xuống bên mình hôm trong lớp ấy, để mình được gục mặt vào một hơi ấm mà khóc. Chỉ cần một lần không phải khóc một mình thôi. Không kể lể kêu ca gì hết.

    Mỗi ngày, ngày ngày, mình bán đi từng chút một nhân cách và phẩm giá. Mình đã không còn biết đỏ mặt có nghĩa là gì. Mình thường xuyên phải sử dụng cái màu đỏ của son môi để tô trát cho hai gò má không bao giờ còn biết xấu hổ nữa. Ôi chao! Đôi khi mình cho rằng Honoré de Balzac đã trở nên tội nghiệp biết bao khi ông không thể nhìn thấy những giả trá của "Tấn trò đời" sau ông...
    Sa ơi! Mình phải làm gì đây trước những đau đớn của cuộc đời?...".

    Chiều nay, tôi đến thư viện. Trong khi chờ cô thủ thư lấy sách, tôi giở qua mấy tờ báo. Tôi không dám tin vào mắt mình khi ở trang 24 giờ qua, tôi thấy mẩu thông báo: "Hôm qua ở khúc sông Z, cư dân địa phương vớt được xác của một nạn nhân nữ tuổi khoảng từ 18-20. Nhận dạng: da trắng, mặt trái xoan, có một nốt ruồi đen ở đuôi lông mày phải. Răng số 3 bên phải là răng khểnh. Cánh tay trái có xăm 4 chữ N.P.A.U.. Ai biết nạn nhân xin gọi về số điện thoại...".

    Tôi bàng hoàng. Nơi Uyên mắc nạn cách Hưng Yên hàng ngàn cây số. Tay tôi run rẩy khi lật xem ngày của tờ báo. Ngày báo phát hành cách đây gần nửa tháng. Tôi ghi lại số điện thoại in trên tờ báo, số điện thoại mà tôi sẽ không bao giờ gọi. Tôi sợ. Tôi sợ phải nghe một lời khẳng định của sự thật không thể tin kia... Tôi cũng muốn lờ đi những cảm nhận và suy đoán kinh khủng của chính mình. Tôi muốn tin Uyên vẫn còn đâu đó trên trái đất này. Ở đâu cũng được, cái đó không quan trọng. Miễn là vẫn còn. Để tôi vẫn còn hy vọng một khi nào đó, tôi có thể trao cho Uyên một hơi ấm, ngồi nghe Uyên kể câu chuyện của đời Uyên, cuộc đời giờ đây đã thành một bí mật vĩnh viễn với tôi. Mà câu hỏi của Uyên, tôi vẫn chưa biết trả lời sao mà. Tôi muốn cùng Uyên tìm lời giải đáp...
    [/FONT]