Truyện Ngắn và Thơ!

Thảo luận trong 'Cà Phê - Trà Đá' bắt đầu bởi Phúc Thịnh, 19/4/12.

  1. No MercY

    No MercY Thần Tài Perennial member

    khi ta ở...chỉ là nơi đất ở
    khi ta đi...chủ nợ khóc quá trời

    ...hé...hé...hé...dzui nghen Anh

    :cheer2::140::cheer2:
    thư dãn...thư dãn....than dữ :137:
     
  2. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/9/12
  3. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    Cỏ dại
    Anh Nga
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial]Có một dạo cả khu phố xôn xao vì thằng Kì điên. Kì có một dáng người rất thể thao mà bất cứ quí ông bụng bia nào cũng thèm muốn. Một khuôn mặt nam tính nhờ ánh mắt đăm đăm nhìn về phía trước. Một bộ râu Nguyễn Cao Kì có thể thách thức sự khéo léo của các nhà tạo râu mốt nhất hiện nay. Mái tóc Kì điên dài, đen nhánh, thẳng đuột, chạm eo một tuần một lần gội bằng sansilk bồ kết.

    Kì điên có một đôi chân dài, bắp đùi săn chắc, bước đi thẳng đều. Loại quần áo duy nhất Kì điên mặc khi rét cũng như khi lạnh đó là áo phông đen, quần soóc trắng. Kì khoác chéo chiếc túi vào, từ xa, có người nhầm Kì với một anh sinh viên mĩ thuật hầm hố. Kì bước những bước chân sải dài cứ như kiểu nhằm thẳng quân thù mà bắn. Thoắt cái thấy Kì điên ở Ngã Tư Sở, độp cái đã lại nhìn thấy bóng soóc trắng mạnh mẽ trên vỉa hè phố Huế, kia lại thấy bộ râu Cao Kì ở khu phố cổ. Nhưng thể nào đi chăng nữa thì Kì vẫn về đến nhà, ít khi nào thấy Kì ngủ lang chạ hay vật vờ đâu đó. Nhiều người phải công nhận Kì - nếu không điên thì có thể được coi là chàng trai đẹp. Khối cô khối bà đã nhìn Kì với ánh mắt khác lạ. Nó như vuốt ve bước chân Kì, thầm mơ mộng, chạnh lòng so sánh, thầm tiếc rẻ, tặc lưỡi, thầm rủa mình, tiếc, rồi lại thở dài tự nhủ mà rằng: nó là thằng điên!

    Kì điên không câm không điếc nhưng cả ngày chẳng nói một câu. Sống với mẹ và vợ chồng người anh, thỉnh thoảng khi không đi lang thang quanh các phố, Kì vào vườn nhổ hết những loại cây dại nho nhỏ, tìm những bộ rễ cây đập hết đất rồi cho vào mồm nhai một cách ngon lành. Cây nào có rễ to, Kì dùng đũa cả, ngồi tỉ mẩn đào từng tí đất xung quanh gốc cây, có khi bới bằng tay, ngày ngày tháng tháng. Cứ thế cho đến khi đống đất quanh gốc cây trốc ra, Kì lấy đũa cả làm cưa, hùng hục một cách say mê. Vừa cưa, đầu Kì vừa lắc lư. Thằng Tí con của anh cả quả quyết rằng, Kì điên đang hát bài: "Cái đầu ông sư lắc lư...", rồi như tỏ ra hiểu biết quá rõ về ông chú điên, thằng Tí hát, ăn khớp nhịp nhàng với cái đầu Kì đang chao đảo. Bệnh điên của Kì không nguy hiểm, không đập phá, không ảnh hưởng tới ai, không giống thằng Sơn đầu bạc điên tình, chuyên đi rình ôm đàn bà béo tốt xinh đẹp. Thỉnh thoảng, chị dâu lầm bầm: Điên, hay thằng Tí lè lưỡi: chú Kì hâm nặng, Kì chả nói hay phản ứng gì, nhưng mỗi lần nghe tiếng thở dài của mẹ, Kì lại ngây người, buồn bã.

