[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tâm trạng khi Điên[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Nguyên Phước[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ngày hôm qua, tôi vừa tròn hai mươi tám tuổi. Người ta đưa tin về một quan chức ngành thể thao hiếp dâm một bé gái vị thành niên. Tôi nhìn bức ảnh người đàn ông có mái tóc muối tiêu. Một khuôn mặt tẻ nhạt. Cuộc đời ông ta chắc cũng tẻ nhạt như thế. Nhà ông ta ở gần khu nhà tôi. Một căn nhà sang trọng, ông ta ngồi đó lơ đãng gắp thức ăn. Người ta tin rằng ngủ với những cô gái đồng trinh sẽ đem lại may mắn. Ông ta đang ngồi tù. Đứa em họ tôi cũng đang ngồi tù. Lúc tôi học năm thứ hai, thấy đưa tin truy nã nó. Tôi cũng không chắc chắn mãi đến khi bố tôi đọc báo và xác nhận. Đã lâu lắm rồi ông không đến nhà nó chơi. Nó lừa đảo ngân hàng hơn một tỷ. Lúc đó nó hai mươi tuổi, bằng tuổi tôi. Lúc đó tôi đang học năm thứ hai, tôi chưa bao giờ có đến một triệu. Tôi cố gắng hình dung khuôn mặt đứa em tôi. Nó sống ở một nơi mà xung quanh toàn bọn đầu trộm đuôi cướp. Mẹ tôi nói rằng, nó đã thành đàn bà năm mười bốn tuổi. Tôi thì đến bây giờ vẫn chưa từng hôn một đứa con gái nào cả. Tôi không thể tưởng tượng được khuôn mặt nó khi nó thành đàn bà. Trong trí tưởng tượng của tôi, chỉ có hình ảnh một con bé thông minh và lém lỉnh. Lúc đó, nó đang học lớp năm và học rất khá. Tôi vẫn không thể nào quên đôi mắt to tròn ngạc nhiên đầy thích thú của nó khi nó mút que kem. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một niềm vui nào lớn lao đến thế. Giờ thì nó đang ngồi quanh bốn bức tường. Tôi cũng đang ngồi quanh bốn bức tường. Ở một nơi xa lạ với một thứ ngôn ngữ xa lạ. Nơi đây, tôi lần đầu tiên nhìn thấy những con quạ. Trông chúng thật thảm thương, cứ như thể số phận của chúng là suốt đời phải đậu trên đám dây điện chằng chịt kia vậy. Ở lab, chúng tôi nói chuyện với nhau bằng tiếng Anh vì nó là foreign language to everyone và đó là sự công bằng duy nhất mà sensei của tôi muốn thiết lập. Khi ông nói thì tôi hiểu ông nói gì nhưng khi tôi nói thì rõ ràng là ông không hiểu tôi nói gì nhưng ông vẫn khăng khăng rằng ông hiểu điều tôi muốn nói, và rằng chỉ có tôi là không hiểu điều ông muốn nói với tôi. Cả hai chúng tôi đều cô đơn trong cách diễn đạt của mình. Buổi sáng đầu tiên, tôi thức dậy, mở cửa sổ, nhìn thấy tuyết trắng xóa, lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy tuyết. Nó giống hệt như giấc mơ hồi tôi còn bé. Thức giấc nhìn ra cửa sổ và thấy tuyết rơi. Những bông tuyết hờ hững rơi. Dường như chẳng có gì cả, ngoài một màu trắng. Hàng cây màu trắng. Cột điện màu trắng. Tòa nhà màu trắng. Những con người mặc đồ trắng. Tất cả đều hiện lên với vẻ bí hiểm và ma quái. Hệt như một câu chuyện cổ tích, hay một đám tang. Bữa trưa, sensei kể cho chúng tôi nghe về một em bé học sinh cắt cổ bạn nó bằng một cái dao rọc giấy. Ông thản nhiên cầm cái thìa làm động tác đưa ngang qua cổ. Đột nhiên, tôi thấy máu phọt ra ở cổ ông, những giọt máu màu nâu đặc quánh như chè đậu đen mẹ tôi vẫn hay nấu vào mùa hè. Món sashimi bỗng trở nên khó nuốt. Bữa ăn tối, ngày thứ bảy, tôi ngồi cùng hai thằng bạn, một Ấn Độ, một Bangladesh. Món ăn chung duy nhất của chúng tôi là thịt gà. Thằng Ấn Độ tin rằng những con bò là linh thiêng còn thằng Bangladesh thì cho rằng những con lợn là bẩn thỉu. Tôi thèm thịt chó. Chúng nó hỏi tôi có thể ăn được thịt gì. “Tất cả”, tôi đáp, “trừ thịt người”. Ngày hôm qua, tôi nhận được tin ông tôi mất. Ông và tôi cùng có chung một niềm vui là nuôi gà chọi và giải toán đố. Ông bị một thứ bệnh mà y học không có tên gọi, nên người ta đành xếp nó vào nhóm bệnh thần kinh. Trong khoảng hai mươi năm, trí nhớ của ông bị gặm nhấm dần. Ban đầu, khái niệm về thời gian bị thu hẹp lại. Cuối cùng, tất cả các sự kiện trong quá khứ đều được chập lại vào một thời điểm mà ông gọi là “ngày hôm qua”, dù thực tế có thể nó diễn ra cách đây rất nhiều năm. Lần cuối cùng tôi gặp ông, ông kể về một chuyến đi địa chất thời trai trẻ. Đoàn có mười tám người, ông là trưởng đoàn. Họ lạc vào một cái bản hoàn toàn không tiếp xúc với thế giới văn minh. Người trong bản giao tiếp bằng một ngôn ngữ hoàn toàn xa lạ với tiếng Việt. Nó giống tiếng chim hót hay tiếng chó sói hú hơn là tiếng người. Họ cũng biết dùng lửa và chế ra một số vật dụng thô sơ khác. Đoàn địa chất được họ cho ăn một bữa thịnh soạn, có rất nhiều món ăn ông không biết tên. Đặc biệt, họ có một thứ đồ uống kỳ dị đựng trong cái ống tre. Nó không phải là rượu hay bia. Nó có một cái vị rất kỳ quặc mà ngôn ngữ của chúng ta không có khả năng diễn đạt. Ông không nhớ được là mình đã uống bao nhiêu, chỉ biết khi tỉnh dậy thì thấy mình nằm dưới chân núi. Những người bạn đồng hành của ông đều biến mất. Nhiều năm sau vẫn không có tin tức gì về họ cả. Ông tôi có chín người con, bốn con trai và năm con gái. Bố tôi là con cả và là người tỉnh táo nhất nhà. Chú hai và chú ba tôi đều mắc bệnh thần kinh từ nhỏ, cả hai đều chết đúng ngày tròn hai mươi tuổi. Chú tư là người thông minh, tài hoa nhưng từ nhỏ đã được nuông chiều nên hư hỏng. Chú lấy vợ sớm nên con gái chú bằng tuổi tôi, chính là đứa bây giờ đang ngồi tù. Vợ chú là một người đàn bà nhan sắc và lẳng lơ. Bố tôi kể rằng, năm đứa em họ tôi lên bảy, chú tư đột nhiên bỏ nhà ra đi, chẳng để lại một tin tức gì. Bốn năm sau, mẹ nó tái giá. Bố dượng của con bé là một gã xích lô, nát rượu và cục súc. Lão hay đánh đập con bé cực kỳ tàn nhẫn mỗi khi nó không mang đủ tiền về cho lão mua rượu. Cũng cần nói thêm là sau khi mẹ nó tái giá, em họ tôi phải bỏ học đi bán vé số. Bố tôi lấy vợ năm ba mươi tuổi. Tôi ra đời ba năm sau đó. Các cô của tôi thì đều lấy chồng xa, chẳng mấy khi tôi gặp họ. Thỉnh thoảng, mẹ tôi bảo “cái quần mày đang mặc là may từ mảnh vải của cô năm cho” hay “cái mũ này là của cô bảy”. Và như vậy trong hình dung của tôi, cô năm giống hệt như cái quần kẻ sọc hai màu đen và xám mà tôi mặc suốt những năm cấp hai, còn cô bảy là cái mũ màu nâu mà tôi đội cho đến tận ngày vào đại học. Tôi không bao giờ tưởng tượng được khuôn mặt họ. Ngay cả khi sau này dù đã gặp họ một vài lần, những khuôn mặt đó cũng chẳng thể nào in sâu vào trong trí nhớ của tôi. Cô năm vẫn chỉ là chiếc quần sọc, cô bảy vẫn chỉ là chiếc mũ nâu. Bố tôi là một công chức nhà nước. Ông là người luôn giữ một niềm tin tuyệt đối vào những giá trị mà mình đã từng tôn thờ. Khi em gái tôi có bầu với thằng bồ nó trước khi cưới mấy tháng, ông đã đuổi nó ra khỏi nhà và kiên quyết không dự đám cưới. Sau này, khi thằng cháu tôi lên hai, nhờ sự tác động của ông thủ trưởng cũ, một người mà bố tôi rất kính trọng, ông mới cho nó bước chân vào nhà. Ở ngay chính giữa phòng khách nhà tôi, ông cho treo một bức ảnh rất to trong đó có hình ông được chụp với một ông thứ trưởng nào đấy mà đến giờ tôi cũng chẳng nhớ tên nhân dịp ông thứ trưởng kia đến thăm cơ quan. Tấm ảnh đen trắng là một cái gì đó rất thiêng liêng và đặc biệt đối với tuổi thơ hai anh em tôi. Ông thứ trưởng, trong bộ đồ kaki giản dị, lúc nào cũng nghiêm khắc nhìn chúng tôi. Ngay cả buổi sáng trước khi lên đường đi du học, tôi vẫn thấy ông nghiêm khắc nhìn tôi. Cái nhìn không mấy thiện cảm. Cứ khoảng bẩy giờ sáng, sensei đánh thức cả lab dậy tập thể dục. Ông dẫn chúng tôi đi lại trong khuôn viên của trường và nói những chuyện linh tinh nhảm nhí. Những lúc như thế, thằng Ấn Độ trở nên hoạt bát một cách đáng ngờ vì bình thường nó là đứa trầm tính. Mỗi lần như thế, nó lại kể về mối tình của nó. Nàng hai mươi hai tuổi, nước da bánh mật, đôi mắt to đen, khuôn mặt thánh thiện và nụ cười mê hồn. “Cuộc sống thật đê tiện”, nó thường lẩm bẩm như thế mỗi khi bắt đầu kể về đoạn kết câu chuyện tình của nó. Nàng bị ép gả cho một gã cùng đẳng cấp trong cái giai tầng rối rắm mà mỗi khi thằng Ấn Độ mô tả, tôi mặc dù đã cố gắng tập trung hết sức vẫn không thể hình dung ra được. Nó thì trôi giạt sang cái xứ sở chết tiệt này. Nắng bắt đầu gắt, chúng tôi đi về lab. Buổi tập thể dục sáng thường kết thúc như vậy. Sau đó, chúng tôi quay về lab. Ở lab, mỗi đứa có một cái bàn nhỏ. Trên bàn, chúng tôi bầy la liệt đủ thứ: sách vở, máy tính, dao cạo râu, bàn chải đánh răng và dầu gội đầu. Thậm chí có lần tôi còn bắt gặp trong ngăn kéo bàn của thằng Ấn Độ có mấy cái bao cao su, chả biết nó mua ở đâu, nhưng tôi biết chắc chắn nó không dùng. Nó là thằng ngoan đạo. Công việc của chúng tôi khá đơn giản, chúng tôi thường gọi đùa là trò chơi nặn đất sét. Sensei giao cho tôi năm cái lọ đựng đủ các loại chất lỏng nhầy nhầy. Tôi bắt đầu trộn chúng với nhau, ngày nào cũng vậy. Ngày nào tôi cũng trộn năm dung dịch đó và chờ đợi. Một sự chờ đợi đầy mệt mỏi và sung sướng. Dung dịch có nhiều màu. Tôi cứ thế trộn và hy vọng. Hy vọng vào sự may mắn. Hy vọng rằng đôi khi Đấng Tối Cao cũng không quên những kẻ trộn dung dịch như tôi. Tôi chờ đợi Người ban ơn. Tôi ngồi trộn dung dịch vì biết rằng mình không đơn độc. Tôi ngồi trộn dung dịch để thấy mình còn tồn tại, mình còn có ý nghĩa. Tất cả mọi người ở lab chúng tôi đều làm như vậy và được trả lương. Chúng tôi ngồi trên những cái bàn nhỏ, tất cả đều im lặng, căng thẳng, run rẩy và sợ hãi. Tất cả chúng tôi đều cố lắng nghe một tiếng gọi mà chúng tôi tin rằng nó tồn tại mặc dù chưa từng ai trong tất cả chúng tôi nghe thấy. Trong trí tưởng tượng của tôi, nó có thể giống như là tiếng gió rít từ phía bên kia cánh đồng, hoặc tiếng quạ kêu trên nóc nhà, hay tiếng máy bay lượn lờ giữa đêm khuya như những bóng ma màu trắng. Nhưng rất có thể, trên thực tế chẳng có âm thanh nào cả. Chiều tối, sensei thu hết tất cả mấy lọ. Ngày hôm sau ông lại phát một loạt lọ mới. Ngày hôm qua, ông tôi khóc. Không có giọt nước mắt nào cả. Ông đờ đẫn nhìn vào bức tường màu trắng. Những vệt trắng nham nhở vốn là kết quả của một gã thợ nề vụng về không hiểu sao lại khiến tôi liên tưởng đến nét cọ của một tay họa sĩ siêu thực mà tôi quen ở quán cà phê. Tay này theo tôi vốn chẳng có tài cán gì, hắn chỉ là một tên bịa đặt. Những thứ hắn vẽ chả cái nào ra hồn cả. Hắn chỉ cho tôi một bức tranh tuyền màu trắng, chẳng khác gì người ta cầm một tấm vải nhúng xuống hố nước vôi, và bảo đây là bức “Gấu trắng ở Bắc cực”. Hiển nhiên là hắn chưa bao giờ đến Bắc cực cũng như chưa bao giờ nhìn thấy gấu trắng. Tôi nhìn sang một bức tranh toàn màu đen kịt và hỏi : “Thế bức này là Chó mực ở bãi tha ma à?”. Hắn bảo “Không. Đây là bức Bướm đêm”. Thế là chúng tôi cãi nhau. Hắn thì khăng khăng là hắn vẽ bướm đêm, còn tôi thì khẳng định là tôi chỉ nhìn thấy chó mực. Cuối cùng, cả tôi và hắn đều khóc, khóc vì những điều ngớ ngẩn xảy ra trong cuộc đời chúng tôi, vì những cái chúng tôi chẳng bao giờ hình dung ra được. Từ hôm ấy, tôi không bao giờ gặp lại hắn nữa. Ông tôi cầm chiếc quạt nan cũ kỹ lấy hết sức đập con ruồi trên bức tường. Tất nhiên, chả có con ruồi nào cả. “Lại trượt rồi”, ông lầm bầm và bắt đầu rấm rứt khóc. Tôi muốn dỗ dành ông nhưng không biết làm thế nào cả. Tôi chẳng nhìn thấy con ruồi nào cả. Tôi chỉ nhìn thấy nhát quạt của ông đập vào tường. Nhưng tôi không biết làm thế nào để nói cho ông hiểu được. Làm sao tôi có thể chứng minh được điều đó? Nhỡ có con ruồi thật thì sao? Tôi thấy buồn rười rượi. Tôi xấu hổ vì sự ngu dốt của mình. Vì tôi không nhìn thấy con ruồi. Buổi tối, tôi và bạn gái đi chơi Hồ Tây. Đang đi bộ trên đường Thanh Niên, đột nhiên một gã thanh niên đầu húi cua, mặt đầy sẹo, chặn chúng tôi lại, cười nhăn nhở nói với bạn tôi: “Em xinh như một con phò”. Đoạn hắn quay sang tôi cười giễu cợt. Tôi cụp mắt xuống. Tôi không dám nhìn vào mắt hắn. Tôi kinh hãi và hiểu rằng nếu có đánh nhau chắc tôi không phải đối thủ của hắn. Tôi im lặng. Tôi im lặng không phải vì tôi là kẻ khôn ngoan như những nhà hiền triết trong sách giáo khoa mà là vì tôi không biết nói gì. Tôi chưa bao giờ lâm vào tình huống khó xử như thế này. Thực ra, về sau này tôi mới nhận thấy rằng những tình huống kỳ quặc như vậy luôn luôn xảy ra. Nó xảy ra thường xuyên đến mức nhiều lúc tôi có cảm tưởng đó là ý muốn quái gở của Thượng Đế. Cuối cùng thì mọi chuyện cũng qua, hắn bỏ đi, còn tôi xấu hổ. Suốt đoạn đường còn lại, chúng tôi không nói với nhau lời nào. Ngày hôm sau, cô ấy gọi điện nói lời chia tay sau “một đêm suy nghĩ rất kỹ”. Cô nói rằng cô không chịu đựng được ý nghĩ rằng người yêu mình là kẻ hèn nhát. Tôi chẳng nói gì. Kẻ hèn nhát không nên nói gì cả. Tôi chia tay mối tình đầu trong nhục nhã. Từ đó trở đi, tôi kinh tởm đàn bà. Buổi chiều, gió mạnh và nắng gắt. Tôi hay cảm thấy đau đầu vào những lúc như thế. Đầu nhức như búa bổ, tôi không còn giữ được sự tỉnh táo cần thiết để nhận biết mọi thứ nữa. Thay vì trộn dung dịch màu trắng vào dung dịch màu đen, tôi lại trộn dung dịch màu xanh vào màu đỏ. Và kết quả là chả ra sao cả. Gió vẫn thổi mạnh, tai tôi ù đi vì sợ hãi. Tôi chẳng còn nghe thấy gì nữa ngoài tiếng gió. Càng cố gắng tập trung, tôi càng mất phương hướng. Tôi không còn nghĩ được điều gì nữa. Óc tôi như bị vỡ vụn thành trăm mảnh. Sensei đưa cho tôi cốc nước, tôi chẳng kịp nhìn xem nó màu gì, hình như là màu xanh. Tôi uống nhưng kết quả cũng không khá hơn. Tôi bắt đầu nghe thấy tiếng lầm bầm ở đâu đó. Một giọng nói đứt quãng, và lí nhí đến nỗi tôi lúc đầu tôi không thể phân biệt đó là giọng người lớn hay trẻ con. Cuối cùng tôi cũng nhận ra là có hai người đang nói chuyện. “Chỗ này lạnh lắm, mẹ ạ” - giọng một thằng bé khoảng năm sáu tuổi nói. “Nhưng mình đi tìm hai mươi năm nay đâu có chỗ nào tốt hơn”- người mẹ nói. Giọng bà ta trầm đục và có vẻ mệt mỏi. “Thế bố có ở đây không?” - thằng bé lại hỏi. “Mẹ không biết. Con đừng hỏi nữa, mẹ mệt lắm rồi. Mình dừng ở đây thôi. Thôi mình đi ngủ đi con.” Từ hôm đó trở đi ngày nào tôi cũng nghe thấy tiếng hai mẹ con họ vào lúc trước khi đi ngủ. Tôi kể cho thằng Bangladesh nhưng nó không tin. Nó chả tin vào cái gì ngoài lễ ramadan và những con lợn bẩn thỉu. Ngày nào đối với nó cũng thuộc về tháng ramadan. Nó chỉ ăn vào buổi tối sau khi mặt trời lặn. Sensei nhiều lần cố nhét thức ăn vào mồm nó nhưng không được. Hai mẹ con họ nói đủ thứ chuyện trên đời. Thỉnh thoảng họ lại nhắc đến người bố giấu mặt. Buổi tối, tôi đi dạo trong thành phố. Một thành phố đơn điệu. Không văn hóa, không lịch sử, không gì cả. Chỉ đơn giản là nơi người ta đến ở, rồi một lúc nào đấy đột nhiên họ quyết định gọi nó là thành phố. Chín giờ tối, không một bóng người. Cứ đi khoảng vài trăm mét, tôi lại thấy một công viên mini. Buổi tối chúng giống như những nghĩa địa. Tôi đi mãi và thấy mệt mỏi. Chẳng có gì đặc biệt, những ngôi nhà giống hệt nhau với những cái mái hình chóp và hàng rào bằng một loại cây nào đó mà tôi không biết tên. Tôi cứ thế đi một mình, chẳng có gì cả ngoài sự sợ hãi. Một thành phố chết. Tôi nằm trên cái ghế đá, nước mắt trào ra. Tôi nhớ đến những buổi tối ngày xưa, tôi hay ngước nhìn bầu trời đầy sao và thấy mình hạnh phúc. Giờ đây, cái niềm vui ấy cũng chẳng còn nữa. Những ngôi sao kia giờ chỉ làm tôi cảm thấy sợ hãi. Chúng đang cười nhạo tôi. Nỗi sợ hãi mơ hồ cứ thế lớn dần lên. Tôi quá đơn độc dưới bầu trời này. Tôi cứ nằm yên như thế, y như một kẻ tội đồ chờ đợi hình phạt. Sáng sớm hôm sau, mới sáu giờ sáng, thằng Bangladesh đã đánh thức tôi dậy. Tôi lật đật chạy theo nó ra hành lang. Thân hình cao lớn của nó trong cái ánh sáng lờ mờ của buổi sáng mùa đông trông thật khủng khiếp. Thỉnh thoảng, tôi vẫn hình dung ra cảnh nó bóp cổ mình. Với cánh tay lực lưỡng đầy lông lá kia, chắc chắn tôi, cho dù cố gắng giãy giụa đến đâu, cũng không chịu đựng được quá năm phút. Đến cuối hành lang, nó chỉ ra sân trường, rồi thì thầm hỏi: “Mày có nhìn thấy gì không?”. Tôi hơi ngạc nhiên, mới sáng ra mà nó đánh thức mình dậy để nhìn sensei đang nói chuyện với một ông giáo ở lab khác ở dưới sân trường hay sao. Tôi thờ ơ đáp: "Sensei đang nói chuyện". "Thế mày không thấy gì khác lạ à?" - nó hơi thất vọng. "Chả có gì. Ông ấy vẫn thế." "Mày nhìn quần áo ông ấy xem?" - nó lại thì thầm". "Ừ. Nó có vẻ không giống mọi ngày." "Đấy. Mày bắt đầu thông minh rồi đấy. Mọi ngày ông ấy lúc nào cũng mặc đồ trắng. Nhưng cả tuần nay tao để ý. Trước giờ tập thể dục của bọn mình, chẳng bao giờ ông ấy mặc đồ trắng. Chỉ khi nào gặp bọn mình ông ấy mới mặc đồ trắng thôi." "Thì sao?" "Chẳng sao cả. Tao chỉ thấy lạ thôi. Mà đó là một phát hiện quan trọng đấy. À mà mày đã biết chuyện gì chưa?" - nó lại chuyển sang giọng thì thầm. Chuyện gì nữa đây? - tôi hơi bực mình. Nó đánh thức mình dậy sớm chỉ vì một chuyện hết sức vớ vẩn mà nó cho là unusual. Chúng tôi làm thí nghiệm suốt ngày chỉ mong có cái gì unusual với lại unexpected xảy ra. Nhưng rốt cục nó lại chẳng bao giờ xảy ra. Tất cả mọi thí nghiệm đều diễn ra hết sức bình thường, bình thường đến mức buồn tẻ, bình thường đến mức chúng tôi chẳng cần nhìn cũng biết kết quả nó phải thế, không thể khác được. Nhưng cuộc sống của chúng tôi thì ngược lại. Chẳng có một quy luật nào hết. Tất cả đều diễn ra hết sức lộn xộn, lộn xộn một cách bất bình thường. “Thằng Ấn Độ sắp lấy vợ”- nó vẫn thì thầm. Đột nhiên, tôi thấy rùng mình. Tôi nhớ có lần thằng Ấn Độ bảo với tôi rằng có đến tám mươi phần trăm dân Ấn cưới nhau theo kiểu arranged marriage. Nó cũng nằm trong cái tám mươi phần trăm của cái đất nước gần một tỷ dân ấy. Nó chẳng có sự lựa chọn nào hết. Cô dâu của nó có đẳng cấp cao hơn nó một bậc, một intercaste marriage theo cách gọi của nó. Điều duy nhất mà nó biết về cô dâu tương lai là một tấm ảnh. Tôi đã từng xem tấm ảnh ấy một lần. Cô gái trong ảnh khá dễ thương trong bộ quần áo cổ truyền Ấn Độ. Có lẽ khi chụp tấm hình này, cô không nghĩ rằng một ngày nào đó tấm ảnh sẽ là mối liên hệ duy nhất với vị hôn phu tương lai của cô. Tôi hỏi thằng Ấn Độ: - Thế mày được chọn cái gì? - Voi - nó lầu bầu - Tao được chọn con voi dành cho lễ cưới. Tao sẽ cưỡi lên con voi đấy trong ngày cưới. Dù sao, tao cũng có sự lựa chọn mặc dù nó không quan trọng lắm. Ngay từ sáng sớm, bố mẹ thằng Ấn Độ đã đến ngồi chờ ở phòng tiếp tân. Họ đến để đưa nó về Ấn Độ làm đám cưới. Nó không chịu về. Họ phải bay một quãng đường dài để đến đây đưa nó về quê lấy vợ. Dù sao, nó cũng không thể trốn tránh trách nhiệm. Nó có trách nhiệm duy trì nòi giống. Nó có trách nhiệm cưới cô gái mà Thượng Đế dành cho nó. Đấy là truyền thống mà nó không thể phá vỡ. Nó chẳng có sự lựa chọn nào cả vì nếu có chắc chắn nó sẽ không chọn sinh ra làm người Ấn Độ. Bố mẹ nó trông nhỏ bé và nhẫn nhục so với căn phòng tiếp tân quá rộng và quá sang trọng. Họ có nước da ngăm đen rất đặc trưng. Ông chồng để ria mép; cùng với cái trán hói, nó càng làm ông thêm nhỏ bé và nhẫn nhục. Bà vợ đội khăn trùm gần kín mặt nhưng nó vẫn không che được những nếp nhăn mà chỉ cần nhìn thoáng qua người ta đã thấy nó tồn tại mặc dù có thể thị giác không ghi nhận được thông tin về những nếp nhăn đó. Thằng Ấn Độ buồn bã đi theo bố mẹ nó ra khỏi trường. Thỉnh thoảng nó ngoái lại nhìn chúng tôi. Không hiểu sao tôi thấy đôi mắt thằng Ấn Độ buồn ngơ ngác giống hệt đôi mắt con chó cún của tôi ngày trước lúc nó sắp chết. Một tháng sau, chúng tôi nhận được tin nó mất. Một cái chết kỳ lạ. Thằng Bangladesh ngày càng ăn ít và tất nhiên là nó chỉ ăn vào buổi tối vì những ngày lễ ramadan chẳng bao giờ kết thúc. Nhưng điều kỳ lạ nó không giảm cân nào. Nó giấu thức ăn thừa dưới gầm giường cho đàn chuột. Khoảng nửa đêm, bọn chuột bắt đầu rúc rích mò vào phòng. Chúng bò lổm ngổm trên sàn nhà, leo lên cả bàn học. Mà không chỉ có thế, chúng vừa chạy vừa kêu rinh rích đầy khoái trá. Tôi căm ghét những con chuột màu xám với đôi mắt thao láo; chúng chẳng bao giờ biết xấu hổ. Thằng Bangladesh, ngược lại, rất quý đàn chuột. Nó thường túm cổ lấy con to nhất, vuốt ve một cách rất trìu mến khiến con chuột lim dim vì khoái cảm rồi đột nhiên nó bóp mạnh một cái. Con chuột bị đau kêu oai oái và cuối cùng không chịu đựng được con chuột quay đầu lại cắn một nhát vào tay khiến thằng Bangladesh phải buông tay ra. Ngày nào thằng Bangladesh và con chuột cũng chơi trò đấy. Điều kỳ lạ là con chuột mặc dù rất đau nhưng vẫn vui vẻ tham gia vào trò chơi cùng thằng Bangladesh, cứ như thể giữa chúng có một sự thỏa thuận ngấm ngầm trong trò chơi bệnh hoạn đó. Đàn chuột ngày càng đông, thức ăn thừa của thằng Bangladesh dần tỏ ra không đủ đáp ứng cho cái thói phàm ăn và sinh sản nhanh khủng khiếp của những con chuột, mặc dù thằng Bangladesh đã cố gắng nhịn ăn đến mức tối đa. Thậm chí, nó còn mang cả lọ mứt mà mẹ nó gửi cho nó ăn cả năm để cho đàn chuột ăn trong một tuần. Rồi nó bắt đầu đi xin cả thức ăn thừa của những đứa phòng bên cạnh nhưng dường như nỗ lực của nó chả thấm vào đâu. Cuối cùng thằng Bangladesh quyết định giảm số lượng đàn chuột. Đầu tiên là con chuột đầu đàn. Tối hôm đó, thằng Bangladesh vẫn chơi trò chơi thường lệ với con chuột rồi đột nhiên nó bóp mạnh vào mình con chuột. Con chuột quay đầu lại cố gắng cắn vào tay thằng Bangladesh nhưng lần này nó không buông tay. Bàn tay hộ pháp của nó càng tóm chặt con chuột hơn. Con chuột kêu la thảm thiết. Nó không ngờ lại có kết cục này. Trò chơi của ngày hôm qua cuối cùng cũng kết thúc. Con chuột biến thành một đống bầy nhầy trong tay thằng Bangladesh. Trong bóng tối, tôi vẫn nhìn thấy rõ trên khuôn mặt thằng Bangladesh hiện ra một nụ cười bí hiểm. Từ hôm đó trở đi, ngày nào thằng Bangladesh cũng giết vài con chuột. Đàn chuột ngày càng trở nên khôn ngoan nhưng thằng Bangladesh còn thông minh hơn. Ngày nào nó cũng tóm được vài con chuột. Những con chuột còn lại phần vì nhu cầu thức ăn, phần vì cái ảo tưởng rằng với kinh nghiệm của ngày hôm qua chúng có thể dễ dàng chạy thoát khỏi bàn tay của thằng Bangladesh nên vẫn mò lên phòng vào ban đêm. Số lượng chuột giảm rất nhanh. Đêm hôm qua, nếu như tôi đếm chính xác thì chỉ còn mười hai con chuột. Thằng Bangladesh thì càng ngày càng say mê với trò chơi giết chuột nhưng bây giờ mỗi ngày nó chỉ giết một con vì đàn chuột giờ còn rất ít. Tôi để ý thấy khuôn mặt nó ngời sáng lên mỗi khi nhìn thấy con chuột giãy giụa trong lòng bàn tay, ngời sáng đến mức trong bóng đêm tôi vẫn có thể nhìn thấy cái vẻ long lanh rất khó tả trên đôi mắt thằng Bangladesh. Chiều hôm qua, thằng Bangladesh nhận được một tin đặc biệt. Buổi tối, nó không buồn ăn cơm. Dường như có cái gì bất ổn trong tâm trạng của nó. Cuối cùng nó nói với tôi: - Tao phải về Dhaka làm giáo sư. - Tuyệt vời - Tôi nói - Mày có thể làm cái mà mày thích. - Tao cũng chẳng biết nữa - Nó buồn bã lắc đầu - Từ trước đến giờ, tao chưa bao giờ làm cái gì độc lập cả. Tao sợ sự đơn độc. Nhất là trong nghiên cứu. Tôi không nói gì. Tôi cũng thế. Tôi sợ nỗi cô đơn khi phải đi một mình trên con đường mà mình không biết phương hướng. Thằng Bangladesh đột nhiên nói: - Mày có muốn đi cùng tao không? Tôi không trả lời. Im lặng kéo dài suốt buổi tối. Chúng tôi ngồi theo đuổi những ý nghĩ riêng. Chúng tôi nghĩ về tương lai trong nỗi khiếp sợ. Cuộc sống rồi sẽ ra sao đây? Ngày hôm qua, tôi đi đưa đám một người bạn thân thời phổ thông; anh mất ở bệnh viện tâm thần ở Trâu Quỳ. Một bệnh nhân tâm thần cùng phòng đã bóp cổ anh cho đến chết; sau đó, hắn dùng một con dao, loại vẫn dùng để rọc giấy, tự cắt cổ mình. Cho đến nay, anh vẫn là người tôi kính trọng nhất vì nghị lực và ý chí. Năm anh lên sáu, bố anh bỏ nhà theo một người đàn bà khác. Mẹ anh phải làm rất nhiều việc như gánh nước thuê, bán hàng rong, vé số... để nuôi hai anh em anh. Hàng ngày, anh học một buổi còn một buổi phải đi bán kem để có tiền mua sách vở và đóng học phí. Anh luôn là người đứng đầu trong mọi kỳ thi. Hết năm thứ hai đại học, anh được học bổng sang Nhật học. Cùng năm đó, mẹ anh bị tai nạn giao thông, phải cưa hai chân. Đứa em gái anh, có lẽ vì quá mệt mỏi trước cuộc sống gia đình, đã bỏ nhà đi bụi đời. Mấy năm sau, người ta tìm thấy xác nó trong một ngôi nhà hoang ở ngoại thành. Cái chết của nó cho đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân. Sau khi đứa em gái anh bỏ nhà đi, mẹ anh sống với một người bà con nhờ số tiền trích từ học bổng hàng tháng anh gửi về. Học xong tiến sĩ, bạn tôi về nước và một thời gian sau đó thì mắc bệnh thần kinh. Sau đám tang, mẹ anh đưa cho tôi một cuốn vở nhỏ, loại vở có dòng kẻ ô ly vẫn dùng cho học sinh cấp một; bà nói rằng đây là thứ mà bệnh viện họ tìm thấy ở dưới gầm giường anh. Bà muốn nhờ tôi đọc hộ vì bà không biết chữ. Tôi mở cuốn vở ra, đó là nhật ký anh viết trong những ngày ở Trâu Quỳ. Nhật ký bắt đầu bằng câu: "Ngày hôm qua...". [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tấm vé số[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Wendy Laing[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mảnh giấy chao liệng trong không trung rồi len qua dòng người đang hối hả bước lên cầu thang nhà ga để kịp đón chuyến tàu chở họ về với gia đình vào ngày cuối tuần. Mưa bắt đầu trút khi có tia chớp lóe lên trên bầu trời u ám. Tiếng sấm chớp đùng đùng làm cho cả khu vực nhà ga như rung lên. Đó là một buổi tối mùa đông khốn khổ lạnh lẽo và đầy gió. Một đôi mắt tròn sáng dõi theo mảnh giấy khi nó đáp xuống rãnh nước, rồi trôi dọc theo lề đường lát đá. Đôi mắt của ông lão lang thang tên Jo, một trong số rất nhiều người vô gia cư của thành phố. Lão chẳng có nhà để về. “Nhà” của lão là một cái thùng gỗ rộng cũ kỹ nằm trong một con hẻm gần nhà ga. Lão đang trú ẩn dưới mái hiên che dọc nhà ga để tránh cơn mưa bất chợt. Jo đứng tựa vào cái cột chống đỡ mái hiên. Có hai lý do khiến lão đứng ở đó. Một là cái cột giúp lão đứng thẳng người, vì lão đang say mèm ra. Hai là trên cột có treo một thùng rác, đây là nơi lão thường tìm thấy những món ăn thừa ngon lành mà các khách hàng quen thuộc của cửa hàng bán thức ăn nhanh gần đó vứt bỏ. Dù trời lạnh, đầy gió và ẩm ướt nhưng lão cũng chén được một bữa ra trò. Lão đã khoắng được trong thùng rác một ít bánh hamburger, khoai tây chiên và nửa ổ bánh mì ăn dở. Sự thừa mứa của người khác lại trở thành bữa ăn ngon cho lão. Lão mặc một chiếc áo khoác quân đội bằng len đã cũ và nặng trĩu, chiếc áo khoác mà lão để dành được từ thời đi lính. Lão đã không nộp lại nó lúc giải ngũ sau khi hoàn thành chuyến đi cuối cùng đến Nhật để thả bom tàn phá thành phố Hiroshima. Lão cho rằng chuyến đi đó là nguyên nhân của chứng nghiện rượu hiện nay của mình. Lão quì xuống nhặt mảnh giấy lên khi nó trôi qua. Một tia chớp lóe lên sáng rực bầu trời tối đen trên đầu. - Mẹ kiếp! - Lão thốt lên. Một quí bà đang đi ngang qua đó dừng lại và trừng mắt nhìn lão. Jo đội mũ lên và nói: - Xin lỗi bà! Bà ta lắc đầu rồi thở dài ra vẻ chịu đựng, sau đó vội vã bước lên cầu thang. Jo dùng cái khăn tay đã cáu bẩn của lão cẩn thận lau khô mảnh giấy. Đó là một tờ 50 đôla! - Thánh thần thiên địa ơi! - Lão thì thào, hi vọng không ai nhìn thấy lão đã nhặt được tờ tiền đó. Và quả thực chẳng ai thấy cả. Tờ giấy bạc thuộc về lão. Jo cố tính toán trong cái đầu óc đang quay cuồng vì say xem mình sẽ mua được bao nhiêu chai rượu rẻ tiền. Vậy là lão sẽ có một cuối tuần thật sung sướng! Thật là tiếc tại sao khi nãy lão lại ních đầy bụng những thức ăn thừa kia. Giờ thì lão có thể mua cả một chiếc bánh hamburger loại lớn. Lão lê bước xuống con đường để đến cửa hiệu bán rượu gần nhất. Những ký hiệu tiền cứ bay lượn lờ trong đầu lão. Hên thật! Chắc là giấc mộng làm giàu của lão sắp trở thành hiện thực rồi! - Một chai y như cũ phải không bác Jo? - Anh chàng đứng bán sau quầy hỏi. - Không, tối nay làm luôn hai chai! - Lão lè nhè, hãnh diện đưa ra tờ giấy bạc để trả tiền. Sau đó lão cẩn thận đếm tiền thừa rồi xếp chúng gọn ghẽ trong chiếc ví nhàu nát của mình. - Đúng rồi bác Jo ạ, đừng xài hết tiền hưu một lúc. Tối nay bác nhớ ăn uống