Truyện Ngắn và Thơ!

Discussion in 'Cà Phê - Trà Đá' started by Phúc Thịnh, Apr 19, 2012.

  1. KDC

    KDC Thần Tài

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thăm Ải Nam Quan[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hoàng Ngọc Lễ[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vì tò mò, muốn biết sự việc chia cắt đất đai cho Trung Quốc, diễn biến ra sao nên vừa ra khỏi chùa Tam Thanh và lầu Vọng Thị, chúng tôi hỏi đường đi Aûi Nam Quan. Một cụ gìa tóc râu bạc trắng, hứng thú chỉ đường lại còn ngỏ ý xin đi theo. Bác tài xế còn chần chừ e ngại nhưng tôi thấy ông cụ có cốt cách tiên phong đạo cốt nên nhận lời cho cụ đi theo.
    Ðộng Tam Thanh thật hoang vắng, mặc dù đã có những công trình xây dựng quy mô nhưng lúc chúng tôi tới thăm, cảnh chùa vắng ngắt, những cây nhang đã cháy tàn tới cuống vẫn không được thay thế, những chiếc loa phóng thanh cứ mãi lải nhải những lời giới thiệu về cảnh chùa được thu băng sẵn. Mấy bà cụ gìa, có lẽ là người canh giữ chùa, đang ngồi bàn tán inh ỏi, thỉnh thoảng phát ra một vài lời chửi thề thô lỗ. Vắng khách, mấy bà nói chuyện liên thiên, hết chuyệïn bánh trái đến nói hành nói tỏi, người này kẻ nọ. Những âm thanh chua chát, vang động khắp những hang động.
    Chúng tôi vừa bườc ra khỏi cửa hang, định leo lên lầu Vọng Thị thì một bà lão bật dậy, đưa chiếc thùng tiền dâng cúng đến trước mặt chúng tôi, bác tài xế biết ý, bỏ vào trong đó tờ 5 ngàn, bà lão liếc qua tôi nhưng vừa thấy bà ta ăn tục nói phét trước cảnh chùa nên tôi phớt tỉnh bỏ đi. Bà ta lầu bầu điều gì , tôi nghe không rõ.
    Từ lầu Vọng Thị, nhìn xa xa, trên làn mây bạc vắt ngang đỉnh núi, một cụm đá được tạc, đẽo khá công phu, đứng chơ vơ như cảnh mẹ bồng con đang ngóng đợi chồng về. Tôi kéo ống kính lại gần, mới hay rằng đây không phải là một tượng đá với hình thù thiên nhiên mà được tạc đẽo thành hình thù rõ ràng. Sau đó, ông cụ đi theo kể cho biết là trước đây, bức tượng nàng Tô Thị là một vòm đá, có hình thù tự nhiên mà có nhưng bọn khai thác đá đã phá sập và mới đây, người ta thay vào bằng một pho tượng đá đẽo.
    Bên kia vách đá, một bảng gỗ sơn xanh chữ trắng:
    Ðồng Ðăng có phố Kỳ Lừa
    Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
    Ai lên xứ Lạng cùng anh
    Tiếc công bố mẹ sinh thành ra em.
    Ông cụ đi theo chúng tôi có vẻ nỏ chuyện và biết nhiều. Cụ tên là Tiên, bộï đội hưu viên. Cụ tham gia kháng chiến từ thời Pháp và quân hàm cuối cùng của cụ là trung tá, trung đoàn trưởng hậu cần của sư đoàn 309. Nay về hưu và chỉ có một người con trai duy nhất, nay cũng đã ngoài 50 nên cụ ung dung rày đây mai đó. Có tiền thì đi ô tô, không có tiền thì đi xe hỏa. Nhiều lần cụ nói với tôi rằng:
    - Cái thân lính tráng nó không ở yên được, ông ạ! Lương hưu có là bao, mỗi tháng gìa 400 ngàn nhưng vợ chồng thằng con chu cấp thêm nên thỉnh thoảng đi thăm nơi này, nơi nọ cho khuây khỏa cái tuổi gìa.
    - Thế cụ có đi Lạng Sơn bao giờ chưa?
    - Lão có đến đây một lần vào năm 1978, lúc đó đường xá xa xôi bết bát lắm chứ đâu có đường cao tốc như ngày nay.
    - Thế cụ có nghe tin gì liên quan tới việc chia cắt đất không?
    - Ai chia cắt? Lão có nghe gì đâu!
    Thấy ông cụ có vẻ thật thà và có lẽ ông cụ cũng chẳng hề nghe tin tức gì về việc này nên tôi tảng lờ sang chuyện khác.
    Chúng tôi rời Lạng Sơn được chừng vài cây số thì xe bị kẹt cứng ngắc không sao có thể đi được. Tiến thối lưỡng nan vì phía đàng sau cũng còn nhiều chiếc xe tải ùn ùn kéo tới. Hỏi ra mới biết hàng ngàn xe chở rau, dưa còn đang kẹt phía trước. Mấy bác tài kể cho chúng tôi biết rằng từ hai hôm nay, tất cả các xe chở rau, qủa qua cổng biên giới Tân Thanh bị ách lại vì chính sách kiểm dịch và nhập khẩu của "nước bạn" thay đổi đột ngột, có người thì lại nói rằng năm nay nước bạn được mùa dưa nên "bạn" đã hạn chế hạn ngạch nhập khẩu dưa hấu từ Việt nam để ưu tiên cho dưa hấu nội địa…Tôi thắc mắc không hiểu vì sao xe cộ bị ách tắc như vậy mà công an, kiểm soát cầu đường lại cứ để xe đi lại như không có chuyện gì xày ra. Tôi có hỏi bác tài cũng vừa mới đến. Bác mở lời chửi bới um tùm rồi như mất bình tĩnh sao đó, bác bóp còi xe, nghe inh tai, nhức óc.
    Vì là xe nhỏ nên chúng tôi cũng tìm cách lấn lách để có thể tới được chợ Ðồng Ðăng. Có những nơi, chúng tôi phải băng theo những vết xe trước, tắt ngang qua những vùng ruộng sình lầy. Dọc đường những đống dưa hư thối được đổ xuống, cao như những trái núi. Còn là buổi trưa nên chúng tôi định ghé chợ kiếm chút gì ăn lót dạ nhưng bác tài thì rủ tới chợ biên giới vừa ăn, vừa nghỉ ngơi vãn cảnh. Chợ biên giới được xây cất khá khang trang và được chia ra làm 2 khu, khu nhà lồng và khu lộ thiên. Khu nhà lồng gồm các cửa hàng của người Trung Quốc từ bên kia biên giới đem hàng qua đây bán, xen kẽ một vài gian hàng của người Việt Nam và người dân tộc. Các gian hàng trong khu nhà lồng đa số là hàng quần áo may sẵn, giày dép, hàng điện tử và gia dụng. Khu vực lộ thiên, bày bán các loại nông sản, chăn mền và cả những chiếc xe đạp. Chen kẽ giữa khu chợ lộ thiên với cổng biên giới là bãi đậu xe.
    Tiến sát tới cổng biên giới, tôi đang loay hoay chụp một vài tấm hình kỷ niệm thì một người lính bộ đội biên phòng chạy ra, lấy tay xua xua, ra hiệu cấm được chụp hình. Không chụp hình được vì không thể đưa máy lên ngắm, tôi đành phải nhờ cụ Tiên đứng chắn, che để quay một vài phút phim làm kỷ niệm.
    Cụ Tiên thấy thế can thiệp và hỏi anh bộ đội biên phòng:
    - Ở đây không thấy có lịnh bắt du khách nộp máy ảnh, tại sao anh lại ra lịnh như vậy?
    - Lịnh đã có từ lâu và đây là khu vực quân sự, cấm chụp hình quay phim….
    Không được đem máy ảnh qua bên kia biên giới và thấy anh bộ đội có giọng nói nơ nớ của người dân tộc nên cụ Tiên cũng đành chịu thua. Bác tài xế hình như đã có toan tính, ra lịnh:
    - Thôi chúng ta lên xe quay lại, không đi nữa.
    Tôi và cụ Tiên chỉ biết lên xe theo lệïnh bác tài. Xe chạy ngược lại được một đoạn thì bác tài lại quay xe lại, vừa chạy chầm chậm vừa quan sát.
    - Nó vô rồi!
    Thế là bác rồ máy xe đi tiếp. Qua trạm, người bộ đội hồi nãy đã đi đâu mất, anh lính khác ngồi yên như pho tượng, xe qua lại thoải mái. Ông cụ Tiên lên tiếng:
    - Chúng nó láo khoét chứù làm gì có lệnh lạc như vậy!
    Tôi thầm nhớ lại hình ảnh mấy người du kích, mặt mũi non choẹt, tay gầm gừ khẩu Ak vào cái thời 75,76 thì cảm thấy rằng đứng trước những người bộ đội biên phòng dân tộc này thì "yên lặng là vàng". Có lẽ cụ trung tá hưu viên cũng nhận biết điều đó nên ông cụ chỉ than van qua loa rồi nói qua chuyện khác.
    Chúng tôi tìm chỗ đậu xe, đối diện với đồn kiểm soát biên phòng, ra vào cho tiện. Hàng hóa ở đây qúa rẻ so với ở Sài Gòn, một chiếc bình thủy 2 lít gía chỉ 25 ngàn trong khi ở Sàigòn phải đắt gấp 2,3 lần….Nhưng muốn mua được giá rẻ như vậy thì phải biết mở miệng trả giá, cứ hạ xuống một nửa gía là vừa. Bằng không có khi còn mua đắt hơn cả ở Chợ Lớn.
    Cổng biên giới thật là tấp nập, những chiếc xe kéo qua lại như nêm, hàng hóa ùn ùn kéo qua biên giới. Những con buôn xếp hàng dài chờ làm thủ tục hải quan, những tiếng la hét inh trời, những tiếng chửi thề thô tục, pha lẫn cả tiếng Hoa, tiếng Việt và tiếng dân tộc. Không lỗ tai nào nghe cho thấu.
    Bác tài xế có lẽ đã đến đây nhiều lần, thấy tôi đang đứng lớ ngớ trước chai thần dược, hải cẩu bổ thận hoàn, bác ta liền kéo tôi sang khu linh dược. Ở đây theo lời quảng cáo thì vị thuốc nào cũng là thần dược cả. Cái anh ba tàu bán nước râu ngô, nói giọng nửa tàu nửa ta thật là vui tai. Theo anh thì nước râu ngô của anh ta là một loại thuốc gia truyền có tác dụng lợi tiểu, mát gan, ấm thận, điều hòa tiêu hóa… Anh ta đưa tôi một ly uống thử, thấy man mát mùi râu ngô, tuy dù không tin lời anh ta cho lắm nhưng thấy lời nói ngòng ngọng tức cười và cũng có duyên nên cũng mua thử một lọ cho anh ta vui.
    Sau khi mua sắm một số qùa cáp linh tinh về làm qùa cho bà con, chúng tôi rủ nhau vào đồn biên phòng làm thủ tục qua bên kia biên giới để thăm thị trấn Bằng Tường. Ở đây chúng tôi mới vỡ lẽ ra rằng, chỉ có người mang hộ chiếu VN mới được đi qua mà thôi, hộ chiếu ngoại quốc phải xin visa ở Hà Nội. Bác tài nảy sinh ra ý kiến là cho tôi mượn thông hành, thế là tôi và ông cụ Tiên rung răng, rung rẻ làm thủ tục qua bên kia biên giới. Ở đây, chúng tôi phải đóng mỗi người 200 ngàn (tương đương 15 đô la), thủ tục khá nhanh chóng. Qua cổng biên giới, những người lính biên phòng khám xét qua loa và qua khỏi cổng biên giới chừng 120 thước thì chúng tôi gặp đồn biên phòng Trung quốc, ở đây những người lính biên phòng nói tiếng Việt na ná giọng người Nùng quảng Ninh. So với cổng biên giới VN thì cổng biên giới Trung quốc bớt ùn tắc hơn và lượng hàng chuyển qua đây cũng ít hơn một cách rõ rệt, chủ yếu là nông sản, thú rừng và các đồ khô như cá khô, mực khô….Thủ tục qua lại khá dễ dàng.
    Qua khỏi đồn biên phòng Trung Quốc chừng hơn 100 thước thì chúng tôi gặp cổng Nam Quan. Trên cổng khắc ba chữ tàu to tướng và đậm nét. Cụ Tiên dịch cho tôi hay là 3 chữ trên là Hữu Nghị Quan. Cụ còn cho biết 3 chữ này do chính bộ trưởng Trần Nghị cho khắc để tuyên dương tình hữu nghị đậm đà giữa hai nước vào thời giao hảo cực thịnh - "Môi hở răng lạnh".
    Ông cụ Tiên hình như nghĩ ra điều gì và thắc mắc với tôi:
    - Lạ thật! Năm 1978, tôi tới thăm nơi này thì đây mới là cọc mốc biên giới chứ đâu phải là phía bên kia.
    Riêng tôi thì sau khi đọc nhiều bài viết liên quan tới việc "bán đất" nên phải đi tới đây một lần cho biết. Tới nơi đây, nhìn tận mắt và qua lời kể của cụ Tiên thì mới biết rõ ràng rằng, biên giới có bị chia cắt nhưng chỉ lùi sâu vào đất liền tính từ Aûi Nam Quan chừng hơn 200 thước chứ không phải 4 cây số hay hơn thế nữa theo như nhiều bài viết mà tôi đọc được. Dù sao thì một phần đất nước cũng đã bị chia cắt. Một niềm đau khôn nguôi và một cái nhục muôn đời
    Chúng tôi ghé vào một quán ăn gần đấy, tôi dán mắt vào cái cổng Aûi nam Quan mà cứ thắc mắc hết điều này tới điều nọ. Không phải là nhà sử học và nghiên cứu về biên giới nên tôi gần như hoàn toàn mù tịt về vấn đề này. Tôi thắc mắc rằng "Nếu Aûi nam Quan là cổng biên giới của ta thì tại sao lại không khắc một chữ việt nào mà lại hoàn toàn bằng chữ Tàu". Tôi lại thắc mắc rằng: "Nếu Aûi Nam Quan là cổng biên giới của ta thì tại sao lại không đặt tên là Aûi Bác Quan mà lại có tên là Aûi nam Quan?"…..
    Nếu không có cụ Tiên chỉ đường, chúng tôi đã đi nhằm vào cổng biên giới Tân Thanh thay vì cổng Hữu Nghị thì kẹt cứng. Nghe đâu sau mấy ngày bị ách tắc, cánh tài xế đã hết kìm chế và mạnh ai nấy tìm chỗ lấn lướt, cho xe mình chạy vô được chỗ đậu khiến cảnh hỗn độn bát nháo xảy ra. Từ Ðồng Ðăng sang Trung Quốc, có tới 3 cổng biên giới: Cổng Hữu Nghị - cổng Tân Thanh - cổng Chi Mai. Cổng Hữu Nghị là cổng chính, hàng hóa qua đây là loại chính ngạch và có quy mô lớn, cổng Tân Thanh dành cho tiểu ngạch và cổng Chi Mai là một cổng nhỏ, cho những người dân địa phương qua lại. Bọn con buôn dùng cổng này để lút lén vận chuyển hàng lậu.
    Qua khỏi cổng biên giới, chúng tôi thuê xe đi Bằng Tường, ông tài xế nói tiếng Việt khá sõi nhưng đặc sệt giọng chú ba Chợ Lớn. Ông ta ngã gía đi về 25 đô la với 2 tiếng đồng hồ chờ đợi. Trên đường đi, chúng tôi ghé chợ trời biên giới. Ngôi chợ này khá khang trang và những đống hàng hóa chất cao như núi. Những tiếng rao hàng, trả gía giống như những chợ phiên bên nhà. Những ông cửu vạn, vác hàng tất tả ngược xuôi, những chiếc xe thồ hàng hóa ngập đầy. Hàng hóa ở đây chủ yếu là chăn mền, bình thủy, máy móc điện tử và thuốc bắc. Những dàn DVD mở lớn âm thanh, thi nhau ca hát vang trời. Ðĩa lậu ở đâu mà nhiều thế, gía cả rẻ như bèo. Một cuộn phim Tây Du Ký dưới dạng CD, 23 dĩa được chào bán với gía 10 đô. Tôi mua một bộ về làm qùa cho vợ. Thấy tôi muốn mua, cụ Tiên bảo phải trả gía vì ở đây con buôn nói thách lắm! Tôi nghe lời cụ, trả gía 7 đô, con buôn không chịu bán, nằng nặc đòi 8 đô, thấy rẻ, tôi mua đại. Sang hàng bên, thấy tôi đã mua bộ Tây du ký, con buôn chào gía: "Hàng em chỉ bán 5 đô". Tôi quay lại nhìn mẹ lái thương hồi nãy. Mụ nhe răng cười nham nhở.
    Hàng hóa ở đây thật bát nháo, thật gỉa khó lường. Những cô gái bán hàng nở nụ cười tuơi như hoa nhưng khách đi khỏi không mua, cô văng tiếng chửi tục không thua gì bọn nhà thổ. Chung quanh chợ, những cửa hàng thuốc bắc thật là bề thế, mùi vị thuốc xông ngát mũi, tạo một cảm giác thoải mái, dễ chịu. Thấy có một ông lang, vẻ tiên phong đạo cốt đang bắt mạch cho khách, tôi mạnh dạn bước vào. Ông lang này khá tinh tế, vừa chẩn mạch cho tôi, vừa phán:
    - Cái lị no âu nhiếu lắm thế! Cái tim đập nhanh làm cái lị đau cái lầu, cái da lị ló có cái chấm chấm là không tốt, trong máu lị có lường, có mỡ….
    Mấy năm trở lại đây, lượng đường trong máu tôi hơi cao, tuy chưa tới mức báo động nhưng cũng cần kiêng cữ. Thấy ông lang bắt mạch trúng phóc nên tôi có lòng tin và nể phục, xin ông cắt thuốc.
    Sau một hồi trao đổi và thấy lượng đường trong mỡ tôi không qúa cao, ông lang đề nghị tôi chỉ cần uống nấm linh chi là đủ. Ở đây có 3 loại linh chi, loại Trung quốc mọc hoang ở vùng núi Tuyết Sơn, gía 40 đô một ký, loại được trồng trên vùng đồng bằng gía ngoài 30 đô và loại nhập từ Bắc Hàn, gía 75 đô. Nấm được bẻ nhỏ và nấu sôi, uống thay cho trà. Ông lang cam đoan với tôi là chỉ cần uống trong vòng vài tháng, lượng đường trong máu sẽ giảm. Tôi không tin lắm nhưng nhìn vẻ mặt phúc hậu của ông lang nên thuận lời mua 1 ký, loại bắc Hàn.
    Thấy chúng tôi có vẻ ngây ngô giữa phố thị đông người, một bà lão bán nước chè tươi cất tiếng mời:
    - Xin mời cụ và bác vào xơi nước.
    Bên cạnh cái bình thủy to tướng, một bình ấm được đậy nắp rất kỹ, chắc là để giữ hơi nóng vì khí hậu ở đây tương đối lạnh hơn Hà Nội khá nhiều. Tôi có cảm giác là thời tiết đang ở khoảng 9-10 độ C, một anh cửu vạn đang hút thuốc lào, lõ điếu run lên khanh khách, luồng khói trắng toát như mây phun ra từ miệng, anh ta vừa hít hà, vừa ngụm một hớp chè tươi. Oáng điếu cầy cứ thế được chuyền từ người này tới người khác. Câu chuyện nổ như pháo rang.
    Thấy họ nói chuyện vui vẻ, tôi kéo chiếc ghế đẩu mời ông cụ Tiên ngồi còn mình thì ngồi bẹt xuống chiếc chiếu cạnh mấy anh cửu vạn. Anh ngồi cạnh mời:
    - Bác làm thử một điếu!
    Thấy hay hay, tôi cầm cái ống điếu, văn vê một núm thuốc. Quan sát thấy tôi có vẻ chưa hề hút thuốc này bao giờ, anh cửu vạn lên tiếng:
    - Vê nhỏ thôi, hút thử mà to như thế thì bật ngửa đấy!
    Mà bật ngửa thật! Tôi vừa hít một hơi, làn khói như muốn làm nổ tung lồng ngực. Tôi cảm thấy tức ngực và điên đảo quay cuồng. Mồ hôi toát ra nhuễ nhoại. Tôi phải nhoài người tới chiếc phản gần đấy. Anh cửu vạn cởi giày cho tôi và nới lỏng giây lưng. Ðược một lát, người tôi ướt đẫm nhưng cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Tôi nhổm dậy và xin chủ quán cho bát chè tươi. Nước pha sao mà nóng thế! Hơi nóng bốc toả mùi chè tươi thơm ngát. Mấy anh cửu vạn như đã uống quen, nước vừa rót ra bát là đưa lên miệng ngụm ngay một phát.
    Cụ Tiên đã bỏ đi đâu, chắc là ra mấy cửa hàng bán những loại thuốc bổ dương, bổ thận. Thấy ông cụ đi khỏi, anh cửu vạn hỏi tôi:
    - Sao bác đã trả thù dân tộc chưa?
    - Trả thù dân tộc là nghĩa gì?
    - Bác này chỉ được nước ẫm ờ! Thế đã đi đánh đĩ chưa?
    - Khi không ai lại đi đánh đĩ?
    - Sang đến đây rồi mà không "ấy" một phát cũng hoài công!
    Anh cửu vạn khác chen vào:
    - Mày chỉ được cái rồ mồm, bạ ai cũng gạ. Ðâu phải ai cũng là đồ điếm thối như nhà mày.
    - Ð.m. ông bảo trả thù dân tộc chứ có đánh đĩ đâu mà rồ mồm. Lâu lâu có việc trả thù, vừa ái quốc mà lại vừa sướng d.
    Bà cụ chủ hàng vừa quết vết trầu dính trên môi, vừa cười khanh khách. Ðúng lúc, ông cụ Tiên cũng về tới, mọi người lảng sang truyện khác. Hai anh lính cảnh sát TQ cũng vừa bước tới, họ thân thiện chào nhau và trao đổi những gì, tôi không hiểu.
    - Thế những người cảnh sát này có ăn chận, hối lộ như bên mình không? - Tôi hỏi.
    - Không có đâu, bên này họ nghiêm minh lắm! Chẳng đòi hỏi gì cả và rất thân tình, trừ trường hợp phạm tội, họ mới can thiệp. Bà con ở đây biết thân phận làm ăn xứ lạ quê người nên cũng cẩn trọng và thượng tôn luật pháp.
    - Thế các gian hàng bên này đóng thuế có nặng không? - Tôi hỏi.
    - Còn nhẹ chán so với bên nhà.
    - Thế đêm đến, các anh ngủ đâu?
    - Thì giăng màn ngủ trên các quầy hàng chứ còn đâu nữa.
    - Nó sạo đấy! Thiếu gì là vợ hờ. - Một anh cửu vạn chen vào.
    - Vợ hờ là sao?
    - Là mấy chị em ta sang đây làm ăn, đêm tối ế độ nên kiếm cửu vạn làm chồng hờ qua đêm, để dễ qua mặt cảnh sát. Vừa cơm no, bò cưỡi.
    - Họ sang đây đông không?
    - Hàng đống! Một số thì bị bắt cóc gả cho người Trung quốc, trốn thoát được nhưng không dám về nhà, sợ trả thù. Sống lang thang, sa cơ lỡ bước nên rơi vào chốn giang hồ. Một số thì trây lười, không chịu lao động làm ăn, đem vốn sẵn có ra đầu tư, tiếp thị. Oái cả ra đó!
    - Kia kìa con Hồng ngâm kia kìa! Thuộc loại khá đấy!
    Tôi nhìn theo hướng người cửu vạn vừa chỉ, một cô gái cao dong dỏng da trắng mịn, thân hình cân đối, mới độ 19,20. Vừa đi, cô vừa bỏ thứ gì vô họng, miệng nhai nhóp nhép. Cô tiến tới chỗ chúng tôi ngồi, nở một nụ cười thật duyên dáng.
    - Hôm nay đi sớm thế! Ðã có độ nào chưa? - Một anh cửu vạn hỏi.
    - Ðồ qủy! Gặp anh là xui mạt kiếp.
    - Ðây này, có ông khách xộp đây này. Mời ông ấy đi.
    Anh cửu vạn vừa nói, vừa chỉ vào tôi, khiến tôi thật bỡ ngỡ và lúng túng.
    - Ð.m. sang đến đây thì phải trả thù dân tộc chứ, ai lại nhong nhong đường xưa lối cũ bao giờ. Một anh khác chen vào.
    Thấy mấy anh cửu vạn ăn nói thô lỗ qúa, ông cụ Tiên lên tiếng rủ tôi đứng lên, đi vãn cảnh. Chúng tôi vừa quay lưng, một anh cửu vạn trêu trọc.
    - Tao đố con Hồng rủ được ông cụ về ngủ một đêm.
    Cụ Tiên nghe thấy, lẩm bẩm: "Lũ quân mất dạy!".
    Một chiếc xe hàng trờ tới, những người cửu vạn bật dậy, ai làm việc ấy. Tiếng hò hét inh trời. Hàng hóa chủ yếu là nông sản và thú rừng. Những con vật được nhốt chật cứng trong các cũi, lớn nhỏ khác nhau. Nào nai, mễn, rắn, rùa, chim rừng đủ cả. Tôi nhìn những con vật được lôi ra khỏi xe mà ngao ngán. Thầm nghĩ rằng cứ đà này, chẳng mấy lâu nữa, nước ta sẽ hết thú rừng.
    Những người cửu vạn chỉ làm thoáng một chốc, xe hàng đã sạch nhẵn. Những lồng thú được đặt vội xuống hai vệ đường, những con thú lộ vẻ sợ sệt và mệt mỏi, thè lưỡi thở hồng hộc. Hết chiếc xe này tới chiếc xe khác, không hiểu thứ rừng ở đâu mà nhiều thế?
    Tôi với cụ Tiên nhìn nhau mà ngao ngán, có lẽ cụ cũng như tôi đang thương khóc cho non sông gấm vóc của ta bị tàn phá. Chúng tôi bỏ lại đàng sau, những người cửu vạn cùng những cô gái môi sơn đỏ như mới vừa rướm máu. Họ vẫn nói nói cười cười cùng với những tiếng kêu re re từ những nõ điếu thuốc lào.
    Cổng biên giới vẫn ùn tắc vì hàng hóa qua lại. Những chiếc xe ba gác thồ quần áo và chăn bông đầy ắp, cao ngất trời. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao tại các chợ lớn ở Hà Nội, Sài Gòn và các thành phố khác, hàng hóa Trung Quốc lại ngập tràn như thế! Chẳng thế mà một người bạn tôi làm nghề sản xuất quần áo may sẵn đã phải tuyên bố phá sản vì không thể cạnh tranh với hàng lậu Trung Quốc giá bèo.
    Tôi quay lại phía biên giới VN, những chiếc xe đẩy, vẫn cứ đầy ắp hàng hóa qua lại. những tiếng thú vật kêu gào trong cũi, được bao bọc tàng hình bởi những lớp vỏ rau cỏ trái cây và những tiếng la hét, cãi cọ chửi bới vẫn cứ cất lên inh trời. Tôi lại cứ ấm ức rằng phần đất mà mình đang bứơc chân lên đây, mới đây còn thuộc về lãnh thổ Việt Nam. Tôi lại càng không hiểu vì sao, "ta" phải cắt chia cho "bạn" và rời biến giới sâu hơn 200 mét mà "thắng lợi lại về ta" và chính ông Lê Công Phụng, thứ trưởng bộ ngoại giao trong một cuộc phỏng vấn theo kiểu gà nhà đã tỏ ra hài lòng về "thắng lợi" này? Phải chăng chính phủ ta đang chủ trương chính sách "tái ông thất mã" để đánh mất đi rồi được lại?
    Qua những điều tai nghe mắt thấy và nghĩ tới đoạn đường về, phải vượt qua hằng ngàn chiếc xe tải nằm ùn tắc hai bên vệ đường với những dãy dưa hư thối, chất cao như núi mà tôi cảm thấy mệt mỏi và ngao ngán sao ấy và thực sự cảm thấy chán ngán và thất vọng qúa nhiều.
    [/FONT]
     
  2. Triệu Minh

    Triệu Minh Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Last edited: Sep 9, 2012
  3. Triệu Minh

    Triệu Minh Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Last edited: Sep 9, 2012
  4. Triệu Minh

    Triệu Minh Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Last edited: Sep 9, 2012
  5. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Last edited: Aug 28, 2012
  6. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Last edited: Aug 28, 2012
  7. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Last edited: Aug 28, 2012
  8. 5dola

    5dola Thần Tài Perennial member

    GIẤC MƠ MỘT NGÀY MƯA

    [​IMG]
    Nhật hôn lên đôi môi cô. Rồi, rất nhẹ nhàng, anh quì xuống và đưa vào ngón tay cô chiếc nhẫn đính hôn…
    Ta có nhau, và ta sắp mất nhau...
    Một ngày mưa ảm đạm. Gia Kỳ buông rũ mái tóc xoăn của mình trên bờ vai gầy guộc. Cô mặc chiếc váy bohemiang dài chấm gót màu xanh cobalt. Làn mưa xám đục mịt mờ ngoài cửa sổ. Gia Kỳ lấy chiếc dù màu xanh, rồi rời khỏi nhà.
    Gia Kỳ chạy vội qua cánh cửa, cô rũ nước mưa trên cây dù rồi ôm mình run rẩy, xoa xoa đôi bàn tay, xuýt xoa vì cái lạnh. Nhật liếc nhìn cô, anh khẽ nói: “Sao không nghỉ làm? Trời mưa thế này, có lẽ cũng không có khách… Em lấy khăn lau người đi. Kẻo cảm.” Gia Kỳ ngước đôi mắt của cô nhìn vào sâu đáy mắt anh, cô rên khẽ, rồi không kìm được, cô bỗng bật khóc nức nở. Nhật bối rối, anh đến gần cô và choàng nhẹ cánh tay, vòng qua đôi vai cô, siết nhẹ, rồi anh hôn lên trán cô. Vén mái tóc lòa xòa của Gia Kỳ rồi buộc gọn ghẽ lại bằng sợi ruy băng xanh. Hơi chần chừ, anh ôm cô vào lòng.
    Trong không gian quán cà phê chật nhưng ấm áp, Gia Kỳ co rúc người trong chiếc khăn bông. Ủ ly trà gừng ấm nóng trong đôi tay gầy, gương mặt cô hồng lên vì hơi ấm của tách trà lan tỏa khắp cơ thể, và vì mùi hương của Nhật trên chiếc áo sơ mi của anh mà cô đang mặc trên người. Nhật ngồi cạnh cô, anh gảy chiếc đàn guitar gỗ. Anh hát, bản tình ca trầm lắng.
    …Tình như nắng vội tắt chiều hôm
    Tình không xa nhưng không thật gần
    Tình như đá hoài những chờ mong
    Tình vu vơ sao ta muộn phiền…
    (“Như một lời chia tay” – Trịnh Công Sơn)
    Gia Kỳ quay sang và níu nhẹ cánh tay của Nhật, dụi đầu vào lồng ngực anh. Cô thiếp vào giấc ngủ nhẹ nhàng, có Nhật bên cạnh, có vòng tay anh, có tiếng hát dịu dàng của anh. Nhật ngừng gảy đàn, anh ngắm nhìn Gia Kỳ. Dường như, cả thế giới đã cuộn lại thành một giấc mơ nhỏ bé. Có lẽ, cô đang mơ về anh, về cô, về chuyện của hai người…
    Họ yêu nhau đã mười năm, quãng thời gian quả thật rất dài, thế mà khi ngỡ chỉ còn lại một chút quãng đường rất ngắn nữa thôi, để có thể gắn bó với nhau suốt cả cuộc đời, thì bỗng dưng mọi thứ lại bất chợt chông chênh. Sau mọi chắp nối và cố gắng vực dậy mối quan hệ, anh và cô ngơ ngác thấy họ bỗng đứng trước vực thẳm của mối quan hệ.
    Rồi Nhật và Gia Kỳ quyết định xa nhau, một thời gian. Họ nói lời chia tay. Nhật sẽ đi Mỹ hai năm. Có thể khoảng cách, lại giúp họ nhận ra họ cần nhau thế nào chăng?... Hoặc cũng có thể, sẽ mất nhau mãi mãi. Dường như họ thấy tình cảm của mỗi người đang nhạt nhòa dần, tình cảm cứ mỗi ngày lại phôi pha từng chút một dẫu chẳng phải cố tình. Dường như họ đâm ra chán nhau, cả anh và cô. Họ thấy mệt mỏi vì đã ở cạnh nhau quá lâu, yêu nhau quá nhiều. Họ muốn dừng, muốn nghỉ ngơi, hoặc giả mỗi người rẽ sang con đường khác cũng được. Thế mà tiếc nuối và nghĩa tình có buông tha đâu, như cô vẫn nhớ về anh, để rồi dầm mưa mà đến đây, như anh chỉ mong cô khóc, để được ôm cô thế này. Nhưng nếu chỉ vỉ vậy mà quay trở lại cạnh nhau, cảm giác chán chường và mệt mỏi sẽ lại bủa vây. Cả anh và cô đều nghĩ, có lẽ lời chia tay là điều tốt nhất cho cả hai…
    Nhật vuốt mái tóc cô gái nhỏ, anh trút nỗi buồn và cả tình yêu vào tiếng thở dài. Anh hôn lên đôi mắt cô, cảm nhận mùi hương olive nhè nhẹ từ mái tóc cô… Rồi, anh cũng chìm vào giấc ngủ, với tiếng mưa không ngớt ngoài kia…
    [​IMG]

    Giấc mơ của anh…
    Tôi bước đi vội vã trên con phố đông người, cố len lỏi theo bóng dáng người con gái đó. Cái dáng gầy gầy và gương mặt ấy, lạ lùng sao mang lại cho tôi cảm giác thân quen lắm. Dẫu chắc chắn, tôi khẳng định mình không hề quen cô gái ấy. Tôi cứ như kẻ tò mò theo dõi, cứ bám lấy đằng sau, tôi thấy mình thật tệ, và cũng thật sự không hiểu được mục đích của những bước chân khi cứ theo đuôi một người xa lạ như thế này. Tôi ngắm nhìn cô ấy, rất xa, rất gần. Ngắm cô ấy bước đi ngắm nhìn phố xá hai bên đường. Tôi ngắm cô ấy đi đến sạp báo nhỏ, chọn lấy tờ tin tức buổi sáng, rồi ghé tiệm coffee để lấy một ly Cookie Green tea. Đến cả những vật cô ấy lựa chọn, tôi đều thấy thân thuộc. Như là, tôi biết thói quen của cô ấy, biết mọi điều rất nhỏ mà cô gái lạ này thích.
    Bất giác đã đến giao lộ, cô ấy băng sang đường. Tôi vội vã đi theo. Cô ấy không bước trên vạch trắng, thói quen xấu, sao tôi lại biết? Nhưng điều quan trọng nhất, cô ấy đang làm như thế, có chiếc xa trờ tới, tôi đuổi theo nếp váy xanh, thảng hoặc một điều sợ hãi trào dâng. Nhưng chiếc xe đã tránh, không có điều gì xảy ra.
    Những bước chân cô ấy nhanh hơn, òa vào vòng tay người con trai xa lạ phía bên kia giao lộ. Thói quen nhấc bổng đôi chân khỏi mặt đất khi vòng tay ôm, những hình ảnh thói quen này, rất thân thuộc… Tôi cảm thấy đau đầu và gần như ngồi sụp xuống bên lề đường. Trong khoảnh khắc, tôi như chết lặng. Có một điều gì đó, một điều gì đó làm tôi rất buồn…
    Có điều gì đó cứ thúc ép, một cảm giác rất cần cô ấy. Tôi không hiểu được cảm giác của mình nữa, nhưng một tiếng nói trong tôi khẳng định, bỏ lỡ cô ấy sẽ là một điều tiếc nuối nhất trong cuộc đời tôi, cô ấy, là định mệnh.
    Tôi quyết định băng qua giao lộ. Tôi đã đứng sau lưng cô, tôi vươn tay vừa sắp chạm đến
    khuỷu tay cô thì cô bất chợt lùi lại một bước rồi xoay người lại. Cô đang nhìn thẳng vào tôi. Nhưng trong đồng tử của cô, tôi thấy, chỉ là hình ảnh của một giao lộ đông đúc người. Tôi hoảng sợ nhìn cửa kính của một shop thời trang xa hoa, tôi không hể phản chiếu trong ấy.
    Tôi hoàn toàn không tồn tại.
    Cô gái khoác tay, dựa vào vai chàng trai xa lạ rồi hòa lẫn vào dòng người…
    Mọi thứ bỗng chốc quay cuồng…
    Giấc mơ của em…
    Tôi yêu chàng trai gẩy guitar ấy. Bao nhiêu năm nay, tôi luôn có thói quen đến quán trà đạo này, để được nghe anh gẩy guitar, và hát. Anh luôn ngồi ngay đấy thôi, rất gần, rất gần tôi. Và không hề nhìn tôi lấy một lần.
    Anh hát với chất giọng trầm ấm. Tôi muốn chạy đến và ôm anh. Tôi cảm giác được, một cảm giác rất rõ, rất thật, anh chính là người dành cho tôi. Nhưng tại sao, chúng tôi đã không có duyên, cũng chẳng có phận… Tôi miên man trong lời bài hát, tôi miên man trong những chằng chịt suy nghĩ, trong tình yêu và sự tiếc nuối.
    Bài hát kết thúc vào lúc nào, tôi đã không hay. Anh mỉm cười. Tôi nghe anh nói : « Bài hát này, xin dành cho một người con gái… » Rồi tôi thấy một cô gái tiến lên bục sân khấu, người con gái dịu dàng ấy đặt lên má anh một nụ hôn, cô ta nói lời cám ơn anh. Rồi tôi thấy cô ấy ghé tai anh thì thầm, và tôi có thể nghe rõ từng chữ mà cô ấy nói, rằng cô ấy yêu anh nhiều đến thế nào. Tôi thấy anh mỉm cười, anh vòng tay ôm cô ấy. Rồi trong khoảnh khắc, anh quì gối trước mặt cô ấy, anh đưa cho cô chiếc guitar gỗ của mình, rồi lấy từ trong hộp đàn, một chiếc nhẫn…
    Những gì sau đó diễn ra, nhạt nhòa. Hình như tôi khóc. Tôi thấy anh nhìn tôi, anh mỉm cười hạnh phúc. Tôi đã mong đây chỉ là một vở kịch, anh đang đóng một vở kịch. Rồi anh sẽ bước xuống, và tiến về tôi. Nhưng không, mọi thứ rõ ràng dến thế kia mà ?! Anh đứng ngay đó, bên cạnh người con gái khác, ngườ con gái anh quyết định sẽ dành cho cô ta sự gắn bó suốt đời.
    Thế thì tại sao, suốt quãng thời gian, luôn có một tiếng nói trong trái tim tôi, thực đến thế, một tiếng nói khẳng định, rằng anh là là định mệnh…?
    Tôi bỗng thấy mình ngã quỵ, tôi thấy mình nức nở, nhưng không gian xung quanh vẫn vui vẻ, anh vẫn cười.
    Họ không nhìn thấy cô. Anh không nhìn thấy cô. Cô là một cá thể không tồn tại trong Thế giới này. Không phải ngay lúc này, mà suốt quãng thời gian qua, cô chưa từng tồn tại trong cuộc sống anh….
    Mọi thứ bỗng chốc quay cuồng…
    Trở về...
    Gia Kỳ và Nhật choàng tỉnh giấc. Họ nhìn nhau sợ hãi. Những giọt mồ hôi bám trên gương mặt họ thảng thốt, trên mái tóc và tấm lưng của cả hai. Rồi Gia Kỳ bật khóc, cô ôm lấy Nhật, cô ghì chặt anh. Và Nhật cũng thế, dường như anh cũng đã rơi nước mắt, có lẽ trong giấc mơ…, anh ôm chặt cô vỗ về.
    -Em mơ thấy em chẳng là gì trong cuộc đời anh. Em mơ thấy em không hề tồn tại trong quãng đời anh, và chúng ta sẽ không bao giờ được ở cạnh nhau… Anh ạ… - Gia Kỳ nức nở.
    -Ta đã mơ giống nhau… - Nhật thở gấp.
    -….
    Họ cứ ôm nhau lâu như thế, như là họ đã xa cách rất lâu, rất lâu, như là phải rất khó khăn, mới có thể ở cạnh nhau thế này, như là họ đã trải qua một giấc mơ dài đằng đẵng, một giấc mơ đặt ra giả thuyết rằng thế giới của mỗi người họ, không tồn tại người còn lại. Cả anh và cô đã chưa từng nghĩ đến việc xa cách nhau, chưa từng nghĩ nếu thiếu nửa còn lại, mọi thứ sẽ thay đổi thế nào, chưa từng thấy sự gắn bó mười năm tình yêu của họ là một điều đẹp đẽ đáng trân quí đến thế nào, không nghĩ đến, cả cuộc đời mỗi người, có được nhau trong khoảnh khắc giao duyên, nắm bắt được định mệnh trong vạn tỉ người, giữ chặt trong tay sợi chỉ duyên phận mỏng manh để bên nhau trọn đời, là điều hạnh phúc nhất…
    Vai Nhật đỡ lấy những giọt nước mắt ấm nóng của Gia Kỳ. Anh mỉm cười, cô mỉm cười. Rồi anh quay bước vào phòng chờ. Gia Kì đứng vẫy tay, trông theo cho đến khi anh khuất bóng. Chiếc máy bay cất cánh..
    [​IMG]

    ***
    Hai năm sau.
    Gia Kì chạy băng qua đám đông những người đang đoàn tụ, tiễn biệt. Nếp váy cô nhẹ bay lên, đôi chân cô nhấc bỗng khỏi mặt đất khi quàng cánh tay mình lên cổ Nhật, đôi tay anh ôm eo cô mạnh mẽ. Nhật hôn lên đôi môi cô. Rồi, rất nhẹ nhàng, anh quì xuống và đưa vào ngón tay cô chiếc nhẫn đính hôn…
     
    Last edited: Jun 26, 2012
  9. Ngọc Kiều Long

    Ngọc Kiều Long Thành Viên

    Truyện Kiếm Hiệp!