    Đêm. Kì ít ngủ. Nhẩn nha như một cái bóng chập chờn. Chị dâu ái ngại mỗi khi thấy Kì nhìn vào buồng ngủ, anh trai Kì bảo: "Ôi dào, trước đây, bố và nó vẫn ngủ chung ở buồng này, bây giờ, bố chết, nó nhớ ấy mà". Chị dâu nguýt, "phải đề phòng, nhỡ chú Kì lên cơn". Anh trai Kì cười, nụ cười méo mó "nó điên, biết gì đâu..."

    Anh trai Kì hơn Kì 6 tuổi, người ốm nhom, trông lụ khụ. Đợt đi nghĩa vụ, anh Kì đủ tiêu chuẩn thể lực nhập ngũ nhưng vì bố Kì là thương binh nặng, lại sắp mất, mẹ già, em trai điên nên được miễn. Bố Kì mất để lại cho Kì một sổ tiết kiệm nho nhỏ. Chỉ có mẹ và Kì mới lấy được tiền lãi, Kì thì điên, mẹ thì già, việc lấy lãi hàng tháng đều do chị dâu Kì lĩnh và chi tiêu. Chị dâu tốt nhưng khổ nên hơi cáu bẳn.

    Kì không bẩn thỉu, kể cả những lúc lên cơn ăn rễ cây xong Kì cũng tắm rửa sạch sẽ, mặc bộ quần áo hai màu đen trắng, chải lại mái tóc dài óng mượt. Đôi khi Kì tự vuốt ve tóc như một người đàn ông đắm đuối mê mẩn vuốt mái tóc của người yêu. Đôi chân dài chắc khoẻ lại muốn đi, và Kì bước, những bước chân dài, dứt khoát. Có lần, Kì vào công viên khi trời nhập nhoạng. Bóng cây ánh đèn chập chờn thấp thỏm. Mặt hồ đen sẫm loang loáng ánh trăng lưỡi liềm. Gió mơn man làm mái tóc Kì bay bay. Công viên ban tối không có những đứa trẻ như thằng Tí. Mấy lần, những người đàn bà trông xinh hơn chị dâu cứ đụng chạm vào người Kì. Mắt họ ướt, môi đỏ, lả lơi, nhưng Kì cứ điềm nhiên như không, vẫn sải những bước dài vững vàng. Tới cây xà cừ gốc to nhất ở công viên, Kì ngưng bước, ngắm nghía, con mắt ánh lên vẻ thích thú tột độ. Chợt ánh mắt Kì chạm vào một hình khối lụp xụp dưới gốc cây. Thấy lạ Kì ngồi trên ghế đá đối diện ngắm nhìn. Lần đầu tiên trong đời Kì thấy người đàn ông và đàn bà làm tình. Tự dưng Kì thấy tội nghiệp cái gốc cây, Kì lên cơn khùng, xộc đến, giằng hai người ra một cách thô bạo. Mặc cho bọn người hoảng sợ nháo nhào, Kì bới tay quanh gốc cây, đào đào bới bới tuyệt vọng, rồi đi. Khi rửa tay bằng nước hồ, Kì còn ấm ức quay lại nhìn cây xà cừ như đe doạ sẽ chiến đấu với một kẻ vô hình. Từ đó, người ta cảnh giác không cho Kì vào công viên nữa vì sợ gây mất trật tự an ninh hoặc hành hung người khác, dù Kì chưa đánh ai cả .