cho đàng hoàng nhé! Jo mỉm cười. Mick có ý tốt với lão đấy chứ! Thật ra nếu có thể xem chủ cửa hiệu bán rượu là bạn thì anh chàng Mick này là người bạn duy nhất mà lão có. Lão còn có mấy người xem như bạn nữa tại Mái ấm địa phương. Mỗi tuần người ta đều gửi tiền hưu quân đội đến đấy cho lão. Những con người tốt bụng và thân thiện điều hành mái ấm đó đảm bảo cho lão được ăn uống tử tế và tắm rửa sạch sẽ mỗi khi lão đến đấy nhận tiền hưu. Sau vận may 50 đôla vừa rồi, lão đã quyết định sẽ không đến Mái ấm để lãnh tiền. Buổi tối đó phải được dành cho ăn mừng và những giấc mộng giàu sang. Đêm còn lại đối với lão Jo bao giờ cũng tràn ngập những hình ảnh mập mờ và những cơn ác mộng tái diễn về bom nguyên tử, những cơ thể không lành lặn và những người lính kêu gào. Sau cơn say khướt, lão cuộn mình trong cái thùng gỗ cũ, chìm vào giấc ngủ. Những âm thanh của thành phố sáng thứ bảy đánh thức lão dậy trong ánh sáng ban ngày chói chang. Lão vội sờ tay vào ví. Ừ, tiền vẫn còn nằm yên trong đấy! Lão đi về phía cuối hẻm quay mặt vào tường để “trút bầu tâm sự”. Một đám trẻ bụi đời lững thững đi ngang qua. Chúng không thèm đếm xỉa gì đến lão. Đối với chúng, lão chỉ là hình ảnh mà chúng không muốn trở thành sau này. Một số đứa còn chẳng đủ thọ để sống đến tuổi của lão. Chúng đơn thuần chỉ là những con số thống kê. Jo là “người lang thang định cư” tại nhà ga phố Flinders này. Có nhiều cư dân thành phố nhận ra lão. Vào giáng sinh, một số nhân viên văn phòng làm việc gần đó còn chúc mừng lão và tặng lão mấy hộp thức ăn và rượu nữa. Jo dựa lưng vào cái cột nằm kế bên cầu thang nhà ga, nhìn đám đông buổi sáng đi vào các cửa hiệu. Thứ bảy là ngày của gia đình. Lão nhớ lại tuổi thơ khi nhìn thấy những đứa trẻ hạnh phúc được bố mẹ dắt vào thành phố chơi. Lão xót xa khi những bà mẹ lo âu kéo con mình ra xa lão như thể lão dơ dáy lắm vậy. Lão cũng đã từng có một cuộc hôn nhân hạnh phúc và có những đứa con, nhưng rồi chiến tranh đã làm thay đổi tất cả những giấc mơ ấy. Giờ đây lão chỉ gặp toàn ác mộng về sự tàn bạo và những cảnh tượng mà lão không thể nào quên trong chuyến đi cuối cùng đến Nhật Bản. Đến lúc phải nhấp chút rượu rồi. Môi lão khô đắng vì thiếu rượu. Mưa đã tạnh nên lão có thể ngồi trên ghế đá bên bờ sông và lặng lẽ uống. Khi bước ra khỏi cửa hiệu bán rượu, lão nhìn thấy dòng tiêu đề trên tờ báo mắc trên quầy báo ở góc phố. “XỔ SỐ MAY MẮN 10 TRIỆU ĐÔLA TỐI NAY!” “Cha mẹ ơi, với chừng ấy tiền, ta sẽ mua một căn nhà có hồ bơi rồi đổ đầy sâmbanh vào hồ và bơi trong đó. Nếu có chết đuối thì ta cũng chết trong niềm sung sướng!” - Lão bật cười với những suy nghĩ của mình. Sao không mua một vé nhỉ? Chỉ mất có 2 đôla thôi. Số tiền còn lại lão sẽ giữ để mua rượu. Hai phút sau, Jo bước vào hàng bán vé số gần nhà ga. Người phụ nữ đứng sau quầy nhìn lão khinh bỉ như thể lão đã làm ô nhiễm cả cửa hàng vậy. Jo không thèm chú ý đến thái độ lạnh lùng ấy, lão cẩn thận đếm tiền trước mặt cô ta. - Tôi đoán ông già không muốn đăng ký tên để mua vé đâu, vì chúng tôi cần có địa chỉ nhà và số điện thoại. - Không, tôi sẽ không đăng ký tên - lão lịch sự đáp lại. “Con nhỏ thấy ghét!” - lão nghĩ. Lão để ý thấy cô ả nhìn vào hai cái túi đang phình lên của lão. Mỗi bên miệng túi lòi ra một đầu chai rượu. Lão đưa cô ả một tờ 5 đôla rồi chờ nhận vé và tiền thừa. Cô ả liếc xéo rồi dằn tờ vé số xuống quầy trước mặt lão với thái độ cộc cằn, trong khi lão cứ cẩn thận giữ nguyên chỗ đứng trong hàng và đếm tiền thừa. - Lão sợ bị thối tiền thiếu lắm cô ạ! - lão khịt mũi nói với cô ả rồi bỏ đi. Thật là một ngày cuối tuần tuyệt vời đối với Jo. Đó là những gì lão nhớ nổi khi còn ngà ngà say vào sáng thứ hai. Dĩ nhiên lão nhớ rõ rằng lão có nhiều tiền để mua rượu và đã mua một cái bánh hamburger lớn cùng tờ vé số vào tối thứ bảy trước khi trở về nơi ẩn náu tại cái thùng gỗ mà lão rất thương mến để làm thêm một chai nữa rồi ngủ. Buổi sáng thứ hai đến trong không khí lạnh lẽo ẩm thấp báo hiệu một ngày âm u. Jo đứng quay mặt vào khu vực riêng của lão ở cuối hẻm để giải quyết tâm sự. Mấy ngày gần đây hai quả thận của lão không thể chờ cho đến khi lão tới được nhà vệ sinh công cộng ở góc đường. Lão cũng thấy không khỏe trong người lắm. Dạ dày lão đau râm ran, còn ngực thì tưng tức khó thở. “Chắc là cái khối u dạ dày nó lại trở chứng rồi!” - lão thầm nghĩ như thế trong lúc lê bước ra khỏi con hẻm và băng qua đường để đi đến địa điểm quen thuộc của lão tại cái cột, cạnh thùng rác. Những dòng tựa đề trên báo như muốn nhảy xổ vào mặt lão. “MỘT NGƯỜI VÔ DANH TRÚNG SỐ 10 TRIỆU ĐÔLA” Lão lảo đảo bước đến quầy báo để mua một tờ. Người bán báo gần như té khỏi ghế vì đây là lần đầu tiên Jo mua một tờ báo. - Không biết thằng cha nào mà hên ghê vậy! - tay bán báo nói với lão. - Ờ. Trúng cả một đống tiền! - Jo đáp. Lão mở to đôi mắt lờ đờ cố đọc dãy số rồi lấy tờ vé số trong túi ra để dò. Một tia chớp lóe lên trên bầu trời buổi sáng xám xịt, ngay sau đó là một tiếng sấm rền vang. - Má ơi - lão kêu lên. Đầu lão quay cuồng. Lão thấy khó thở quá. Cơn khó thở nơi lồng ngực biến thành một cơn đau khủng khiếp như xé toạc người lão ra khi lão thở hổn hển - Trúng rồi! Cơn đau bùng phát dữ dội. Lão cố kêu lên, nhưng đột nhiên lão thấy choáng váng, đuối sức rã rời. Lão loạng choạng bước về cái cột, bám vào đó rồi đổ gục xuống đất. Lão không thở được nữa. Lão nghĩ: “Ta đã trúng số rồi! Giấc mơ của ta trở thành sự thật rồi! Ta trúng độc đắc! Ta là triệu phú!... A!”. Cơn đau xâm chiếm toàn bộ cơ thể lão. Người ta đi qua, giả vờ như không trông thấy lão. Lão chỉ là một ông già lang thang, một con sâu rượu, một con người bị bỏ rơi, một con số thống kê không hơn không kém. Ai thèm quan tâm chứ? Trời bắt đầu đổ mưa khi Jo trút hơi thở cuối cùng. Một cơn gió thổi bay tấm vé số ra khỏi bàn tay giờ đã mềm oặt của Jo. Đôi mắt chết trân của lão nhìn thấy tờ vé số trúng 10 triệu đôla đáp xuống rãnh nước. Linh hồn lão rời khỏi cơ thể như một tiếng thở dài buồn bã khi tờ vé số mơ ước trôi xuống cái cống ngập nước, biến mất mãi mãi... [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tân cảng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Thị Thu Huệ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ba giờ. Căn nhà của họ một tầng, rộng hai trăm năm mươi mét vuông, năm phòng nằm trên con đường gần phi trường, bên cạnh vài chục biệt thực của những thương gia đang giàu lên thời cơ chế thị trường. Mặt tiền của căn nhà rộng mười bốn mét, chia làm hai phần lệch nhau. Bên nhỏ dành cho đường ôtô vào gara, bên to là hàng rào thưa và cao, màu xanh lá cây thẫm. Sau hàng rào là khoảng vườn rộng, trồng cỏ và hoa. Mùa hè. Những bụi hoa mẫu đơn ba màu mượt mà bên những hàng tóc tiên. Có một cây xoài cao vượt quá mái nhà, cành thưa nhưng trái lại nhiều. Mỗi chùm có từ năm đến bảy trái. Những trái xoài xanh ngắt phần đuôi nhưng lại vân đỏ phần cuống, mịn màng phấn như má con giá 16. Dọc thân cây xoài là những giò phong lan rủ dài với những cánh hoa, đẹp như không có thật. Qua vườn là phòng khách được ngăn bởi hai tấm cửa kính cao từ đất lên tới trần. Bộ sa lông anh mang từ Hy Lạp, những hoạ tiết vằn vện nâu vàng như thảm hoa cúc gấm dọc đường Nghi Tàm khi Tết đến. Mỗi khi ngồi lên thảm hoa êm ái đó, như có cảm giá dịu êm của nhiều bàn tay vô hình vuốt ve. Một cánh cửa kính lớn để sang phòng ngủ của họ, những cửa sổ trông ra vườn. Bình minh lên. Ánh sáng hồng nhạt rồi vàng dần hắt từ ngoài vườn. Từ những tán lá xanh của bụi mẫu đơn lóng lánh đủ màu. Từ những hạt sương đêm đọng lại hay của những giọt nước sau cơn mưa rào hiếm hoi nhanh đến nhanh đi của trời Sài Gòn. Và đêm đến. Trăng lên. Khu vườn như nhuộm bạc. Mờ ảo lắm nhưng cũng rõ ràng lắm. Và khi cơn gió đi qua, tất cả trở nên ma quái. Cạnh phòng của anh chị là phòng các con. Anh chị lấy nhau mười năm thì tám năm nghèo. Lúc nào họ cũng hớt hải, vội vàng chả đâu vào đâu. Có được ít tiền hay mua được một thứ đồ gì là mừng cuống lên như thể niềm vui đó bất diệt hơn mọi niềm vui trên đời. Rồi bỗng dưng anh nhận được từ bạn bè một hợp đồng đi làm cố vấn luật cho vụ kinh doanh ở Hy Lạp - một đất nước xa xôi anh rất yêu và hiểu về nó qua những gì anh đã đọc và đã biết. Hai năm sau. Anh mang về từ gạch lát nền, gạch lát tường buồng tắm, những bộ bàn ghế, những chiếc đèn bàn, đèn ngủ. Và mua được mảnh đất vuông vắn cũng do bạn tốt bán lại. Anh xây một cung điện cho bốn người sau bao năm sống trong môi trường công cộng. Ba năm sau ngày họ có căn nhà, cuộc sống này. Họ còn lại một ngày. Bốn giờ. Chị và thằng lớn học lớp bảy về căn nhà chị đã ra đi gần một năm trên một chiếc xe hơi thể thao đời mới màu xanh - lại màu xanh chị thích. Màu xanh từ hàng rào, từ những tay vịn cửa, từ chân những chiếc đèn ngủ, đến những chiếc khăn bông trong nhà tắm. Thằng em lên sáu cười toét miệng chạy từ phòng khách ra khi xe của chị đỗ ở cửa, chứng tỏ nó đã đợi từ lâu. Nó líu lưỡi hét vào trong nhà gọi chị giúp việc: "Chị Ba, mở cửa cho má với anh". Chị giúp việc trên bốn mươi tuổi, nhỏ bé, gọn gàng như thanh lương khô chạy ra, tay lắc chùm khoá xủng xoảng, lập cập tra chìa vào ổ. Vừa kéo rộng cánh cổng sát, vừa hỏi: "Mợ cho xe vô luôn?" Chị lắc đầu lôi trong xe ra một bọc to tướng: "Thôi khỏi, để xe về bên kia". Hai thằng bé đã theo nhau vào trong phòng riêng và khép cửa lại. Chiếc giường tầng của chúng giờ xếp những bọc chăn mền và quần áo lạnh. Ngày xưa. Buổi tối. Thằng anh nằm học thuộc lòng tầng trên. Thằng em ngồi chơi xếp hình tầng dưới, lẩm bẩm đọc theo thằng anh giống một con yểng. Khi chuông đồng hồ thả 9 nhịp chuông, chị ngó vào, nháy mắt với 2 thằng, ngó nghiêng một lượt chờ thằng anh xếp gọn sách vở vào cặp rồi tắt điện. Đóng cửa. Trong căn phòng vàng nhạt, mờ ảo, thằng anh nằm sấp, thò hai tay xuống nắm lấy hai bàn tay bé xíu của thằng em, kéo nó lên dần dần qua những bậc thang sắt, thì thào "Giữ chặt tay anh". Yên ấm cạnh nhau rồi, thằng anh hỏi: "Hôm nay bác mua chuyện gì?" "Chuyện ông huyện về quê". Thằng em cười rinh rích "Bác mua bao nhiêu lần rồi ăn không chán à". "Không bao giờ tôi chán ông lão đánh cá cả". "Ngày xưa... ở một bờ biển kia... có một ông lão đánh cá"... "Nhà ông rất nghèo, không có cái gì ngoài một chiếc máng cỏ...". Giọng thằng em tiếp theo. Đấy là ngày xưa. Còn bây giờ. Thằng em đổ vào tay thằng anh một đống những miếng nhựa, ngọng líu: "Bố mua Lêgô cho em xếp đấy, giống nhà mình cực". "Ừ, xếp lên sẽ giống nhà mình". Thằng anh gật gù. Trong lúc đó, thằng em chui vào các xó, hì hục lôi tất cả những đồ chơi nó có, chất thành từng đồng như cửa hàng không thiếu một cái gì. "Cái tàu điện này dài ơi là dài". Nó nói. Rồi đưa tay thằng anh chiếc điều khiển "Chạy nhanh cực, vừa thay hai cục pin liền". Mắt nó tròn nhay nháy như hai hạt nhãn chờ đợi thằng anh bật điều khiển. Chiếc tàu điện với đầu tầu kéo hơn ba chục toa nhỏ chạy như con sâu trên đường ray mỏng mảnh. Thằng em sung sướng nhìn thằng anh để chia sẻ sự thích thú chứ không phải nó thích đoàn tàu. Tất cả những thứ này với nó quá quen. Ngoài giờ đến trường. Nó sống một mình với những đống đồ chơi ngày càng hiện đại, những băng phim hoạt hình và tivi mở suốt ngày. Giờ thì nó có anh để chia sẻ sự thích thú. "Cái ôtô cứu hoả này kêu hơi bị sướng tai". Thằng em nói và bấm nút điều khiển chiếc ô tô. Chiếc xe rú còi chạy rầm rầm đâm thẳng vào bức tường, cỏi rít lên như xuyên thẳng vào tai. Năm giờ. Chị ngồi bệt dưới thảm. Nhìn ra vường. Chiều xuống thong thả. Nhẹ nhàng. Khu vườn nhuộm màu vàng sậm, ánh chút đỏ phía góc trời. Anh vào. Trên tay là chiếc khay có 2 cốc nước trong suốt màu nâu tím, vài viên đá tròn xoe nhảy nhót. Họ im lặng. Đẩy khay nước về phía chị, anh quay sang bật tivi. Bản tin thời sự chiều. Tình hình chiến sự ác liệt đẫm máu ở Côsôvô. Bom đạn trùm lên thành phố. Nhà đổ. Người chết. Những đoàn người già, trẻ ngơ ngác chạy loạn. Những đứa trẻ nằm thoi thóp trên giường bệnh, hai mắt trắng đục. Chị rùng mình. Anh tắt tivi. Và bật nhạc. Tiếng hát Tuấn Ngọc, từ tốn, mạch lạch nhưng da diết vang lên. Căn phòng trở nên ấm áp, bình yên "Thôi. Xin hãy cho tôi tạ từ. Xin hãy cho tôi qua đời em"... Chị lại rùng mình. Anh không tắt nhạc mà đứng dậy. Đi ra. Sáu giờ. Thằng anh đã lắp lại tất cả chân tay của bọn siêu nhân bị rụng và xếp chúng lại thành những hàng trật tự. Thằng em ra chỗ để tivi, đẩy một cuốn băng video vào. Và bật lên. Một tiếng nổ long trời lở đất. Và trong luồng hói, một siêu nhân áo trắng lao ra, múa kiếm như điên. "Đây là siêu nhân bé tí". Thằng em giảng giải và bày ra một chồng đĩa trước mặt anh "Bố mua cho em nhiều lắm, xem không bao giờ chán" - Thằng anh lật lật đám đĩa hình, lắc đầu: "Xem nhiều không tốt đâu, hại mắt lắm". "Chả sao đâu. Em thuộc hết". Thằng em hãnh diện. Chỗ ổ cắm điện, có tiếng lách cách. Thằng anh cau mặt, tắt tivi, rút phích cắm. Rồi nó lấy mũi kéo vặn chặt óc lại, vẻ mặt hài lòng. Thằng em nhìn anh thán phục. "Còn 2 thằng người máy rụng đầu", thằng em thì thào, mắt tròn xoe, chờ đợi. Thằng anh gật, vẫn cắm cúi xếp những chú siêu nhân. "Cả chiếc xe bánh đà này tự nhiên chẳng chạy gì cả" "Còn cái gì hỏng nữa không, em mang ra hết đây". Thằng em xuýt xoa, cuống lên "Thế thì nhất em còn gì". Bẩy giờ. Anh hỏi chị: "Mai cô bay mấy giờ?" Chị ngoảnh hẳn ra vườn, cúi lau nước mắt. "Mười rưỡi sáng" "Còn gì vướng không?". Chị thở dài. "Nó phải học chậm một năm?" Anh hỏi tiếp. Chị thở dài. "Rồi cô thì sao?" "Học một năm xong sẽ đi làm" "Lão ta sẽ phải nuôi 2 người?". Chị thở dài. Và im lặng. Nhạc cũng đã tắt. Cuối chiều. Tất cả bỗng mênh mang. Mọi tiếng động như xa xôi hơn. Căn nhà của họ như lạc vào một cõi nào đó rất sâu trong một thế giới không tồn tại. Rồi tấm cửa kính bật mở. Gió bên ngoài ùa vào xua tóc chi bay rối lên. Gió làm những nan thuỷ tinh của chiếc đèn chùm va lanh canh. Ngày trước. Khi đêm xuống. Khuya dần. Anh đi vắng. Chị nằm trên giường và nhìn qua cửa sổ. Khu vườn phủ một màu vàng rượi của những ngọn đèn đường như vườn cổ tích. Khuya lắm, anh về. Vẫn nguyên quần áo hội nghị. Anh pha một cốc nước giải nhiệt với những vị thuốc nam, một hai lát sâm mỏng, thơm ngai ngái "Em uống rồi ngủ trước. Anh phải chuẩn bị cho cuộc họp ngày mai". Chị đỡ cốc nước và nhìn vào mắt anh. Khẽ thở dài khi anh quay đi ra. Anh không nghe thấy tiếng thở dài tức ngực của người chưa đến bôn mước tuổi, da thịt mát lạnh, thơm tho của sự đầy đủ, nhàn hạ dần đang cần sự yêu chiều ve vuốt. Anh không kịp thấy chị đợi anh bằng chiếc váy sa tanh bóng mát lịm như miếng thạch mới mua. Và anh cũng chẳng kịp thấy một lọ hoa chị cắm góc phòng đang dịu dàng toả hương. Tất cả. Tất cả đều đầy đủ và hoàn thiện. Chỉ đợi có anh. Còn anh. Anh luôn luôn thấy hài lòng và yên tâm khi săn được những hợp đồng mới. Không gì sướng bằng chưa xong việc này đã có việc khác. Để khi về nhà, đi vào qua cánh cửa, bỏ lại xã hội ngoài đường, anh có chị. Có hai thằng bé với một căn nhà như thiên đường trên mặt đất. Anh tưởng thế là đủ. Đủ lắm cho một gia đình cho đến khi chị đi. Đi hẳn. anh mới bừng tỉnh. Chị ngoảnh lại. Nhìn anh rất nhanh. Rồi nhìn ở đầu giường, chỗ để chiếc đèn ngủ. Có cái cặp tóc nhỏ và một lọ sơn móng tay màu hồng, hỏi "Tháng sau, cô ta sẽ về đây?" Anh thở dài. "Cô ta có ghét thằng bé không?". Anh thở dài. "Thằng bé có ghét cô ta không?" Anh lại thở dài và gật. "Sẽ ra sao?" Anh im lặng. Lại thở dài. Rồi nói "Sẽ quen". Chị lại quay ra vườn. Không hiểu từ đâu nhỉ? Từ lúc nào bắt đầu của chuyện này? Chị rùng mình "Sẽ quen". Mọi thói quen đều bắt đầu bằng vô thức. Vô thức tồn tại thành thói quen. Thói quen thành ngôn ngữ. Thói quen tạo ra tác phong cho cá nhân và phong tục cho cả cộng đồng. Thó quen làm thành số phận và con người phải gánh số phận bằng chính hai vai mình. Từ đâu nhỉ? Chắc là từ hôm chị bay ra Hà Nội họp. Một hợp đồng ký thành công với phía đối tác và chị là người đóng góp không nhỏ. Đêm liên hoan. Chị uống rượu. Ba ly rượu vang khai vị chua chua. Nhẹ nhàng say lúc nào không biết. Chị lâng lâng tỉnh và thấy mình đang ngồi ghế sau trong một chiếc ôtô sang trọng. Bên cạnh một chàng người Pháp đẹp trai, lịch lãm. Vô thức nói. Vô thức cười. Vô thức thấy lòng chộn rộn. Vô thức thấy rạo rực đôi môi. VÀ tim vô thức đập nhanh. Mọi thứ đều vô thức. Chắc tại một thứ không vô thức là bản năng đàn bà khao khát trỗi dậy bên trong. Gặp rượu vô thức. Gặp trời Hà Nội se lạnh vô thức. Gặp những động chạm thân xác vô thức. Nó bỗng thành ý thức đánh thức chị dậy. Đến khi chỉ còn chị và người đàn ông đó, mọi thứ như nổ tung ra. Tám giờ. "Em đói". Thằng em lăn ra sàn giang thẳng chân tay. "Sắp xong rồi". Thằng anh vẫn cặm cụi chữa chiếc ôtô. Phía bên chữa xong, mọi vật xếp ngay ngắn, thẳng hàng. Phía bên hỏng chỉ còn hai khẩu súng. Giữa phòng một khu nhà Lêgô xếp hình tuyệt đẹp giống nhà của chúng ở. Ôtô đậu ở ngoài đường. Tàu hoả chạy ngoài đường. Những siêu nhân dũng mãnh đủ màu đứng xếp hàng bảo vệ ngoài đường. Gấu bông, chó bông đứng chơi loanh quoanh. Thằng em đăm đăm ngắm tác phẩm, vẻ mãn nguyện. Nó không biết rằng thằng anh đang mím môi làm, hai bên thái dương tóc ướt mồ hôi bết lại. Thỉnh thoảng liếc nhanh vào chiếc đồng hồ con gấu đang thong thả đành nhịp. Nó thở dài. Thằng em chợt ngồi nhổm dậy. Hỏi "Anh thích ôtô không? Em cho anh chọn đấy". Thằng anh nhìn em đăm đăm, rồi gật "Anh lấy chiếc điều khiển từ xa này này, chạy hơi bị nhanh đấy". Thằng anh lắc đầu. Mắt nó lia qua mấy chục chiếc ôtô từ to rồi đến chiếc bé nhất. Cầm gọn trong tay. Thằng em cầm một chú siêu nhân màu trẳng, đưa và tay anh "Thằng trắng này đánh nhau hơi bị kinh đấy, nó sẽ chiến đấy bảo vệ anh khỏi bọn hắc tình tình". Thằng anh cầm lấy chú siêu nhân trắng và chiếc ôtô. Thằng em nhìn anh. Hỏi "Bao giờ mẹ lại cho anh đến chơi với em?". Thằng anh im lặng. Thằng em lại hỏi: "Mẹ có hay cho anh đi siêu thị không?". Thằng anh lắc đầu. "Anh chỉ đi theo mẹ nhặt bóng thôi à?". Thằng anh gật đầu. Thằng em chui vào gậm giường, lôi những quả bóng tennít vàng ra say sưa "Nhiều chưa?". Thằng anh nhìn em. Rùng mình... Những buổi tối. Mẹ đưa nó đến sân bóng. Mấy đứa trẻ con chơi với nhau còn bố mẹ chúng thì đánh bóng. Sân bóng rộng. Qua sân bóng là khu vườn ven sông Sài Gòn. Buổi tối. Dọc sông thanh niên nam nữ ngồi tâm sự và uống giải khát, trong không khí mát rượi của gió sông mênh mang. Thường những lúc nghỉ giữa trận, mẹ cùng nó ra bờ sông ngồi. Mẹ mặc váy trắng, áo pull trắng, tóc cặp cao, hai má đỏ hồng, uống một hơi hết hai cốc nước chanh. Mẹ nói khi cả hai cùng nhìn về phía Tân Cảng: "Con thấy cuộc sống ở đó không? Suốt ngày đêm tàu ra vào tấp nập. Đấy là bến cho các con tàu đến, rồi đi". Quay sang phía khác, tờ mờ trong bóng tối bên kia sông là làng xóm, âm thầm tĩnh lặng. Mẹ lại bảo: "Đấy là các gia đinh tối đến quây quần, loanh quanh rồi ngủ để ngày mai dậy sớm đi làm". Nó lặng lẽ nhìn sâu vào vùng tối yên bình đó. Bên kia. Phía đằng sau. Tân Cảng sáng trắng ánh đèn và tiếng động cơ của những con tàu làm mặt nước như cuộn sóng lên. Nó hỏi "Tân Cảng là gì ạ?" "Là cảng mới. Bao giờ cũng cần bến mới cho những con tàu!". Rồi tiếng những người bạn gọi mẹ ra chiến đấu tiếp. Vớ chiếc vợt và đôi giày trắng nhảy nhót trên thảm cỏ, mẹ chạy đi như một thiếu nữ. Thiếu nữ ấy bỏ lại tờ 50.000đ cho nó "cứ ngồi đây cho mát, con nhé". Nó khẽ vâng và nhặt tờ tiền cất vào túi. Những lần sau nó mang theo ông nhòm. Nhòm về phía Tân Cảng. Chỉ thấy tàu và xà lan chở đủ các thứ vào bến. Rồi đi. Thỉnh thoảng có chiếc xà lan chở than trôi lừ lừ trên sông như lưng một con cá sấu khổng lồ. Rồi lại soi về phía làng xóm. Thỉnh thoảng chỉ thấy một ánh đèn điện lấp loé sau rặng cây. Tân Cảng. Bao lần ngồi một mình, uống nước đợi mẹ, nó đều ước giá có em ngồi cùng. Thằng bé sẽ chạy chơi trên những bãi cỏ xanh và khô. Nó sẽ gọi cho em một cốc kem to để thằng bé chén bởi kem là thứ nó thích nhất. Sẽ cùng em đếm những chuyến tàu vào ra mê mải. Vậy mà đến giờ. Chưa một lần nó cho em đến được Tân Cảng. Chín giờ. Chị đứng lên. Đằng sau. Anh đốt thuốc khói phả mù mịt, đặc quánh. Ngày trước. Đêm động phòng ngủ mới. Anh bảo phòng ngủ của mình chỉ có hương hoa và mùi da thịt chị. Anh bảo hút thuốc lá trong phòng ngủ là không văn minh, và bẩn thỉu... Chị nói. Giọng khản dặc "Sang đó, ba năm tôi có thể đón con". Anh lắc đầu, cười rất nhạt trong những quầng khói đục: "Đến ngày mai thế nào còn chẳng dám nói trước huống hồ những ba năm sau". "Con ở với mẹ vẫn tốt hơn". Chị cố gắng. Anh lắc đầu. Cười mai mỉa chế giễu trên khuôn mặt trẳng bệch. Và bấm nút điều khiển tivi. Kênh VTV1 của đài THVN đang phát những hình ảnh về cuộc chiến ở Nam Tư. Từng đoàn người chạy tản cư sang các nước bạn và ách tắc ở biên giới. Nhà cửa, đồ đạc bỏ lại. Họ lếch thếch chạy thoát thân. Chạy để tìm cuộc sống. Lần này thì chính chị đứng lên và tắt tivi. Những người dân Nam Tư đó. Những cuộc di tản khốc liệt dưới bầu trời đầy bom đó không quan trọng với chị bằng việc chỉ còn một giờ đồng hồ nữa. Chị phải đi khỏi căn nhà này. Phải xa những gì lâu nay là máu thịt của chị. Xa đứa con trai bé bỏng thơm như một chiếc bánh ga tô mới ra lò. Không có một điều gì làm chị xúc động hơn chính bản thân bão tố trong lòng chị lúc này. Chiến tranh đã nổ ra. Bom đã rơi vào chính chị. Và chị cũng phải chạy đi. Đến một cảng mới để làm lại từ đầu. Xung quanh họ. Bỗng im lặng đáng sợ. Ngoài vườn. Có tiếng gió rất nhẹ. Nhẹ đủ để thỉnh thoảng lùa vào làm những nan thuỷ tinh va lanhh tanh. Im lặng đến nỗi thập thõm ở đâu đó, có lẽ rất xa, tiếng dương cầm của một bé gái đang tập. Chỉ một vài nốt nhạc bắt đầu của một bản nhạc. Lúc nặng, lúc nhẹ. Vẳng đến rồi lại mất đi. Chị lặng lẽ vào trong. Đến cửa phòng hai đứa trẻ thì dừng lại. Thằng anh đặt chiếc ô tô bé xíu và thằng siêu nhân xuống sàn nhà. Kéo chiếc ba lô và lôi một chiếc máy bay khá to, với hai cuốn chuyện tranh "Chú lính chì dũng cảm" và "Bé tìm hiểu luật giao thông". Thằng anh kéo thằng em vào lòng mình. Nói: "Ngày mai, em bảo chị Ba đọc cho nghe nhé. Đây là quyển sách dạy về luât đi đường. Em phải thuộc cho kỹ để mai kia đi học đỡ bị xe đâm. Còn quyển này. Em nhớ để có lòng dũng cảm "như chú lính chì". Thằng em gật gù. Say sưa nhìn hai cuốn truyện. "Còn đây là chiếc máy bay". Giọng thằng anh run run. Nghẹn tắc. Lấy tay nắm lấy bàn tay bé xíu của thằng em, đặt vào một chấm trắng trên thân máy bay, tượng trưng cho ô cửa sổ. Nói: "Anh sẽ ngồi ở đây. Coi như anh là ô số 5 này. Mỗi lần muốn nói chuyện với anh, em nhìn vào sẽ thấy". Và di ngón tay đếm đi. Một. Hai. Ba. Bốn. Năm. Thằng em quay lại nhìn anh. Mặt láu lỉnh. "Anh là số ba để em đếm cho nhanh". Thằng anh lắc đầu: "Em lại lười học rồi. Em phải chăm học. Em càng học giỏi, anh em mình càng chóng gặp lại nhau". "Em chán học lắm". Thằng em thở hắt ra. "Phải chăm học. Em có nghe anh không?". "Em chỉ thích chơi với anh thôi". "Thì em cứ để chiếc máy bay này bên mình, coi như là anh đang chơi với em". "Thế thì em là thằng siêu nhân trắng, em ở bên cạnh anh suốt ngày"."Anh sẽ mang siêu nhân bé tí này theo". Mười giờ. Chị đứng ở cửa vào. Thằng anh đeo ba lô đứng bên cạnh. Anh đứng đối diện chị, bế trên tay thằng em đang díp mắt buồn ngủ. Tay cầm chặt chiếc máy bay. Chị cúi lại gần thằng bé. Rúc khuôn mặt đầy nước mắt vào cổ, hít một hơi dài như muốn nuốt mùi da thịt thơm tho của nó vào lòng. Anh cúi xuống. Thằng anh đang im lặng nhìn ra vườn. Những bụi cây rung rung. Đưa vào tay nó mấy tờ 100 USD. Anh lầm bầm: "Con cất đi, sang đó còn có tiền tiêu". "Con xin". Thằng anh nói rồi cất tiền vào một ngăn của ba lô. "Anh cố gắng chăm sóc con. Nó còn bé lắm". Chị chùi nước mắt. Mặt méo xệch. "Cô xin cho con học trường Trung tâm, cố tìm chỗ có nhiều người Việt Nam cho con có bạn". Thằng anh nhìn thằng em. Lúc này nó mới khóc. Tiếng khóc ri ri. Đau đớn như muốn nuốt ngược vào trong. Như bị oan ức không thanh minh được. Chị cúi mặt. Cắn chặt môi. Bất giác chị đưa tay ra nắm lấy tay anh đang bóp chặt. "Xin lỗi anh. Xin lỗi con trai của mẹ...". "Tôi mới là người có lỗi. Cái lỗi của tôi...là sống với cô mà không hiểu cô cần gì... Nên cô mới bỏ đi...". Anh nghẹn giọng. Rồi đặt tay lên vai con trai. Lầu bầu trong miệng: "Tha lỗi cho bố, thanh niên". Thằng anh ngẩng đầu nhìn bố. Nhìn thằng em đang ngủ gà ngủ gật. Gật đầu. Buổi sáng. Phi trường. Gió thổi hào phòng trên những khoảng sân rộng mênh mông. Chiếc máy bay Boeing 747 dài và to như một con cá voi khổng lồ đang gầm rú. Những luồng khói đặc phụt mạnh ra sau bị gió thổi sóng sánh lại. Những chiếc cánh quạt quay tít. Nhà ga náo động tiếng động cơ. Tiếng loa đọc lịch trình các chuyến bay. Tiếng người nhí nhéo, hỗn độn. Chị và thằng anh đứng gần cửa máy bay. Mặt hai người đều thất thần hoảng loạn. Người chồng mới hớn hở vác đồ bên cạnh. Nhìn anh ta, thấy rõ sự chân thành và độ lượng của người đang yêu và được đền bù. Hai mẹ con dừng lại chân cầu thang. Và vô thức cùng ngoảnh lại nhà chờ. Chưa bao giờ chị đẹp và khuôn mặt lại nổi hình khối lên như thế. Tất cả lên cầu thang máy bay và chui vào trong khoang. Tiếng máy bay rú ro như muốn nổ tung. Mặt thằng anh thất thần, hoảng loạn. Nó đi vào giữa hai hàng ghế. Chăm chăm đếm như không cần biết có ai bên mình. Một. Hai. Ba. Bốn. Và năm. Nó dừng lại. Bên ô cửa sổ. Một người đang ông ngoại quốc mặt đầy râu, mắt đen nháy đang ngồi phưỡn bụng thở. Ông ta chắc phải hơn một trăm cân. Chị và người chồng mới vẫn đi tiếp xuống giữa khoang rồi đứng lại. Ông mở cánh cửa trên đầu và xếp những va li nhỏ vào dó. Còn chị thì chui vào ghế, và quay lại. Thằng anh cứ đứng ở hàng thứ 5 như bị thôi miên bởi ông béo bụng. Chị gọi "Con ơi, ghế của mình ở đây cơ mà. Xuống đây". Thằng anh nhìn mẹ mắt đầy nước. Nó lắc đầu tuyệt vọng. "Dưới này cơ mà con". Chị lại gọi. Nó vẫn lắc đầu, nhìn người đàn ông đầy vẻ kinh hãi. Rồi chị nhìn. Nói "Con hẹn với em là ngồi ở đây. Ô cửa số 5". Chị thử dài đánh sượt và ngồi phịch xuống ghế. Nước mắt ràn rụa trên khuôn mặt méo xệch. Người chồng mới đã xếp xong đò, chui vào ghế trong. Chị cắn chặt môi, ngó ra vẫy thằng anh "Xuống đây con". Thằng anh vẫn lắc đầu. Nó nhìn mẹ bằng đôi mắt mở to chưa từng thấy bao giờ. Rồi lại nhìn qua ô cửa đã bị lão béo kéo sập tấm chắn nắng xuống và đang nhắm mắt ngủ. Thằng anh chồm người qua mọt người khách bên ngoài. Chồm qua lãi béo. Đấm như điên vào ô cửa tròn đã đóng. Lão béo giật mình. Ngơ ngác và hiểu ra. Rồi lấy tay đẩy tấm nhựa trắng lên. Ngoài trời. Nắng vàng ong. Mùa khô đã đến. Phía nhà chờ, cửa kính sáng loáng như gương. Thằng anh vừa đấm vào ô cửa, vừa hét trong những giọt nước mắt: "Bé ơi, có thấy anh không. Anh đang ở đây này". Phía sau. Chị cúi gục, khóc ngất đi. Sau những khuôn cửa lớn sáng choang. Anh và thằng em đứng dán người vào cửa kính. Tay thằng bé cầm chiếc máy bay, một tay nắm chặt tay bố. Nó nhìn chiếc máy bay to đùng đang gào rú ngoài xa. Rồi cúi xuống chiếc máy bay ở tay. Rút bàn tay nhỏ xíu khỏi tay bố. Nó lấy ngón trỏ chỉ vào những chấm trắng trên thân máy bay. Lẩm bẩm đếm. "Một. Hai. Ba. Bốn... Năm. Anh ngồi đây. Đây là anh mình". Mắt anh nhoè nước. Tai anh như có một luồng khí đặc quánh phủ lấp. Sao lại thế này nhỉ? Bao năm nay. Từ lúc linh cảm mách bảo về sự ra đi của chị. Ban đầu là thể xác. Rồi đến tinh thần. Lúc nào anh cũng bị ám ảnh về chuyện này để rồi bây giờ, anh lại chẳng hiểu tại sao? "Một. Hai. Ba. Bốn... Năm", thằng em vẫn lẩm bẩm đếm. Chăm chỉ một cách kỳ lạ. Tại sao? Tại sao? Hôm qua anh không vứt bỏ lòng tự ái, sự ghen tuông và tha thứ cho chị. Thậm chí van xin chị nghĩ lại? Tại sao anh luôn lường ra những rủi ro cho những hợp đồng ký với đối tác cả Ta lẫn Tây mà lại không lường được cái rủi ro ngày hôm nay? Tại sao