    Ngọa Hổ Tàng Long
    Vương Độ Lư
    [​IMG]

    Quyển “Kiếm khí châu quang” bắt đầu từ khi Lý Mộ Bạch tặng kiếm cho Thiết Tiểu Bối lặc, hứa gả Dương tiểu cô nương cho Văn Hùng trưởng nam của Đức Khiếu Phong, Lý Mộ Bạch cùng Du Tú Liên tới núi Cửu Hoa tập luyện điểm huyệt thì kết thúc.
    Quang âm thấm thoát, chớp mắt đã hơn ba năm, lúc này Dương tiểu cô nương đã thành hôn với Văn Hùng. Nàng bỏ vải bó chân, đổi mặc trang phục Bát kỳ, thực sự trở thành Thiếu phu nhân của nhà họ Đức. Nàng dâu nhỏ này có gương mặt trái xoan, mi thanh mục tú, tính tình hoạt bát, tuy gặp đủ nỗi thống khổ ông nội bị giết, anh ruột chết thảm, chị gái lấy chồng xa, nhưng nàng lúc khóc thì khóc, lúc vui thì vui, thường hay nhảy nhót, không giống một cô dâu mới. May mà Đức đại phu nhân là người rất sảng khoái, coi con dâu như con gái, chưa hề phiền trách điều gì.
    Lúc bấy giờ Tiêu đầu Thần thương Dương Kiện Đường nổi tiếng ở Diên Khánh đã tới Bắc Kinh, mở Toàn Hưng tiêu điếm ở Chợ Than Tiền Môn, mấy người đồ đệ y mang theo cũng ngụ ở Bắc Kinh, buôn bán là chuyện phụ, chủ yếu là để bảo vệ Đức Khiếu Phong bạn già của y. Lúc bấy giờ Đức Khiếu Phong vẫn nhàn cư ở nhà nhưng trong lòng vẫn sợ bọn Trương Ngọc Cẩm, Miêu Chấn Sơn tìm tới báo thù, nên ngoài việc không dám bỏ bê công phu Thiết sa chưởng còn bảo các con không được quên đao pháp Du Tú Liên truyền thụ trước đây, vả lại còn mời Dương Kiện Đường cứ ba ngày một lần tới tòa trạch viện mà Du Tú Liên cư trú trước đây dạy thương pháp cho con trai và con dâu.
    Thương pháp của Dương Kiện Đường tuy không dám xưng là đứng đầu thiên hạ nhưng cũng hiếm có địch thủ. Thương pháp của Ngân thương Tướng quân Khâu Quảng Siêu nổi danh chính là do y truyền thụ. Thương pháp mà y sử dụng là Lê hoa thương chính tông, còn có tên là Dương gia thương, danh tướng Lý Toàn thời Tống có ngoại hiệu là Lý Thiết thương, vợ là Dương thị thương pháp còn tinh thâm hơn, thu nhận rất nhiều đồ đệ. Cho nên tuy Lê hoa thương biến hóa khôn lường, là lợi khí xung phong hãm trận thời cổ, nhưng chỗ hiếm có của nó chính là một loại thương pháp của phụ nữ, tức phụ nữ yếu ớt cũng có thể học được. Thương pháp đã là của họ Dương, Dương Kiện Đường lại là họ Dương, Đức thiếu phu nhân cũng họ Dương, vả lại đã bái Dương Kiện Đường làm nghĩa phụ, vì vậy Dương Kiện Đường rất vui vẻ nhận truyền thụ, không đầy nửa năm, thương pháp của Dương tiểu cô nương đã đại tiến. Đến nỗi Văn Hùng chồng nàng vì cơ thể ốm yếu, tính lại thích văn không thích võ, còn thua kém nàng.
    Hôm nay là tháng mười đầu mùa đông, khí hậu ở Bắc Kinh đã rất lạnh, nhưng Dương Kiện Đường chỉ mặc bộ áo cánh màu lam, hai tay cầm thương, múa thương pháp Lê hoa bài đầu. Y nhìn Dương tiểu cô nương và Văn Hùng, nói:
    “Nhìn đây ! Lê hoa bài đầu này dùng để hộ thân, để đánh bạt binh khí của địch nhân ra, các ngươi nhìn đi!”. Dương tiểu cô nương chăm chú nhìn, không thấy cán thương rung động, chỉ thấy ánh bạc ở đầu thương lấp loáng như những cánh hoa lê. Dương Kiện Đường lại biến đổi thương pháp, thương pháp luyện là Đánh cỏ tìm rắn phép không sai, Mèo khôn bắt chuột phá rất hay, Phong tỏa ghìm thương rồi đánh nhứ, Múa thương cho tới mức như bay, Trá bại quay người cóc vàng rớt..., bóng thương bay lượn, gió rít vù vù. Đang luyện đến đó bỗng nghe có người vỗ tay cười nói:
    “Thật cao minh! Giỏi thật Thần thương Dương Kiện Đường, xấp xỉ năm xưa Vương Ngạn Chương!”. Dương Kiện Đường ngừng lại, vừa nhìn thấy liền cười nói:
    “Ngươi lại tới!”. Dương tiểu cô nương và Văn Hùng cũng đều bước lên nhìn người nói, gọi:
    “Lưu nhị thúc, người ăn cơm chưa?”. Người ấy liền ưỡn bụng ra cười nói:
    “Mới ăn xong!
    Thiếu gia và Thiếu phu nhân luyện võ đi ! Đừng để ta quấy rầy!”.
    Người này tuổi khoảng ba mươi, vóc người thấp nhỏ nhưng vai rất rộng, lưng đùi chắc nịch, mặc áo chẽn ngắn tay bằng đoạn xanh, quấn vải xanh, ngoài khoác áo bông lớn bằng đoạn xanh, không cài cúc áo, lưng thắt một dải đoạn xanh thêu hoa trắng thắt chặt eo lưng, ngực áo phanh ra, trên đầu thắt bím tóc buông lỏng xuống, mặt trắng trẻo, mắt ba góc, mũi nhỏ, trên mặt luôn có vẻ cười cợt. Người này là anh hùng nổi tiếng ở kinh vài năm nay, họ Lưu tên Thái Bảo, ngoại hiệu là Nhất đóa liên hoa. Y là biểu đệ của Dương Kiện Đường, người Diên Khánh, trước đây từng học Lê hoa thương với biểu huynh, cũng từng làm bảo tiêu ba ngày rưỡi. Nhưng y thích chơi gái đánh bạc, rơi rụng thành kẻ hạ lưu, thường ăn cắp tiền của Dương Kiện Đường, liền bị Dương Kiện Đường đuổi đi. Y đi hơn mười năm, Dương Kiện Đường cũng không biết y sống chết ra sao, thật sự quên y rồi, nhưng giữa mùa xuân năm ngoái bỗng nhiên y xuất hiện ở Bắc Kinh. Trước tiên y tới thăm Đức Khiếu Phong, sau lại yết kiến Khâu Quảng Siêu rồi nói:
    “Tới Bắc Kinh chủ yếu để tìm Lý Mộ Bạch tỷ thí võ nghệ”.
    Nhưng vì Lý Mộ Bạch không ở Bắc Kinh nên không ai đếm xỉa tới y, y lang thang đầu đường xó chợ, chuyện gì cũng kiếm cớ đánh nhau với người ta.
    Dương Kiện Đường phát hiện ra, liền gọi y tới tiêu điếm, nhân vì y phiêu bạt ở bên ngoài hơn mười năm lại học được một thân võ nghệ, liền cho y làm tiêu đầu. Y thật không muốn làm, vẫn sống bừa bãi trên đường phố. Một hôm chắc là y cố ý, trên đường phố chỉ một mình đánh nhau với mười mấy tên vô lại, va vào kiệu của Thiết Tiểu Bối lặc, Thiết Tiểu Bối lặc thấy võ nghệ của y rất giỏi, bèn đưa y về phủ. Vừa hỏi thăm, biết y là biểu đệ của Thần thương dương Dương Kiện Đường, biết Lý Mộ Bạch chưa tới Bắc Kinh, bèn cười cười giữ y ở trong phủ làm sư phó dạy quyền. Kỳ thực hiện tại Thiết Tiểu Bối lặc đã trở thành nhân vật quan trọng trong triều, không còn múa kiếm vung gươm ruổi ngựa thả ưng nữa.
    Lưu Thái Bảo không có việc gì để làm, mỗi tháng lãnh ba lượng bạc, cải trang thành kẻ giàu sang, suốt ngày lê la ở trà đình tửu điếm can thiệp chuyện bất bình, dính dấp vào những chuyện không đâu. Vì vậy tới kinh không đầy hai năm, người ở kinh không ai không biết tiếng Nhất đóa liên hoa! Cứ mỗi ngày ba, sáu, chín y tới đây xem biểu huynh dạy võ, như hôm nay lại tới, Dương Kiện Đường bèn nói:
    “Muốn xem cũng được, nhưng chỉ được đứng một bên, không được nói nhiều!”. Lưu Thái Bảo mỉm cười, Văn Hùng và Dương tiểu cô nương cũng đều cười không ngậm miệng lại được. Vì họ đều cảm thấy gã Lưu Thái Bảo này rất hoạt kê, chỉ cần y tới là có thể khiến mọi người vui vẻ. Lúc bấy giờ Dương Kiện Đường tỏ vẻ nghiêm nghị, như không nhìn thấy y, lại múa hai bài thương. Nhất đóa liên hoa Lưu Thái Bảo đang đứng bên cạnh không kìm được nói:
    “Hay! Hay! Cao minh quá!”. Dương Kiện Đường thu thương lại, bảo vợ chồng Văn Hùng ra luyện. Văn Hùng và Dương tiểu cô nương cùng cúi đầu cười, như không còn sức để cầm thương. Dương Kiện Đường bèn dí cán thương vào hông Lưu Thái Bảo nói:
    “Cút, cút ! Con khỉ nhà ngươi mà còn ở đây thì họ không luyện được đâu. Cút !”. Lưu Thái Bảo cười nói:
    “Tôi không nói gì là được rồi ! Chẳng lẽ chỉ xem thôi cũng không được à? Thật chẳng có đạo lý gì!”. Nhưng sau lưng bị cán thương ấn vào, y không thể không bước đi.
    Không ngờ vừa ra trước cổng, còn chưa ra khỏi bậc cửa, chợt thấy có mấy người phụ nữ đang đi vào, Dương Kiện Đường lập tức thu cán thương về, không dí vào y nữa. Lưu Thái Bảo cũng giật mình, vội lùi lại núp dưới chân tường xa xa, Văn Hùng và Dương tiểu cô nương đang cười bò ra đều nín lại, cả hai bỗng nhiên cũng lập tức nghiêm sắc mặt, đặt thương xuống, đứng thẳng người lên. Nguyên người phụ nữ trung niên mặc trang phục Bát kỳ đi đầu chính là Đức đại phu nhân vợ Đức Khiếu Phong, theo sau là một tiểu thư trẻ tuổi, lại dẫn theo hai bộc phụ ăn mặc rất chỉnh tề. Dương Kiện Đường theo lệ phía về Đức đại phu nhân vái dài, Đức đại phu nhân cũng theo Kỳ lễ khuỵu chân xuống, rồi chỉ về phía sau nói:
    “Đây là Tam cô nương trong phủ Ngọc đại nhân, muốn xem con dâu ta luyện thương”. Lúc này Lưu Thái Bảo dựa chân tường vừa nghe nói, không kìm được rùng mình một cái, nghĩ thầm:
    “Cha mẹ ơi ! Hôm nay mình thật đã gặp khách quý đây ! Thì ra đây là tiểu thư của Ngọc đại nhân !
    Ngọc đại nhân là Cửu môn Đề đốc Chính đường tân nhiệm, hiển hách lắm đây...”. Kế đó Nhất đóa liên hoa liếc đôi mắt ba góc qua vị tiểu thư kia một cái, y càng cảm thấy phải tìm một chỗ khuất ở góc tường núp mới được, chỉ vì vị tiểu thư này quả là “Hằng Nga nơi cung trăng”.
    Nàng khoảng mười sáu mười bảy tuổi, thân người thon cao mà yểu điệu, khoác áo khoác rộng màu xanh nhạt, không biết là loại đoạn gì, chỉ cảm thấy lộng lẫy chói mắt, đại khái là bằng lông ngân thử, bên trong là áo bào kiểu Bát kỳ màu đại hồng thêu hoa. Bàn chân không bó, đi hài cao, các cô nương người Bát kỳ đều mang hài gấm thêu chỉ vàng như thế, còn đính thêm những hạt pha lê nhỏ lóng lánh, trên đầu đại thể chải thành bím, bím tóc đương nhiên giấu trong áo khoác, chỉ để lộ ra những sợi tóc mai đen nhánh. Hai bên tóc mai còn giắt một con chim phượng tết bằng nhung đỏ, mỏ ngậm một chuỗi hạt trân châu nhỏ sáng lấp lánh. Dung mạo của nàng càng xinh đẹp hơn y phục.
    Gương mặt trái xoan, sống mũi cao, mắt to, đôi mày thanh tú, vẻ ung dung hoa diễm này chỉ có thể sánh với mẫu đơn trong các loài hoa, nhưng mẫu đơn không xinh đẹp bằng nàng. Lại có thể sánh với phượng hoàng trong các loài chim, phượng hoàng chưa ai từng thấy qua, nhưng cũng khẳng định không ung dung quý phái như nàng, lại như trăng rằm trên mặt sông, mây xuân trên núi Thái Sơn, tóm lại không cách nào tả nổi. Trong lòng Lưu Thái Bảo chỉ nghĩ tới Hằng Nga, nhưng y không dám nhìn vị Hằng Nga này một cái.
    Lúc này Dương Kiện Đường khép nép bước qua một bên khoác áo dài vào, cài hết cúc lại, Văn Hùng và Dương tiểu cô nương đều bước qua quỳ xuống thỉnh an vị quý tiểu thư kia, cả mí mắt cũng không dám ngước lên. Đức đại phu nhân nhìn con dâu nói:
    “Tam cô ngươi nghe nói ngươi đang luyện thương ở đây, cảm thấy rất mới lạ, nên bảo ta dẫn tới xem xem ! Ngươi cứ luyện vài chiêu cho thuần phục, mời Tam cô xem xem!”. Bà lại nhìn sang vị quý tiểu thư đó cười nói:
    “Mời Tam muội muội vào phòng ngồi, xem cháu dâu cô luyện võ qua cửa kính là được, chứ ở ngoài lạnh lắm !”. Vị quý tiểu thư đó lại lắc đầu, mỉm cười nói:
    “Không cần vào phòng, tôi không thấy lạnh, tôi đứng xa một chút xem là được !”. Nàng lùi lại mấy bước, đón lấy cái lồng ấp bằng vàng từ tay một bộc phụ, rồi hơ tay lên, khép vạt áo lại, lại liếc Lưu Thái Bảo một cái.
    Lưu Thái Bảo luống cuống chỉ hận không thể nhảy qua tường mà chạy trốn, tự nhủ “Mình là loại người nào, sao có thể nhìn vị tiểu thư xinh đẹp thế này?”.
    Lúc này Văn Hùng cũng lánh sang một bên, Dương Lệ Phương thì đứng thẳng người, tay phải nắm thương, mũi thương chấm đất. Lúc này nàng chải một bím tóc dài, trên người cũng là trang phục áo ngắn của người Hán, chân tuy không bó nhưng vẫn nhỏ, còn hài mang rất chật. Nhân vì lúc luyện võ tất phải ăn mặc gọn gàng như thế, luyện xong quay về trạch viện có thể thay trang phục Bát kỳ. Lúc này nàng giữ vững tư thế, đầu tiên đưa mắt nhìn xuống, kế ngước mắt lên, anh khí ngời ngời, đầu tiên ra thế Kim kê độc lập, tiếp đến là Bạch hạc lượng xí, lại quay bước cầm thương, hai tay ghìm thương, bắt đầu sử thương pháp. Chỉ thấy bóng thương rung loạn, bông đỏ bay vần vũ, thân hình xinh đẹp của Dương tiểu cô nương uốn theo thương thức như gió bay chớp giật, nhạn bay giao nhảy, vô cùng ngoạn mục. Lưu Thái Bảo dựa tường nhìn thấy bộ thương pháp này lúc khởi thế bình bình, nhưng về sau đã biến thành Câu na thương pháp, hành gia có nói “Câu na thương pháp thế vô song, Cóc vàng biến hóa như rắn rồng”. Lúc thu thương lại, Dương tiểu cô nương vẫn không thở gấp, Lưu Thái Bảo lại tự nhủ “Thương pháp của cô nương này không kém chút nào, đáng tiếc sức lực hơi yếu, rốt cuộc vẫn là phụ nữ !”.
    Lúc này vị quý tiểu thư kia sợ thất sắc cơ hồ núp sau lưng bộc phụ, nói “Ái chà! Ta thật hoa cả mắt!”. Nàng lại hỏi Dương tiểu cô nương “Ngươi không mệt sao?”. Dương tiểu cô nương nhẹ nhàng đặt thương xuống, bước qua cười lắc đầu nói “Tiểu nữ không mệt”. Vị quý tiểu thư lại hỏi “Ngươi đã luyện bao nhiêu ngày rồi?”. Dương tiểu cô nương nói “Mới luyện được nửa năm”. Vị tiểu thư ngạc nhiên nói “Thật không dễ ! Nếu là ta thì ngay cán thương cũng không nhấc lên nổi !”. Đức đại phu nhân ở bên cạnh cũng cười nói “Không sao, ta thì ngay cán thương cũng không dám đụng tới ! Cháu dâu muội cũng nhờ luyện võ từ nhỏ, nên bây giờ cầm thương cũng không khó. Luyện võ phải luyện từ nhỏ mới được, muội vẫn chưa thấy qua vị Du Tú Liên trú ở viện này trước đây! Tay sử song đao, vọt lên nóc nhà vượt qua tường rào, một mình ruổi ngựa qua lại giang hồ, bao nhiêu cường đạo đều không phải là đối thủ ! Dáng vẻ rất thanh tú, nhưng ăn nói hành sự thì không giống phụ nữ chút nào”. Vị quý tiểu thư hơi mỉm cười nói:
    “Sau này tôi cũng muốn học”. Đức đại phu nhân lại cười nói:
    “Ấy! Muội học cái này để làm gì? Bọn ta vì không có cách nào khác, đại khái muội cũng hiểu cho, là vì... không dám không học chút võ nghệ phòng thân !”.
    Đức đại phu nhân đang nói, thì con dâu bà liền mời vị quý tiểu thư xinh đẹp như tiên này vào phòng nghỉ ngơi, uống trà nói chuyện.
    Nhất đóa liên hoa Lưu Thái Bảo đang dựa chân tường lúc này mới đi lùi ra cổng. Vừa đi được mấy bước thì nghe sau lưng có người gọi “Thái Bảo !”. Nhất đóa liên hoa quay lại nhìn, thấy biểu huynh Dương Kiện Đường cũng đi ra, tức giận nhìn y nói “Ta không bảo ngươi tới đây, ngươi lại cứ tới. Ngươi nhìn đi, hôm nay làm bao nhiêu trò khó coi ! Ta ở đây không hề gì, ta đã sắp năm mươi tuổi rồi, lại là thân gia kết nghĩa với nhà cô ta. Còn ngươi hai ba mươi tuổi còn lén lút nhìn thì là loại người gì? Hôm nay vị tiểu thư này là khuê nữ của Đề đốc Chính đường, rất tôn quý, ngươi thấy rồi chứ?”. Nhất đóa liên hoa Lưu Thái Bảo vội nói:
    “Ái chà, đại ca ơi, không phải tôi cố ý gặp cô ta đâu, ai bảo tôi đụng phải làm chi? Nhà họ không có cửa sau, tôi muốn trốn cũng không trốn được!”. Dương Kiện Đường nói:
    “Nơi này về sau ngươi nên ít tới, Đức Khiếu Phong hiện không làm quan nhưng quý nhân qua lại với y vẫn rất nhiều. Nếu ngươi đụng thêm một người nữa thì không hay đâu, Khiếu Phong tuy không nói gì nhưng trong bụng chắc cũng không vừa ý”. Lưu Thái Bảo nghe thế bất giác hơi tức giận, nói:
    “Tôi biết, Đức Ngũ quen không ít người giàu sang, nhưng Nhất đóa liên hoa Lưu Thái Bảo tôi cũng không phải là hạng vô danh tiểu tốt!”.
    Dương Kiện Đường nói:
    “Ngươi có tên tuổi gì? Đám vô lại đầu đường xó chợ mới biết ngươi, chứ tất cả các quan ho tiển hách có ai biết ngươi?”. Lưu Thái Bảo liền vỗ ngực nói:
    “Tôi là sư phó dạy quyền trong phủ Bối lặc !”. Dương Kiện Đường cũng tức giận nói:
    “Ta nói đây đều là để tốt cho ngươi, ngươi thích nghe hay không cũng được! Còn như ngươi cảm thấy khó chịu, sư phó dạy quyền cũng chẳng qua là hạng người cấp dưới. Thật ra ở phủ Bối lặc ngươi còn không bằng Đắc Lộc mà còn muốn bằng vai bằng vế với các đại quan à? Thấy tiểu thư của đại môn hộ cũng không biết tránh đi, ta thấy ngươi trước sau gì cũng gây chuyện thôi”.
    Hai người nói tới đó, đã đi qua ba dãy phố ra tới cửa tây. Dương Kiện Đường thuận theo đường lớn hiên ngang đi. Lưu Thái Bảo tức giận, lên cơn suốt nửa ngày, chửi “Con mẹ nó!”, kế quay người đi về phía bắc, trong lòng rất bực bội, thầm nghĩ “Tại sao người ta thì giàu sang như thế, còn mình thì rủi ro thế này? Loại như cô tiểu thư mới rồi, trừ bề ngoài dễ coi hơn mình thì có gì nào? Bàn về quyền cước thì một mình mình cũng đánh được hàng trăm. Nhưng con mẹ nó, thấy người ta là mình phải chui xuống lỗ nẻ, đôi hài của người ta còn đáng tiền hơn cái mạng mình ! Con mẹ nó, bất công thật!”. Lại nghĩ “Cho dù con nhãi kia muốn lấy chồng thì cũng không phải là mình, chỉ cần y thị lấy chồng thì mình sẽ giết chồng y thị chết tươi cho y thị suốt đời làm góa phụ, vĩnh viễn không thể ăn mặc đẹp đẽ nữa”. Y bị biểu huynh mắng, bèn trút hết sự tức giận lên tiểu thư sang trọng kia. Nhưng tức là tức vậy, song không làm gì được.
    Người ta là con gái của Đề đốc Chính đường, chỉ cần cha người ta nói một câu, cái đầu trái bí của Nhất đóa liên hoa mình cũng rời khỏi cổ ! Chết thì không sợ, chỉ là năm nay đã ba mươi hai tuổi mà vẫn chưa có vợ ! Nghĩ tới chuyện lấy vợ, Lưu Thái Bảo thấy rất đau lòng. Y nghĩ “Mình còn không bằng Lý Mộ Bạch, Lý Mộ Bạch còn có Du Tú Liên sử song đao, mình thì ngay cả một mụ vợ mặt mũi xanh xao biết cầm dao thái rau, lo cơm nước cũng không có!”.
    Trong đầu y suy nghĩ vẩn vơ, lững thững bước đi, chốc lát đã tới cầu Bắc Tân, lúc ấy chợt nghe một tràng thanh la keng keng keng vang lên. Lưu Thái Bảo lập tức quên ngay nỗi phiền muộn trong lòng. Y ngẩng ngay đầu lên nhìn, thấy trước mắt là một đám người xúm xít thành vòng, ai cũng nghểnh cổ tròn mắt, miệng há hốc, ngẩn người nhìn vào trong vòng tròn. Trong đám người đó là tiếng thanh la khua vang như đang biểu diễn trò gì đó rất hay. Lưu Thái Bảo tự nhủ “Trò khỉ đây, chẳng có gì đáng xem!” cũng không định đi về phía đám đông, nhưng vừa đi lại được hai bước bỗng thấy đám người xem trò náo nhiệt này đều ngẩng mặt khen hay. Lưu Thái Bảo cũng không kìm được, quay lại thì thấy một đôi thiết cầu bay lên trên đầu đám người, lớn nhỏ đều có hình quả táo, một trên một dưới trông rất đẹp mắt. Lưu Thái Bảo nhận ra đó là Lưu tinh chùy, vật này có thể dùng làm binh khí, người mãi võ trên giang hồ nếu không có chút công phu quyết không dám diễn trò này.
    Lưu Thái Bảo liền tới đám đông, chen vào chỗ đông người nhất, thấy một người hơn bốn mươi tuổi, vóc dáng khỏe mạnh cởi trần đứng giữa đám đông múa Lưu tinh chùy. Loại lưu tinh chùy này buộc chặt vào một sợi gân hươu, sợi gân rất dài, tay nắm ở giữa rung lên, hai quả thiết chùy bay lượn trên không. Lại có thể múa sau lưng và toàn thân trên dưới, múa tới mức người xem hoa mắt, không nhìn thấy sợi gân hươu và thiết chùy, chỉ thấy như một cái bánh xe gió xoay mau trước mặt. Lưu Thái Bảo cũng bất giác khen một tiếng “Hay!” rồi thò đầu nhìn người khua thanh la ở bên cạnh, lại càng kinh ngạc ! Thì ra người khua thanh la là một cô nương, vóc dáng nhỏ nhắn, trông như một cây liễu nhỏ, tuổi không quá mười lăm mười sáu, da ngăm ngăm, dung mạo cũng dễ nhìn, đầu chải hai bím tóc nhưng trên tóc có không ít bụi bặm. Nàng mặc áo bông nhỏ vải đỏ, quần ống hẹp vải xanh, đương nhiên là không sạch sẽ, nhưng đôi hài đỏ mang dưới chân vừa chật vừa nhỏ lại vừa ngay ngắn, có điều mũi hài đã bị rách.
    Tiết tiếu khua thanh là keng keng của cô nương này để trợ oai cho người mãi võ, người mãi võ có lẽ là cha nàng, múa Lưu tinh chùy hồi lâu, y thu chùy dừng lại. Con gái y cũng ngừng khua thanh la, hai cha con hướng về đám người chung quanh xin tiền. Người cha khoanh tay nói:
    “Các lão gia quan quân, các vị danh sư các nơi ! Cha con chúng tôi tới đây xin tiền, là chuyện bất đắc dĩ !”. Cô gái đứng cạnh cũng lên tiếng thỏ thẻ góp vào một câu “Thật là bất đắc dĩ !”.
    Người cha lại nói:
    “Vì ở quê bị lụt, vợ bị chết đuối, tôi mới cùng con lang thang khắp nơi !”, rồi nói “Diễn chút trò vui để xin tiền, như để kiếm cơm !”. Cô gái lại nói thêm “Như để kiếm cơm !”. Lưu Thái Bảo cảm thấy cô gái này rất đáng thương, bèn móc ra mấy đồng tiền quăng xuống đất. Cô gái nói “Cảm ơn lão gia!”. Lưu Thái Bảo lại quay người chen đám đông đi ra, vừa đi vừa nghĩ “Vì sao cô nương đáng thương này biết cùng cha mãi võ?”.
    Đi được không xa, bỗng nghe một tràng tiếng xe lừa lộc cộc vang lên. Lưu Thái Bảo quay nhìn thì thấy từ phía nam có hai cỗ xe Đại yêu chạy tới, đều do lừa Cúc hoa thanh cao lớn kéo, phía trước buông rèm, phía sau đều có hai bộc phụ ngồi. Lưu Thái Bảo bất giác ngẩng nhìn, té ra hai người này chính là bộc phụ theo hầu tiểu thư của vị Chính đường vừa gặp ở nhà họ Đức. Không cần nói, sau bức rèm cỗ xe đầu tiên nhất định là vị quý tiểu thư ấy ngồi. Lưu Thái Bảo ngẩn ra, bóng hai cỗ xe đã đi xa, y mới lại bước đi. Sau lưng còn tiếng thanh la leng keng, y lại chửi thầm “Con mẹ nó !”. Lúc ấy Nhất đóa liên hoa Lưu Thái Bảo vừa đi vừa chửi thầm, trở về phủ Thiết Bối lặc ở An Định Môn, tức tối một lúc, uống một chút rượu, múa một bài đao rồi ngủ một giấc, sau đó thì quên hết mọi chuyện.
    Chớp mắt đã qua mười mấy ngày, khí trời càng lạnh. Hôm ấy là hai mươi tám tháng mười một, là ngày mừng thọ bốn mươi tuổi của Thiết Tiểu Bối lặc.
    Trước cổng phủ xe kiệu đông đặc như mây, rất nhiều con nhà quý tộc, quan lớn và mệnh phụ phúc tấn, công tử tiểu thư tới. Trong phủ đánh trống lớn, nhưng vì phòng ốc viện quá sâu, cả tiếng thanh la bên ngoài cũng không nghe được, một phần vì người làm của các phủ chen chúc trong phòng ấm uống rượu nói chuyện suốt. Phu kiệu phu xe ngồi xổm ngoài cổng đánh bài áp bảo ăn tiền, tôi tớ trong phủ cũng đều mặc quần áo mới vui vẻ ra vào, chỉ có Nhất đóa liên hoa Lưu Thái Bảo cảm thấy rất chán chường, vì y không phải là chủ nhân, không phải người làm, càng không phải là khách mời ! Viện trong y không vào được, hát xướng y cũng thấy chối tai, tiền thưởng thì không được một đồng, cái chuồng ngựa rộng lại bị rất nhiều ngựa chiếm chỗ nên y không còn cả chỗ để múa đao. Y vào phòng trực, tôi tớ các phủ đều ở đó ăn uống trò chuyện vui vẻ, không ai để ý đến y, người nào cũng ăn mặc đẹp đẽ hơn y. Y khoác một cái áo da dê cũ, ra ngoài chơi vài ván áp bảo với đám phu kiệu, lại bị thua, trong lòng càng chán nản, lại chửi thầm “Con mẹ nó ! Các ngươi không đánh lại ta đâu!”.
    Lúc ấy chợt từ xa vang tới một tràng tiếng dẹp đường “Đi, đi”. Lập tức bọn phu kiệu đánh bài thu thập hộp xúc xắc tránh ra xa xa, mấy người đầy tớ trước cổng cũng đều chạy vào nhà. Lưu Thái Bảo rất ngạc nhiên, nhìn qua phía tây, thấy năm con ngựa cao to chở năm vị viên sai quan đi tới. Lưu Thái Bảo vừa nói “Đây là quan gì mà khí phái lớn thế?”, sau lưng liền có hai người đầy tớ trong phủ kéo nói nhỏ “Lưu sư phó, vào trong mau, vào trong mau!”. Lưu Thái Bảo còn đang ngạc nhiên đã bị kéo vào phòng trực, lại nghe ngoài phòng có người nói nhỏ “Ngọc đại nhân tới rồi !”.
    Lưu Thái Bảo mới chợt nhớ ra, Ngọc đại nhân chính là Cửu môn Đề đốc Chính đường mới nhậm chức, y bèn bĩu môi nói:
    “Ngọc đại nhân cũng chẳng qua là Chính đường thôi ! Chẳng lẽ tước vị của y lại to hơn Bối tử Bối lặc, cao hơn phẩm cấp của Đại học sĩ trong Nội các à?”. Bên cạnh lập tức có người phản bác y, nói:
    “Ấy! Ngươi đừng nói như vậy! Không sợ quan chứ sợ quản, cho dù các đại thần nhất phẩm đương triều bắt ngươi cũng phải giao cho đại nhân xử lý, tước vị của Đề đốc Chính đường không phải cao nhất, nhưng quyền lực lớn không ai bằng !”. Lúc ấy rất nhiều tôi tớ đều chồm tới kẽ hở giấy dán cửa sổ nhìn ra. Lưu Thái Bảo lại bĩu môi nói:
    “Bọn các ngươi đều mù hết ! Đề đốc Chính đường cũng chẳng qua là một lão già, có gì đáng nhìn? Y lại không phải là cha các ngươi !”. Lưu Thái Bảo chửi thế nhưng họ hoàn toàn không nghe, đều tranh nhau chồm về phía kẽ hở rèm giấy nơi cửa sổ, như bên ngoài có chuyện kỳ lạ gì đó.
    Lưu Thái Bảo cũng cảm thấy hơi kỳ quái, lúc ấy có một người đầy tớ trong phủ tên Lý Trường Thọ, người thấp bé, hàng ngày rất hay cười đùa với Lưu Thái Bảo bước tới vỗ vỗ vai y cười nói khẽ:
    “Này ! Nhất đóa liên hoa ! Ngươi không muốn nhìn mỹ nhân sao?”. Lưu Thái Bảo bĩu môi nói:
    “Mỹ nhân nào?
    Tiểu tử ngươi đừng lừa ta !”. Lý Trường Thọ nói:
    “Đâu dám lừa ngươi, người chưa từng nghe nói qua à ! Vị mỹ nhân đệ nhất thành Bắc Kinh này, cũng có thể nói là đệ nhất thiên hạ, là Tam tiểu thư của Ngọc đại nhân!”. Lưu Thái Bảo như giật mình, lại bĩu môi nói:
    “Cô ta ư? Ta đã thấy từ sớm nhưng không thích nhìn đâu !”. Tuy nói thế nhưng y lại đẩy hai người ra giành một chỗ, đưa ngón trỏ khoét lỗ hổng rèm giấy ở cửa sổ cho to ra, áp sát một mắt vào đó nhìn ra ngoài.
    Chỉ thấy bên ngoài chẳng có gì cả, chỉ là con đường bằng phẳng trống trơn, bốn viên sai quan mặc áo quan, đội mão, chân mang ủng đế mỏng, giắt đao ở hông đang đứng, nhìn uy phong thì biết là người của Đề đốc Chính đường. Ngọc đại nhân đã xuống ngựa vào mừng thọ Thiết Tiểu Bối lặc, dường như xe của phu nhân và tiểu thư tới sau nên họ còn đứng trực ở đây. Lưu Thái Bảo chửi thầm:
    “Con mẹ nó, làm gì mà chưa tới? Lại còn bảo ta xem xem”.
    Lúc ấy đám tôi tớ đứng bên cạnh đều chen lấn, áp sát vào nhau thở khì khì, chờ suốt nửa ngày mới thấy hai bộc phụ nghiêm trang dìu một lão phu nhân đi vào. Tuổi lão phu nhân khoảng hơn năm mươi, tóc chải thành hai bím, mặc áo khoác bằng đoạn tím, bên cạnh có một bộc phụ bưng ống nhổ bằng bạc, rõ ràng là phu nhân của Chính đường. Vào theo sau lại chính là vị Ngọc tam tiểu thư đó, lập tức như Hằng Nga giáng trần, những người nhìn trộm đều nín thở, một tiếng động nhỏ cũng không dám gây ra. Lưu Thái Bảo lúc này cũng trố mắt lên, chỉ tiếc bên cạnh có người lấn y, không cho y nhìn thẳng mặt vị tiểu thư đó, nhưng y thấy tiểu thư đó hôm nay đã thay một cái áo khoác đại hồng thêu hoa, thật giống như chim phượng hoàng, dẫn bộc phụ theo sau mẹ nàng, nhanh nhẹn đi vào viện, tiếng thanh la trong viện cũng vang ra bên ngoài. Đủ thấy trước đó trong viện có rất nhiều người đang cười nói nên tiếng thanh la bị át đi không nghe rõ, bây giờ chắc người trong viện đều trố mắt nhìn ngừng cười nói, nên mới nghe thấy rõ tiếng thanh la.
    Ngay lập tức người trong này ai cũng quay người há hốc miệng, đều gật đầu nói:
    “Thật xinh đẹp! Tranh cũng không họa được người đẹp như vậy, quả là thiên tiên!”. Lưu Thái Bảo lúc bấy giờ như mất hồn, y ngây người hỏi:
    “Vị cô nương đó là con gái ruột của Ngọc đại nhân à?”, bên cạnh có người đầy tớ không biết ở phủ nào nói “Không những là con gái ruột mà còn là con gái duy nhất! Cô nương có hai người anh, một người ở An Huy, một người ở Tứ Xuyên, đều làm Tri phủ. Vị cô nương này mới trở lại Bắc Kinh không đầy ba tháng, trước đây theo cha đương nhiệm ở Tân Cương, vừa tới Bắc Kinh thì tất cả tiểu thư, thiếu phu nhân trong các phủ ở Bắc Kinh đều bị lu mờ, không chỉ xinh đẹp mà nghe nói còn biết viết chữ vẽ tranh, tài học rất giỏi”. Lưu Thái Bảo nói:
    “Quân đầy tớ! Vậy Trạng nguyên mới cưới được cô ta sao?”. Người kia nói:
    “Trạng nguyên hả? Trạng nguyên rồi thăng Đại học sĩ cũng không cưới được cô ta đâu!”. Lưu Thái Bảo lè lưỡi một cái. Lúc ấy bốn viên sai quan đứng trực ở ngoài bước vào uống trà, người trong phòng không dám nói tới chuyện ấy nữa.
    Lúc này trong viện vô cùng náo nhiệt, kịch diễn trên đài màn sau hay hơn màn trước, dưới đài, trong đại sảnh hào hoa có một vị khách làm người ta chú ý nhất chính là vị Ngọc tam tiểu thư đó. Ai cũng biết vị tiểu thư này năm nay mới mười tám tuổi, tuổi con rồng, vì vậy có tên là Ngọc Kiều Long. Vị tiểu thư này trong mắt người già là đoan trang thanh tao lịch sự, điềm tĩnh, trong mắt của người trung niên là tú lệ dịu dàng, còn những người tuổi tác xấp xỉ đều hâm mộ cử chỉ đường hoàng của nàng. Nàng thật giống kiều long thái phượng, làm cho bữa tiệc mừng thọ đường đường hoa lệ này càng tăng thêm ánh sáng đẹp đẽ và màu sắc lộng lẫy.
    Khoảng hơn bốn giờ chiều, Ngọc Kiều Long theo mẹ cáo từ về trước. Lúc sắp đi đương nhiên lại là muôn mắt nhìn theo đưa tiễn, như một đám mây màu, một đôi phượng hoàng sắp bay đi. Mọi người trong đám tiệc dường như bị mất vật gì đó, chỉ lưu lại một ấn tượng, như mùi hương đọng lại, một đám mây đẹp chưa tan hết. Đến sáu giờ, trên đài đã hết diễn kịch, các tân khách dùng tiệc chiều xong, đều lần lượt cáo từ về. Ngay lập tức áo mũ quần thoa đều ra khỏi cổng, ngoài cổng tiếng xe ngựa vang lên, lại một trận ầm ĩ!
    Trong viện đèn hoa rọi sáng bốn phía, mười mấy người đầy tớ thu dọn rượu thịt còn thừa, các phúc tấn phu nhân đều vào noãn các nghỉ ngơi. Còn có mấy vị khách chưa về, chính là mấy vị quan lớn và Cửu môn Đề đốc Chính đường Ngọc đại nhân, tất cả cùng ở trong tây phòng, đốt mấy ngọn nến đỏ, trên bàn bày mấy chén thanh trà, dựa vào bình phong gỗ Nam mộc có hai cái giá đỡ chậu than, trong phòng ấm áp như ngày xuân. Thiết Tiểu Bối lặc ngồi ở ghế chủ, đầu tiên cùng mấy vị quan viên bàn bạc vài chuyện trong triều, kế nói chuyện phiếm. Trước là nói chuyện phiếm trong kinh thành, sau nói tới một số người làm nghề bảo tiêu ngoài Tiền Môn thường tỷ võ với nhau hoặc đám đông ẩu đả.
    Vị Ngọc Chính đường kia rất tức giận, vuốt râu nói:
    “Bọn người đó thật xấu xa, phần lớn đều xuất thân đạo tặc! Tuy bảo tiêu đi đường ngay, nhưng bản chất vẫn không thay đổi. Ta nhất định phải sai người thường xuyên canh chừng, chỉ cần chúng làm chuyện xấu xa là bắt trị tội ngay !”. Thiết Tiểu Bối lặc lại cười nói:
    “Cũng không thể nói tất cả bảo tiêu là người xấu, trong bọn họ quả thật có kẻ anh hùng thân mang tuyệt nghệ, hành vi lỗi lạc, nếu triều đình dùng được thì họ cũng rất có thể kiến công lập nghiệp!”, nói tới đó đột nhiên nhớ lại Lý Mộ Bạch, bất giác xúc động nghĩ tới cố nhân một lúc. Y ngồi im hồi lâu, chợt nói:
    “Ta có vật này, chắc các vị chưa thấy qua”, kế quay qua Đắc Lộc đứng hầu bên cạnh nói “Lấy thanh bảo kiếm ra đây!”.
    Thiết Tiểu Bối lặc tuy cất giấu nhiều danh kiếm, nhưng hôm nay Đắc Lộc vừa nghe liền hiểu đó là thanh bảo kiếm chém gang chặt sắt đột nhiên phát hiện trong thư phòng ba năm trước! Y lập tức dạ một tiếng, đi ra khỏi phòng. Thư phòng ở hành lang phía tây trong viện thứ ba, trước kia Thiết Tiểu Bối lặc thường tiếp Lý Mộ Bạch trong đó, bây giờ lại khóa chặt, trong cất rất nhiều đồ cổ, đồ sứ, thư tịch mà Thiết Tiểu Bối lặc thích, thanh bảo kiếm thì treo trên vách. Đắc Lộc mang chìa khóa, bảo một tiểu đồng cầm đèn, y mở khóa vào lấy bảo kiếm trên vách xuống, bước ra đưa kiếm cho tiểu đồng rồi khóa cửa lại.
    Đang khóa cửa chợt phía nam hành lang có một người đi tới. Người ấy hỏi ngay:
    “Cái gì thế? Là bảo kiếm hả? Đâu, cho ta xem xem!”, rồi giật thanh kiếm trên tay tiểu đồng. Đắc Lộc thấy người ấy là Nhất đóa liên hoa Lưu Thái Bảo, vội nói:
    “Bối lặc gia chờ để cho khách xem! Mau đưa đây!”. Lưu Thái Bảo rút thanh kiếm ra được một nửa, chỉ thấy hàn quang lóa mắt, kinh ngạc tự nhủ “Đây chắc chắn là một thanh bảo kiếm!”. Y vừa muốn ngắm kỹ, lại bị Đắc Lộc giật lại, cầm vào trong viện.
    Thiết Tiểu Bối lặc đang cầm kiếm trong tay, đầu tiên cẩn thận xem qua một lượt, không nhịn được lộ vẻ mỉm cười. Đắc Lộc theo lệnh bưng kiếm lần lượt đưa tới cho mấy vị khách xem. Mấy vị này phần lớn là quan văn, đối với loại bảo kiếm này vốn không sành, cũng không thích, chỉ cầm chuôi kiếm, đều khen “Đẹp quá ! Đây nhất định là bảo kiếm !”. Kiếm chuyển tới vị Chính đường Ngọc đại nhân, y lại đón lấy nhấc thử rồi búng ngón tay lên mũi kiếm, chỉ nghe tiếng tính tang vang lên như tiếng đàn cầm. Ngọc đại nhân lộ vẻ ngạc nhiên, bước tới gần đèn, cầm thanh kiếm lật qua lật lại nhìn ngây một lúc lâu, nói:
    “Ái chà ! Thanh kiếm này có thể chém gang chặt sắt à?”, lúc nói y ngước mắt lên.
    Chỉ thấy Thiết Tiểu Bối lặc ngồi cách xa mỉm cười, quay nhìn thấy trên giá vuông bày một cái lư hương bằng đồng cổ không to lắm nhưng chất đồng vừa đỏ vừa bóng. Thiết Tiểu Bối lặc sai Đắc Lộc mang qua, đặt trên cái bàn nhỏ, dưới kê một tấm nệm bông. Lúc bấy giờ các quan thấy Thiết Tiểu Bối lặc muốn thử bảo kiếm bèn cùng đứng cả lên. Tiểu Bối lặc nhận kiếm từ tay Ngọc đại nhân vung lên chém xuống, chỉ nghe choang một tiếng, lập tức cái lư hương đồng cổ bị chẻ đôi, tấm nệm bông lót phía dưới cũng bị chém một mảnh to.
    Những người đứng xem đều kinh hãi biến sắc, tấm tắc khen “Kiếm sắc thật!”.
    Thiết Tiểu Bối lặc lại hơi lộ vẻ mỉm cười rồi đưa kiếm cho Ngọc đại nhân xem lưỡi kiếm có bị trầy mẻ chút nào không. Ngọc đại nhân liền tới gần đèn xem kỹ hồi lâu rồi thở ra, ánh lửa đèn bị thổi lay động, y nói “Không bị trầy xước chút nào, đây quả là danh khí thế gian hiếm có! Không biết thanh kiếm này tên gì, là Trạm Lư hay Cự Khuyết?”. Thiết Tiểu Bối lặc lắc đầu nói:
    “Tôi cũng không biết tên thanh kiếm này, nhưng theo tôi thấy nó đã được đúc ít nhất cũng trên ba trăm năm! Tôi nhân lúc vô ý mà được nó, đã giữ ba năm, vì suốt ngày bận rộn nên cũng ít khi dùng tới”. Một vị quan đứng bên cạnh nói:
    “Bây giờ mà nếu có người giỏi kiếm pháp, gọi y tới viện cầm thanh bảo kiếm này múa vài đường thì mới đẹp mắt !”.
    Thiết Tiểu Bối lặc nghe câu ấy bất giác lại nhớ tới Lý Mộ Bạch, thầm nghĩ “Thanh niên kiếm pháp cao cường, giỏi đọc sách biết lễ nghĩa, khảng khái hiếu nghĩa như vậy thật hiếm có ! Nhưng vì y giết Hoàng Ký Bắc, thân mang trọng án nên vĩnh viễn không thể ra mặt gặp người, bôn ba giang hồ, không biết hiện đang phiêu lãng ở nơi nào?”. Vì vậy Thiết Tiểu Bối lặc vẻ mặt buồn bã, thở dài không thôi ! Mấy vị khách thấy chủ nhân không vui bèn lần lượt cáo từ. Chỉ còn Đề đốc Chính đường Ngọc đại nhân ở lại, y vẫn ở bên ngọn đèn, ngắm nghía tỉ mỉ thanh bảo kiếm, chòm râu trắng của y bị lửa đèn táp vào. Thiết Tiểu Bối lặc ngồi xa xa uống một hớp trà, ngáp một cái, y vẫn chưa đặt thanh kiếm xuống.