    Có một người đàn bà rất quan tâm đến Kì điên. Người đó không thu hút đàn ông bằng vẻ đẹp lồ lộ mà luôn có vẻ che giấu ngấm ngầm một ngọn lửa rừng rực bên trong. Chồng làm sếp, đi Tây, cặp bồ, liên miên, tiền nhiều, tiêu cũng liên miên. Thôi thì tình yêu bây giờ đào đâu ra, biết chất nhau rồi, may mà bà cũng đẹp, để cho ông sếp có danh có vợ. Ôi dào tình nghĩa thôi, việc ai người đó làm, chồng không chạm vợ, vợ không chạm chồng, thế là đủ. Thú vui trên đời này tìm không thiếu, bỏ ra một tí đô có thể tìm thấy nguồn vui dễ dàng. Chẳng hạn như ông chồng thích trò từ thiện, khi đến thăm trẻ lang thang học nhân đạo bên Đông Anh, nhìn chúng nhận vở, nhận bánh nhận kẹo, những nụ cười, ánh mắt khao khát được bóc gói quà xem từng bìa vở... nhìn nhận ông với một tấm lòng thành kính và tin tưởng. Chúng có biết đâu ông cũng đang nghĩ chả mất bao nhiêu lại được cái tiếng nhân đức, để ghi công xoá nợ lương tâm sau này. Nhìn mấy đứa bệnh đao, tâm thần nhớt dãi hỏi những câu ngớ ngẩn, ông cười tươi, ân cần hồ hởi, gật gù ra chiều ông cháu mình tình ý tình củm với nhau lắm. Lên xe, thoát khỏi không khí tật nguyền, dớ dẩn, ông thở phào nhẹ nhõm. Phải chấp nhận thôi, ngoại giao là vậy. Cứ như hai đứa con chót có với bà ấy, ông móc ngoặc cho đi du học chả mất xu nào. Tống chúng sang châu Âu, sống cho tự do. Đấy, bố tạo điều kiện cho chúng mày, bố không sống thay được chúng mày, ông dạy hai cô bé tiểu thư, cho nên chúng mày liệu liệu cái thân đấy, không có lại bảo bố mẹ kìm kẹp không cho con cái tự do, không cho con cơ hội phát triển. Hai cô bé đỏng đảnh nguýt bố. Đuôi mắt đa tình vén cong. Làn môi mịn sung sướng. Đúng là tiểu thư, cười tiểu thư, hờn dỗi có kiểu, lườm có kiểu, giận có kiểu. Mà kiểu gì cũng sang trọng, cũng duyên lạ thường. Kiểu duyên có lí có tình. Còn bà ấy, một ngày nên nghĩa vợ chồng, ngủ với nhau có hai mặt con rồi, sao chưa bao giờ yêu được nhỉ? Nhiều đêm, khi ngắm cô nhân tình, ông ngẫm nghĩ: Thế này có phải là yêu không? Nếu không tiền cho em khi chia tay, không tiền cho em đổi điện thoại siêu hiện đại, siêu nhẹ, thì mình còn là anh, còn là người yêu thanh niên tính của em ơi nữa không? Hay yêu nó khác? Nó thế nào nhỉ? Vài năm nữa, liệu mình còn có cơ hội biết yêu là gì không? Mà thôi, kệ. Quên đi, việc gì phải nghĩ ngợi nhiều cho nó hao người. Mình đang trên chiếc giường êm ái với một con đàn bà thơm tho với những câu yêu mật ngọt và nó nói nó yêu mình. Hôm nay nó yêu mình, mai thế nào tính sau, thế chưa đủ sao? Ông cười trong bóng đêm, mãn nguyện.

    Người đàn bà cười trong đêm, khi nhìn xuống mảnh vườn nhỏ nhà kế bên. Nơi ấy, Kì mải miết đào. Mặc cho những ngón tay sưng, mặc cho cho chiếc đũa cả gãy làm đôi, mai chị dâu lại mắng Kì, lại sưng cái mặt kêu giời ở đâu chẳng xuống mà xem thằng điên nó hành cái đũa cả. Kì cười, hàm răng không hút thuốc bao giờ nhe ra, vô tư trong màn đêm. Cái đầu chợt lắc lư theo điệu nhạc đầu ông sư.