đến hôm qua anh vẫn nghĩ là sự chia tay này sẽ không có thật? Chỉ là một câu chuyện đùa? Tại sao cơ chứ? Trên máy bay. Lão béo như hiểu được tình cảm của thằng anh, liền ngồi thẳng dậy óp bụng lại cho thằng anh đến sát được ô cửa. Vòng tay ra cho nó lọt vào lòng. Ông ta nhún vai, trìu mến nhìn nó. Thằng anh mở to mắt nhìn xuống, một tay nắm chặt thằng siêu nhân trắng. Bên dưới. Phía xa. Chỉ thấy nắng chiếu vào ô cửa kính loang loáng như những tấm gương trời. Người đi tiễn bé xíu với những cái đầu đen như hạt đỗ. Nó lùi người lại. Chùi nước mắt. Đi ra đứng giữa hai hàng ghế, và nhìn mẹ. Mẹ nó đang cúi gục xuống khóc. Chiếc máy bay lạnh lùng chạy một vòng ra xa và dừng lại. Rú to lên. Rồi nhấc hẳn lên khỏi mặt đất. Đằng sau những tấm kính. Thằng em vẫn đứng với chiếc máy bay trên tay, lấy ngón trỏ chỉ vào những chấm trắng bé xíu và đếm "Một. Hai. Ba. Bốn... Năm". [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tận chốn ả Đào[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phan Cung Việt[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Ngày xuân tôi về quê Nguyễn Du, cũng là quê mình, viết được bài Tiên Điền, trọ trẹ cứ gọi liều là Truyện. Sau đó vượt non một trảng cát, xuống làng Cổ Đạm của Nguyễn Công Trứ, cũng viết liều là Truyện. Cũng liều cả thôi, xưa các cụ đi viễn xứ đây đó, thấy người ta gọi tiểu thuyết, đoản thiên tiểu thuyết, đoạn trường thơ... cũng kệ, cứ gọi theo cách của mình. Vẫn anh xe ôm giọng Nghệ trọ trẹ nhưng rất ấm: - Chú về viếng cụ Nguyễn Du, thế nào cũng nên xuống viếng cụ Nguyễn Công Trứ. Hơn nữa chú định đi dự canh hát ả đào ngày xuân, thì phải trình cụ Nguyễn Công Trứ trước tiên mới đúng chớ! Nói rồi cười vang. Thật là chất hài trí tuệ của vùng đất quê tôi. Đi nhiều, thấy rất hiếm. Từ Tiên Điền đến Cổ Đạm, đi dọc biển, cát dợn dợn rất đẹp. Bãi dương cất giai điệu lạ lùng trong sóng biển. Bên trái là sông Lam, bến thuyền Giang Đình trong sương. Rồi tiếp những lạch, những bến nhỏ gợi sự kiến tạo địa lý địa chất rất rõ về mạch máu của sông và biển cả. Những túp nhà ở đây mới lạ, nó như lều hát, xếp đặt không theo phong thủy, hướng ra mặt đường hoặc một hướng nào theo quy định. Tự chúng rất ngăn nắp, nhưng tự do. Như anh chị này không phiền, không quay mặt nhìn ngó vào anh chị kia. Cứ vô tư thoải mái. Trách chi cụ Uy Viễn tướng công tìm ra lối hát ả đào ở cái làng Cổ Đạm này là phải. Ai đi qua đây cũng muốn dừng lại hát vài canh hát ả đào. Chợ ở đây cũng rất lạ. Những lều chợ tranh tre lợp lá thấp nhỏ như chiếc bàn con, nằm sát mé sông. Các bà chao tay rửa được mọi thứ từ nước sông Lam. Nghe đâu có thời chợ phiên vừa họp vừa diễn xướng ví dặm và ả đào luôn. Các cô, các bà bán mớ rau, con cá tươi rói nhưng tươi rói hơn là ánh mắt đưa tình. Ai đi qua chợ cũng thành khách đa tình. Hiểu cuộc đời này từ xưa không chỉ vật chất mà say lòng hơn là phi vật chất. Đáng nhớ nữa là những sân đình bên chợ. Chợ nhỏ, sân đình nhỏ, chỉ như chiếu thờ, chiếu hát. Nhưng giữa cảnh trời sông biển Giang Đình, trong sương sông Lam rú Hống thì nó mở ra mênh mông vô tận mà thảy các sân khấu tầm cỡ đều không có. Hiện đại mấy cũng không có. Từ xưa ở đây có ngôi đình nhỏ rất đẹp, rất thiêng. Nhiều thi nhân kẻ sĩ giấu mặt, giấu tên đi qua đây thường ém vào xó đình ngủ một đêm lấy cái “khước linh” rồi đi tiếp, đợi ngày làm bá chủ, làm thi bá xứ khác. Nghe đâu cụ Nguyễn Công Trứ, ngay cả cụ Nguyễn Du cũng từng như vậy. Nhưng cụ Trứ thì nồng nhiệt, cụ Du thì thâm hậu đa tình nên cụ này giấu việc này đi, chỉ như dừng ở Giang Đình là đủ. Đình này từ xưa có con ngựa đá trắng, cái bàn đá trắng và con chó đá nhỏ xíu cũng trắng. Nghe đâu con ngựa có công chở bàn đá từ xứ Phật xa lắc xa lơ đến đây để dân lấy mẫu bàn học. Con chó trắng thì làm việc canh gác sớm chiều. Từ khi có chiếc bàn đá trắng thì dân ở khắp vùng đây học rất giỏi. Qua mấy cuộc binh đao dâu bể, đình chợ không còn, bến sông cũng không còn. Chiếc bàn đá thần diệu bị bom đạn hất xuống sông, hiện trôi dạt chẳng hiểu đến tận xứ sở nào. Xứ sở nào được chiếc bàn đá dạt đến thì được hưởng lộc chữ nghĩa, lắm bậc tài, lớp con cháu học giỏi nên người. Con ngựa trắng về sau bị cụt một chân, nghe đâu bị bọn đạo chích khiêng đi mất. Riêng con chó đá thì nằm lại, nêu một bi ca lẫm liệt. Binh lửa không làm gì được, mãi đến mấy trận bom cấp tập chục năm trước thì nó vỡ vụn, không còn một hạt nhỏ xíu, hoà cả vào cát trắng... Thuở bé có lần tôi được nhìn thấy chiếc bàn đá và có lần được sờ tay vào con chó trắng... Con chó đá trắng có gương mặt và đôi mắt giống con chó vàng nhà tôi kinh khủng. Chúng tôi vẫn gọi là Vàng. Mảnh đất Nghi Xuân dài như chiếc lưỡi thè ra ven biển. Trên này có Tiên Điền, Cổ Đạm... rồi xuống đến Đan Trường, Hội Thống. Tuổi thơ dấu chân chị em chúng tôi đi vẹt mòn qua các trảng cát từ trường làng cuối huyện lên đến Tiên Điền, Cổ Đạm đầu huyện. Năm tôi học lên lớp năm trường huyện thì nhà tôi trải qua một nỗi đau: Cô em gái út xinh đẹp lên 5 tuổi một ngày đột ngột ra đi trên bãi cát trắng. Con chó vàng nhà tôi ra nằm chết trên nấm mồ em. Đó là sự kiện linh thiêng và huyền bí nhất tuổi thơ chúng tôi, cụ thể là chuyện con chó vàng có thật, khiến chúng tôi lớn lên dù thông minh tài ba mấy cũng khó nhập vào kiếp người, cảm thấy như kiếp người không thiêng bằng kiếp chó. Định đề đó thật là khủng khiếp. Thú thật, ngày hai lần chân trần đi bộ qua trảng cát nóng bỏng, qua Cổ Đạm, Tiên Điền, có lần tựa vào con chó đá trắng và kê lên cả chiếc bàn đá, viết về cái chết của em gái và con chó vàng truyền kỳ. Tôi viết những mấy năm như thế đến mấy tập giấy. Một điều tôi không dám nói với ai, vì sợ phạm chốn linh thiêng, chính trang giấy học trò đầu tiên dùng để viết truyện con chó vàng yêu quí này, vào một lần trốn học, tôi đã trốn vào đình chợ, kê lên bàn đá trắng, viết những dòng đầu tiên. Viết được kín trang thì trời đổ bóng hoàng hôn, bóng hoàng hôn ở bến sông Cổ Đạm này chưa ở đâu có, nó làm ta như quáng như say. Tôi thất thần vào chợ, chợ vãn từ lâu. Móc túi áo may có mấy miếng “khoai deo” là thứ “đặc sản” quê tôi, từ khoai lang luộc chín phơi khô, ủ vào lá chuối khô, mà lần nào đi học, mẹ cũng dúi vào túi áo phòng thân... “Tác phẩm” đầu tay của tôi đã ra đời như vậy, đủ loại giấy, đủ thứ mực, nét chữ học trò... Đi đâu tôi cũng đem theo. Đến ngày, nói như cụ Hải thượng Lãn Ông, tôi “thượng kinh”, học Đại học Văn khoa. Tôi bước vào văn học, vào trường đại học, chỉ mang theo “tác phẩm” Con chó vàng ấy thôi. Tôi giấu nó trong ba lô, trong giáo trình, dưới giường ngủ... Giấu mãi, đến ngày có mấy bạn thân biết . Có bạn mách cho tôi một cách. Và tôi thực hiện ngay. Cụ nhà văn nổi tiếng nhất nước lúc bấy giờ mà tôi được học ở ngay trường đại học của mình. Sách Cụ có nhiều ở thư viện. Cụ có chân dung đẹp, trán cao, mắt sáng, mũi có nét diều hâu nhưng lại hiền, dưới là bộ râu đen khó lẫn. Nhất là cá tính nhà văn không lẫn với bất cứ ai. Tôi bỏ “con chó vàng tuổi thơ” vào cái túi vải thô mẹ may cho hồi nhỏ, giấu sau tấm áo bộ đội đại cán dày cộp mà cha sắm cho. Xứ Bắc lạnh mà tôi vã mồ hôi. Nhà Cụ nhà văn ở phố trung tâm, nhiều bóng cây cổ thụ phía trước. Nhà có bậc cầu thang, dưới một dàn hoa treo lủng lẳng. Lần thứ nhất đến, Cụ đang tỉa cây. Thấy Cụ lăm lăm cái kéo uốn hình cong nhọn như cái mũi diều hâu của Cụ, tôi thấy chưa ổn, ra về. Lần thứ hai, nhìn kỹ vào trong, Cụ đang nằm khoèo bên chai rượu. Kiểu nằm nghiêng như các cụ xưa bên bàn đèn. Chưa ổn, về. Lần thứ ba, Cụ vừa vuốt râu, vừa treo vật gì như chiếc cung nỏ cổ xưa mà Cụ vừa tầm được sau chuyến đi xa về... Càng không ổn. Cuối cùng, nhân duyên của sự liều lĩnh. Tôi vừa đến, giấu cái túi vải như kẻ đạo chích, vén áo đại cán lau mồ hôi túa ra, thì Cụ tay cầm ba toong bước xuống. Cụ lên tiếng trước, lạ khấc: - Chào anh! Tôi sợ nhưng láu lỉnh: - Bẩm, xin Cụ gọi là cháu thôi ạ! Cụ thấy có sự bướng, cho là được. Đôi mắt sáng nheo lại cười nhân từ. - Việc gì? Lại đọc văn hả? Biết ngay!... - Bẩm, sao Cụ biết ạ? - Nhìn anh, tôi biết... Cụ tinh tường quá. Hỏi: - Cháu ở đâu, làm gì? Tôi thưa nơi học. Cụ bảo: Được. Lần sau quay lại. Lần sau, Cụ vừa ngủ dậy trên chiếc xa lông gỗ mun kiểu cổ đen nhánh. Cụ đang rót trà. - Quê đâu? - Bẩm, Cổ Đạm, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. - Ả đào hả. Rất được! - Học đại học Văn khoa hả? Các giáo sư như cụ Thảo, cụ Giầu có dạy anh không? - Bẩm, có ạ! - Được. Cho chén trà. Về học đi. Học xong quay lại đây. Lần thứ ba, sốt ruột, tôi đến trước lời Cụ dặn. Cụ đang uống rượu một mình. - Anh viết được. Sẽ được. - Bẩm! - Chỉ “bẩm” ba lần trước thôi. Bây giờ tôi và anh là đồng chí rồi, hiểu chửa? Tôi “dạ”. Cụ gật đầu bảo được. Rồi Cụ đưa cho chén rượu nhỏ bằng chũm cau. Cụ bảo: “Thưởng anh chén rượu. Nhớ khi nào trở thành nhà văn nhớn thì cầm tập bản thảo này đến đây”. Tôi dạ, xin lui. Cụ cầm ba toong tiễn ra cửa. Chiếc ba toong đen nhánh chỉ cho tôi lối thẳng xuống, Cụ nói như giật mình: - Mà sao anh khởi sự bằng con chó vàng của nhà mình nhỉ. Được! Đến ngày tôi thành cái gọi là nhà văn, nhớ lời dặn xưa thì Cụ không còn nữa! Nhà văn nhân hậu, thường hay coi cuộc đời này chỉ là cái trò đùa, mà phán cho tôi độc chữ “Được”. Hỏi học gì: Được! Quê đâu, nhất là quê Cổ Đạm của ông Nguyễn Công Trứ: Được! Viết về chính con vàng nhà mình ra nằm chết trên mộ em gái: Được! Vậy mà làng văn ồn nhau: Cụ là người đệ nhất khó tính, không ai dám đến gần. Còn nghe nhiều giai thoại thời nay của Cụ đối với quan trên, quan dưới, chẳng khác cụ Trứ xưa. Có khi còn ngang hơn. Cái ngang của thời nay mới hiếm. Nhưng ngẫm kỹ như từ một thằng bé là tôi thì quả Cụ đáng sợ thật. Cả mấy lần, Cụ như người hoá. Lần đầu mang bản thảo đến, Cụ bảo để đấy vài năm, học xong đại học Văn thì đến. Học xong, Cụ dặn khi nào thành nhà văn nhớn, thì cầm bản thảo này đến... Các lần Cụ thương, Cụ chỉ bảo một tiếng “Được”. Xuân này trở về vùng quê Cổ Đạm của mình, gần hết một đời văn chương, tôi vẫn chẳng hiểu chữ “Được” của Cụ là thế nào. Đêm trước tôi bật mạng vi tính, mới biết tôi có hàng chục bài thơ được bạn đọc chọn đưa lên mạng, hàng chục trong số hàng trăm truyện ngắn được chọn... Người ta bảo tôi làm đơn dự chọn giải quốc gia nhà nước. Xứng quá còn gì, hàng trăm bài thơ, hàng trăm truyện ngắn để trao tặng cuộc đời. Nhưng điều gì đó khiến tôi chần chừ. Bến sông Cổ Đạm lúc này lạnh ngắt. Thảy dấu tích đình đá, ngựa đá, bàn đá, chó đá xưa đã tan vào bể dâu. Tôi chọn gốc cây, bày tờ báo mới, làm lễ “dâng văn” lên những người xưa. Ba truyện ngắn tôi đút vội vào tay nải đem về đây, được các nhà văn và bạn đọc biết đến, được tung lên mạng, giờ như ba chiếc lá lạ rơi trên mặt đất. Buồn cười và đúng hơn, đó như ba con chó bột nhuộm phẩm kinh dị, quê tôi gọi là con cu gừng, con nghệ, Bắc gọi là con tò he, mà ông già tóc bạc năm xưa bày bán trên đất, trước cửa chợ Cổ Đạm... Chẳng có hương, cầm bút vái ba vái. Hình như tôi gọi hồn ba cụ Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Tuân nhiều lắm. Khói nước từ bến Cổ Đạm ùn lên. Người túa mồ hôi như tắm. Tiếng tom chát, tiếng phách từ bến Cổ Đạm cũng ùa lên, như một sự cứu rỗi của nghệ thuật: Hồng hồng tuyết tuyết, mới ngày nào chửa biết cái chi chi... Muốn thốt lên: “Thưa các cụ, đời văn chúng cháu cũng vậy... Chửa biết cái chi chi ạ!”. Vậy là sau một đời lưu lạc, cuối cùng tôi đã về được chính quê mình: Làng Cổ Đạm thân yêu, tận chốn ả đào... Ngoài sân hát, cánh đào xuân có mầu đỏ thắm lạ lùng. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tập yêu Chồng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phạm Thái Lê[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hắn dựng cái cuốc vào góc sân, đảo mắt tìm vợ. "Con tê, làm chi cả buổi mà giờ ni vẫn chưa đỏ lửa". Vợ hắn lừng lững từ ngoài vườn đi vào, tay ôm mớ dây khoai vứt toẹt xuống sân, dấm dẳng: "Tui không chơi". Rồi thị lẳng lặng vào bếp. Hắn ngồi bệt xuống thềm, quát: "Con Hà, lấy tau cái điếu". Con bé chừng bốn, năm tuổi đang ngồi chơi với em thả vội cục đất sét, đứng dậy, lấy đóm, lấy thuốc". Con bé lại tất tả quay vào nhà. Hắn rít một hơi thuốc, khoan khoái ngửa cổ. Đi làm đồng về, rít hơi thuốc lào, ngửa cổ uống ca nước mưa, rồi làm tiếp hơi thuốc nữa, thế là nhất. Chiều nay, hắn cuốc rốn góc ruộng để mai mốt máy cày đám nhà Ngọ thì cày cho hắn luôn thể. Rồi hắn quay vô giục vợ: "Nấu ăn nhanh lên!". Vợ hắn bưng nồi cám lợn to đi ra sau giếng, quát con: "Dẹp đồ chơi đi rồi rửa ráy tay chân, bẩn như lợn". Hắn ngả lưng xuống thềm, sung sướng với ý nghĩ. Rứa mà cuối cùng ta cũng có vợ để quát có con để sai. Lấy vợ đến sáu năm trời, có hai mặt con rồi mà đôi lúc, hắn vẫn chưa hết ngỡ ngàng. Hắn lấy được vợ là nhờ đá đỏ. Hồi đó, dân Bãi Ngang ùn ùn kéo nhau lên Quỳ Châu đãi đá đỏ rồi đem từ miền Tây về bao chuyện thú vị. Dân nông trường vốn không nhạy cảm thời cuộc, chịu khổ chứ không chịu khó mà cũng rậm rịch rủ nhau đi. Hắn cũng thấy ngứa ngáy. Học xong cấp ba, người ta gọi đi nghĩa vụ. bố hắn loay hoay cũng tìm cách cho hắn trốn. Hai năm nay, "lương thực" người ta đã cắt gạo hắn. Có đi học đâu mà cấp. Vậy là nhà hắn phải nuôi không hắn. Hai mươi tuổi mà ngày nào cũng như ngày nào hắn cắp cái sào tre đầu ngọn buộc túm lá chuối khô theo đít bày vịt bằng đúng số tuổi hắn. Hắn muốn lên Phủ Quỳ để khẳng định sức trai của mình. Nhưng bố hắn không cho hắn đi. Không cho đi là phải bởi người ta đưa về hồng ngọc, ru bi nhưng cũng đem theo những chuyện chém giết, cướp bóc, sập hầm. Hắn con trai một. Ngộ có chuyện chi thành ra tuyệt tự à. Nhưng cưỡng lại răng được sức hấp dẫn của tiền bạc. Nhà Long Hồ có năm thằng con trai đi cả năm. Được ba chuyến đã sắm đài cát-xét hai cửa băng hát ầm ĩ cả ngày. Vậy là bố hắn đi. Bố hắn đi có chuyện gì thì cũng già rồi, chết cũng không can chi. Có chết thì cũng đã có người chống gậy là hắn. Nhưng bố hắn lại không gặp may. Đi suốt cả tháng trời mà chỉ được "tấm" được "gạo" lại toàn đá trắng, vừa đủ tiền ăn. ở nơi rừng thiêng nước độc, ăn ngủ không điều độ, làm thì hùng hục cả ngày nên ông ốm lay ốm lắt đành phải bỏ về. Hắn sốt ruột lắm. Rồi hắn trốn theo nhóm thanh niên trong đội lên Phủ Quỳ. Được hai tháng, hắn có tiền triệu. Hết thời đá đỏ, hắn lại quay về cắp sào theo đít bầy vịt. Nhưng nhờ đó hắn có vợ! Vợ hắn không có cha. Hắn không biết ai là bố vợ mình. Hơi đâu mà hỏi. Mà hỏi ai được. Không quan trọng. Hắn chỉ biết là vợ hắn trắng trẻo. Không biết cưa biết tán lại chỉ có hai tháng trời mà được vợ trắng trẻo là nhất rồi! Mẹ hắn còn nghĩ không biết đến bao giờ hắn mới biết tán gái. Các chị hắn thì nói: "Không có đá đỏ thì có mà đến đời mục thất". Hắn mãn nguyện lắm. Nhưng thỉnh thoảng hắn cũng tát cho vợ một cái. Phải tát cho hắn nhớ mình là chồng hắn chớ. Tát thì tát thế thôi, thực ra hắn rất hay bênh vợ. Nếu các bà o mà nói xấu chi vợ là hắn gạt đi liền. Hắn vẫn cho rằng vợ hắn là nhất. Tất nhiên rồi, "nhất vợ nhì trời" mà. Ngủ với vợ, hắn không dám sờ vú vợ, vợ mình chớ có phải con gái ngoài đường ngoài chợ mô mà mần rứa. Hắn nghĩ mình tôn trọng vợ kiểu nớ là đúng. "Con Hà bật điện gọi bố vô ăn cơm". Thị xị mặt bưng mâm lên nhà. Mấy hôm nay cứ nhìn thấy mặt chồng là thị khó chịu. Cái mặt sao nó cứ bì bì, cái mũi thì tèn tẹt, lại to. Thị thấy hình như nó to hơn mọi ngày. Hàng ria mép thì đâm ra tua tủa. Đôi lông mày lưa thưa, ngắn cũn. Mà khốn nạn, hai đứa trẻ con lại giống bố như đúc. Từ cặp mắt lồi đến cái điệu ăn rất xấu. Thị thấy hắn y như con đại bạch cứ sục mõm xuống máng. Tự nhiên thị quát lên: "Con Hà ngồi gọn chân lại, ăn đi rồi mà phá". Hắn cắm cúi ăn, loáng cái đã xong bữa rồi lên ghế ngồi xỉa răng. Hắn xỉa nhẩn nha, thỉnh thoảng lại đưa cái tăm lên mũi. Thị thấy ghét cái điệu hắn ngồi ngả ra sau ghế, trông cứ như quan lớn không bằng. Thị thấy mình thật khổ. Khổ vì cái gì thì thị cũng không rõ. Lấy chồng, đẻ con, nuôi con ai không vất vả. Nhưng thị cứ tấm tức trong lòng. Trước đây, thị thấy là hắn cũng được: hiền lành, chăm chỉ, không rượu chè cờ bạc như chồng người ta. Thị chỉ ghét hắn khi ngủ hay ngáy) nhất là xong chuyện ấy, hắn ngáy càng to. Chỉ vậy thì có chi mà khổ. Nhưng thị lại thấy thị khổ lắm. "Lại làm đổ ra chiếu rồi!". Thị đét mạnh vào đùi cu con. Thằng bé quăng thìa khóc ré lên. Thị quát to hơn: "không ăn nữa thì nhịn". Rồi thị hằm hằm bưng nồi cơm xuống bếp Hắn vẫn ngồi ngả người trên ghế, mắt đã mơ mơ. Đó là thói ngủ gà. Hắn thường xuyên gà gật sau bữa tối. Miệng hắn hơi há ra. Cái tăm nửa muốn nằm yên trên mép, nửa muốn rơi xuống. Con Hà bỏ vội bát xuống mâm chạy sang hàng xóm xem ti vi. Thằng cu con quệt mũi đứng dậy, vừa khóc vừa chạy theo chị. Thị ngồi ngẩn mặt bên chậu bát. chẳng buồn rửa. Thị thấy mình thật lạ. Lần đầu tiên từ khi lấy chồng đến giờ thị muốn bỏ nhà đi. Ngày trước, hồi con gái, có mấy lần thị theo Loan tèo lên Nghĩa Đàn buồn cam, có lần còn ra tít Lạng Sơn. Sau cái lần thấy Loan tèo đem theo hai đứa con gái đi Lạng Sơn rồi không đem về, thị sợ bị bán đi Trung Quốc nên không dám chơi với Loan tèo nữa. Loan tèo bảo thị xinh, ra đường khối người mê. Nhiều người mê thì buôn bán làm ăn dễ lắm, tội chi mà ở nhà làm ruộng. Thị thấy Loan tèo nói cũng có lý: "Người như mày làm ruộng nó phí đi". Nhưng mà không làm ruộng, thị cũng không biết làm nghề chi. Học hết cấp hai, mẹ thị bắt thị ở nhà. Học làm chi cho phí của. Học rồi cũng không làm ông to bà lớn được. Nông trường ni, đầy đứa học hết mười hai cũng cày ruộng tuốt. Thị thấy cũng phải. Được vài năm, mẹ thị lại giục: "Lấy chồng đi, để rứa xí xởn tàu lại nuôi cháu ngoại". Rồi mẹ thị tỉ tê: "Lấy hắn là nhất, con một, nhà trúng đá đỏ đậm. Miếng ngon không giữ lấy tuột đi lại tiếc". Vậy là thị có chồng. Rồi thị có con. Con gái, con trai đủ cả. Nhưng thị vẫn thấy thiếu... Nhà thị chưa có ti vi? Dần dà sẽ mua được ti vi. Nhà thị chưa có tủ đứng? Rồi cũng sẽ mua được tủ đứng. Cái mà thị thấy thiếu nó mơ hồ lắm, xa xôi, khó nói lắm. Nó là một cái gì đó mà thị mong mãi, mong mãi vẫn không thấy đến. Có lúc thị sực tỉnh: Rứa là hết! Chồng rồi. Con rồi. Rồi thị sẽ già đi. Con thị sẽ lớn lên... Thị ngạc nhiên với những háo hức ngày sắp lấy chồng. Thị tưởng tượng cuộc sống gia đình khác thế. Nhưng khác như thế nào thì thị cũng không rõ lắm. Đại khái, thị hình dung lấy chồng là một bước ngoặt mà từ chỗ bị mẹ mắng chửi, bị mẹ sai việc thì nay chấm dứt. Phía trước sẽ rất rực rỡ. Thị sẽ có một người xa lạ yêu thương. Yêu! Thị đã bao giờ yêu chồng? Chồng thị, hắn có yêu thị? Thị không biết! Yêu là một cái gì đó xa xỉ, không có trong từ ngữ hàng ngày của cuộc sống gia đình. Đêm tân hôn, thị thấy hồi hộp. Nhưng cảm giác ấy qua đi rất nhanh nhường chỗ cho sự đau đớn và mỏi mệt. Lấy chồng là vậy à, chỉ thế thôi à? Khi thị sắp cười, mẹ thị thông báo với hàng xóm: "Hắn yêu thằng Thắng Mận" hay "Người yêu hắn là thằng Thắng, đội Quyết Tâm". Đó là bố mẹ Thắng với mẹ thị bàn nhau chuyện cưới xin chớ có hẹn hò chi với thị. "Chưa yêu rồi sẽ yêu. Không yêu cũng không chết. Không có chi nhét vô mồm mới chết thôi". Mẹ thị nói đúng. Nhưng thị vẫn ấm ức. Thị nhớ hồi còn nhỏ, thị cùng mấy đứa trong đội bò sang khu tập thể rình xem anh Tuấn hôn chị Thủy. Thị bị thằng Lâm dẫm cả lên bụng. Hồi đó, thị đã nghĩ rằng sau này lớn lên, có người yêu thị cũng được người yêu hôn và bọn trẻ con cũng rình ở ngoài để xem. Vậy mà lấy chồng có hai con rồi, thị vẫn chưa biết hôn là chi. Hai mươi ba tuổi, thị nói với người ta về "hồi còn con gái" một cách xa xôi và nuối tiếc. Cũng mới đây thôi, từ khi cai sữa cho cu con, thị mới hay nghĩ đến chuyện yêu. Và thị biết ra được một điều là thị thèm yêu. Nhưng thị không thể nói ra với ai. Có mà điên! Một chồng hai con rồi lại nói thèm yêu. Người ta chửi cho mất mặt. Nhưng đó là sự thật! Chưa có ai vuốt ve tóc thị dù tóc thị đen và dày. Chưa ai đưa cho thị cái bánh rồi ngọt ngào nói: "Em ăn đi!". Thị thấy chồng mình thật cục cằn, thật thô lỗ. Những lúc xông vào thị, hắn cứ thở phì phì lên mặt vợ, toàn mùi thuốc lào hôi nồng. Thị vừa thích lại vừa ghét, vừa hưởng thụ lại vừa chịu đựng chồng. Thị luôn có tâm trạng háo hức khi bắt đầu và thất vọng khi kết thúc. Thị cứ chờ đợi một sự khác, một cảm giác khác. Cảm giác như cái hồi đi xem chiếu bóng bọn con trai trong đội cứ đứng chen chen vào đám con gái để thỉnh thoảng lại có tiếng con gái ré lên hay tiếng con trai cười hô hố. Cảm giác đó không sao tìm thấy cảm xúc ấy. Một cái gì đó rất háo hức, rất tinh khôi. Một sự hồi hộp và thích thú Lạ thật, tại sao hắn lại không làm cho thị được như thế. Có đêm thị trằn trọc mãi cố hiểu xem thử "yêu là gì?". Thị nhớ đến chuyện con dâu nhà Thênh Uynh chồng đi bộ đội, đêm đêm chốt cửa buồng thật chặt, vặn nhỏ ngọn đèn rồi nhấc song cửa sổ ra ngoài đi với trai. Ông bố chồng thấy đêm nào đèn cũng sáng mãi đến khuya, gọi nhắc con đâu tắt đèn hẵng ngủ. Gọi mãi không được tưởng con dâu bị làm sao phá cửa xông vào mới hay mọi chuyện... Thế là yêu nhau đấy. Phải có những thích thú ghê gớm lắm mới to gan đến độ dám cưa song cửa nhà chồng. Mà phải yêu nhau lắm mới nghĩ ra được cái kế đó để loè bố mẹ chồng. Nhưng thị thì không đám làm cái điều vô phúc ấy. Làm thế thì quá quắt lắm. Thị chỉ cố nghĩ xem vợ chồng thị có yêu nhau hay không? Thị chưa bao giờ thấy nhớ nhung thèm khát chồng. Có phải xa nhau đâu mà nhớ. Hắn lại khoẻ như trâu, chưa bao giờ ốm đau. Nhiều lúc thị cũng muốn chăm sóc âu yếm chồng nhưng cứ ngường ngượng. Với lại nghĩ thì được chứ nhìn thấy mặt hắn thị lại thấy mình đang đối mặt với một cái gì đó thật phũ phàng, thật cay nghiệt. Và thị lại vô cớ cáu bẳn. Thị cáu con chị, thị đánh thằng em. Hai đứa trẻ ngơ ngác chẳng hiểu là mình mắc tội gì. Đánh con xong thị lại ân hận. Thị thấy mình xấu tính hắn đi. Người ta nói đúng. Đàn bà khi có chồng có con rồi đâm ra tủn mủn, bủn xỉn lại hay cáu gắt. Lòng thị buồn rười rượi. Quái, ai mà cứ rì rầm rì rầm thế này. Cứ như là... Hay là con vợ mình?... Thôi chết rồi! Dạo này nó khang khác. Mặt lúc nào cũng đăm đăm. Có đêm, hắn thức giấc thấy thị ngồi thù lù như con ma trên giường. Có hôm thì thật khuya mới đi ngủ. Lạ thật. Hắn rón rén đi ra phía bờ ao. Tiếng người rì rầm một to. Trăng sáng nhễ nhại trên bụi mía. Gió nồm hiu hiu thổi. Luống rau lang bàng bạc lấp loá ánh trăng. Sương đã xuống ươn ướt bàn chân khi quệt ngang đám lá. Lại không nghe thấy gì nữa. Chỉ tiếng lá khua xào xạc. Trời trong veo không một gợn mây. ánh trăng soi rõ từng kẽ lá. Hay là mình nhầm. Hắn lắc lắc cái đầu rồi căng mắt ra nhìn. Đúng là vợ hắn đang rửa rau lợn, có ai nữa đâu. Thị lấy tay khoắng thật mạnh vào cái rổ sảo. Cái rổ xoay thành vòng tròn như chong chóng. Rồi thị vớt rổ rau lên xóc xóc. Ráo nước, thị đặt cái rổ bên hông đi vào. Hắn nép vội sau bụi chuối "Em không thích thế". "ừ, em không thích thì thôi.". "Nhưng anh nhớ là anh phải làm theo lời em đấy". "Tất nhiên rồi em yêu ạ". Vợ hắn nói với ai thế? Ngó quanh quẩn chẳng thấy ai, chỉ những bụi mía múa dưới trăng, hắn bước ra làu bàu: "Lẩm bẩm một mình như con điên". Vợ hắn giật bắn mình, suýt đánh đổ rổ rau, quay lại cáu hắn: làm chi ở đó mà người ta hết cả hồn". "Tau đi đái". Rồi hắn đi sang hàng xóm xem ti vi. Thị ngồi thụp xuống, hai tay ôm ngực Trống ngực đập thình thịch. Không biết hắn có nghe được lời thị nói hay không. Không biết hắn có hiểu gì không? Thị đang "nói chuyện" với "người yêu" của mình. Đó là một người đàn ông nhẹ nhàng, lời nói lúc nào cũng thơm tho, dịu ngọt, điệu bộ thì nâng niu. Anh ta là ai thì thị cũng không rõ nhưng chắc chắn một điều là anh ta và thị rất yêu nhau - một tình yêu đầy thơ mộng. Hầu như ngày nào, thị cũng "tâm sự" với anh ta. Thị nghĩ, như vậy cũng là ngoại tình... Ừ, ngoại tình. Thị ngoại tình cho hắn biết mặt. Thị ngoại tình để trả thù hắn cái tội không biết yêu. Từ ngày "có người yêu" cuộc sống của thị bớt nặng nề, khó chịu. Thị thấy lòng mình phơi phới. Đôi lúc thị còn hát. Thị tưởng tượng ra đủ chuyện để đối thoại. Có lần thị còn cãi nhau, giận nhau với "người yêu" nhưng anh ta làm lành rất khéo nên thị không thể giận lâu được. Những giây phút với "người yêu" thì thật hạnh phúc. Thị nhõng nhẽo, thị dỗi hờn. Anh ta chiều chuộng, anh ta dỗ dành. Những lời nói ngọt ngào nhất trên đời mà thị nghĩ được, nghe được chính là lởi anh ta dành cho thị. Anh ta và thị yêu nhau như phim Hàn Quốc. Và trong mắt anh ta thị là người đàn bà xinh đẹp và khôn khéo. Anh ta không ngớt lời khen ngợi thị. Bất giác, thị thở dài. Giá như anh ta là người thật, là chồng thị thật. Giá như chồng thị là anh ta... Ôi chao, cuộc đời mới trớ trêu làm sao! Tất cả những gì ta có trong tay cũng không đẹp bằng. Hay vì của ta rồi mà không thấy quý. Cũng giống như khi thị hái quả. Những quả ở trên cành cao, khó nhìn khó hái thị thấy nó ngon lắm. Hái xuống thị thấy cũng như nhau cả thôi. Nhưng không giống thế. Chồng thị và anh ta không thể như nhau. Thị không đòi hỏi hắn phải bằng anh ta. Mà hắn làm sao bằng anh ta được. Thị chỉ cần hắn yêu thị một cách dịu dàng, hắn hiểu rằng thị cũng đẹp, cũng thích được khen, cũng thích được chiều chuộng vuốt ve... Tại sao hắn không làm được những điều đơn giản ấy. Chỉ cần hắn như thế là thị sẽ thay đổi. Thị không cáu gắt, không đánh con. Thị sẽ dịu dàng với hắn. Gia đình thị sẽ êm ấm và hạnh phúc. Thị sẽ chăm chỉ và tích cóp. Dần dà sẽ đầy đủ hơn. Mọi cái là do chính ta, cốt ở ngay ta chứ xa xôi đâu mà tìm kiếm. Thị cũng có thể làm được. Hắn cũng có thể làm được. Mỗi người thêm một tí, bới một tí. cố gắng một tí như khi thị gia giảm nấu nướng là sẽ có món ăn ngon. Người thành phố ngon kiểu thành phố. Thị ở nông thôn ngon kiểu nông thôn. Hạnh phúc là do tự từng người tạo ra chứ không phải là cái bánh bán sẵn ngoài chợ, cứ có nhiều tiền là mua được bánh ngon. Nhất định là phải thay đổi. Bắt đầu từ ngày mai, thị sẽ đối xử với chồng như đối xử với anh ta. Thị sẽ yêu để được chồng yêu lại. Thị tự sửa mình trước. Cuộc sống gia đình thị chắc chắn sẽ tốt đẹp hơn. Thị vui sướng nghĩ. Chợt tiếng hắn oang oang: "Con tê, làm chi mà như ma xó mãi rứa. Để con ngủ ngoài sân ri à. Bồng con vô".