    Hồi lâu Ngọc đại nhân mới lưu luyến đặt kiếm lên bàn rồi quay qua Thiết Tiểu Bối lặc, nói:
    “Trong nhà bỉ chức có hai quyển kiếm phổ, trong đó nói rất tường tận chiều dài và đặc điểm riêng của các danh kiếm xưa nay. Ngày mai bỉ chức đem hai quyển sách ấy tới đây mời Bối lặc gia theo kiếm so sánh một lúc, ắt có thể biết tên gọi và niên đại đúc ra thanh kiếm này. Theo bỉ chức quan sát, đây chắc là thanh kiếm Thanh Minh của Tôn Quyền nước Đông Ngô thời Tam quốc”. Thiết Tiểu Bối lặc gật đầu nói:
    “Hay lắm! Ngày mai Ngọc đại nhân đem hai quyển sách ấy tới đây, chúng ta nghiên cứu một lúc !”. Ngọc đại nhân ưng thuận rồi cáo từ, Thiết Tiểu Bối lặc cũng trở về phòng nghỉ ngơi. Trong này Đắc Lộc đã sai tiểu đồng thắp nến, cầm kiếm tới thư phòng. Vừa tới trước cửa thì thấy trong bóng tối hình như có người đứng đó, y đưa đèn soi thì thấy lại là Nhất đóa liên hoa Lưu Thái Bảo, té ra y vẫn còn chờ ở đây không chịu đi. Y ngẩng đầu cười nói:
    “Lộc gia! Bây giờ có thể cho ta xem bảo kiếm được rồi chứ? Ta chờ ở đây suốt nửa ngày rồi!”. Vừa nói vừa đưa tay định cầm thanh kiếm, Đắc Lộc lùi lại một bước nói:
    “Lưu sư phó, sao người lại không biết quy củ?
    Vật của Bối lặc gia, chúng ta lại có thể tùy tiện muốn làm gì thì làm sao?”. Lưu Thái Bảo vừa nghe thế lại bực mình, bĩu môi nói:
    “Xem thì đã sao? Xem một cục sắt thì mất mát gì? Ngươi thật không có tình cảm!”. Đắc Lộc nói:
    “Đây không phải là tình cảm hay không tình cảm, vật của Bối lặc gia, người bảo ta cất thì ta phải cất ngay, không thể để cho người khác nhìn ngắm lung tung !”, nói xong y mở khóa vào phòng, treo bảo kiếm lên tường lại như cũ.
    Nhất đóa liên hoa đứng ở hành lang hậm hực chửi “Quân tôi tớ !” rồi giẫm chân quay đi, miệng lầu bầu chửi. Quay trở về phòng, chỗ y ở là hai gian phòng nhỏ bên cạnh chuồng ngựa, Lý Trường Thọ ngủ chung với y trên chiếc giường đất, hôm nay y bận rộn suốt ngày, được thưởng rất nhiều tiền, lại uống không ít rượu, trong lòng đã thoải mái, đầu óc cũng say khướt. Vì vậy bây giờ mới qua canh hai, y đã nằm trên giường ngáy ầm ầm, trong phòng sực mùi rượu hôi hám. Lưu Thái Bảo tức giận chửi một tiếng rồi cũng nằm lên giường, trùm chăn bông lên. Nhưng vừa nằm một lúc, chợt y lại nhảy xuống vỗ vỗ ngực lẩm bẩm “Họ giấu thanh đao bảo kiếm đó không cho ta xem à? Nhất đóa liên hoa ta muốn xem qua cũng không được, có chặt đầu đi ta cũng muốn xem”.
    Lập tức y mở cửa phòng, đứng ngoài cửa sổ, chỉ thấy sao mọc đầy trời, từng ngôi từng ngôi giống con mắt nhấp nháy như một thằng ăn cắp. Gió bấc thổi ào ào, khí trời rất lạnh, bên ngoài trống canh đánh xong canh hai thì không đánh nữa, giống như người báo canh đã chết cóng rồi. Phủ đệ rộng lớn như vậy, ban ngày ồn ào náo nhiệt như vậy, bây giờ lại vắng vẻ lạnh lẽo. Lưu Thái Bảo đứng ngoài cửa sổ hồi lâu, đĩa đèn dầu trong phòng đã sắp tắt. Lưu Thái Bảo vội quay vào phòng, cởi cái áo da dê cũ phủ lên đầu Lý Trường Thọ. Lý Trường Thọ khịt khịt mũi nhưng vẫn không tỉnh, Lưu Thái Bảo bèn vén áo cởi giày mở cửa ra ngoài. Ra khỏi phòng, bước chân của y nhẹ nhàng chầm chậm chuyển qua viện trước, vừa thò đầu ra lại thấy ánh đèn trong phòng trực sáng choang. Trong phòng có rất nhiều người đang nói chuyện ồn ào, chắc ở đó có không ít người đang đánh bạc ăn tiền. Lưu Thái Bảo vội rụt đầu quay lại, đứng dựa vào tường, tự nhủ “Không được! Những người này đều chưa ngủ, hành lang phía tây nhất định có người qua lại, mình mà vào thư phòng lén lút xem bảo kiếm, nếu có ai nhìn thấy đổ cho tội ăn trộm thì khó mà chối được! Nếu giao mình qua nha môn Đề đốc, cha nàng Hằng Nga kia thét một tiếng “chém” thì loại người ăn cơm như Nhất đóa liên hoa mình không sao sống được!”.
    Lúc bấy giờ Lưu Thái Bảo đành trở về phòng, lại khoác áo da dê đợi. Qua hồi lâu, đã qua trống báo canh ba, đại khái rất mau đến trống canh tư, Lưu Thái Bảo mới lại cởi áo da ra khỏi phòng, rón rén ra ngoài, thấy ánh đèn trong phòng dưới đó đã tắt, đại khái những người đánh bạc ăn tiền đã tan sòng đi ngủ. Lưu Thái Bảo bèn mạnh bạo đi thẳng vào viện, nghĩ thầm “Lấy bảo kiếm cầm trong tay trở về phòng xem cho đã, nếu là đồ chơi bình thường thì mình trả lại, người không hay quỷ không biết. Nếu là một thanh bảo kiếm có thể chém gang chặt sắt, thì Nhất đóa liên hoa mình sẽ cao chạy xa bay, cầm bảo kiếm tìm Lý Mộ Bạch giao đấu!”.
    Lúc bấy giờ y thuận theo hành lang phía tây đi thẳng tới trước thư phòng, thò hai tay mò khóa, không ngờ vừa chạm vào cửa, y đã giật mình suýt bật tiếng la hoảng ! Thì ra ống khóa đã không còn, nhất định là đã bị vặn ra, nhất định là có người vào phòng. Y liền phi thân nên nóc phòng không chút tiếng động, định la bắt gian tặc, nhưng lại cảm thấy quả nhụt chí. Lưu Thái Bảo ta ở trong phủ dạy quyền là để bảo vệ viện, bảo vệ viện là lo việc bắt trộm cướp, một mình bắt trộm, kiến lập kỳ công, sao lại hấp tấp kêu la om sòm? Y bèn gỡ hai mảnh ngói trước phòng thầm nghĩ “Phải khích cho tên trộm ra, nhân tiện y không đề phòng mình ném một mảnh vào đầu cho y hôn mê, một mảnh ném cho y gần chết !”.
    Kế đứng theo kỵ mã thức trước phòng, tay phải giơ cao mảnh ngói, ném xuống trước mặt nói:
    “Bằng hữu trong phòng, ra cho thấy mặt đi! Đừng rụt rè, Lưu thái gia không làm khó ngươi, chỉ đánh ngươi nhiều lắm là mấy gậy, để về sau ngươi nhận ra Nhất đóa...”. Bỗng nhiên cảm thấy mình bị đá một cước, y ái chà một tiếng ngã xuống đất, mảnh ngói cầm trong tay nát vụn, mặt cũng tê rần. Y vận khí vươn người đứng dậy, nhún chân nhảy lên nóc phòng, hừ một tiếng “Hảo tiểu tử”. Nguyên bốn bề nhìn không có người, y không dám gọi nữa. Y nhảy qua nóc, tìm khắp nơi một lượt, vẫn không thấy bóng dáng tên trộm ! Y quay về phòng mang giày vào, vớ lấy cương đao rồi chạy tới trước viện kêu to:
    “Có trộm! Có trộm!”. Lập tức tất cả người trong phòng dưới đều giật mình tỉnh dậy, người báo canh nghe tiếng kêu của y liền đánh thanh la keng keng, Lưu Thái Bảo lại xách đao vào phòng, trong chốc lát tất cả tôi tớ trong các phòng đều chạy ra. Lưu Thái Bảo thì đứng trong phòng nói to:
    “Vừa rồi ta ra ngoài tiểu tiện, thấy trong phòng có tên trộm nằm sấp, khi ta quay về lấy đao, thì y đã chạy mất ! Các ngươi mau kiểm tra xem, trong gian phòng đó bị mất thứ gì!”.
    Y vừa la om sòm thì đám tôi tớ trong viện đã chia nhau đi tìm, thắp mấy chục ngọn đèn khí đốt, có người còn cầm yêu đao, cầm thiết xích, lúc bấy giờ phu đánh trống canh trên đường nghe tiếng thanh la báo động trong phủ cũng khua mõ ầm lên. Trong chốc lát quan quân đi tuần trên đường dẫn mấy chục người Bổ đầu chạy tới, trong phủ tên thị vệ trực ban chạy ra, dặn tất cả không nên ồn ào, để khỏi làm kinh động Bối lặc gia. Lúc y nói thì Đắc Lộc từ trong viện chạy ra, cũng nói “Đừng ồn ào! Đừng ồn ào! Bối lặc gia dĩ nhiên giật mình tỉnh dậy, hỏi có chuyện gì? Mau kiểm tra! Cửa gian phòng mở ư?”. Thế là, không ai dám nói to nữa, bắt đầu từ quan quân đi tuần ở trước, hai thị vệ và Đắc Lộc thống lãnh đám tôi tớ theo sau.
    Lưu Thái Bảo cũng tay cầm đơn đao canh giữ ở bên trong, từng khu viện lạc, phòng ốc, thậm chí từng góc tường cũng đều kiểm tra hết, kết quả là không thấy một bóng người, không để lại một món gì, không tìm được một chút dấu vết !
    Không! Chỉ có ống khóa thư phòng bị bẻ gãy, trong phòng chỉ thiếu thanh bảo kiếm Thanh Minh kia ! Lập tức Đắc Lộc cau mày quay nhìn Lưu Thái Bảo, thấy cái mặt căng tròn của Lưu Thái Bảo thật giống một đóa hoa sen, vừa tránh vừa xanh vừa sưng, trán bị chảy máu, y cũng ngẩn ra. Đắc Lộc vội nói:
    “Làm sao đây! Thanh bảo kiếm đó Bối lặc gia rất thích! Chém gang chặt sắt, vừa rồi Bối lặc gia còn cho mấy vị khách xem, ngày mai Đề đốc Chính đường Ngọc đại nhân còn đem kiếm phổ tới tra cứu tên thanh bảo kiếm. Bây giờ bị ăn trộm rồi, lấy mạng ai mà đền cho được đây?”.
    Lúc nói Đắc Lộc cứ nhìn Lưu Thái Bảo chằm chằm. Lưu Thái Bảo cũng cảm thấy y bị nghi ngờ, bèn tức giận nói:
    “Lão Lộc! Ngươi chỉ nóng ruột không làm gì được, ngươi tới phòng Bối lặc gia nói bảo kiếm bị trộm lấy mất rồi. Lưu mỗ ta xung phong tình nguyện bắt trộm tìm kiếm, cho ta mười ngày, nếu không bắt được tên gian tặc, không tìm được bảo kiếm thì Nhất đóa liên hoa ta xin chịu mất đầu!”. Y nói xong, những người đứng bên đều nhìn y, hai người thị vệ đều lộ vẻ tức giận. Nếu câu nói này là của tôi tớ thì đã bị trách cứ, nhưng xét cho cùng y được coi là sư phó dạy quyền, đám thị vệ không thể nói gì, chỉ cùng trợn mắt căm ghét nhìn y. Lưu Thái Bảo cũng cầm cương đao tức giận, như thanh bảo kiếm đó bị mất thì y khó chịu hơn ai hết.
    Lúc bấy giờ trước tiên thị vệ mời các viên sai quan đợi ở ngoài, vào trong thỉnh thị Bối lặc gia, trong gian phòng bị mất trộm này để một chiếc đèn khí đốt, hai người đầy tớ đang ở đó. Lưu Thái Bảo đã nói lời xung phong bắt trộm một mình nhưng không ai thèm nói gì. Thị vệ, sai quan, thậm chí bọn tôi tớ cũng đều nhìn y nghi ngờ, lại không ai nói với y một câu. Y rất bực bội, ra khỏi thư phòng, cầm đao hậm hực chán nản đi ra, tới viện trước thấy các viên sai quan đều vào phòng trực phía đông uống trà.
    Lưu Thái Bảo tới trước cửa sổ nghiêng tai nghe ngóng, thấy tiếng của những người trong phòng nói chuyện đã thì thào lại còn mập mờ, không giác càng khiến y nghi ngờ tức giận, tự nhủ “Không cần nói nữa, bọn khốn nạn này nhất định đều nghi ngờ bảo kiếm là do mình lấy trộm! Con mẹ nó, hôm nay mình liều mạng cho rõ ràng mọi chuyện, cho vu khống mình mình vu vơ một chút cũng không được!”. Y cầm đao đứng ngoài cửa sổ, quên cả trời tối gió lạnh, đã đến canh tư, đợi một lúc, thấy Đắc Lộc lại dắt một tiểu đồng cầm đèn đi ra, Lưu Thái Bảo bước tới hỏi:
    “Lộc gia! Thế nào rồi? Lời ta nói ngươi có thay ta bẩm lại chưa? Nếu để ta làm, ngày mai ta sẽ đi dò la, không cần báo với Đề đốc nha môn làm gì”. Đắc Lộc lại không thèm nghe y, xua tay nói:
    “Đừng nói nữa! Ta đi ngủ đây!. Đắc Lộc nói vậy rồi vào phòng trực. Lưu Thái Bảo cười nhạt, đứng ngoài cửa sổ, lại nghiêng tai vào phòng nghe ngóng, nghe Đắc Lộc nói:
    “Xin các vị về đi ! Bối lặc gia nói mất một thanh bảo kiếm là chuyện nhỏ, không muốn tra xét !”.
    Lưu Thái Bảo vừa nghe, trong lòng rất kính phục, thầm nghĩ “Con người Thiết Tiểu Bối lặc này cũng rất rộng rãi đại lượng, một thanh kiếm chém gang chặt sắt bị trộm đi mà y không những không xót của, không nổi giận, lại còn không muốn truy cứu, thật là ít có! Trước đây y đối xử với Lý Mộ Bạch chưa chắc đã tốt bao nhiêu, mình tới đây y lại không để ý gì tới mình. Hôm nay nhân chuyện này, mình cũng phải bộc lộ tài năng một phen, bắt tên gian tặc, đem thanh bảo kiếm về, một là cho y nể nang. Hai là mình không thể để gã gian tặc kia được ung dung. Y đã ăn trộm thanh bảo kiếm còn đá mình một cước. Ba là mình tìm được thanh bảo kiếm về, Tiểu Bối lặc một phen vui vẻ sẽ thưởng cho mình. Bốn là mình được dịp hả cơn giận, đừng để bọn Đắc Lộc cứ nghi ngờ mình ăn trộm. Năm là, sáu là...”. Y càng nghĩ càng căng thẳng, quay về trong phòng, Lý Trường Thọ vẫn ngáy khò khò chưa tỉnh, y ngã người xuống giường kéo cái áo da qua trùm lại, đơn đao đặt bên cạnh, ngủ một giấc.
    Hôm sau tỉnh dậy đã hơn sáu giờ sáng, y mặt cũng không rửa, bước xuống giường, khoác cái áo da dê cũ lên, giắt một thanh đoản đao trong lưng, mang theo mấy quan tiền lẻ. Hôm nay Nhất đóa liên hoa Lưu Thái Bảo muốn làm trinh thám, tinh thần của y đặc biệt tốt so với hôm qua. Ra khỏi cổng phủ, tới An Định Môn, tuy gió lạnh thổi vào những vết thương trên mặt y đêm qua, nhưng y không sợ đau, ưỡn ngực ra, khuỳnh khuỳnh cánh tay ra phía trước, như nếu ai nói một câu không đúng y sẽ vung tay đánh ngay. Y đi tới Tây Đại Viện, Tây Đại Viện là một quán trà trứ danh ở Bắc thành, không chỉ bán thanh trà mà còn bán rau xào, mì xào, bánh nướng vân vân. Quán rất rộng, không khác gì đại hý viện, đủ chứa bốn năm trăm người, hàng ngày từ sáng sớm những người nhàn rỗi thích ở không ở kinh thành đều tới đây giải trí, tụ tập nói chuyện.
    Bấy giờ Nhất đóa liên hoa Lưu Thái Bảo vừa vào quán thì cảm thấy hơi nóng bốc ra, mặt cùng tai đều rất thoải mái, y cởi cái áo da dê cũ ra vắt lên tay trái, nhìn đông liếc tây. Chỉ thấy trên lan can treo vô số lồng chim toàn là của khách uống trà mang tới, tiếng kêu chít chít líu lo rất ầm ĩ. Có rất nhiều người đứng lên, cười vẫy gọi y:
    “Lưu gia! Mời lại đây ngồi ! Hôm nay tới sớm thế!”.
    Lưu Thái Bảo cũng gật đầu cười nhìn người kia, nói:
    “Sớm à? Gần bảy giờ rồi!”. Lúc bấy giờ có người qua nhờ y một việc, y vừa quay nhìn, thì ra người này hói đầu, trông như một con chó ghẻ nhưng mặc áo lụa xanh, quần bó bằng lụa xanh, mặt đầy vẻ nghiện ngập. Người này nguyên là côn đồ khét tiếng trong phố, ngoại hiệu là Thốc đầu ưng, ngày thường ăn vạ đánh nhau không gì không làm, không ai dám lôi thôi! Nhưng y từng bị Lưu Thái Bảo đánh, vì vậy khâm phục Lưu Thái Bảo, hai người trở thành bằng hữu. Lúc ấy Lưu Thái Bảo nói:
    “Lão Thốc! Ngươi kéo ta có chuyện gì?”. Thốc đầu ưng nói:
    “Huynh đây rồi!
    Tôi vừa biết một tin mới, định nói với huynh”. Lưu Thái Bảo cười hỏi “Ngươi có tin gì mới sao? Chắc lại là chuyện đại cô nương nuôi con!”. Thốc đầu ưng kéo y tới ngồi bên cạnh, bốc một chút thuốc hít từ cái đĩa, vuốt mặt rồi rót cho Lưu Thái Bảo một chén trà, cúi đầu hỏi:
    “Tối hôm qua nghe nói trong phủ các huynh xảy ra chuyện?”. Lúc y nói câu này thanh âm rất nhỏ, mắt nhìn đám người gần bên, Lưu Thái Bảo cũng không kìm được giật mình nói “Ái chà, tai Thốc đầu ưng ngươi cũng dài thật!”. Thốc đầu ưng vội đưa mắt nói “Nói nhỏ thôi!”.
    Lưu Thái Bảo quay nhìn, chỉ thấy có hai người ngồi xa xa, đều mặc áo ngắn trông rất giàu có đang nói chuyện với người khác. Thốc đầu ưng nói khẽ:
    “Hai người đó là Trương Bát và Bàng Cửu, đều là Bổ đầu, không dễ gì tới đây uống trà, hôm nay đại khái cũng vì chuyện đó!”. Lưu Thái Bảo vừa nghe lại bất giác tức giận, cố ý nói lớn:
    “Lẽ nào lại thế, Bối lặc gia đã không muốn tra cứu, còn cần họ vờ sốt sắng à?”. Thốc đầu ưng vội kéo y lại nói “Lưu huynh không phải thật lòng muốn rắc rối chứ?”. Rồi lại nói khẽ “Chuyện hôm qua tuy trong phủ không có ý tra cứu nhưng nha môn vẫn không chịu nỗi, huynh nghĩ xem, hôm qua may là trong phủ chỉ bị mất một thanh bảo kiếm, chứ nếu có người cầm bảo kiếm vào gây ra chút chuyện là hay à? Vì vậy hôm nay viên sai quan các nơi kiểm tra rất căng !”. Lưu Thái Bảo đấm tay xuống bàn, nói “Con mẹ nó ! Nếu có ai dám nói chuyện đó có dính líu tới ta, ta sẽ cắt đầu nó ra!”. Thốc đầu ưng liền hạ giọng thấp hơn nói:
    “Không phải đùa đâu, quả thật có người nghi là huynh đấy!”. Lưu Thái Bảo đứng dậy, túm lấy Thốc đầu ưng, trợn mắt nói:
    “Ngươi cho ta biết, ai đã nói? Ta sẽ tìm y ngay!”. Thốc đầu ưng ấn y ngồi xuống, cười nói “Người khác không nghi ngờ huynh, chỉ vì tôi nghĩ có lão huynh trong phủ dạy quyền, mà lại để trong phủ bị ăn trộm, tiếng tăm của lão huynh nghe không hay lắm. Tôi nghĩ lão huynh hôm nay nên ra Nam thành một chuyến, tới các khách sạn các tiêu điếm hỏi thử xem, nếu có anh hùng giang hồ nào từ nơi khác đến, huynh cứ thám thính thám thính...”.
    Lưu Thái Bảo lại hơi cười cười, xua tay nói:
    “Tiêu điếm khách sạn đừng nói anh hùng, ngay cả gấu đen cũng bảo đảm không có! Nhất đóa liên hoa ta quyết không tìm bọn đó, bây giờ...”. Nói đến đây thì hạ giọng thật khẽ, nói “Ta hỏi thăm một chuyện, ngươi có biết ở thành Bắc Kinh gần đây có hai cha con mới tới, người cha diễn Lưu tinh chùy...”. Thốc đầu ưng tiếp lời “Còn người con gái đi dây phải không?”. Lưu Thái Bảo lắc đầu nói:
    “Cô gái đi dây thì tôi chưa thấy, bây giờ cha con họ vẫn chưa rời đây chứ?”. Thốc đầu ưng cười gật đầu nói “Vẫn chưa đi, hôm qua tôi còn xem cả nửa ngày ở tây Cổ Lâu! Mấy hôm nay họ thường diễn ở đó, mỗi ngày kiếm được không ít tiền, tiểu cô nương đó dáng vẻ coi cũng được, thật đáng thương, chỉ là đi lại giang hồ nhiều nên da quá đen, nếu thoa chút phấn cũng thật đáng mấy quan tiền. Lão huynh hỏi thăm để làm gì? Muốn thăm dò sao?”. Lưu Thái Bảo chưa nói gì, Thốc đầu ưng lại cười nói:
    “Tôi khuyên lão huynh ngàn vạn lần đừng làm chuyện không đâu, đó là bọn mãi võ trên giang hồ, bảo họ đi dây thì được, chứ bảo họ nhảy lên nóc nhà thì không được đâu ! Thường có loại người này tới Bắc Kinh xin tiền kiếm cơm, năm trước còn có một thằng nhỏ hai mươi tuổi dẫn theo cô vợ mười bảy mười tám tuổi, hai vợ chồng diễn trò phóng mười hai ngọn đao, cũng ở Bắc Kinh diễn hơn hai ba tháng rồi lặng lẽ bỏ đi. Nếu huynh nghi hai cha con họ là gian tặc, thì chính lão huynh tự tìm nguyện rỗi hơi !”. Lưu Thái Bảo lắc đầu, mỉm cười nói:
    “Thốc huynh, nhiều thì mười ngày, ít thì ba ngày, ta muốn cho ngươi xem xem!
    Lưu Thái Bảo ta không cần quan quân giúp đỡ, muốn phá vụ án này, Thốc huynh cứ xem xem!”.
    Lúc nói y phanh ngực áo để lộ ra bộ ngực giống như tảng đá, chỉ thấy trên da xăm một đóa hoa sen to như miệng chén trà, dưới có lá sen đỡ lên, cái lá sen ấy lại không giống như dùng kim xăm mà là một mảng sẹo nhăn màu đen, giống như bị vật bằng sắt nung đỏ đốt. Lưu Thái Bảo chỉ chỉ, cười nói:
    “Tại sao ta tên là Nhất đóa liên hoa, bây giờ ngươi hiểu rồi chứ? Năm năm trước ta từng làm quan quân ở nơi nọ truy bắt Đại hưởng mã Tiêu rùa đen, phá núi Đàm Tử, từng một mình vào hang cọp, bảo gian tặc lưu ký hiệu lên người ! Lúc đốt ta không hề chau mày, về sau vết thương lành, ta thấy nó giống một cái lá sen thật vui mắt, nên mới xăm lên trên một đóa hoa sen !”.
    Thốc đầu ưng ngẩn ra, Lưu Thái Bảo cài nút áo rồi đứng dậy, lại hơi cười nói:
    “Ta đi đây, chuyện ta nói cho ngươi nghe, ngươi đừng rêu rao khắp nơi.
    Ngươi mà rêu rao khiến gian tặc thất kinh bỏ chạy ta sẽ cắt mũi cho huynh hết hít thuốc đấy”. Thốc đầu ưng nói lia lịa:
    “Không đâu, không đâu ! Tôi nhất định kín miệng, nếu nói lộ ra thì Lưu gia cứ tìm tôi. Có gì cần sai bảo cứ nói một câu, tôi nhất định ra sức !”. Lưu Thái Bảo mỉm cười nói:
    “Không thiếu ngươi được, ta như đuổi theo con chồn, không có thứ chó con như ngươi mà được sao?”, nói xong quay đầu qua phía hai viên sai quan của nha môn Đề đốc bĩu môi tỏ ý coi thường, sau đó rời chỗ ngồi đi ra, rất nhiều khách uống trà đều đứng dậy nhìn y xun xoe mấy câu.
    Lưu Thái Bảo ra khỏi quán trà, trước tiên về phủ ăn cơm, rồi thay bộ quần áo bông nhỏ bằng lụa xanh, lấy hai quan tiền, lại đi ra khỏi phủ. Y đi thẳng tới Cổ Lâu, lúc này chẳng qua mới quá giờ Ngọ, hỏi thăm một người bày sạp hàng, người ấy nói:
    “Trò diễn Lưu tinh chùy đó hơn một giờ nữa mới có, hai hôm nay đều diễn ở phía tây trước cổng phủ Ngọc đại nhân”.
    Lưu Thái Bảo vừa nghe ba chữ “Ngọc đại nhân” lại càng nghi ngờ, thầm nghĩ “Hay mình đoán sai? Nếu hai cha con đó là phi tặc trộm kiếm thì làm sao dám mãi võ trước cổng phủ Đề đốc đại nhân?”. Rời quầy hàng nhỏ này, từ Cổ Lâu y đi về phía tây, nháy mắt đã đến Đức Thắng Môn, lại quay đầu lại, thấy đuờng phía bắc có không ít phủ đệ lớn, nhưng không biết chỗ nào là nhà họ Ngọc, lại không khỏi suy nghĩ lung tung, tự nhủ “Nếu lại có thể thấy vị Hằng Nga đó một cái, mới thật là có duyên!”.
    Y đi tới đi lui hai lần, bỗng nhiên thấy hai cha con mãi võ từ phía tây đi tới trước mặt. Lưu Thái Bảo chăm chú nhìn họ, chỉ thấy người cha mặc một chiếc áo bông lớn vải xanh cũ rách, đầu đội nón len, tay cầm binh khí mãi võ, ngoài Lưu tinh chùy ra, còn có một đôi hoa thương. Hoa thương này rất đặc biệt, cán thương bằng sắt, cũng không dài lắm, hai ngọn thương tổng cộng có bốn mũi, loại này gọi là Song thương. Lưu Thái Bảo nhớ khi xem hý kịch, Lục Văn Long trong vở “Bát đại chùy” đã biểu diễn loại thương này, nhưng vẫn chưa thấy qua người luyện võ nào sử dụng, lúc ấy rất kinh ngạc. Lại thấy cô gái hôm nay toàn thân mặc màu đỏ, hài cong cũng đỏ, ngang hông thắt một dải khăn lưới trắng, hai búi tóc vừa đen vừa bóng, mỗi bên cài một đóa hoa hồng làm bằng lụa, trên mặt cũng thoa lớp phấn sáp mỏng, môi son hơi đen. Bên tai còn đeo một đôi hoa tai mạ vàng, tay cầm thanh la và một bó dây thừng, thướt tha như một con cá vàng nhỏ đi theo cha. Lưu Thái Bảo đi tới rồi quay lại theo sát họ. Từ phía đông đi tới không xa, tới trước cổng một tòa nhà lớn thì hai người dừng lại.
    Lưu Thái Bảo ngước mắt nhìn, thấy tòa nhà lớn này ở trên một cái gò cao, trước cổng có tám gốc cây hòe to, mười mấy cái cọc buộc ngựa, trước cổng lớn và cổng nhà xe đều có đặt ngựa đá, cổng lớn quét sơn đỏ, trên treo bức hoành rất lớn viết mấy chữ ca công tụng đức. Nhìn vào trong thì tường vẽ gạch chạm, bốn bên đều là cột chạm rường vẽ, rất hoa lệ sang trọng. Lưu Thái Bảo thầm nghĩ “Đây nhất định là phủ đệ của Ngọc đại nhân rồi! Hằng nga ấy đang ở đây, thật là giàu có sánh ngang vương hầu! Chẳng trách gì hôm trước biểu huynh tức giận mình, mình với cô ta tuy tình cờ gặp nhau ở nhà họ Đức nhưng quả cũng rất không nên, cũng đừng tới nhà họ Đức nữa!”.
    Lúc bấy giờ trong Ngọc phủ có mấy người đầy tớ ăn mặc sang trọng cùng bước xuống bậc thềm, đều đưa mắt vui vẻ nhìn cô nương kia cười hỏi “Tới rồi ư?”. Người mãi võ gật đầu mỉm cười nói:
    “Tới rồi! Phượng hoàng không đậu chỗ không quý, chúng tôi không dám ví mình là phượng hoàng, nhưng là chim cút già chim cút nhỏ cũng có ý dọn chỗ sang quý mà tới. Hôm nay tôi muốn diễn mấy chiêu Lưu tinh trục nguyệt, cũng sai con gái tôi luyện một bộ chính để giữ nhà, gọi là Hỷ thước đăng chi đảo hàm hoa!”, nói xong y bỏ đồ dùng xuống đất, quay nhìn con gái nói:
    “Lão Kế, khua thanh la đi!”.
    Ngay lập tức người đi đường dừng chân lại, tôi tớ của Ngọc phủ cùng Lưu Thái Bảo vây quanh cả nửa vòng tròn, cô gái đặt xuống, xắn tay áo, khua thanh la keng keng keng, người mãi võ cởi áo khóac, hướng về phía tây chắp tay vái dài, sau đó nói “Cha con tôi lánh nạn đến kinh thành!”. Cô gái khua thanh la đáp “Kinh thành thật là đẹp!”. Người mãi võ lại nói:
    “Thần Tài các lộ đều ở đây!”.
    Cô gái khua thanh la đáp lời “Bát tiên Lộc thọ cười hừ hừ!”. Người mãi võ già ngẩn ra hỏi “Bát tiên Lộc thọ phải cười ha hả, sao ngươi biết là cười hừ hừ?”.
    Cô gái ngừng khua thanh la cười đáp:
    “Vì Thiết Quải Lý đau chân, Hà tiên cô lại đau bụng, nên con nói là cười hừ hừ !”. Người mãi võ hỏi:
    “Tại sao biết bụng Hà tiên cô bị đau hả? Hay vì ăn đào tiên quá nhiều?”, mọi người đều cười. Lưu Thái Bảo lại sầm mặt, bực bội tự nhủ “Lợi hại! Trông kiểu này cô gái này không chỉ là mãi võ mà còn có thể bán thân, không chỉ là nữ tặc, mà còn có thể là kỹ nữ!”.
    Lúc này người mãi võ đã múa Lưu tinh chùy, cô gái bên cạnh vừa khua thanh la vừa cười chúm chím đưa cặp mắt quyến rũ qua mấy người đầy tớ của Ngọc phủ liếc liếc. Mấy người đầy tớ đều cười, mở tròn mắt không thèm nhìn Lưu tinh chùy, lại quay nhìn gương mặt thoa phấn và gót sen của nàng. Lát sau người mãi võ thu Lưu tinh chùy lại chắp tay nói:
    “Trò Lưu tinh tôi diễn nói chung chư vị đều xem chán rồi, bây giờ nên bảo con gái tôi đi dây!”, nói xong y buộc hai đầu dây thừng vào hai ngọn thương, rồi cắm hai ngọn thương xuống đất thành một cái giá căng dây.
    Người mãi võ nhận thanh la từ tay con gái, khua keng keng keng mấy cái, cô gái đó liền phóng cước vung quyền đánh mấy chiêu Liễu xuyên ngư, Liên chi tiễn, Kim cương diệt, chiêu nào cũng rất mau lẹ. Lưu Thái Bảo càng nhìn càng không kìm được kinh ngạc, lại nghe người mãi võ khua thanh la nói “Bát tiên Lộc Thọ cười hà hà, Trong hội Bàn đào tỏ tài năng, Quả lão cưỡi lừa đi trên dây...”. Cô gái nghe nói thế lập tức uốn lưng nhún chân như một con bướm nhanh nhẹn nhảy lên sợi dây. Hai gót sen khéo léo đi trên dây, hai tay chắp sau lưng, tha thướt như cành liễu đón gió. Những người bàng quan đều ồ lên khen hay, Lưu Thái Bảo càng kinh ngạc, vì y trên giang hồ tuy từng thấy qua nhiều cô gái đi dây, nhưng họ đi dây đều trong tay có cầm đồ vật, hoặc một cây sào có đầu nặng, hoặc cầm hai vật nặng. Còn cô gái này tay không múa nhảy trên dây hôm nay thì y mới thấy lần đầu, vì thế cứ trố mắt ra.
    Người mãi võ lại khua thanh la nói “Tương tử thổi sáo thật là hay!”. Cô gái ngồi xổm nhảy đi trên sợi dây, tay làm ra dáng như đang thổi sáo. Người mãi võ lại khua thanh la một lúc rồi nói “Giỏ lan của Lam Thái Hòa hiến điềm lành!”.
    Cô gái đột nhiên liền lật người, tay chỉ lên trên, đầu chúc xuống dưới, đi liền trên dây mấy bước, Lưu Thái Bảo không nhịn được reo lên:
    “Hay!”. Keng keng ! Người mãi võ lại nói “Hồ lô của Thiết Quải Lý hiện uy phong!”. Tiếng thanh la khua vội, người mãi võ tía lia “Trống của Tào Quốc cữu thùng thùng, quạt của Hán Chung Ly vù vù, Lã Động Tân hái một đóa hoa sen...”. Cô gái đứng thẳng lên trên dây, nói:
    “Sai rồi, Lã Động Tân dùng kiếm ngọc, Hà tiên cô mới hái hoa sen”. Người mãi võ nói “Hai vị thần tiên đem tài riêng ra chơi đùa, hiện đã đổi kiểu rồi!”. Y khua gấp thanh la, nói:
    “Bảo kiếm của Hà tiên cô khoe vẻ anh hùng”, chỉ thấy nàng liên tiếp ra các chiêu Dao tử phiên thân ưng triển sí, Tiên nhân chiếu chưởng Hổ bộc hung, Tiễn uyển điểm phạm song giá bút...Cô gái theo tiếng thanh la, nhẹ nhàng xoay tấm lưng ong, liên tiếp vung tay ngọc, uyển chuyển như phi yến, mau lẹ tựa lưu oanh, đứng trên dây múa một bộ quyền pháp tuyệt diệu. Sau cùng người mãi võ hết sức khua một tiếng, tiện tay đè vào chiếc thanh la cho tắt rồi nói “Mâm vàng trăng rụng thấy im lìm !”. Cô gái nhanh nhẹn nhảy xuống, gót sen chạm đất không có chút tiếng động.
    Người vây quanh xem đều luôn miệng khen hay, hai cha con người kia bèn chắp tay xin tiền, Lưu Thái Bảo liền ném một chuỗi tiền trong tay xuống giữa vòng diễn, tiền văng loảng xoảng rơi vãi đầy mặt đất, không chỉ cha con người mãi võ cùng nhìn Lưu Thái Bảo mà mọi người đứng hai bên cũng đều quay qua nhìn vị “nhà giàu” này. Lưu Thái Bảo liền vênh mặt lên ra vẻ thản nhiên nhàn nhã không để ý tới. Người hai bên cũng ném ra mấy đồng, người mãi võ chắp tay cám ơn, kế nhặt tiền rồi biểu diễn tiếp. Người mãi võ này lại diễn Lưu tinh chùy, mấy người đầy tớ trong Ngọc phủ đều quay lại, chắc nhìn thấy người Tổng quản bèn bỏ về. Nhưng vẫn còn không ít người vây quanh đứng xem, hai cha con người kia biểu diễn rất hăng hái.
    Lát sau bỗng có hai viên sai quan vung roi da đuổi những người nhàn rỗi tản ra. Lưu Thái Bảo cũng núp ở góc tường phía nam, hai cha con người mãi võ nhặt đồ nghề bỏ chạy, hai viên sai quan cầm roi đuổi theo. Lưu Thái Bảo thấy vậy bất bình, vội đuổi theo cản lại, nói:
    “Bọn họ mãi võ xin tiền cũng không dễ, hai vị lão gia hà tất phải đuổi đi?”. Hai viên sai quan nhìn Lưu Thái Bảo một lượt, một người tức giận hỏi:
    “Người làm gì ở đây?”. Lưu Thái Bảo trả lời:
    “Ta là sư phó dạy quyền trong phủ Thiết bối lặc, họ Lưu, hôm nay cũng đến đây xem mãi võ”. Hai viên sai quan vừa nghe thế đều đổi qua vẻ mặt tươi cười, một người nói:
    “Lưu gia không biết, anh em chúng tôi là người của nha môn Đề đốc, cổng lớn phía bắc đường này chính là phủ đệ của Ngọc đại nhân. Ngọc đại nhân làm việc rất nghiêm, thích yên tĩnh, ngay những người bán hàng rong cũng không được rao trước cổng, mà gã mãi võ này lại dẫn con gái y khua thanh la ầm lên trước cổng phủ suốt ngày, hôm trước có cô nương trong phủ ra xem họ lại càng đắc ý, ngày nào cũng tới ! Lại thu hút một đám người nhàn rỗi trước cổng phủ, như thế là sao! Đề đốc đại nhân hôm nay lại đang không vui!”. Lưu Thái Bảo cười nói:
    “Được rồi được rồi! Họ chạy là được rồi, không cần đuổi nữa”. Y nói xong gật gật đầu chào hai viên sai quan, rồi đi về phía đông.
    Lúc này người mãi võ cầm song thương và Lưu tinh chùy, cô gái cầm bó dây và thanh la chạy theo về phía đông quay lại nhìn, có một đám người còn chạy theo họ. Lưu Thái Bảo cũng đuổi theo, đến một khoảnh đất rộng sau Cổ Lâu, lại xúm thành một vòng tròn. Hai cha con lại diễn Lưu tinh và đi dây, diễn một lúc rồi nghỉ một lúc, lại diễn một lúc nữa, đám người vây quanh người này đi người khác lại tới, nhưng người bỏ đi ít hơn người tới, vì vậy người xem càng lúc càng đông. Lưu Thái Bảo xem hơn nửa ngày, kiếm một quán cơm nhỏ gần đó, uống mấy chén rượu, ăn hai tô mì, nghĩ bụng nếu cha con cô gái mãi võ đó không phải là gian tặc thì mình dám đánh cá luôn cái đầu, thân thể nhanh nhẹn, võ nghệ thuần phục như vậy mà có thể an phận mãi võ không trộm cắp sao? Thiên hạ không có người ngây ngô như vậy. Biết đâu đêm qua mình đứng dưới phòng chính là bị trúng Lưu tinh chùy. Nhất định bảo kiếm chém gang chặt sắt đang trong tay họ, họ diễn trò trước cổng Ngọc phủ chắc để thăm dò, cũng để chuẩn bị vào Ngọc phủ ăn trộm! Y ném tiền xuống bàn rồi chen vào đám đông, nhìn cô gái kia nhún nhảy trên dây múa Lưu tinh chùy, múa còn đẹp hơn cha, mọi người hai bên không ai không ngẩn ra! Lưu Thái Bảo xem một hồi, ném hết tiền trong người xuống rồi đi ra, núp một bên nhìn. Mãi đến lúc trời tối, hai cha con mới thu dọn vật dùng, đám người xem cũng tản đi. Hai cha con cầm vật dùng mãi nghệ đi, Lưu Thái Bảo theo sau.
    Cô gái đi về phía tây, ráng trời đang chiếu rọi bộ đồ màu đỏ và hoa hồng trên đầu nàng, hai cha con đều như rất mệt mỏi, đều đi chầm chậm. Lưu Thái Bảo thì ở phía sau hơn hai chục bước rồi chầm chậm theo sau họ, đi tới con đường lớn phía tây Cổ Lâu. Lúc đi qua cổng trước Ngọc phủ, người mãi võ đó còn nghiêng mắt nhìn lên một cái, Lưu Thái Bảo phía sau không kìm được ngầm cười nhạt.
    Thẳng về phía tây, qua cầu Đức Thắng, vẫn theo phía tây, trước mắt trải ra một phong cảnh mùa đông lạnh lẽo, chỉ thấy một cái hồ rộng bảy tám trăm mẫu, nước hồ đóng thành băng dày. Ven hồ có vài mươi cây liễu già, lúc này đã không nhìn thấy cành nào, chỉ có thân cây cong cong lắc lư giữa gió. Trong hồ lệch về phía tây có một hòn núi do đá chất đống tạo thành, giống như một cái gò, bên trên cây cối mọc um tùm, cũng có tường hồng lấp loáng, trên đó còn có một ngôi miếu. Quanh hồ đều là phòng ốc, có nhà gác khắc xà ngang vẽ cột dọc, giống như biệt thự của người giàu sang, có nhà lại nhà đất cổng cỏ, là nhà của người cùng khồ. Đất rộng người thưa, trời đã tối, gió lạnh từ dãy tường kia thổi tới, quạ chiều đậu trên cành khô kêu ầm ĩ. Lúc hè Lưu Thái Bảo từng tới đây, y biết đây là danh thắng của Bắc Kinh, khách văn chương gọi là Tịnh Diệp hồ, tên tục là Tích Thủy đàm.
    Lúc này người mãi võ men theo bờ sông đi về phía bắc, con gái y đi sau.
    Lưu Thái Bảo lại theo sau cô gái đó, người mãi võ phía trước cũng chưa chú ý.
    Cô gái đi tới bên một gốc liễu khô bỗng khẽ xoay lưng quay đầu lại, đưa cặp mắt đẹp liếc Lưu Thái Bảo một cái rồi tươi cười, cầm thanh la và dây vào một tay, tay kia vuốt cái khăn lau mồ hôi bằng lụa trắng rũ xuống dưới eo, trông như đóa hoa, lại mỉm cười, đôi mắt đẹp lúng liếng. Sau đó nàng quay lại chạy mấy bước lên với cha. Lưu Thái Bảo tự nhủ “Ái chà ! Muốn chim chuột ta à? Bọn tiểu cô nương ngươi đừng hòng diễn trò quyến rũ Lưu đại gia. Lưu đại gia là Thiết La Hán, không dễ bị hồ ly mê hoặc đâu”. Lại đi về phía trước không xa, trên con đường phía bắc có một ngôi nhà cũ nát, nóc nhà là rơm cỏ nhào với bùn đắp lên, tường nhà dùng gạch vụn chất thành, cổng là rào gai đan thành, người trong nhà nhất định rất nghèo khổ.
    Người mãi võ lúc ấy đã đẩy cửa bước vào, cô gái kia quay nhìn Lưu Thái Bảo cười cười hơi lẳng lơ vẫy vẫy chiếc khăn lau mồ hôi rồi mới vào. Lưu Thái Bảo cũng nhìn nàng cười, nghĩ thầm “Tiểu muội tử ! Ta chờ ở đây, cô mau đem thanh bảo kiếm ra!”. Hai cha con họ vào nhà rồi, Lưu Thái Bảo vẫn đi lại thong thả bên bờ hồ, ráng đỏ ở chân trời đã lần lượt rơi xuống, chung quanh dần dần đen kịt.
    Mấy chén rượu Lưu Thái Bảo vừa uống cũng đã tan hết hơi, y thấy rất lạnh, tung người nhảy lên băng, định trượt mấy cái rồi tới cầu Đức Thắng tìm cái quán nào uống vài chén rượu, sau đó mới quyết định chủ ý. Không ngờ mới trượt hai cái thì huỵch một tiếng, y như một con ngựa lớn té sấp trên mặt băng.
    Lúc đó lại nghe trên bờ có một cô gái cười khanh khách một tràng. Lưu Thái Bảo nhảy bật dậy chạy lên bờ, vừa nhìn kỹ thấy chính là cô gái mãi võ kia. Lưu Thái Bảo bước tới túm nàng nói:
    “Tiểu muội tử, cô dám cười ta à? Hôm nay ta thưởng cho cô bao nhiêu tiền? Nếu không nể mặt ta, người của nha môn Đề đốc đuổi kịp cô, ít ra cũng phải để lại trên làn da mịn màng này vài roi!”. Cô gái lại cười nói:
    “Người đừng lôi kéo ta! Coi chừng làm vỡ cái bát!”. Lưu Thái Bảo cúi nhìn thấy nàng cầm một cái bát sành bèn hỏi:
    “Cô định mua gì thế?”. Cô gái cười nói:
    “Ta tới cạnh cầu mua nước tương rồi quay về làm cơm tối, ăn cơm tối xong gia gia ta tới quán trà nghe kể chuyện, lúc đó đại gia ngươi có thể tìm ta”.
    Lưu Thái Bảo cười hỏi:
    “Thật không?”. Cô gái nói:
    “Ta lừa ngươi làm gì? Hôm nay ta vừa nhìn thấy đã biết ngươi là quan, vừa có tiền, vừa thích làm việc tốt”.
    Lưu Thái Bảo buông tay, vỗ vỗ vai cô gái cười nói:
    “Cô nịnh ta quá! Cô mau đi mua nước tương rồi về làm cơm nhanh lên, giục cha cô đi nghe kể chuyện, trước tám giờ ta sẽ đi tìm cô, chúng ta vỗ tay làm hiệu!”.