    Gió về. Không hiểu loại gió gì mang theo những cung bậc trạng thái, kích thích con người, những người đang hứng cơn gió cô đơn, cơn gió tình, cơn gió biết đi tìm tình... Bộ quần áo trên người đàn bà khẽ lay động, lụa xịn nên mát, nhưng không thoa dịu sự đụng chạm nhè nhẹ của tự nhiên mà càng làm người mặc nôn nao, khao khát cái gì đó không thể kìm nén mãi. Ban công trồng ít nhài. Thứ hoa đĩ, hoa tình, nở trong đêm, trắng muốt, thơm nhức mũi. Bà nhớ ngày xưa, khi còn ngây thơ chưa biết thói lọc lừa của đàn ông là gì, khi bà còn được người mẹ dạy dỗ hãy cảnh giác với đàn ông, bà đã tránh được sự "lợi dụng" của một thằng con trai bằng tuổi. Đấy là hồi xưa, mẹ nói vậy. Giờ, ngần này tuổi, nghĩ về những ngày ấy, thật ngây thơ, có gì đâu. Mày cho tao thơm một cái, tao cho mày một bông. Một nụ hôn, đổi lấy một bông hoa nhài xinh đẹp. Chả mất gì. Cô bé ngày xưa đồng ý đổi, và nụ hôn đầu đời nhẽ ra phải được tính từ dạo ấy, nếu không có chuyện mẹ cô bé tình cờ bắt gặp, và nụ hôn không thành. Mẹ đánh, khuôn mặt sớm từng trải chua chát: Mày lấy hoa nhài làm gì hả con kia? Cô bé gào lên: Con thích hoa nhài. Mẹ hầm hầm: Tao cấm mày! Thứ nhất, không được mang hoa nhài cắm lên bàn thờ, đấy không phải chỗ trưng cái thứ hoa đĩ ấy. Cấm, tuyệt đối. Thứ hai: không được ngu ngốc thế này. Ai lại trao đổi cái kiểu mất dạy như thế. Tuyệt đối! Rõ chưa? Tuyệt đối! Người đàn bà nhắc lại, mỉm cười. Mẹ giờ thế nào? Dưới lòng đất sâu? Con biết, mẹ muốn tốt cho con. Có số rồi, mẹ à. Mẹ muốn con không được ngu ngốc, trong khi thiên hạ thường bảo ngu si được hưởng thái bình. Con muốn im lìm mà hưởng thái bình. Có được đâu. Con không ngu ngốc nữa. Con thèm hạnh phúc. Hạnh phúc là gì? Hay như anh điên kia. Liệu đó là người duy nhất bây giờ đang hưởng thụ hạnh phúc, thứ hạnh phúc mà chính anh ta cũng phải tìm kiếm, phải tạo nên? Bây giờ, khác trước rồi. Thế hệ là quá xa, chỉ cần nói đến từng tháng, từng năm, từng ngày... tất cả... Cần gì biết yêu, con kiếm được người chồng không cần yêu để chiều mẹ, để trả nợ cho mẹ, những món tiền vay trong những lần buôn chuyến thất bại. Bạn hàng của mẹ lánh xa, than nghèo, túng bấn, phủ đầu khi mẹ chưa kịp mở mồm van xin. Con đánh đổi đời, thế có phải là ngu ngốc không mẹ? Một nụ hôn đổi lấy một bông hoa, một tấm thân đổi lấy tiền. Trao đi đổi lại - là quy luật tất yếu phải không? Chẳng ai cho ai không cái gì bao giờ? Phải không? Người đàn bà như muốn hất tung những ý nghĩ đang quẩn quanh. Làm gì thế này? Mày, giờ cũng tử tế gì cho cam. Nhìn đốm thuốc lập loè, chợt nhớ những ngày đầu làm vợ. Biết làm sao khi bà chấp nhận, làm đúng phận sự đã là vợ phải chiều chồng. Đàn bà ai chả muốn người mình gắn bó sẽ yêu thương nhau suốt cả cuộc đời, mong ước nương tựa trên đôi vai cứng rắn, mong người ta chia sẻ bao dung. Ước thế, nhưng làm gì có nhiều những ngày tháng vui? Đêm tân hôn, người con gái hồi hộp dâng hiến, chứng tỏ tiết trinh, thứ gia tài duy nhất người mẹ ban và giữ để đêm nay cô mang ra đánh bài đổi lấy một con đường tìm hạnh phúc... Rồi ảo ảnh, rồi nát tan khi nhìn ánh mắt khinh khi của chồng. Thề thốt à? Thôi, đừng cho tôi đổ vỏ nữa. Đoan trang à? Tôi ỉa vào cái tiết trinh của cô. Tôi không ngờ. Mẹ con cô lừa tôi. Mặc cho nước mắt, mặc cho những lời thanh minh chưa từng đụng chạm quan hệ với ai khác của cô, người đàn ông phũ phàng bỏ đi. Thế là hết, nhục nhã. Tại sao? Tại sao lại không có? Tôi bị làm sao? Đâu? Cô nhìn như muốn xé nát tấm khăn trắng muốt kia. Đổi cái gì? Lấy cái gì? Tôi mong muốn người tôi chấp nhận lấy sẽ là niềm vui, là hạnh phúc của tôi, tôi muốn sống tử tế. Làm sao cô biết được người chồng cưới cô về vì nghĩ rằng một người con gái nhà lành trong trắng nhường kia ắt hẳn sẽ không bao giờ lừa dối ông ta, không bao giờ dám phản lại một con người luôn luôn nhận được sự may mắn trời cho.