[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tặng tác giả những nhân vật xưng Em[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phạm Thị Hoài[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chỉ có hai mẹ con trong một căn buồng như một ga tàu treo mạo hiểm trên tầng năm. Hành khách toàn đàn ông. Họ là những người quen ra công cộng. Cứ thử quan sát họ, dù ở một nhà vệ sinh thu tiền, hay bu quanh một góc tiểu tiện khoan khoái ấm cúng giữa phố, bao giờ họ cũng khác khi ở gia đình riêng. Nghĩa là giấu chỗ bí tất thủng dưới lòng bàn chân, cân nhắc tuỳ mức độ các động tác và lời nói, và hay chột dạ. Xung quanh có ba hàng xóm ông số 7 của mẹ làm nghề thu tiền điện, bảo đến nhà nào cũng thấy một con đực, và kè kè bên nó một con cái, không rõ có phải của nhau hay không nhưng xem ra cố định. Nhà nào cũng thế khiến ông ta nghẹn ngào. Em đã thử sang xin muối cả ba hàng xóm, quả có thế thật. Riêng nhà em một kiểu. Mẹ thường bảo, mẹ con mình sống kiểu thời chiến. Không có ông nào đảo ngũ, về ở hẳn với mẹ. Trong căn buồng - ga tàu treo của hai mẹ con, cái gì cũng chuẩn bị nhổ neo, không yên một chỗ, cái gì cũng phấp phới bay, nhất là bức bình phong vải phin hoa nội địa ngăn giữa nơi tiếp khách của mẹ và góc học tập của em, cái gì cũng mang tinh thần không rõ ngày mai trôi dạt phương nào, trừ những cuốn vé của đám hành khách đàn ông. Chúng là kỷ niệm, nên có quyền chất lù lù thành núi, không ai can thiệp đợc. Kỷ niệm mang hình đầu lọc thuốc lá có hằn rõ vệt răng, vừa cắn vừa ngập kiểu đàn ông, bẹp gí, nồng nồng. Rồi những bức thư, cả xấp chưa trả lời, cả xấp nguyên không bóc, cả xấp bị xé vụn, rồi những mảnh vụn được dấu dưới đáy hộp nào đó. Ðủ kiểu giấy: ông này xé sổ tay, ông kia rình kiếm loại xa xỉ ngoại quốc, ông nữa dùng loại kẻ ô ly, chắc có con đang học lớp dưới. Rồi những lọ nước hoa được sản xuất từ những nơi có truyền thống yêu đàn bà đã dùng cạn vẫn xếp hàng góp trên mặt giá. Album ảnh thì đầy những khoảng trống lem nhem như bộ nhớ của thời gian, với dòng chữ và con số chứa toàn bộ điều bí mật đã dập xoá công phu bên dưới. Kỷ niệm còn là những vết thủng trên tường bê tông... một đồ đạc treo nặng nghĩa tình nào đó đã xơ tán... Mẹ con sống kiểu thời chiến, kỷ niệm cũng nguỵ trang, vội vội vàng vàng. Có lúc, em muốn châm lửa đốt sạch, giải tán luôn cái nhà ga này, hay tế nhị hơn: dùng chiếc quạt tai voi già nua xua tơi tả đống kỷ niệm không chịu tự động hành quân ấy ra ngoài cửa sổ, cho chúng đậu xuống mái nhà tầng dưới - dưới ấy và dưới ấy nữa, sâu xuống lòng đất, chắc chắn chỗ nào cũng là một con đực và một con cái cố định bên nhau - thành rác rởi ở đó, công khai băng hoại ở đó và thối hoang lên, để mỗi lần nhìn ra cửa sổ, mẹ, người nhạy cảm với hương thơm và cái đẹp, phải rùng mình. Nhưng không. Mẹ, hoặc mở toang cửa sổ, mắt phơn phớt một chút xanh, môi phơn phớt một chút hồng, tóc vừa gội sấy thả bềnh bồng, miệng không ngậm được vì cứ phải cười một mình và hát một mình, còn tâm hồn thì bay trước xuống tận chân cầu thang một, bất chấp phân chó của cả năm tầng, rạo rực chờ, hoặc đóng sập cửa sổ, quyệt lên những chiếc gối trắng tinh các bức màu nước đầy ấn tượng xanh hồng và đen xì chì kẻ mắt made in Japan, rồi vò nhàu chúng, phẫn nộ, tức tưởi như hoạ sĩ không hài lòng với tác phẩm, vò nhàu tóc tai người ngợm và nữ tính bất diệt của mình, và hai tiếng đồng hồ sau, bài thơ "Bầm ơi" em chưa kịp thuộc lòng câu kết mẹ lại mở toang cửa sổ: Quá khứ đã được thanh toán đàng hoàng bằng nước mắt ba màu. Thế thôi, chứ mẹ không rùng mình. Núi kỷ niệm còn đó. Mẹ chẳng sống với nó, lên em thành người cai quản. Trong căn buồng - ga tàu treo của hai mẹ con, em là người kiểm vé. Diễn biến các mối tình của mẹ, tổng kết một cách khoa học, luôn giống nhau, bao nhiêu sung sướng, bấy nhiêu đau đớn, cho cho nhận nhận, cao trào, thoái trào, cộng trừ xong tóm lại là bằng không, trừ trường hợp người đàn ông mới toanh hiện nay của mẹ, và của em, và dĩ nhiên trừ những khoản thư giãn dễ chịu. Nhưng mẹ, người không hề rùng mình trước triển lãm ký ức mà em có thể tổ chức tế nhị ngoài cửa sổ, trên mái nhà tầng dới, lại rùng mình trước lý lẽ mổ xẻ và khái quát của em. Những nẻo đường của tình cảm, con gái ơi, bất ngờ phấp phỏng lắm. Ðừng soi mói chúng. Chúng biến hoá vô cùng. Hãy để chúng tự dắt con đi, đừng cố gắng kiểm soát, đừng dùng lý trí làm vũ lực cưỡng lại. Mẹ nói thế vì mẹ mang trái tim thiếu nữ mù loà của em. Với em thì đã muộn. Em, vì còn ai nữa đâu trong căn buồng thời chiến, nhận trái tim thiếu phụ mệt mỏi và cạn kiệt cảm xúc của mẹ. Vậy là, đầu tiên mẹ tò mò, khởi điểm của sung sướng. Ông số 7 chẳng hạn gây ấn tượng đáng kể bởi những ngón tay dài màu nâu luôn lơ đãng. Ông là một người đàn ông trung niên có đủ thứ mặc cảm. Thông thường, ông ta trốn khỏi mớ mặc cảm đó, bằng cách theo đuổi những ý nghĩ xa xăm. Người trước đó, em nhớ có bàn tay mập mạp, hiếu động, hiện thân của sự vui vẻ. Hắn no đủ và hơi quá vui tính , em nhớ, mẹ đã phàn nàn như vậy. Ông số 7 lơ đãng và phiền muộn. Mẹ đã ngồi ngây ra khi ông đốt thuốc lá như thắp hương. Ðiếu thuốc cứ tự cháy tàn trong lòng chiếc đĩa con đựng chén trà hầu như không được đụng tới, hết điếu này đến điếu khác, những điếu thuốc lá đắt tiền của mẹ, trong khi ông ta lơ đãng hướng nội. Nếu có hút vào, ông ta sẽ ho sặc sụa. Nhưng cứ châm thuốc, để đó, hướng nội cái đã. Ông hướng nội, ông hướng ngoại, mẹ chạy vòng quanh, cũng là một thế giới lạc quan. Ông số 7 là một trong những tai hoạ lớn nhất của mẹ. Sau ông ta rất lâu, thỉnh thoảng mẹ vẫn đỏ mặt khi bị em bắt quả tang đang đăm đăm nhìn điếu thuốc mẹ tự tay đốt trong lòng đĩa, với lời cầu nguyện bí ẩn trên môi. Một tôn giáo mới ra đời. Em đưa cho mẹ một trong chín cái gạt tàn chính quy nằm rải rác khắp nơi, để bất cứ ở toạ độ nào cũng tiện tầm tay với. Rồi em xoay lưng lại, cho mẹ áp hết tất cả các xương sống lạc quan của mẹ lên em, tựa vững chắc vào em, vì còn ai nữa đau trong căn buồng thời chiến. Mẹ quả là phi thường. Mẹ luôn biết cách biến các tai hoạ thành điều may mắn. Sau ông số 7 mẹ đã may mắn rút kinh nghiệm là lên tò mò về những điều thiết thực hơn. Thế là mẹ gặp một ông luôn đứng ra tổ chức rất thành công các hội thảo và hội nghị khoa học cho người khác phờ phạc ngồi nghe, còn ông ta, thấu hiểu rằng sự thật nằm trong các cốc bia của những chiến hữu thân thiết, nên chỉ xuất hiện để khai mạc và tổng kết. Sau đó, mẹ quan tâm đến một ông bác sĩ phẫu thuật thẩm mĩ đang chiêu khách cho phòng khám tư nhân. Ông này hùng hồn nêu cao nhu cầu đặt lại, chẳng hạn một ngón chân cho ngay ngắn, dù cho người ta phần nhiều xuất hiện dưới mắt nhau trong giày và bí tất. Khi ông ta về, mẹ lập tức ra mắt trong bộ đồ tắm hai mảnh mà mỗi mùa nghỉ mát mẹ đều thầm nghĩ nó đã hết mốt. Em cùng chiếc đèn bàn Liên Xô cổ ngỏng gật gù đi vùng quanh mẹ nhiều lần. Phải khách quan, con gái ạ đừng mẹ hát con khen hay, như thế không tiến bộ được. Mẹ yêu cầy khe khắt. Không mẹ ơi, cơ thể ba mươi sáu tuổi của mẹ thật tuyệt vời, ông bác sĩ miệng ca ngao đừng hòng hy vọng, em quả quyết thế. Ông ta hãy về mà cắt dán mông má và xếp lại ngón chân cho chính vợ ông ta ý. Bà ý rất cần. Mẹ cảm ơn em. Em cùng chiếc đèn cổ ngỏng trở về xem xét lần cuối những chỗ lõm lồi trên bản đồ Việt Nam cho cuộc biểu diễn vẽ theo trí nhớ trong giờ địa lý sáng hôm sau. Câu chuyện bên kia bức bình phong của ông bác sĩ khiến em không thể vượt qua đoạn sần sùi ở bờ biển vĩ độ mười hai mười ba. Sau lưng em, mẹ đang hỏi ý kiến tấm gương Pháp, tài sản duy nhất mẹ yêu thanh tú và đường cong hoàn hảo của bờ vai, những tối là tài sản duy nhất của mẹ, con gái ạ", mẹ thường nói thế, nhưng lòng tin cậy gửi gắm của mẹ tiếp tục chao đảo giữa em và tấm gương. Ánh mắt mẹ sáng ngời khi chạy trên đường viền khuôn mặt thanh tú và đường cong hoàn hảo của bờ vai, những tối dần, tần ngần đứng lại và cũng không vượt qua nổi khu vực tương tự như trên tấm bản đồ của em. Sáng hôm sau, bài kiểm tra địa lý của em là nguyên vẹn, mẹ, trong bộ đồ tắm hai mảnh đầy lo âu, hình chữ S. Em đã vẽ đoạn phình ra, sần sùi ở vĩ độ mười hai mười ba thật đàng hoàng, thật âu yếm, để mẹ không cần mặc cảm gì hết, để mẹ đừng tin những tấm gương, dù là gương phẩm chất đã được thử thách của thời xa xưa để lại. Chính vì em, và cho em, chỗ ấy mới sần sùi thế. Nên với em, nó tuyệt đẹp, nó tuyệt đẹp, nó cảm động hơn tất cả những cái bụng mỹ miều của các hoa hậu. Hơn nữa, khi người ta mang một trái tim thiếu nữ luôn đập loạn xạ, thì cái túi thịt bên ngoài nào có ý nghĩa gì. Và nhìn chung, tại sao phải bận rộn đến thế vì riêng cái tấm thân? Tại sao phải quan tâm nhiều đến nó thế, dành cho nó lắm phát mình thế, phụ thuộc cuộc đời vào nó đến thế? Mẹ suốt đời mang trái tim thiếu nữ của mẹ. Ngay chiều hôm đó có cuộc gặp mặt trực tiếp giữa nhà trường và phụ huynh phía bên kia bức bình phong phấp phới. "Bây giờ, tôi thật không còn ngạc nhiên về điều gì nữa", thày giáo địa lý vò nát bức chân dung mẹ, phác hoạ bởi thiên tài của em, với dòng ghi chú "mẹ Việt Nam", rồi lại vội vàng mở ra, vuốt phẳng, nhét vào cặp, để còn trình ban giám hiệu và ba chân bốn cẳng chạy thục mạng, khỏi căn buồng - ga tàu treo. Thỉnh thoảng cũng có một hành khách nhầm ga như thế. Chẳng qua, thày chỉ là một người đàn ông nhỏ thó, luôn kinh hoàng trước sự lễ phép giễu cợt của đám học trò phổng phao. Rồi sự thân ái của đồng nghiệp cũng giễu cợt. Tôn ti trật tự trong gia đình cũng giễu cợt nốt... Mẹ áp lên má em một giọt nước mắt và không bao giờ nhắc tới ông bác sĩ nữa. Một lần mẹ khóc, bộ ngực mẹ như muốn bật tung ra, rơi vào tay bất cứ ai đang ở gần. Bên kia bức bình phong, đã bao nhiêu ông khách phải làm phúc giữ hộ mẹ bộ ngực không chịu ở yên một chỗ ấy. Em đã nói, trong căn buồng này, chẳng có gì cố định. Sau tò mò, mẹ chuyển sang khâm phục, hoặc xúc động hoặc cả hai thứ một lúc. Mẹ đã khâm phục đủ thứ. Một ông luôn nói những lời mơ hồ mà mẹ chẳng hiểu gì hết, những mê mệt linh cảm đằng sau đó những điều thiêng liêng to tát. Một ông đi đâu cũng được thiên hạ mời mọc hỏi han, khiến mẹ vô cùng hãnh diện, rồi những ông luôn đúng hẹn, ôi con người mới đáng tin đáng quý làm sao, những ông nhạy cảm lạ lùng, những ông nho nhã, những ông khéo tay, những ông cương cường dũng mãnh, những ông rất đỗi dịu dàng, những ông mực thước thâm thuý, những ông phóng khoáng bao dung, những ông uyên bác thông minh, những ông vô cùng bí hiểm, những ông mộng mơ, những ông quần áo chả có gì mà trông lúc nào cũng thích mắt, những ông giản dị khiêm nhường, những ông cực kỳ lịch duyệt, những ông trẻ thơ, những ông là đá hoa cương , những ông là người thuyền trưởng, những ông giàu óc thực tiễn, những ông yêu súc vật, những ông luôn biết điều, những ông chói lọi tài năng, những ông quên mình cho lý tưởng, những ông chẳng làm ai buồn, những ông không hắt xì hơi trước mặt phụ nữ và trẻ em, những ông là cả một thế giới độc lập ngang tàng, những ông vui vẻ xách làn cho vợ... Các ông ấy, ông nào cũng hơn hẳn những ông còn lại, hơn hẳn và hơn là nẫu ruột này, như thế, hỏi làm sao mẹ nhẹ dạ của em không run lên. Và khi mẹ đã thán phục, thì xin tạo hoá đừng tực ái, đừng khuyên nhủ đấy, đừng bao giờ cũng là người đàn ông duy nhất và cuối cùng trên mặt đất. Mẹ ông ta, một sự bất hạnh không cần gái ạ, đấy là điều dễ chịu nhất. Rồi sẽ đến lúc con biết đánh giá đúng mức sự dễ chịu". Em không còn cơ hội để đánh giá điều gì nữa. Em đã sống trước tơng lai đàn bà của em trong mẹ, đã gửi cả vào mẹ trái tim mười sáu tuổi cường tráng của em, và nhận chân canh giữ ký ức quá tải ái tình của mẹ. ở nước ngoài, em có thể là một bồi phòng tốt, được trả lương cao, em có thể là một bồi phòng câm. Vâng, em có mười sáu, em định nghĩa tốt chứng lãnh cảm. Mẹ, đã thành chu kỳ, cứ sau dăm ba cuộc thăng trầm lại lớn tiếng ca ngợi sự dễ chịu thuần tuý. Ðó là những khoảng thư giãn ngay trong tình yêu, vì tình yêu trong cuộc đời mẹ không ngày nào được nghỉ. Thỉnh thoảng, mẹ nghỉ ngơi trên mặt hồ, trong một nhà hàng ấm cúng mới phát hiện, hay trong một buồng khách sạn ven đô, với si líp mặc lần đầu, đồ hộp và một người đàn ông thuộc về mẹ một khoảnh khắc nào cũng như mẹ tuyệt đối không thuộc về ông ta. Ông ta là cả một khối dễ chịu đồ sộ, với bàn tay nóng ấm mơn man lịch sử, không cuống cuồng, không thúc bách, bàn tay biết nghe lời và biết yêu thương đặc biệt những khu vực giàu linh cảm của mẹ, vĩ độ mười hai mười ba, để mẹ nhắm mắt, quên đi, quên đi cái quá khứ nông nổi lỗi lầm, quên đi đứa con gái vị thành niên mắc chứng lãnh cảm, quên đi, hay đừng sống trước những gì chờ đợi, vì em ơi, những nẻo đường của định mệnh làm sao kiểm soát nổi. Em ngốc lắm, em ngu nữa, ông ta bảo mẹ thế, hãy để yên, anh thấy dễ chịu. Mẹ và ông ta, họ không tương tư nhau. Họ biết ơn nhau. thế, đối với cuộc đời bị thoá mạ thường trực của mẹ, đã quá nhiều an ủi. Khả năng xúc động của mẹ còn khổng lồ hơn khả năng khâm phục. Mẹ cứ rối rít lên như cần ăng ten, bắt đủ thứ sóng ngắn dài. Những làn sóng lượn quanh nhau, đè lên nhau nổ lục bục trong lòng em. Lòng em là cái loa hỏng từ lâu. Ông số 7, chẳng hạn, đã đánh gục mẹ bằng sự bất hạnh triền miên của ông ta, một sự bất hạnh không cần đèo theo một nội dung cụ thể, một sự bất hạnh có tính nguyên tắc. Ông ta bất hạnh khi ngồi trước mặt mẹ, bên kia bức bình phong, cả hai cùng im lặng thật hồi hộp và sâu sắc, để tránh cho thế giới học trò của em nguy cơ ô nhiễm. Ông ta tiếp tục bất hạnh, khi em trang trọng kiếm cớ xuống nhà đổ rác, nhân viên mua ô mai. Và tất nhiên, khi ông ta chào mẹ, để về thuê thằng con trai chín tuổi đi học, cứ điểm mười năm trăm, điểm chín bốn trăm, điểm tám ba trăm từ bảy trở xuống không tính, khi ông ta chào mẹ ở chót vót trên tầng năm, để về thực thi nền giáo dục và nghĩa phụ tử kiểu đó, rồi gặp em mọc rễ bên chiếc xô bẩn ở đâu đó bên dưới miệng tê dại vì đắng và chua không mở ra chào ông ta được, thì nỗi bất hạnh của ông nhuộm toàn bộ không gian xung quanh khu cầu thang trong một vầng hào quang đen nhẻm. Sự bất hạnh là cái gì mà quyến rũ thế, em hỏi. Mẹ giật cái xô rác trong tay em, ném choang xuống cầu thang: "Nói như thế là sỉ nhục người khác, con không biết à? " Cái xô trống rỗng thoạt đầu lao vun vút xuống, ba bậc một, ngập ngừng dừng ở khoảng chiếu nghỉ chật hẹp và hà tiện, rồi quả quyết tự chỉnh hướng, quay lại, khổ sở leo từng bậc thang và nhẫn nhục đứng trước mẹ, như thầm nói: "Thưa bà, tôi không có sĩ diện". Mẹ ngất. Sau này, ông số 7 cũng nói đại ý, ông ta không có sĩ diện. Ông ta là công nhân của một đất nước ở vào thời buổi không có gì đáng sĩ diện hết. Mẹ vẫn mở lòng ra, xúc động trước tất cả: những ông khát vọng không chịu già đều cùng tuổi tác, những ông lạc lõng giữa các bầy nhòm và tập đoàn, những ông chỉ sống để trả thù các thành công không xứng đáng của kẻ khác, những ông cao dưới một mét sáu mươi, những ông dở dang mọi nhẽ, những ông phải tiết kiệm hai trăm gửi xe, những ông lên gân cho các cuộc giao du quý phái, những ông làm cách nào ly hôn được với vợ, những ông đâm đầu vào bệnh lậu trong tinh thần ngơ ngác, những ông vất vả ngược xuôi thu phát các tư tưởng độc đáo, những ông tuyệt vọng chống trả bi kịch bị lãng quên... và ưu tiên số một là những ông công dân bất hạnh. Hai khả năng của mẹ, khâm phục và xúc động, là hai cánh tay khổng lồ vươn ra ôm trọn thế giới đàn ông, không cho ông nào thoát. Thế, nên khách nhà em thường bắt tay nhau sững sờ. Người đáng kính ngồi kề kẻ đáng thương. Ông thành đạt chìa tay cho ông chưa thành đạt và ông không bao giờ thành đạt. Họ khinh trọng nhau ở đâu, chứ ở nhà em, tất cả đều bình đẳng trong vòng ôm khổng lồ, trong gọng kìm của mẹ. Giấc mơ đại đồng của nhân loại được thực hiện phân nửa bởi một phụ nữ nhẹ dạ, lầm lỗi như thế. Cũng không ông nào thoát cơn say đắm của mẹ. Mẹ luôn phải say đắm một người đàn ông nào đó. Mỗi lần mẹ say đắm, em còn lại một mình, hai đầu gối kẹp chặt trái tim. Nhiều lần như vậy, nó đông cứng lại trong một hình số 8 vẹo vọ. "Mẹ sẽ mua một con chó Nhật, nhé, xinh lắm", mẹ nói thế vào một sáng sớm, khi mẹ rón rén trở về và bắt gặp em ngủ ngồi đằng sau cánh cửa trông ra cầu thang. Mẹ rón rén trở về guốc cầm trên tay, con hươu ba mươi sáu tuổi, cười bối rối bằng màu môi thật, trông cảm động hơn tất cả những cặp môi rực rỡ của các hoa hậu. Ðó là ngoài môi, còn sâu trong cổ họng là những âm thanh bị nén lại theo phép ứng xử, cũng một kiểu tự phụ. Ðáng lẽ chúng ta phải được xổ tung ra, kêu lên, gào lên, rằng mẹ đang hạnh phúc. Nhân loại đại đồng và hạnh phúc. Mẹ rất dễ hạnh phúc. Mẹ có thể tự nguyện hạnh phúc trong phạm vi đường kính một mét tư, quây tròn bởi những mảnh bạt và ni lông chắp nối trong khu vườn nhỏ lạo xạo của hầu hết các quán cà phê. Chủ quán ắt phải là một đàn bà còn giữ nguyên vẻ lam lũ đức hạnh của một đời làm cán bộ nhà nước. Bà ta sẽ sốt sắng, gần như xun xoe tuồn các đĩa hướng dương, thuốc lá điếu lẻ và kẹo cao su vào từng lô ái tình bập bùng kín mít, trong đó có mẹ. Mẹ cũng sẵn sàng hạnh phúc, khi người đàn ông đi cạnh chỉ đi cạnh, chứ không dắt tay mẹ dung dăng để mẹ được tỏ cho phố phường náo nhiệt vô danh biết, mẹ là người đàn bà được che chở. Mẹ hạnh phúc bất chấp cả ba nhà hàng xóm, thỉnh thoảng nghe tiếng chân ngoài cầu thang lại hé cửa, cho một ví dụ về đạo đức. Em thề, hỡi các người, từ nay ta không sang xin muối nữa. Thậm chí câu hỏi bâng quơ nhiều lần của viên cảnh sát khu vực: "thực ra, chị làm nghề gì nhỉ?" cũng không thể ngăn cản mẹ hạnh phúc. Mẹ có hai bằng đại học, bốn ngoại ngữ, ngoài ra còn làm thơ. Mẹ là trí thức hạng nặng. Con chó Nhật chưa kịp đến, ông số 7 đã ra đi. Ông ta không có điều kiện hành động giống cái xô rác hôm nào, vì các cuộc chia tay của mẹ bao giờ cũng mang tinh thần chiến tranh: người ta phải dũng cảm và quyết liệt bằng mọi giá. Rồi mẹ sẽ có một say đắm số 8, hy vọng rằng không vẹo vọ như con số 8 của em, tất nhiên. Nếu cần, mẹ rút ngắn các giai đoạn tiền say đắm, để nhanh chóng đạt đến cao trào sung sướng hơn. Ðó thuần tuý là vấn đề kỹ thuật. Nhưng kỷ nguyên sau ông số 7 bỗng mang một dấu hiệu nguy hiểm: mẹ cũng bắt đầu lơ đãng Hướng nội, lại còn trơ một mình, nhưng không có thời gian quan sát trái tim lập dị của em, vì còn bận canh chừng ấm điện, tàu ngầm, máy sấy tóc, bếp đun, bàn là, vòi nước, những vật tế cho nội tâm của mẹ. Bất cứ lúc nào, căn buồng ga tầu treo mạo hiểm của hai mẹ con cũng có thể bùng cháy hay thê thảm đắm chìm. Rồi một chiều mẹ ra mắt em và tấm gương Pháp dưới dạng một cuộc cách mạng: mái tóc từng làm khu cầu thang sặc mùi phân chó phải xao xuyến bây giờ là một mớ xoăn tít, cụt lủn, màu móng tay, móng chân thì nhức nhối với màu môi màu mắt và triệt để hơn cả là bộ quần áo lóng lánh nhũn nhùn, toàn bộ giống như một con ngỗng đang hoang mang giữa mốt trưởng giả và mốt híp pi. Thế là mẹ đã trở thành một phạm trù. Càng ngày càng nhiều phạm trù tương tự xuất hiện trên đường em đi học. Em và tấm ưgơng Pháp lần đầu tiên ngầm đa mắt cho nhau: hãy im lặng, không nhất thiết phải tán đồng, nhưng cuộc cách mạng đáng tôn trọng vì tính chất tuyệt vọng của nó. Mẹ đang phồng lên dữ dội, đang lấn chiếm không gian, đang quyết tâm khẳng định một điều gì đó ghê gớm lắm. Như thể ông số 7 và nỗi bất hạnh của công dân của ông ta chưa từng chiếm một chỗ, rồi đuổi không ra nữa, trong lòng mẹ. Như thể mẹ, trí thức hạng nặng, yên tâm lắm trong cuộc yêu khổng lồ nhưng mãi mãi đơn độc vì bị thoá mạ thường trực của mình. Như thể em không nêu tâm gương về sự lãnh đạm, ít nhất cũng với một nửa nhân loại. Mẹ phồng lên trên sự suy nhược của em mà thôi. Mẹ kéo về một ông nói liên tục, như sợ ngài mai đột tử không kịp nói nữa. "Ê, này, cô bé" ông ta thò đầu tay qua bức bình phong, nói với em, "Uống một chút chứ! Ðừng có làm bộ mặt khó dễ như bà hiệu trưởng thế. Hừm các người tưởng các người đang ở đâu hả? Anh Cát Lợi chắc? Uống đi cháu, bác xin lỗi. Thôi được. Thôi được. Tôi phải đi khỏi đây chắc? Các người mơ màng quá. Cuộc sống của tôi cũng có nhiều ý nghĩa lắm đấy. Em này, cái công ty của anh đang quét vôi lại. Ra phết. Này cô bé, cô vào lớp chuyên tin đi, chú đảm bảo việc làm. Nhưng dù sao thịt quay ở chợ này cũng khá. anh tưởng đã phải đi xa hơn. Thịt quay là vấn đề không đơn giản. Em này... "Ông ta ngoáy liên tục vào bát nước chấm, ra nhà vệ sinh vài lần và dội nước ồ ồ, chắc cũng sợ ngày mai không kịp. Bên kia bức bình phong, ông ta lột tất ở chân mình, tuyên bố rằng trên đời đáng ghét nhất là sự ỡm ờ. Với ông ta, mọi chuyện đều phải rõ rằng, ngay tức khắc. Mẹ may mắn đi đôi tất chỉ lên tới đầu gối. Mẹ thoả hiệp một chân, chân kia vẫn thủ tiết. Tiếng mẹ khe khẽ đề nghị tới một quán cà phê nào đó. Ông ta guyết đi: "Vẽ chuyện, con bé nhà em vô cảm". Mẹ đứng phắt dậy, mái đầu xoăn tít ném một đống dấu chấm hỏi rực lửa lên trần nhà. Bên trên là bầu trời bình thường. Ông ta chờ đợi hồi lâu. Khi không thấy lời đáp nào từ trên ấy, ông ta cũng đứng phát dậy: "Các người tưởng các người đang ở đâu hả? Anh Cát Lợi chắc? " Vì sao ông ta chỉ hâm mộ mỗi nước Anh? Em bước ra nói: "Mẹ, con đi tìm ông số 7". Trời, ai lại dạy con gái đánh số, mẹ ôm mặt lảo đảo. Rồi lần đầu tiên trong căn buồng - ga tàu treo của hai mẹ con xuất hiện khách đàn bà. Họ gồm ba người, đến vào các chiều thứ năm như trong thế giới quý tộc. Ðúng năm giờ, ngày đang bước vào thời điểm đực cái bắt đầu quấn lấy nhau, thời điểm ông số 7 nghẹn ngào đi thu tiền điện, những cơn đau nho nhỏ cứ dấy lên khi ông ta khi ngửi mùi da xào chảo lớn, đúng giờ ấy họ tập trung ở nhà em, mít tinh ca ngợi tự do. Họ thi nhau thơm nức. Họ mở bia nước ngọt lốp bốp. Một lát sau, họ sẽ lần lượt khoả thân. Toàn những con ngựa không có người cưỡi, xác thịt chảy buồn bã như suối. Một mợ vượt quá mọi kích thước, trừ đôi cẳng chân bắt đầu teo lại. Một mợ lép kẹp, má lại phính. Cái Xê - ri này cũng đáng tôn trọng vì nhu cầu phản kháng của nó. Nhưng em đã già nua, kiệt quệ vì ký ức quá tải ái tình của mẹ. Thêm những xác thịt gào thét của các mợ, em ắt phải gục xuống. Mợ to béo với cẳng chân teo đến véo vào đùi em. Các mợ khác vừa cười hi hi khích khích vừa sờ khắp người em. "Xem này, không khéo con bé xơ cứng mất". Họ bảo nhau đem lại cho em mùa xuân. Họ, hội từ thiện không tự bố thí nổi cho mình. Có người nào trong số các mợ ấy không từng bị một ông tàn nhẫn bảo rằng các mợ phồng lên như chiếc chăn bông cũ bật lại cũng hết sức vô ích? Cả mẹ nữa, có bao giờ mẹ giật mình bắt gặp những người đàn ông của mẹ trộm nhìn em? Những người bạn gái phóng túng của mẹ gửi cho em mười tám mùa xuân, bằng đúng nửa số năm tháng sung sướng và đau đớn của mẹ. Anh chàng mười tám tuổi đứng giữa mẹ và em, người đàn ông mới toanh hiện nay của mẹ, và của em. Sự lạnh lẽo của em đẩy anh ta sang phía mẹ. Nỗi hoảng sợ của mẹ lại trả anh ta về em. Thời chiến hết rồi. Bây giờ người ta thanh toán hậu quả. Chẳng còn cách nào khác, mẹ phải chữa bệnh cho con gái mẹ. Liều thuốc là mối tình xót xa bất đắc dĩ này. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tạo hoá dưới trần Gian[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Quang Sáng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thằng bạn của tôi, Trần Chính là nhà quay phim chiến trường, suýt chết không biết bao nhiêu lần, một con người dày dạn. Sau ngày Giải phóng anh được đưa đi học nghề dạo diễn ở nước ngoài. Trở về, hai đứa.gặp lại nhau tại quán cà phê vỉa hè dưới gốc một hàng me. ấn tượng đầu tiên khi tôi gặp lại anh: anh trẻ hơn nhiều! Trước, anh vừa gầy vừa đen, cái màu đen của nắng, của bụi, của cả khói đạn. Năm năm ở nhà trường nước ngoài, màu da anh như được rửa sạch. Da mặt vừa hồng vừa mơn mởn. Không phải đẹp trai mà ngon trai, mái tóc dợn sóng, đôi mắt trong, đôi mắt lúc nào cũng quan sát, liếc nhìn người qua lại, ngước nhìn cây, cúi xuống nhìn những lá me vừa rụng xuống bàn, thật linh động. Chiếc áo khoác ngoài màu xám tro, không có tay nhưng rất nhiều túi. Trước ngực lủng lẳng chiếc máy ảnh Nicon, đúng phong cách con nhà điện ảnh. Anh có danh xưng mới: "đạo diễn trẻ", trẻ thật, mới hơn ba mươi - nhiều mối tình nhưng chưa có vợ. Trong nhiều chuyện trao đổi qua lại, có một câu nói của anh tôi nghe lạ - Anh đưa tay chỉ lên trời, ngón tay múp míp: - Trên trời có tạo hóa dưới trần gian thì có đạo diễn. - Mầy nói sao tao nghe không rõ? Trần Chính nhắc lại kèm theo lời giải thích: Trên trời có tạo hóa, tạo hóa sanh ra muôn loài và quyết định cả sinh mạng của muôn loài, trong đó có con người. Dưới trần gian thì có đạo diễn, đạo diễn đẻ ra nhân vật, đạo diễn điều khiển nhân vật của mình, có thể biến cải nhân vật của mình từ giàu đến nghèo, từ nghèo đến giàu, từ xấu đến tốt, từ tốt đến xấu và quyết định cả số phận của họ. Tôi nghe cũng có lý, nhưng chưa thật sự được thuyết phục. Tôi muốn tranh luận nhưng thôi, một người dốt lý luận không thể tranh luận với một người dược trang bị lý luận suốt năm năm, lại là năm trăm ở nước ngoài. Để xem? [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Đạo diễn Trần Chính nhận kịch bản "Mặt trận thầm lặng", trong kịch bản có một vai phụ, nữ tình báo - rất nhiều đất diễn. Trần Chính tiếp xúc cả chục cô gái, nhưng chẳng ưng ý cô nào - Các cô ở Sài Gòn cô nào cũng đẹp cũng đều hợp với vai khi hoạt động ở thành phố. Nhưng nhân vật nữ tình báo Cẩm Thiên lại là cô gái gốc gác ở miền Tây, một cô gái nông dân, biết mò cua bắt ốc, biết chèo, chống. Dạy cho các cô gái này cũng được, nhưng không thể nhuần nhuyễn, dễ giả tạo. Đã có một trường hợp như vậy. Khi anh còn ở miền Bắc - kịch bản "Sóng to gió cả" mà anh là người quay lùm có nhân vật là một cô gái Nam bộ, biết chèo xuồng ba lá - Cô diễn viên Hà Nội lại không biết chèo - Đành phải đóng giả. Đồng nước là hồ Bảy Mẫu, nước cũng mênh mông như đồng nước của Nam bộ, coi như được. Nhưng cô diễn viên đẹp gái của Hà Nội lại không biết chèo, dành phải chơi kỹ xảo. Trước mũi xuồng có một cái khoeo, móc vào một sợi dây chìm dưới nước nối lên bến. Người trên bờ kéo chiếc xuồng lướt tới - Đúng là mỗi lần hai mái chèo đập xuống, nước quẫy lên thì mũi xuồng mới cất lên, lướt tới. Đằng này, người kéo và người chèo chẳng biết ý nhau. Hai mái chèo chưa đập xuống thì mũi xuồng đã cất lên lướt tới ào ào. Khán giả chẳng mấy ai để ý, còn anh, với lương tâm nghề nghiệp, anh xấu hổ quá - Là đạo diễn của bộ phim đầu tay, anh phải tự chứng tỏ mình, không được trật văn phạm. Một buổi chiều lang thang, có xe honda nhưng anh thích đi xe đạp, đi xe đạp nhìn người rõ hơn. Chiều mưa lất phất, mưa như bụi, mát mặt mà không ướt người, anh đi qua hàng trái cây. Anh giật mình thấy một cô gái dong dỏng, mái tóc dài, mặt xương sắc nét, mũi dọc dừa, mày lưỡi liềm, môi chúm chím, khoác hờ trên vai chiếc áo bờ lu dông màu gạch non. Đạo diễn Trần Chính vừa xúc dộng vừa bối rối, vừa vui mừng, anh dừng xe vào lề, bước thẳng đến cô gái: - Cô chọn cho tôi một trái xoài riêng. - Bao ăn, anh khỏi lo. Cô gái cầm cái cuống trái xoài riêng để lên bàn cân, nói giá tiền, trao cho anh. - Tôi muốn ăn tại đây, cô tách dùm. Cô gái nhanh nhẹn đặt một cái ghế đẩu trước mặt anh. Trong túi của anh luôn có một chai rượu nhỏ. Trước mắt cô gái, anh là một người khách kỳ lạ, ăn một múi xong anh lại ngửa cổ tu một hớp rượu. - Anh nhậu à? - Nhậu, không có mồi nào ngon bằng xoài riêng. Cô tên gì? - Thiều. - Quê cô ở đâu? - Miền Tây. - Cô lên Sài Gòn lâu chưa? - Dạ mới vài năm. - Cô có biết chèo, chống không. - Bơi, chèo, chống, mò cua bắt ốc, con gái miền Tây ai cũng biết. - Nhà cô ở đây. - Dạ không, em thuê vỉa hè, nhà hẻm, xa lắm. - Lúc nào cô có mặt ở đây. - Dọn hàng từ năm giờ sáng, tối mười một giờ dọn hàng nghỉ. - Cực quá ha? - Kiếm miếng cơm đâu có dễ anh. Qua vài câu dối thoại, anh nắm được sơ bộ lai lịch của cô, anh hài lòng. Qua chiều hôm sau, anh đưa phó đạo diễn chỉ đạo diễn xuất cùng nhà quay phim chính - Cả ba cùng ngồi ăn xoài riêng, uống rượu, mỗi người mỗi câu thay nhau hỏi chuyện. - Cô thích xem phim không? - Phim thì ai mà hổng thích. - Tên cô là Thiều, Thiều có nghĩa là gì? - Nhà em đều đặt tên cá - Anh hai em là Rô, cá rô. Chị ba em là Ngát, cá ngát, em tên Thiều là khô Thiều. Cả ba đều cười qua cách đối đáp vừa mộc mạc vừa duyên dáng của cô Đạo diễn Trần Chính đi thẳng vào đề: - Ba anh em tụi tôi đều làm điện ảnh, tụi tôi muốn mời cô đóng phim. - Trời đất? - Cô trố mắt rồi cười rũ xuống, cười chảy cả nước mắt - Thôi đừng phá em. Thế là cô Thiều bán trái cây nhập vai Cẩm Thiên, nữ trinh sát đặc công - Cẩm Thiên khi ở nội thành, khi ở bưng biền, ra vào như con thoi. ở bưng biền, Cẩm Thiên với bộ đồ bà ba màu lá cây chống xuồng trên cánh đồng nước trong tầm pháo của địch, từng cột nước dựng lên trước mũi xuồng thật hấp dẫn. Lại thêm một cảnh cô chèo chiếc xuồng ba lá len lỏi qua kinh rạch dưới tầm bay của trực thăng, một viên đạn rocket nổ trước mũi xuồng, cô lao xuống nước, lặn mất, tưởng cô chết, không ngờ cô trồi đầu lên từ giề lục bình. Trở lại nội thành, Cẩm Thiên ăn mặc rất mốt: áo hở ngực, jup ngắn, hai đùi như hai cái đùi ếch, vàng vòng đỏ ngực, đỏ tay. Khi đi xe honda, khi ngồi trong một chiếc xe hơi sang trọng. Đêm, Cẩm Thiên đến vũ trường, nhảy với sĩ quan ngụy, và chỉ có một điệu, điệu "sì lô", ôm nhau đưa đẩy trong ánh đèn mờ nhịp nhàng với điệu nhạc gợi tình, thật mùi mẫn. Có