    Cô gái gật đầu cười nói:
    “Được rồi! Ngươi hãy về nhà ăn chút cỏ rồi lại tới!”. Nói xong nàng men theo bờ hồ đi về phía nam, vừa đi vừa ngoái đầu lại cười khanh khách. Trong lòng Lưu Thái Bảo không kìm được dấy lên chút cảm giác khác lạ, giống như mất hồn, y đứng đó chịu gió lạnh hồi lâu. Chợt thấy từ phía nam có một cái bóng đen đi tới gần, nhìn ra thì là cô gái mua tương quay về. Lưu Thái Bảo cười nói:
    “Tiểu muội tử khoan đi đã, ta muốn hỏi mấy câu, cô họ gì?”. Y đưa tay chụp, cô gái né sang một bên như chim oanh xuyên rặng liễu, soạt một tiếng tránh khỏi chạy đi. Lưu Thái Bảo đuổi theo, cô gái cười khanh khách chạy rất mau, nháy mắt đã chạy qua cánh cửa tre vào nhà.
    Lưu Thái Bảo đuổi tới cửa, đứng ngoài bức tường nhìn vào, thấy căn phòng phía đông trong nhà có ánh đèn sáng choang, nhưng không nghe được tiếng người nói chuyện. Lưu Thái Bảo nhìn nhìn cười cười rồi quay đi, hát hai câu Nhị hoàng, lắc lư trên cầu Đức Thắng, mò mò trong áo thấy còn hai tờ ngân phiếu bèn bước vào một quán rượu nhỏ, gọi một hũ rượu trắng uống để giết thời gian. Trong lòng lại không quên được gương mặt đen đen dễ nhìn đó, cặp mắt sáng đẹp, nụ cười nũng nịu mê hồn, hai búi tóc, quần áo màu đỏ, đôi hài nhỏ màu đỏ, chiếc khăn tay trắng, thân hình nhanh nhẹn như biết bay. Từ đó y càng liên tưởng đến thanh bảo kiếm chém gang chặt sắt ấy, kiêu ngạo nghĩ thầm “Nhất định có thể thành công, không những bảo kiếm truy hồi lại mà còn được một phen đào hoa”. Y uống hơn nửa hũ rượu thì gần đến tám giờ.
    Lưu Thái Bảo tự nhủ đến lúc rồi, bèn trả tiền rượu. Ra khỏi cửa, gió bấc thổi vào giữa mặt, chút ít rượu càng làm y phấn chấn, cảm thấy thân hình phiêu diêu như một tân lang sắp vào động phòng. Nhưng y cố gắng tự kìm chế, thầm nghĩ “Mình không được quên là hôm nay tới đây để điều tra vụ án, không nên nhân tiện mà phong lưu, nếu không thì không những không bắt được quả tang, không tìm ra bảo kiếm mà còn làm mất thanh danh của Nhất đóa liên hoa ta”. Lập tức y lắc lắc đầu đi tới bờ Tích Thủy đàm, men theo bờ đầm đi về phía bắc, nhìn thấy ngôi nhà cũ nát xa xa có chút ánh sáng đèn từ chỗ hở trên bức tường do đống gạch vụn chất thành chiếu ra, nhưng chỉ chớp lên rồi tắt.
    Lưu Thái Bảo tự nhủ:
    “Sao vậy? Cô nương đó cầm đèn đi vào rồi, nếu không thì cô ta ở ngoài sân bắt dế à? Nhưng mùa này lấy đâu ra dế?”. Y nhanh chân chạy tới, giây lát đã tới trước cổng. Y nằm phục xuống một cái lỗ hổng nhìn vào, trên cửa sổ trong căn phòng phía đông thấp thoáng có ánh đèn, nhưng không nghe thấy bên trong có tiếng người nói chuyện. Lưu Thái Bảo vỗ tay bộp bộp hai cái, lùi ra hai bước, lại vỗ bộp bộp hai cái. Ở đó đêm vắng đất rộng, tiếng vỗ tay nghe rất rõ, trong nhà chỉ cần có người thì không thể không thấy.
    Nhưng Lưu Thái Bảo đứng nhìn trước cánh cửa gai hồi lâu cũng không thấy ai mở. Y lại vỗ liên tục mấy tiếng bộp bộp, đợi một lúc vẫn im hơi lặng tiếng. Y tự nhủ:
    “Hảo a đầu, ngươi đừng hòng bịp Lưu lão gia ta!”, lúc ấy bốp bốp bốp...
    vỗ liên tiếp một hơi, rất có tiết tấu, miệng hát “Ố là là hãy mở cửa ra! Mở cửa vừa nhìn thì ra Trương Tú tài! Trương Tú tài...”.
    Bỗng nhiên cạch một tiếng, không biết từ đâu một hòn gạch vụn bay tới trúng sau đầu Lưu Thái Bảo. Lưu Thái Bảo giật mình nhảy dựng lên không hát nữa, quay đầu về phía tây tìm kiếm, chỉ nghe tiếng cười khanh khách của cô gái sau một gốc liễu to. Lưu Thái Bảo bèn nói:
    “Hảo a đầu, ngươi dám giỡn mặt ta à!”. Y đuổi đến sau cây liễu, lại thấy cô gái nín cười, không ngừng giẫm chân trách móc, nói:
    “Ngươi hò hát gì vậy? Cha ta vừa mới đi! Chung quanh còn có hàng xóm nữa! Người ta mà nghe thấy sẽ nghĩ thế nào”. Lưu Thái Bảo nói:
    “Ai bảo ta vỗ tay mà cô không thèm lên tiếng? Cô không đáp trả thì ta cứ hát”. Cô gái nũng nịu cười nói:
    “Chỉ cần vỗ một cái thôi, ngươi cứ vỗ mãi, ghét lắm! Ta có nghe cũng không đếm xỉa gì tới ngươi”. Lưu Thái Bảo cũng cười, sờ sờ gáy nói:
    “Cô ném hòn gạch này thật không nhẹ, sưng lên một cục rồi! Cũng may là cô đánh ta, nếu người khác thì Lưu thái gia lại tha y à?”. Cô gái đó cười nói:
    “Ái chà Lưu thái gia! Thật ta còn chưa hỏi họ ngươi là gì? Lưu thái gia ngươi làm công sai trong nha môn nào vậy?”. Lưu Thái Bảo nói:
    “Trước tiên đừng hỏi ta, ta hỏi trước cô họ gì? Có tên gì chưa?”. Cô gái cười một tiếng, như cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc mới hơi thẹn thùng nói:
    “Ta tên Thái Tương Muội!”. Lưu Thái Bảo nói “Tên hay lắm! Tương Muội gọi ra quả rất nõn nà! Gia gia cô tên gì? Nói cho ta nghe, để về sau ta dễ thỉnh giáo!”. Thái Tương Muội nói:
    “Gia gia ta không có tên, người ta thường gọi là Thái Cửu !”. Lưu Thái Bảo lại hỏi:
    “Thái Cửu gia ra ngoài nghe kể chuyện rồi à?”. Thái Tương Muội cười nói:
    “Gia gia không đi thì làm sao ta dám ra cửa đợi ngươi?”. Lưu Thái Bảo gật đầu nói:
    “Đúng vậy, bên ngoài rất lạnh, chúng ta vào nhà cô nói chuyện được không?”. Tương Muội gật đầu nói:
    “Được! Thong thả đã! Chúng ta đừng lớn tiếng để hàng xóm nghe thấy!”. Lưu Thái Bảo nói:
    “Hàng xóm mà quản được việc bạn bè lui tới nhà cô à?”.
    Y đang nói thì Tương Muội ở phía trươc chạy mau, Lưu Thái Bảo đuổi theo.
    Tới trước cửa, Tương Muội đẩy cánh cửa bằng gai nhọn mở ra một khoảng trống. Nàng liền lách vào nhưng lại đẩy cửa lại. Lưu Thái Bảo cười, cũng lách vào. Không ngờ cành khô trên cửa móc vào áo y, roạt một tiếng xé rách một miếng. Lưu Thái Bảo khẽ chửi “Cái cửa này của nhà cô thật thất đức!”. Tương Muội lại cười khẽ, cùng Lưu Thái Bảo vào gian phòng phía đông ngôi nhà.
    Lưu Thái Bảo vừa nhìn, thấy trong phòng rất lộn xộn. Sát tường phía nam là nửa căn phòng lợp giấy cũ nát, đều là như người bần cùng nhặt nhạnh trên đường phố, trong đó chắc thứ giấy dơ bẩn nào cũng có. Sát tường phía đông là một cái bàn mục nát, đại khái nếu dùng tay đẩy một cái thì đổ sụp ngay, trên bàn để chén sành đũa tre. Dưới bàn là một cái thùng gỗ, một cái chậu rửa mặt bằng gỗ, nước trong chậu đông thành băng rất dày, trong phòng rất lạnh, bốn vách đều có gió thổi vào. Ở giữa là một cái bếp lò mẻ bằng đất sét trắng có mấy hòn than quả bàng như đã tàn, trên bệ cửa sổ có một cái chén đèn dầu, trong đèn dùng giấy làm bấc, ngọn lửa nhảy nhót, đại khái cũng sắp hết dầu. Tường phía bắc có một cái giường đất, trên có một cái chiếu cói, trên chiếu để song thương, Lưu tinh chùy, dây thừng, thanh la, là những vật họ dùng để mưu sinh. Ngoài ra còn có hai cái đệm để riêng, một cái rương gỗ, cái rương này không lớn, vả lại tuy rất cũ, nhưng khóa rất chắc. Lưu Thái Bảo bất giác rất chú ý. Ngoài ra còn có một thứ nhỏ, chính là đôi hài nhỏ thêu kim tuyến, nhưng chưa thêu xong.
    Lưu Thái Bảo bèn nói “Lạnh thật! Trong căn phòng này hai cha con cô sao lại để lạnh vậy? Mỗi ngày kiếm một số tiền như vậy, sao không đốt lửa lên?
    Cũng không dán tường dán vách cho kín”. Thái Tương Muội nói “Kiếm được bấy nhiêu tiền à? Cũng vì việc làm ăn hai hôm nay cũng tốt. Mấy hôm trước có khi cả ngày kiếm không ra năm trăm đồng, thì ra người Bắc Kinh rất bủn xỉn, chỉ thích xem mãi võ không. Khi bọn ta diễn xong, chắp tay xin tiền, họ liền quay đi, để mặc những kẻ nghèo khổ như bọn ta đổ mồ hôi suốt nửa ngày. Căn nhà này là bọn ta thuê, nếu mãi võ không tốt thì vài hôm nữa phải rời Bắc Kinh tới nơi khác để mưu sinh. Ai như đại lão gia chúng ta, một gian phòng nhỏ có thể để bảy tám cái lò, vừa vào phòng bọn ta đã khích bác chê lạnh. Chê lạnh à?
    Ngươi cho bọn ta vài trăm cân than đi”. Mồm mép liến láu nửa đùa nửa thật, như không chút xa lạ với Lưu Thái Bảo.
    Lưu Thái Bảo không kìm được hơi ngây ngất, cười nói:
    “Được rồi! Ngày mai ta sẽ cho cha con cô hai trăm cân than, không những than mà ngay cả miến và dầu đèn ta cũng cung cấp cho các ngươi”. Tương Muội cười nói:
    “Vậy thì tốt quá! Coi như bọn ta đã gặp được Thần Tài gia rồi, cũng không cần phải khua thanh la mãi võ trên đường phố nữa!”. Nàng nói thế rồi thêm mấy hòn than quả bàng vào bếp, kế ngồi xếp bằng trên giường, cúi đầu khâu đế chiếc hài nhỏ, hỏi:
    “Lưu thái gia, đại danh của ngươi là gì? Làm công sai trong nha môn nào?”.
    Lưu Thái Bảo nói:
    “Cô đừng gọi là Lưu thái gia, ta tên Lưu, bày vai thứ hai”.
    Tương Muội nói:
    “Té ra là Lưu Nhị gia”. Lưu Thái Bảo nói:
    “Không cần gọi là gia, ta trên không làm thuê cho nha môn, dưới không ăn xin đầu phố, ngày thường không nhà không nghề nghiệp, du thủ du thực. Nhưng tiền bạc theo tay ra cũng theo tay vào, không có thân thích giàu có bạn bè sang trọng nhưng tới đâu cũng có người giúp đỡ”. Tương Muội ngẩng đầu lên hỏi:
    “Rốt lại ngươi làm nghề gì?”. Lưu Thái Bảo đáp:
    “Ta à, nói ra cô cũng không hiểu đâu, người khúm núm gọi bọn ta là hảo hán, quang côn, người không khúm núm gọi bọn ta là hỗn hỗn, vô lại. Tên thường gọi là du côn, tên chính thức là lưu manh”.
    Tương Muội vừa nghe thế ngước nhìn Lưu Thái Bảo một cái, không nói gì nữa, trên mặt lộ ra vẻ thất vọng.
    Lưu Thái Bảo nhìn ánh sáng đèn chiếu lên cái bóng đẹp của nàng, bóng hai đóa hồng trên búi tóc soi lên cửa sổ rung rinh, mớ tóc dài buông phía trước càng làm xúc động lòng người. Hai tay nàng, một tay cầm chiếc hài, một tay cầm kim thêu đưa lên đâm xuống, ngón tay phảng phất như khơi gợi lòng xuân của ai đó.
    Toàn thân màu hồng, nàng ngồi xếp bằng, cái khăn là trắng ở hông buông xuống cố ý che một bàn chân nhỏ.
    Lưu Thái Bảo cười, cũng ngồi ở đầu giường, cách Tương Muội không xa, y lại nói:
    “Nhưng đừng coi thường ta, Lưu Nhị ta tuy là hỗn hỗn nhưng cũng có chút tiếng tăm ở kinh thành. Từ phủ Thuận Thiên, viện Đô Sát, nha môn Đề đốc, trên dưới không ai không biết ta. Từ Đô sát Ngự sử, Đề đốc Chính đường, quan viên văn võ, không ai không xưng huynh gọi đệ với ta!”. Thái Tương Muội thản nhiên cười nói:
    “Ngươi đừng nói khoác nữa, ta đã sớm nhìn ra, ngươi không phải là người không có gốc gác. Hôm nay hai sai quan của nha môn Đề đốc rút roi ra đuổi bọn ta, ngươi bước lên nói hai câu chặn họ lại. Ta còn thấy họ cười với ngươi nữa! Quả thực, bọn ta cầu xin ngươi một chuyện... Ngươi có quen Ngọc đại nhân không? Quen đại tổng quản trong phủ Ngọc đại nhân cũng được”.
    Lưu Thái Bảo nghe thế bất giác thấy kỳ lạ, bèn nói:
    “Ngọc đại nhân là bạn già của ta, y ngồi trong kiệu không đếm xỉa tới ta, nhưng ta chúc tết thì y đích thân đưa tay đỡ ta lên, gọi là lão đệ. Hiện Cửu thành do y quản, nhưng không có ta giúp đỡ không xong. Bất luận bọn vô lại gây án ở tỉnh nào vào Bắc Kinh, ta nói bắt thì bắt, nói thả thì thả. Có ta thì bọn lưu manh không dám sinh sự trên phố, vì bọn chúng đều dưới tay ta. Không có ta, cho dù y có năm trăm Ban đầu, bảy ngàn Bổ khoái cũng không dùng được. Cô định nhờ ta việc gì, mau nói ra đi!”.
    Thái Tương Muội in lặng một lúc, nói:
    “Chuyện cũng không khó, chỉ vì bọn ta muốn kiếm thêm ít tiền. Cha con ta là người Cam Túc, ở nhà trồng các loại hoa màu, vốn rất tốt, nhưng năm ngoái sông Hoàng Hà lụt lớn, nước cuốn trôi nhà cửa, dìm chết mẹ ta. Cha con ta may mà nhanh tay nhanh chân trèo lên cây mới không bị nước cuốn trôi. Nhưng sau khi nước rút, hoa màu của bọn ta đều bị mất hết. Không có cơm ăn áo mặc, cũng không có chỗ trú thân, không còn cách nào khác, may nhờ gia gia ta còn biết diễn chút nghề, rồi dạy ta đi dây”.
    Lưu Thái Bảo vội hỏi xen vào:
    “Mới học hơn một năm thì biết đi dây sao?”.
    Thái Tương Muội nói:
    “Không phải, đó đâu có gì khó luyện? Chỉ cần lưng và chân nhanh nhẹn thì dễ học thôi. Nó không giống như đọc sách viết chữ, cả mười năm khổ luyện công phu nơi cửa sổ gió lạnh”. Lưu Thái Bảo gật đầu. Thái Tương Muội lại nói:
    “Ta học được chút tài này, theo gia gia phiêu bạt khắp nơi, qua Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Trực Lệ, hơn nửa tháng mới đến Bắc Kinh.
    Bọn ta mãi võ kiếm cơm, nhưng có lúc cả cơm cũng không đủ no, may mà hai hôm trước mãi võ trước cổng phủ Ngọc đại nhân, tiểu thư của Ngọc đại nhân ra xem nửa ngày, thưởng cho ta năm lượng bạc, còn hỏi ta bao nhiêu tuổi, ta nói mười sáu tuổi, hỏi chân của ta làm sao mà nhỏ được như vậy, ta nói là từ nhỏ đã vậy. Ta thấy Ngọc tiểu thư rất thích ta, ta cũng thích Ngọc tiểu thư, cô ấy thật tốt! Ta muốn tự lực cánh sinh, đến làm thuê trong phủ cô ấy!”.
    Lưu Thái Bảo giật mình, vội cười cười nói “Đi dây tự do như vậy, núi nam biển bắc tùy ý đi, làm a hoàn cho người ta khổ cực lắm, thật không bằng trâu ngựa. Cô đừng thấy họ mặc quần áo đẹp, thật ra không được thoải mái như cô đâu!”. Thái Tương Muội lắc lắc đầu, tỏ vẻ chua xót nói:
    “Không! Ta đâu muốn mặc quần áo đẹp, ở lầu cao nhà lớn, chịu kiếp cùng quẫn như vậy, ta thật không muốn! Vả lại ta đi theo gia gia, cũng làm lụy cho người. Nếu không có ta, gia gia đã sớm đi đầu quân lập công rồi, bây giờ có khi cũng đã làm võ quan, vì vậy muốn nhờ ngươi giúp ta bán mình vào phủ Ngọc đại nhân, hay nhất là giúp ta được hầu hạ vị Ngọc tiểu thư kia. Trước tiên đừng nói với gia gia ta, đợi xong việc gia gia ta nhất định sẽ đồng ý. Ông sẽ an tâm về ta, tự đi tìm tiền trình của ông”.
    Lưu Thái Bảo nghe thế hơi ngẩn người một lúc, rồi gật đầu cười nói:
    “Chuyện này cũng dễ thôi, nếu muốn tới làm a hoàn trong Ngọc phủ thì ta nói một tiếng là được. Nhưng cô đừng vội, đợi nửa ngày ta gặp đại nhân Chính đường sẽ nói với y, để y nhận cô vào phủ. Tuy để sai khiến, nhưng sẽ đối xử khác với những tôi tớ cũ thì chắc là được!”. Thái Tương Muội cười cười nói:
    “Được vậy thì tốt! Vậy ta có thể nhảy ra rồi! Đi giang hồ suốt đời, theo gia gia mãi võ suốt đời thế này, biết đến bao giờ mới thôi!”. Lưu Thái Bảo cười nói:
    “Thật ra cô muốn mau chóng tìm nơi an thân lập phận cũng không cần đi làm a hoàn, cô thấy ta năm nay mới ba mươi hai, cũng không coi là già. Trong nhà ta cũng chưa có vợ, có thể nói với cha cô, gả cô cho ta, từ ăn uống tới ăn mặc đều tốt hơn so với làm a hoàn trong Ngọc phủ”.
    Thái Tương Muội cầm chiếc hài nhỏ đánh vào trán Lưu Thái Bảo một cái, mặt đỏ lên cười nói:
    “Ngươi không phải là người tốt! Ngươi đang có ý đồ này, ngươi mau đi đi!”. Lưu Thái Bảo cười nói:
    “Lời ta nói là chân thật, chẳng lẽ đi làm a hoàn thì không lấy chồng à?”. Thái Tương Muội cười bẽn lẽn, lắc đầu nói:
    “Ta không nghĩ đến chuyện đó, ta còn nhỏ mà...”. Nàng ngước mắt lên liếc Lưu Thái Bảo một cái, thẹn thùng nói “Lúc này mà bảo làm cô dâu thì gia gia ta nhất định sẽ nổi giận, nhưng khi người biết ta tới Ngọc phủ làm a hoàn, chắc người sẽ vui mừng. Đợi sau khi ta ở Ngọc phủ một năm sáu tháng, thì ngươi tới đón ta ra”. Lưu Thái Bảo nói:
    “Ta với Ngọc Chính đường là bằng hữu, nếu đón một a hoàn trong phủ y ra, nhiều lắm cũng chỉ làm thiếp của ta, phải làm Chính thái thái thì mới là người của ta!”. Thái Tương Muội nói “Cái gì thiếp với không thiếp, ta cũng không quan tâm, thôi được! Ngươi mau đi đi! Lát nữa gia gia quay về, thấy ta với ngươi nói chuyện người nhất định sẽ đánh chết ta. Ngươi mau đi đi! Mau đi làm giúp ta, tối mai tới đây, nhớ vỗ tay một cái ta sẽ nghe thấy, đừng đứng trước cửa hát hò om sòm, đi mau đi, đi mau đi! Ngày mai ta sẽ gặp lại!. Lưu Thái Bảo vẫn cười không chịu đi ra, Tương Muội xuống giường, hai tay xô y, vừa xô vừa cười. Lưu Thái Bảo lại nhìn cái rương bằng gỗ trên giường một cái rồi cười, liền bị xô ra khỏi nhà.
    Tương Muội ở trong, một tay đóng cửa, còn nhìn ra cất giọng yêu kiều thỏ thẻ nói:
    “Nhớ đấy, mau đi làm giùm, có thể để ở trong Ngọc phủ nửa năm rồi ra sẽ là người của ngươi!”. Một trận gió thổi sau đầu Lưu Thái Bảo, y cảm thấy chỗ bị ném gạch rất đau. Lưu Thái Bảo cười nhạt, hướng vào nhà nói:
    “Được rồi! Ta đi đây, ngày mai ta sẽ tới. Ta còn muốn cho cô hai món đồ trang sức.
    Chỉ vì cô tới Ngọc phủ làm a hoàn cũng gần giống như về nhà chồng, phải có mấy hộp trang sức, nếu không thế thì những a hoàn chung quanh có thể coi thường!”.
    Trong phòng không ai nói gì, cổng đã khép lại, ánh đèn trên cửa sổ chiếu lên cái bóng của Thái Tương Muội. Đóa hoa hồng rung động, loạt soạt mấy tiếng nhỏ của đôi hài kéo lê dưới đất. Lưu Thái Bảo lại bất giác tiêu hồn một hồi, nhưng y quay người đi, cẩn thận mở cánh cổng ra ngoài. Chỉ thấy hai bên bờ hồ gió lạnh thổi rất mạnh, trời đen kịt, sao sáng nhấp nháy trên bầu trời. Hơi rượu ngà ngà đã tan, chuyện y vừa mới bị Tương Muội đùa giỡn đánh sưng đầu cũng qua đi.
    Lúc bấy giờ trên người y cũng hơi lạnh, nhưng đầu óc rất tỉnh táo. Y đi về phía đông, thầm nghĩ “Đáng tiếc thật! Thái Tương Muội muốn đến Ngọc phủ làm a hoàn, không chắc là người xấu. Nếu nàng muốn ăn trộm đồ dùng hay bảo kiếm gì đó của Ngọc phủ thì có lẽ sẽ rất bất lợi cho Ngọc Chính đường đại nhân. A hoàn đó quyết không phải người thường, nếu hôm nay cô ta không thấy mình nói chuyện với hai người trong nha môn thì cũng không dám đú đởn với mình. Nói tóm lại nhất định cô ta muốn điều gì khác, cần tới thằng ngốc to đầu mình. Được! Ngày mai chúng ta sẽ nói chuyện tiếp!”. Y vừa nghĩ vừa đi, lúc này bất quá vừa mới canh hai. Trên đường phố có mấy nhà buôn bán vẫn chưa đóng cửa. Y trở lại An Định Môn, vừa đi tới trước cổng phủ Bối lặc, thấy cổng lớn đã đóng kín, trước cổng rất tối. Lưu Thái Bảo định bước lên gõ cửa, chợt thấy phía sau tảng đá lớn bên trái có một bóng người đen đen rất thấp.
    Lưu Thái Bảo như con cắt vọt tới túm bóng đen đó, thì ra là một đứa trẻ ăn mày, tay còn ôm cái lồng sấy, lồng sấy rớt đánh choang một tiếng vỡ nát. Tiểu khất cái kêu một tiếng “Gia gia !”. Lưu Thái Bảo chửi:
    “Tiểu tử! Đêm tối tới ngồi xổm ở đây là có ý gì?”. Tiểu khất cái đáp:
    “Vì một vị đại gia trong quán ăn sai tôi đưa cho Bối lặc gia một phong thư!”. Lưu Thái Bảo giật mình nói:
    “Cái gì? Thư hả? Đưa đây cho ta xem trước!”. Y nhận từ tay tiểu khất cái một phong thư nhỏ nhưng lúc bấy giờ bốn bề không có ánh đèn, hai hòn than dưới đất cũng đã sắp tàn, nhìn không rõ chữ gì viết trong thư. Lưu Thái Bảo vội vàng hỏi:
    “Là ai sai ngươi đưa đến đây?”. Tiểu khất cái đáp:
    “Là một vị đại gia trẻ tuổi, y uống rượu trong quán, tôi đang xin tiền ở ngoài, y ra kéo tôi qua một bên bảo tôi đưa phong thư này, cho tôi một nén bạc. Nhưng tôi tới đây thì cổng phủ đã đóng”. Lưu Thái Bảo nói:
    “Hà hà! Đưa một phong thư thì cho một nén bạc, tiểu tử ngươi phát tài thật. Mau nói cho ta, người bảo ngươi đưa thư đã đi hay chưa?”. Tiểu khất cái nói:
    “Y đưa cho tôi bạc và thư rồi đi về phía nam”. Lưu Thái Bảo hỏi:
    “Người đó ăn mặc ra sao?”. Tiểu khất cái đáp:
    “Mặc quần áo màu đen”. Lưu Thái Bảo lại hỏi:
    “Y đội mũ gì?”. Tiểu khất cái nói:
    “Đội mũ da màu đen”. Lưu Thái Bảo hỏi tiếp “Dáng người ra sao? Nói giọng tỉnh nào?”. Tiểu khất cái đáp “Dáng người không thấp, không cao, nói giọng bản địa”. Lưu Thái Bảo ngẩn ra lại hỏi “Là ốm hay mập? Mặt đen hay trắng?”. Tiểu khất cái đáp “Không ốm không mập, mặt cũng không đen không trắng”. Lưu Thái Bảo giơ chân lên chửi “Mau cút đi!”. Tiểu khất cái lăn một vòng dưới đất rồi bỏ chạy.
    Lưu Thái Bảo nhét phong thư vào người, rồi bước lên gõ cửa. Gõ một lúc lâu cửa phủ vẫn chưa mở, nhưng cửa nhà xe bên cạnh lại có tiếng động. Lưu Thái Bảo vội đến trước cửa nhà xe thì thấy trong cửa là hai người đầy tớ của bản phủ, phía sau họ còn có bốn viên sai quan. Có người cầm một chiếc đèn lồng, một viên sai quan rút yêu đao ra giận dữ hỏi “Ngươi làm gì đấy? Nửa khuya sao dám đến gõ cửa cổng phủ? Bắt lại!”. Nhưng một người đầy tớ của bổn phủ nói “Đây là sư phó dạy quyền của bản phủ”. Rồi lại hỏi “Lưu gia! Sao giờ này người mới về! Người không biết hai ngày này trong phủ rất căng thẳng sao? Ngọc đại nhân hiện còn ở đây đấy!”. Lưu Thái Bảo mỉm cười nói:
    “Ta không biết, ta đi nói chuyện với bằng hữu cả ngày, quên mất cả thời gian. Làm phiền các vị, thật xin lỗi!”. Bốn viên sai quan cũng đều dịu giọng, một người nói “Hôm nay trong phủ đã có chuyện, nên ít ra ngoài buổi tối!”. Lưu Thái Bảo luôn miệng nói “Sau này tôi sẽ không ra ngoài nữa”.
    Lúc ấy y vào cổng nhà xe, liền đó nghe ầm một tiếng cửa đóng lại. Ra khỏi nhà xe là chuồng ngựa, hôm nay ngựa trong chuồng đặc biệt nhiều. Lưu Thái Bảo mới đoán ra, Ngọc Chính đường tới rồi, nhất định dẫn không ít sai quan, đây gọi là Mất bò mới lo làm chuồng, làm được cái gì? Chẳng bằng Nhất đóa liên hoa ta, chỉ một ngày đã tìm ra đầu mối, đã đặt chân vào nhà Thái Tương Muội, hôm nay lại được lá thư này, chắc cũng liên quan đến chuyện hôm qua.
    Y đi vào gian phòng nhỏ, vừa lúc Lý Trường Thọ không có trong phòng, đèn lại rất sáng, lò lửa cũng rất ấm. Lưu Thái Bảo bèn đóng cửa phòng, lấy lá thư ra xem, thấy trên bì thư viết “Gởi Thiết công Bối lặc”, là tên ông chủ viết theo kiểu chữ lệ, chỉ có nửa trang, viết trên giấy Chu ti lan rất quý, chữ cũng rất ngay ngắn theo kiểu chữ lệ, viết rằng “Gởi Thiết công:
    bảo kiếm do bỉ nhân lấy đi, tạm mượn một phen để dùng, hẹn năm năm sau ắt sẽ trả lại. Nay nghe vương gia không muốn truy cứu, vô cùng đội ơn, bỉ nhân vốn...”, nửa dưới trang thư như đã viết, nhưng cảm thấy không ổn, lại xóa đi. Lưu Thái Bảo đọc xong, không kìm được ngớ người ra, trong lòng rất buồn bực. Y cho nửa lá thư vào phong bì, cất vào cái túi nhỏ sát áo cánh rồi mở cửa phòng ra, lại vội nhìn quanh phòng, thầm nhủ “Không đúng! Loại Thái Tương Muội và cha cô ta mà viết được chữ lệ à? Kẻ trộm kiếm nhất định là người khác. Hôm nay mất nửa ngày, tuy chiếm được chút tiện nghi, nhưng sau gáy cũng bị ném một hòn gạch.
    Chuyện này mình tìm sai rồi, không liên quan gì đến cha con họ Thái. Từ ngày mai, mình phải lại đi tìm manh mối!”. Y đi lại trong phòng suốt nửa ngày, lên nằm trên giường định ngủ nhưng trong đầu suy nghĩ về chuyện này, cảm thấy như một mớ bòng bong rối rắm, không biết bắt đầu gỡ từ đâu. Lòng y lại nhớ đến Thái Tương Muội, thật không cảm thấy buồn ngủ chút nào.
    Hồi lâu Lý Trường Thọ về phòng, đẩy y một cái, nói:
    “Lưu gia, ngươi ngủ sớm vậy? Không đánh bạc một lát sao? Hôm nay trong phòng trực thật náo nhiệt, toàn là người của nha môn Đề đốc, có hai mươi mấy người, hai phần chơi bài cẩu, một phần chơi xúc xắc”. Lưu Thái Bảo vờ ngủ không trả lời. Lý Trường Thọ lấy tiền trong tráp rồi ra khỏi phòng đi gỡ lại. Lát sau Lưu Thái Bảo ngủ thiếp đi. Đến ngày hôm sau, y ngủ dậy vẫn còn hơi ngẩn ra, tới Tây Đại Viện nói chuyện với Thốc đầu ưng suốt nửa ngày, vẫn cảm thấy không có chút manh mối nào. Y bèn ăn cơm trưa ở Tây Đại Viện, rồi tới Toàn Hưng tiêu cục ở Chợ Than tìm biểu huynh Thần thương Dương Kiện Đường của y.
    Lúc ấy Dương Kiện Đường đang ở nhà, vừa thấy mặt y, bèn nói:
    “Ta đang muốn tìm ngươi đây!” rồi kéo y vào trong quầy để tránh mọi người, rồi nhìn y hỏi:
    “Người đang làm gì vậy?”. Lưu Thái Bảo sững người rồi nói:
    “Ái chà, đại ca, tôi làm chuyện gì à? Đại ca ngạc nhiên sao?”. Dương Kiện Đường nói:
    “Trái lại ngươi tự hiểu rõ, đừng giả ngây ngô với ta!”. Lưu Thái Bảo bất giác hơi tức giận. Dương Kiện Đường lại nói:
    “Đêm trước trong phủ các ngươi bị mất bảo kiếm, hiện đã ồn ào cả chín cửa thành không ai không biết, nha môn Đề đốc đã phái rất nhiều sai quan đi khắp nơi truy nã gian tặc trộm kiếm. Ngươi biết lai lịch thanh bảo kiếm đó chứ? Đó là của Lý Mộ Bạch tặng Thiết Tiểu Bối lặc.
    Nếu Lý Mộ Bạch ở núi Cửu Hoa biết tin này, chắc y sẽ xuống núi để tìm cho Thiết Tiểu Bối lặc, võ nghệ của y mà ngươi muốn dây vào ư?”. Lưu Thái Bảo cười nhạt nói:
    “Lẽ nào như vậy! Tôi không phải là gian tặc trộm kiếm, Lý Mộ Bạch cũng thế, sai quan nha môn Đề đốc cũng thế, truy hỏi được tôi à?”. Dương Kiện Đường nói:
    “Ngươi nói truy hỏi ngươi không được, nhưng cả ta cũng tin thanh kiếm đó là do ngươi lấy trộm”.
    Lưu Thái Bảo giận tái cả mặt, vung tay lên, nếu đối phương không phải là biểu huynh Thần thương Dương Kiện Đường của y thì phát quyền này đã đánh ra rồi. Y hậm hực chửi:
    “Đây nhất định là Đắc Lộc, ngoài y ra không ai dám nghi ngờ tôi! Được rồi! Tôi về tìm y đây, người khác đừng nói, tôi cứ cho y đao trắng cắm vào đao đỏ rút ra trước đã!”. Dương Kiện Đường cười nhạt nói:
    “Ngươi thật không muốn sống ư? Ngươi cứ chuốc vạ vào thân đi! Dù sao thì chẳng qua ngươi cũng chỉ là biểu đệ của ta, không phải anh em ruột thịt, cũng không liên lụy tới ta!”. Lưu Thái Bảo giẫm chân, hốt hoảng gần chết, nói:
    “Đại ca sao lại tin lời họ! Trước đây đúng là tôi từng ăn cắp tiền của đại ca, nhưng bây giờ tại sao tôi lại ăn trộm bảo kiếm trong phủ? Đêm trước trong phủ mất bảo kiếm, hôm qua tôi phải ra ngoài điều tra dò hỏi cả ngày, tính điều tra ra đầu mối để rửa sạch cho chính tôi. Nhưng con mẹ nó, điều tra dọ hỏi cả ngày cũng tìm được chút manh mối, không ngờ sau đó lại rối tung cả lên!”.
    Dương Kiện Đường thấy dáng vẻ của Lưu Thái Bảo nôn nóng như vậy mới tin không phải y ăn trộm, bèn ngồi trên ghế cau mày nghĩ ngợi rồi nói:
    “Chuyện này quả thật là ngươi không có cách nào gột rữa sạch sẽ rồi! Đắc Lộc là người trung hậu, tuy y nghi ngươi ăn trộm nhưng cũng chưa hề nói với ai. Chỉ vì hôm qua y tìm gặp Đức Khiếu Phong, nhờ Khiếu Phong khuyên ngươi đem thanh kiếm lén trả lại, thì coi như không có chuyện gì”. Lưu Thái Bảo giậm chân nói:
    “Đòi mạng tôi tôi cũng không giao kiếm lại được! Thanh bảo kiếm đó ngay cả xem tôi cũng chưa được xem!”. Dương Kiện Đường nói:
    “Nói vậy thì nhất định có gian tặc đại đạo đang ẩn nấp ở kinh sư, Thiết Tiểu Bối lặc cho rằng người trộm kiếm chắc là một vị hiệp khách nên không muốn truy cứu. Nhưng Đề đốc Ngọc đại nhân rất phẫn nộ chuyện này. Y đã ra hạn cho sai quan trong ba ngày phải bắt được gian tặc truy hồi bảo kiếm, nhưng ta e ba mươi ngày cũng không phá án được. Ngươi hiện tại không làm gì, quả thật lúc này cần bỏ ra ít công sức vòng qua các nơi hỏi dò xem ở kinh thành có ai khả nghi không. Ta cũng giúp ngươi, tới các tiêu điếm các nhà trọ hỏi dò giúp cho”. Lưu Thái Bảo vỗ ngực nói:
    “Tôi thề nếu không truy hồi được bảo kiếm thì không phải họ Lưu. Được!
    Đại ca đã chịu giúp đỡ, chúng ta chia nhau cùng làm. Đại ca hãy nhờ Đức Khiếu Phong nói lại với Đắc Lộc rằng Nhất đóa liên hoa tôi không phải gian tặc trộm kiếm, tin hay không tùy y ! Thế nào trong mười ngày tôi cũng sẽ bắt được người và tang vật đưa tới nha môn xử lý!”. Dương Kiện Đường nói:
    “Không cần ra kỳ hạn, chúng ta hết sức điều tra dò hỏi là được rồi!”. Lưu Thái Bảo đứng dậy thở ra một hơi nói:
    “Vậy thì tôi đi đây, hôm nay tôi lại đi quanh trên phố một ngày, tìm không ra manh mối thì không về ăn cơm!”, nói xong ra khỏi Toàn Hưng tiêu cục, đứng trên đường lớn trước cổng nghĩ ngợi hồi lâu rồi vào thành. Y đi loanh quanh khắp Tây thành, rồi bất giác lại tới trước Cổ Lâu, nhìn về phía tây thì thấy trước cổng phủ Ngọc đại nhân lại có một đám người. Lưu Thái Bảo tuy nghĩ “Không phải, cha con họ Thái chính là phi tặc nhưng cũng nhất định không biết chữ, bảo kiếm chưa chắc là do họ ăn trộm”, nhưng không hiểu sao bên đó dường như có sức hút hút y qua đó, y lại chen vào giữa đám người.
    Lúc này Thái Cửu đang diễn Lưu tinh chùy, Thái Tương Muội đang đứng cạnh khua thanh la keng keng, nghiêng mắt nhìn nhìn Lưu Thái Bảo. Lưu Thái Bảo liền nhe răng ra cười. Nhưng Thái Tương Muội lại không cười cũng không chào hỏi y, bàn tay nhỏ nhắn chỉ khua mau thanh la. Lưu Thái Bảo xem một hồi, Lưu tinh chùy của Thái Cửu vẫn chưa diễn xong, bỗng thấy có hai người đầy tớ của Ngọc phủ chen vào xua tay nói:
    “Đừng diễn nữa, đừng diễn nữa!”.
    Thái Cửu vội thu Lưu tinh chùy lại chắp tay nói “Hãy để cho con gái tôi đi dây, cha con chúng tôi sẽ dọn ngay. Chỉ vì hôm nay vẫn chưa kiếm đủ tiền cơm tiền trọ!”. Hai người đầy tớ của Ngọc phủ nói:
    “Không phải không cho các ngươi luyện, vì tiểu thư phủ bọn ta muốn xem con gái ngươi đi dây”. Thái Cửu lập tức cười nói:
    “Đó thật là tiểu thư trong phủ cất nhắc, tôi nhất định bảo con gái tôi bán chút sức lực, hiếu kính tiểu thư trong phủ một đoạn thật hay”. Thái Tương Muội đứng bên cạnh cười hỏi:
    “Là vào phủ diễn hay diễn ngoài cổng?”. Đầy tớ Ngọc phủ nói:
    “Trong phủ toàn lát gạch, không thể để các người cắm thương làm vỡ gạch được, các ngươi diễn ở đây thôi!”, nói xong y xua tay đuổi những người vô sự đi như đuổi chó, nói:
    “Tránh ra hết! Ra xa mà xem!”.
    Lưu Thái Bảo đứng mũi chịu sào, vì y đứng ở trong cùng nên bị người đầy tớ của Ngọc phủ đẩy mạnh một cái, y liền quay lại chửi:
    “Này, tiểu tử ngươi mở to mắt mà nhìn. Đừng xô chứ!”. Hai người đầy tớ của Ngọc phủ đều trừng mắt nói:
    “Sao? Ngươi dám ngang ngược hả? Mau cút, mau cút đi!”. Lưu Thái Bảo xắn tay áo lên nói:
    “Nói với gia gia ngươi mà không khách khí chút nào thế?
    Tiểu tử mở to mắt xem ta là ai?”. Người đầy tớ của Ngọc phủ nói “Bất kể ngươi là ai cũng cút đi!”.
    Lưu Thái Bảo thấy Thái Tương Muội đang nhìn, y không thể để mất mặt, liền vỗ ngực một cái định đánh trả. Lúc ấy tất cả những người xúm lại xem đều bị xua đi hết, chỉ còn Lưu Thái Bảo. Y quyết định không đi, trên gò lại có hai viên sai quan cầm côn đi tới. Hai người đầy tớ của Ngọc phủ đều nói:
    “Được!
    Quan nhân tới rồi, ngươi cũng đừng ngang tàng, cứ lên nha môn Đề đốc mà nói chuyện!”. Lưu Thái Bảo vội tự nhủ:
    “Không được! Người thông minh không chịu thiệt trước mắt, hôm nay mình không những muốn thiệt thòi, mà còn muốn mất mặt!”.
    Lúc bấy giờ trên gò có tiếng người gọi:
    “Người mãi võ chuẩn bị đi, tiểu thư sắp ra tới rồi!”. Lưu Thái Bảo càng cảm thấy khó vị tình, thầm nhủ:
    “Tiểu thư cũng là người thân thuộc của mình, hôm qua mình vừa khoác lác với Thái Tương Muội suốt nửa ngày, nói mình với Ngọc đại nhân là hảo bằng hữu, nay lại bị tôi tớ nha dịch của người ta đuổi đi mới thật là mất mặt !”. Lúc ấy y vội thả tay áo xuống, bước tới gần hai người đầy tớ vòng tay cười nói:
    “Hai vị ăn cơm chưa? Trò mãi nghệ này diễn thật không kém, phải không? Tiểu thư trong phủ muốn ra đây xem sao? Tiểu thư thích xem những thứ võ nghệ này, mấy hôm trước ở trong nhà Đức Ngũ gia, tôi thấy tiểu thư trong này xem Đức Thiếu phu nhân bên đó diễn hoa thương!”.
    Hai viên sai quan đang trợn mắt, vừa nghe Lưu Thái Bảo nói thế đều không trợn mắt nữa, một người nói:
    “Xin đứng sang phía đông, lát nữa tiểu thư trong phủ ra tới”. Lưu Thái Bảo gật đầu nói:
    “Được, được”. Y đường hoàng thong thả đi về phía đông mấy bước rồi đứng lại, kế ngẩng nhìn Thái Tương Muội cười cười. Thái Tương Muội tựa hồ không thấy y, hai người đầy tớ của Ngọc phủ và sai quan của nha môn Đề đốc cũng đều đứng xa xa nhìn Lưu Thái Bảo. Bọn họ hai bên nói cười, dường như không đoán ra Lưu Thái Bảo là nhân vật thế nào.
    Lúc này Thái Cửu đã cắm song thương trên đất, buộc dây thừng xong, trên dốc cao liền xuất hiện mấy bộc phụ. Thái Tương Muội vuốt đầu tóc, nắm vạt áo khiến cái khăn là trắng cũng trải ra.
    Lúc này trên dốc cao trước cổng của Ngọc phủ đã xuất hiện vị Tam tiểu thư Ngọc Kiều Long kia. Lưu Thái Bảo đứng ở chỗ rất thích hợp, vừa ngẩng nhìn đã thấy Ngọc tiểu thư, y thấy Ngọc tiểu thư hôm nay không mặc áo khoác, chỉ mặc một cái áo bào bằng đoạn màu đá xanh, đeo bao tay bằng da rái cá. Thái Tương Muội hướng lên vái một vái, Ngọc Kiều Long hơi mỉm cười, cất tiếng trong trẻo nói:
    “Diễn đi!”. Thái Tương Muội liền phi thân, hai chân đã đứng trên dây thừng.
    Lúc ấy Thái Cửu tránh qua một bên, cũng không khua thanh la, chỉ thấy Tương Muội xiêu vẹo nhảy lên, tay múa chân phi, quả như oanh xuyên qua liễu, én lướt trên sóng. Lúc ấy trời lại đầy mây rực rỡ như gấm, những người già bộc phụ trên dốc cao đều mở to mắt nhìn xuống cô gái nhỏ đang lượn trên dây này, vị tiểu thư Ngọc Kiều Long kia lại hơi mỉm cười, đôi mắt ngọc của nàng xoay theo thân người của Thái Tương Muội, hai viên sai quan và hai người đầy tớ dưới dốc cũng đều ngẩn ra.
    Lưu Thái Bảo lại không nhìn tài nghệ của Thái Tương Muội, y chỉ để ý tới Ngọc Kiều Long, cảm thấy vị tiểu thư này thật xinh đẹp, sang trọng lộng lẫy, nhất là nàng luôn mỉm cười như hoa mẫu đơn sắp nở, kiểu cười này Thái Tương Muội không có được. Lưu Thái Bảo nhìn kỹ Ngọc Kiều Long, lại nhìn Thái Tương Muội, đồng thời nghĩ thiếu nữ trên dây lúc này chính là người tình bên ánh đèn đêm qua, y lại bất giác cảm thấy tiêu hồn, hai mắt bị hai cô gái làm cho xoáy tròn loạn lên, quên hết việc mất bảo kiếm, tìm gian tặc, rửa oan khuất.
    Đang lúc y thấy lâng lâng, chợt nghe rất nhiều người kinh hãi la lên Trời ơi!”, thì ra Thái Tương Muội bị trượt chân, như một đóa hoa trên cây rơi xuống, thân hình của nàng lập tức nằm sóng soài trên mặt đất, ngất đi.
    Xem Tiếp Chương 2
    Xem Tiếp Chương 3
    Xem Tiếp Chương 4
    Xem Tiếp Chương 5
    Xem Tiếp Chương 6
    Xem Tiếp Chương 7
    Xem Tiếp Chương 8
    Xem Tiếp Chương 9
    Xem Tiếp Chương 10
    Xem Tiếp Chương 11
    Xem Tiếp Chương 12
    Xem Tiếp Chương 13
    Xem Tiếp Chương 14 (kết thúc)
     