    Nước mắt không còn chảy trên má người đàn bà. Ngoài kia, những bộn bề của ngày tạm yên, im lìm trong tiếng thở thời gian. Đêm. Lại đêm. Đời là những ngày đen như đêm vậy thôi. Hay là cứ điên như người kia, để quên hết, để dìm đi, để không phải đi tìm nữa những khát khao thúc giục?

    30% người phụ nữ không ra máu trong đêm tân hôn và điều đó không thể chứng tỏ cô ta đã có quan hệ tình dục. Sau này, người đàn bà mới đọc được điều đó trên báo chí. Chả để làm gì nữa. Dù sao, tình yêu không thể là dâng hiến, được dâng hiến, tiết trinh, trong trắng... những thứ ấy, đáng gì, nếu không hiểu nhau, không cảm thông, không tha thứ? Và tội lỗi duy nhất của cô là không ra máu trong đêm tân hôn, làm cho ông chồng nổi giận vì cho là mình bị xúc phạm.

    Hai đứa con gái ra đời cách nhau chưa đầy năm kia, là kết quả trong những lần hiếm hoi quan hệ với nhau. Lúc đấy, là thế nào nhỉ? Người đàn bà châm tiếp một điếu thuốc.

    Dưới vườn. Kì nằm. Mặt hướng về phía buồng ngủ của anh trai, tay cầm một vật gì đó. Kì ít ngủ, nhưng giấc ngủ hay mơ. Kì cười, Kì khóc, lúng búng, huơ chân huơ tay một chập rồi tỉnh, thức đến sáng. Nhà Kì chẳng bao giờ khoá cửa, có lẽ vì Kì hay thức. Kì lôi chiếc lược của mẹ ra chải tóc, chẳng hề biết có một người đang nhìn Kì. Con người đẹp thế kia, lành mạnh, không bệnh hoạn như những người mình đã gặp. Anh ta không phải lo lắng sống như thế nào. Cần gì phải bon chen, chẳng cần để ý xem người đời dòm ngó cuời chê gì. Tiếng thở dài tiếc nuối. Lại một đêm không ngủ. Triền miên, thức cũng nghĩ, cứ nằm lại nghĩ, tại cafe, tại gì?

    Lần ấy, cô vợ trẻ vì không cam chịu ý nghĩ tại sao mình có chồng lại bị hờ hững cũng như không, cô tìm mọi cách chiều chuộng, hết mình để chồng thương yêu quay lại, và bỏ ý nghĩ con người cô gian dối. Hôm đó, ông sếp say rượu, chẳng nhớ gì nữa... Chỉ biết sáng hôm sau, ông lạ lẫm thấy mình nằm chung với vợ. Rồi ông tặc lưỡi, nó là vợ mình, lại đẹp, không thể phí được. Cô gái non tơ, khốn thay cái của ấy, một lần rồi lại thích lần sau, cô khao khát chờ đêm xuống, mong một đứa con sẽ nối dây tơ nguyệt bền thắm. Một đứa, một đứa gái nữa. Hai cô con gái xinh xắn, thơm từ đầu đến chân, rõ là con nhà giàu. Lúc này, tình phai càng phai hơn, tình nhạt nhẽo. Cô chán. Chán tất cả. Hai đứa con tự do, chúng đã lớn. Ham muốn còn nhiều, nhưng không phải với người đàn ông xa lạ kia, người được gọi là chồng kia. Cô hiểu rồi, mình không phải là thứ đồ vất đi, nín nhịn nhiều rồi khéo phát điên...

    - Nếu anh đồng ý, chúng ta sẽ li dị?

    - Tôi tóm lại một câu duy nhất thế này, miễn bàn cãi: Không li dị, chỉ li thân, ok?

    Vậy là văn bản miệng đã thoả thuận. Mọi việc thế là đã rõ.

    - Không ai xâm phạm đến ai, nể nhau tí chút, miễn đừng mang bồ bịch về nhà, đừng làm ảnh hưởng đến thanh danh của tôi, là chết đói, cô hiểu chưa?

    - Tôi hiểu! - Người vợ nhếch mép.

    Tự do.

    Mình là người tự do. Một bữa cơm thịnh soạn cho cả nhà để mừng tự do.