đêm cô ngồi uống rượu với lính Mỹ - (cô Thiều không biết tiếng Anh nhưng Cẩm Thiên nói tiếng Anh như gió nhờ lồng tiếng). Nữ trinh sát Cẩm Thiên nắm hết qui luật của khách sạn, nhờ đó đặc công đặt mìn đánh sập khách sạn, giết không biết bao nhiêu lính Mỹ. Bộ phim ra đời, cô nổi tiếng - Hình ảnh Cẩm Thiên được phóng to, rạp chiếu bóng nào cũng có - Hình ảnh cô lên lịch, bán khắp nơi. Cô ra đường, con nít chạy theo coi mặt, lại có khán giả đón đường xin chữ ký. Trong thời gian làm phim, đạo diễn Trần Chính và cô diễn viên là đôi tình nhân. Ai cũng nghĩ, sau ngày làm phim, họ sẽ làm dám cưới, thật đẹp đôi vừa lứa. Nhưng sự đời lại khác, cô diễn viên Thiều - Cẩm Thiên tuột dần ra khỏi tầm tay của đạo diễn Trần Chính. Những đêm hẹn hò ngày càng thưa, đêm đến vũ trường của Thiều Cẩm Thiên càng ngày càng nhặt và rồi đêm nào cô cũng có mặt ở vũ trường - Khác hơn cảnh trong phim, cô không chỉ biết nhảy "sì lô", mà điệu nào cô cũng rành. Cô có một cái tên mới, tên cúng cơm ghép với tên nhân vật - Thiều Cẩm Thiên, tên Thiều trở thành cái họ, cái họ độc đáo chưa ai nghe thấy bao giờ. Thiều Cẩm Thiên bước vào vũ trường như một hiện tượng, thật lộng lẫy, tất cả cặp mắt dều đổ dồn lên tóc tai mặt mũi và thân thể của cô. Nhạc của vũ trường trỗi lên như để chào đón cô. Dân chơi vũ trường không ai không muốn nhảy với cô, có người ghiền cô vì thêm một lẽ "mùi hương phấn người" từ người cô tỏa ra. Cô tâm sự với một diễn viên của đoàn, cô vẫn mến, vẫn mang ơn đạo diễn Trần Chính, nhưng Trần Chính không thể bảo đảm đời sống của cô. Từ khi cô nổi tiếng thì bà con dòng họ cô từ quê kéo lên, người nào cũng mong được cô giúp đỡ. Không ai biết và cũng không ai tin là tiền thù lao cho diễn viên như cô chỉ đủ tiêu xài trong những ngày làm phim, người ta tưởng cô đã trở thành tỉ phú. Trong phim có cảnh giặc càn, chủ nhiệm xuất tiền dựng lên cái chòi để đốt, tiền của mấy cái chòi được nâng lên thù lao trên một người một ít. Giặc đi càn, người bị bắn chết là lẽ tất nhiên, nhưng cũng phải bắn chết con bò - Người chết chết giả, bò thì chết thật. Cả đoàn làm phim được một bữa bồi dưỡng, nghĩ lại thật buồn cười. Còn đạo diễn Trần Chính anh vẫn sống tập thể không quá hai mươi mét vuông, toilet thì toilet tập thể. Có duyên mà không có nợ! Đành phải chia tay. Đạo diễn Trần Chính đâu phải lúc nào cũng được làm phim. Đạo diễn thì nhiều mà kịch bản thì ít, Trần Chính phải vác máy đi quay đám ma, đám cưới kiếm miếng ăn. Có người nhìn anh bằng con mắt xem thường, nhưng anh phớt lờ - Anh tìm ra ý nghĩa của việc làm - Thời chiến tranh, anh ghi lại hình ảnh xông pha ngoài mặt trận, hình ảnh người chiến sĩ ngã xuống. Bây giờ anh ghi lại hình ảnh hạnh phúc của lứa đôi. Với anh đây là sự chuyển tiếp của đời sống, cần phải giữ lại cho mai sau. Nghĩ ngợi, toan tính, Cẩm Thiên bước vào con đường kinh doanh bằng cái thời tiếng tăm của mình. Qua một năm lựa chọn, cuối cùng cô làm vợ bé cho một ông giám dốc công ty xuất nhập khẩu. Ông giám đốc liền tặng cho cô một ngôi nhà, một căn nhà hai lầu, tám phòng ở một con hẻm. Nhà trong hẻm nhưng ô tô ra vào thông thống. Sau một năm, người chồng không hôn thú của cô ra tòa, tòa kêu án hai mươi năm tù giam vì tội tham nhũng. Bị hụt hẫng một lúc, cô lấy căn nhà mở quán karaoke. Nữ tiếp viên của quán cô không ai được quá hai mươi làm tuổi, tuổi hai mươi lăm bị gọi là ngoại - Nữ tiếp viên của cô là đội tuyển U 18 - 20. Cô là chủ nhưng khách nào cũng muốn ngồi riêng với cô. Khách của cô không phải là dân giàu, giàu thì sang, còn khách của cô là dân nghèo có tiền, họ thích chơi, ngông. Cô không hề đi thăm người chồng không giá thú của cô. Có ai hỏi, cô bảo "quên đi" - Rồi cô cặp một ông Việt kiều. Ông Việt kiều về nước, cô cặp ông giám đốc. Cô thay tình nhân như thay áo. Khách hâm mộ điện ảnh như quên cô thì bất thình lình cô trở lại trên mặt báo. Quán karaoke Thiều Cẩm Thiên bị ngưng hoạt động. Sau khi nộp phạt hành chính, một tuần sau, quán lại khai trương. Cô bịa ra là ngày sinh nhật của cô, khách lại nườm nượp, đâu lại vào đấy. Lại nói về dạo diễn Trần Chính - Mối tình của anh với diễn viên Thiều như một ngọn gió thoảng qua, một chút choáng váng, chẳng có gì phải vương vấn. Đôi lúc anh cảm thấy may, có một người vợ như Thiều Cẩm Thiên thì sự nghiệp anh còn gì. Anh đi lấy vợ, vợ anh là cô giáo dạy văn, mẫu mực và hiền từ, là "hậu phương" vững chắc cho anh. Cô giúp cho anh một việc mà anh không ngờ tới - Kịch bản phân cảnh của anh, cô vừa đánh máy sạch sẽ vừa sửa tất cả lỗi chính tả cho anh. Anh chẳng bao giờ phân biệt dấu hỏi ngã, một số từ ở chữ cuối có "g" hay không có "g" anh cũng quên béng. Cầm kịch bản của anh, chưa đọc nhưng đã vui mắt rồi, có người khen anh tiến bộ. Nghĩ đến cuộc đời Thiều Cẩm Thiên có người tổng kết: "Người đàn ông nào đụng đến nó, trước sau gì đời cũng tàn. Không đi tù thì cũng bị cách chức". Đúng như vậy thật. nhưng với Trần Chính, anh không có gì để tàn mà ngược lại ngày càng vững bước trên con đường nghệ thuật. Vợ chồng anh đã có ngôi nhà nhỏ, một mảnh vườn xinh xinh, có chậu hoa hồng, có giò phong lan, có giàn hoa lý, đẹp như lời hát của một ca khúc trữ tình. Một hôm gặp lại Trần Chính, tôi đùa: - Hồi đó mày có nói đạo diễn là tạo hóa dưới trần gian phải không? - Phải, đó là chức năng của đạo diễn. - Mày nói đạo diễn đẻ ra nhân vật, điều khiển và quyết định cả thân phận của nhân vật? - Chớ sao. - Bây giờ tao hỏi mày, mày có thể điều khiển Thiều Cẩm Thiên trở về một cô gái chân chất, mộc mạc như trước đây không? Đạo diễn Trần Chính ngửa mặt cười ngất và đưa hai tay lên trời: - Xin thua.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tên của một Người[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đoàn Thạch Biền[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi chăm chú xem xấp ảnh nghệ thuật của Phước. Anh muốn nhờ tôi chọn một số ảnh đem về Sài Gòn giới thiệu đăng trên các báo. Anh chuyên chụp ảnh phong cảnh và các loài hoa ở Ðà Lạt. Những tấm ảnh đó có góc chụp đẹp và lạ. Phước muốn ghi giữ lại những tia nắng lung linh trên những giọt sương ở đầu lá thông, những tia nắng lung linh trên mặt hồ Xuân Hương vào buổi sớm mai... Lẫn trong xấp ảnh đó, tôi thấy tấm ảnh chân dung một cô bé ôm bó hoa dã quì vàng rực để sát vào cằm. Tôi rất thích đôi mắt của em. Ðôi mắt mở lớn như đang cười dù em không nhếch môi. Tôi đưa tấm ảnh, hỏi Phước: - Ai vậy? - Dã Quì, học sinh lớp 12 trường Quang Trung. - Dã Quì là tên tấm ảnh hay tên cô bé? Phước bật cười, vừa lúc đó có người đẩy cửa hiệu ảnh của anh, bước vào. Một cô gái đội mũ len màu xanh lá cây, khăn quàng cổ màu rượu chát và chiếc áo gió màu vàng rực như hoa dã quì. Phước giới thiệu tôi và quay sang định giới thiệu cô gái thì tôi nói cắt ngang: - Dã Quì. Cô gái tròn xoe mắt nhìn tôi. - Sao ông gọi em tên đó? Phước cười chỉ tấm ảnh chân dung tôi còn đang cầm trên tay. Tôi nói: - Không phải nhờ tấm ảnh đâu. Nhờ chiếc áo gió màu vàng rực em đang mặc đó. - Vậy em tên Kim Châm. Màu vàng này cũng là màu hoa kim châm. - Kim châm dễ khiến người ta liên tưởng đến kim chích, tên đó chẳng hay tí nào. Cô bé che miệng cười: - Ðọc truyện của ông thấy ông thường mô tả ăn uống rất thú vị. Vậy ông có thể giúp em biết sự thú vị đó không? Phước cú nhẹ vào đầu cô gái: - Nhỏ "bắt địa" giỏi lắm. Kinh nghiệm cho tôi biết, trong khi ăn uống người ta dễ cởi mở và thân thiện nên tôi đứng dậy nói: - Sẵn sàng. Tôi rất "thú vị" được đi ăn với em. Rồi quay qua Phước tôi nói : Mời cậu cùng đi ăn cho vui. Phước lắc đầu: - Tôi bận coi cửa hiệu, có khách hẹn đến chụp hình. Hai người cứ đi ăn tự nhiên. Miễn đừng "ăn" nhau là được. Sau khi làm một bụng bánh xèo no ứ hự, cô gái tiếp tục "hướng dẫn" tôi đi ăn xôi gà ở một quán gần đó. Kinh nghiệm cho biết khi ăn quá no, người ta sẽ làm biếng nói chuyện và chỉ muốn ngáp nên tôi nói: - Chúng ta đi lòng vòng cho tiêu bánh xèo đã. Xôi gà, cháo vịt sẽ thanh toán sau, đồng ý? Cô gái gật đầu bước đi và tôi bước theo. Ði bên em, tôi chọn đi trên vỉa hè và để em đi dưới lòng đường. Chẳng phải tôi sợ xe tông mà vì em cao hơn tôi nửa cái đầu. Ði như vậy, người ngoài nhìn vào thấy chúng tôi rất "cân xứng". Trời vừa nhá nhem tối. Gió kéo lướt thướt qua những lá dã quì xanh thẳm ở bên đường. Dưới ánh đèn cao áp trắng nhạt, một vài chiếc lá nhỏ mải chạy đuổi bắt đã xô vào đôi giày vải jean của cô gái. Em nhấc chân lên để chiếc lá khô tiếp tục cuộc chơi chạy về nơi vô định. Tôi khẽ rùng mình, cài hột nút áo sát ngay cổ và hỏi: - Gió mùa Ðông Bắc phải không em? Cô gái vuốt ngược mái tóc lòa xòa trước trán về phía sau lưng và trả lời : - Ông thấy lạnh không? - Lạnh. - Vậy là đủ rồi. Bộ ông phải biết tên ngọn gió đó, ông mới cảm thấy lạnh à ? - Tôi muốn biết đích xác tên của nó, để khi viết truyện tôi có thể mô tả rõ ràng. - Truyện của ông luôn luôn dở ở điểm đó. - Ðiểm nào? - Rõ ràng. Người đọc chẳng còn tìm thấy gì sau những dòng chữ viết của ông. Tôi im lặng tìm hiểu ý nghĩa sau những lời nói của em. Thấy tôi cứ cúi đầu im lặng bước đi, em bật cười nói: - Ông giận à? Ðây, em bắt đền cho ông. Cô gái móc túi áo gió, đưa cho tôi một nhúm hạt. Tôi hỏi : - Hạt bí rang? - Không. Rõ ràng là hạt hướng dương. Ông thấy đó, khi biết sự việc rõ ràng, người ta thường được biết thêm là mình... sai. Như vậy chẳng thú vị tí nào. Ði loanh hoanh một hồi, em dẫn tôi vào con đường không có vỉa hè, cỏ mọc tràn ra mép đường. Tôi chỉ đứng đến cằm em nên mỗi lần nói chuyện, tôi cứ phải ngẩng đầu lên mỏi muốn... gãy cổ. Em cắn hạt hướng dương vừa hỏi : - Người ta nói "có tài là có tật". Vậy ông có thể bật mí cho em biết ông có tật gì? Tôi bỏ một nhúm hạt hướng dương vào miệng, nhai nhuyễn nhừ rồi nuốt luôn đỡ phải cắn lôi thôi. - Tôi đâu có tài mà có tật. - Ông đừng khiêm tốn. Nếu ông không có tài, em đã không đi ăn chung với ông. - May phước! Tôi có tài chút chút nên cũng có tật chút chút thôi. Khó thấy lắm. - Tật gì? - Nói xạo! Cô gái bật cười. - Còn em không có tài mà cũng có tật. - Tật gì đâu. Tôi thấy mặt mũi, tay chân em đẹp hơn bình thường mà. - Em có tật là dễ tin vào những lời nói xạo. Tôi muốn hôn vào trán vồ của em để thưởng một câu nói thông minh. Nhưng nghĩ lại chiều cao của mình, chỉ có thể hôn vào... vai em như thế rất dễ bị hiểu sai ý nghĩa. Tôi lắc đầu than thầm số phận "lùn" của mình. Nhưng tôi tự an ủi: Trời cho cái này nhưng lấy đi cái khác. Nhờ được "lùn" nên tôi chẳng bao giờ té bị chảy máu đầu mà chỉ bị u sơ sơ. Vì khoảng cách giữa đầu tôi và mặt đất chưa đủ tiêu chuẩn làm "đổ máu". Còn em nếu trượt chân té, chắc chắn sẽ bị vỡ đầu. Vậy "cao" mà làm chi em! - Sắp đến nhà em rồi. Thôi chúng ta chia tay. Tôi vội nắm tay em. Cô gái rút tay ra và nói: - Em hết hạt hướng dương rồi. - Tôi không yêu hạt hướng dương. Tôi yêu... Cô gái bịt miệng tôi và nói ngay. - Em không thích rõ ràng. Khi em buông tay ra, tôi vội hít thở những hơi dài. Lúc nãy vô tình em đã bịt chặt mũi tôi. Tôi muốn lặp lại rõ ràng "Tôi yêu Ðà Lạt đêm nay vô cùng". Nhưng sợ em buồn vì đã lầm nên tôi im lặng. - Chúc ông mai về Sài Gòn bình an. - Dã Quì, em có thể cho tôi biết tên thật của em? - Ông đừng hỏi tên thật của em. Bởi khi trở về Sài Gòn, ông sẽ chỉ nhớ cái tên còn con người em thì ông lại quên. Như đã nói, tôi là người vốn thích mọi chuyện rõ ràng. Nên sau một hồi tra vấn Phước, tôi đã biết tên thật của em. Chắc các bạn cũng muốn biết cái tên đó để làm quen? Dễ thôi mà. Tên thật em trùng với tên người đang đọc truyện này. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tết ăn Mày![/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vũ Trọng Phụng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]1 giờ đêm. Đứng trên bao lan một nhà, nhìn xuống con đường Khâm Thiên, ta thấy một mối cảm giác khó tả. Phố xá vắng vẻ một cách đáng buồn. Mặt đường nhựa, bị một lớp bùn cát lấp, bảo cho mọi người biết một cách hãi hùng rằng xuân sắp đến. Khi nghĩ rằng muốn sửa soạn nghinh xuân thì người ta phải lo trăm công nghìn việc để được lòng ông chủ nợ, được lòng gia đình, được lòng tổ tiên, được lòng cả kẻ tôi tớ trong nhà nữa, thì người ta phải giật mình đánh thót một cái, và nghĩ đến cuộc hành lạc vô nghĩa ấy để tự hỏi:“Có thể như thế được chăng?”. Trong những trường hợp ấy kẻ lãng mạn cũng thoáng nghĩ đến cái phận sự sống một đời ích kỷ và hiền lành của kẻ trưởng giả, và những anh tầm thường cũng trở nên thi sĩ. Cho nên người ta buồn vì ngoài phố chỉ còn mấy tiếng rao rời rạc của mụ hàng nem, buồn vì mấy cái xe tay mui buông kín mít cứ ở nguyên một chỗ để chổng đít ra đường! Bên trong, khách làng chơi đã lộ sự mệt nhọc. Chiếu rượu vừa bế mạc xong. Bọn trẻ rủ nhau thành từng cặp một, nằm ngồi ngả nghiêng rải rác khắp gian phòng. Họ nói ái tình. Họ nói lảm nhảm. Và họ văng tục. Vì rằng họ chỉ đến đây thời mới được tự do nói nhảm và văng tục. Còn bọn già thì nằm quanh khay đèn với mấy cô đào rượu và bà chủ. Những cụ này không văng tục, cũng không nghịch đểu. Họ là bọn hóa điên. Họ nói chuyện đứng đắn, chuyện công việc. Và than ôi! Họ lại lo cả tết nữa! Ấy là lúc ra đi, có người đã mặc cả là đi chơi cho đỡ buồn. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Giống người thật là một giống hay khoe. Hôm nay, một tiểu thư thấy, nhà trước cửa, cô kia mới may một bộ áo tân thời. Ba hôm sau, cô này cũng phải may một bộ áo tân thời lại tân thời hơn cả của cô kia. Cho nên thấy một quan viên ngoáp và nói: “Chết chửa, bỏ mẹ thật, 25 tết rồi!” thì cô đào cũng ùa nhau nói chuyện tết. Họ cũng khoe. Họ lại khoe cả những cái “vỡ lọ cổ” nữa. Cái đó cũng không lạ gì mấy vì chưng đối với Cúc Nương, chúng tôi đã vẽ râu, đã bạt râu năm lần bảy lượt, đã có phen có anh phải để râu như râu Trương Phi, và rồi lại cạo được cho nhẵn nhụi như mặt anh Mã Giám Sinh. Cúc Nương đã nói đến nhân tình thế thái trong những ngày tết. Ngày tết của cô đầu. Những khi lên voi. Và những lúc xuống chó. Cúc Nương đã nhắc đến những ngày thịnh thời của nghề đàn phách, những ngày mà ả đào còn ở phố Hàng Giấy, Thái Hà ấp. Thời ấy, không phải là ai cũng đi hát được. Một chầu chay điểm một ít lê táo, vài chai sâmbanh của khách làng chơi đem đến, lại không một ai ngủ lại (điều đó can hệ lắm), khách chi cho ít nhất cũng hai chục đồng. Đi hát là một cái vinh dự, vì đi hát thì phải biết đánh trống. Thời ấy người ta đi ả đào thì thấy sung sướng như chàng đa tình đi qua một cửa hiệu tạp hóa, phải lòng mê mệt cô bán hàng mà rồi được phép vào chuyện trò thân mật với người yêu. Cô đầu giữ được nhân phẩm của mình, làng chơi cũng không dám giở những thủ đoạn gậy gạch. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]23 tháng chạp. Mua mấy con cá chép nhỏ làm ngựa ông Táo, tiễn ông Táo lên chầu Trời rồi, chị em cũng như những gia đình nền nếp, tấp nập đi giục thợ may, đi mắng thợ kim hoàn, đi sắm cành đào, thủy tiên. Hơn những gia đình trưởng giả, ngoài việc sắm chè, mứt, mọi thứ cao lương mỹ vị, chị em còn xuống Gô Đa ký những giấy “li-ve-rông” rượu sâmbanh từng hòm. Pháo cũng nhiều, vì đốt pháo tức là đốt cho tan nát lưng khách làng chơi. Ông Thổ Công mang những chuyện ấy lên khoe với Trời và không dám tâu nộp những chuyện nhơ bẩn gì khác. Buổi chiều mồng một, Cúc Nương đã từng thấy những chiếc xe hơi đến đỗ trước nhà mình như trước dinh một bà quan to. Có lẽ người ta đã ký văn tự 30 phân với Tây đen, song những cái ấy, chị em không phải lo hộ. Muốn có tình thì phải có tiền. Hồi đó, ái tình trên cái thị trường son phấn còn bán được bằng giá rất cao. Quan viên thi nhau diện xe hơi đến nhà. Quan viên uống nước chè, cắn vài hạt dưa. Quan viên mở rượu sâmbanh. Quan viên nói bông lơn vài câu. Rồi quan viên phong bao cho ba chục bạc, năm chục, hay gọn một “cái đỉnh”. Và, vì lẽ đời nó thế, con gà tức nhau tiếng gáy, quan viên mở hàng như vậy mà lại còn hối hận, còn sợ có thằng khác phong bao oai hơn mình. Hồi đó đi hát cô đào thì sẽ bán nhà. Nhưng mà không mắc bệnh hoa liễu. Cúc Nương thở dài, chép miệng: - Cứ tiền pháo khi xưa cũng bằng mấy cái tết bây giờ! [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bây giờ Cúc Nương đã đến lúc danh vọng về chiều. Đó là nạn khủng hoảng. Đó là nạn nhân mãn. Đó là nạn ế chồng. Đó là nạn lãng mạn. Đó là cái nạn nhà đăng xing. Khách hàng không hỏi mua giọng hát nữa. Làng chơi đã đổi hẳn thị dục. Làng chơi cần cái đẹp, cái mới, cái dễ. Cho nên đáng lẽ cùng với mấy cô em danh ca cũng xong, nay Cúc Nương phải mộ thêm một ít cô tân thời biết uống rượu, biết vấn tóc trần cho đẹp, biết đánh răng cho trắng nõn, biết ca mấy câu Trường tương tư, Văn thiên tường, biết khiêu dâm. Cô đầu “xách đèn” và không biết trò chuyện “đếch gì” cả. Và, thêm vào số ấy, lại phải có độ hai món hàng “chanh cốm” thì mới thật là đầy đủ. Cái số nhân viên trong “sở” đã phải mượn đông đến như thế thì có phải bà chủ không thể lo tết cho người làm nữa không? Ai lo phận người ấy. - Anh ơi, tết nhất đến nơi, anh nỡ để em xơ xác ra thế này à? - Anh ơi, anh đã làm gì để tỏ lòng yêu em hay là chưa? - Việc lo ăn lo mặc cho em là việc của bà chủ chứ? - Vẫn biết thế, khốn nhưng em không có lắm nhân tình! Nếu em có vài người nhân tình luôn luôn đến hát thì em đã chả phải nhờ anh. Chị xịu mặt nói thế. Anh, muốn chừng nghe cũng có lý, không nói gì nữa. Chị đưa thêm một mũi kiếm: - Nếu em giả dối với anh thì em đã chẳng xơ xác như thế này, anh ạ. - Được rồi, để anh nghĩ đã. - Anh cứ sắm cho em đi, em sẽ trả sau. Quan viên hiểu ngầm cái nghĩa chữ ấy lắm. Đêm ấy người ta cho nhau ái tình. Sáng hôm sau, quan hẹn đến 26 xuống hát tất niên sẽ có quà tết một thể. Quan viên lại còn kêu như thế thì càng khỏi phải xông đất đầu năm, lợi hơn. Chị em nghĩ thật, tưởng bở nữa. Ngày một ngày hai, chị em cứ chờ: Hôm nay người ta rao cá ông Táo. Mai người ta vác cành đào nghễu nghện qua đường. Ngày kia, người ta vênh váo ngồi xe với những chậu cúc tướng. Ngày kía, người ta rao lá giong gói bánh chưng. Ngồi thục tay vào lòng dưới ánh đèn măngxông, chờ những khách làng chơi tưởng tượng, chị Lan thấy cái quần nhiễu trắng của mình vẫn là cái quần nối hai lần cạp, cái khăn san vẫn là cái khăn san có ba lỗ thủng bằng ba đồng xu. Vậy mà chị Tình, chị Hiền, chị Mai thì được bà chủ sắm cho nào áo mới giày mới khăn mới. Các chị ấy là cô đầu có “mặt hàng”. Mỗi chị ít ra cũng có một số nhân tình là năm bảy ông. Ngoáp dài một cái, chị Lan xúc cảm “kể chuyện” một câu: - Chém cha... cái số... chung ư ư ư tình! Thật đặc giọng nhà thổ ế. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hai giờ chiều mồng một. Năm quan viên vào chúc mừng nhặng cả lên, ăn uống choáng cả lên, hôn hít rầm cả lên. Cuộc đời như vậy thật là: vui vẻ, trẻ trung, tân tiến, hoạt động, trào phúng, và xã hội nữa. Một quan hô: - Đầu năm thiên thủ, chúng mày ơi, phải có sâmbanh cho nó hùng. Một quan khác: - Hùng gì? Bà chủ chỉ đốt mừng chúng mình có một ngón tay pháo. Một quan khác nữa: - Thế thì chúng ta mỗi thằng chỉ làm một hến sâmbanh thôi. - Nhưng mà có sâmbanh không? Có không? Bà chủ dịu dàng: - Sao lại không? Đối với các anh là làng chơi đi xe hơi xuống xông đất thì chẳng phải đòi chúng tôi cũng phải đè cổ xuống mà mời sâmbanh. Cả bọn nhao nhao lên: - Thế thì đè đi! Thế thì đè đi! Còn chờ gì nữa? Bốp, bốp, nút chai bắn vọt lên trần nhà. Tiếng săng tê ỏm tỏi. Các quan loạng choạng đi ra. Một quan đã bắc ghế lên mắc vào cái đinh ở cửa hai thước tây pháo. Năm quan ra ngoài đường. Cô đầu ở trong nhà cả. Một quan đánh diêm. Quan khác lấy ma-ni-ven vặn máy xe. Tạch tạch tạch tạch! Pháo cứ nổ ran lên! Khói cứ um cả nhà! Năm quan lên cả xe. Xe chạy. Trong cơn biến loạn, có người kêu: “Trời ơi! Họ quên không mở hàng! Họ chưa mở hàng!”. Nhưng mà làm thế nào? Cái cửa bằng cái lỗ mũi, tràng pháo lại đương nổ. Khói cứ um lên. Cô đầu tối mắt, ngạt mũi, còn bận bưng mồm ho sù sụ như sặc thuốc lào vậy. Năm phút sau bà chủ kêu: - Đồ chó! Hai chị em bênh nhân tình: - Không, chắc là các anh ấy quên. Đến chiều tối, lại một bọn khác. Lại những sự xã giao như lúc hai giờ. Rồi thì, trước khi ra đi, một quan để trên cơi giầu một phong giấy đỏ. Mười phút sau, bà chủ giở ra thấy một tá chinh Bảo Đại. Với một cái thư nữa. Trong thư, sự tử tế của loài người đã nói: “Cái giá trị của các chị chỉ đáng có thế. Các chị thử nghĩ lại xem, đã tử tế với chúng ta như thế nào. Nhớ lại xem!”. Cúc Nương nhớ lại những chầu hát cũ. Một lần , nàng đã nhầm chót để cho hai cô em vào tiếp hai chú Chiệc ở gác trong. Một hôm khác, ba quan ngủ lại, chẳng may có ba cô em lại cùng “đại tang” cả. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]- Ngày xưa quan viên tìm cô đầu. - Bây giờ cô đầu hạ mình quá với quan viên. - Cô đầu không thành cô đầu, quan viên không thành quan viên. - Nói tóm lại thì quan viên cũng chó mà cô đầu cũng chó! Cúc Nương nói thế thì một người hỏi đùa: - Chó ở những lúc ngủ với nhau ấy à? Tiếng cười rầm một hồi. Rồi Cúc Nương nói: - Chán bỏ mẹ! Thời buổi này cái gì cũng hỏng! Tết nhất lắm chỉ như đồ ăn mày! [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hỡi cô gái giang hồ! Đây là ngày tết. Ngày hôm nay là ngày thiên hạ tưng bừng đón chào xuân mới. Trước ban thờ khói trầm nghi ngút, đèn nến sáng trưng, cô gái ngồi với tráp giầu, sửa soạn chè nước tiếp khách và sẵn sàng đỏ mặt lên nhận những câu chúc đắt chồng, vào dịp xuân sang. Cô gái giang hồ có biết những cái dĩ vãng tốt đẹp ấy chăng? Hay cô mê mệt vào cuộc truy hoan để chờ khi thấy mặt ta thì lại làm cho ta bồi hồi và giật mình bằng những câu như: “Nay mai anh xuống hát cho một chầu tất niên để em kiếm cái tết nhé!”.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tết tình Nhân[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Như Bình[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trời đã lập xuân ư? Nhìn lên cây mai trước bồn thấy lác đác những bông trăng trắng. Lạ lùng, năm ngoái khi cây mai trụi lũi hoa, khô xác một cách tội nghiệp, Hoàn Du đã mấy lần định vứt đi. Bởi trước đó chứng kiến nó đẹp quá, rực rỡ quá, cảm thấy bất nhẫn thế nào ấy... Năm ngoái, cũng độ này. Trời không lạnh như mấy bữa nay mà nắng chang, chẳng mấy không khí xuân. Cây mai Văn đem đến bữa trước còn khô khốc, nhưng bữa sau đã trồi lên cơ man nụ. Văn cười, khi thấy Hoàn Du tỏ vẻ thờ ơ trước cây mai mình kiếm. "Đợi coi, anh đã chọn thì phải là đẹp nhất. Em chớ vội nhìn bề ngoài". Nói rồi Văn choàng tay qua người Hoàn Du đôi bàn tay nóng hổi của anh dừng lại đúng chỗ hai bầu vú nhô cao. "Giống như anh đã lựa chọn em, cô gái gợi cảm nhất mà anh từng gặp. Anh trông cho bọn đàn ông mù hết, chỉ có anh biết điều này". Mà đúng thật, qua đêm giao thừa, sáng ra, cây mai còm cõi vắt kiệt sức lực của mình cho những bông hoa. Mỗi cái cây con con thưa thếch dăm mười chiếc lá mà nụ có đến hàng trăm chiếc, không hẹn nhất loạt nở bung trong đêm giao thừa. Hoàn Du sững sờ. Đáng ra cây mai phải rất đẹp nhưng chỉ tại trời nắng quá, sự rực rỡ của cây mai, hoá ra thừa thãi và vô duyên. Đêm đầu tiên của năm mới ở thành phố, Hoàn Du ôm điện thoại nước mắt ngân ngấn. Câu chuyện của cô với Văn chỉ xoay quanh chuyện thời tiết không lạnh không mưa phùn nên hoa mai đẹp thế cũng bằng thừa. Hoàn Du phát hoảng lên vì không biết làm gì cho qua mấy ngày Tết. Sáng mùng một nhẩn nha một mình mãi trong căn nhà rộng tuênh huênh Hoàn Du quay ra chăm chút tỉa tót cho cây mai. Xem ra, cả cây mai cũng không cần đến những tình cảm ngớ ngẩn của cô. Đến hẹn, nhất loạt nở, cây mai cằn cỗi phô hết mình trong vô số hoa, thật lạ. Văn quả là người khá sành trong chọn cây cảnh, anh nói có lý: "rồi em sẽ thấy, nhìn cây mai, em nhớ anh không chịu nổi đâu". Xưa. Những cái tết đầu tiên ở thành phố, Hoàn Du chỉ trông cho chóng được nghỉ việc ở cơ quan để tọt về quê. Về quê, lúc đầu Hoàn Du cũng thấy hay hay. Cái làng Chanh bé nhỏ nghe tin cô Du công tác ở Hà Nội về tết là ùn ùn kéo đến. Với mọi người, đây quả là sự kiện hiếm thấy của làng Chanh. Họ đến vì tò mò xem cô Du cóc cáy ngày xưa giờ thành người nhà nước rồi, mà lại ở một thủ đô lớn vậy chắc phải oách lắm. Mẹ Hoàn Du nấu ba nồi nước chè chát từ tơ mơ sáng. Mấy bọc kẹo xanh đỏ mẹ chuẩn bị sẵn để Hoàn Du bóc ra mời bà con cô bác. Nhà Hoàn Du hôm đó đông như có đám. Thằng Vinh em trai Hoàn Du còn mượn đận được chiếc đài cát-sét rọt rẹt phải đập đập vào mấy lần mới phát nhạc đít-cô, thứ nhạc tụi con trai ở làng Chanh ham đến nỗi, dù vừa đi làm đồng về, lấm lem vậy nhưng đánh hơi thấy là quên ăn chạy đến nhún nhảy mê tơi. Nhà lúc này, góc thì đám thằng Vinh nhảy nhót uống rượu, góc thì đám con Hoa lấy mấy cái áo dài và váy Thượng Hải của chị ra thử. Đám con nít mũi xanh thập thò bu kín chái nhà... Sau này mỗi lần về quê, Hoàn Du sợ nhất là bà con cô bác trong làng đến chơi rồi hỏi chuyện chồng con. Sợ gương mặt với nỗi buồn hằn vết của mẹ. Sợ phải đối diện với những con người làng Chanh thật thà chất phác xem cô là tấm gương cho con trẻ nhà họ noi theo. Chút tiền tết Hoàn Du cầm về đỡ đần cho mẹ ngày giáp hạt như muối bỏ bể. Tết, nhà cô có bao giờ đủ thịt để ăn một bữa chán chê đâu. Năm mẹ con, chỉ mới Hoàn Du là có việc làm, còn con Vân đang theo học sư phạm dưới thị xã, thằng Vinh học dốt, xong cấp ba, thất nghiệp ở nhà xểnh ra là uống rượu đàn đúm với bọn thanh niên choai trong xóm theo hội theo đoàn đập lộn nhau. Mẹ khóc hết bao nhiêu nước mắt bạc bao nhiêu tóc cũng vì nó. Còn thằng Huy và con Hạ cũng đã lên cấp ba, mình mẹ với đồng lương hưu còm cõi cộng với 5 sào ruộng làm trật mặt không đủ nuôi con. Hoàn Du về tết lần nào cũng vét nốt đồng xu cuối cùng đưa cho mẹ, có cái quần cái áo nào sắm tết cũng cởi luôn cho mấy đứa em. Nhìn chúng vui sướng mặc đồ của chị, cô xa xót. "Con không cha như nhà không nóc". Lúc này, đủ lớn để hiểu đời, Hoàn Du mới thấm thía câu nói của dân gian ấy. Những lần sau này, Hoàn Du tìm cớ ở lại trực tết, cô không muốn về quê. Cô sợ cái làng Chanh đìu hiu nơi miền quê heo hút và buồn tẻ ấy. Sợ con đường đất bùn lầy bé tẹo đầy những vết chân trâu chi chít chạy ngoằn ngoèo khắp làng ngỡ không bao giờ có điểm dừng cuối cùng. Mỗi lần Hoàn Du về là mỗi lần cơ cực với bùn. Cả những sợi khói chiều trên mỗi chái bếp nhà tranh ẩm ướt Hoàn Du luôn cảm tưởng đó là sợi khói gầy nhất, mảnh nhất trong những làng quê mà cô từng đi qua. Cái nghèo, khổ xác xơ hằn rõ trên từng gương mặt trẻ thơ ngơ ngác đợi cơm chiều, trên lườn từng chú nghé non nhô hàng xương sườn mảnh khảnh trên con đê làng gió đông thông thống thổi. Cô sợ phải thức đêm cùng mẹ toan tính mâm cơm ngày tết sao cho đủ đầy. Nhà có sáu mẹ con, mẹ lại là dâu trưởng, ngày tết chỉ lo sắm cỗ cho anh em chú bác tới ăn. Cả đợt tết, mẹ chỉ mua được có ba cân thịt. Ba cân mà lại phải chế biến nào nem, giò, chả, thịt luộc, thịt kho. Để làm đủ chừng ấy món, đêm Hoàn Du cùng mẹ xay thêm hai cân bột gạo để trộn vào thịt làm nem làm giò. Ngày bé, được cắn một miếng giò hai phần bột một phần thịt Hoàn Du đã cảm thấy ngon đến mê ly như thể trên đời này không có thứ gì ngon bằng. Bao nhiêu năm rồi, cái tết của mẹ vẫn thế. Mẹ chuẩn bị tết là để cúng người chết. Còn các con của mẹ thì phải dè sẻn cả từng miếng thịt ngày ba mươi. Những cái tết nhà nghèo đã ám ảnh Hoàn Du trong suốt cả thời ấu thơ, ám ảnh cô khi cô đã lớn đã từng trải. Hoàn Du sợ tất cả. Cô chỉ muốn trốn biệt ở nơi ồn ào phố xá để ẩn mình, để không ai nhận ra mình là con bé Du làng Chanh xa tít. Văn hiểu cô, bởi lẽ, Văn cũng là người nhà quê như cô, lập thân ở xứ người, cũng đã nếm trải mọi sự cay cực. Văn đến với Du bằng tình thương, sự cảm thông và thấu hiểu. Nhưng trên tất cả, đó là tình yêu. Con bé Du làng Chanh làm sao cưỡng lại được tình cảm của một người đàn ông từng trải như Văn. Văn đã thuê căn nhà tập thể