  10. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mùa hoa cải ven sông[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Quang Thiều[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ba người con của ông già thuyền chài là ba thái độ khác nhau với lời nguyền không bao giờ đặt chân lên bờ của người cha đau khổ, độc đoán.

    Khác sự cam chịu của hai người anh, lòng dũng cảm của cô gái nhỏ với những khát khao cháy bỏng về một cuộc sống bình yên hòa thuận giữa cộng đồng là niềm tin mãnh liệt mà nhà văn muốn gửi gắm tới người đọc về tình yêu, lòng vị tha vẫn tỏa sáng trong sự tối tăm và giam kìm của những định kiến trái ngang vô lý.

    Đêm xuống. Con thuyền neo lại giữa sông. Ngọn lửa bếp trên mui thuyền hắt một vầng sáng dịu dàng xuống mặt nước. Người trong xóm trại trên bến Chùa không biết con thuyền này từ đâu đến neo lại trên khúc sông này đã hơn một tháng nay. Hàng ngày những người trong gia đình trên chiếc thuyền ấy làm một công việc là lấy cát rồi bán cho các gia đình trên thị trấn nhỏ bên kia sông đang thi nhau xây nhà. Hơn một tháng không ai thấy những người trên chiếc thuyền lên bờ. Họ đội cát bằng những cái thúng to, đi nhún nhảy trên tấm ván. Khi đến đầu tấm ván gối lên bờ, họ đổ cát xuống bãi cỏ cho người mua, bàn chân không hề chạm mặt đất. Hàng xóm của họ là những chiếc thuyền đánh cá, thuyền chở hàng thuê v.v...

    Chủ chiếc thuyền cát là một ông già ngoài sáu mươi tuổi, mái tóc dài được búi gọn trên đầu, chòm râu bạc xòa che gần kín vồng ngực gồ lên như tảng đá. Đôi vai ông u lên, đỏ sậm và rạn như vai trâu cày. Cơ thể ông đanh lại như đá tạc, nhưng đôi mắt thì khác, đôi mắt lúc nào cũng u buồn, ngơ ngác như vừa đánh mất một điều gì.

    Ông Lư (ông già chủ thuyền) ngồi im lặng trên sàn gỗ của mui thuyền. Bên cạnh ông là một quả bầu khô lớn đựng rượu, một thứ rượu do ông cất lấy ngâm với củ cỏ gấu, loại củ già đen bóng như sừng. Trước ông là một đĩa cá sông nướng và một chiếc rổ con đựng những con trùng trục đã hấp chín với gừng khô. Chiều nào ông cũng ngồi uống rượu như thế cho tới khuya và không hề động đến một hạt cơm. Chỉ những đêm mưa bão ông mới chịu ở trong chiếc nhà thuyền.
    - Anh cả đâu ? Ông khẽ gọi. Tiếng ông trầm và nặng đổ xuống mặt sông đêm.
    - Dạ bố bảo gì con ? Một người đàn ông gần bốn mươi tuổi trong nhà thuyền chui ra.
    - Mai nghỉ việc, lặn mặt trời thì đi Bãi Yên. Nói chị cả chuẩn bị mọi thứ cho đủ.
    Ông nói, người không nhúc nhích, đôi mắt mở to nhìn hút về xa.

    Ngày mai cả nhà ông sẽ đi Bãi Yên. Đó là đoạn sông rộng và êm chạy ven chân một dãy núi đá vôi. ở dưới đáy giữa khúc sông đó là mộ người vợ bất hạnh của ông. Thế là đã hơn mười năm rồi. Con sông đổ biết bao nhiêu nước ra biển cũng như ông có biết bao thay đổi trên đời. Vào mùa hè cách đây mười hai năm. Đó là mùa hè đầy bệnh tật và đói kém. Dọc hai bên bờ sông ông qua, ngày nào cũng vọng tiếng kèn đám ma thảm thiết và thấp thoáng sau những lùm tre gầy nhằng, úa vàng là những chiếc cờ tang vật vờ bay. Rồi vợ ông cũng trở thành nạn nhân của mùa hè ghê rợn ấy. Bà để lại cho ông ba đứa con. Đứa con gái hồi đó mới hơn bốn tuổi. Trong suốt ba ngày ròng rã, ông ngồi trên mui thuyền trước xác vợ. Hai đứa con trai ông vừa chèo thuyền vừa dỗ đứa em gái của mình ốm yếu khóc ngặt nghẽo suốt ngày. Ông cập thuyền vào những xóm dân cư hai bên bờ sông để xin được chôn cất vợ. Nhưng không một nơi nào chấp nhận. Họ xua đuổi gia đình ông như xua đuổi một thứ ma quỷ chuyên đi gieo rắc cái chết. Họ sợ bị lây bệnh dịch. Ông không còn biết về đâu. Ông sinh ra trên chiếc thuyền này. Ông chỉ biết con thuyền và dòng sông. Đến tối ngày thứ ba, ông ôm xác vợ khóc. Giữa dòng sông mênh mang, con thuyền vật vờ trôi với một ngọn đèn dầu héo hắt trên mui thuyền. Cuối cùng chỉ còn lại dòng sông mở rộng lòng đón nhận mọi số phận. Ông chôn vợ xuống đáy dòng sông ở chỗ khúc sông rộng và êm nhất. Ông cùng hai đứa con trai dùng gàu sắt thường dùng để lấy cát đào một cái hố dưới đáy sông và để người đàn bà yên nghỉ ở đó. Họ chở một thuyền đá xanh xếp lên thành chiếc mộ để tránh nước cuốn đi. Đêm đó ông xõa tóc, đốt hương lễ thần sông. Ông đổ hết cả một bầu rượu lớn xuống sông và nguyền rằng: tất cả những người trong gia đình ông sẽ không bao giờ đặt chân lên mặt đất. Họ sẽ sống hết cuộc đời trên sông. Ông luôn luôn nói với con cái rằng: Nếu chúng để gót chân chạm vào mặt đất đôi bờ thì trái tim chúng sẽ biến thành tim quỷ, chúng sẽ trở thành những con thú độc ác. Hằng năm cứ đến ngày giỗ vợ, dù công việc bận thế nào gia đình ông cũng nghỉ. Ông sắm sửa lễ vật và khi mặt trời khuất núi thì cả gia đình chèo thuyền đến Bãi Yên. Ông xõa tóc và mặc áo, đây là ngày duy nhất trong năm ông mặc áo trừ những ngày mùa đông rét mướt. Sau khi làm lễ ông cùng hai người con trai lặn xuống đáy sông sửa sang lại ngôi mộ. ít năm sau người con trai cả lấy vợ. Cô dâu là con gái một bạn thuyền của ông. Ngày cưới con, ông cho đứa con trai thứ hai bơi chiếc mủng nhỏ đi suốt mấy ngày dọc một dải sông dài mời bạn thuyền. Đám cưới được tổ chức ở Bãi Yên với hàng chục chiếc thuyền các loại kết lại thành một chiếc bè lớn.

    Đêm hôm sau, khi vầng trăng cuối tháng hiện lên phía ven trời thì chiếc thuyền từ Bãi Yên trở lại bến Chùa.
    - Bố ! Ông nghe tiếng cô con gái út run run gọi ông ở phía sau. Cô ngồi xuống bên cạnh và ôm lấy cánh tay ông- Bố đưa mẹ lên bờ đi. Bố đừng để mẹ ở mãi dưới sông nữa.
    Đã bao nhiêu lần cô nói như van lạy ông. Nhưng lần nào ông cũng nhìn cô bằng đôi mắt ngầu đỏ, u uất.
    - Không đứa nào trong nhà này được nói đến điều đó - Ông rít lên -Không đứa nào được giẫm lên lời nguyền của ta.

    Nhưng ngay sau đó chính lòng ông đầy đau khổ, giày vò. Ông nhìn con xót xa. Chinh, đứa con gái duy nhất của ông, đã sinh ra trong chiếc thuyền trên dòng sông này. Ngày Chinh ra đời, ông cắt rốn con thả xuống dòng sông và cầu nguyện cho con. Chinh lớn lên khỏe mạnh, dịu dàng và âm vang như dòng sông. Cô thừa hưởng sắc đẹp dịu dàng của mẹ, lòng dũng cảm của cha và sự bí ẩn của dòng sông. Là đứa con gái duy nhất, nhưng cô xông xáo táo bạo hơn các anh cô. Những đêm trăng mùa hạ, cô thích thả mình xuống dòng sông. Cô bơi mềm mại như một nàng tiên cá trong chuyện cổ. Đâu đây có những đàn cá lạ lấp lánh ánh trăng xuyên qua mặt nước bơi theo cô. Thỉnh thoảng cô co người lại, hai tay ôm bó gối để cho cơ thể tuổi dậy thì lóng lánh như một giọt thủy ngân lắng dần xuống đáy sông. Rồi bất chợt, cô ngoi lên khỏi mặt nước gọi bố và cười vang. Ông Lư ngồi trên mũi thuyền nhìn về phía cô gọi, đôi mắt chợt non tơ đến ngỡ ngàng. Ông không lo lắng gì khi thả cô xuống dòng sông ngay cả mùa nước lớn, nhưng ông lại lo sợ nếu như con gái ông để gót chân chạm vào đất đôi bờ.

    Nhưng cô thèm khát đôi bờ. Thuở mẹ cô còn sống, cô vẫn được mẹ cô đưa lên bờ đi chợ hoặc kiếm củi khô trên những bãi vải, bãi ổi ven sông. Sau ngày mẹ cô mất, các anh cô và cô không ai dám bước chân lên bờ. Và thế là hơn mười năm rồi, cuộc đời cô chỉ với con thuyền và dòng sông. Cô thèm khát được đặt chân lên dải đất mịn màng phù sa. Cô muốn được nằm trên thảm cỏ xanh ven đê làng. Có nhiều đêm cô bơi sát vào bờ và khi nghe thấy tiếng lá ngô khua xào xạc, khi ngửi thấy mùi râu ngô non dịu ngọt và mùi cỏ đêm hăng hăng, người cô lại cảm thấy nôn nao, nhịp tim cô dồn dập. Nhưng sau đó cô phải trườn mình quay lại con thuyền ngay khi đã nghe tiếng mõ gọi của bố. Có một lần cô nhìn thấy một xác người chết trôi qua thuyền. Mặt nạn nhân bị chém nhiều nhát, vết thương đã rữa tỏa mùi tanh nồng nặc. Cô ôm lấy bố run lên: "Trời ơi, ai làm sao vậy bố ? Bố vớt người ta lên bờ đi". "Người trên mặt đất họ giết nhau đấy". Ông Lư trả lời lạnh băng và đẩy cô vào nhà thuyền. Suốt ngày hôm đó ông không cho ai chạm vào dòng sông. Ông nói: "Hãy để nước sông đêm cuốn đi mọi bẩn thỉu của mặt đất. Đừng chạm tay vào nước sông cho đến sáng mai".

    Một lần khác cô hỏi Sỏi - người anh trai cả của cô: "Anh không thích lên bờ à ?"- "Trên bờ có cái quái gì mà lên"- Sỏi nói - "Cứ ở đây, chẳng phải đụng chạm đến đứa nào. Làm gì thì làm. Ngày xưa ở trên bờ tao thấy chúng nó suốt ngày cãi chửi nhau. "- "Lúc nào anh cũng ngày xưa, thế còn anh Cát ?", cô quay sang hỏi người anh trai thứ hai. Cát đang nằm ngủ trên sàn thuyền: "Tao chán cảnh này lắm rồi, cứ như ở tù" - "Mày tưởng trên bờ là thiên đường chắc ? Nhà tù đấy em ạ, gà vịt cũng còn bị tù nữa đấy !". Sỏi nhìn Cát càu nhàu. "Nhưng chắc chắn đó cũng là cái nhà tù rộng rãi hơn cái nhà tù thuyền này !" -"Ai, ai tù mày ? Bố tù mày hay tao, hay con Chinh tù mày ?"- Sỏi thốt lên giọng the thé, Cát thủng thẳng: "Chẳng ai tù ai hết cả. Ngu dốt nó tù tất cả". Nói xong anh ngửa mặt lên cười. Rồi anh chống tay đứng dậy đi lảo đảo và cười. Rồi tiếng cười vụt tắt. "Trời ơi, - anh kêu lên nức nở - Một ông già độc đoán tự cho mình quyền ngự trị tất cả. Ông bỏ tù chính ông, bỏ tù một cặp đực cái, bỏ tù một thằng hèn hạ như tôi, bỏ tù cả con bé đẹp nhưng mù chữ. Tất cả ỉa đái xuống dòng sông rồi lại nói nước sông trong sạch, lấy nước sông ăn, lấy nước sông uống !"- "Câm đi đồ mất dạy. Bố mà ở nhà bố sẽ giết mày". "Mất dạy hả ? Có đứa nào được dạy dỗ gì đâu mà mất"!

    Buổi tối ông Lư trở về. Cô con dâu thì thọt kể lại chuyện cãi nhau giữa hai anh em Sỏi cho ông nghe. Ông nhìn Cát rồi nói: "Mày muốn lên bờ hả ? Được. Tao sẽ chặt đứt đôi chân mày và vứt mày lên bờ để xem mày có phải bò về với dòng sông không ?"- Nói rồi ông cầm lấy lưỡi rìu ấn mạnh vào bắp tay, máu trào ra. Ông lấy lưỡi rìu lau máu và chém phập vào mạn thuyền: "Hãy nhìn lưỡi rìu đi. Máu tao đã chảy ở đó. Sáng mai mày hãy trả lời xem mày có thích lên bờ không?"

    Rồi Cát cũng không lên bờ. Con thuyền lại tiếp tục các công việc của nó. Thế rồi một mùa xuân lại đến. Chinh đã sang tuổi mười bảy. Một buổi sáng thức dậy ra mạn thuyền vo gạo, cô bỗng thấy trên bãi sông Bến Chùa, một thảm màu vàng tươi, một màu vàng xôn xao, ấm áp ùa vào mắt cô. Hoa cải gặp gió ấm đêm qua đã bung nở. Mỗi khi có ngọn gió chạy qua, cả bãi hoa vàng rợn lên như sóng. "Đẹp quá"- Chinh khe khẽ thốt lên. Cái rá gạo từ từ tuột khỏi tay cô trôi theo dòng nước. Suốt cả ngày hôm đó cô không thể nào rời tâm trí khỏi thảm hoa vàng kia. Một cái gì náo nức vẫy gọi cô. Cô đã sang tuổi mười bảy. Thỉnh thoảng có đêm thức giấc, cô cảm thấy một cái gì chập chờn, quấn quít ở đâu đây. Không phải tiếng nước sông chảy trong đêm, không phải tiếng reo của ngọn lửa, không phải hương ổi chín từ bãi sông đưa lại, cũng không phải tiếng gọi nhau của bầy chim ri từ những lùm dứa dại ven đê. Một cái gì đấy làm cô đang chải tóc chợt dừng tay. Nó làm cho ngực áo cô bỗng đầy lên đến nghẹn thở. Cái đó chợt đến, chợt đi, chợt rời ra, quấn quýt.

    Một hôm, sau bữa cơm chiều, cô nói với bố là cô đi thả lưỡi câu. Ông Lư chiều con và dặn: "Đi về sớm, trời lạnh đấy". Cô vội vã cởi dây thừng neo chiếc thuyền mủng. Cô không thả lưới mà bơi mủng vào bờ. Cô cắm mủng ở đó và đi về phía bãi cải. Đêm lạnh nhưng trời có trăng. Cô ngồi xuống bên cạnh luống hoa. Đôi tay nâng khẽ những chùm hoa cải ướt sương. Một ngọn gió lướt qua những bông hoa đung đưa cọ vào má cô. Người cô run lên. Những bông hoa nhảy múa và trò chuyện trước cô. Cô khẽ áp đôi môi mình vào hết chùm hoa này đến chùm hoa khác. Bỗng cô nghe tiếng mõ tre từ chiếc thuyền cái. Tiếng mõ được quy định thay tiếng gọi nhau của những người sống trên sông. Một lúc sau tiếng mõ lại vang lên. Chinh cuống quít, cô quơ tay dứt những chùm hoa cải. Lần thứ ba, tiếng mõ nghe gấp và chói. Cô biết bố đã nổi giận. Cô ôm bó hoa gãy nhàu chạy xuống bờ sông. Vừa ngồi vào mủng, cô vội gõ trả lời và hối hả bơi về thuyền. "Mày đi đâu mà không trả lời". "Con tưởng bố gọi anh cả". Ông im lặng, nghi ngờ nhìn cô.

    Rồi đêm sau cô lại tìm cách lên bờ. Và trước khi trở lại thuyền, cô lại ngắt những chùm hoa cải mang về. Nhưng đến đêm thứ ba thì có người phát hiện ra việc làm của cô. Đó là một chàng trai chừng ba mươi tuổi mặc một bộ quân phục đã cũ. Những ngày trước đó bà mẹ chàng trai thường xuống bến sớm và phát hiện những luống hoa cải bà để giống cho vụ sau bị ai đó ngắt nham nhở từng quầng. Bà ca thán với con và chàng trai quyết rình bắt cho được kẻ phá hoại. Khi Chinh đang quỳ trước đám hoa cải vừa vuốt ve chúng vừa thì thầm trò chuyện thì nghe tiếng quát khẽ nhưng rất gắt của chàng trai. Cô giật mình hoảng hốt quay lại, và vẫn trong tư thế quỳ, cô ngước mắt lên nhìn chàng trai, người run lên vì sợ hãi. Cô không khái niệm được sự sai trái do việc làm của mình, mà sợ hãi vì trước cô trong đêm trăng lạnh là một người lạ.
    - Cô là ai? Cô làm gì ở đây?
    Chàng trai hỏi và bước lại gần cô. Cô lúng túng đứng dậy. Chợt những làn mây mỏng tan đi. ánh trăng trong veo đổ tràn gương mặt cô. Bây giờ thì đến lượt chàng trai giật mình. "Đẹp quá !". Anh thầm kêu lên. Sao trong đêm trăng tĩnh lặng trên bãi sông ở một làng quê hẻo lánh này lại xuất hiện một người con gái đẹp như thế ? Chiếc áo tối màu và ánh trăng làm ngời lên đôi bàn tay, cái cổ thon và gương mặt đẹp. Đôi môi cô khẽ mím lại còn đôi mắt thì mở to. Chàng trai hồi hộp, liếc nhanh cơ thể cô và nhận ra dưới lớp trăng mỏng, dưới lớp áo tối màu, là tuổi dậy thì nóng hổi, dịu dàng và phập phồng thở.
    - Em ở đâu đến? - Chàng trai nói bằng hơi thở. Giọng nói và gương mặt đàn ông đầy độ lượng của anh đã làm cho cô hết sợ. Cô mỉm cười nhìn xuống dòng sông, ở đó tỏa một quầng sáng đèn dầu. "à", anh chợt hiểu. Hàng tuần về thăm mẹ, anh vẫn thấy chiếc thuyền lấy cát ấy neo ở bến sông làng anh. Biết vậy nhưng anh vẫn hỏi lại:
    - Em ở dưới thuyền à?
    Cô gật đầu.
    - Em thèm ăn rau cải à?
    Chinh bật cười. Nụ cười ngợp lên người anh. Anh thấy mình mê đi trong khoảnh khắc.
    - Thế em muốn gì? Anh lúng túng hỏi.
    Chinh không trả lời mà giơ một nắm ngọn cải nhiều hoa ra trước anh.
    - Hoa cải? Em thích hoa cải?- Anh ngạc nhiên hỏi. Cô gái lại gật đầu.
    - Em về đây. Bố em gọi!
    Anh bỗng hoảng hốt sợ cô biến mất. Anh đứng lặng nhìn cô và rồi vội vã ngắt những chùm hoa cải. Chinh nhận bó hoa cải từ tay anh rồi quay người đi xuống bến.
    - Này em ! - Chàng trai chạy theo - Tên em là gì?
    - Chinh.
    - Anh là Thao. Nhà anh ở kia kìa. Mai em lên nhé. Hoa cải nhà anh đấy.
    Chinh mỉm cười gật đầu và đi xuống bến. Anh nhìn theo. Đến lúc này anh mới nhận ra mái tóc như thiên thần của cô. Anh ngửa mặt lên trời. Có lẽ mái tóc ấy đã từ vầng trăng chảy xuống.

    Sáng sau, Thao dậy sớm. Suốt đêm qua hầu như anh không ngủ. Anh nghe tiếng bà mẹ ca thán dưới bếp: "Không biết đứa nào lại phá luống hoa cải đêm qua". Thao mỉm cười sung sướng. Anh chạy theo con đường nhỏ xuống bến sông. ở giữa sông, chiếc thuyền của gia đình Chinh nằm bình yên trên mặt nước. Một ngọn khói xanh tỏa ra từ con thuyền lặng lẽ tan xuống mặt sông như sương. Thao đứng trên bờ hồi hộp đợi, nhưng không thấy bóng một người con gái nào. Chỉ có hai người đàn ông đang loay hoay làm gì đó trên mui thuyền. Hay là đêm qua anh nằm mơ. Có phải thật sự đêm qua anh đã gặp một người con gái như thế không? Thao chờ mãi và cuối cùng anh buồn bã trở lại bãi hoa cải. Bên luống hoa vẫn còn in những dấu chân. Và cạnh đó là những cánh hoa cải rụng lấm tấm vàng.

    Rồi vào một đêm sau đó ít ngày, Chinh lại chèo chiếc mủng nhỏ lên bờ. Họ đứng nhìn nhau trong ánh sáng mờ mờ của trăng bị mây mỏng che khuất. Họ chưa biết gì về nhau nhưng cả hai đều nhận thấy có một cái gì đó mỏng, trong suốt đang đan quấn vào họ như tơ nhện.
    - Bố em đi rồi - Chinh thì thào.
    - Đi đâu?
    - Bố đi có việc mấy ngày tận cuối sông.
    - Đêm nay em ở lại trên bờ với anh nhé. Em đừng về.
    - Bữa trước ở dưới thuyền em nhìn thấy anh, nhưng em không dám ra. Nếu anh nhìn thấy em anh gọi thì bố em giết chết em.
    - Sao lại giết? Thao hỏi và bật cười.
    - Thật đấy. Cô nói và nhìn anh bằng đôi mắt buồn, rồi cầm tay anh đi về phía bãi hoa. Họ ngồi xuống giữa những luống hoa cải. Hơi thở họ phả nóng mặt nhau. Xung quanh họ hoa cải vàng lấp lánh dưới trăng.
    - Anh yêu em! Anh nói như phải cố gắng hết sức mình. Cô nhìn anh lặng lẽ như không hiểu điều anh nói. Anh nâng gương mặt cô lên.
    - Anh yêu em.
    Chinh vẫn im lặng. Gương mặt cô như đang ngủ trong lòng đôi bàn tay anh. Anh cúi xuống hôn cô và thấy cô rùng mình. Đôi môi cô khẽ mím. Cô không biết đó là tình yêu. Cô chỉ thấy rằng ngực cô như bị nén chặt. Người cô bừng nóng. Cô cảm thấy hơi ấm của mẹ cô từ những năm tháng xưa đang tỏa vào cô. Cô vội đứng dậy. Thao ngơ ngác đứng theo. Bỗng cô ôm lấy anh khóc nức nở. Một lúc sau, cô ngước lên nhìn anh và hỏi:
    - Anh là người mặt đất à?
    - Trước đây, anh là một người lính - Anh nói.

    Trời mỗi ngày một ấm lên. Những cánh hoa cải rụng xuống mỗi ngày một nhiều. Rồi đến một hôm anh giật mình nhận thấy hoa cải đã rụng gần hết, chỉ còn lại những bông nở muộn. Anh cứ cảm thấy rằng khi cánh hoa cuối cùng rụng xuống thì Chinh sẽ biến mất.
    - Em phải ở lại đây với anh. Em sẽ ở nhà anh với mẹ. Em không đuợc đi đâu cả.
    Cô nhìn anh lắc đầu. Anh rút trong túi ra một tờ giấy đưa cho cô.
    - Anh chép thơ tặng em đấy. Thơ Tago em biết không?
    - Em không biết chữ.
    - Sao, có thật thế không?
    Anh ngạc nhiên hỏi và lòng anh bỗng xót xa, anh đỡ cô ngồi xuống và ôm cô vào lòng.
    - Anh sẽ dạy em học. Anh cũng đang đi học đấy. Bây giờ anh giúp gì được em nào, em nói đi!
    Chinh xoay người ngồi tựa vào lòng anh. Cô kể cho anh nghe cuộc đời của gia đình cô. Cuối cùng cô quay lại nhìn anh và nói:
    - Em muốn nhờ anh một việc. Em muốn đưa mẹ em lên bờ.
    - Lên bờ ! Đúng rồi. Chúng mình sẽ đưa mẹ lên bờ. Chúng mình sẽ để mẹ yên nghỉ ở bãi sông này. Anh sẽ trồng thật nhiều hoa cải bên mộ mẹ.
    Cô gật đầu cười hạnh phúc.
    Thế là gần một năm gia đình ông Lư ở lại bến sông làng Chùa. Đôi khi họ cũng vắng bến dăm ba ngày. Một mùa hè lại đến. Đêm đêm Chinh thích thả mình xuống dòng sông. Bơi bên cô là Thao. Anh có một cơ thể khoẻ mạnh cân đối. Năm năm rèn luyện trong lực lượng đặc công nước đã cho anh vốn sức khoẻ và sự phát triển cơ thể ấy. Sau ngày giải ngũ, anh thi vào đại học ngoại ngữ khoa tiếng Anh. Những đêm trên dòng sông dịu dàng chảy, họ quấn quýt với nhau như một đôi cá thần. Dòng sông bí mật truyền vào cuộc đời họ sức mạnh hạnh phúc và sự khổ đau. Một lần khi đang bơi bên anh, Chinh thấy chóng mặt, cô ôm lấy vai anh thở dốc. Dòng sông chợt dừng chảy, im phắc lắng nghe cô, rồi bỗng trào lên những ngọn sóng reo vui, nhảy nối nhau loan báo cho các loài thủy tộc biết điều hạnh phúc thiêng liêng. Quanh họ, có những con cá bay lên khỏi mặt nước như một mảnh trăng con lấp lóa.

    Như thường lệ, vào ngày giỗ bà mẹ, cả gia đình ông Lư nghỉ việc nhổ neo về Bãi Yên. Cũng chính ngày này Thao thay Chinh đốt những nén hương cắm trên mộ của bà mẹ. Thao đã bí mật đưa phần mộ của bà lên bờ mấy tháng nay và chôn ở ngay trong vườn nhà anh. ở Bãi Yên sau khi làm lễ xong, ông Lư sai Sỏi lặn xuống đáy sông để kiểm tra lại ngôi mộ. Gần một phút sau, tăm nổi lên sùng sục và Sỏi nhao lên khỏi mặt nước kêu thảng thốt: "Mộ bị phá ! Mộ bị phá rồi". Một ngọn lửa bỏng rát táp vào mặt ông Lư. Ông lao xuống sông hít một hơi dài và lặn xuống. Những hòn đá xanh đã bị vứt ngổn ngang. Ông Lư biết không phải nước mà có một người nào đó đã phá ngôi mộ. Nhưng ai đã làm việc đó ? Câu hỏi ấy làm máu ông sôi lên. Không ai biết ngôi mộ này ngoài những người trong gia đình ông. Ông ngoi lên và ra lệnh: "Thả gầu xúc cát xuống". Họ bắt đầu đào. Sau gần nửa tiếng đồng hồ ông mệt mỏi trèo lên thuyền. Ông lẩy bẩy bước đến cửa nhà thuyền đỡ lấy quả bầu khô đựng rượu, ngửa cổ lên uống.
    - Đứa nào? - Ông gầm lên - Đứa... ưa... ưa... na...ào... ào?
    Tiếng ông kéo dài như tiếng rú khản đặc dội vào đôi bờ, vọng lại rền rền trên mặt sông. Tất cả những người trên thuyền cúi đầu im lặng. Trong góc nhà thuyền, Chinh ôm chiếc gối vào lòng kinh hoàng.
    Đến gần nửa đêm chiếc thuyền mới quay trở lại bến Chùa. Ông Lư ngồi gục đầu trên mui thuyền, trông ông già đi hàng chục tuổi. Hai anh con trai im lặng chèo thuyền.
    Buổi sáng hôm sau mọi người dậy rất sớm. ở ngoài mui thuyền ông Lư vẫn ngồi đấy. Ông đã ngồi như thế suốt đêm qua. Bỗng cô con dâu chạy từ trong nhà thuyền ra.
    - Bố! - Cô gấp gáp gọi ông và giúi vào tay ông một xếp giấy cũ nhàu.
    - Cái gì thế này? ông hỏi và giơ những tờ giấy ra... Ông không biết chữ nhưng ông linh cảm thấy một điều không bình thường trong những tờ giấy.
    - Cả đâu!- Ông gọi. Sỏi đang hút thuốc lào vội chạy ra. - Mày đọc xem cái gì đây.
    Sỏi cầm lấy những tờ giấy và đọc. Trước khi mẹ Sỏi mất, ông Lư vẫn gửi Sỏi đến học ở một trường làng cùng con một ông bạn thuyền làm nghề chở đò ngang.
    - Thưa bố. Đây là thư của một đứa nào đấy gửi cho con Chinh. Chúng nó nói chuyện yêu đương. Nhưng con Chinh có biết chữ đâu nhỉ.
    - Con Chinh đâu? Ra đây.
    Ông Lư gầm lên. Từ trong nhà thuyền, Chinh vừa khóc vừa chui ra. Cô đã nghe thấy câu chuyện vừa rồi.
    - Đứa nào? Của đứa nào? - Ông gầm lên và giúi nắm giấy vào mặt cô. Cô khóc nấc lên.
    - Của... của anh ấy. Con xin bố. Con lạy bố!
    Ông Lư giáng một cái tát vào mặt cô. Chinh ngã vật xuống sàn thuyền. Cô chống tay ngồi dậy khóc nức nở. Cô chắp tay lạy ông.
    - Con xin bố. Con lạy bố. Con và anh ấy yêu nhau.
    - Trời ơi ! Ông Lư kêu lên - Thế là nó đã lên bờ rồi. Nó đã đạp lên lời nguyền của ta. Nó giết chết cả gia đình này rồi!
    Ông túm lấy mái tóc dài của cô, giúi đầu cô xuống sàn thuyền và vung rìu chặt mái tóc. Ông nắm phần tóc bị đứt ném xuống sông. Một ngọn gió ở đâu ào đến. Gió cuốn mái tóc lên không. Mái tóc bay rối bời, quằn quại.
    - Đánh tuốt xương nó ra - Ông nói và rút chiếc cần câu trên mái liếp của nhà thuyền quất vào cô vun vút. Chinh vòng tay ôm lấy bụng. Người cô giật lên từng cơn. Một lúc sau ông dừng lại, túm lấy áo cô giật mạnh. Chiếc áo rách tan chỉ còn lại hai đoạn tay áo.
    - Tao sẽ lột hết quần áo và vứt mày lên bờ...
    Ông nói đến đó bỗng dừng lại, mắt mở tròn. Những người trong gia đình cô cũng chững người lại nhìn cô. Trước mắt họ cô đang ngồi khóc không thành tiếng, mái tóc dứt nham nhở dính bết vào lưng cô đầy máu. Đôi vú cô hơi sệ xuống, núm vú thâm lại, chiếc bụng chửa đã năm tháng của cô bây giờ bỗng to hẳn lên, hổn hển thở.
    - Nó có chửa. Nó có chửa, bố ơi!
    Sỏi thảng thốt kêu lên. Đôi mắt ông Lư đờ đẫn. Chân tay ông run lên như bị bệnh thần kinh.
    - Thảo nào... - Cô con dâu chặc lưỡi - Đúng là con của ma của quỷ nên nhìn đẹp đến lạnh cả người.
    Đúng lúc đó Thao bám mạn thuyền nhảy lên. Anh chạy lại ôm lấy Chinh.
    - Anh ơi! - Cô nấc lên.
    - Các người không được làm thế. Các người thật dã man. Thao rít lên, lòng anh đầy đau đớn và uất hận. ở sân nhà, anh đã nghe thấy tiếng kêu gào, khóc lóc của Chinh. Anh chạy xuống bến và nhận thấy ông Lư đang đánh Chinh trên thuyền. Anh không kịp cởi quần áo dài, cứ thế lao xuống sông bơi đến nơi con thuyền đậu.
    - Mày, chính là mày - Ông Lư bước lại trước Thao - Mày đã hại đời nó. Tao sẽ giết mày. Tao phải giết mày.
    - Chính ông đã giết chết cuộc đời cô ta. Ông đã chôn vùi bà mẹ dưới đáy sông lạnh lẽo tối tăm, ông đã chôn vùi cuộc đời con cái ông trên chiếc thuyền này.
    - Trời! Ngôi mộ... ngôi mộ. ở đâu? Mày, mày... ngôi mộ.
    - Đúng. Chính tôi đã đưa ngôi mộ bà mẹ lên bờ. Con gái của ông đã nhờ tôi. Cô ta đã làm đúng lương tâm và lòng hiếu thảo của một người con. Chính ông và gia đình này phải cảm ơn cô ấy. Bây giờ ông chỉ biết quyền lực của ông. Chỉ vài năm nữa ông chết đi. Nhưng ông đã và đang đày ải những người khác sống một cuộc đời tối tăm vô nghĩa. Bây giờ ông phải cho cô ấy lên bờ.
    Anh cúi xuống nhìn xót xa tấm lưng cô, lưng Chinh bầm tím và ứa máu. Rồi anh ngẩng nhìn mọi người nói:
    - Áo đâu ? Đưa áo cho cô ấy mặc.
    Cát lặng lẽ đi vào nhà thuyền và mang ra một chiếc áo đưa cho anh. Anh mặc áo cho cô và đỡ cô vào nhà thuyền. Một lúc sau anh bước ra nhìn ông Lư và nói:
    - Ông phải cho cô ấy lên bờ và chính cả ông nữa. Tôi yêu cô ấy và tôi sẽ cưới cô ấy làm vợ.
    - Mày là một con quỷ. Mày đã phá hại gia đình tao. Mày phải mang trả lại cho tao ngôi mộ.
    - Nếu ông chấp nhận cho cô ấy lên bờ thì tôi sẽ chỉ cho ông biết ngôi mộ ấy ở đâu. Nhưng ông cũng không được đưa ngôi mộ ấy trở lại dòng sông.
    Bây giờ tôi về lấy thuốc cho cô ấy.

    Khi Thao đi mua được thuốc cho Chinh trở về thì chiếc thuyền không còn trên bến Chùa nữa. Ông Lư đã cho con thuyền nhổ neo ngay sau khi anh rời chiếc thuyền. Anh không biết con thuyền đi về hướng nào. Anh quyết định chạy theo hướng dòng sông chảy. Ông Lư biết trước chuyện đó. Ông căng buồm cho thuyền chạy ngược dòng. Ông ngồi giữ bánh lái. Còn Sỏi và Cát phải lên bờ để kéo phụ cho chiếc thuyền đi nhanh hơn. Mây đen bỗng cuồn cuộn đổ về. Mưa mùa hạ ập xuống như trút nước. Dòng sông rộng nên gió càng thổi mạnh. Thao vừa đi vừa thở trong mưa. Đất trời mù mịt. Trên dòng sông lác đác có những con thuyền cập vào hai bờ tránh bão. Cứ thấy bóng một con thuyền Thao lại cất tiếng gọi. Nhưng chỉ thấy gió bão trả lời anh. Anh rét run lên rồi ở trong ngực như có một ngọn lửa. Ngọn lửa đốt nóng rát lồng ngực. Ngọn lửa chui qua cổ anh lên mũi, lên mồm. Thao phải quay về nhà. Anh không đủ sức đi tiếp. Vừa về đến nhà thì cơn sốt lên đến lúc cao nhất. Anh cố gắng thay quần áo và nằm vật ra giường. Bà mẹ hốt hoảng đắp chăn cho anh và đi rang cám đánh gió cho anh. Đến tối anh mê sảng, người nóng ran. Mọi người vội vã đưa anh đi bệnh viện. Mỗi khi tỉnh lại anh lại hỏi:
    - Thuyền về chưa?
    Không ai hiểu câu anh hỏi. Mọi người nhìn anh lo lắng. Còn anh cứ mỗi khi nhắm mắt thiếp đi lại thấy chiếc thuyền, thấy dòng sông và Chinh đang bơi đến bên anh. Bỗng Chinh dừng bơi, ôm chặt lấy anh kêu lên khe khẽ. Gương mặt cô vừa đau đớn vừa hạnh phúc. Cô mỉm cười và trán đầm mồ hôi. Rồi anh nghe tiếng trẻ khóc. Tiếng khóc âm vang náo nức cả dòng sông. Anh bế đứa bé nâng lên khỏi mặt nước. Nhưng rồi đôi tay anh nhẹ bẫng. Anh giật mình, đôi mắt dài dại mở ra nhìn mọi người, môi anh thì thào:
    - Thuyền đã về chưa?
    Khi cơn sốt chưa kịp khỏi hẳn, anh đã quyết định đi tìm Chinh. Anh nói với bà mẹ rằng có lẽ hai tuần tới anh không về nhà. Anh phải đọc một số sách tư liệu cho năm học mới. Anh lấy xe đạp và bắt đầu cuộc hành trình dọc sông Đáy nhưng suốt một tuần đầu anh không có được một tin gì về Chinh. Anh la cà ở những nơi thuyền tụ tập đông đúc. Anh kể cho những người làm nghề sông nước về gia đình cô. Có người nói họ nhìn thấy chiếc thuyền đó qua nơi họ đã ở mấy hôm trước. ở trên mui thuyền có một cô gái hai tay bị trói vào cọc. Có người lại kể rằng họ thấy một thuyền câu nhỏ cứ quay tròn trôi theo làn nước, trong thuyền có một đứa bé mới đẻ. Một đôi vợ chồng già không có con đã đón đứa bé ấy về nuôi. Rồi lại có người nói rằng họ nghe đồn có một người đàn bà chết trôi, trên bụng có một đứa bé mắt tròn như mắt cá. Đứa bé ấy nhìn vào bờ cứ cười ba tiếng lại khóc ba tiếng... Thao cứ đi mãi theo những lời đồn đại như chuyện cổ tích của những người dân chài cho đến khi ra đến biển. Biển tít tắp không bờ không bến và rền rĩ tiếng sóng.

    Cho đến một buổi sáng Thao dậy sớm. Suốt cả bãi sông làng anh rực vàng hoa cải. Những bông hoa cải nhỏ nhắn, mềm mại, ấp áp đung đưa trong gió. Thao bỗng thấy trái tim rung lên đập hối hả. Anh chạy ùa xuống bến. Bỗng anh quỳ xuống bên luống cải. Trước mắt anh, trên mặt phù sa rụng lấm tấm những cánh hoa mỏng và từ đó kéo dài xuống bến sông là những dấu chân mỏng và nhỏ nhắn.
    [/FONT]
     
    No MercY, 5dola and Oảnh tù tì like this.
  11. 5dola

    5dola Thần Tài Perennial member

    Tản mạn...cuộc sống!

    VIẾT CHO NGƯỜI ĐÃ XA!
    :053::053::053::053::053:
    Em thật sự rất muốn mình được giống như anh, có thể sống vui vẻ, vô tư chẳng muộn phiền cũng chẳng phải bận tâm đến điều gì cả và quan trọng là anh chưa từng đau khổ vì một người nào đó đúng không anh.!
    [​IMG]
    Thật sự cho đến bây giờ em vẫn không hiểu được anh, không biết anh suy nghĩ gì và mong muốn điều gì trong cuộc sống. Có lẽ với anh, tình yêu không phải là một phần thiết yếu của cuộc sống, không có nó anh vẫn sống rất tốt, hay chưa từng có người con gái nào khiến cho trái tim anh thật sự rung động? Dù em biết rõ giữa em và anh giờ đây đã trở thành hai người hoàn toàn xa lạ, giờ đây, anh đã không còn là người thầy, người bạn và người mà em đã từng yêu thương nữa, anh đã quên em tựa như quên một bài hát buồn trong dĩ vãng và em cũng chỉ là một cơn say nắng nào đó của anh thôi, một cơn gió thoáng qua trong đời. Nhưng em, một người con gái lần đầu tiên được cảm nhận hạnh phúc bình dị của tình yêu đầu đời thì vẫn luôn nhớ về anh, mặc cho những cảm giác xót xa, những giọt nước mắt đau khổ mà anh đã mang đến cho em.
    Những kỷ niệm lúc mình quen nhau dường như vẫn còn nguyên vẹn trong em chưa bao giờ phai nhạt cả, dù em cố gắng nghĩ đến những nỗi đau, sự vô tình, phủ phàng mà anh đã mang đến cho em để cố dặn lòng mình không được, không được nghĩ đến nữa, đừng hoài niệm về quá khứ nữa, rằng anh chỉ là một giấc mơ trong đời của em thôi, nhưng có lẽ lý trí của em phải chịu thua trái tim ngốc nghếch của mình rồi anh àh. Em không bao giờ muốn bản thân mình trở thành người bi lụy trong tình cảm như thế này, em cứ cố xua đi hình bóng anh, xua đi nỗi nhớ nhưng vẫn không thể được. Anh ơi! Từ nay em sẽ không cố ép bản thân phải quên anh nữa, em sẽ nhớ cho đến khi nào nỗi nhớ kia dần phai nhạt theo năm tháng. Em ước thời gian trôi qua thật nhanh, thật nhanh để em có thể quên được anh, để những nỗi đau kia không còn dày vò tâm trí em nữa. Em ngốc quá phải không anh? Lúc còn ở bên cạnh anh em đã không biết được là mình cần anh như thế nào, không cố gắng vun đắp cho tình cảm của mình mà chỉ trách mình anh vô tâm với em thôi, vì em thấy tình cảm của mình không giống như những người khác, vì em cảm thấy quá cô đơn, quá mệt mỏi … em đâu biết rằng anh cũng rất cần sự quan tâm, chia sẻ, em thấy mình thật ích kỷ quá.
    Khi em hiểu ra mình đã sai thì tất cả đã muộn màng rồi, những giọt nước mắt không thể nào mang anh về lại bên em như ngày xưa nữa. Vì sĩ diện của một đứa con gái, vì sự nông nỗi, trẻ con của mình mà em đã để mất anh. Em biết dù cho em có hối tiếc như thế nào thì cũng không thể quay lại như trước đây được nữa, không thể lấy lại được những lời em đã nói với anh và cũng không thể nào xóa được khoảng cách vô tận giữa em và anh nữa. Đoạn đường anh đi bây giờ đã quá xa với đoạn đường mình từng có nhau rồi, giờ đây bên anh đã có bến bờ hạnh phúc mới đúng như những lời chúc phúc của em, anh hãy trân trọng niềm hạnh phúc mà mình đang có nha anh, vì hạnh phúc rất mong manh dễ vỡ, khi mất đi rồi sẽ rất khó tìm lại được.
    Dù trái tim em rất đau khi biết anh đã quên em và đã có người con gái khác bên cạnh mình nhưng anh àh giờ đây em đã thôi không còn hờn trách anh nữa, anh hãy sống thật vui và hạnh phúc bên người con gái mà anh đã chọn, hãy để em chôn sâu hình bóng anh cùng những ký ức vui buồn ngày nào vào tận đáy con tim mình. Em rất muốn gửi đến anh những dòng tâm sự của mình nhưng em không đủ can đảm, em sợ sự im lặng đến phủ phàng kia của anh sẽ làm em càng đau lòng hơn nữa.
    Ước mơ được ở bên cạnh, được mang đến những điều tuyệt vời, hạnh phúc cho người mình yêu thương có lẽ quá xa tầm với của em rồi. Mỗi lần nghe ca khúc “ Hãy là một kỷ niệm” sao em nghe lòng mình xót xa quá! Từ nay em sẽ chấm dứt bao đam mê mãi mãi không bao giờ thuộc về mình nữa. “Giá như” nếu như không có hai từ “giá như” thì giờ đây em đâu phải hoài niệm về quá khứ trong niềm tiếc nuối như thế này phải không anh? Cái ranh giới giữa tình bạn và tình yêu đó, em ước gì mình chưa từng bước qua ranh giới đó thì giờ đây anh vẫn là người thầy, người bạn của em rồi. Nhưng mà thôi, có nói gì thêm nữa thì giờ đây tất cả đã xa rồi, em sẽ cố gắng để thực hiện lời nói của anh “chuyện cũ qua rồi, em hãy quên đi”, em sẽ cố gắng nhất định sẽ cố gắng, em tin thời gian sẽ giúp em chữa lành vết thương này. Anh àh! lần cuối cùng em muốn nói với anh rằng từ sâu thẳm trái tim mình em luôn cầu mong anh được bình yên và hạnh phúc!
    s.t

     
  12. 5dola

    5dola Thần Tài Perennial member

    Tản mạn...

    GIỮ CHO RIÊNG MÌNH..
    &&&

    Chia sẻ thật nhiều nhưng phải để lại một chút để người khác có cơ hộikhám phá bạn, để bạn không phải là người quá dễ dãi trước cuộc sống xô bồ này.
    [​IMG]
    Giữ cho mình một tình yêu. Bạn có thể thích nhiều người, nhưng hãy chắc chắn bạn có một người để yêu thực sự. Đó là một nửa của cuộc đời.