này cho Hoàn Du ở, đã từng bước dìu dắt cô vào làm việc ở một công ty lớn để cô có thể đỡ đần mẹ và các em. Đêm, lúc không giờ, Văn gọi điện "Chúc mừng em nhân dịp năm mới. Chúc em thành đạt và hạnh phúc". Hoàn Du cố căng tai ra để đoán những câu tiếp theo mà Văn đang gào lên, nhưng chịu. Văn nói thêm điều gì đó nữa rồi tắt máy, vội vã sợ sệt hệt như anh hôn cô lúc đứng ở chỗ cầu thang xuống phố sáng Văn về quê. Hoàn Du ném điện thoại vào tường, mắt ráo hoảnh. Cô thấy tức thở. Lúc Văn gọi điện thoại chắc là đang đứng ở đường, tiếng xe và người đi lại ầm ầm nhức hết cả tai. Văn nói như quát "Anh nhớ em phát điên lên được. Tết với anh chẳng còn lấy ý nghĩa gì. Anh nhớ và cả đói khát em nữa Hoàn Du ạ". Văn gào trong điện thoại những câu lẽ ra người ta chỉ nên thì thầm với nhau. Khổ, ở nhà chắc không dám gọi, sợ người thân của mình để ý nên mới chạy ra ngoài đường gọi điện thoại công cộng. Ở chỗ đông người không ai biết mình mới dám bộc lộ mình, đó là thứ Hoàn Du ghét nhất ở Văn. Khi Văn lên với Hoàn Du thì hoa mai đã tàn gần hết. Hoàn Du nhìn cây mai ứa nước mắt, cứ như thể nó đang oán rằng người ta dùng tôi trong dịp tết, khoảnh khắc linh thiêng nhất của một năm. Và bây giờ mai chỉ còn chút sức tàn... Đến cuối năm nay Văn biết trong lòng Hoàn Du đã có điều gì thay đổi. Tết này, Văn nói, không lễ nghĩa gì cả, sẽ là một cái tết tình nhân trọn vẹn. Văn không về quê thật. Từ hăm bảy tết đã lễ mễ ôm tới một chậu quất quả chi chít có đến hàng trăm trái to bằng quả bóng bàn màu vàng cam, trông no đủ và rực rỡ. Hoàn Du tất bật đi chợ sắm tết đủ cho một gia đình nho nhỏ. Bao nhiêu năm trời yêu nhau, đây là lần đầu tiên Văn ở lại ăn tết với cô. Hoàn Du biết, khó khăn lắm Văn mới quyết định vậy. Văn làm điều này cũng vì cô. Và cô biết chỉ điều đó làm cho Văn hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc của Văn liệu có phải là hạnh phúc của cô không, thì chỉ có Văn mới trả lời được câu hỏi này. Văn nói. "Không có em cuộc đời của anh không có nghĩa lý gì cả. Anh sống được là nhờ có tình yêu của em dành cho anh đấy". Hoàn Du chán phải nghe những câu đại loại như: "Em hãy gắng đợi anh thu xếp mọi chuyện ổn thoả rồi mình cưới nhau. Anh thề anh chỉ muốn sống với mỗi mình em thôi đấy". Hai tám tết. Sáng ra, khi Hoàn Du thức giấc thì đã thấy Văn lúi húi ở bếp. Tự tay Văn làm bữa sáng rồi bưng lên tận giường cho Hoàn Du. Hoàn Du nhìn thấy bên dưới mắt của Văn sưng lên hai vệt thâm quầng. Đang nuốt mì, tự dưng mắc nghẹn trong cổ. Hoàn Du biết chắc đêm qua Văn không ngủ được. Văn ôm choàng lấy Hoàn Du siết chặt cô vào lòng. "Anh thấy nóng ruột quá, không biết ở nhà xảy ra chuyện gì không. Đêm qua anh mơ thấy thằng cu nhà anh bị ốm, nó mếu máo gọi bố mãi". Hoàn Du thở hắt ra "anh về nhà đi. Đừng lo cho em, em ăn tết một mình quen rồi, không sao đâu". "Thôi, là anh nghĩ ngợi ra như thế. Em đừng dỗi anh được không". Văn lại ôm riết lấy Hoàn Du. Đôi môi Văn lướt lên bờ vai trần của Hoàn Du ẩm ướt. Hoàn Du cố choài người ra khỏi Văn, "anh nên về nhà xem sao, về một bữa rồi lên sớm với em cũng được mà". "Thôi thế này, để anh đón giao thừa với em, rồi mồng một anh về quê cũng được". Hoàn Du cố ăn hết bát mì Văn nấu. Tự dưng nước mắt cứ đầy lên dấp dính bờ mi Hoàn Du. Cô thử nghĩ xem, việc Văn ở lại ăn tết với cô có khác việc cô ăn tết một mình không. Nếu đem cô so sánh với người đàn bà nào đó của Văn ở quê, Hoàn Du sẽ chọn mình là ai. Một người là cô có anh tới 300 ngày trong một năm nhưng ngược lại sẽ chẳng có gì cả. Một người chỉ có 60 ngày trong một năm thôi nhưng họ có chiếc giấy hôn thú. Hoàn Du thừa biết mình không nên trở thành ai trong hai người đàn bà ấy. Chiều Hoàn Du nói ra phố có chút việc. Thực tế cô kêu xe ôm ra ga tàu mua vé tối để Văn về quê. Hoàn Du biết, giờ cô chẳng còn tâm trạng nào để vui vẻ đón tết với Văn nữa. Ăn tối xong Hoàn Du đưa vé tàu cho Văn cười: "Anh chuẩn bị hành lý đi, chúng mình còn những hai tiếng để uống càphê với nhau đấy". Văn sững sờ cầm chiếc vé tàu. "Đừng giận em, ăn tết xong anh lên sớm với em nhé". Văn quay ra dằn dỗi: "Em không muốn anh ở lại với em nữa sao. Tự dưng đổi ý, em cho anh là trẻ con à". "Không phải thế. Anh về rồi lên với em, mọi người ở nhà cần anh hơn. Họ chỉ có anh trong mấy ngày tết, còn em, em luôn có anh bên cạnh. Anh đừng nghĩ gì cả, thực lòng em muốn anh làm tròn bổn phận. Em ăn tết một mình quen rồi, vả lại đây là dịp em đi chơi với bạn bè". Văn đèo Hoàn Du ra ga. Đêm cuối năm, ánh đèn đường vàng vọt chảy trên hè phố. Những dòng người vội vã âm thầm dưới làn mưa bụi lăn tăn trôi về muôn ngả. Gió mùa xuân chưa đủ ấm thốc vào ngực hai người cái lạnh đau nhói. Trước khi lên tàu, Văn ôm ghì lấy Hoàn Du: "Tha lỗi cho anh nhé! Anh sẽ lên sớm với em. Tháng hai, ngày 14 hai đứa mình sẽ đi Tam Đảo ăn một cái tết tình nhân thật trọn vẹn. Tết cổ truyền chỉ là cái tết của lễ nghĩa, nó chỉ đáng nói với những ai có một gia đình hạnh phúc. Em có biết người ta sẽ hạnh phúc đến như thế nào nếu được sống một cái tết tình nhân trọn vẹn với người mình yêu không, có biết bao người sẵn sàng đánh đổi tất cả để khao khát được hưởng một cái tết tình nhân trong đời". Văn hôn Hoàn Du da diết. Những hạt mưa đông len lỏi đậu vào môi nhói buốt. Mưa mỗi lúc một nặng hạt, tóc Hoàn Du mưa đậu dày, rơi nằng nặng trên bờ vai run rẩy. Một chút nữa thôi, tàu sẽ lăn bánh, cô biết, mình sẽ rơi tõm vào thế giới hun hút mà cô đang đứng. Thế giới ấy, Hoàn Du chỉ là một hạt mưa mỏng manh lay lắt, không biết có đậu nổi vào đâu đó không... ... Văn hứa, chúng mình sẽ có một cái tết tình nhân thật trọn vẹn... [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thư cho một người[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mai Thảo Hiền[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thành phố vào hạ đầy nắng và... thiếu tiếng ve. Cũng không có "Những con đường phượng bay" như ở quê em. Con đường em đi về mỗi ngày vẫn vậy, vẫn những khuôn mặt xa lạ lúc nào cũng hối hả ngược xuôi. Trong em không còn nỗi cồn cào như những mùa hè trước, không còn háo hức đón chờ những cánh phượng đầu mùa. Và, lạ chưa nỗi nhớ trong em cũng không còn quay quắt như cái nắng gay gắt của trời. Vâng, em biết thời gian đã làm em nguôi ngoai nhưng em cũng biết rằng thời gian chỉ phủ một lớp bụi mờ, mỏng manh lên hình ảnh của thầy và chỉ một cơn gió vô tình nào bay qua thì hình ảnh ấy lại hiện về đẹp đẽ, nguyên vẹn như xưa. Hè thứ hai của thời trung học, em theo lời rủ rê của nhỏ bạn, hay theo phong trào lúc bấy giờ, ghi tên vào lớp Anh Văn ở trung tâm mặc dù chuyên ban của em là Anh Văn. Thế rồi em gặp thầy. Sẽ chẳng có gì nếu em không phát hiện ra một tình cảm mới lạ đang nhen nhúm trong em. Em không biết nó có tự khi nào và cũng không biết gọi tên nó là gì. Nó khác với những tình cảm mà em dành cho mọi người. Em nôn nao mong đến giờ học nhưng ngượng ngùng mỗi khi bắt gặp ánh mắt thầy. Tình cảm ấy ngày càng cháy bừng lên trong em, thắp sáng trong em những ngọn lửa mang hình bóng thầy. Những giấc mơ của em đầy ắp hình ảnh thầy. Những ý nghĩ của em có bóng dáng thầy. Ôi, tình cảm ấy mới lạ làm sao! Lúc thì nhẹ nhàng êm ái, lúc lại ầm ào, gào thét, tựa như có một biển cả trong em vậy. Em tìm mọi cách nén chặt tình cảm của mình. Nhưng làm sao có thể ngăn được biển khơi . Những gì mình càng che giấu càng dễ bị phát hiện. Nhỏ bạn bắt đầu nghi ngờ "Sao dạo này tao thấy mày ít nhìn lên bảng quá vậy. Ờ, mà thầy hay nhìn mày lắm đấy, có gì phải không?" Em chỉ cười trừ, cố không lộ vẻ gì dù trong lòng vừa vui vừa sợ. Thầy cưới vợ. Em đón nhận tin ấy với một chút ngỡ ngàng, một chút buồn, một chút đau. Nhưng tất cả qua mau, rất mau. Tình cảm trong em lại tròn nguyên "Vợ thầy đẹp lắm có nhiều nét giống mày". Đó là lời nhận xét của nhỏ bạn sau khi xem hình đám cưới thầy mang vào lớp. Tiếc là hôm đó em không đi học. Thầy gọi em là Hoàng Lan. Em thích tên đó và thích cả loại cây nào đó mang tên Hoàng Lan. Thầy thích gọi học viên bằng những tên thầy đặt, có khi thầy lại gọi theo màu áo. Thầy đặt tên cho con gái đầu lòng là Hoàng Lan. Người ta bảo tên Hoàng Lan nghe khổ khổ. Thầy cũng nói vậy. Sao thầy lại gọi em là Hoàng Lan và đặt tên cho bé là Hoàng Lan? Thời trung học trôi qua. Những mùa hè mơ mộng và thương yêu trôi qua. Em bước vào ngưỡng cửa Đại Học không quên mang theo câu ví dụ thầy viết bằng anh ngữ trên bảng "Tôi yêu một người trong lớp học này nhưng tôi không thể nói với cô ấy. Hẹn kiếp sau vậy". Em đã không chọn ngành sư phạm dù trước đây em đã nghĩ sau này sẽ học sư phạm và sẽ về dạy chung với thầy. "Không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông" (Hêraclit). Em còn phải đi tiếp con đường phía trước. Nhưng ở mỗi chặng dừng em sẽ ngoái loại nhưng không phải để nuối tiếc, chỉ là tự nhủ lòng quá khứ vẫn còn "đẹp đẽ và nguyên vẹn" như xưa. Cũng có thể ở quãng xa nào đó trước mặt em sẽ gặp lại thầy, dù em biết quá khứ chẳng bao giờ gặp lại. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thị trấn không mưa[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đoan Khánh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thi Đại học xong, cái gì cũng cạn kiệt, nhất là... tiền, cho nên tôi quyết định đi xin tiền. Dĩ nhiên là ba mẹ tôi đồng ý và mục tiêu của tôi là một thị trấn nhỏ thuộc tỉnh Quảng Ngãi, quê ngoại tôi... - Cô bé cũng đi thị trấn Châu Ô à? Tôi gật đầu thay cho câu trả lời. Ở trên chiếc xe đò Đà Nẵng - Quãng Ngãi nóng bức và chật chội này càng ít nói càng tốt. - Bé tên gì vậy? - Baby! - Tôi cười (không lẽ lại tiết kiệm nụ cười ?) - Giỡn hoài! - Hắn nhìn trời thắc mắc. Và sau đó là im lặng, bởi vì tôi ngủ, mà tôi ngủ thật sự bởi trời sinh cho tôi căn bệnh say sống. Nếu tôi không ngủ thì có trời mới hiểu tôi sẽ làm gì. May mà lúc lên xe ngoại (vừa ra Huế thăm gia đình) đã đưa thuốc say sống Nautamin cho tôi, không thì một nụ cười méo mó của tôi cũng không có mà trả lời hắn. Chớp mắt một cái đã đến nhà ngoại. Ngoại dắt tay tôi như cái thưở tôi còn bé tí tẹo, còn tôi cứ ngơ ngác nhìn cánh cổng sắt nhà ngoại. Tất cả vẫn như xưa, vẫn là ngôi nhà gác quét vôi vàng, mảnh sân rộng, một cây xoài bự... không có trái đứng gần cổng và bụi hồng nép sát hàng hiên, nhưng tất cả đã trở thành thân thương đối với tôi. Công việc tiếp theo của tôi là tắm rửa, ăn tối và ngủ một giấc cho tới tám giờ sáng hôm sau. Tháng bảy, thị trấn Châu Ô - quê ngoại tôi - nắng hừng hực. Chiều, tôi và Thục Anh đi dạo. - Ê Hà, đợi Hà đi với! - Giọng Châu Ô đặc sệt. Tôi thề với các bạn là chưa bao giờ tôi ngạc nhiên như vậy. Bởi lẽ ngoài gia đình tôi ra, tôi không quen với một ai ở cái thị trấn nhỏ bé này. Cho nên dù nghe đích danh tên mình, nhưng tôi cũng không buồn ngoái lại. Nhưng vòng bánh xe cứ lăn tròn, cho đến khi có tiếng phanh "kít" ngay bên cạnh tôi. Khỏi giới thiệu chắc các bạn cũng đoán được hắn là tên con trai con gặp trên xe. - Bạn quên tôi rồi hả? - Hổng dám đâu! - Quỉ tha ma bắt, tự nhiên tôi lại phát ra một cách nói không giống ai như vậy. - Xạo ke, nhỏ là con gái Huế mà? Tôi trợn mắt: - Răng mà biết? - Bạn tên Hà, tôi cũng Hà, phòng thi số sáu, số báo danh của bạn 1890, của tôi là... - Nhớ rồi. Tôi hình dung ra một tên nhóc có khuôn mặt rầu rĩ (chắc bị -dau bụng) ngồi cạnh tôi hôm thi môn Anh văn. Nhỏ Thục Anh bấm lưng tôi hỏi: - Boyfriend hả? - Boy cái con mèo cụt! - Tôi thì thầm và cười với Thục Anh. - Hai bạn nói gì vui quá, cho Hà tham gia với. Thục Anh cười cười: - Đến nhà rồi... bác có muốn vào nhà nói chuyện với ba tụi tôi không? Tôi thấy hắn ậm ự và "bai bai" chúng tôi (hi hi trông hắn tội nghiệp chi lạ). Nhà ngoại có cổng sắt và một hệ thống báo động hiện đại hơn bất cứ loại chuông bấm nào. Đó là hai lá cứa bằng sắt cao gấp đôi một người chiều cao trung bình, được làm bằng những thanh sắt mảnh đan thành ô vuông và được cột với nhau bằng một dây xích sắt. Nó sẵn sàng phát ra âm thanh maximum nếu có người đụng vào. Bảy giờ ba mươi sáng đã nghe âm thanh maximum ấy, và trời ạ, hắn, người trùng tên với tôi, lại xuất hiện. Tôi chạy ra mở cổng: - Có chuyện chi rứa? - Tôi lên tiếng. Lần này thì tôi nói giọng Huế chay đó nghe. - Hà muốn mời Hà đi "tham quan" một vòng thị trấn - Hắn lúng túng đề nghị. - Lý do? - Để bạn biết thêm quê mình; với lại hôm nay là ngày sinh nhật của ... mình. - Rứa à? Cũng được, cả Thục Anh nữa nghe. Hắn cười vui vẻ. Tôi mời hắn vào nhà, hắn bước vào dáng vẻ khép nép, chắc hắn sợ phải nói chuyện với bà tụi tôi. Tôi liếc tấm lịch, hôm nay đúng là sinh nhật của tôi, ngày hai mươi tám tháng bảy. Không lẽ hắng cùng tên, cùng ngày sinh với tôi? Đồng hồ điểm chín giờ vẫn chưa thấy Thục Anh về. Tôi nói: - Thục Anh phải đi học, nhỏ sắp thì bằng B Anh văn, chiều được không? Hắn gật đầu đồng ý và đứng dậy chào tôi ra về. Chiều... Thục Anh lại bận đi học thêm. Tôi đã năn nỉ muốn gãy lưỡi nhưng nhỏ vẫn từ chối và hùng hỗ tuyên bố rằng " Kiến thức là vô tận, đừng phí thời gian vào những cuộc ăn uống". Tôi phớt tỉnh Ăng-lê, dắt chiếc mini con mèo cụt ra cổng. Ngoại không quên dặn theo: "Đi nửa giờ thôi. Nhớ về sớm sớm". Trời, đi "tham quan" thị trấn mà chỉ có nửa giờ thôi làm răng đi hết các nơi Tôi nghĩ thầm. Đạp xe trên con đường quốc lộ, hắn bỗng dừng xe trước một quán giải khát có cái tên rất dễ thương "Vườn Thuý" (chắc chủ quán là cháu ba mươi đời của cụ Nguyễn). Chúng tôi bước vào quán: - Hà uống gì? - Một ly tùm lum! - Tôi nói. - Hà không biết ở đây có món đó không? Tôi che miệng cười nhỏ. - Thì để Hà kêu cho, Hà bảo đảm là có. Khi cô chủ quán bưng ra hai ly sinh tố, tôi thấy hắn trợn mắt và 'tuyên bố lý do", hình như giọng hắn rất xúc động: - Hôm nay ngày hai mươi tám tháng bảy, hà chúc Hà sinh nhật thứ mười tám vui vẻ. Cuối cùng thì tôi cũng biết "hôm nay là ngày sinh nhật của mình ..." và cuối cùng thì cũng biết vì sao hắn biết sinh nhật của tôi một cách rõ ràng như vậy . Những con người hay liếc mắt vào mục tự khai trên giấy làm bài thi của người khác thì dĩ nhiên không những biết tên mà còn biết cả ngày sinh nữa. Hắn chu đáo quá mức cần thiết. - À, tại sao Thục Anh lại gọi Hà bằng "Bác" ghê vậy? - Vì chị em Hà qui định nếu một người khác phái bằng tuổi thì kêu tên, hơn một tuổi thì kêu bằng anh, hai tuổi bằng chú, ba tuổi bắng bác. Hà hơn nhỏ ba tuổi cho nên... Chuyên nhỏ của chị em tôi khiến hắn cười nhăn răng trong thật buồn cười . Một chủ nhật đẹp trời khác tôi mời Hà đi uống cà phê, hắn nhún vai thắc mắc lý do. Tôi "bật mí": - Hà đậu đại học rồi. Tôi trỏ ngón tay út vào người để cho hắn biết Hà đây là tôi. Hắn cười hiền từ: - Không biết số phận của Hà ra sao. Giá như... Tôi không hiểu vì sao hắn hay bỏ lửng những câu nói của mình. Thị trấn chiều nay thật đẹp, cái nắng hanh khô, cái chật hẹp xô bồ như chui xuống gầm cầu Châu Ô khi chúng tôi đi qua. Cuối cùng chúng tôi dừng lại ở quán "Mây ngàn phương", một quán giải khát trang trí đẹp và rất học trò (Thục Anh đã dẫn tôi đến vài lần). Sau khi đã kêu hai ly cà phê sữa, Hà thắc mắc: - Tại sao không ở "Vườn Thuý" mà lại "Mây Ngàn Phương"? Tôi nhìn bức hình John Lennon khổ lớn treo trên bức tường xanh lơ đối diện với bàn chúng tôi và giải thích: - Tại vì ở đó chỉ có Thuý Kiều và... Kim Trọng, thế giới của người lớn khó hiểu lắm, còn ở đây trẻ con hơn. - Trẻ con à Vậy Hà nghĩ, trẽ con có quyền uống cà phê? - Hà hỏi ngược lại tôi. Thì giống như một cộng một bằng... ba vậy thôi. Khi người ta thực hiện được điều gì đó như thi đậu đại học chẳng hạn, người ta có thể thay đổi thời tiết... sở thích của mình một tí. Chẳng lẽ lại huơ tay múa chân giải thích cho hắn hiểu toàn bộ ý nghĩa của tôi. Cho nên cuối cùng tôi đành nói liều: - Thì thỉnh thoảng trẻ con cũng phãi "ngầu... đời" một tí chứ, chẳng lẽ luôn luôn phải là trẻ con. Và sau đó là im lặng. Hồi học lớp mười một, có lần tôi đã lãnh điễm một của môn toán, tôi đã im lặng để phục thù. Còn bầy giờ thì... chắc có lẽ hắn thất vọng vì gặp phải một cô gái Huế thích cà phê, thích "ngầu đồi một tí" như tôi. Mẹ tôi thường nói: "Im lặng là con sâu ngứa, mà để lâu nó càng ngứa hơn". Và vì sợ cục ngứa kia bất ngờ ập tới cho nên tôi quyết định lên tiếng trước: - Hà về trước nghe, chắc ngoại đợi. Tôi dắt xe mini sau khi đã trả tiền cà phê. Thị trấn lại hiện ra trước mắt tôi. Hình như lẫn trong không khí có mùi béo béo của những tô mì Quảng vàng rực, cái giòn giòn của những chiếc bánh xèo thơm lừng và cả cái vị khó tả khi cho những gói ram nhỏ bằng ngón cái nhúng vào chén nước mắm ngọt, ngon phát sợ. Mấy tuần lễ sau tôi ở nhà với ngoại và hầu như tôi không gặp Hà. Ngoại kể cho tôi nghe thời con gái ngoại ở một vùng biển thật đẹp nhưng cũng đầy bom đạn. Ngoại nói: "Hồi đó trời sao mà dễ mưa quá, còn bây giờ thì ..." Tôi im lặng, không biết ngoại muốn nói chi, chắc ngoại muốn nói con gái tính tình thất thường dễ cười, dễ khóc như ông trời vậy. Tôi tạm biệt ngoại, tạm biệt thị trấn vào một buổi sáng oi nóng như bao buổi sáng mùa hè khác. Ngoại đưa cho tôi một xách đầy nào là bánh dừa, kẹo đường... Tất cả đối với tôi ở giây phút chia tay ấy đều ngọt ngào. Trước khi tôi lên xe, ngoại còn đưa cho tôi một gói nhỏ: - Đây là Nautamin, con nhớ giữ gìn sức khoẻ. Tôi nhìn ngoại và muốn khóc. Trước khi xe chuyển bánh, tôi còn nghe một giọng Châu Ô khá quen: - Baby, tôi hơn Baby hai tuổi à nha, nhưng đừng kêu tôi bằng "chú". Xe chuyển bánh, tôi ngoái đầu ra cửa sổ những người thân của tôi còn vẩy tay. Thị trấn hôm nay vẫn không có mưa. Bất giác tôi mỉm cười.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thà như chiếc Lá[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Lưu Cẩm Vân[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cuộc sống nhiều khi không cần phải có sự thay đổi, như con nước cứ đều đặn lên xuống mỗi ngày, như dòng sông cứ mải miết trôi về phía biển. Bao nhiêu năm nay Trầm đã quen với việc trong nhà mình chỉ có ba người phụ nữ: bà ngoại, mẹ và Trầm. Ba người ba tính cách khác nhau cùng bổ sung, nâng đỡ cho nhau. Bà ngoại là người luôn luôn đưa ra những quyết định sau cùng cho mọi việc, nhưng đó là lúc ngoại còn trẻ. Bây giờ ngoại đã già, người già thường trái tính, trái nết nên ngoại là người được chiều chuộng, nâng niu nhất. Người chịu trách nhiệm về mọi việc lại là mẹ, bây giờ mẹ là người có những quyết định sau cùng. Nghĩ về mẹ, bao giờ trong lòng Trầm cũng dào dạt một tình yêu thương nồng nàn. Trầm thương mẹ, điều đó là tất nhiên, nhưng hình như còn hơn như thế. Trầm chưa bao giờ đo đếm rằng mình yêu mẹ như thế nào, chỉ biết là không bao giờ Trầm nỡ làm cho mẹ phải buồn. Từ khi lớn lên, hiểu biết nhiều điều khác hơn những câu chuyện cổ tích, từ khi biết thắc mắc với mẹ: "Sao nhà mình không có ba", từ khi mẹ trả lời rằng: "Ba đã có một ngôi nhà khác", Trầm đã hiểu rằng mình phải yêu mẹ nhiều lần hơn những đứa trẻ khác yêu thương mẹ của chúng. Mẹ của Trầm vừa là người kiên cường và mẹ cũng lại là người thật yếu đuối. Trầm tự hào mình là người hiểu mẹ trong từng ý nghĩ của bà. Mọi việc trong nhà một tay mẹ lo lắng, từ những bữa cơm với những món ăn hợp khẩu vị cho từng người đến những công việc đáng lẽ chỉ dành cho người đàn ông, mẹ đều làm thật tốt. Chưa có ai phục mẹ mình như Trầm. Mấy cái ghế trong nhà bị long chân là mẹ tay búa tay đinh, đóng lại rành rẽ như một người thợ mộc chánh hiệu. Cũng đôi bàn tay ấy mẹ có thể may một cái áo hoặc thêu một tấm khăn bàn thật đẹp. Mỗi khi trong nhà có sự cố, tiếng đầu tiên Trầm gọi là: "Mẹ ơi" - Mẹ ơi, bóng đèn bếp cháy rồi. Mẹ ơi, sao bàn ủi không nóng nữa. Mẹ lại lặng lẽ tháo ráp, bóng đèn lại sáng, bàn ủi lại nóng. Có người khen mẹ đảm đang, mẹ chỉ cười bảo: "Nhà không có đàn ông, mình phải làm thôi". Nhà không có đàn ông, bao nhiêu năm rồi, ngày qua ngày, năm qua năm, thời gian cứ trôi và Trầm lớn lên. Trầm hỏi: "Vì sao ba với mẹ chia tay nhau". Lý do của mẹ thật đơn giản: "Vì mẹ không thể xa bà ngoại". Câu trả lời của mẹ không thuyết phục được Trầm và càng làm cho Trầm không có một ấn tượng sâu sắc nào về ba. Dằng dặc gần 20 năm không có lấy một lá thư, một lời nhắn nào chứng tỏ rằng ông vẫn nhớ mình còn có một đứa con gái. Nhìn bạn bè mình có một người cha để được nâng niu, chiều chuộng, để thỉnh thoảng tự hào khoe khoang, Trầm thật tủi thân. Có thể mẹ cũng hiểu nên có lần mẹ nói với Trầm: "Đừng trách ai, mỗi người có một nỗi khổ riêng". Lâu dần rồi Trầm cũng quên là mình có một người cha. Vậy mà người ấy lại xuất hiện. Chiều hôm qua nhà Trầm có khách. Đi học về, Trầm thấy một người đàn ông và một đứa con trai ngồi trong phòng khách, Trầm gật đầu chào và bỏ vào phòng riêng thì mẹ gọi lại. Mẹ nói với Trầm thật bình thường: "Có ba con ghé thăm". Câu nói của mẹ chỉ như một lời thông báo nhưng nó đã làm con tim của Trầm nhói đau. Trầm nhìn sững ông ấy một lát rồi lại gật đầu chào và bỏ vào trong nhà. Trầm mở toang cánh cửa sổ, cơn gió đột ngột ùa vào làm cho cô rùng mình nhưng Trầm vẫn cảm thấy đôi má nóng bừng. Điều gì làm cho ông ấy chợt nhớ đến mẹ con Trầm mà tìm đến thăm? Trầm thật cố gắng vẫn không sao xua đi cảm giác căm phẫn trong lòng. Trầm nhìn ra vườn, nơi cây hoa Ngọc Lan đang tỏa hương thơm ngát, mẹ thường bảo: "Hãy như đóa hoa kia lặng lẽ tỏa hương mà không biết mình đang làm cho đời đẹp hơn, người ta yêu hoa vì thế". Trầm cứ ngồi yên trong phòng mặc cho mẹ gọi mấy lần. Đến khi mẹ mở cửa bước vào, Trầm mới hay trời đã chập choạng tối. Bữa cơm tối lặng lẽ hơn mọi ngày. Trầm không huyên thuyên kể chuyện trường lớp mà cứ cúi mặt trên chén cơm, đôi đũa cứ xới mãi như muốn tìm một thứ gì dưới những hạt cơm trắng. Ngoại là người đầu tiên lên tiếng: - Thằng Vĩnh tới đây làm gì? - Anh dẫn con trai đi thi, luôn tiện ghé thăm con Trầm. - Bao nhiêu năm rồi không thấy sao giờ còn bày đặt tới thăm? - Ảnh nói cho chị em nó biết nhau. Bà ngoại hứ một tiếng lớn rồi bỏ đũa xuống bàn: -Có quan hệ gì mà đòi biết nhau. Khi chỉ còn hai mẹ con trong bếp, mẹ nói với Trầm: - Chuyện cũ rồi, con đâu cần tỏ thái độ như thế. Ông ấy nghĩ cũng đúng, chị em phải biết nhau. Trầm nói nhanh: "Con không cần". Buổi tối Trầm ngồi vào bàn mà không hiểu một điều gì trong trang sách. Bảo với mẹ rằng mình không cần nhưng Trầm không thể đừng nghĩ đến cuộc viếng thăm hồi chiều. Trầm không thấy xúc động như mình vẫn tưởng tượng, cũng không có gì bi thương như trong tiểu thuyết diễn tả. Chỉ thấy trong lòng xót xa khi nghĩ đến sự vắng mặt của ba từ 20 năm nay. Lúc Trầm sổ mũi, ốm đau, khi gặp những khó khăn chỉ có mẹ khổ sở, lo lắng. Bao giờ cũng chỉ là hai mẹ con, ngày mưa và ngày nắng, tháng này rồi năm khác đã trôi qua... Bây giờ, ba xuất hiện cùng với đứa con trai, phải là thương yêu chiều chuộng lắm nên ông mới đưa nó đi thi. Nó là con trai, còn Trầm là con gái. Từ nhỏ Trầm đã phải tự lo mọi thứ. Mẹ vất vả với chuyện áo cơm đâu thể quán xuyến thêm mọi việc cho Trầm. Ngay cả giấc mơ được đến một thành phố lớn, thi vào Đại học Y của Trầm cũng đành gác lại vì không muốn mẹ vất vả hơn. Trầm thi vào trường Cao đẳng ở quê mình. Mẹ hiểu như vậy nhưng cũng chỉ biết động viên con gái vài lời. Những lúc ấy ba ở đâu? Ba và con trai ba lại đến. "Họ" ngồi nói chuyện với mẹ ở phòng khách, Trầm lánh mặt và lần này mẹ không ép. Họ về rồi mẹ chỉ nói với Trầm một câu : "Lá rụng về cội, muốn hay không thì ông ấy cũng là cha của con". Câu trả lời của Trầm ở ngoài suy nghĩ của cô: "Con đâu phải là chiếc lá". Lần sau ba đến khi Trầm có một mình ở nhà, ngoại sang nhà dì Năm, mẹ đi làm chưa về. Ba tự nhiên ngồi ở chiếc ghế ông đã ngồi lần trước, nhẹ nhàng gọi Trầm: "Con ngồi xuống đi. Sao con tránh mặt ba?". Trầm đan hai tay đặt trên gối, cúi mặt nhìn chằm chằm lọ hoa trên bàn, đóa hoa cầm chướng sắp úa màu vì mấy ngày rồi không được thay nước. Ba hỏi mấy câu, Trầm cố tình không nghe và không trả lời tiếng nào. Hai cha con ngồi im lặng, Trầm nghe tiếng thở dài của ba. Lạ thay Trầm không thấy hả lòng dù biết rằng mình đã tỏ được thái độ chống đối ba. - Ba không biết phải nói gì, đúng là ba có lỗi với con. Ba không biện minh cho mình, cũng không có ý bảo con đừng giận ba, ba chỉ muốn được đối diện cùng con và con nhận ba là ba của con. Sự ngoan cố của Trầm có hiệu quả, ba bất lực nhìn đứa con của mình nhất định không nói lời nào. Nếu mẹ về chậm một chút nữa thì Trầm cũng không có đủ can đảm để ngồi lại cùng ba. Đêm về, mẹ sang ngồi với Trầm, lùa cả hai bàn tay vào mái tóc dày, mượt mà của con gái, mẹ nói: - Mẹ hiểu phản ứng của con, nhưng phải biết mở lòng mình ra Trầm ạ! Ba không có lỗi gì trong chuyện chia tay với mẹ. Ngày ấy mẹ còn quá trẻ không hiểu hết là làm vợ phải như thế nào. Mẹ không phải hoàn toàn không có lỗi. - Nhưng con cũng đâu có lỗi, sao cứ như một đứa con mồ côi. - Con còn có mẹ mà. - Thì đó, con chỉ có mẹ thôi. - Đừng nên như vậy con. Ông ấy cũng khổ tâm, khi có tuổi rồi người ta hay nhìn lại mình. Có lẽ ba của con đang ân hận vì đã vô tâm với con. Mẹ thở dài. Ông ấy cũng thở dài. Trầm hỏi: - Vậy mẹ có buồn không? Mẹ không trả lời. Bao giờ cũng vậy, mẹ kín đáo đến mức không ai hiểu được rằng bên trong sự cương nghị, cứng rắn là một tâm hồn yếu đuối. Trầm dựa cằm trên vai mẹ: - Mẹ lấy chồng đi mẹ, sống cô đơn buồn lắm mẹ ạ! - Hôm nay sao lại nói như thế nhỉ? Con lớn rồi hả Trầm? Bàn tay mẹ nhẹ nhàng vuốt tóc Trầm, hai mẹ con ngồi yên thật lâu, Trầm tựa cằm trên vai mẹ, nghĩ đến ba lòng rưng rưng muốn khóc. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hắn tìm đến ngoài dự kiến của Trầm, lúc Trầm dắt xe ra khỏi cổng trường, hắn bất ngờ đứng trước mặt Trầm - "Chị Trầm". Không hiểu sao Trầm lại chịu nghe lời đi theo hắn vào quán nước dọc bờ biển. Hắn chọn cái bàn sát với bãi cát, đàng hoàng kéo ghế cho Trầm rồi ngồi xuống chiếc ghế đối diện. Đôi mắt hắn dài và đen y như đôi mắt của ông ấy. - Em tên Huy, Vĩnh Huy. Trầm khoáy nhẹ chiếc muỗng trong ly nước, im lặng nhìn hắn. Hắn nói chuyện như đã quen Trầm từ lâu và không có ý định chờ đợi phản ứng của Trâm. - Em vừa thi xong môn cuối cùng chiều nay. Ba bảo em về nhưng em muốn nói chuyện với chị trước khi về nhà. Con bé An dặn kĩ rằng em phải gặp được chị xem chị với nó ai đẹp hơn. Em gái út của chúng ta tên Vĩnh An. Nó giống mẹ em hơn, còn chị rất giống ba, chị có bao giờ soi gương và biết như thế không? Ba thường nói với em về má- bọn em gọi mẹ chị là má - ba bảo má rất hiền, lại xinh đẹp. Em vẫn hình dung chị cũng như má, hiền dịu và xinh đẹp. Nhưng mà... Thực ra chị cứng rắn hơn em nghĩ. Chứng kiến cảnh chị gặp lại ba mà em đau lòng. Sao chi lại nỡ đối với ba như thế? Ba là ba của mình kia mà. Trầm ngạc nhiên mở to mắt nhìn thằng bé, nó mới 17, 18 tuổi gì đó mà lên tiếng dạy khôn Trầm như một ông già. Không hiểu sao Trầm không giận hắn, cô chỉ thấy buồn cười. Hắn nhìn Trầm như thăm dò và có lẽ hắn cũng bị hẫng trước thái độ của Trầm. - Ai bảo… nói với tôi như vậy? - Thì chị cứ gọi em là em không được sao? Em tự nghĩ ra những điều mình nói. Trầm nhìn ra phía biển, mặt biển chiều mùa hè chỉ lăn tăn vì không có gió. Biển xanh ngắt, chỉ có vài con sóng nhỏ sủi bọt trắng đuổi nhau chạy vào rồi lại ra khơi. Cô nói mà không nhìn hắn: - Em không hiểu đâu. - Có thể em không hiểu hết nhưng em biết chị đang ganh tị với em. Trầm lại nhìn hắn, cũng là lạ Trầm không thấy ghét hắn như mình nghĩ, nhất là khi hắn nói đúng ý nghĩ của mình. - Chị nghĩ lại đi, đừng đối với ba như vậy. Muốn hay không thì một nửa tên chị là tên của ba... [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mọi chuyện như lại không có gì xảy ra, chuyện viếng thăm của ba không làm thay đổi gì trong căn nhà của ba người. Ngoại với mẹ không nhắc đến lần gặp ấy nữa chỉ có Trầm là vẫn nhớ lúc ba đến từ giã. Hôm ba và hắn đến chào, Trầm vờ như không nhìn hắn nhưng vẫn cảm nhận được đôi mắt trách móc của hắn. Trầm không thể ép lòng mình chiều theo thứ tình cảm mà cô không có. Dẫu sao cuối cùng cô cũng nói được một lời: "Dạ, Ba về". Nếu lớn hơn một chút hắn sẽ hiểu tình cảm không phải tự nhiên mà có, dẫu ấy là tình ruột thịt thiêng liêng. Do vậy Trầm cũng không muốn mình chỉ là chiếc lá đợi vàng rồi rụng. Trầm sẽ tìm về quê nội, thăm bà, thăm hắn và bé An để xem giữa Trầm và cô bé kia ai đẹp hơn. Trầm tự cười và cảm thấy lòng nhẹ nhàng, không còn cảm giác căm ghét ba hay ganh tị với hắn. Trầm không hiểu vì sao, có lẽ chính là vì sự ràng buộc thiêng liêng đó ư? Cuối cùng thì không có gì thay đổi, cuộc sống vẫn trôi qua theo ngày tháng cùng những buồn vui, cuộc sống vỗn dĩ như thế. Lần nữa mẹ lại đúng khi nói rằng: "Hãy cứ là hoa cho hương bay đi", như cây hoa ngọc lan ở góc vườn vẫn lặng lẽ tỏa hương thơm ngát.