    Giữ cho mình một người bạn thân. Không cần biết số lượng bạn bè của bạn là bao nhiêu, nhưng hãy tìm cho mình một người tri âm tri kỷ – người sẵn sàng tha thứ cho mọi lỗi lầm của bạn, lắng nghe bạn, ở bên bạn bất cứ khi nào bạn cần.
    Giữ cho mình một bí mật. Bạn có thể san sẻ mọi chuyện của bản thân nhưng đừng bao giờ nói hết. Chia sẻ thật nhiều nhưng phải giữ lại một chút để người khác có cơ hội khám phá bạn, để bạn không phải là người quá dễ dãi trước cuộc sống xô bồ này.
    Giữ cho mình một chút yếu đuối. Vì không có ai hoàn toàn mạnh mẽ cả. Bạn có quyền than thở, có quyền khóc. Thả lỏng bản thân một chút sẽ giúp bạn nhẹ lòng, hơn là lúc nào cũng gồng mình lên chỉ để chứng tỏ với người khác rằng “tôi rất ổn”, rằng “tôi luôn mạnh mẽ” mà thực chất bạn đang rất mệt mỏi.
    [​IMG]
    Giữ cho mình một kỷ niệm buồn. Ký ức đẹp chỉ làm cho bạn vui, còn khí ức buồn sẽ khiến bạn hoặc là bật cười hoặc là bật khóc, và mang đến cho bạn nhiều bài học quý giá.
    Giữ cho mình một chút ích kỷ để không sẻ chia tình yêu cùng ai, để nói không với những lời nhờ vả xấu xí, để không cho đi những thứ vốn dĩ chỉ thuộc về bạn.
    Giữ cho mình những giây phút tĩnh tâm mỗi ngày, để suy ngẫm về cuộc sống, xem xét lại những việc đã làm trong ngày và vạch kế hoạch cho những việc phải làm ngày hôm sau.
    Giữ cho mình những mẩu tin nhắn và những cuộc điện thoại mỗi tuần. Hãy đảm bảo bạn luôn quan tâm và được quan tâm. Cuộc sống có bận rộn đến cỡ nào thì bạn cũng không được thờ ơ, lãng quên tình cảm.
    Và…
    Giữ cho riêng mình một giọng nói, một nụ cười, một ánh mắt, để bạn là chính bạn chứ không phải là bản sao phong cách của người khác, để mọi người nhận ra bạn từ rất xa, trong biển người nhạt nhòa, để bạn trở lên đặc biệt hơn so với phần còn lại của thế giới.


    S.T



     
    Last edited: Jul 8, 2012
  13. kieuphong_@

    kieuphong_@ Thần Tài Perennial member

    Hãy yêu anh em nhé!

    Hãy yêu anh em nhé! Để mỗi buổi sáng thức dậy căn phòng xung quanh như rộng thêm ra, bầu trời qua khung cửa sổ cũng như cao hơn và những cơn gió như hát lên một giai điệu nhẹ nhàng khiến lòng em tươi mát.
    Hãy yêu anh em nhé
    Để mỗi khi anh cầm phone là chuông điện thoại nhà em lại đổ dồn. Để những gì em trải qua cả ngày tóm gọn lại chỉ trong 5 phút. Bỏ đi những nỗi buồn, giận dỗi, lo toan và giữ lại hết thảy những niềm hạnh phúc, sự vui vẻ.
    Hãy yêu anh em nhé
    Để cho anh cảm giác con tim như nhảy ra khỏi lồng ngực khi đến chỗ hẹn sớm trước 5 phút. Chỉ 5 phút thôi để anh biết rằng thật may mắn khi anh còn có thể đến sớm và 5 phút cũng đủ để anh hiểu anh mong em đến thế nào.
    Hãy yêu anh em nhé.
    Để khi bàn tay em đang run lên vì lo sợ, thì ít ra, cũng còn một bàn tay khác sẽ run lên cùng với em.
    Hãy yêu anh em nhé.
    Để khi em chợt thấy lạnh, sẽ có một cái gì đó ấm áp rực lên trong con người em khi nghĩ đến anh. Những người bất hạnh nhất trên đời khi lạnh chỉ có thể mặc áo mà thôi, đúng không em?
    Hãy yêu anh em nhé.
    Để mỗi khi em giận dỗi, sẽ có một người làm đủ mọi trò trẻ con em thích, khiến em mỉm cười.
    Hãy yêu anh em nhé.
    Để trái tim không còn phải có những lần thắt lại. Để tình cảm thực sự là liều thuốc quý xoa dịu mọi đắng cay nhọc nhằn trong cuộc sống.
    Hãy yêu anh em nhé.
    Để không bao giờ phải ướt một mình dưới một cơn mưa bất chợt.
    Hãy yêu anh em nhé.
    Để mỗi khi đọc bất cứ một thể loại trắc nghiệm tình cảm nào, người em nghĩ đến đầu tiên cũng là anh.
    Hãy yêu anh em nhé.
    Để mỗi khi muốn buông xuôi mọi thứ anh chỉ cần nhắm mắt lại, nghĩ đến em, và lại có thêm sức mạnh bước lên phía trước.
    Hãy yêu anh em nhé.
    Để những khi đôi tay anh dang rộng ra chờ đón em thì cũng là lúc con tim anh đang mong chờ vòng tay của em ôm chặt.
    Hãy yêu anh em nhé.
    Để từng chiếc lá trên cây, từng vì sao trên trời sẽ hóa thành những nốt nhạc hòa vào bài ca của chúng ta.
    Hãy yêu anh em nhé.
    Để đơn giản thấy rằng ít ra trong cuộc sống này vẫn còn màu hồng, vẫn còn vô số niềm vui và hạnh phúc.
    Hãy yêu anh em nhé.
    Để người em nghĩ tới sau khi đọc hết những dòng trên kia là anh.
    Một lần nữa thôi.
    Hãy yêu anh em nhé.
    [​IMG]
     

    Attached Files:

    • 334.jpg
      334.jpg
      File size:
      26.8 KB
      Views:
      125
  14. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mê… thầy[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Ngọc Tư[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nhưng tại sao lại mê thầy? Chắc do tâm sinh lý tự nhiên, hễ con gái thì thích thầy, con trai đương nhiên khoái cô?Hay vì ông thầy đầu tiên để lại ấn tượng sâu đậm quá?

    Giả thuyết đầu tiên khả năng sai cao, bởi nhiều đứa con gái bạn tôi mê cô giáo đến mức… xin hình cô đem về nhà treo. Giả thuyết thứ hai cũng không chắc, sâu đậm kiểu gì mà tên của người thầy đầu tiên tôi đã quên mất tiêu rồi. Quên gương mặt, dáng đi, giọng nói. Không biết thầy có đẹp trai không, giọng nói có ấm áp không? Thầy có thường cười đùa hay nghiêm nghị mực thước? Thầy từ đâu tới, người tự nguyện đến cái xóm heo hút đó để khai sáng cho đám trẻ quê nghèo, hay bị ép buộc về nông thôn cho đủ thời gian thử thách trước khi quay lại thành phố. Và, năm mười sáu tuổi, "thì" có "dậy" chút đỉnh, tôi đặt câu hỏi sau cùng về ông thầy thơ ấu đó, là "không biết thầy có… vợ chưa?".

    Những câu hỏi không một tiếng vọng. Trong miền nhớ mịt mờ, chỉ là những cảm giác lên tiếng, chúng nói, thầy bị "đày". Vì một ngôi trường (nói vậy cho oai) chỉ có một lớp học ngó ra sông nhỏ, mấy cây cột trâm bầu sần sượng, mái lợp lá chằm đóp, bàn ghế ghép lại bằng những thân cau chẻ, gỗ tạp. Người trong xóm có gì quyên góp nấy, nên lớp học trông lởm chởm như… chổi lông gà. Những bữa mưa nhiều tụi học trò phải ngồi chổm hổm trên ghế, co rúc người cho đỡ lạnh.

    Trường lớp ọp ẹp, được nhúm học trò, mà tụi nó cũng ọp ẹp. Ọp ẹp theo kiểu tôi thì ốm tong teo, đen rọi đèn pin còn không thấy, theo kiểu đám bạn tôi cũng đa dạng, đứa thì ghẻ chóc đầy đầu, đứa học nửa năm chỉ nhớ được chữ O, may nhờ nhà nó chuyên ấp gà con bán, có đứa đang học bỗng chạy đi mất tiêu, lúc quay lại nó gãi đầu thưa, con đi thăm lờ, cá nhóc. Có đứa một ngày học, bốn ngày nghỉ vì bận mót lúa ngoài đồng, có đứa ghé qua học chừng hai buổi thì đi, ghe nhà nó nhổ sào rồi.

    Sau này, nhớ về lớp học đầu tiên, tôi luôn hình dung ông thầy đứng gần tấm bảng gỗ bào vội, sần sùi, gió sông thổi thốc vào, lá mục bay chấp chới, chim non tao tác kêu trong những lùm cây dại bên hè. Hình ảnh thật buồn, cô đơn, hoang hoải. Nhưng là tôi tưởng tượng vậy, bởi đâu còn nhớ thầy đã từng buồn hay vui. Chỉ biết, thầy hay đến trường bằng nhiều hướng khác nhau, lúc đi ngang nhà ngoại tôi, lúc lại từ đằng kia tới, như thể thầy từ trên trời, rơi ngẫu hứng đâu cũng được. Nên có bữa tôi nán lại chờ ngoại luộc trứng chim canh chừng hễ thầy đi qua thì xách tập chạy theo, chờ hoài, ăn hết mớ trứng thì đằng trường thầy cũng dạy hết một bài. Giữa giờ chơi, thầy thả bộ tà tà lại nhà ngoại tôi uống trà, mà sao không uống trà nhà khác, tôi không hiểu. Mười sáu tuổi (lại mười sáu tuổi), tôi có một giả thuyết, ông thầy thương dì tôi, nên giả bộ lại uống trà với ngoại, để được ngó dì.

    Nhưng có giả thuyết khác ít ngang trái lãng mạn hơn, là thầy cần phải gặp ngoại để tìm ra phương cách "chiến đấu" với cái tật… xé tập của tôi. Hồi đó, mỗi cuốn tập của tôi khi viết tới trang cuối thì nó còn chừng… mười sáu trang, cả thảy. Ngoài vụ đó, tôi còn nhiều vấn đề khiến "nhà trường phải phối hợp với phụ huynh". Có lần quậy tưng trong lớp, thầy dọa, chút nữa lại méc ngoại. Báo hại lúc ra chơi phải chạy về nhà để rình, nếu thầy méc thiệt thì thủ tiêu mấy cây roi ngoại hay giắt trên vách. Bi kịch, đứng ngoài hè trò bị kiến vàng cắn tả tơi, trong nhà thầy thủng thỉnh ngồi uống với ngoại, hỏi những câu kiểu như, lúa vụ này khá hôn, chú Hai. Vào học, thầy bảo, méc rồi, về nhà bị đòn nứt đít. Tôi gãi chân, cười thầm, ông thầy nói dóc dễ sợ.

    Hồi đó, chắc chắn tôi không sợ thầy, từ đó suy ra là thầy dễ chịu lắm. Thương lắm. Đến nỗi khi trở ra thị xã học tiếp, tôi nhớ mình đã viết một lá thơ gởi thầy (tất nhiên, giấy xé ra từ tập học). Rồi mấy cây cột cặm trong lớp một ngày kia được bà con trong xóm nhổ về làm củi chụm, thầy biến mất, lặng lẽ như hồi thầy tới.

    Tôi lại có ông thầy khác, ông này có họ hàng bên má, vai cậu tôi. Vô lớp tôi gọi thầy, trống trường đánh cái thùng, tôi kêu cậu ơi cậu à, mà kêu lớn lắm. Cho tụi bạn nó… nể, thấy tui xấu vậy mà cũng có cậu làm thầy giáo à nghen. Hồi đó sao mà thầy cô giáo có giá dữ vậy không biết, bị tôi đem ra lòe thiên hạ, cũng thu được chút lợi, cái lợi đáng kể nhất khi có ông cậu họ làm thầy giáo là không bị bạn ăn hiếp. Hai mươi sáu tuổi, nghĩ lại thấy mình khờ, giờ thì gặp ai đáng chú, đáng bác cũng muốn gọi bằng thầy, để được xưng… em.

    Hơn mươi năm ngồi chai đít khỉ ở trường, học qua nhiều thầy cô giáo, nhưng năm nào có thầy thì năm đó học được, nói chung sáng ngủ dậy có muốn… tới trường. Thầy đẹp trai thì, chậc, còn gì bằng. Có dạo, đi học vi tính, hai ông thầy đều đẹp, độc thân, trẻ trung, khóa ấy, tôi đậu… thủ khoa (ha ha ha).

    Thật tình, tôi không biết những ông thầy mà tôi mê có phải là giáo viên giỏi (cấp huyện, cấp tỉnh) không, có phương pháp sư phạm không, hiệu quả tới đâu, giảng bài có cuốn hút không, dạy có dễ hiểu không, và tôi đã nhận được những kiến thức gì, tôi nhớ chỉ vì ông thầy đó dễ thương.

    Những ông thầy không làm tôi sợ bằng cách buộc tôi cúi đầu vâng dạ, những ông thầy không bắt tôi phải lễ phép khép nép trước mặt mình, gò học trò vào một sự kính trọng gượng gạo. Có thể có thầy nghiêm khắc, lúc nào đó, quãng nào đó, nhưng tôi không nhớ, chỉ nhớ thầy đó y chang bạn tôi. Trong không gian trường học chật chội, tẻ nhạt với những thứ kỷ luật bó buộc, những bài học khô rốc, cứng ngắc, những ông thầy để lại trong ký ức tôi sự khoáng đạt, mạnh mẽ, dắt tôi lướt đi trên khuôn khổ, tiểu tiết. Tôi quên mình đã học được gì nhưng nhớ mình đã được đối xử như thế nào, từ những người thầy.

    Đó là những người đàn ông dịu dàng và bao dung, giống như ông ngoại tôi, ba tôi, đến nỗi, khi tìm kiếm tình yêu, hay bắt đầu quan hệ bạn bè, tôi luôn nghĩ tới những ông thầy của mình. Giữa thầy và trò, giữa bề trên và kẻ dưới, giữa người cho và kẻ nhận, tôi đã nhận được sự thân ái, yêu thương, đồng đẳng giữa người và người.

    Nên nhớ thầy, trước nhất, tôi nhớ người.
    [/FONT]
     
  15. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Miền không thể xóa[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hà Phương[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Em tự hỏi mình rằng: "Liệu có bao giờ anh biết hối hận không nhỉ? Liệu có một lúc nào anh chợt nuối tiếc khi ta mất nhau?… "Đúng, chúng mình đã mất nhau ở lúc không hề đánh mất, lúc mà em ngỡ như đó chính là cái nền vững chắc cho mai sau.

    Em đã khóc, đã quằn quại trong nỗi buồn vô tận, em giãy giụa để thoát khỏi nỗi buồn, nhưng tất cả chỉ như con thú bị nhốt trong lồng sắt, không thay đổi được gì – không thể thoát ra… đôi lúc em thấy mình như bị quẫn trí, không cảm nhận được gì cả. Bạn bè kẻ bảo em quên anh, người bảo hãy “lao vào” hỏi cho ra nhẽ – song cả hai điều đó em đều không làm nổi. Quên anh ư? Ừ… thì em cũng như bao người thôi, đã yêu thì yêu hết lòng. Chỉ có điều em lại không dám hết mình vì tình yêu! Có thể trong em – bản chất thành cố hữu, em yêu anh đấy, yêu hơn tất cả nhưng em không thể lao ra giành giật anh – em không thể và không muốn van xin một thứ gì hết. Tình yêu lại càng không thể. Em chưa có mối tình thứ hai, em chưa đi qua anh, song em hiểu cái gì thuộc về lẽ đúng, cái gì mình nên làm! Kỷ niệm giữa chúng mình quá nhiều – bao giờ xóa hết? Lấy gì để xóa? Ngồi nghe thầy giảng – khi liên hệ đến chuyện đời thường. Thầy bảo: "Tình yêu chỉ đến duy một lần!”. Em khóc! Đúng, vì sau anh, em có yêu nổi ai đâu? Mặc dù ….

    Xa nhau rồi… sự sẻ chia, đồng cảm nơi em đã thành thừa thãi, anh không cần đến nữa, em biết anh bận rộn nhiều… nhưng không hiểu sao em lại cứ chờ, cứ hy vọng có một lá thư anh gửi, cùng lời xin lỗi và nối lại mối tình đầu… Em sẽ tha thứ, sẽ bỏ qua tất cả, em sẽ mãi mãi bên anh…

    Em hay nhớ anh, nhớ một dáng hình thân thuộc cùng bộ quân phục giản dị mà đẹp đến mê hồn. Ra đường khi bắt gặp một màu áo ngang qua, em lại nhói lòng, vừa ao ước gặp anh, có anh – lại vừa giận anh, giận ghê gớm, nếu không muốn nói là… những lúc ấy trở về em hay khóc. Tự trách mình rồi lại trách anh. Trách mình yêu anh quá nhiều. Trách anh đã không thật lòng yêu em. Để rỗi chỉ vì một câu nói đùa: "Em chưa bao giờ yêu anh!”. Thế mà anh bỏ đi cùng lời chia tay để lại trên trang giấy. Cứ tưởng anh đùa – hoá ra là thật. Em chỉ nói đùa sao anh không nhận ra? Ðiều đó cấm kỵ và không được đùa ư? Anh nói với em một lời để đừng thêm một lần thế nữa, em sẽ nghe. Anh yêu em? Yêu thế sao? Thử hỏi đó là tình yêu thật sự chưa?… Em buồn nhiều! Ngày trước em luôn phản bác câu của miệng người đời: "Tình yêu đầu tiên không bao giờ tới đích – chỉ là kỷ niệm trẻ thơ…”. Em đã quyết lái con thuyền tình yêu của em đi đến cuối bờ, thế mà giờ, em cũng phải buôn tay trôi xuôi theo lối mòn ấy. Em không đủ sức cưỡng lại, vì lòng tự trọng, vì danh dự? Hay chỉ vì… vì em đã hiểu… Anh lừa dối em, lừa dối mối tình đầu của một cô sơn nữ!

    Mất nhau rồi, còn biết trách ai đây? Trách mình hay trách anh? Hay trách sợi tơ trời mỏng mảnh, trách kỷ niệm hay sự phủ phàng???

    Mất nhau rồi – thôi thì đành vậy! Muốn hay không cũng phải đối mặt với thực tại mà. Muốn tha thứ tất cả, nhưng anh không cần nữa sự tha thứ! Vậy thì em sẽ tự tha thứ cho mình vì tội: “Yêu anh nhiều quá!”. Hy vọng vào thời gian …

    Mọi cái đã đến, đã xảy ra, rồi mọi cái lại cũng trôi qua. Anh bình an nhé – đừng nghĩ em sẽ trách móc. Không! Em giận anh nhưng cũng luôn yêu anh, em chưa bao giờ quên anh cả. Anh không có lỗi đâu, chỉ tình yêu có lỗi thôi.

    Vị ngọt của tình đầu dẫu xen cả đắng chát, nhưng chẳng bao giờ em xóa hết, chẳng bao giờ em quên nổi! Có bao giờ anh nuối tiếc? có bao giờ anh hối hận và sẽ trở về với em không???
    [/FONT]
     
  16. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mênh mông tình[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nhụy Nguyên[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nàng tên Xíu. Nom vừa đủ để bất kỳ ai vào quá uống ly cà phê cảm thấy ngon. Hắn là người đầu tiên phát ngôn chân lý đó với một tay thợ chạm rặt hàng bia mộ, có cái đầu tựa quả dứa bị người ta bẻ cồi sớm.

    Hắn vẫn đến quán thuộc hạng sớm nhất, ngồi lâu nhất và nghĩ về nàng nhiều nhất. Cha nàng đã đổ mồ hôi sôi nước mắt mới gây dựng lên quán từ ngày có nhà máy sợi chỉ trăm công nhân. Gần hai mươi năm, ngoài một việc lớn đã lo xong là nuôi con ăn học tử tế, ông còn vốn để dựng ngôi nhà có gác chưa được ở bao lâu thì lìa đời. Nàng khóc như mưa cuối đông và mi mắt ướt mãi cho tới bây chừ. Chưa bao giờ hắn thấy nàng dùng đến phấn son. Thượng đế đã kiến tạo nên một khuôn mặt không cần đến phấn son vẫn đẹp là nàng.

    Thanh niên là lớp người tới quán nhiều nhất. Phần lớn đều ngắm nàng với ánh mắt chân tình. Cái đẹp và sự nghiêm túc nơi nàng luôn khiến cho kẻ xấc xược nhất cũng biết xử sự lịch lãm vậy. Hắn thích nhất nhìn những ngón tay búp măng của nàng rút từng điếu thuốc một đặt lên đĩa. Mỗi lần như thế nàng không quá khom lưng mà chỉ hơi chùn gối, trông rất thùy mị và con nhà lành. Đôi lúc hắn còn ước: giá nàng bận chiếc quần jean sít sịt, điểm chút phấn cho thế giới đàn ông có thêm một lần đảo lộn; chỉ một lần như thế thôi rồi xếp vào tráp vĩnh viễn. Kể từ đấy nàng là của hắn, không xê dịch.

    Hay ngồi uống cà phê cùng bàn với hắn, ngoài gã chạm bia mộ ra còn có ông giáo dạy văn. Ban đầu thì đàm luận nghệ thuật, về sau thưa bớt chuyển qua thời sự, để rồi có những hôm ba người như ba cái ghế đá lạnh băng.

    Sáng nay ông giáo nhổ đít sớm. Nàng dắt xe đi chợ lúc quán chỉ còn dăm người. Mình hắn ngồi lặng, nhìn theo đôi gót trắng mịn như đá thạch cao nhấp nhô dưới gấu chiếc quần tây hơi cũ. Gã chạm sao vắng bóng? Chiều qua hắn có làm mấy ly với gã, nhưng đâu đến nỗi dậy không nổi. Hắn bồn chồn. Từ sáng giờ uống cà phê, mọi bộ phận cấu tạo nên hắn đều bồn chồn. Bực gớm cái thằng ngồi cạnh bên mang cả bánh mì và nước đậu vào ăn uống, gọi cà phê sữa mà mắt thì tia nàng đến lồi cả ra. Cái đồ mặc quần lụa. Cái đồ... tương tư! Nàng nữa. Ai biểu nàng cười làm chi. Khuôn mặt nàng chỉ hợp với buồn thôi! Cứ để nó buồn rũ rục ra. Và nàng cứ đi qua đời hắn... Hắn bỏ mặc bài Đôi bờ ưa thích còn phát dở, ngược bước.

    Trong nhà gã chạm, đáng chú ý nhất là cái máy photocopy giao cho vợ chạy rò rò cả ngày. Gã đang chạm. Cũng có ngày người ta tới đặt hàng giục gã làm gấp. Hắn bấm bụng bước vào. Gã nhìn hắn cười hì hì, tay vẫn múa trên bia những đường cong muôn thuở. Độ mươi phút gã mới chịu đi pha trà, rồi lại tiếp tục chạm.
    - Có làm vài ly không?
    Hắn khoát tay lấy lòng vợ gã chạm:
    - Thôi, để khi khác. Làm đi cho xong kẻo có tội...
    - Không sao cả.
    Rồi thì gã chạm vào trong múc ra một cốc rượu như muốn chọc tức vợ. Chả biết gã ngâm loại gì mà có màu tươi xanh như rượu bìm bịp thượng hạng.
    - Cứ uống đi! Không sao cả.
    - Ờ, thì uống.
    Hắn làm ngụm lớn.
    - Ái chà, rượu nồng đến teo cả lưỡi!
    - Teo lưỡi chứ không teo cái kia đâu mà sợ. Loại này có tên “Trường thọ cho thằng cu”. Cậu đã từng nghe chưa, có hiểu nghĩa của nó là gì không?
    - Chả cần.
    - Hà... Thế thì hỏi cậu: ông giáo nhà mình lâu lâu lại có bài thơ đăng báo, cậu thấy như thế có vui không?
    - Tất nhiên rồi.
    - Có đáng sống không?
    - Anh hỏi lạ...
    - Rất tiếc... Ông giáo nhà mình lại chẳng sống được bao lâu nữa!
    - Anh thì cứ tam thiên chi địa!
    Hắn chặn vặn luôn sau lời quở chồng của vợ gã chạm:
    - Sao anh lại nói thế?!
    - Này - gã chạm đâm đầu về phía hắn - chiều qua ổng tới đây chọn một cái bia trơn.
    Thoáng một thiếu nữ qua đường, hắn ngó ra, tạt ngang lời gã chạm:
    - Chao ôi, con bé... Con nhà ai mà xinh!
    - Bình tĩnh. Cậu cứ ngồi đó, chốc lại có má hồng lướt qua thôi, tha hồ ngắm. Mà cậu nói con bé vừa mới đạp xe qua đây phải không? Con bé Xíu chỗ mình hay uống cà phê chứ ai.
    - Không phải!- hắn đập đùi - Trời ơi, bác cứ lo chạm, có nhìn ngó gì đâu. Con Xíu chả nhẽ tôi lại nhầm.
    Gã chạm phá lên cười:
    - Tưởng chỉ ông giáo lẩm cẩm. Này cậu, giả thử con bé Xíu mai mốt nó thuộc về cậu, khi đó cậu uống ly cà phê có ngon nữa không? Cậu mang tiếng là một đứa con của nghệ thuật mà chẳng dễ thương chút nào cả. Bông tala chỉ đẹp giữa vùng đồi Ximlê - câu đó là của cậu đấy nha.

    Hắn chùi mắt. Quả là rượu của gã chạm chỉ dùng để nhâm nhi chứ không nhậu được thật.
    - Mà chẳng sao, cậu cứ tương tư đi. Cậu biết cây tương tư chứ?
    - Biết. Hạt nó hình trái tim, đỏ như trái tim Đankô lỡ yêu.
    - Đấy - gã chạm nấc ngược, nom thật xấu - như thế là cậu đã và đang nhận thức được sự yêu rồi đấy.
    - Hư...
    Gần hai năm qua, hắn chỉ biết đến cái quán bé tẹo của lão già cọm rọm có tới sáu ả vịt giời, chỉ dăm chục bước chân là tới. Mỗi sáng ông ta bán không quá hai chục ly cà phê và trà đá. Khách, xích lô xe thồ có, thợ xây có, nhà giáo có. Ông giáo hắn quen chuyên uống cà phê sáng ở quán nàng từ thời bao cấp cho tới khi cha nàng chết vì tai nạn trong một lần đi xay cà phê... Quán nàng nghỉ bán một thời gian, ông giáo tới uống cà phê chỗ hắn; rồi quen hắn, sáng nào cũng có thơ mới đưa hắn xem. Thơ ông giáo phần nhiều áp dụng phép tính nhẩm của các cháu lớp 1. Báo chí giờ kể ra cũng bình dân đối với thơ. Thành ra ông giáo mới có cớ để in thơ thành tập. In ra tức thì có kẻ chặn ngay ngưỡng nhà xuất bản mời vào dịch vụ điểm sách. Hắn đã được đọc bài bình tập thơ của ông giáo trên tờ Cuối tuần hẳn hoi. Xong hắn đưa cho gã chạm. Gã chạm mê tít thò lò, cái đầu quả dứa như hói đi một ít tóc, thắc mắc sao ông giáo không đề tặng gã một cuốn. Hắn phát tấu liền:
    - Khỏi cần. Toàn bộ tập thơ của ông giáo chỉ được có mấy câu người ta trích ra trong bài đó thôi!
    - Chà... - gã chạm chặc lưỡi - thế thì tay viết bài này tinh tường thật đấy, nhở.

    Hắn thấy thương ông giáo. Hắn không trách thơ ông giáo dở, bởi năng lực thơ phú của ông giáo chỉ dừng lại trên mặt những tờ báo địa phương. Chỉ chừng đó thôi cũng đủ để ông hư hao mình đi gấp nhiều lần nếu so với hàng tháng trời ông thức khuya dậy sớm soạn giáo án, chấm bài thi cử. Đúng vậy, cả sáng ông giáo ngồi bên hắn nom già đi mấy tuổi. Ông mách với hắn là có bài thơ đăng ở số báo xuân của tỉnh sắp phát hành; ông hứa sẽ kiếm cho hắn một tờ. Hắn vui nhưng chỉ ậm ự khi thấy nàng. Ông giáo chỉ theo:
    - Cha nó là bạn thân của mình.
    - Thế à... - hắn có vẻ ngạc nhiên.
    - Nó đến nhà mình chơi suốt đấy chứ. Nó học cùng với con bé nhà mình mà. Con bé nhà mình cũng được tính được nết lắm.
    - À...
    Hắn châm điếu thuốc vội vàng. Nếu chỉ có gã chạm ngồi cùng, dứt khoát hắn sẽ bình phẩm đôi câu về gái gú. Gã chạm nom thế chứ cũng tơ lơ mơ lắm. Uống vô vài ly là xách xe chạy tứ tung thành phố. Chắc chắn trong mươi lần gã chạm bảo với vợ tới nhà ông giáo chơi thì có ít nhất một vài lần gã tạt vào hiệu gội đầu - mát xa nào đấy. Nhà hắn nằm khoảng giữa nhà ông giáo và gã chạm theo chiều quốc lộ. Từ chỗ hắn xuống nhà gã chạm chỉ có một địa chỉ đáng chú ý là quán cà phê nàng. Còn từ nhà hắn tới ông giáo thì có khá nhiều địa chỉ. Tính sơ sơ cũng đã năm hiệu cắt tóc trá hình. Ban văn hóa xã kể cũng nhu nhược trong vấn đề quản lý bằng cách cắt điện tất cả các hiệu cắt tóc đó. Không có điện thì đã sao? Chúng nó thắp nến, nom vào lại lãng mạn, lại dễ bề bưng bít mọi chuyện. Gã chạm thì chả bàn làm gì; điều hắn băn khoăn là mỗi lần qua đoạn đường này, ông giáo có vào mấy bận để lấy cảm hứng yêu thơ?

    Nhà ông giáo nằm trên khu đất thuê của nhà thờ họ Nguyễn Thanh từ trước giải phóng, mỗi tháng độ trăm ngàn. Đến nay giá đất đã tăng lên, nhưng họ muốn lấy lại cũng khó, muốn tăng giá cho thuê cũng khó nốt. Mà họ không thương lấy con cháu thì thương ai đây? Nhất là con cháu có hiếu đạo; nhất là ông giáo - người chuyên trách làm văn tế, thảo đề cương lễ lạt cho họ thường niên. Họ có trở mặt cũng phải đợi ngày ông giáo đi xa. Cứ nghĩ đến thế là hắn lại thương ông giáo. Đời người có hạn. Cứ cho ông giáo sống thêm vài chục năm nữa thì sau vài chục năm ấy, vợ và đứa con gái ông giáo vốn là bạn thân thiết của nàng vẫn ngay ngáy lo. Họ lấy lại lô đất đã lòi mặt tiền. Thất thế là chỗ đó: giá đứa con gái ông cũng biết chút văn vẻ để thảo đề cương lễ lạt cho họ. Chả trách dạo này ngồi uống cà phê với hắn, sáng nào ông giáo cũng dò số, mua số. Những hôm thấy ông giáo mua vài ba vé trở lên, hắn biết chắc ông có thơ đăng báo. Nhưng mà vé số chẳng như những bài thơ ông giáo gửi báo và hi vọng được đăng, thế nên mặt ông giáo cứ thế mà sọp đi theo từng ngày. Chưa khi nào hắn nhìn ông giáo dò số để khám phá những nét quằn quại trên khuôn mặt vốn dĩ đã âm u ấy, mà người trong cuộc cứ ngỡ hồn thơ của ông sắp chết!

    Hắn đứng trước gương tủ, thử ướm mình bên một bóng giai nhân ảo. Hình như lần nào đó hắn có nghe nàng gọi hắn bằng chú thì phải. Ờ...

    - Không sao đâu! - gã chạm tưởng khù khờ mà biết rành rành tâm lý của hắn - Già hay trẻ chỉ phụ thuộc vào sinh lực khí thôi. Mà cái đó thì chỉ vợ chồng mới biết được của nhau.
    - Tào lao quá. Em thấy vợ anh cũng giỏi chịu đựng đấy.
    - Chú nói thế là sai bét. Vợ ông giáo nhà mình biết chi đến thơ. Có dạo bà còn sai con lên tòa soạn chẹn tiền nhuận bút của chồng cơ đấy. Nhưng gia đình ông giáo vẫn sống êm thuận, có sao đâu. Hà... Đùa tí cho vui thế thôi, chứ thực tế ông giáo nhà mình tội thật đấy. Hôm trước ông tới mình chọn một cái bia trơ... À này, hay là cậu làm quách rể ông giáo đi. Đứa con gái ông giáo cũng khá ra phết đấy!

    Mùa xuân rây mưa bụi giữa khoảng không, tưởng chừng như chẳng thể chạm tới mặt đất. Mưa tung tẩy vào thi ca những nốt nhạc tháng năm, gọi ngày xưa dạt về bến vắng. Quán cà phê nàng nhộn nhịp khách lạ. Bây giờ mới rõ, đa phần số khách vào uống cà phê mỗi sáng ở quán nàng là công nhân nhà máy sợi. Cuối năm, nhiều người đã khăn gói về quê cũ. Hắn thương người mẹ gầy khô mong ngóng con về ăn hột cơm từ bàn thờ hạ xuống chiều 30. Cũng vì chuyện về hay ở mà hắn đã nạt nộ thằng bạn. Nó giận, về từ chiều 25. Căn nhà càng trở nên lạnh lẽo, thâm u. Hắn nhớ hồi chưa biết tới quán nàng, sáng nào hai thằng cũng ra ngồi ở cái quán chỉ đặt hai bộ bàn ghế mà đến nay ông chủ của sáu ả vịt giời kia vẫn nhắn hắn hoài. Thế rồi từ ngày hắn theo ông giáo đến với nàng...

    - Ừ thì mày về. Về gặp ai cứ bảo là mày với tao, hai đứa đã lâu không gặp nhau. Còn ai có hỏi đến việc làm thì phiền mày nói hộ rằng tao đã đi làm, lương đủ nuôi sống bản thân.

    Thật tội, trước lúc về thằng bạn hắn có mua cho hắn hai lít rượu ngon, một mớ cá rô phi thả vào cái chậu lớn, một gói thuốc Jet. Hắn trở về chừng chập choạng, chân nam đá chân chiêu nhưng vẫn nhận ra mọi nhẽ. Mắt hắn bỗng đục ngầu như thú dữ...

    Hắn buồn lắm. Đã tỉnh mà chẳng muốn dậy, chẳng muốn đi uống cà phê. Nghĩ đi nghĩ lại, nghĩ sao cũng thấy mình như người vừa phạm một sai lầm lớn. Nàng... Thì ra quán nàng ngồi vậy. Ngồi mà ngẫm sự đời, quên phiền muộn. Ai lại đi lệch hướng với mùa xuân bao giờ. Hắn tự ai ủi mình trong tư thế của kẻ vừa thực hiện xong nghĩa cử của một người chồng đối với vợ trẻ.

    Gã chạm đã tới ngồi chỗ hắn thường khi. Gã cười tươi như một bông hồng đã nở xòe hết cánh.
    - Hôm qua không thấy cậu, mình cứ tưởng cậu đã về quê. Thế cậu không định về à?
    - Chưa.
    - Vậy thì hơi liều đấy. Mình thấy chuyến xe nào cũng chật cứng người rồi.
    Hắn tự dưng phát cáu:
    - Không có xe thì ở lại!
    Gã chạm nhìn hắn bằng con mắt ti hí, cứ như hắn đang tạm trú trong nhà của gã vậy.
    - Xíu ơi, lấy cho chú mấy điếu thuốc.
    Đấy, rõ ràng gã chạm không muốn mời hắn tới tất niên, và đương nhiên là không muốn đón hắn vào những ngày mùng...

    Nàng bước ra. Tay trái cầm cái đĩa đựng năm điếu thuốc. Vẫn đôi mắt đen hun hút cõi tình. Mà sao như là có cái gì đó đang rung rinh, lã ngã trong bộ đồ quen thuộc. Hắn chuyển hướng sang gã chạm. Gã đang cười với nàng. Nụ cười sao mà lẳng lơ, sao mà coi thường khuôn mặt Thượng đế đã dày công kiến tạo. Ôi Trời, nếu như không có ông giáo lếch thếch trong bộ đồ ngủ bước vào thì hắn đã nhổm đít, và rất có thể là tếch lên chuyến tốc hành nào đó. Hắn sẽ quên mảnh đất này, quên gã chạm, quên nàng...
    - Chiều đến chơi nghe! - ông giáo đặt ghế, mời hắn thân thiện.
    - Dạ... có gì vui thế ạ?
    - Ờ, thì ta làm vài ly, gọi là tất niên. Cả chú nữa - ông giáo chỉ tay qua gã chạm - đến nghe! Nhớ đến nghe!
    Hắn thả khói thuốc đậm đặc, che khuất một phần cổng nhà máy sợi. Mắt hắn cứ chòng chọc về nơi đó, nơi mà công nhân đã ra vào thưa thớt. Nơi chân dung nàng hiện hữu với đầy đủ sự toàn bích thượng tầng. Đấy là khoảnh khắc mờ sáng một ngày cuối năm hai ngàn linh ba. Lúc đồng loạt có dăm bảy chiếc xe máy rồ ga vào quán, đèn còn đỏ rọi vào hàng ghế trong cùng.
    [/FONT]
     
  17. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Miền cỏ tơ[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dương Thu Hương[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trân bỏ thêm một cành củi khô vào đống lửa. Một nhành trầm bầu còn dính những chiếc lá lăn tăn khô xác. Ngọn lửa liếm vào cành trầm bầu, hực lên liền. Thứ cây này đốt thiệt dư. Xung quanh anh, trên cái nền nhà trống, trên lối cát và miệt vườn hoang đằng kia còn rải rác nhiều củi. Có thể đốt suốt đêm nay cũng không hết. Trận bom cuối cùng trước ngày hoà bình đã phạt trụi những rặng trầm bầu. Cành lá chúng rơi xuống, gió thổi khô đi, còn mãi cho đến giờ.

    Trân biết rõ những cây trầm bầu đó từ hồi thơ ấu, anh cúi nhặt chiếc que sắt dưới chân, cời lửa: đó là chiếc que thông nòng đã cong queo, không biết ai bỏ lại. Lòng tro rỗng thành một khoảng trống, gió lùa vào và ngọn lửa bốc lên. ánh lửa soi lên mặt anh, ánh lửa lay động trên khoảng đất làm trống trải, trên những lùm lá sòi dại và vài ngọn rau dừa còn sống sót. Cuối cùng, ngoài xa kia - nơi luồng ánh sáng rực rỡ chỉ còn là những làn sóng mờ run rẩy là một mái nhà tranh nằm im lặng, mảnh tôn ghép tường chốc chốc lại rạng lên một lằn trắng chập chờn.

    Từ căn nhà ấy một đứa bé tí tơi phía anh, tay nó cầm cây đèn sắt.
    - Thưa chú, cho con xin chút lửa.- Lại đây.Thằng bé đến gần, chìa cây đèn ra. Trân châm lửa cho nó.
    Giờ dữ quá, ngọn lửa tắt mấy lần. Ðèn cháy rồi, thằng bé lư phép chào anh:- Con xin cảm ơn chú.Một tay khum khum che cổ đèn, nó thận trọng đi về phía nhà mình. Trân nhìn theo, anh nhận thấy dáng điệu của đứa bé thật cẩn trọng và khôn ngoan. Nó gầy, mặc chiếc quần đùi ngắn cũn cỡn. Hình như nó có một mụn ruồi nơi đuôi mắt trái, anh thoáng nhận ra điều đó khi ngẩng lên đưa lại cây đèn... Một đứa con trai! Trân bóp cánh tay cụt và nhìn ngọn lửa nhảy nhót.

    Một đứa con trai! Anh đã từng có một đứa con trai đứa con trai lanh lợi, có làn môi đỏ au và một mụn ruồi nơi đuôi mắt phải. Nó thường mặc quần cụt màu mận tím và chiếc áo thun xanh kẻ sọc.

    Khi vợ Trân còn chung tình với anh, đứa con nhỏ thường đeo lấy cổ bố và nói những lời ngọt ngào. Gian nhà nhỏ tối om vì tắt hết đèn chỉ có tiếng đứa con nhỏ và lời thầm thì của người vợ vang lên. Chốc lát người mẹ lại bảo đứa con:
    - Khẽ chứ, khẽ chứ, ông kẹ (1) bắt bây giờ...
    Nhưng ông kẹ cũng không làm cho đứa trẻ sợ hãi, nó ôm chặt lấy cổ bố ríu ran. Thật là một điều lạ lùng, những đứa con sớm xa bố thường ít chịu nhìn nhận hoặc bày tỏ tình cảm với cha chúng. Nhưng con anh càng xa cách nhiều lại càng nồng nhiệt trong những giây phút gặp gỡ hiếm hoi. Phải chăng trong đầu óc non nớt của nó, đã sớm có những ý thức về tình phụ tử. Cũng có thể ngay từ buổi ban đầu, giữa hai cha con đã nảy sinh một mối tương giao khó giải thích. Trân thường ôm con vào lòng, sờ nắn chân tay, áp khuôn mặt nhỏ bé vào mặt mình, ngửi mùi thơm da thịt, hít hơi thở thân quen của đứa trẻ. Ðôi lúc ánh đèn bên ngoài lại lọt qua khe cửa soi vào mặt thằng bé và Trân lại nhìn thấy đôi mắt long lanh của nó với mụn ruồi, mụn ruồi xinh xẻo nơi đuôi mắt phải.
    - Ba ơi, bao giờ ba lại về?...
    Thằng nhỏ áp miệng vào cổ anh nói thầm, tay nó lùa lên tóc cha gỡ những mảnh đất khô. Trân ôm con, xoa tấm lưng gầy của thằng nhỏ. Tay anh lần từng đốt xương sống rồi vuốt ve mãi cặp mông bé tí teo...

    Vợ Trân đã bỏ anh. Ðó là một người đàn bà xinh đẹp mà suốt thời trai trẻ anh say mê. Cô ta tuy gốc gác là gái quê nhưng rất trắng. Khuôn mặt khả ái, cặp mắt một mí có làn mi cong, đôi môi chín mọng lúc nào cũng như he hé mở. Hồi còn con gái, cô cũng yêu Trân đắm đuối. Hai người sung sướng mà lấy nhau, không một chút đắn đo, như mọi lứa đôi khác ở cái tuổi hai mươi và nghĩ rằng tình chồng vợ sẽ bền chặt đến chọn đời.

    Mấy năm đầu tiên khi Trân đi hoạt động, mọi sự vẫn như thường. Một hai tháng anh lại tạt về nhà, cô vợ chuẩn bị sẵn cho chồng dăm tút thuốc với nửa cân đường phèn. Lúc chia tay hai người bịn rịn đến cả giờ đồng hồ không thể rời nhau. Nhưng rồi Trân phải đi xa. Và cuộc sống có nhiều biến động mới. Thôn làng anh đã thành thị hoá. Ðất đai, vườn tược biến mất, chỉ còn một vành cát trắng trơ trụi. Dân làng, những người không đi theo cách mạng lên xanh hoặc không bị bắt lính đều bạt ra các thị trấn làm ăn. Vợ anh xin được môn bài bàn hàng tạp hoá, cô mở tiệm và dần dần khá giả. Ðầy đủ, an nhàn, cô trẻ đẹp lên nhiều, có phần còn mỡ màng hơn hồi con gái. Vợ Trân để kiểu tóc khác xưa, mặc những bộ quần áo tân kỳ. Tụi sĩ quan và lính tráng Ðông Hà gọi cô chủ tiệm đồ tạp hoá là: Nàng búp bê Nhật Bổn. Chúng lượn quanh nàng như những vệ tinh.

    Thế rồi, việc gì đến nó sẽ tự đến. Tên thiếu tá an ninh mê vợ Trân. Y ba mươi hai tuổi, gốc người Huế, đẹp trai và lịch lãm. Cô vợ Trâm chống cự không nhiều nhặn gì lắm và thực tâm cũng có ưng thuận y. Một bên, là người chồng đi biền biệt hàng năm không thấy về, mặt mày hốc hác, áo quần đầy bụi đất hôi hám. Một bên, là người tình trẻ đẹp, lịch sự hào hoa, đầu tóc mượt mà thơm nức, luôn luôn đến và đem theo mọi thứ chiêu đãi vật chất cũng như tinh thần. Một bên, là những kỷ niệm của tình đầu trong trắng, tuy êm đềm đẹp đẽ nhưng đã lùi vào quá khứ xa xôi. Một bên, là những đam mê sôi sục, đầy ma lực gắn liền với những đòi hỏi cấp thiết trong đời sống hiện tại...

    Ngọn lửa đã thôi reo phần phật, nó chỉ còn cháy lom đom. Những cục than hồng phủ một lớp tàn trắng mịn. Trân đứng dậy lượm vài cành củi khô xếp lên và thổi cho bếp lửa bùng cháy. Anh rất thích nhìn ngọn lửa đỏ rừng rực, hắt lên một quầng sáng ấm áp và vui tươi. Những năm ở rừng anh đã quen đốt lửa vào những đêm đông và cả những đêm hè. Từng thân gỗ to một người ôm chụm lại, chúng cháy từ chập tối tới mờ sáng tinh mơ mới hết. Trân thường ngồi một bên, lâu lâu lại đẩy củi vào, ngọn lửa nhảy múa trước mặt anh, tạo thành những hình ảnh và màu sắc kỳ lạ, Khi thì nó có màu đỏ, khi vàng, khi gần như trắng. Ðôi khi ngọn lửa có cái lõi màu lam. Lúc đó anh biết rằng trong đám tro có lẫn một chiếc vỏ đạn đồng.

    Kể từ ngày giải phóng đến hôm nay anh mới lại được ngồi trước một đống lửa, trong cái đêm yên ả như thế này.