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tha thứ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trần Diệu Linh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nước mưa vẫn ào ạt chảy trên máng xối vào cái thùng phuy phía đầu hồi, Trang nghiêng người, chong mắt nhìn ra đường qua chiếc cửa sổ con tí xíu trổ trên tường. Qua màn mưa mờ mịt, cái bóng đèn đường hắt vào chị một vầng sáng nhạt nhòa hơn thường ngày. Mọi đêm, Trang vẫn thường đọc sách dưới cái ánh sáng "chùa" này chừng nửa tiếng trước khi ngủ. Nhưng đêm nay thì không. Chị không thể ngủ được dù cái kim ngắn trên chiếc đồng hồ treo tường đã nhích đến số mười hai và những tiếng lao xao của đám người tan xuất chiếu cuối ở rạp đã tắt từ lâu. Bỗng chị thèm ngắm anh đến lạ lùng. Trang trở mình, quay nhìn chồng và giật mình khi bắt gặp đôi mắt anh đang mở to. - Em sao vậy? Có chuyện gì thế? Vội vàng co lút cổ vào đám chăn gối, Trang cố nặn ra một câu trả lời: - Đèn hôm nay sáng hơn mọi khi thì phải. Sáng quá, em không ngủ được. Rồi nhận ra sau câu trả lời của mình, cái ánh nhìn dò hỏi kia lại càng bừng lên, chị cố ngáp thật to và nhắm mắt lại. Người chồng vòng tay ôm lấy vợ, trong đầu vẫn còn đôi chút ngạc nhiên nhưng cơn buồn ngủ đã xua nó đi thật nhanh và chỉ năm phút sau, tiếng ngáy của anh đã vang đều trên căn gác nhỏ. Bình minh thuần khiết trào qua những giò lan không bao giờ trổ hoa ập vào đôi mắt của người đàn bà. Cùng với nó là những tiếng chim loét choẹt vọng sang từ những dãy lồng chim treo đầy ban công những nhà gần đấy. - Một buổi sáng đầy phong lan và tiếng chim. Trang giật mình quay ra. Anh đã dậy từ lúc nào, nhẹ nhàng tới sau lưng chị và giờ đây đang nhìn chị bằng ánh mắt đêm qua. - Thế mà anh không biết là em cũng thích ngắm lan và nghe chim hót. Tiếc là chúng không thể có hoa. - Như ngày xưa của anh, phải không? Trang bật hỏi, không nhận ra nổi giọng mình. Người chồng bật cười. Anh hơi ngạc nhiên song đã từ lâu, anh vẫn coi chị như một đứa trẻ cần được chiều chuộng. Sự nhường nhịn ấy có thể được giải thích bởi sự cách biệt tuổi tác khá lớn giữa họ, nó khiến cho quan hệ của cặp vợ chồng này có cái gì đó giống như mối quan hệ cha con hay chí ít cũng là anh cả - em út. Vì vậy, vẻ gây gổ trong câu hỏi vừa rồi của chị cũng không làm anh bực mình. Ngược lại là khác. Anh ngắm nghía chị với vẻ thú vị ra mặt và điều này, rút cục, làm chị nổi cáu. Sập mạnh cánh cửa sau lưng, chị lại lao lên giường và thiếu chút nữa thì oà khóc. Cứ như thể anh muốn giễu cợt chị và thay vì kể với chị về lá thư ấy, như họ vẫn làm trong bao nhiêu năm trời nay, anh lại giấu biệt nó đi và để mặc kệ chị với nỗi tò mò muôn thuở của phụ nữ. Nếu những dòng chữ trên phong bì không đẹp mềm mại đến thế thì có lẽ Trang sẽ không băn khoăn về nó nhiều như vậy. Nhưng điều khiến chị lo lắng hơn nữa là vẻ vui buồn bất chợt của anh kể từ khi đọc những gì trong đó. Chưa bao giờ chị thấy anh ở trong trạng thái bồn chồn đến thế, hình như anh có một việc quan trọng cần phải quyết định mà lại e dè, hoặc giả anh có một điều bí ẩn kinh khủng thèm được thổ lộ mà lại không đủ gan. Dù gì thì gì, linh tính phụ nữ báo cho Trang biết rằng Hải của chị đang có chuyện. Nếu anh không muốn nói trước, thì tự chị, chị sẽ tìm ra sự thật. Khi Hải trở về từ bệnh viện vào lúc sáu giờ chiều, anh thấy hai chiếc túi du lịch đặt gọn gẽ cạnh nhau trên sàn nhà, bên chân bàn nước; lá thư bí mật nằm phấp phới dưới chiếc tách trà màu xanh nhạt yêu thích của Trang. Bần thần ngồi xuống ghế, Hải cầm lá thư lên, đọc lại một lần nữa những dòng chữ anh đã thuộc lòng. Khi ngẩng lên, anh bắt gặp đôi mắt Trang đang chăm chú nhìn mình. Bước lại gần anh, chị thì thầm lời xin lỗi: - Đáng ra em không nên làm thế. Nhưng em chỉ muốn giúp anh đưa ra quyết định. Nếu anh đồng ý, em sẽ đi cùng anh. Nắm chặt bàn tay lạnh ngắt của Hải, Trang tự hỏi phải chăng mình đã làm đúng điều cần làm? Yêu anh, chị đã chấp nhận biết bao phiền toái không nhỏ của vợ một người nặng lòng quá mức với quá khứ. Anh không tiếc công tiếc của để giúp cho những người đồng đội cũ đã đành, mà cả chị nữa, chị nghĩ mình sẽ bớt yêu anh nhiều lắm nếu anh không hành động như vậy. Nhưng đây là lần đầu tiên chị chủ động bước vào thế giới ấy của anh, đúng vào trường hợp mà chính anh tỏ ra ngần ngại. Có một điều gì đó mách bảo chị rằng anh muốn làm điều này vô cùng mà không đủ can đảm. Chị đã tin là mình làm đúng mặc dù đến khi ngồi bên anh trên chiếc xe đang lướt êm trên đường cao tốc, chị lại không hiểu tại sao mình lại quyết định đi cùng anh và liệu làm thế này có nên không. Và cũng vậy, đến tận lúc này, chị vẫn chưa hết bối rối. Ngôi nhà thờ họ cũ kỹ âm u như trong Liêu trai và người đàn bà đứng tuổi mà vẫn đẹp óng ả kia thật giống như một ả hồ ly tinh hiện hình. Một thoáng bối rối ban đầu đã qua mau và họ nói chuyện với nhau như những người thân thiết. Trang kinh ngạc nhận ra giọng nói của người ấy thuần khiết Hà Nội. Một phụ nữ Hà Nội chuẩn ở giữa một vùng quê cách Hà Nội ngót ngàn cây số, đó không phải là điều đáng ngạc nhiên hay sao. Bắt gặp vẻ ngạc nhiên trong mắt Trang, người đàn bà kín đáo mỉm cười. Dầm tay trong chậu nước giếng mát lạnh, Trang để mặc trí tưởng tượng lôi kéo mình đi ngược lại tuổi trẻ của người ấy, nơi chẳng biết đã có chuyện gì xảy ra giữa họ: Hải và Bích. Bữa cơm tối trôi qua trong một bầu không khí thân mật và vui vẻ nếu không kể đến vẻ bồn chồn của Hải. Dường như anh đang chờ đợi một điều gì đó. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đêm cuối tháng mịt mù, khu vườn trước nhà chìm trong bóng tối. Im lặng ngự trị cả vùng quê. Không có gì ngoài tiếng cây xì xào trong gió. Ngay cả lũ ve cũng đã tắt tiếng sau một ngày khản giọng hòa ca. Bâng quơ, người đàn bà thả một tiếng thở dài vào im lặng. Có vẻ như sẽ không gì khuấy động sự yên tĩnh kỳ diệu này nếu từ phía cổng tre không vang lên những tiếng lốc cốc tựa tiếng mõ trâu và chỉ ít phút sau, từ bóng đêm, hiện ra một con người kỳ dị với bộ râu tóc rậm rạp bao quanh một khuôn mặt nhăn nhó đễ sợ cùng đôi mắt hấp háy trẻ trung như bị đặt nhầm chỗ. Người đàn ông này chống một chiếc nạng gỗ sần sùi, chính nó là nguyên nhân của những tiếng lộc cộc kể trên. - Anh Bình! - Người đàn bà reo lên với vẻ vui mừng vô hạn. - Làm sao anh tới được đây, tối tăm thế này mà chân tay thế kia. Ôi em mừng quá. Anh vào đây. Cả vợ chồng Hải cũng đang ở đây. Anh đi bằng gì... Người đàn ông mới tới giơ cao chiếc nạng lên, phác một cử chỉ cắt dứt dòng lũ hỏi han của Bích. ông ta nghiêm mặt, làm bộ tức giận: - Dù có phải đi bộ cả đêm thì tôi cũng phải tới. Cô coi tôi là loại người gì? Thằng Hải đâu, gọi nó ra đây! Hải bước ra. Anh im lặng đứng trước người đàn ông đáng sợ. Ông ta cũng im lặng nhìn anh, một cái nhìn săm soi khó chịu. Họ nhìn thẳng vào mắt nhau một lúc lâu, rồi bất ngờ, người đàn ông cất liếng cười ha hả. - Được lắm! Mày dám nhìn thẳng vào mắt tao nghĩa là mày đã sống có ích những tháng ngày vừa qua. Lại đây! Ông ta quẳng chiếc nạng sang một bên và dang rộng hai tay. Hải bước nhanh đến, anh ôm chầm lấy ông và khi anh quay ra, Trang thấy mắt anh nhòe lệ. Thoáng qua khóe mắt chị thấy người đàn bà đưa tay gạt nước mắt. Bất giác, một nỗi xúc động sâu sắc trào đến Trang. Người đàn ông tên Bình lại gần Trang, đưa tay ra cho chị. Chính vào giây phút nắm vào bàn tay chai sần ấy, Trang bỗng thấy như mình đã quen biết con người này từ lâu lắm rồi, như thể bao lâu nay chị vẫn mong ngóng đến giây phút gặp gỡ này đây. Nặng nhọc ngồi xuống ghế, ông hỏi ngay về công việc ngày mai. - Cháu Nam sẽ đưa hài cốt anh ấy về, chắc là vào khoảng năm giờ sáng. Mọi thứ em đã chuẩn bị đủ cả. - Họ hàng cậu ấy còn ai không? - Không còn ai cả. Sẽ chỉ có em và cháu Nam để trở thôi. Ông Bình gõ gõ lên mặt bàn, chậm rãi nói: - Cô cho tôi một cái khăn. Tôi là anh em của cậu ấy, tôi cũng có quyền trở. - Dạ... Tiếng dạ mênh mang của người đàn bà khiến Trang nao lòng. Chị tự hỏi tại sao anh vẫn im lặng. Tại sao anh không đề nghị được để tang. Nếu đó là một người thân thiết với anh đủ để anh vút bỏ mọi việc để về đây dự lễ nhận hài cốt thì lẽ ra anh nên làm vậy mới phải; nhất là khi người ấy chẳng còn họ hàng thân thiết nào. Mang trong lòng những thắc mắc không dễ hỏi, Trang thao thức trằn trọc đến tận hai giờ sáng và rốt cuộc, chị quyết định trở dậy. Sẽ sàng để khỏi làm người đàn bà thức giấc, Trang xuống giường, rón rén đi ra phía gian chính và giật mình khi nhận ra Hải đang ngồi im như tượng trong ánh đèn dầu lờ mờ hắt xuống lừ ban thờ. Môi anh mấp máy, có lẽ anh đang nói chuyện một mình. Trang lặng người. Chị hiểu ra những âu lo vô cớ của mình mấy ngày qua là có lý. Nửa muốn chạy đến ôm chặt lấy anh, nửa muốn tránh mặt, chị đứng phân vân trong vùng tranh tối tranh sáng. Không biết Trang sẽ đứng đó đến bao giờ nếu một tiếng chim lợn không bất thần xẹt qua khu vườn, làm tan đi vẻ vô hồn trong mắt anh và hướng nó về phía góc nhà, nơi chị đang đứng trong dáng vẻ mờ ảo của một ru hồn. - Bích à? Có phải Bích không? - Em đây - Trang trả lời, chậm rãi tiến về phía chồng với dáng cứng nhắc gượng gạo - Sao anh chưa nghỉ? - Trang à - Giọng anh mừng rỡ - Sao em cũng không ngủ? - Em không ngủ được. Ta ra ngoài đi. Hải nhẹ nhàng đứng dậy, nắm lấy tay chị. Họ cùng ngồi xuống bậu cửa gỗ trông ra màn đêm mịt mù. Những tấm phướn ngoài vườn bay phần phật trong gió, nhác trông như những bóng người đang nhảy múa cuồng loạn trong tấm vải liệm. Bất ngờ với cả chính mình, chị hỏi: - Anh yêu chị ấy phải không? Anh im lặng, xiết chặt tay chị đến đau tức. - Anh đã từng yêu cô ấy. - Đáng ra anh phải nói với em - Chị rút tay về - Em có quyền được biết chứ! - Anh biết. Nhưng anh sợ. Đây là một câu chuyện xấu hổ. Trang bất lực tìm kiếm trong bóng tối những biểu hiện của khuôn mặt anh, phải chăng người đàn ông chị yêu đã thốt ra điều đó. - Xấu hổ? Vì đã yêu ư? - Không, không phải vì đã yêu. Tình yêu không bao giờ là đáng xấu hổ. Chỉ có điều. Anh lại im lặng, đầu gục xuống, đôi tay trống trải xòe ra rồi bất ngờ bóp chặt lại, những ngón tay trắng nhợt ngọ nguy trong một cơn giận dữ cố kìm nén. Trang thoáng hoảng hốt, nhưng rồi chị nén mình lại, và cũng như anh, chị im lặng. Chị đợi. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đó là một mùa hè kinh khủng, kinh khủng ở khắp chốn, ở chiến trường ác liệt đã đành, nhưng cả ở đây nữa, trạm quân y tuyến giữa của Hải. Tất cả những gì xảy ra xung quanh, bom đạn, thiếu thốn, cái nóng như nướng người cùng mùi hôi thối của những vết thương đang lở loét từng ngày do thiếu thuốc men cùng phương tiện cứu chữa của hàng chục con người ngổn ngang quanh trạm phẫu dã chiến chỉ rộng vài trăm mét vuông này làm Hải như muốn phát điên. Anh chưa từng chuẩn bị tinh thần để gặp những tình huống này dù rằng tự anh, chứ không phải ai khác, đã cứa con dao mổ sắc lém vào tay để lấy máu viết đơn xin vào chiến trường. Hai từ "tuyến lửa" ngày ấy vang lên trong đầu Hải, chàng sinh viên y khoa, chỉ đơn thuần như một thứ mỹ lừ mà anh đã lường tượng ra cái khung cánh đẹp như mơ của rừng già Trường Sơn, nơi anh sẽ lập rất nhiều kỳ tích, cứu sống được không biết bao nhiêu con người và trở thành anh hùng trong mắt của bao cô thanh niên xung phong xinh đẹp. Và hãy để con người đẹp nhất trong số các cô gái quanh đấy phải nhìn nhận anh đúng với những gì anh có - dũng cảm, tài năng và cao thượng - chứ không phải là một anh chàng thư sinh non nới và yếu đuối. Dù gì thì ý nghĩ này cũng an ủi được Hải đôi chút trong những phút ngã lòng và làm anh bớt áy náy khi nghĩ đến vẻ mặt rạng rỡ tự hào của cha khi ông nghe tin anh xung phong ra trận. Ông đã cúi gầm mặt mấy năm trời, không dám nhìn mặt họ mạc xóm giềng kể từ khi Sơn, anh trai Hải, không hiểu vì cớ gì được miễn gọi nhập ngũ với một lý do không ai tin nổi - bệnh tim. Nói không ai tin nổi là vì Sơn to khỏe như một con gấu. Mùa đông anh la vẫn đứng bên cái bể nước chung của cả khu lập thể dội nước tắm ầm ầm, làm bắn lung tóe lên các bà già. đang ngồi nhặt rau vo gạo quanh đấy, mồm huýt sáo vang lừng. Người ta nói rằng tờ chứng nhận bệnh tim đó là do ông Liên, giám đốc một bệnh viện lớn nhất nhì Hà Nội, đồng thời là cha của người yêu Sơn, cấp cho. Đó là họ nói ra nói vào như thế, còn trong nhà Hải không một ai nhắc tới điều này, kể cả cha anh. Ông thuộc típ người yếu đuối và sợ sệt con cái như nô lệ sợ ông chủ. Một năm sau khi Hải vào mặt trận, ông chết trong một đợt ném bom của Mỹ, ngay bên bức tường Đại sứ quán Pháp, nơi ông vẫn ưa đi dạo ngày ngày với một sự an tâm rất trẻ thơ rằng đấy thực sự là nơi an toàn nhất giữa cái thành phố lỗ chỗ bom đạn này. Hải không bao giờ tìm thấy mộ ông, nó đã thất lạc sau bao lần vật đổi sao dời và cả bởi sự vô tâm đến vô hình của Sơn. Ông Liên đã chết, chết trong cô đơn và ân hận, như Hải đã được biết qua những người hàng xóm của ông. Suốt cái đêm kinh khủng ấy, Hải giấu mình trong bóng tối, má vẫn nguyên cảm giác bỏng rát sau cái tát của Bình, tim nhức nhối một cảm giác nhục nhã đến nỗi chỉ muốn chết đi, tan biến hẳn đi để không bao giờ còn phải nhìn vào mặt bất kỳ ai nữa. Bích đã trở về từ xẩm tối, đi lướt qua lều anh như một bóng ma, khuôn mặt bệch bạc màu xác chết. Trong ánh sáng hoe hoắt cuối ngày, Hải vẫn kịp nhận thấy bàn tay cô nhuộm một màu đỏ bầm của máu và đất. Vậy là anh hiểu. Chằm chằm nhìn vào khẩu súng lục từ nãy vẫn nắm chặt trong bàn tay ướt nhoét mồ hôi, Hải nghĩ về sự giải thoát sẽ đến chỉ sau một động tác đơn giản và gọn ghẽ. Chỉ một cái gập của ngón tay trỏ, thế là sẽ không còn ân hận, giằn vặt, không còn cả Bích, cả Vinh nào ám ảnh nổi anh nữa. Chẳng gì dễ chịu hơn thế, xin lỗi và vĩnh biệt! Rất có thể Hải đã làm thế nếu không có một sự tình cờ can thiệp: Chính khi Hải nhắm mắt, há mồm hớp lấy ngụm dưỡng khí cuối cùng, nòng súng lạnh tanh áp sát thái dương thì đồng thời vang lên những tiếng lao xao từ phía con đường mòn, tiếng quẹt diêm và bừng lên trước mắt anh, trong quầng sáng nhỏ nhoi của que diêm là khuôn mặt tái dại của Bích. Không nhìn thấy vẻ giật mình lúng túng của Hải, Bích chỉ nói ngắn gọn "Thương binh" rồi quay lưng bước vội đi. Bao nhiêu năm sau, mỗi khi nhớ tới khoảnh khắc đó, Hải lại tự hỏi không biết cô ấy sẽ làm gì nếu biết anh định tự tử. Anh tin là cô sẽ ngăn anh lại, nhưng không biết điều này có ảnh hưởng gì tới thái độ của cô sau đó không; liệu cô, dù một chút thôi, có tha thứ cho anh không? Hải không thể nào tìm được câu trả lời. Loang loáng trong sân trại, những ánh đèn pin quét nhoang nhoáng trên mặt đất, cùng với nó là những tiếng chân rầm rập đập vào não Hải, nhanh chóng lôi anh ra khỏi cơn u uất. Không có thời gian để nghĩ đến bất cứ điều gì, ngoại trừ những con người ngoài kia đang cần đến anh. Hải lao ra khỏi lều, nhập vào công việc hối hả và tất cả lại lập lại cái guồng quay trước đó, như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Những mệnh lệnh ngắn gọn của anh được thi hành một cách nghiêm chỉnh và chính xác. Không có những cái nhìn giận dữ, những vẻ mặt lạnh lùng khinh miệt. Cuộc chiến của những người áo trắng diễn ra liên tục suốt đêm và khi bình minh ló rạng trên khu rừng nhiệt đới, báo hiệu sự trở lại của mình bằng những giọng chim thánh thót mỗi lúc một mau thì mọi việc cơ bản đã xong. Họ cố thể nghỉ ngơi đôi chút để chuẩn bị cho một ngày làm việc mới. Đây thường là thời khắc kỳ diệu nhất đối với họ, khi được mỉm cười với nhau trong một sự mệt mỏi đầy thỏa mãn của những người tự tin rằng mình đã làm tròn nhiệm vụ. Đôi khi họ đau buồn vì thấy bất lực trước bom đạn và số phận, nhưng chưa bao giờ họ phải xấu hổ. Hải đã từng yêu giây phút ấy, cũng như giờ anh sợ nó. Khi khoác chiếc áo trắng trên người, họ là đồng đội, nhưng khi cởi nó ra, anh trở lại là kẻ tội đồ trong mắt mọi người và chính bản thân. Dù rằng tất cả mọi người, kể cả Bích, đều tin Hải sẽ không khi nào cho phép Vinh lên đường trở về đơn vị vào cái ngày định mệnh ấy nếu anh biết cái gì đang chờ Vinh trên đường, song không vì thế mà anh vô can. Chỉ cần sử dụng một lập luận vô cùng đơn giản rằng Hải, người bác sĩ chính, trực tiếp mổ và theo dõi điều trị cho Vinh, tất nhiên phải nhận thấy rằng Vinh chưa thể đủ sức trở lại chiến đấu, thậm chí là trong vòng một tháng nữa, vậy mà lại ký giấy cho phép xuất viện, đủ cho thấy đây là một hành động thiếu trách nhiệm và vô lương tâm, dù là xét trên phương diện nghề nghiệp hay con người thuần tuý. Cho dù Vinh thoát khỏi quả bom năm tấn ấy thì cũng chẳng ai dám chắc rằng anh sẽ không gục ngã trên đường tìm về đơn vị. Một cái tát của Bình là sự trừng phật quá nhẹ nhàng cho tội ác đó. Hải mong muốn tự sâu trong thâm tâm rằng Bích hãy trừng phạt anh, thậm chí giết anh cũng được. Hay chí ít, cô hãy gào khóc và rủa xả anh, hãy nhiếc móc và căm thù anh. Tất cả, miễn là đừng đối xử với anh bằng vẻ im lặng khinh bỉ này. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bích ngồi lặng trong bóng tối, lắng nghe những lời tâm sự của Hải. Chị biết anh đã từng rất ân hận và dày vò, nhưng chị không ngờ rằng anh đã định tự tử. Thật may là điều ấy đã không sảy ra, nếu không, lòng chị làm sao đủ sức chứa thêm một niềm ăn năn nữa. Bích tin mọi việc đã không xảy ra tồi tệ thế nếu trước đó chị chưa tỏ ra thân thiện hơn với Hải. Chính điều ấy đã khiến anh ta bị sức khi Vinh tới. Quả thật, vào đến nơi này, Bích mới hiểu ra rằng Hải khác rất nhiều so với anh trai anh ta, người yêu của chị gái Bích. Nếu Sơn tầm thường, thực dụng và cáo già bao nhiêu thì Hải lại ngây thơ, yếu đuối bấy nhiêu. Bấy nhiêu chưa đủ để Bích yêu anh nhưng cũng đủ để biến sự coi thường trước đây thành một tình bạn chân thành từ phía cô. Còn Hải, chưa bao giờ anh muốn coi Bích là bạn. Bích hiểu rõ điều đó qua những cái nhìn như có lửa của anh. Chị dám tin rằng chưa bao giờ mình có chủ ý khiến anh hiểu khác đi về mối cảm tình giữa họ, song rừng xanh núi đỏ và nỗi cô đơn vắng vẻ chắc gì đã không khiến chị có đôi ánh mắt khác thường và những nụ cười không kiểm soát. Nếu Hải có nảy sinh lòng ghen tức quá đáng ấy thì lỗi lầm cũng không chỉ thuộc mình anh ta. Từ ba hôm trước, Vinh đã có vẻ nóng lòng sốt ruột muốn đi. Anh là một chàng trai dũng cảm và rất giàu sĩ diện. Anh không chịu nổi cái ý nghĩ rằng mình sẽ còn phải lay lắt ở đây đến tháng trời nữa trong khi những đồng đội đang xông pha nơi chiến trường. ý nghĩ rằng mình hèn kém và lẩn trốn nhiệm vụ cứ đeo bám anh như đỉa, chỉ trừ những lúc có Bích ở bên. Cứ có người ở ngoài trạm tạt qua là anh cuống quít hỏi xem đơn vị mình đang ở đâu rồi cả đêm ấy lại trằn trọc thở than. - Anh ấy sinh ra để làm trai thời loạn. Bích nên hiểu cho anh ấy. Bắt gặp Bích đang giận giữ ngồi vặt cỏ bên suối sau một hồi khóc lóc thuyết phục Vinh, Hải đưa ra một lời khuyên. Lời nói ấy ở miệng người khác thì đã an ủi được cô rồi, đằng này lại là của Hải. Thất kinh nhìn ánh mắt trợn trừng giận dữ của Bích, Hải vội vã rút lui. Ngày hôm sau, lợi dụng lúc Bích vào rừng hái rau, Vinh tìm Hải. Anh đòi ra viện. Nếu Bích ở nhà, nhất định cô sẽ không cho phép và rất có thể, cả anh cũng không muốn ra đi. Đầu tiên Hải kiên quyết phản đối. Anh biết Vinh còn rất yếu chưa thể đủ sức ra viện và anh cũng thừa biết dù anh có từ chối thì Vinh cũng không từ bỏ ý định xin về đơn vị. Viện cớ rằng phải chờ hội ý với bác sĩ Bình, anh yêu cầu Vinh chờ đến ngày mai. Đúng thật, Vinh không phải là người đễ từ bỏ ý định, anh ta bám sát lấy Hải, nì nèo nửa ngày trời. Vinh quá trực tính và phóng khoáng, anh không hề biết về mối quan hệ tế nhị giữa Bích và Hải, càng không biết rằng Hải ghét anh như đào đất bỏ đi, vì vẻ hăng hái đầy nam tính và quyến rũ một cách tự nhiên của Vinh đã khiến Bích phải xiêu lòng. Hải thẳng tay ký cái roẹt vào tờ giấy ra viện. Thế là Vinh khoác ba lô, chào mọi người, hớn hở ra đi. Anh nhờ Hải chuyển lời chào Bích. - Tôi sẽ viết thư cho cô ấy. Nhờ anh nói hộ Bích hãy chờ tôi? Nếu lúc ấy Hải có ý định giữ Vinh lại, thì lời nói ấy cũng đã làm nó tan thành mây khói. Mười lăm phút sau Bích về. Cô lao theo Vinh không chậm trễ. Năm phút sau, một tiếng nổ lớn phát ra từ phía con đường, có lẽ một quả bom nổ chậm bị sót đã phát nổ. Đất rung nhẹ dưới chân Hải. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hải không nghĩ đến chuyện tự sát nữa vì anh hiểu rằng làm việc tốt là cách duy nhất để chuộc tội. Nhưng trong những giờ yên tĩnh, nhìn trộm Bích lặng lẽ như cái bóng qua khe thủng hẹp tí của tấm bạt căng trước cửa lều, Hải lại muốn một phát súng vào đầu. Khoảng hơn nửa tháng sau cái chết của Vinh, Hải tình cờ bắt gặp Bích nôn oẹ sau tảng đá lớn gần con suối cạn. Bằng hiểu biết của một bác sĩ cộng với linh tính của kẻ đang yêu, anh nhận ngay ra sự thật. Từ hôm ấy, anh cố gắng chăm sóc cô một cách thầm lặng, nhưng Bích đã nhận thấy và lừ chối những đặc cách anh dành cho với một vẻ kiêu hãnh lạnh lùng. Trong suốt thời gian ấy, Bình cảnh giác trông chừng Bích. Anh cũng thầm yêu Bích nhưng khác với Hải, anh không nuôi trong lòng mối ghen tuông đối với Vinh - chàng trung đội trưởng may mắn ấy. Kể từ khi nhận ra Bích yêu Vinh, Bình đã chấp nhận trở thành người bạn trung thành của họ. Anh đã cố gắng hết sức để giữ cho mối tình đơn phương ấy mãi ở trong bí mật. Anh không muốn Bích phải áy náy cho mình. Với anh, chỉ cần cô vui vẻ là đủ. Chỉ Hải nhận ra mối tình si ấy và đấy cũng là một lý do khiến anh không ưa anh chàng cục súc và nhiều khi vô cùng lỗ mãng này. Bình không phải là một mẫu người đáng yêu cho bất cứ cô gái nào. Nhưng để bù lại phần chưa hoàn thiện ấy, anh lại là một con người vô cùng trung thực và cao thượng. Không bao giờ anh có thể hiểu nổi tại sao có những kẻ sẵn lòng làm bao điều độc ác đê hèn nhân danh tình yêu. Anh gằn giọng, cười khinh bỉ "Yêu ư? Vì yêu ư?". Cái giọng cười nức nở trong họng của anh vẫn ám ảnh Hải cho mãi đến những năm sau này, khi cánh rừng cháy rụi vì bom napan và khét lẹt mùi thịt cháy đã đi vào dĩ vãng. Thật may là hôm trận bom đổ xuống trạm, Bích đi vắng. Hải đã không biết bao lần thắp hương khấn tạ ông trung đoàn trưởng, người đã khăng khăng kỷ luật Bích bất chấp sự bênh vực của Bình và Hải, người chịu trách nhiệm chính ở trạm. Nếu hôm ấy cô không phải lên trung đoàn làm kiểm'điểm thì chắc gì đã còn sống sót và cái mầm sống nhỏ nhoi kia cũng sẽ mất cơ hội hưởng ánh sáng mặt trời. Cầu cho ông yên nghỉ, người trung đoàn trưởng vô cùng nguyên tắc nhưng cũng vô cùng dũng cảm và tài năng ấy. Hai năm sau mùa hè khốn khổ của Hải, ông đã hy sinh trong một trận đánh lớn ở Quảng Trị. Trong tất cả những việc ý nghĩa ông đã làm được trong đời, có bao giờ ông biết được một việc tưởng chừng như rất nhỏ nhưng lại xiết bao vĩ đại - nhờ có ông, một đứa trẻ đã thoát khỏi hàng trăm tấn bom đạn Mỹ. Phải có một sự thần kỳ can thiệp thì Hải mới có thể sống sót qua trận bom này, khắp người xây xát, phủ đầy bụi, bụi ở cả trong mồm, trong mũi, trong tai, điếc đặc nhưng không có một vết thương nào đáng kể, thậm chí là ở phần mềm. Loạng choạng chui lên từ đống đất cát lỏn nhỏn, giữa những đám lửa ngủn ngút cháy, Hải gào thét gọi tên mọi người. Anh chạy như điên từ đống đá này sang đống đá khác, bới tìm bằng mười đầu ngón tay, nước mắt lã chã tơi hòa lẫn với mồ hôi túa khắp mặt, khắp người. Im lặng ngự trị trong đầu anh, làm trí não tê liệt trong một nỗi sợ hãi không gọi được tên. Không còn gì. Không còn ai. Trong cơn tuyệt vọng, Hải đập đầu vào tảng đá ven suối, không hiểu sao, cũng may mắn như anh, nó chưa bị xé nát thành những mẩu vụn. Qua dòng máu túa đỏ giàn giụa trên mặt, Hải nhận thấy một bàn tay quờ quạng chui lên từ mặt đất, ngay dưới chân anh. Sáng hôm sau, khi Bích trở'lại, ở chỗ trước kia là trạm quân y tuyến giữa Suối Cam, cô thấy hai người đàn ông đang nằm bất tỉnh bên nhau, giữa đống hoang tàn vẫn đang lên khói nghi ngút. Một tháng sau, cô cùng Bình được lệnh ra Bắc. Hải ở lại chiến trường. Rất nhiều người lính mãi sau này vẫn nhớ tới một bác sĩ Hải lận tâm và nhiệt tình, người đã cướp lại mạng sống của họ từ tay bom đạn, sốt rét bằng một ý chí ngoan cường và một bàn tay vàng. Tiếc là anh không thích những cô em gái của họ, vì có biết bao người muốn gả em gái cho vị ân nhân cứu mạng này! Phải tới hơn chục năm sau, sự ngây thơ trong sáng và dịu dàng của Trang mới xoa dịu trong anh nỗi day dứt về cái mùa hè ấy. Nhưng anh vẫn chưa bao giờ lấy lại được sự thanh thản. Nó đã nằm lại cùng Vinh trong cây và đất Trường Sơn. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trang bàng hoàng nhìn ra ngoài xa, trên rặng tre, rạng đông đã đến tự lúc nào trong dải áo lụa hồng và đánh thức lũ gà trống trong xóm dậy khoe giọng râm ran. Làng quê thanh bình và hạnh phúc đến nỗi Trang ngờ rằng câu chuyện vừa rồi chỉ là lời thì thầm của thán mộng. Lẽ nào những con người bình dị này đã phải trải qua những giây phút kinh khủng đến vậy. Lẽ nào anh đã phải sống trong ăn năn bao nhiêu năm qua. Tại sao chị lại không nhận ra, hay chị yêu anh chưa đủ? Cuộc tìm kiếm sự tha thứ của anh bao giờ mới chấm dứt đây, anh đã làm tất cả để chuộc lỗi, đến bao giờ họ mới tha thứ cho anh? Hàng loạt những câu hỏi dồn dập hiện đến, Trang vặn vẹo đôi tay trong tuyệt vọng. Bất chợt chị quay ngoắt đầu lại, nhìn vào trong nhà như tìm kiếm câu trả lời. Trong ánh sáng mờ nhạt của buổi bình minh, Bình và Bích đã đến bên họ tự bao giờ, Bình đang giơ bàn lay sần sùi đặt lên vai Hải. Trang thấy mình mê đi trong niềm hạnh phúc được tái sinh, khi những con người bình thường mà cao thượng ấy bước ra khu vườn đã tắm mình trong một buổi sớm tinh mơ đẹp nhất trần gian.