    Có người nào đó đang đi tới từ phía căn nhà nhỏ trước mặt Trân. Một người đàn bà. Trong ánh lửa chập chờn trông thân hình chị như bị vuốt dài ra. Những nếp áo dưới luồng ánh sáng mờ rung rinh vây phủ trở nên óng ánh như may bằng một thứ nhung tơ. Người đàn bà thon thả bước, mỗi lúc nhìn chị một rõ hơn. Ðó là một phụ nữ trạc ba mươi tuổi, dáng mảnh dẻ nhưng rắn chắc. Chị mặc một chiếc áo xanh, màu xanh lá khiến Trân có cảm giác như chị bước ra từ một khu rừng chứ không phải từ một thôn đã bị tàn phá trơ màu cát trắng.
    Người đàn bà bước đến trước mặt Trân, cúi đầu lư phép nói:
    - Xin anh châm giùm chút lửa.
    Chị chìa cây đèn sắt nơi tay ra. Ðúng là cây đèn của thằng nhỏ mặc quần cụt. Như đoán được ý nghĩ của Trân chị nói thêm:
    - Trời gió dữ quá, cháu nó mang đèn về đặt vội lên bàn thiên nên tắt rụi ngay.
    Giọng người đàn bà êm dịu, và cách nói của chị thật dư nghe. Trân cười tự nhiên, cầm lấy cây đèn:- Có sao đâu, chị đưa tôi châm cho.
    Anh lấy cái vỏ mía khô quắt châm lửa vào tim đèn. Sợi bấc bén cháy ngay nhưng ngọn lửa bị gió thổi bạt đi, lắt lay như muốn tắt. Trân khum khum bàn tay che gió, chờ cho ngọn lửa bốc thật to mới đưa cây đèn cho người đàn bà.Lúc ngẩng lên anh thoáng đưa mắt nhìn chị. Một gương mặt xương gầy nhưng rạng rỡ, cặp mày dài và đen. Những sợi lông tơ trên má rung động khi chị cười.- Cảm ơn anh nghe, không có anh, lại phải xách đèn bão lên xóm trên xin lửa.Trân cười xoà, qua hạt lửa vàng thắm của ngọn đèn anh thấy đôi mi người đàn bà hạ thấp, chị chưa dám một lần nhìn thẳng vào mặt anh. Người đàn bà chào Trân và quay đi. Bóng chị mỗi lúc một nhỏ dần trên lối cát. ánh lửa như một đợt sóng lan mãi ra xa rọi lên làn áo xanh và những nếp lụa bay phần phật trên tấm thân rắn chắc của chị.Trân khơi chiếc que thông nòng vào đống lửa. Mấy vành củi khô bén nổ lép bép, ngọn lửa vụt bốc cao soi rõ bóng của người đàn bà trước khi chị rẽ ngoặt vào ngôi nhà tranh. Ngọn lửa soi vào mặt kính chiếc đồng hồ đeo tay của Trân: đã tám giờ mười lăm rồi. Trân bỗng thấy mệt mỏi, anh rút tấm ni lông trong ba lô ra trải và nằm xuống. Trời trong suốt, đầy sao. Những ngôi sao toả ra một thứ ánh sáng tương phản với màu lửa đỏ, một thứ ánh sáng sắc nhọn lấp láy, có màu xanh như lá mạ non. Trân không thuộc hết tên sao. Hồi bé, có đôi lần cha anh chỉ cho biết những chòm sao tua rua, sao thần nông, con vịt trời... và dạy cách đoán thời tiết. Những điều cha anh bảo Trân đã quên rồi, lớn lên là anh đi đánh giặc. Những kinh nghiệm chiến đấu đã thay thế cho những kinh nghiệm mùa màng. Bây giờ, anh nằm nhìn vòm trời rờ rỡ ngàn vạn ngôi sao. Những vì sao. Những vì sao. Chúng ở xa con người đến thế. Nào ai có thể biết được ngôi sao nào nuôi sự sống và ngôi sao nào mang luồng khí độc của tử thần. Ðến con người, con người ở một bên ta mà... Trân bỗng thở dài, anh chợt nhận ra mình đang quay lại với nỗi bi thảm riêng tư. Vợ anh đã phản bội anh. Ðứa con trai của Trân hiện giờ ở đâu?... Một người cùng phố kể rằng nó không chịu gọi tên thiếu tá nguỵ là ba, nó cũng không khi nào nói chuyện với mẹ. Vợ Trân phải gửi nó cho một trường nuôi trẻ lưu trú ở Huế. Ngay sau ngày giải phóng anh đã đi tìm con, suốt ba tháng ròng không ra manh mối... Vợ anh đã bỏ đi Mỹ với tên thiếu tá nguỵ đẹp trai. Bỏ đi không một lời. Ðôi lúc Trân nhớ lại những hình ảnh sinh động của cuộc sống trước kia, anh vẫn tự hỏi mình: Vì sao anh yêu cô ta đến thế? ... Một người bạn gái cùng quê hương, một thiếu nữ xinh đẹp có sức hấp dẫn bất cứ chàng trai nào đến tuổi yêu đương, một người đàn bà thân thể đầy sinh lực và sự khêu gợi... Có thể là như thế... Nhưng còn một điều ngoài tất cả những yếu tố đó, một điều lớn lao trọng đại mà ở tuổi hai mươi và ở trong hoàn cảnh sống bình thường anh không thể nào biết được. Ðiều lớn lao nhất trong mỗi người đàn bà, chỉ có qua cuộc chiến tranh này ta mới hiểu được mà thôi.

    Trân nghiêng mình lại, anh đẩy mấy cành củi vào đống lửa cho khỏi tắt. Xung quanh anh, những mảnh vườn trống, những nền gạch vỡ lô nhô, bóng vài bụi trâm bầu thấp lè tè như những chiếc nấm. Một chiếc lon đồ hộp lăn lóc giữa lối đi, thỉnh thoảng lại sáng loé lên vì ngọn lửa hắt vào. Xóm làng bây giờ còn có vậy. Mảnh đất mà anh đang nằm đây ngày xưa là ngôi nhà bà gian của cha mẹ anh. Phía trước nó có một vườn đào tiên với hai dãy cau chạy dọc theo hai bên cổng. Giờ đây cây cối đã cháy rụi, chỉ còn trơ cái nền gạch bị nạy loang lổ với khúc đà gỗ cháy sót đen sì. Dân làng tan tác đi các ngả giờ mới lác đác rủ nhau về. Ngoài gian nhà tranh của mẹ con người đàn bà mặc áo xanh còn dăm bảy nóc nhà đó hắt ra le lói. Nhà riêng của vợ chồng Trân trước cũng ở xóm đó, bây giờ có lẽ cũng chỉ còn lại cái nền, nhưng Trân không muốn đến thăm, có lẽ vì nó sẽ lại nhắc cho anh những kỷ niệm đắng cay.

    Ðêm chợt vang lên những âm thanh lao xao, nhè nhẹ. Rồi có tiếng chân bước. Trân ngẩng đâu lên anh thấy thằng bé bận quần cụt đang đi đến, tay nó ôm một bọc gì đó trước bụng. Thằng bé đến bên Trân, nhoẻn miệng cười, nó quỳ xuống và thả hai vạt áo. Một mớ khoai rơi xuống, lăn lóc trên mặt đất. Những củ khoan của miền quê Quảng Trị, tròn và có lần vỏ dày màu tím đỏ. Trân ngồi nhỏm dậy, kéo thằng nhỏ lại. Nó ngồi xuống một bên bẽn lẽn nói: - Má con nhủ đem mấy củ khoai sang, chú lùi ăn cho vui.
    Trân thoáng ngỡ ngàng một chút, rồi anh gật đầu:
    - Cháu ở đây với chú, tai lùi khoan cùng ăn chơi.
    - Dạ, nhưng má con dặn đem khoai sang cho chú rồi về.
    - Nếu vậy chú không nhận đâu, ăm một mình buồn lắm.
    Thằng nhỏ ngồi im, chần chừ. Trân nói thêm:
    - Rồi chú nói với má cho, má không la đâu.
    - Dạ...
    Ðứa bé vừa cười vưa thở một hơi dài nhè nhẹ. Nó yên tâm co chân ngồi bệt xuống cát, hai tay ôm vòng lấy đầu gối.
    Trân lấy que sắt cời than ra dàn thành một lớp mỏng, anh phủ tro lên rồi xếp khoai trên đó, những củ khoai đặt so le rục đầu vào nhau rất khít. Xong xuôi Trân lại rải tro và than lên. Lớp than và tro nòng vun cao như một đống nấm nhỏ.
    - Giờ thì xong rồi đấy, ta chỉ cần ngồi chờ khoai chín thôi.
    Trâu bảo chú bé. Anh móc bao thuốc trong túi áo ra ngửi, mùi thuốc thơm nồng bốc lên dư chịu. Bao thuốc để trong người, lúc nào cũng âm ầm. Trân rút điếu thuốc, anh không đưa lên miệng ngay mà châm vào một hòn than đang cháy. ống tay áo bên trái vẫn gài vào túi bỗng rơi thõng ra. Chú bé theo dõi Trân, mặt nó hiện lên sự sửng sốt. Có lẽ bây giờ nó mới nhận thấy anh chỉ còn có một cánh tay. Trân không để ý đến điều đó, anh rít một hơi thuốc, khoan khoái thở ra những làn khói trắng. Gió ngoài mạn biển thổi vào càng về đêm càng mát lạnh, nó làm dịu đi những nỗi đau và thức dậy những hy vọng xa vời.
    - Này, cháu lên mấy tuổi?
    - Cháu lên bảy.
    - Cháu đi học chưa?
    - Dạ, cháu học ở nhà thôi, má cháu bày...
    Chú bé trả lời Trân và liếc nhìn anh với cái vẻ mỗi lúc mỗi ái ngại và tò mò. Thấy Trân duỗi dài chân, lăn mình trên mảnh nilông nó ấp úng hỏi:
    - Chú... chú định ngủ ở đây sao?
    - ừ, chú ngủ ở đây.
    - Chú không có nhà à?
    - Không, chú không có nhà.
    Trân thong thả trả lời.
    Chú bé xây mặt đi. ánh lửa in lên cái cổ mềm mại của nó một vệt hồng hồng. Xưa kia, ánh trăng đã từng lọt qua khe cửa và in lên gáy đữa con trai anh những vế sáng màu ngà... Những vệt sáng in lên làn da non nớt của trẻ thơ, sao dịu dàng, sao rụng động trái tim con người đến thế?

    Chú bé vẫn đăm đăm nhìn đống lửa, nét mặt trở nên trang nghiêm. Chợt nó quay lại:
    - Chú không sợ cảm hay sao? Má cháu bảo ngủ ngoài trời dư bệnh lắm.
    - Không, chú không sợ, chú quen rồi.
    Trân trả lời, giọng khàn khàn. Anh bỗng cảm thấy một cái gì đó, gần như sự mủi lòng, làm cay sống mũi. Ðã từ lâu rồi, anh chưa được nghe lời hỏi han chằm bặp của một đứa trẻ.
    Thằng bé ngồi nhỏm dậy, nhìn anh:
    - Ðừng, không quen được đâu. Ba cháu đó, khoẻ gấp năm lần chú mà cũng đau chết, má cháu bảo chết vì ngủ rừng nhiều.
    Nó hạ giọng thầm thì:
    - Ðêm. ở ngoài trời có con ma mặc áo trắng đi lang thang, nó tìm bắt những người không nhà cửa...
    Trân kéo thằng bé lại bên mình, dịu dàng xoa tóc nó:
    - Ai nói chuyện tầm bậy đó, má cháu hả?...
    Cháu bé lắc đầu quả quyết:
    - Không tầm bậy đâu, thiệt đó mà... Chú không nghe rồi chú lại chết mất như ba cháu thôi.
    Rồi nó nhìn anh với vẻ lo ngại chân thành. Ðôi mắt nhỏ phản chiếu ánh lửa ngời lên như nước, những sợi mi thưa, mảnh in bóng lên bờ mắt khiến gương mặt thon thon của đứa bé càng giống hình ảnh của một ông hoàng tý hon nào đó lạc trong những cuốn truyện thần tiên.

    Ðống lửa vẫn cháy rừng rực, thỉnh thoảng những tàn lửa vụt bay lên như những vì sao đỏ, chúng vội vã cháy rồi vội vã tắt trước khi rơi xuống. Trân liếc nhìn mụn ruồi nơi đuôi mắt phải của chú bé. Anh hỏi:
    - Ba cháu đâu?
    - Ba cháu chết rồi mà, cháu vừa kể cho chú nghe thôi.
    Chú bé trả lời anh, giọng trách móc.
    - ừ... à à, thế mà chú quên - Trân cười xí xoá - Ba cháu làm gì?
    - Ba cháu lên Xanh - Thằng bé nói rành rọt - Ba cháu đi đánh Mỹ bị chết vì sốt rét. Má cháu bảo tại bà ngủ rừng nhiều. Ba cháu chết hồi cháu mới được hai tháng, cháu chưa biết mặt ba đâu.
    - Thế má chau khi đó làm chi?
    - Má cháu làm cấp dưỡng cho đơn vị của chú Sáu. Giải phóng rồi nội nhủ má con cháu về đây.
    - Thế trước nhà cháu ở đâu?
    - Ở Quảng Nam, ở đó quế nhiều lắm chú à. Dưới biển họ đem khô cá chuồn lên đổi quế.
    - Ba cháu quê ở đây hả?
    - Dạ, ba cháu quê đây.
    Ra thế, ba chú bé là người đồng hương với anh, còn mẹ chú là người Quảng Nam, giọng nói của chú bé pha trộn âm hưởng của cả hai xứ sở. Chú bé đã theo mẹ trở về quê cha.

    Trân thoáng bâng khuâng. Anh biết rằng rất ít người đàn bà chồng chết rồi mà còn đưa con về quê nội. Nhất là quê anh, một vùng đất dữ dằn, gió nóng, cát bụi, đất đai cằn cỗi. Người đàn bà áo xanh phải có một tình yêu thuỷ chung và sâu sắc lắm mới có thể quyết định như vậy. Chị đưa con về đây, cho nó sống trên mảnh đất này, ăn củ khoai cha nó đã từng ăn, uống ngụm nước cha nó đã từng uống, dưới bầu trời đầy sao của miền quê Quảng Trị. Có một người vợ như vậy thật hạnh phúc. Hạnh phúc... Trong cuộc đời riêng mọi ngươi đều may mắn hơn ta... Trân chợt nhận ra anh có một thoáng ghen tị với người đồng chí chưa quen biết đã hy sinh và với bao nhiêu bạn bè quen thuộc.

    Ngọn gió bỗng xoay chiều thổi tạt khói vào mặt Trân. Anh nhắm mắt. Trong đầu lại chờn vờn những hình ảnh cũ: Cái cổ mảnh khảnh của đứa con trai in một vệt sáng màu ngà. Hình ảnh của chính anh lang thang trên những con đường Huế, và Ðà Nẵng hết cô nhi viện này đến trường mồ côi khác, những trưa nóng nực, chói chang và ồn ào đến chóng mặt, những chiều mưa ướt, đám mây xám nặng trĩu dồn tụ nơi chân trời, anh đứng cô đơn trên hè phố, nhìn đám người giường ô đi qua...
    - Sao chú im lặng thế? Chú ngủ rồi à?
    Ðứa bé cao giọng hỏi làm Trân giật mình. Anh mở mắt. Ðống lửa vẫn cháy rất to, đỏ hồng. Còn chú bé đang chăm chú nhìn anh, môi nó tươi như màu bông trang.
    - Chú buồn ngủ chưa? Cháu bới khoai ăn nghe! Trân vùng dậy, anh ngồi tựa lưng vào chiếc ba lô con cóc:
    - Phải đấy, cháu bới khoai ăn đi.
    Chú bé nhanh nhẹn lấy cây que sắt gạt lớp tro bên trên, nó gạt rất nhẹ những hòn than đã cháy hết, chỉ còn tro tàn trắng vẫn lả tả bay lên, xộc vào mũi. Ðứa bé quay đi, hắt hơi liền hai cái rồi nhón từng củ khoai, đập nhẹ cho bụi tro bay đi, xếp lên mảng lá chuối héo mà ban chiều Trân gói đồ ăn mang theo.
    - Chú ăn khoai ạ!
    Thằng bé mời Trân, còn nó thì phủi tay vào nhau và ngồi bó gói, khuôn mặt nhò trang trọng như mặt một cụ già.
    Trân bóc khoai, anh thổi cho những ngón tay bớt nóng:
    - Cháu nghĩ gì vậy?
    - Cháu nghĩ đến chú.
    - Sao cơ?
    - Chú không có nhà, mà má con cháu thì có những hai cái nhà: Một nhà ông bà nội ở xóm Côi - Nó giơ tau chỉ cụm nhà mới dựng, đèn le lối - Một nhà ở đây.
    Thằng bé ngưng lại một chút rồi nó nói tiếp, giọng quả quyết:
    - Này, hay chú vào ngủ nhà cháu đi. Nhà cháu chỉ có hai má con, sợ lắm, đêm nào cũng phải thắp đèn.
    - Hả?...
    Trân bối rối - anh chưa biết trả lời đứa bé ra sao. Nó vẫn nhìn anh chờ đợi, cặp mắt đen mở rộng, long lanh.
    - Chú ngủ ngoài này đau bệnh chết đây. Trong nhà cháu có giường, có cả mùng vuông, thứ thiệt đẹp...
    Nó nói, như dỗ dành, Trân nhìn ngôi nhà heo hút chìm trong khoảng tối mờ với dăm bóng cây, anh bỗng cảm thông với nỗi quạnh hiu của chú bé. Nó có mẹ rồi, nhưng nó vẫn cô đơn và như anh, nó cũng cần người bầu bạn.
    - Kìa, chú?
    Ðứa bé giục giã, mắt nó dán vào miệng Trân, nôn nóng chờ đợi. Trân lúng túng, anh chưa biết tìm cách nào nói cho phải.
    - ừ, à, để chú xem đã.
    Nói xong, mặt Trân nóng lên, máu chảy giần giật hai bên tai. Chính anh cũng ngạc nhiên vì thấy mình dao động như vậy. Câu chuyện của chú bé làm xao xuyến tâm hồn Trân, nơi mà anh đã tưởng chừng nguôi lạnh mãi mãi.
    Ðứa bé vụt đứng dậy:
    - Cháu vào bảo má nghe.
    - Khoan, khoan, nghe chú nói đã.
    Trâu hốt hoảng níu tay đứa bé, hốt hoảng đến líu cả lưỡi.
    Người đàn bà xa lạ kia sẽ nghĩ gì khi đứa con tự nhiên nói lên những đề nghị kỳ quặc như thế.

    Trong thâm tâm, Trân kính trọng chị, anh rất sợ chị hiểu lầm, nhất là đối với vợ của một người đồng chí đã hy sinh.
    - Chú nói điều này nghe...
    Ðứa bé đứng lại, chờ đợi. Trâu kéo nó ngối xuống, anh tìm cách hoãn binh. - Hãy còn sớm, cháu ăn khoai với chú cho hết đã.
    - Dạ!
    Thằng bé ngoan ngoãn nhặt một củ khoai, nhưng trước khi bóc nó lại giao hẹn:
    - Chặp nữa chú phải sang ngủ nhà cháu nghe!
    Trân không trả lời, anh cắn một miếng khoai thật to, thở hà hà làn hơi nóng:
    - Chà, ngon thiệt!
    Ðúng lúc đó vang lên tiếng gọi của người đàn bà:
    - Lâm ơi, về ngủ con...
    Tiếng gọi lặp lại lần thứ hai và người mẹ đi tới. Vẫn dáng đi đẹp đẽ làm Trân sửng sốt lúc đầu, vẫn tà áo xanh trong ánh lửa soi rọi, lấp láy những ánh vàng tươi thắm.

    Trân vứt mảnh vỏ khoan vào đống lửa, luống cuống xoa tay vào đâu gói. Người đàn bà đến gần và nói:
    - Xin phép anh cho cháu về kéo khuya.
    - Dạ, chị cho cháu về.
    Trân trả lời, anh thầm mong đứa bé theo mẹ về ngay và quên đi câu chuyện ban nãy. Nhưng nó đã hấp tấp nói:
    - Khi hồi chú bảo về nhà cháu mà?
    Tim Trân đập thình thịch, anh chưa kịp thanh minh thì thằng nhỏ tiếp luôn:
    - Má ơi, chú ấy không có nhà, con nhủ chú về nhà mình ngủ cho khỏi đau má nghe!
    Người đàn bà cúi đầu xuống, môi mấp máy nhưng không thành tiếng, có lẽ cũng bàng hoàng và ngượng ngập. Trân thấy mặt mình nóng ran, anh sượng sùng cười, nửa như phân trần, nửa như chữa thẹn:
    - Thằng nhỏ ký quá.
    Hai người cùng im lặng. Và đêm vang lên tiếng gió, tiếng lửa reo phần phật, tiếng nỉ non êm dịu của những côn trùng ngoài đám ruộng khoai mới trồng.
    Lâu rồi người đàn bà cũng nói:
    - Anh định ngủ ngoài này sao? Hồi trước đánh giặc ngủ bụi ngủ bờ chi cũng được. Chứ nước nhà thống nhất rồi...
    - Không , tôi quen rồi. Vả lại đốt lửa cả đêm hơi giá cũng tan hết... Trân nói hấp tấp, anh nghe tiếng mình nói và nhận thấy nó biến đổi. Có chi ấm áp bao phủ khắp người Trân, dịu dàng và thuần khiết hơn cả hơi ấm của ngọn lửa, nó khiến anh vừa muốn chìm xuống một cơn mơ màng lại vừa nô nức và xao xuyến.
    Người đàn bà vẫn đăm đăm nhìn ngọn lửa, chị nói, giọng nhỏ và trầm, gần như tiếng thầm thì:
    - Tôi biết anh...
    Lưỡng lự một chút chị ta nói tiếp, rành rẽ hơn:
    - Tôi biết hoàn cảnh của anh, ông nội cháu kể...
    Trân cắn môi, anh nhìn chị với vẻ biết ơn và không nói gì thêm.
    Thằng nhỏ đứng lên, phủi những hạt cát bám ở đũng quần:
    - Chú về nhà cháu chứ?
    - Bữa khác, bữa khác, - Trân vội vã trả lời - Ðêm nay chú còn bận, đêm nay chú phải gác.
    Thằng bé không chịu:
    - Giải phóng rồi còn Mỹ, nguỵ đâu mà gác?
    - Còn, còn chứ, không có người gác là chúng quay lại ngay.
    Người đàn bà cúi xuống kéo tay con:
    - Cứ nói lôi thôi mãi, Lâm!
    Rồi chị quay sang Trân:
    - Tôi nhủ cháu đem mảnh tăng sang cho anh che sương ngủ tạm.
    - Thôi, tôi ngủ như vầy cũng được mà...
    Trân từ chối, nhưng người đàn bà đã cao giọng nói với đứa bé:
    - Về con, đem cho chú mượn mảnh tăng rồi đi ngủ. Sáng mai còn đi vun khoan sớm.

    Chị xoay lưng đi rất nhanh, trước khi đó ánh mắt chị lướt qua như một lời chào. Trân chưa kịp có một cử chỉ đáp lư thì hai mẹ con chị đã bước đi. Thằng nhỏ níu lấy áo mẹ, chạy gấp gấp. Còn người đàn bà bước đi với dáng điệu thanh thoát nhẹ nhàng. ánh lửa nhóng nhánh trên lần lụa xanh, biến thành một thứ màu sáng rạng rỡ, tươi non. Trân nheo mắt, ngọn lửa nhảy nhót trước mặt anh, lan toả trên đôi vai tròn trặn của người đàn bà và làm màu áo chị rực lên như một miền cỏ dậy, một miền cỏ tơ với những sợi cỏ xanh óng ánh trơn mượt - Một miền cỏ đang mọc rờ rỡ trên những vùng đai trắng quê anh.
    [/FONT]
     
  18. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Miễu Bà Chúa Xứ[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Sơn Nam[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Miễu Bà Chúa Xứ, Ðìa Gừa, Gò Mả Lạn... phải qua những chòm cây cổ thụ, những vùng lau sậy hoang vu ấy rồi mới đến nhà ông Tư Ðạt.
    Trời đã quá chạng vạng. Ánh nắng thoi thóp, đỏ khé. Trong giây phút trở sang màu tím bầm. Muỗi dậy ổ, kêu vo ve khắp gần xa. Loài ếch nhái, côn trùng bắt đầu lên tiếng, chào mừng bóng tối đang tràn ghập qua nhanh chóng.
    Cô đơn làm sao, căn nhà giữa đồng này! Gió thổi lành lạnh. Tôi rùng mình:
    - Thưa ông, cháu về.
    Ông Tư Ðạt cười ngất:
    - A ha! Ðứa cháu này sợ ma. Nãy giờ tôi quên. Vô đây, đốt thêm ngọn đèn nữa. Phải rồi, đèn lu quá! Sợ ma sao? Ở đây chơi mà!
    Tôi trả lời, ấp úng:
    - Dạ, cũng hơi sợ. Thiên hạ nói ở Ðìa Gừa, ở Gò Mả Lạn này...
    Ông Tư nói nhanh:
    - Có ma hả? Hơi đâu mà tin. Họ nói ma buông xuống lòng thòng từ cánh tay, từ bàn chơn, cái đầu rồi ráp lại. Họ nói ma ở truồng bỏ tóc xõa, đứng trên ngọn cỏ mà múa. Mình hú, nó hú trả lời. Mình chạy, nó rượt theo. Nhưng tôi nhứt quyết xứ này không có loại đó. Xứ này, cháu biết không, là xứ của ma...
    Tôi trầm ngâm suy nghĩ: Tại sao ông Tư Ðạt nhìn nhận có ma rồi bảo rằng không có? Chớ ma ở gò mả này thuộc về loại nào? Dầu sao vẻ mặt trầm tỉnh, can đảm của ông cũng làm cho tôi được yên tâm chút ít:
    - Thiên hạ đồn đãi nhiều. Cháu phải sợ theo.
    Ông Tư khêu ngọn đèn rồi vào trong đem ra một chai rượu đế:
    - Uống đi cháu. Thủng thỉnh tôi nói qua chuyện khác vui hơn... Ðồn đãi là một chuyện. Nhưng sự thật lại khác. Cái gì được người ta lặp đi lặp lại nhiều lần bằng câu hát đưa em? Vậy mà có người không hiểu rõ. Thí dụ như:
    Một mai thiếp có xa chàng
    Ðôi bông thiếp trả, đôi vàng thiếp xin.
    Tại sao đôi bông thiếp trả, đôi vàng thì xin? Không lẽ người đàn bà nước mình mang thói tham lam? Sự thiệt nó có tích như vầy: đôi bông là vật cha mẹ chồng cho nàng dâu hồi đám nói; đôi vàng là của riêng mà hai vợ chồng trẻ nhờ dành dụm sắm được lúc sau. Nàng dâu than vãn bà mẹ chồng khắc nghiệt, sẵn sàng “trả đôi bông” lại cho mẹ chồng. Nhưng nàng vẫn thương chồng – “xin giữ đôi vàng” – nài nỉ chồng cất nhà ở riêng để thoát ách. Câu hát đó cao sâu lắm! Hồi xưa, khách qua đường hễ nghe nó là hiểu được tánh tình của bà mẹ chồng trong nhà như thế nào. Bởi vậy người hát phải biết hát, người nghe phải biết nghe. Cái chuyện ma ở Gò Mả Lạn này cũng như câu hát đó. Lâu ngày, thiên hạ không hiểu, họ nói xàm, làm mất phẩm giá người đời xưa rồi đâm ra sợ sệt vô lý. Chung quanh nhà này có ma thiệt...
    - Ghê quá vậy ông!
    - Phải! Ðó là hồn oan. Mình phải thấy rõ họ, mình phải thương họ. Thường bữa, họ tới lui, muốn làm quen với mình nữa. “Sự tử như sự sanh, sự vong như sự tồn” mà...
    o0o
    Non 80 năm về trước, hồi đó ở tại Gò Mả Lạn này xóm nhà đông đúc hơn bây giờ. Họ sống về nghề ruộng rẫy, giăng câu, bắt rắn. Giặc Tây đến. Chúng đóng binh ở ngoài huyện Kiên Giang. Binh sĩ của ông Nguyễn Trung Trực lén kéo về châu thành để công kích. Dân chúng nghe tiếng súng, nửa mừng nửa sợ. Tới một đêm đó, nhiều loạt súng nổ chát chúa ngay đầu xóm, tại Ðìa Gừa.
    Không ai dám bước khỏi nhà. Họ đoán rằng có người bị giết và tiếng súng sát nhơn nọ là của Tây. Sáng hôm sau, vài người bạo dạn ra dò xét. Họ kéo mấy cái thân người dưới đìa đem lên, chôn chất kỹ lưỡng gần bờ thềm.
    Từ đó, đêm nào đêm nấy giống nhau. Cứ quá nửa đêm dân chúng phải cắn răng, nuốt lệ mà nghe súng nổ. Khi thì nghe tiếng kêu rú. Khi thì nghe thêm tiếng chim bay.
    Nước dưới đìa lần lần đen ngầu, hôi tanh. Cỏ bên bờ ngày một cao vì dân làng không còn ai lui tới để gánh nước như trước. Trong khi đó, con đường từ thềm đìa ra ngoài lộ cái trở nên mòn lẵn vì dấu chân của bọn đao phủ Tây tà và của những nghĩa quân, lương dân vô tội từ nơi xa lạ dẫn tới.
    Dân làng quá đỗi hiền lương, hằng đêm, họ thức để chờ nghe tiếng súng đầu tiên nổ ngoài bờ giếng. Rồi họ cúi đầu lầm thầm đọc kinh vãng sanh, cầu nguyện cho người quá cố.
    Trưa đó ngày mùng 7 tháng chạp, bất thường giặc kéo nhau tới bờ Ðìa Gừa. Chúng đứng lại nhìn xuống đìa, đếm mấy gò mả xung quanh. Nào ai dám hó hé! Chập sau, chúng rút lui. Một thằng bé chăn trâu được may mắn núp ở gần bờ đìa, khi nãy. Nó về xóm thuật lại:
    - Tui thấy ông Tây này cười, ông kia la hét, ông Tây nọ gật đầu. Mấy ổng dòm vô xóm mình...
    Ðiềm lành, điềm dữ hay là không có điềm gì hết? Không ai đoán trúng cả. Vì đó là một diềm dữ, nhưng dữ quá mức tưởng tượng của họ.
    Ðêm ấy cả xóm đều bị bao vây.
    Nhờ ngủ ngoài chuồng trâu, đứa bé chạy thoát được. Nó qua xóm kế bên cầu cứu trong khi súng nổ liên hồi, lửa bốc cháy.
    Ðầu canh năm, tiếng súng vẩn còn thưa thớt. Mặt trời gần mọc, chừng đó dân làng kế bên mới dám đi qua cứu giúp.
    Người chết quá nhiều. Người còn sống quá ít. Làm sao mà chôn? Ban đầu còn bó thây bằng chiếu, mỗi hầm chôn một người. Sau cùng, cứ chôn chung một hầm, đủ già trẻ bé lớn. Khiêng nhiều chuyến quá sanh ra mệt mõi! Họ khiêng bằng võng, đặt hai xác chết trên một võng, người trở đầu phía trước, người trở đầu phía sau.
    o0o
    - Ðúng vậy! Hồi đó hai người nằm một võng, theo kiểu hai đứa con nít ngủ trưa như bây giờ thiên hạ đưa con.
    Ðêm về khuya. Chai rượu gần cạn. Ðứa bé chăn trâu thưở trước là ông Tư Ðạt ở Gò Mả Lạn buổi này, nói tiếp:
    - Lâu quá rồi! Thiên hạ chết oan! Cả xóm chết giống nhau. Không một người khóc. không một miếng khăn tang. Cả tháng sau, quạ còn bay đen trời như tàn nhà cháy... Tôi là người quen với họ, họ thương tôi lắm. Tôi không sợ ma, nhờ đó mà ít gặp ma. Vậy mà không hiểu can cớ gì buổi trưa đó tôi gặp họ.
    - Ban ngày hả ông?
    Ông Tư Ðạt nói:
    - Chánh hiệu là... ban ngày. Ði gặt về, dọc dường tôi ghé lại bờ Ðìa Gừa. Thấy nước trong quá, tôi nhảy xuống tắm rồi ngắt một cọng bông súng. nhai vô miệng cho mát. Tôi nhớ rõ: cọng bông súng dài lắm. Nhai một hồi, bỗng nhiên thấy một ông già hiện ra, đâu mặt với tôi, miệng ổng thì nhai đầu kia của cọng bông súng. Sợ quá, tôi nhả ra nhưng không được. Hàm răng của tôi cứng lại rồi... đánh bùa cạp. Sau rốt, ông già nọ nhai lần cọng bông súng đến gần mặt tôi, hai mặt đụng nhau, sát rạt, lạnh ngắt.
    Ông già nọ hỏi tôi:
    - Cái thằng Ðạt chăn trâu! Nhớ ta đây không?
    - Ông là ai?
    - Bà con mà! Mấy chục năm nay, mày làm ăn thế nào?
    - Dạ nghèo quá!
    - Vậy thì thằng Ðạt mày còn sống tới bây giờ cũng không sung sướng gì hơn mấy người chết yểu cả xóm hồi đó. Nhớ không Ðạt? Bà con chết đêm mùng 7 tháng chạp. Phải cúng kiến chớ! Có thịt ăn thịt. Có muối ăn muối. Rồi cất nhà cho bà con mày ở. Nhớ thắp nhang.
    Ông Tư Ðạt nói tiếp câu chuyện:
    - Ðêm đó, về nhà tôi ngủ không yên. Sau rốt, tôi kêu gọi bà con lối xóm cất một cái miễu. Hương chức hội tề hỏi tại sao cất miễu mà không xin phép; tôi trả lời đó là miễu thờ Bà Chúa Xứ, nào dám nói sự thật, sợ mình bị buộc vô tội làm quốc sự. Bởi vậy cháu hiểu vì đâu tôi giữ nhang khói ở miễu này, vì sao ở sát Gò Mả Lạn mà tôi không sợ ma. Ba bốn mươi năm nay, ruộng nương thất bát, có một lần bỏ xứ mà đi nhưng buồn bực quá, tôi trở về nền nhà cũ. Tôi nghĩ: Mình ở đây nghèo, nhưng mà vui. Nhiều đêm tôi nằm nói thơ Vân Tiên một mình mà không đỡ buồn. Tôi đứng nhìn trời đất đồng ruộng ở ngoài. Tối thui vậy mà vui quá! Cháu ra đây coi thử...
    Ông Tư Ðạt bước ra cửa, đưa tay làm dấy hiệu bảo tôi đi theo. Ðồng ruộng mơ hồ. Trăng non chưa hé. Ðám lau sậy mịt mùng chạy dài như bức trường thành, nối liền Gò Mả Lạn qua Ðìa Gừa, tiếp đến miễu Bà Chúa Xứ đằng xa.
    Ông lẩm bẩm:
    - Không riêng gì ở Gò Mả, ở Ðìa Gừa... Rải rác đầy ruộng nương, hồi đó ở đâu cũng có mả, có xương người. Kìa, cháu thấy không? Sao trên trời xẹt xuống một đốm... hai đốm. Rồi đất ruộng rung rinh, lúa mới cấy dợn đều như sóng dậy ngoài biển. Cháu thầy không?
    Tôi lạnh người. Gió thổi hiu hiu. Phải chăng oan hồn thuở trước đang về đây? Họ trở thành cát bụi, đang thu hình vào rễ lúa để vương lên mặt đất, đòi đơm bông kết trái?
    Hay là họ buồn rầu khi nhìn cậu bé chăn trâu còn sống sót thuở nọ giờ đây sống hẩm hiu. Từng vệt sao rơi, phải chăng đó là những niềm tin tưởng soi sáng quyển sử trường cửu của đất nước, một quyển sử không có số trương mà mỗi luống cày là một tờ giấy bao la, mỗi bụi lúa là một nét chữ không nhòa, muôn năm linh động?
    Ông Tư Ðạt vỗ vai, bảo với tôi:
    - Bây giờ cháu thấy ma chưa? Không thấy thì ráng đứng hoài cho tới chừng nào thấy rõ. Ông ở đây mấy chục năm rồi mà chưa biết đủ mặt người. Bởi vậy đêm nào ông cũng thức, cũng nhìn...
    [/FONT]
     
  19. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Miền cỏ hoang[/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thanh Hà[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trong vườn, có một khoảng nhỏ bà trồng đủ các thứ rau: chân vịt, mã đề, diếp cá, cả rau dền đất. Bà dùng thân lau nẹp thành liếp, ken dày đến nỗi gà con cũng không chui vào được. Suốt ngày bà ở ngoài đám đất, cuốc xới, nhặt cỏ, ươm cây. Bà bảo các thứ rau này đừng nghĩ nó dại, thuốc nam hết cả. Mùa hè bà luộc rau sam, rau chân vịt "ăn cho nó mát", nhưng đến bữa cả nhà ăn hết góc đĩa, bởi nó cứ nhơn nhớt, nhàn nhạt thế nào ấy. Hơi nóng sốt một tí là y như rằng bà nhai diếp cá bắt đắp lên trán, hôi ơi là hôi. Chỉ bữa nào có cua đồng, mẹ nhổ rau dền nấu canh, cô Sửu mới khen ngon.

    Ngày cô Sửu đám cưới, đám thanh niên làng hè nhau đạp gãy cái hàng rào của bà để vào xem cái video bố đem từ trên huyện về chiếu bộ phim đánh chém nhau của Hồng Kông. Sán sau ra vườn, thấy đất bị giẵm đạp vô số dấu giày, rau cỏ nát bét lẫn với đầu mẩu thuốc lá, bà xot' ruột, chửi um, đến nỗi mẹ phải gắt bà mới thôi. Chiều lại đã thấy bà mang cuốc chét ra cuốc xới. Chú Thao từ bên kia đồi vác sang mấy bó rau, lụi hụi trồng lại cái liếp rào cho bà. Bố cằn nhằn: "Không có việc bà nghỉ cho khỏe, việc gì phải đất với cỏ". Bà thở daì, dặn nhỏ: "Nhớ đái vào cái máng sau nhà cho bà để bà tưới cây".

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lối dẫn ra nhà chú Thao băng qua một vạt đồi cỏ léc cao quá đầu người. Men bờ khe có hơi nước, léc xanh um tùm, lá to và dài, trông rợn cả người. Trong rừng không có loại cây nào lá sắc như cây léc, chỉ cần vương nhẹ, nghe đau, y như rằng là léc cắt. Thé nhưng chú Thao không phát đường, cứ đạp léc xuống mà đi, thân léc gãy khô cong rẽ ra hai bên tạo cho lối đi hình cái máng vòm. Mùa khô, những người đi bứt lá về bỏ chuồng hay đi qua lối nhà chú Thao; nhưng hễ mưa xuống trên phiê"n léc thỉnh thoảng có vắt, sên, nên con đường hầu như bỏ hoang. Lâu ngày, từ những gốc léc gãy, những mầm léc non lá tươi và mềm vươn lên vẫy vẫy.

    Chú Thao là người trở về cuối cùng của xóm. Ngày chú ôm chiếc túi lép bước vào cổng nhà, thím Hồng đã hai mặt con, ở với chồng bên chợ, cách sông và một thối đường. Bà ôm lấy chú mà khóc, mà kể lể thôi là kể lể. Mẹ và cô Sửu khóc thút thít. Chú đứng trước bàn thờ mình, chẳng nói gì, cơ má trái giật giật. Mặt chú trông chẳng giống mặt người trong ảnh, phía hay giật giật đen một mảnh và đầy sẹo nhỏ.

    Bà nhắn qua chợ cho thím Hồng. Thím về có một mình, mắt đỏ hoe. Vừa thấy chú Thao thím liền sụp xuống lạy. Cơ má trái của chú càng giật mạnh hơn. Chú bảo: "Sự thể đã thế, đừng nghĩ ngợi gì. Cố mà sống vuông tròn với người ta". Thím Hồng về, rồi lâu không thấy sang nữa.

    Ở nhà được ít lâu, chú Thao làm cái nhà bây giờ. Căn nhà lúc mới dựng nằm chỏn lỏn giữa bạc ngàn cỏ léc, đứng xa không trông thấy. Chú Thao cặm cụi cuốc đất trồng khoai, trồng sắn. Đất tốt, chả mấy chốc vườn chú đã có cái để thu hoạch. Bây giờ, những cây xoài, cây mãng cầu đã lớn nhanh vượt lên khỏi ngọn léc. Nghe đâu chú còn định xin xã cho khai phá mấy vạt đồi phía sau để trồng bạch đàn nhưng xã không cho. Ông Bính chủ tịch nó là đất ấy nhiêù bom đạn đụng vào lỡ sảy ra chết chóc, không ai chịu trách nhiệm. Chú gặp bố nhờ nói hộ. Bố bảo: "Không dễ". Chú nhắc lại: "Vâng, không dễ", rồi về.

    Những chiều muộn chăn trâu bên này đồi nghe vẳng từ bên kia tiếng sáo dặt dìu nôn nao. Tiếng sáo phảng phất trong sương khói chiều nghe có cái gì quằn quăn trong lòng. Cả rừng léc rập rờn theo tiếng sáo. Lũ chăn trâu đứng ngẩn quên cả ngày đang tắt, quên cả đói và lạnh. Dứt tiếng saó chúng mới lục tục lùa trâu về, thầm thì kháo nhau: "Ông Thao trông mặt sợ thế mà thổi saó hay đáo để, nhỉ!".

    Bà kể, ngày con gái thím Hồng xinh nhất làng Thượng, nhà đã gả chồng rồi vẫn nhất quyết chối chỉ bởi mê tiếng sái chú Thao. Đêm văn nghệ nào có chú thổi sáo, thanh nữ đứng sem đông nghịt, hết thảy đều ngây ngất. Tiếng sáo như có bùa quyến rũ hết con gái làng, đến nỗi trai làng có bận dọa bẽ hết ống sáo chú Thao, cấm chú thổi. "Ấy vậy mà bây giờ...". Nói thế bà lại khóc. Mỗi lần nghe bà khóc, cô Sửu nhăn mặt: "Ai người ta cũng biết, mẹ kể mà làm gì".

    Quãng gần Tết mấy cây chanh ghép trong vườn chú Thao trổ bói. Giữa một vùng chỉ có cỏ là cỏ, hương chanh đâm ngào ngạt, tinh khiết. Ong rừng nương theo mùi hương rủ nhau bay về, rập rờn trên những vầng hoa trắng. Chú Thao ngồi hàng buổi trầm ngâm, mắt vời vợi mông lung trông ra bạt ngàn ngọn léc uôn cong theo gió, cơ má trái giật giật.

    Từ độ hoa chanh vườn chú Thao nở, cô Sửu thỉnh thoảng sai: "Mày chạy vào nhà ông Thao kiếm ít hoa về gội đầu". Cô đâm ghiền thứ nước bồ kết nấu thả vài cánh chanh trắng, hương thoang thoảng, thanh và cay, gội xong nhiều ngày mà hương còn ủ trong tóc. Hoa chanh nở có kỳ, nhưng cô Sửu bao giờ cũng có để gội đầu là nhờ chú Thao nhặt hoa rụng, hong khô, cất kỹ, mỗi bận lại cho cô Sửu một ít. Cô Sửu có lần đùa: "Vì mấy cây chanh nhà ông Thao mà tao lấy được chồng". Cô hếch mặt: "Còn mày, đến thời không bù giá bằng hoa chanh được. Bảo bố mày sắm cho ít vòng xuyến...".

    Cô Sửu vốn không đẹp, da đen, vóc người to ngang, ăn nói đốp chát. Học xong trung cấp nông nghiệp, về xã làm kỷ thuật viên, cũng chân lấm tay bùn như ai, nhưng hễ trai làng buông lời tán tỉnh là cô bĩu môi ra chiều coi thường. Có nói cô thích người trình độ. Ngoài ba mươi, cô còn ở vậy. Ấy thế nên cô nhận lời lấy anh kỹ sư cùng cơ quan bố.

    Bà cũng thường hay sai mang những thức rau trong vườn cho chú Thao. Mỗi lần bà sai đi bà lại đem chuyện chú Thao hồi chưa đi bộ đội ra kể, nào là chú Thao tát cá về bắnt bà nấu canh rau tập tàn ra sao, nào là chuyện chú Thao cuốc đất khỏe như thế nào. Thôi thì đủ chuyện, dài có khi hết buổi, làm mẹ phải nhắc khẽ: "Chạy ù đi rồi về học bài".

    Chú Thao ít qua nhà nhưng hễ qua là thế nào chú cũng mang cho chục trứng, miếng thịt nhím, thịt chồn bẫy được, ngồi với bà một chốc, nói dăm ba câu là đi ngay. Có lần cô Sửu bảo: "Hay anh lấy vợ đi. Đã già đâu. Em sẽ mối cho anh con bạn học...". Không chờ cô Sửu nói hết, chú Thao trừng mắt làm cô ấn gãy thỏi son đang tô môi dở, xịu mặt. Chú Thao đi rồi cô mới toang toang: "Dở hơi, ông Thao ông ấy dở hơi. Thời này đàn bà rẫy ra, khối đứa thèm đàn ông không ai để mắt. Ông Thao có hơi bị cháy mặt một chút nhưng cứ là đàn ông. Có vợ, có chồng cứ hơn thui thủi một mình. Biết toan tính, biết chăm chỉ như ông ấy, chả mấy chốc mà giàu. Hay còn chung thủy với bà Hồng? Bà ấy đã là vợ người ta, còn thương tiếc nổi gì nữa không biết...". Bố gắt: "Biết thì nói, không thì đừng. Cô là hay nói liều". Cô Sửu đùng đùng: "Thấy phải là tôi nói chứ! Ông làm như ông thương ông Thao lắm không bằng. Thương sao ông để ông ấy ra ở rừng một mình? Sao không chạy cho ông ấy cái giấy thương tật? Mà ông chỉ bảo với xã một tiếng là người ta cho ông Thao thầu cái đồi léc, thế mà không. Để cho cỏ nó mọc bạc ngàn, người ta muốn làm kinh tế lại không cho". "Đã bảo lắm bom...". "Bom cái gì? Ông không phải sợ cho cái tính mạng của ông Thao, ông sợ cái khác. Đạo đức giả tuốt!". Cô đừng có hồ đồ. Im đi cho tôi nhờ!" - bố bực bội. Cô Sửu không im, cô xỉa xói: "Ông đừng ỷ mà quát tôi nhé! Tôi biết tỏng trăm ngàn chuyện xấu xa của ông. Tôi biết cả cái giấy gọi nhập ngũ là đề tên ông, nhưng vì ông sắp đi nước ngòai nên phải cậy cục lo cho ông Thao đi ngay. Có ông Thao gánh hết mọi thiệt thòi ông mới thành ông này ông nọ. Ấy thế mà giá ông Thao chết đi có khi ông lại dễ chịu hơn là thấy ông ấy lù lù dẫn xác trở về...". "Mày, mày, màỵ.." - bố lắp bắp, mặt đỏ ngầu. Cô Sửu ngoảy mặt bỏ đi. Bà rên rẩm: "Vô phước, tao vô phước...". Mẹ lặng im, cắn môi ngồi một mình trong buồng. Bố nổ máy xe phóng ra huyện dù chưa hết ngày chủ nhật.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cô Sửu lấy chồng chưa đầy năm thì tay xách nách mang về nhà. Mẹ kéo cô vào buồng, mặt tái nhợt: "Làm sao thế hả?". Cô Sửu khóc, nói trong lời nước mắt: "Em dại. Đã trót ở đến chừng ấy thế mà không ở luôn, lấy chồng làm gì cho nó nhục..." Mẹ đảo mắt chung quanh, hoảng sợ: "Thì nho nhỏ thôi! Có gì cô nói đi nào". Cô Sửu quệt nước mắt: "Cái số em nó khổ. Ngót ba chục tuổi đầu ai cũng cười ế ẩm, lấy chồng trình độ, ăn trắng mặt trơn thiên hạ tưởng sung sướng. Nào ngờ vớ phải thằng cha bất lực. Biết em có bầu, nó đánh chửi em thậm tệ...". "Trời ơi là trời!" - mẹ bưng mặt.

    "Tôi bỏ chồng. Ai nói gì thi nói" - cô Sửu tuyên bố khi có đủ maỊt cả nhà. Bà tru treó, bà bảo rằng chính cô làm nhục gia phong, răng cô bôi tro trát trấu vào mặt bà. Bà khóc, bà chửi ầm nhà cửa. Bố im lặng hút thuốc, mãi sau mới nói: "Chuyện xấu, chẳng biết giấu đi, cứ vạch áo cho người xem lưng. Cái làng này không khéo đến lúc cô Sửu đẻ, họ kéo cả đến xem đứa bé giống aị..". "Muốn xem tôi cho xem chứ! Tôi sợ gì mà giấu với giếm". Hay hớm lắm đấy, cô lên phô mà xem, mấy hôm nay đầu đường xó chợ, đâu cũng thấy tụ tập đàm tiếu chuyện vợ chồng cô. Cô không ngượng nhưng mà tôi ngượng, tôi nhục...". Cô Sửu cúi nhìn cái bụng sắp sửa vượt mặt lại khóc, Nhà buồn như có đám.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tháng chạp thứ hai, hoa chanh vườn chú Thao nở. Cô Sửu đã không còn sai chạy sang chú Thao lấy hoa chanh nữa. Cỏ léc vẫn rập rờn xanh biếc một màu, ngàn ngàn lớp sóng sô đuổi nhau chạy qua, xôn xao, khấp khởi. Heo may thổi lồng lộng buốt lên tận óc. Lại mưa phùn hay đổ vào buổi chiều tối, giăng mắt lên làng mạc một màn sương mờ dày đặc. Bà bây giờ chỉ còn ngồi hong tay trên bếp lửa, hết sáng đến chiều, hết chiều tới tối. Đêm bà ngủ mẹ cũng phải vùi than dưới gường cho bà. Lâu bà không còn nhắc đái vào cái máng sau vườn nửa. Khoảng đất của bà dền đất già nở từng bông hoa xanh xám dài ngoằng ngoẵng, chen chút với lũ cỏ hôi hoa màu hồng hồng, lá phủ một lớp lông mỏng nham nhám. Cái liếp rào mỗi lần gió lây là xiên vẹo chực ngã. Phần cái cuốc chét, cán gãy mẹ đã cho vào bếp đun, lưỡi sắt hôm qua thằng cu Ki đã bán cho thằng đồng nát.

    Con cô Sửu xinh như tranh, chỉ mỗi tội hay đái dầm. Không thấy xóm làmg đến xem mặt đứa bé như lời bố, chỉ có ông Bính chủ tịch không cơn đến nhận thằng bé nhưng cô cười bảo: "Tôi đẻ, con tôi, chẳng con ai cả".

    Cô đặt thằng bé vào cái nôi buông mùng trắng rồi hát:
    Cái vạc mày ngủ cho ngon
    Mai sau mày lớn, tìm cho ra gái ngoan mà hẹn hò...
    Cô bảo: "Mày trông chừng em cho cô nhé! Cô chạy quàng đi một tí. Lâu ngày nằm ổ, buồn quá!". Cô vấn tóc, trùm khăn kín mặt, đi. Quá bữa cô mới về. Từ ngoài ngỏ đã nghe tiếng cô oang oang : "Điên, ông Thao nhà này điên mất rồi". Mẹ tất tả chạy từ dưới bếp lên. Cô Sửu vừa tháo khăn vừa nói: "Đàn bà không chồng làng này thiếu gì. Lấy ai chẳng lấy, lại đi rước mẹ con con mụ Nền. Mang gông suốt đời mà không tránh khỏi miệng thế gian"...

    À, ra cô Nền về ở với chú Thao. Cô Nền nhà ở gần trường học, không thấy nói có chồng mà có ba đứa con. Bọn học trò hay vào nhà cô xin nước uống, lợi dụng bứt trái đu đủ non, dăm quả ổi xanh trốn học chấm muối ớt, có đứa táo tợn còn lấy cắp trứng gà, bồng cả gà mẹ. Cô Nền biết nhưng không chửi, cô khuyên bảo nhẹ nhàng rồi cho về. Được thể bọn trẻ càng làm quá. Cô là đối tượng trong những câu chuyện của đàn ông tụ tập khi rỗi rãi. Họ đùa phát vào lưng nhau đôm đốp: "Em Nền ấy à, cứ xuống xề kể lể nỗi bất hạnh là em mềm lòng, cho tuốt...". Đàn bà khin nhờn cô ra mặt. Họ bảo cô đĩ thõa, họ bảo cô khô"n nạn. Quanh năm suốt tháng, ngoài lũ học trò chẳng có ai tới nhà cô ban ngày ban mặt.

    Cô Sửu lay gối bà, than thở chuyện chú Thao. Bà ngồi lặng im hong tay trên bếp. chẳng ra nghe, chẳng ra không. Mắt bà đục mờ như c' phủ sương khói. Bà cười, phô hàm lợi trống trơn sóm sém. Lâu bà mới hỏI mẹ: "Thế bao giờ đến gỗ thằng Sở". Mẹ dại mắt, nhắc khẽ: "Chú ấy còn sống, đã về...". "À thế...". Mắt bà ánh lên một chút sáng, rất nhỏ, rất mỏng, rồi nguội tắt nhanh chóng, lại chỉ thấy sương khói đục mờ. Mẹ cà cô Sửu nhìn nhau, không ai nói.

    [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trong hơ may, trên những triền đồi hoang chỉ còn độc mỗi lũ trẻ chăn trâu. Chúng co ro trong áo tơi, da tái xám giữa lồng lộng gió. Trên muôn triệulá léc xanh xuyên qua lớp lớp mưa phùn là trong trẻo, là réo rắt, là huyền hoặc tiếng sáo. Chưa bao giờ tiếng sáo nỗi niềm da diết đến thế. Không đứa nào lên tiếng. Chúng nắm chặt tay nhau nhìn về hướng ngôi nhà nhỏ bên kia đồi. Phía đó, một làn khói bếp mỏng bay lên, vẽ một đường cong mềm mại, rồi tỏa vào trong chiều muộn. [/FONT]
     
  20. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà [/FONT]​
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Y Ban[/FONT]​
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hay thời gian trôi ngược trở lại. Hay nàng đã chết rồi và đang ở trên thiên đường. Nàng nghiêng về sự chết hơn, nhưng chắc gì nàng đã được ở trên thiên đàng.

    Rõ ràng nàng đã gần với cái chết. Sự chán nản của chuyến đi không mục đích nhấn chìm nàng vào cơn say xe của sự rối loạn tiền đình mà nàng mắc phải. Nàng lăn lộn chống trả với bản năng của sự sống. Nàng nôn ọe và bụng đau thắt lại. Đầu nàng quay cuồng bởi các tế bào não thiếu không khí. Người đàn bà ngồi cùng ghế với nàng cảm thông đưa cho nàng hai viên thuốc. Nàng nuốt vào bụng. Nàng lại tiếp tục vật lộn với cơn say. Mười phút sau thuốc ngấm dần, nàng bắt đầu mơ màng vào giấc ngủ, chính lúc đó nàng cảm thấy mình đang đi vào cái chết. Nàng hài lòng. Dẫu sao cái chết thật là êm dịu. Bỗng nhiên nàng nghe rất rành rọt câu chuyện của họ. Người đàn ông và người đàn bà ngồi cùng ghế với nàng.
    - Leng này, hình như em quên không mang cho anh mấy quyển sách thì phải.
    - Em không quên đâu Sơn ạ.
    Trí óc nàng bắt đầu tỉnh táo một cách lạ thường. “Leng, Sơn”, hai cái tên ấy đập vào trí nhớ nàng làm tóe bung ra những kỷ niệm đã quá xa xôi nhưng lại đầy tràn cảm giác trinh nguyên thuở ban đầu. Cơ thể nàng dễ chịu đến đê mê.

    Hè 78, một mùa hè đẹp đẽ nhất trong đời nàng. Nàng thi xong một kỳ thi trọn vẹn với nhiều điểm ưu tú. Trở về nhà nghỉ hè, nàng còn ôm thêm mấy chồng sách vở. Nàng quyết định thưởng cho mình một chuyến ô tô. Ngày ấy vé ô tô cao gần gấp đôi vé tàu, và việc mua được một chiếc vé ô tô là khó khăn. Cho nên việc về nhà nghỉ hè bằng vé ô tô làm nàng hãnh diện ngẩng cao đầu, với một nụ cười luôn chực vỡ òa ra giòn tan. Nàng có một chỗ ngồi rất tốt, cạnh ô cửa sổ. Lát sau ghế nàng ngồi có thêm hai người nữa, họ cũng trẻ như nàng. Ô tô bắt đầu chuyển bánh, lòng nàng rạo rực rồi bắt đầu hát trên những nốt nhạc mà khuôn nhạc là cây đang chạy bên đường.

    Nắng gắt dần những tia nắng hè đốt nóng không khí trong xe. Hành khách trên xe yêu cầu nàng phải sập cửa lại. Nàng phụng phịu hờn dỗi nhưng cũng phải theo mọi người. Tuy nhiên nàng đã không đóng chặt cửa. Nàng để một khoảng nhỏ chừng 10 cm. Nàng ghé đầu sát xuống để nhìn ra ngoài. Nàng bắt đầu hát thành lời từ bao giờ. Rồi nàng bật cười khi thấy chú bé để cho trâu lồng ngã xuống ruộng. Tất cả chỉ riêng có nàng. Cái nắng thiêu đốt nàng vào giấc ngủ. Giấc ngủ ập đến khi tiếng cười vẫn còn đậu trên môi. Rồi vẫn cái nắng lại làm nàng tỉnh giấc. Chưa đến nhà, một thoáng sốt ruột chạy ngang qua nàng. Nàng ngửng mặt lên và quay vào trong xe. Trong xe hành khách mệt mỏi đang ngủ gục. Cô gái ngồi cạnh nàng cũng ngả đầu vào ngực chàng trai ngủ ngon lành. Nàng lạ lẫm nhìn lại lần nữa và bắt gặp cái nhìn cũng đầy vẻ quan sát lại của người trai đang làm điểm tựa cho cô gái ngủ. Nàng quay mặt ra cửa sổ nhưng sự tò mò mà nàng cố kìm giữ cứ bung ra ngoài bắt nàng quay lại nhìn họ. Nàng nhìn rất thẳng thắn, lạ lẫm với đôi mắt mở to. Tất nhiên nàng đã từng thấy trai gái tình tứ với nhau nhưng chỉ trên màn ảnh mà thôi. Bây giờ họ ở cạnh nàng như thế này nàng chưa thấy bao giờ. Lần quay lại thứ ba nàng bắt gặp ánh mắt người trai có vẻ bối rối. Anh khẽ xoay người để đánh thức cô gái đang ngủ ngon lành. Cô gái mở mắt đầy vẻ ngái ngủ nhưng cô chợt tỉnh táo lại ngay khi gặp ánh mắt cau có của bạn trai. Nàng sửa sang lại mình. Ô tô dừng ở chỗ chắn tàu. Nàng rạo rực bởi cảm giác sắp được gặp người thân và sự hãnh diện với làng xóm. Nàng lại nhìn mơ màng qua cửa sổ. Nàng quay lại trong xe khi có người chạm vào nàng. Chàng trai đưa mời nàng một đẫn mía. Nàng mỉm cười cảm ơn, rồi nhận ra đã có một sự đổi chỗ. Cô gái đi cùng với chàng trai ngồi phía ngoài và chàng trai ngồi cạnh nàng. Nàng cảm nhận thấy sự chật chội của cái ghế ngồi nên cố nép lại. Lần nữa, nàng lại quay người lại vì một tờ báo được đặt vào tay và một cái nhìn mời mọc:
    - Bạn xem không?
    Tất nhiên nàng chẳng bao giờ từ chối xem một tờ báo. Rồi sau đó:
    - Bạn học trường nào vậy?
    - Tổng hợp. Thế còn bạn?
    - Trường Ngoại Thương, khoa tiếng Nhật.
    - Nhà bạn ở đâu thế?
    - Nam Hoa.
    - Mình ở xã kế bên, Nam Đồng.
    Câu chuyện rôm rả cho đến khi ô tô dừng ở bến. Chàng trai đề nghị với cô bạn gái đi cùng:
    - Chúng mình rẽ vào nhà bạn ấy chơi một lát đã đi.
    Cô bạn đi cùng mà nàng biết tên là Leng, không nói gì, chỉ lững thững đi bên cạnh.
    Nàng ào vào nhà trong sự tiếp đón vui sướng của cả nhà. Phút chốc nàng quên mất hai người bạn mới. Chỉ đến khi họ chào nàng ra về nàng mới biết đến sự có mặt của họ ở nhà nàng.

    19 tuổi, mối tình đầu ập đến một cách ngẫu nhiên, tình cờ, nếu không kể đến sự xao xuyến với nhân vật trong trang sách, trên màn ảnh và trên sân khấu. Khi nàng xách túi kết thúc kỳ nghỉ hè, thì các bạn lên sớm để thi lại ùa ra đón nàng.
    - Có một chàng trai, mấy tối nay tối nào cũng đến ngóng cô nàng.
    Buổi tối, chàng trai đó đến mà không đi kèm với cô bạn gái tên Leng. Nàng cứ ngóng chờ được đón cả hai. Chàng trai như đã thân thiện với nàng từ lâu lắm.
    - Tôi cứ ngỡ bạn sẽ lên vào thứ hai kia.
    - Nhưng tôi chẳng phải thi lại môn nào cả.
    - Nhưng ở quê buồn lắm.
    - Nhưng quê tôi thì chẳng buồn tí nào cả.
    - Chúng mình đi dạo ngoài công viên trường đi.
    - Cũng được. Sao Leng không đến chơi cùng bạn?
    - Bạn ấy đang bị thi lại, à không, bạn ấy không thích chơi với bạn.
    - Vì sao thế?
    - Vì tôi thích bạn hơn.
    - Tôi chẳng hiểu gì cả. Bạn Leng là bạn của bạn, mà bạn lại thích tôi, thế bạn ấy cũng phải thích tôi chứ.
    - Nhưng tôi là con trai mà.
    - Có gì khác nhau nào?
    - Bạn chẳng hiểu gì hết, vì tôi muốn gọi bạn bằng em và tôi yêu em mà.
    - Ờ, cái gì vậy?
    - Thật đấy mà…
    Nàng nhớ lại rằng đầu óc nàng lúc ấy sao mà tỉnh táo đến vậy. Nàng đã nhìn thấy chàng ngần ngại đến thế nào khi nàng mở to đôi mắt nhìn anh và kêu lên ngạc nhiên.

    Sự xao xuyến chỉ ập đến khi chàng trai đi về rồi. Nàng nói dối các bạn là mệt để đi ngủ sớm. Nằm trong màn nàng sắp xếp lại toàn bộ các chi tiết từ chuyến đi về quê, tình cờ gặp nhau, đến ánh mắt nhìn đầu tiên và những lời tỏ tình. Nàng chưa tự hỏi xem nàng có thực sự cảm chàng trai đó không? Nàng chỉ biết nàng xao xuyến đến lạ lùng. Cơ thể nàng như đang bay bổng trên không khí. Nàng muốn thổ lộ cùng bạn bè và hát toáng lên. Khi cảm giác lắng dần xuống nàng chợt nghĩ về cô bạn gái của chàng trai tên là Leng kia. Trong ý nghĩ ấy có một chút xót xa và một phần của sự chiến thắng.

    Sơn đến. Anh đi một chiếc xe đua không có poocbaga. Anh rủ nàng đi chơi nhưng nàng rất ngại ngùng vì không biết anh đèo nàng như thế nào cả. Nàng từ chối. Anh bảo nàng đi dạo ở bãi cỏ sau trường. Nàng ngồi xuống bãi cỏ mượt mà. Những lá cỏ đâm vào tay chân nàng như mơn man. Nàng vui vẻ cười và kể cho anh nghe những câu chuyện không đầu không cuối. Nàng rất vui khi được gặp anh. Nhưng sao anh lại không đáp lại những câu chuyện với nàng. Anh cũng sẽ kể lại những câu chuyện thật ngộ nghĩnh về lớp về trường chứ. Những chuyện như thế có bao giờ cạn đâu. Anh chỉ ngồi im lặng nhìn nàng, rồi ngồi sát vào nàng. Lúc nàng đang líu lo kể chuyện nàng không chú ý đến sự nhích lại của anh vào sát nàng. Đến lúc nàng nhận ra, nàng rơi vào trạng thái băn khoăn. Nàng không muốn anh ngồi sát vào gần nàng như thế và đừng có nhìn nàng chằm chặp vậy. Nhất là đừng có cầm tay nàng. Nàng xị mặt ra như dỗi hờn. Anh buông tay nàng ra hỏi: “Em sao thế?” Nàng cúi mặt chẳng nói gì cả nhưng thực chất nàng đang trả lời anh rằng “Anh hãy ngồi xa ra và đừng chạm vào em”. Nàng ngại ngùng nên chẳng nói.

    Anh đến nhiều, nàng thân thiết với anh hơn nhưng điệp khúc vẫn thường bị lặp lại như thế. Khi anh dựa vào nàng, toàn thân nàng co rúm lại.

    Mặt nàng lại xị ra hờn dỗi. Đến một hôm, bàn tay nàng dường như đã thân thiện với bàn tay anh. Nó nằm im trong bàn tay nóng ấm của anh và nó ngoan ngoãn để cho anh nhấm nháp. Anh bỗng ôm chặt vai nàng và đặt lên miệng nàng một cái hôn. Chiếc hôn đầu tiên nàng cảm nhận được là sự ẩm ướt. Cho đến khi ấy nàng chưa hề uống chung với ai một cốc nước. Cha nàng là bác sĩ, ông đã dạy cho nàng biết về những con vi trùng. Nàng rùng mình kéo chiếc hôn giấu vào ngực áo anh. Thực ra nàng chỉ muốn lau sự ướt át trên môi. Hôm ấy nàng giận anh lâu hơn. Anh cố làm cho nàng hết giận nhưng nàng không thể nào kéo mình ra khỏi sự day dứt rằng yêu đâu phải như thế này. Rằng: có phải nàng dễ dãi không? Thực ra nàng rất mơ mộng nhưng vì sự thể diễn ra không đúng với những mơ màng của nàng mà thôi. Anh bảo nàng - Em có yêu anh không? Nàng không biết rằng nàng có yêu anh không? Chỉ có điều khi anh đến nàng rất vui mừng. Nàng líu lo chuyện trò với anh. Và nàng cũng chỉ thích anh trò chuyện lại với nàng. Và anh chỉ thơm nàng vào má thôi.

    Ngày ấy hai bên bờ sông Tô Lịch đường Láng Thượng còn như một công viên với những hàng cây xà cừ to, xen với rau thơm, với hoa bướm, hoa su si và hoa rau cải cúc. Những sinh viên trường Tổng hợp, Ngoại ngữ, Ngoại giao hay Ngoại thương, Giao thông coi đó là một công viên lý tưởng. Sơn đã dẫn nàng ra công viên đó. Anh chọn cây sấu già với cái gốc bạnh lên cao tạo nên một chỗ ngồi rất thuận tiện và đẹp. Nàng càng ngày càng nặng nề hơn. Nàng chờ anh đến, nàng đi chơi cùng anh. Anh nói nàng nghe nhưng nàng không còn líu lo trò chuyện cùng anh nữa. Đầu óc nàng chỉ chực sẵn những câu trả lời rằng: Em không thích anh thật gần em như thế, đừng động vào em. Tay nàng vẫn trong tay anh nhưng đầu óc nàng gào lên: Bỏ tay em ra đi. Anh quàng vai nàng, nàng so vai lại.

    Hôm ấy anh có vẻ rất vui mừng. Anh kể rằng trường anh sắp có hội: Em sẽ đến chứ. Em mới đến chỗ anh một lần thôi. Em chẳng chịu hiểu anh gì cả. Trí óc nàng thôi không cãi nhau với anh nữa. Nàng thấy vui vui. Mặt nàng giãn ra và nàng mỉm cười với anh. Nàng sôi nổi kể lại cho anh nghe rằng trường nàng cũng sắp có hội. Các bạn của nàng đang đi học nhảy. Nàng sẽ tham gia buổi văn nghệ của khoa tổ chức. Khi nàng nói anh im lặng nghe và nhìn nàng chăm chú. Từ lúc nào anh đã ôm chặt lấy nàng hơn. Khi tiếng cười nàng vừa tắt, anh đặt lên miệng nàng một chiếc hôn. Chiếc hôn thứ hai chưa mang đến cảm giác lạ cho nàng nhưng nàng cũng không tìm cách dứt nó ra nữa. Thực ra, nàng đang vui vẻ vì những câu chuyện nên trí óc chưa kịp chống lại anh. Anh hôn nàng dịu dàng và nàng có cảm giác sắp ngã. Nàng choàng tay vào cổ anh để níu lại. Đúng lúc ấy một ánh đèn pin quét qua anh và nàng. Một giọng khê nồng cất lên - “Gớm, trời chưa mưa mà ếch ộp đã bò ra lắm thế”. Nàng đã kịp nhìn thấy một người đàn ông đeo cái giỏ sau lưng, đang đứng nhìn chằm chằm vào anh và nàng. Nàng vội vàng đẩy anh ra. Nàng òa khóc. Nàng dứt khoát bắt anh đưa nàng về. Anh không hiểu sao cả. Anh nắm chặt tay nàng - Bình tĩnh lại em, anh đã làm gì để em giận nào. Nàng gào lên - Em không thích, thế thôi. Em chẳng muốn anh đến nữa. Anh đừng bao giờ đến nữa.

    Anh đưa nàng về. Nàng không chào anh mà chạy ngay lên phòng. Nàng áp cái gối vào mặt vì cảm thấy một sự xấu hổ ê chề. “Ếch, ộp”, nàng nhớ lại ngày bé đi học trên con đường làng trồng phi lao, thỉnh thoảng có một đôi trai gái ngồi bên vệ cỏ. Bọn thằng Tâm, thằng Thanh đã kêu toáng lên khả ố: “một đôi ếch ộp, hai đôi ếch ộp chúng sắp ôm chặt lấy nhau”. Không, nàng ghì chặt cái gối vào mặt hơn. Nàng đẩy khỏi đầu những ý nghĩ cứ găm chặt vào trí óc nàng. “Anh vào nàng là một đôi ếch ộp”. Khi nước mắt chảy ra thì dường như nó chảy theo cả những ý nghĩ. Nàng bình tâm lại và cảm thấy mệt mỏi quá chừng. Nàng vùng dậy lấy khăn đi rửa mặt. Trên hành lang nàng nhìn ra chỗ anh hay chờ nàng. Anh đang quay xe ra về. Lên xe, nàng còn thấy anh ngoái lại nhưng nàng đã nép mình vào tường rồi.

    Anh không đến chỗ nàng và nàng cũng chẳng sang tìm anh. Mối tình đầu của nàng chỉ diễn ra vẻn vẹn có tháng rưỡi. Nàng chưa biết gì về anh ngoài một cái tên: Sơn. Học năm thứ hai khoa tiếng Nhật trường Đại học Ngoại thương. Và có một cô bạn gái tên là Leng.

    Xe dừng ở một thị trấn nhỏ. Người hướng dẫn viên du lịch nhắc nhở mọi người chú ý coi giữ đồ đạc kẻo có kẻ gian trà trộn. Nàng ngẩng mặt lên và vươn vai như vừa tỉnh giấc sau một giấc ngủ ngon lành. Nàng mỉm cười với người đàn bà tên Leng ngồi bên cạnh:
    - Chị có xuống không?
    - Không, chị xuống đi tôi coi đồ cho.
    - Vâng, nhờ chị.
    Nàng lách qua họ để xuống đất. Thực chất nàng rất bối rối và cảm thấy không tự tin chút nào. Nàng sống chứ không phải là đã chết và ở thiên đàng. Nàng chỉ vừa vật lộn với cơn say xe, chắc bây giờ mặt mũi nhợt nhạt, khó nhìn lắm. Họ, lại là mối tình đầu của nàng, cả anh và người đàn bà kia. Nàng rẽ vào một nhà bên đường xin nước rửa mặt. Nàng lấy son phấn ra trang điểm lại. Một gương mặt đầy tự tin đang nhìn lại nàng. Nàng hài lòng bước lên xe với một chùm nhãn. Nàng mời họ cùng ăn nhưng họ dè dặt nhìn nàng và chẳng cởi mở lắm. Nàng cũng ăn qua loa vài quả rồi rút sách ra đọc. Nàng cố ý phô bìa sách và ý nghĩ cứ quay cuồng trở lại quá khứ.

    Rồi sau đấy nàng cũng đã rất mong anh đến và dĩ nhiên nàng chẳng thể nào sang trường để tìm anh. Nàng tốt nghiệp đại học và đi làm việc nhưng vẫn không có mối tình thứ hai nào cả. Nàng biết có rất nhiều chàng trai mến nàng. Từ cảm nhận của đàn bà nàng biết điều đó. Nàng chờ họ tỏ tình với nàng. Nhưng dường như lúc sắp tỏ tình cùng nàng thì họ lại thôi. Nàng tự hỏi: Vì sao vậy? Phải chăng nàng quá tỉnh táo hay tại đôi mắt đen quá khôn của nàng. Cô bạn thân nhất của nàng bảo - mày hãy nhìn xuống đất ấy, đừng có giương mắt lên như móc vào ruột người ta như vậy. Đàn bà phải bé nhỏ yếu đuối, đây lại cứ gân lên. Nàng tự soi gương và tập nhì cho ánh mắt chùng xuống.

    Sau đó sự ham muốn nổi tiếng đến cùng với một tình yêu. Nàng bị mê hoặc bởi ánh đèn sân khấu. Trước chỉ là hội diễn nghiệp dư. Sau nàng nhập vào đoàn diễn chuyên nghiệp ở tỉnh lẻ. Ở đó nàng đã gặp người đàn ông ấy. Một người đàn ông hơn nàng rất nhiều tuổi và đã có gia đình. Người đàn ông chỉ trò chuyện cùng nàng, nhìn nàng bao dung và khen nàng. Đến bây giờ nàng cũng không biết được rằng: Lúc ấy nàng đã yêu, đã ham muốn sự nổi tiếng hay nàng muống ở thủ đô. Có lẽ là sự kết hợp của cả ba. Nhưng nàng đã không là một cô gái dễ dãi. Nàng không chạy theo sự hứa hẹn của người đàn ông đó ngay. Nàng đấu tranh với chính mình: ham muốn và lý trí. Khi chưa được giải quyết xong nàng chán nản, không biểu diễn và không làm việc. Nàng vùi đầu trong những trang sách. Chính lúc đó, nàng làm thơ. Nàng làm vội vã, ào ạt. Nàng chép cẩn thận những bài thơ đó gửi lên cho tòa báo. Họ gửi thư về khen nàng và bảo sẽ đăng vào dịp tới. Khi bài thơ đầu tiên được đăng nàng lên thủ đô với một niềm vui sướng tột cùng. Lúc đó nàng cảm thấy mình đang yêu say đắm. Nàng đi tìm người đàn ông hơn nàng nhiều tuổi và đã có gia đình kia. Người đàn ông đó trò chuyện cùng nàng một cách giản dị, rồi hẹn nàng buổi tối đi chơi. Đầu óc nàng toang tuếch. Nàng thoăn thoắt đi ra chỗ hẹn, cùng người đàn ông đó đi đến một công viên. Công viên đen thẫm.

    Nàng trở về nhà ở quê và lại làm thơ. Nàng lên thủ đô để lấy nhuận bút và tìm đến người đàn ông mà nàng nghĩ đó là tình yêu. Mỗi lần đến với người đàn ông ấy về nàng cảm thấy mình đầy tội lỗi. Nàng tự bao biện bằng những bài thơ hay hơn. Đến lúc báo chí ca ngợi nàng như một bông hoa lạ trong làng thơ thì nàng giật mình đã qua tuổi 30 rồi. Nàng gấp gáp chuẩn bị cho nàng một tấm chồng, bởi nàng biết rằng, có đôi bài thơ của nàng cũng hay thật nhưng tình yêu chẳng phải là tình yêu. Chẳng qua nàng chỉ là một món ăn lạ không mất tiền mà thôi.

    Nàng lấy được chồng. Một người đàn ông có lẽ là tốt nhưng anh không chịu được sự nổi tiếng của nàng. Nàng sinh con và nàng chẳng còn ham muốn sự nổi tiếng.

    Nàng hay nghĩ về những kỷ niệm, những kỷ niệm ngày càng cứa vào đau đớn hơn bởi nàng nhìn vào nó ngày càng tỉnh táo hơn. Nàng xua đuổi những kỷ niệm đau đớn đó bằng ý nghĩ về mối tình đầu. Nàng nhấm nháp nó để trôi vào giấc ngủ.

    Chồng nàng ngày càng khó chịu hơn. Kèm với sự nổi tiếng của nàng là quá khứ của nàng được bới móc ra. Nàng đã nói với anh rằng – hãy chấp nhận em ở hiện tại này. Em sẽ vì anh và con. Nhưng anh cho rằng nàng không yêu anh.
    Nàng càng cố giữ thì cuộc sống gia đình càng tuột khỏi tay. Nàng gửi con về mẹ và ly thân với chồng. Nàng mua một chuyến du lịch trọn gói 5 ngày nên có chuyến đi này.
    - Cho tôi mượn được không?
    Người đàn ông cạnh nàng cầm lấy cuốn sách trên tay nàng. Nàng chỉ chờ có vậy. Nàng không kịp để cho người đàn ông ấy đọc trang sách nào. Nàng tự kể về những điều trong sách. Mắt nàng nói, miệng nàng cười, nàng làm cho hai người bạn đồng hành hết dè dặt, phải cởi mở với nàng.

    Cuộc du lịch trọn gói kể cũng khá lý thú. Nó buộc những người không quen biết nhau vào cùng một sinh hoạt. Ngày mới đến suất ăn của nàng được chia riêng. Hôm sau theo đề nghị của Sơn, ba người cùng ăn chung. Họ cũng biết tên nàng là Miên. Nàng là Mai cơ, Miên là bút danh, nhưng nó gắn với nàng đến độ nàng quên mất cả cái tên cha mẹ đặt cho. Lúc đi ăn cơm, họ qua phòng rủ nàng cùng đi. Sơn mua thêm bia và nàng mua thêm thức ăn. Nàng ăn không ngon miệng vì còn mải phán đoán xem Sơn và Leng có phải vợ chồng không. Nhìn cung cách Leng gắp thức ăn cho Sơn đầy vẻ vợ chăm sóc cho chồng nhưng trong ánh mắt nhìn Leng vẫn có phần không thoải mái, sợ sệt. Những người vợ không có ánh mắt nhìn như thế. Câu chuyện trong bữa ăn nàng nói về thơ ca và cuộc đời cùng những người đàn bà làm thơ văn. Leng không tham gia, chỉ cười và xuýt xoa tán thưởng.

    Nàng ra bãi biển một mình. Đã ở cái tuổi các bà “sồn sồn” nhưng sự đầy đặn làm cho nàng đẹp thêm. Nàng mặc một chiếc áo tắm màu đỏ chói. Bãi biển ở một nơi hẻo lánh nên chẳng đông khách lắm. Cái màu đỏ làm nàng nổi bật. Nhiều người đàn ông tỏ ý muốn đẩy phao cho nàng. Nàng đề nghị ghép phao ra xa. Tiếng cười nàng to hơn cả. Thỉnh thoảng nàng lại nhìn về phía Sơn và Leng. Họ tách riêng tắm ở cuối bãi.

    Nàng dậy sớm để xem mặt trời mọc. Bãi biển chỉ có ba, bốn người đàn ông. Nàng ào xuống biển và bơi ra xa. Nàng nằm ngửa mình cho sóng đánh bồng bềnh. Sơn đã đến bên cạnh nàng từ lúc nào.
    - Tôi đẩy phao cho chị nhé.
    - Ồ, anh cũng tắm sớm thế à? Vợ anh đâu?
    - Leng ấy à? Sợ lạnh.
    Nàng cố gài một câu hỏi mà nàng thắc mắc, anh không trả lời vào câu hỏi của nàng.
    Mặt trời bắt đầu đốt nóng không khí. Nàng ngoi lên phao để khoe bộ đùi trắng hồng dưới nắng mặt trời. Nàng để một bàn tay trái lên trên ngực. Một bàn tay búp măng rất đẹp. Bàn tay mà ngày xưa anh cứ xuýt xoa rằng sao nó đẹp thế. Sơn vẫn cần mẫn đẩy phao cho nàng ở khoảng cách lịch sự. Vào gần bờ sóng đánh to hơn đẩy phao nàng vào anh. Nàng phá lên cười và nhắm mắt chờ sự đụng chạm. Anh ý tứ để không có sự đụng chạm nào.

    Nàng ngả mình trên cát phơi nắng. Anh ngồi xa hơn một chút. Nàng cười lả lơi để thu hút anh ngồi sát vào nàng hơn. Anh ý tứ đứng dậy. Leng ra tắm. Nàng về đọc sách.

    Buổi tối nàng có sáng kiến mang chiếu ra ngồi ở doi cát trước biển. Gió biển mặn mòi mang đi những toan tính của nàng. Biển đen thẫm. Ánh sáng điện của nhà nghỉ hắt ra chỉ làm sáng được một quầng trước mặt. Sóng từ ngoài khơi đánh vào từng lớp như lũ giặc cỏ. Nàng hát. Nàng hát lại những bài hát ngày xưa.
    - Cho chúng tôi nghe với.
    - Chào Leng. Anh Sơn ngồi xuống đây. Tôi đang nhớ lại bộ phim ngày xưa “Vua Sultan”. Đấy các bạn thấy không lũ giặc cỏ đang ào ào tiến về kia kìa.
    - Ăn gì ăn cá… Tôi nhớ lại rồi – tiếng Leng có vẻ rất vui.
    - Toàn chuyện trẻ con. Miên hát đi – Sơn bảo nàng.
    - Ừ, tôi hát xong rồi đến Leng, Sơn nhé.
    - Chúng tôi chỉ nghe thôi.
    Nàng hát và cảm giác như có một bàn tay nào đang tìm tay nàng. Nàng tự tin hơn nên có giọng hát như càng hay hơn. Nàng để nguyên tay nàng chạm vào bàn tay ấy. Một bàn tay rất nóng ấm. Nàng chờ bàn tay ấy xoè ra để chụp lấy tay nàng, nhưng bàn tay đã rụt lại rồi. Nàng cười thầm và hát tiếp. Nàng nghe tiếng Leng thở dài khi nàng biết Sơn đang đăm đăm nhìn nàng. Gió biển thổi mạnh hơn. Họ cùng về và im lặng.

    Đêm nàng trằn trọc với những ý nghĩ. Nàng chờ một tiếng gõ cửa và nàng ngủ thiếp đi.
    Buổi sáng ngày thứ ba trong chuyến du lịch trọn gói, nàng không đi tắm. Nàng dậy sớm nhưng vẫn mặc nguyên bộ váy trắng đi chân trần vào rừng dương. Nàng thơ thẩn và đầu óc toang tuếch, không một nét nhạc, không một câu thơ và không một ai cả. Thỉnh thoảng nàng cúi xuống nhặt những vỏ ốc sặc sỡ với ý nghĩ sẽ đem về cho con rồi lại vất đi vì nàng nghĩ còn lâu nàng mới gặp con. Đến một bãi cỏ rất xanh nàng ngồi xuống đó. Nắng buổi sớm rực rỡ. Đột nhiên nàng cảm thấy thương thân. Nước mắt nàng ứa ra giàn giụa. Nàng nghĩ về người thứ ba. Nàng đã từng là người thứ nhất, chứ không phải là người thứ ba.

    Sơn lặng lẽ bên nàng từ lúc nào. Vẫn một cái nhìn đằm thắm và chằm bặp khi xưa.
    - Chị là một người đàn bà cô đơn phải không?
    - Sao anh biết?
    - Chị đã nói thế.
    - Tôi nói bao giờ?
    - Bây giờ.
    Nàng kể cho anh nghe về cuộc đời nàng, đoạn bắt đầu từ tên Miên. Anh xích lại gần nàng và cầm lấy tay nàng. Nàng dịu dàng nép vào anh. Anh quàng tay qua vai nàng. Nàng chờ một chiếc hôn của thời nàng đã dứt nó ra. Không! Anh kêu lên nho nhỏ. Anh buông nàng ra và kéo nàng đứng dậy:
    - Mình xuống tắm đi rồi về ăn sáng, có lẽ Leng chờ đấy.
    - Vâng.
    Nàng cố kìm một cơn giận trong lòng. Nàng bơi quyết liệt bỏ xa anh rồi quay lên bờ. Trong bữa ăn, nàng vui vẻ lạ thường. Nàng pha trò với Leng. Cả ngày hôm ấy nàng nhập bọn với những người đàn ông khác trong cùng nhà nghỉ.

    Buổi tối Sơn và Leng sang rủ nàng ra biển. Nàng từ chối. Nàng đóng chặt cửa, đọc sách và thỉnh thoảng hát nho nhỏ.
    Ngày thứ tư, nàng không ra biển sớm. Ăn sáng xong, nàng vào phòng nằm nghỉ. Đến gần trưa khi mặt trời đốt nóng nước biển nàng mới ôm phao ra tắm. Sơn và Leng đang ngồi nghỉ trên bãi. Nàng nô đùa với sóng để trút mọi toan tính. Cảm thấy mệt nàng vào một quán giải khát. Nàng nằm đu đưa trên ghế mơ màng. Một bàn tay lạ ấp vào đầu gối, nàng mở choàng mắt ra rồi kêu lên ngạc nhiên. Một sự tình cờ lần nữa hay Thượng đế đã run rủi. Người đàn ông đã đầy đủ vợ con mà một thời nàng lầm tưởng là tình yêu đang hiện diện trước mặt nàng. Ông ta bệ vệ, và đầy vẻ thành đạt. Ông ta kéo ghế ngồi cạnh nàng:
    - Em đẹp lên rất nhiều. Em không đi cùng chồng con chứ?
    - Thế anh cũng không đi cùng bà nhà ư?
    - Tôi đi chỉ có một mình. Em sống thế nào? Có hạnh phúc không?
    - Bình thường như cuộc sống hàng ngày này thôi.
    - Em vẫn làm thơ chứ?
    - Như hơi thở.
    - Em vẫn ngang bướng như ngày nào.
    Những câu chuyện không đầu không cuối làm thời gian trôi qua rất nhanh. Cuối cùng người ta cũng đã biết được nàng ở đây chỉ có một mình.
    - Tối nay em chờ anh nhé.
    Từ đó cho đến tối nàng đi ra đi vào nghĩ ngợi. Thực chất nàng đã chịu sự cô đơn từ lâu lắm rồi. Nàng lại là một người đàn bà rất khỏe mạnh cả về thể chất lẫn tâm hồn. Nhiều lúc nàng cũng khát khao. Nhưng người đàn ông ấy đã từng là kẻ lừa dối nàng. Không có chút tình yêu nào trong đó cả. Nàng đã từng đau đớn rất nhiều khi nghĩ lại những gì mình đã trải qua với người đàn ông ấy. Nàng lại giằng xé giữa lý trí và ham muốn. Cuối cùng nàng ngả về sự ham muốn. Nàng nghĩ rằng mình chẳng còn gì để giữ nữa. Nàng ăn uống vội vàng rồi về phòng. Nàng chọn bộ váy áo đẹp. Nàng trang điểm cầu kỳ. Nàng ngồi pha ấm nước chè nhấm nháp chờ tối.

    Cộc, cộc. Tiếng gõ cửa vang lên. Nàng vội ra mở cửa. Không phải người đàn ông ấy mà là Sơn. Từ sáng nàng đã không còn để tâm đến Sơn và Leng nữa.
    - Tôi vào được không?
    - Nhưng tôi không rảnh rỗi lắm đâu.
    - Nhưng tôi cũng chỉ gặp chị vài phút thôi.
    - Mời anh vào.
    Nàng nhìn anh giễu cợt và hãnh diện. Anh hơi cúi mặt xuống như đắn đo. Sau đó anh ngẩng lên quả quyết:
    - Miên sẽ không đi với người đàn ông đó chứ?
    - Người đàn ông nào cơ?
    - Người đàn ông mà Miên đã từng kể và sáng nay ông ta đã gặp lại Miên đó thôi.
    - Cảm ơn Sơn, nhưng đó là việc riêng của tôi.
    - Nhưng Miên đừng đi, hãy đừng đi với ông ta nữa để tôi nghĩ về em…
    - Anh muốn nghĩ về tôi làm sao tùy anh thôi.
    - Có lẽ thế. Chào Miên.
    Nàng bực bội đóng sập cửa lại. Nàng cởi bỏ quần áo rồi lên giường nằm. Nàng úp chiếc gối lên mặt. Đầu óc nàng rối tung. Nỗi thương thân làm nước mắt nàng giàn giụa. Nàng giận hết thảy những người đàn ông đã qua đời nàng. Sơn, người đàn ông ấy và chồng nàng. Nàng sẽ không cần ai nữa cả. Hãy cút hết cả đi.

    Tiếng gõ cửa lại vang lên. Nàng bịt chặt tai để xua đuổi nó đi. Nàng nhủ mình không được mở cửa. Tiếng gõ cửa nhẫn nại vang lên. Chừng vài phút sau thì im bặt. Nàng trở dậy uống mấy viên thuốc ngủ mà nàng luôn mang bên cạnh.

    Ngày thứ 5. Mệt mỏi quá nàng không trở dậy để ra biển sớm được. Nàng đi ăn sáng và sắp xếp đồ dùng để chuẩn bị về nhà. Nàng lên xe sau cùng để tránh ngồi cùng với Sơn và Leng. Nàng ngồi một mình ở cuối xe, tuy rất xóc nhưng không say. Nàng nghĩ về chuyến đi và tất cả những gì đã trải qua. Cuối cùng thì nàng cũng chỉ biết đến những ái tên của họ Leng và Sơn. Nhưng họ thế nào, họ có biết nàng là cô nữ sinh ngày xưa với cái tên đối diện với cái tên nàng đang mang bây giờ. Mai là ánh sáng, còn Miên là bóng đêm. Ừ, thật thú vị biết bao khi họ chẳng biết được điều ấy mà chỉ có một mình nàng biết thôi. Nghĩ về Sơn, nàng cho rằng anh vẫn vậy. Một người đàn ông nàng không thể nắm bắt và hòa nhập được, cho dù anh có chạm vào nàng. Nghĩ về Leng, nàng cảm thông hơn. Cho dù Leng và Sơn chỉ là một cặp tình nhân thì Leng là người đàn bà đầy đủ uy lực để nắm giữ Sơn cho riêng mình. Chỉ riêng của mình mà thôi. Dù sao chuyến đi cũng thật thú vị. Nàng biết sống thế nào với thời gian trước mắt. Nàng sẽ tìm kiếm một người đàn ông riêng cho mình, của riêng mình mà thôi. Việc này nàng sẽ làm được.

    Sơn đã nhiều lần ngoái lại nhìn Miên. Anh rất muốn xuống ngồi cạnh nàng, nắm chặt tay nàng và yêu nàng.
    - Anh biết chính là em. Em vẫn như thế chẳng thể nào khác được.
    Leng biết Sơn đang nghĩ về Miên. Nếu thời gian quay ngược trở lại 20 năm trước chắc cũng vẫn xảy ra như thế thôi. Sơn sẽ từ bỏ ta để đến với người đàn bà kia nhưng anh sẽ không làm người đàn bà ấy dỗi hờn, xua đuổi anh nữa đâu. Anh sẽ biết cách ghì chặt lấy. Ta biết anh vẫn yêu nàng. Nhưng ơn trời, anh ấy là của riêng ta. Người đàn bà ấy thật quyến rũ nhưng Sơn lại không phải là của riêng nàng .
    [/FONT]