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Thách đấu[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bảo Ninh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vài ba năm một lần, chọn tiết cuối thu, chẳng nhân dịp gì, chẳng vì một cái chuyện gì cả, tôi lên đường về thăm làng Mơ. Vì sao lại phải cuối thu tự tôi cũng không biết nữa, nhưng mà cứ thế thôi, thường là ngay sau ngày đầu tiên gió heo may. Xưa đạp xe, giờ thì xe máy nhằm hướng mặt trời sẽ lặn. Qua Nhổn, qua Phùng, qua núi Sài Sơn, qua đồng Bưng Cấn, rồi ngược xa lên nữa phía Ba Vì. Đã ba chục năm hơn rồi còn gì, và dù mỗi năm mỗi chút đổi khác nhưng mà nhìn chung thì vẫn vậy, đất trời vẫn thế, con đường, dòng sông, đồng ruộng. Loáng thoáng những mới mẻ nào đó ở phố huyện song chẳng bao lăm. Trường cấp ba mái ngói đã thay cho mái gianh, nhưng cảnh trường vẫn đơn sơ như thế. Những hàng xoan mà chính tay chúng tôi đã đốn xuống để lát nóc hầm nay lại thấy mọc bao quanh sân. Xế cổng trường vẫn là đầm sen thuở nọ. Đường liên huyện vòng qua bên kia đầm gặp ngã ba Đồng Rạng với lối nhỏ rẽ phải mà tất nhiên là cũng không có gì thay đổi chạy về làng Mơ của tôi. Làng Mơ trên đồi Giàng. Gần trăm bậc tam cấp xẻ vào vách đồi đá ong dẫn lối lên đình. Dưới chân đồi phía bên cổng đình trông xuống là đồng bằng trải rộng. Vào những buổi chiều tà, nhất là những buổi chiều thu, sương mù dâng cuồn cuộn dẫu làm lu mất tầm nhìn nhưng lại khiến cho đồng bằng dường như càng rộng ra hơn, và sau sương, những làng Ạch, làng Chàng, làng Ngọt bọc kín trong các lũy tre hiện lên mờ mờ nom như những chiếc thuyền buồm cổ xưa đang từ từ trôi trên biển chiều. Ở đây, khi ráng chiều còn chưa lụi hẳn sau Ba Vì, đằng đông, phía trời Hà Nội bởi quầng sáng đèn điện mà dường đã bình minh. Từ đây về Hà Nội đường cái quan thì xa nhưng đường chim bay thì gần. Bom nổ trong lòng thành phố, sóng nổ tức thì thúc dội về làm rùng mình mặt đất dưới chân tôi. Bao nhiêu bom nổ bấy nhiêu cột khói, hồi ấy từ trên làng Mơ đồi Giàng này tôi nghe thấy và đếm thấy rõ mồn một. Gia đình tôi hồi ấy chia hai ngả. Chị gái và em trai theo mẹ sơ tán lên Thái Nguyên, còn tôi theo cơ quan cha về làng Mơ. Ở nơi sơ tán chẳng bao lâu thì cha tôi được điều sang Đông Âu làm việc, thành ra nguyên ngôi nhà gạch ba gian địa phương bố trí cho riêng ông thuộc cả về tôi. Cha mẹ thuận tình để tôi được một mình ở lại làng Mơ. Đã năm cuối cấp, tôi không muốn phải chuyển trường, với lại mười tám tuổi đầu rồi thừa sức lo thân. Mà thật ra nào có phải lo gì. Mức sống con nhà cán bộ "bìa A Tôn Đản" dẫu chẳng ê hề thừa mứa nhưng dư đủ để cho tôi ngày ngày ngoài sự học hành chỉ phải gánh thêm mỗi một việc là rong chơi. Êm ấm và sáng tươi biết là nhường nào quãng đời ấy. Không chịu thiếu thốn, không một chút vất vả nhọc nhằn, hoàn toàn vô tư lự, tôi dễ dàng ưa thích đời sống nông thôn. Cảnh vật miền quê được ghép vào tâm trí tôi y như được trang trí trong những truyện ngắn thời ấy viết về đề tài nông nghiệp. Đồng lúa, lũy tre, dòng kênh, bãi dâu, dế mèn, bươm bướm, tiếng sáo diều, tiếng gà gáy, tiếng kẻng hợp tác, tổ chim sẻ, hang chuột đồng, khoai luộc, ngô nướng, ngó sen... Lao động, hát ca, không một giọt mồ hôi nước mắt. Thậm chí chiến tranh cũng mang gương mặt tươi vui giúp làm rộn rã thêm lên những tháng ngày bình yên của tôi hồi đó. Hồi đó cứ vài ba hôm lại được thấy một trận không chiến trên lưng trời, rồi cứ vài ba hôm lại một tên Mỹ vọt khỏi máy bay đeo dù sa xuống sông, xuống ruộng. Dân quân thúc kẻng gọi cả làng đi bắt giặc lái. Tiếng hò reo vang dậy. Mặc dù tiếng gầm hú của các loại ma Mỹ nhiều lúc nghe dựng cả tóc gáy, nhưng tôi chẳng đời nào chịu hèn nhát chui hầm, luôn luôn tôi liều lĩnh chạy lên đỉnh đồi Giàng để thỏa thích xem cho tường tận hết tầm mắt toàn cảnh những cuộc giao tranh hùng tráng trên trời xanh giữa máy bay và máy bay, giữa máy bay và cao xạ. Hồi ấy giá mà học hành kha khá hơn một chút thì tôi đã thật sự là thoải mái mọi nhẽ. Nhưng cũng y tình trạng của tất cả những năm học trước đó, suốt năm lớp Mười tôi đội sổ hầu hết các môn. Đại số, hình học, lượng giác, văn, sử, tiếng Nga, vật lý... tất tật, không tài nào tôi kham nổi, tôi không hiểu cái gì hết. Tự mình mà phát nản mình. Có điều là tôi chẳng bận lòng. Bằng vào vị thế gia đình mình thì gì chứ cái sự vào được đại học, nếu thiết tha, đối với tôi chẳng quá khó. Nhưng tôi cũng chẳng thiết. Đang được tự do một mình một cõi, cứ ung dung mà hưởng chứ tội gì phải âu lo nghĩ ngợi mệt đầu. Vả lại, dẫu học hành bết bát tôi vẫn cứ là trai Hà Thành độc đắc trong lớp. Không thơm cũng thể hoa nhài, ngoại trừ điểm số các bài kiểm tra còn thì tất cả các phương diện khác tôi ăn đứt mọi người. Mặc kệ học lực thế nào, tôi tin chắc trong mắt mọi người tôi chẳng hề là cái thứ lẹt đẹt, trái lại. Đám học trò chốn quê lẽ tất nhiên không thể nào lại không phục tôi, không thể nào lại không mến chuộng con người tôi. Chẳng hạn như là bọn con gái. Chẳng hạn như là Duyên. Phải nói là vừa thoạt gặp, Duyên đã cảm tôi. Mới sơ tán về, nhập học vài hôm, tôi đã gần như là giằng được Duyên ra khỏi những bạn học đã nhiều năm rồi của cô. Cứ vậy nghiễm nhiên chẳng cần phải có cử chỉ gì, kể cả sự tử tế làm quen, tôi đã nhanh chóng chiếm lĩnh tình thân mến của cô gái xinh nhất trường, xinh nhất cả trong vòng vài mươi dặm quanh đây nữa. Bây giờ điểm lại quả tình tôi cũng không thể nhớ hết được những nét hấp dẫn của mình hồi đó. Nhưng tôi nhớ tất cả những chiều chuộng Duyên đã dành cho tôi. Khác với thời nay, học trò hồi đó, nhất là ở quê, rất ngại và rất tránh cái chuyện bạn bè trai gái chỉ hai đứa, vậy mà Duyên đã dễ dàng chịu cho tôi tự nhiên như không ra mặt sóng đôi với mình. Tôi thì tất nhiên chẳng xá gì ai. Ngay ngày đầu vào lớp là chọn ngay chỗ ngồi cạnh Duyên. Dọc đường đi học, tan trường cũng vậy, luôn luôn tôi và Duyên. Trong lớp, ngồi sánh vai, tôi thoải mái quay cóp bài kiểm tra của Duyên. Bài tập về nhà, Duyên cũng cáng gần như tất cả cho tôi. Khi ốm phải nghỉ hoặc khi trốn học, tôi cậy Duyên ghi chép bài vở. Những hôm lao động, phải việc nặng là tôi ngầm nhờ Duyên. Đời tôi, trước đấy cũng như về sau này, không hề có được một người bạn nào thân thiết và tận tình cho bằng Duyên hồi ấy. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hồi ấy ở làng Mơ, nếu không kể tôi là dân Hà Nội sơ tán về thì chỉ được mỗi Duyên học nổi lên cấp Ba. Ở đây hồi ấy lên được cấp Ba là cả một sự không vừa bởi lẽ làng Mơ vốn không phải đất học. Trong làng, con trai con gái gia cảnh dù thuận lợi thế nào cố lắm cũng chỉ nổi cái bằng lớp Bảy là tốt rồi. Vậy mà Duyên thậm chí về sau đã vào đến đại học, thậm chí sang học hành đỗ đạt tận bên Đông Đức. Có thể nói rằng ở Duyên mọi sự đều không như là lẽ ra cô phải như thế. Có thể ngày nay đã khác rồi chứ còn thời đó tại miền quê tôi sơ tán, vẻ đẹp thiên nhiên không nuôi dưỡng vẻ đẹp của con người. Vất vả lam lũ, thiếu ăn đứt bữa từ nhỏ, từ nhỏ đã phải quần quật làm lụng, quanh năm suốt tháng đầu tắt mặt tối, tóc cháy da sém, các cô gái trong vùng hầu hết kém nhan sắc. Một mái tóc mượt mà, một gương mặt ưa nhìn, một nước da sáng đều là lạ lùng. Đến như Duyên thì đã thành ra là một sự quá đáng, một điều trớ trêu. Còn hơn cả trớ trêu nữa, bởi nỗi xinh xắn như thế mà cô lại là con gái bếp Vệ, một con cóc già gớm guốc, xấu xí thô lậu không ai bì nổi. Chẳng những vậy, ông bố của Duyên còn là phần tử xỏ nhầm giày đi lính cho Tây thời tạm chiếm. Cải tạo trở về lão ta vẫn tiếp tục làm cho lý lịch của con gái thêm nặng căn bởi cái tội nhất quyết không chịu vào hợp tác. Trong khắp cả hai xóm của làng Mơ hồi ấy chỉ duy nhất hai bố con bếp Vệ là hộ cá thể. Nhà, lão cũng cất riêng ra một xó. Hồi ấy hai xóm làng Mơ đều ở cả về phía đông đồi, độc có mỗi mình nhà của bố con bếp Vệ, chẳng thuộc xóm nào, nằm lẻ loi bên mạn tây lưng đồi. Nhà ba gian, sơ sài, mái tranh vách đất. Quanh nhà không rào giậu cũng chẳng vườn tược gì, chỉ hai cây cau cạnh giếng, một cây ổi ở đầu hồi. Nhà cửa nom tuyềnh toàng như vậy nhưng bếp Vệ là kẻ kiếm được, có của ăn của để. Ngôi nhà của lão bề ngoài có vẻ như là bị xa lánh, thực ra rất được thiên hạ ái mộ, bởi vì đây là quán cuốc lủi độc nhất của cả vùng. Cuốc lủi, song bếp Vệ nấu lậu công nhiên. Muốn uống chơi một cút hay muốn cho say nhè một giỗ cả chục mâm cứ dò đến lò bếp Vệ. Thường thì người ta xách chai đến mua về, nhưng cũng có thể tùy hứng lần đến ngồi nhâm nhi trốn đời suốt ngày ở gian giữa túp nhà tranh. Chỉ có điều tuyệt đối không được gây ồn làm ảnh hưởng đến cô con gái của chủ quán đang miệt mài đèn sách ở gian trong. Cái sự lão Vệ cấm cung con gái là một trong những đầu đề để đàm tiếu của dân làng. Từ ngày lên thấu tới cấp Ba, Duyên được bố tha hết việc nhà, không phải làm lụng gì hết, chỉ học. Học chí chết, học tối ngày. Hồi ấy bởi vì chốn quê chưa được lốm đốm ánh điện như bây giờ nên ngọn đèn dầu ở bàn học của con gái rượu bếp Vệ nơi góc tây đồi Giàng luôn luôn một mình một chấm sáng vò võ rọi rất sâu vào canh khuya, thiên hạ có thể nom thấy được từ rất xa, ngay cả trong những đêm dài trời mưa. Tội nghiệp cô gái. Chăm chỉ cỡ cô ta quá thể là đáng thương. Dân làng kháo rằng bếp Vệ bắt con gái còng lưng học, học đến không ngóc đầu lên được như thế là cốt để sau này có thể thay mặt lão ngóc đầu lên. Đến nỗi những sinh hoạt ngoại khóa của trường của lớp, trừ phi không thể không tham gia, còn thì Duyên đều bị bố bắt phải bỏ. Bạn bè cả trai lẫn gái ở lớp đều bị ông bố của cô làm cho không dám bén mảng đến tìm cô ở nhà. Chỉ duy có tôi là lão không làm dữ, và chỉ khi bạn bè với tôi thì Duyên mới phần nào được nới lỏng lồng cũi. Không hiểu vì sao mà được như thế tôi cũng chả cần biết. Sáng sớm tôi vòng qua bên kia đồi đón Duyên cùng đến lớp. Buổi trưa đưa cô về. Bếp Vệ thế nào cũng phải nhất thiết rước tôi vào nhà, tử tế mời mọc cho bằng được tôi nếm chơi một món nhắm nào đó lão vừa nấu. Với toàn thể thiên hạ lão đều mày tao, với tôi, lão gọi cậu. Bẩm cậu. Lão còn thân tình, rất đỗi tin cậy chịu cho tôi chiều chiều đón Duyên qua "nhà riêng" của tôi để học nhóm. Dĩ nhiên vẫn chủ yếu là Duyên phải học. Tôi thì chẳng cố, có cố cũng chẳng vào. Nhưng mà tôi rất thích được ngồi ôn bài vở với Duyên, hai đứa bên nhau trong căn nhà vắng. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Dạo đầu, mới sơ tán về, buổi sáng đi học, tôi cùng Duyên theo lối tắt qua đồng Rạng, ngang cổng làng Ngọt gặp Hưởng, ba đứa cùng nhau đến lớp. Sang học kỳ hai lớp Mười, được cha gửi từ bên Tây về cho một chiếc xe đạp Mifa cực điệu, ngất ngưởng tôi diện lên chạy sáng choé con đường quê. Tôi có xe, Hưởng từ đấy một mình đi con đường nhỏ qua đồng lúa. Tôi thì lai Duyên theo đường huyện, vòng vèo, xa hơn, những ngày mưa không đoạn nào bị lầy lội, ngày nắng được bóng cây che. Chỉ có hai đứa với nhau thôi cực kỳ dễ chịu mà lại luôn luôn là chúng tôi đến lớp trước Hưởng. Hưởng "gà nòi". Hưởng "thiên tài nhà quê". Cả hai biệt danh ấy đều là tôi đầu têu gán cho niềm tự hào của lớp. Không chỉ của lớp, Hưởng còn là của toàn trường, của cả huyện nữa. Đỗ đầu thi toán giỏi trong tỉnh, Hưởng lên thi ở cấp toàn miền Bắc và cũng đoạt giải, nhì hay ba gì đó. Song tay trạng nguyên này là đứa tôi ghét đặc. Giỏi thì làm cái gì chứ. Giỏi nhất lớp nhưng cũng khó coi nhất lớp. Thấp bé đen đúa, còm nhom. Quanh năm tứ thời chân đất, quần áo có lẽ chỉ độc một bộ, vá chằng. Đến lớp mà như đi cày. Mà cũng đúng thế, Hưởng chính cống một anh thợ cày, tan trường là xuống ruộng, con trâu đi trước cái cày theo sau. Là bí thư chi đoàn nhưng rất kém đường nói năng, lời lẽ đã vụng về lại nặng trịch cái giọng làng Ngọt không giống ai. Tuy nhiên, sau này ngẫm lại, tôi phải tự thừa nhận rằng thái độ của mình hồi ấy coi thường Hưởng chẳng qua là vì tức tối, mình dốt hắn giỏi. Nói gì đi nữa, những điểm năm của Hưởng vẫn đã khiến tôi rát mặt. Không hiểu bằng cái tài thánh nào, thời gian đâu ra mà giữa chồng chất bao nhiêu công việc đồng áng phải cáng, hắn vẫn hết sức chỉn chu bài vở, trăm thứ bà giằn kiểm tra với thi cử hắn vẫn luôn điểm cao nhất lớp. Khi còn bộ ba trên đường đi học với nhau tôi đã bực mình không chịu được cái lối của Hưởng chỉ cứ mãi hoài có mỗi chuyện học với chuyện điểm, ôn bài với truy bài. Chịu mãi rồi cũng có hôm không chịu được. "Đã bao giờ mày thấy cái ổ điện chưa mà cứ luôn mồm ôm với lại oát thế hả?", tôi nhạo. Và cục cằn làm hắn chưng hửng: “Mày giỏi kệ mày. Tao với Duyên cũng đã ôn bài cả chiều qua, làu làu rồi, thừa hiểu rồi, quái gì mà phải cần mày làm thầy". Thú thực là ngay buổi đầu tiên đi với Duyên đến trường, qua cổng làng Ngọt gặp Hưởng nhập vào đi cùng, tôi đã lập tức thấy khó chịu. Tôi thích là thích Duyên chứ nào thiết cái thứ mà cô ta gọi là "bộ ba chúng mình". Mà Hưởng cũng vậy, tôi nghĩ, tuy bằng mặt nhưng trong bụng ắt hẳn hắn không khoái gì tự dưng có thêm thằng tôi xen vào. Trước khi có tôi xen vào, trên đường đi học ngang qua cánh đồng này, chỉ có Duyên và Hưởng. Hai đứa đã đi cùng nhau như thế từ ngày mới vào cấp Hai, đã hằng bao nhiêu năm rồi, đã thành cái lệ của hai đứa, phải nói là khăng khít. Tuy nhiên tôi nhanh chóng nhận thấy là thật ra cũng không phải khăng khít gì lắm. Đôi bạn quá trái nhau. Không chỉ ả cao anh thấp ả trắng nõn anh gầy gò đen xịt mà tính nết cũng cọc cạch. Duyên tâm tính vô tư, hồn nhiên, nhẹ nhõm. Cứ ra khỏi nhà, xa khỏi ánh mắt của ông thân sinh hung tợn là cô hơn hớn lên ngay, vui vẻ ríu rít nói cười đủ chuyện. Còn Hưởng thì cứ hễ sự trò chuyện mà lạc ra khỏi hai đề tài làm bài với làm ruộng là hết ý, là ngậm hột thị. Với tôi đã đành, với Duyên hắn cũng chỉ biết ấp úng với lại cười trừ. Khi vào trong lớp, tuy ít lời nhưng Hưởng không phải đứa lầm lỳ, cũng như mọi đứa bạn khác thôi, nói năng chuyện trò, chơi đùa, cãi lộn. Song cứ ở bên Duyên là hắn tự dưng vừa như người lớn hẳn lên lại như nhãi ranh hẳn đi. Lời lẽ lúc rụt rè lúc cứng như gỗ, cử chỉ lụng vụng, lóng ngóng. Tôi thấy rõ là hắn sợ cô bạn của mình luôn luôn e mất lòng, chẳng bao giờ làm trái và nói trái ý cô. Có thể nói là trong nội bộ của bộ ba chúng tôi, cô nàng thì hết mực chiều tôi, còn anh chàng thì hết mực chiều cô nàng. Đến cái hôm được tôi thông báo rằng kể từ sáng mai đừng đợi nhau nữa, "mày cứ đường đồng này mà đi, tao lai Duyên nên phải đường cái đi vòng". Hưởng không nói gì cả. Dĩ nhiên là hắn không vui rồi, tôi biết nhưng bởi Duyên vui vẻ tán thành ý tôi tách hội ra như thế cho thuận đường, đỡ sức và đỡ thời gian, đúng hay không thì cũng như mọi khi cô muốn thế nào hắn phải chiều thế nấy. Vả lại có gì là trọng đại. Ban đầu trong lớp mọi người có bàn ra tán vào chút ít, chỉ trỏ, trêu chọc này nọ, nhưng cũng chỉ thế thôi, ai mà để ý mãi. Duyên thì rõ là rất thích đi học bằng xe đạp. Mất đi cái nếp quen thuộc ngày ngày có Hưởng trên đường tới trường đã không làm cho cô phải băn khoăn một tẹo nào. Tôi thì tất nhiên là cũng không hơi đâu mà áy náy. Dù không thể không tự thừa nhận rằng mình đã cố tình chơi trội Hưởng, nhưng còn quan hệ của hắn với Duyên, tôi tự thấy là mình đã chẳng hề ác ý chọc gậy bánh xe. Mà sự thực là thế. Không lẽ chỉ vì mấy cây số tôi đưa Duyên tạm tách ra mà hắn phải lấy làm điều để mà nặng nề với nhau, đúng không? Thế nhưng Hưởng lại đã lấy làm điều. Bề ngoài hắn vẫn vậy, nghiêm túc học hành, nhiệt tình công tác lớp công tác Đoàn, với bạn bè không ít lời hơn không nhiều lời hơn, không vui hơn buồn hơn. Nhưng tôi thừa biết là hắn buồn. Duyên và mọi người không để ý nên không thấy, còn tôi thì tôi để ý. Âm thầm hắn ức tôi, hắn giận Duyên. Không có biểu hiện nào để bảo rằng như thế cả, nhưng tôi tin chắc là như thế. Đôi khi cũng muốn có một cử chỉ nào đấy để làm lành song không biết nên cử chỉ thế nào cho phải, với lại tôi nghĩ mình có làm cái gì đâu mà phải làm lành. Tôi thấy Hưởng không quân tử. Tôi nghĩ thằng này vặt tính. Đã vậy, tùy thôi, với tôi những lấn bấn cỡ thế này chỉ cái phẩy tay. Mùa xuân năm ấy lạnh lẽo và mưa phùn lê thê như thể tiết thu mưa dầm. Trên các ngả đường tới trường ngang qua những cánh đồng khúc thì trơn như đổ mỡ khúc đen xì bùn lầy. Trước giờ vào lớp, thầy cô, bạn bè hầu như ai cũng bị ngấm mưa và ngấm lạnh ướt át, thâm tái, nhiều người túi dết với quần áo lấm lem vì trượt ngã. Nhưng mà mùa hè năm ấy lại như về sớm hơn lệ thường. Tháng Tư, đã gió nồm lộng thổi. Nắng vàng ruộm, trời trong xanh. Buổi sáng đến trường, tôi đạp xe lai Duyên, trưa về Duyên chở tôi. Buổi chiều đều đặn học nhóm hai đứa ở nhà tôi. Cửa sổ rộng mở trông xuống dốc đồi và trông ra mênh mông đồng bằng bát ngát. Tiết trời tuyệt diệu và niềm vui lâng lâng cứ đủng đỉnh cùng tôi thong dong ngày qua ngày, từ lúc rạng mai cho tới tận khi mặt trời lặn hẳn. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nhưng rồi một buổi chiều như là bỗng dưng sực nhớ ra, Duyên bảo: "Ôn tập nước rút thế này thì phải học nhóm với Hưởng chứ, không thì chết, không vững kiến thức mà thi đâu”. Đến hôm đấy chúng tôi đã học được gần chót chương trình, chỉ còn phải tới trường nốt một tuần nữa là sẽ nghỉ để ôn thi. "Thôi, từ chiều mai đừng học ở đây nữa, chúng mình đi xe đạp xuống dưới Ngọt học ở nhà Hưởng nhé", cứ như không, Duyên bảo với tôi thế, dễ dãi, nhẹ nhõm. "Chúng mình phải chịu khó xuống đấy với Hưởng, chứ còn rủ nó lên đây học cùng, chẳng may bố mà biết thì chết". Hồi ấy không có thi tuyển vào đại học, chỉ có kỳ thi tốt nghiệp phổ thông, và các đề thi hàng năm cũng không dữ dằn ghê khiếp vượt quá sức người như thời nay. Dù vậy thân phận học trò thì vẫn cứ thấy sợ khi kỳ thi tới gần, ngay cả đến thằng tôi cũng biết nhờn, cũng tự nhủ sẽ dốc sức ra ôn luyện. Mà với Duyên vấn đề không chỉ là thi đỗ, cô còn quyết đỗ cao, điểm ưu cả bốn môn, bởi như thế thì mới hy vọng át đi được phần nào cái lý lịch tối sầm. Cho nên lúc bình thường có thể không cần đến Hưởng lắm, nhưng đã tới giai đoạn nước rút, rà duyệt và củng cố lại kiến thức một lần chót, Hưởng trở nên cần thiết hơn bao giờ. Có Hưởng ôn tập cùng, có Hưởng kề bên giúp đỡ, sẽ vững tâm được, sẽ chắc ăn hơn. Tôi hiểu suy nghĩ của Duyên. Nhưng tôi thấy bực mình. "Đây đếch cần sát cánh với cái thằng chuyên đời học gạo ấy?", tức tối tôi gạt phắt đề nghị của Duyên. "Đấy muốn dựa dẫm nó, nhờ vả nó thì đấy cứ việc, nhưng cuốc bộ mà đến nhà nó nhá, chứ chẳng ai xe cộ đâu mà hầu, đừng có hòng!". Phút chốc, một lời như vậy, chúng tôi từ nhau. Trong tuần lễ cuối cùng ấy của niên khóa, Duyên lại lối cũ đi ngang đồng rộng, qua làng Ngọt gặp Hưởng, cùng nhau tới lớp. Tôi một mình sáng đi trưa về đạp xe. Buổi chiều, Duyên chịu khó cất công đi xa xuống dưới làng Ngọt để học nhóm với Hưởng. Được vài hôm thì bếp Vệ nhận ra sự việc. Lão sang nhà tôi. Ở trần, đầm đìa mồ hôi, nồng nặc hơi men. "Bẩm cậu. Vậy ra con Duyên nó không bên này với cậu?". Tôi nói chúng tôi đã tách nhóm, bây giờ Duyên chuyển xuống học nhóm dưới làng Ngọt. "Ra là cái con mất nết ấy nó dối bố nó! Học dưới Ngọt, tức thị là nó học với thằng con nhà Hào, có phải?". Bộ mặt thô sần đỏ bầm, lão vằn mắt lên, giọng rượu khàn đặc: "Thằng con nhà đó tôi đã mấy bận đe thẳng mặt rồi rằng khôn hồn chớ có mà tơ tưởng con Duyên nhà tao. Không có là tao thiến! Không có là tao chặt đầu, như là hồi nọ Tây nó chặt đầu thằng bố!". Lão nói là ngay bây giờ sẽ đi lùng hai đứa, trừng trị thằng đó và tắp lự lôi con đó về. Chẳng muốn can lão làm cái gì, mà không hiểu sao tự dưng tôi lại can: "Ông cứ kệ cho hai đứa nó học với nhau đến khi thi xong đã. Thằng Hưởng nó học giỏi lắm cho nên cái Duyên nó mới cần học cùng với thằng Hưởng". Đã phừng phừng hơi men và đang khùng lên cáu giận, lão già cựu ngụy quân vẫn lập tức nghe thấu được ra cái lẽ phải đầy khôn ngoan của tôi. Vậy là nhờ tôi, Duyên và Hưởng hai đứa đã may mắn thoát nạn. Rõ là tôi đã rất tử tế. Vậy mà... Càng nghĩ tôi càng uất. Càng cốt ra không thèm lưu ý gì đến hai đứa tôi càng thấy căm. Một mình lầm lũi, buồn giận không để đâu cho hết. Ngày lại ngày lòng nặng ghen tức, chẳng biết trút vào đâu, học không vào được. Nhưng rốt rồi cũng có được một cơ hội để tôi hả cơn. Hôm ấy, buổi học sau cùng trước khi nghỉ ôn thi, chi đoàn tổ chức đăng ký tình nguyện Ba sẵn sàng. Bí thư Hưởng thay mặt toàn chi đoàn thảo một quyết tâm thư chung gửi lên đoàn cấp trên. Nội dung bức quyết tâm thư mới thảo ấy được đọc lên để mọi người góp ý kiến bổ sung. Đại khái là quyết tâm sau khi tốt nghiệp sẽ sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, nhận bất cứ nhiệm vụ gì, dù khó khăn gian khổ thế nào cũng không quản ngại... "Nhưng tại sao lại phải nhấn mạnh: sau khi tốt nghiệp?", tôi lập tức lên tiếng khi Hưởng vừa đọc dứt. "Thì thế chứ sao... Gì thì cũng phải tốt nghiệp xong đã chứ?". "Thế mà dám gọi là sẵn sàng à?", tôi độp ngay. "Đã gọi là sẵn sàng tức là phải ngay bây giờ, ngay lúc này làm ngay!". Hưởng lúng túng: “Thì đúng thế... việc trước mắt, việc chúng mình phải làm ngay là thi cho tốt chứ còn gì?”. Tôi cười vào mặt hắn: "Thôi đi. Sẵn sàng là sẵn sàng chiến đấu chứ lại sẵn sàng thi! Mày nói khôn thế. Mày thừa biết là hiện nay đang đợt tuyển quân mà. Trong lớp này, chỉ mày với tao đã mười tám. Thế nên mày có dám làm như tao ngay sáng mai lên huyện đội nộp đơn tình nguyện không? Có dám không? Không thì im đi, đừng có mạnh mồm sẵn với lại chẳng sàng!”. Tôi hả hê nhìn bao quát cả lớp, nhìn thẳng mặt Duyên, và nhìn chằm chằm Hưởng. "Thế nào?". Ráo riết, tôi gặng. "Thế nào mày, Hưởng?". "Cũng được...", Hưởng đáp, bối rối, cực kỳ thiếu cả quyết. "Được thôi...". Đến giờ, đã bao năm qua rồi, tôi không sao còn nhớ được tỷ mỉ chữ nghĩa của lá đơn tình nguyện nhập ngũ mà tôi đã viết chiều hôm ấy, song chắc chắn là tôi đã viết ra toàn những dòng lửa cháy, những câu văn dài sục sôi tâm huyết. Có thể nói là từ lâu trước đó tôi đã xác định rồi, tôi đã tự biết rằng đằng nào mình cũng sẽ tình nguyện nhập ngũ, sẽ trở thành phi công tiêm kích, trở thành sĩ quan tên lửa trở thành thuyền trưởng tàu phóng lôi. Đã định bụng như thế, lại thêm lời thách đấu, tôi càng quyết lòng hơn bao giờ hết. Cha mẹ đều ở xa, tôi không ngần ngại mạo chữ để viết những lời như đinh đóng cột khẳng định sự đồng thuận của gia đình. Sáng hôm sau, y hẹn với Hưởng, tôi đạp xe lên huyện. Chẳng thấy mặt Hưởng đâu. Thằng hèn, tôi nghĩ, và càng thêm cả quyết, tôi mạnh mẽ bước vào trụ sở Huyện đội với lá đơn tình nguyện trên tay. Nào ngờ lời thách đấu của tôi hôm trước đã đến tai nhà trường và cơ quan cha tôi, họ nhanh chóng thông báo với ban tuyển quân để ngăn cản tôi. Thành ra chẳng những không chấp nhận đơn, cán bộ tuyển quân lại còn cạo tôi nữa. Ra trận đánh Mỹ không phải là cái chuyện để các cậu mang ra thách đố sĩ diện của nhau. Cậu tình nguyện nhưng phải gia đình đồng ý mới được. Đây là cậu mạo chữ ký bố mẹ. Còn cậu Hưởng cậu ấy con một, lại gia đình liệt sĩ nên càng phải được gia đình bằng lòng. Vậy mà bà mẹ cậu ấy vừa mới tới lúc sáng sớm đây này, khóc quá là khóc. Cho nên các cậu thôi ngay đi. Xạc tôi một trận, ông sĩ quan lại hạ giọng khuyên: "Gì chứ đánh Mỹ thì chả đi đâu mà vội, chả đi đâu mà sợ mất phần. Cứ chờ đợi, sẽ tới lượt. Trong khi chờ thì gắng mà học cho tốt với lại bạn bè với nhau cho tử tế”. Bị từ chối, nhưng tôi chẳng buồn gì chuyện đó. Thay cho chí anh hùng không được toại nguyện tôi đã có niềm đắc thắng lớn lao do đã hoàn toàn trên điểm Hưởng về phẩm giá. Đáng tiếc là cả lớp đã nghỉ học nên tôi chưa có ngay được cái hả hê giữa ba quân thiên hạ chỉ tay vạch mặt con người hắn, kẻ phải cậy đến nước mắt bà mẹ để rũ bỏ ý thức danh dự. Tôi thực sự nóng lòng lòng mong ngóng ngày thi, ngày hắn phải cùng tôi mặt đối mặt... Ngày ấy đã tới, cuối tháng Năm. Tôi xăm xăm đạp xe đến trường, hăng hái mạnh bạo có lẽ hơn hẳn tất cả các thí sinh khác. Song, tôi đã không có ngay được cơ hội thanh toán nợ nần danh dự. Phần vì theo chữ cái tên riêng chúng tôi không được bố trí vào cùng một lán, phần vì hai ngày bốn môn, căng thẳng, nhọc mệt, âu lo, chẳng ai còn tâm trí đâu nữa mà nghĩ lan ra nhưng chuyện bên ngoài bài thi. Dĩ nhiên, học hành như tôi thì thi cử quái gì. Hai ngày, cả bốn môn, đều cắn bút, đều gần như là để giấy trắng nộp bài. Nhưng thực tình tôi cóc cần. Buổi chiều, u uất, chán chường, mệt nhoài sau môn thi cuối cùng, vừa ra khỏi cổng trường, tôi trông thấy Duyên và Hưởng bên đầm sen. Duyên ngồi trên bờ. Hưởng đang từ dưới đầm lội lên, trên tay một ôm gần chục bông sen hồng. Vứt xe đạp bên vệ đường, tôi chạy cắt bờ ruộng, lao xộc tới chỗ hai đứa. Không nhìn Duyên, hùng hổ tôi túm ngực áo Hưởng: "Thế nào thằng thiên tài nhà quê? Mày gạo sống gạo chết bấy lâu chỉ để về sau được cày trên bàn giấy, thoát phận kéo cày dưới ruộng, đúng không? Vậy sao còn mạnh mồm tình nguyện với lại sẵn sàng? Mày hèn, mày trốn lủi không dám cùng tao lên huyện đội thì mặc cha mày, nhưng sao mày lại còn ton hót để cản đường tao?". - Không phải thế! - Duyên kêu lên, chạy tới giằng tay tôi - Hai người thách thức nhau ngay trước lớp chứ có phải thầm thì kín đáo gì đâu mà bảo là ton hót với cản đường cơ chứ? - Im mồm! - Tôi xô mạnh, đẩy Duyên ngã ngồi xuống. Bó sen đổ xuống, vung tóe ra. Hưởng nhào đến. Chỉ đợi có thế, tôi đấm móc hàm hắn. Hưởng nhà nghèo phải học chậm một năm, còn tôi bị lưu ban một lần hồi cấp hai, nên lớp Mười mà cả hai đều đã mười tám tuổi. Song, tôi khỏe hơn Hưởng là cái chắc. Tôi nện hắn ngã dụi, rồi nhảy tới, đè sáu chục ký lô lực lưỡng lên tấm thân nhỏ con gầy guộc của Hưởng, đấm tới tấp, không thương tiếc, nhằm giữa mặt. "Thằng bần tiện, thằng hèn, thằng công tử bột đáng khinh...", tôi nghe thấy thế, hình như Duyên đã gào lên như thế. Nhưng khi các bạn học và những người qua đường xúm tới gỡ chúng tôi ra, loạng choạng đứng dậy ôm cái mặt mình bị Hưởng đấm rách môi vỡ mũi nhìn quanh, thì tôi đã chẳng còn trông thấy Duyên đâu nữa. Tôi đây lại là thằng hèn ư? Có phải lời rủa xả của cô ta là nhằm vào tôi không? Thằng đáng khinh, thằng bần tiện? [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cả lớp chỉ mình tôi trượt vỏ chuối. Hưởng thì cố nhiên điểm thi đầu bảng khối Mười của cả tỉnh. Nhưng mà tôi đã tuyệt nhiên cạn sạch lòng ghen tỵ. Chẳng hiểu là do đâu. Như thể là cuộc ẩu đả bên bờ đầm sen đã nặn hết ra khỏi tôi những giọt độc của thứ tình cảm bần tiện ấy. Lẳng lặng tôi rời khỏi làng Mơ, chẳng chào ai. Gia đình bố trí để tôi lên khu sơ tán của mẹ, chờ kỳ thi năm sau... Kỳ thi năm sau may mắn trót lọt, mặc dù điểm số chỉ nhàng nhàng, tôi được sang Liên Xô du học. Tốt nghiệp về nước vừa vặn ngày Toàn thắng. Tôi dạy đại học vài năm rồi lại sang Nga học nghiên cứu sinh, làm luận án phó tiến sĩ. Rồi nữa, luận án tiến sĩ. Bây giờ thì cuộc đời tôi đã thật hoàn hảo, tuy nhiên theo một ngả có thể nói là hoàn toàn khác với chí lớn anh hùng thời trai trẻ học trò. Hồi ấy Duyên cũng đã đỗ kỳ thi tốt nghiệp phổ thông với điểm số chắc là rất cao. Song, cao đến mấy thì cũng thật khó hiểu cái sự người ta chấp thuận để cho cô ôm một cái gốc gác, một cái lý lịch tệ hại như vậy bước chân vào đại học. Lại còn là đại học nước ngoài. Sau bảy năm lưu học ở Đông Đức, Duyên về làm việc ở Hà Nội. Và thế nào mà cũng cùng dạy một trường với tôi, chỉ khác khoa. Gặp nhau cũng mừng, cũng chút bối rối, nhưng nói chung thì tôi không thấy trỗi lên một tình cảm đặc biệt gì. Đến khi nhận thiệp mời dự đám cưới của Duyên với một giáo sư ở cùng khoa với tôi, thì cũng như với mọi đám cưới bạn bè khác, tôi cũng chẳng mấy bận lòng. Thành ra, thật khó cắt nghĩa niềm lưu luyến của tôi với làng Mơ. Tuổi trẻ đã nguội đi từ lâu, lòng dạ uể oải, trái tim buồn ngủ, nhưng hình như vẫn có gì đó trong tôi chưa lụi hẳn. Vài năm một lần, cuối thu, tôi về làng. Có khi cũng chẳng vào thăm nhà ai. Chỉ leo trăm bậc tam cấp đồi Giàng, lên đình ngắm cảnh đồng bằng mờ trong sương thu. Nhưng bao giờ trước khi ra về tôi cũng vào thăm nghĩa trang liệt sĩ của xã ở bên mạn đông đồi Giàng. Gần hết các bạn trai cùng lớp Mười với tôi hồi ấy yên nghỉ tại nghĩa trang này. Hầu hết hy sinh ở mặt trận phương Nam. Nghe nói nhiều người chỉ là tên tuổi trên bia mộ thế thôi chứ hài cốt chưa được tìm thấy hoặc là gia đình chưa có điều kiện vào Nam đón về. Mộ của Hưởng là như vậy, chỉ tên trên bia mộ, hài cốt chưa tìm thấy. Tôi không hỏi, mà cũng không biết hỏi ai xem nguyên do thế nào mà hồi ấy sau khi học xong lớp Mười, Hưởng vẫn đã vào bộ đội. Tất nhiên không phải là tôi hoàn toàn không hiểu. Vào những năm tháng anh hùng ấy chúng ta ai cũng chí lớn như ai, nhưng rồi ra mỗi người lại bước đi trên những ngả đường tuyệt đối khác xa nhau. Cái đó người ta vẫn gọi là số phận, là định mệnh. Đời tôi chẳng hạn, chỉ chút nữa thôi đã hướng khác rồi. Có thể là tôi đã vào bộ đội, đã lâm trận, trực tiếp chiến đấu ở hàng đầu. Đáng lẽ tôi đã là một con người nào đó, vậy mà tôi lại là tôi như bây giờ đây. Sự đời là thế, không có gì là khó hiểu, dù vậy, thú thực tôi vẫn không hoàn toàn hiểu nổi vì sao lại thế.[/FONT]