    Ngày trôi. Tự do đã thấy, nhưng tìm đâu ra một tình yêu ở cái tuổi 38? Giàu, mệnh phụ phu nhân, nhiều tiền, lắm của, thèm gì nữa? Khuôn mặt này, những nếp nhăn mờ mờ của bao đêm mất ngủ? Tai tiếng? Ăn vụng phải biết chùi mép? Cứ sống cái đã!

    Đêm tàn. Người đàn bà mệt mỏi, Kì điên đã chải xong tóc, tiếng ồn bắt đầu vang lên trong bình minh. Kì bắt đầu những chuyến đi. Người đàn bà quay vào buồng mang theo nỗi buồn nặng trĩu. Ngày làm đêm, đêm làm ngày...

    Kì mải miết đi trên phố. Đôi chân dài bước thẳng tắp. Đêm qua Kì mơ thấy có mấy cái cây trong ngõ Nhà Thờ. Con đường đó Kì chả lạ, ngày còn nhỏ, mẹ hay cho Kì chơi ở đó, còn mẹ vào dọn dẹp cho người chủ nhà. Kì không phá, Kì chỉ đi tìm cây dại, nhưng loại cây như cỏ, thân mảnh, mong manh, Kì giúp chúng chui vào bụng, cho nó sống chung với Kì, tất cả phải sum họp một nhà, như bố Kì muốn thế. Từ từ, tao chưa cho chúng mày vào mồm ngay đâu, tao cho vào cái bị cói này, phải rửa sạch chứ. Hôm nọ, tao thấy có thằng đứng phun nước từ trong người xuống đất, nơi chúng mày sống, có xót không? Vào đây, an toàn nhất, không sợ ai hại, không sợ con vật nào vùi dập, không phải tranh nhau uống sương nữa. Tao lo hết. Lòng Kì phơi phới. Tóc Kì bay bay. Trông Kì đầy sức sống. Khéo có người lại tưởng Kì đang yêu! Kì chả nghe thấy tiếng xì xồ trêu trọc của bọn trẻ: Chúng mày ơi, Kì điên đi như biểu diễn người mẫu kìa...

    Về đến nhà. Kì mặc kệ chị dâu đang hớt ha hớt hải đi tìm cái đũa cả. Những ngày vui nhất của chị dâu, có lẽ là ngày lĩnh tiền lãi tiết kiệm. Kì ngồi cạnh mẹ, không còn âu yếm giụi đầu vào vai mẹ nữa. Kì lớn rồi, mẹ còn muốn về quê tìm vợ cho Kì nữa. Mẹ hỏi gì Kì chỉ gật gật, lắc lắc, làm mẹ chán, mẹ thở dài. Mẹ vuốt tóc Kì. Kì chớp mắt. Không ổn rồi, Kì phải xem cái lũ cây dại trong túi cói ra sao. Cho chúng mày vào bụng... Mẹ Kì lầm bẩm một mình: Nó lại lên cơn rồi... người như mày hiền lành, đẹp trai chứ có xấu gì đâu, bây giờ con gái ế đầy, về quê thiếu gì đứa, có khi lấy vợ lại hết điên đấy con ạ...

    Chiều. Hoàng hôn mùa này đẹp nao lòng. Những ráng đỏ, hồng, tím cùng màu chiều có thể làm cho bao nhà thơ tức cảnh sinh tình. Bâng quơ nhưng sao như cố dội về, cho người ngắm hoàng hôn chợt thấy thời gian đang trình diễn vẻ đẹp lúc xế tà. Thời buổi mốt nhân tình, mốt bồ bịch... Giá mà được ngắm cảnh bên người đàn ông của đời mình thì hạnh phúc biết bao. Nhưng hạnh phúc đâu phải tự có nếu không tìm kiếm? Hai cô con gái đã lên đường đi Pháp. Vậy là lại chẳng còn ai để mà quan tâm, mà lấy cái đó làm lẽ sống. Đau lòng hơn khi bắt gặp nụ cười mỉa mai của ông chồng: vậy là bà rảnh nợ nhé, tôi tạo tự do cho bà đấy. Rồi đến lúc cũng phải học cho mình một cách sống khác, phải thử thì mới biết được, phải dấn thân, phải chấp nhận, dù thế nào đi nữa cũng là sống, không chết được, nghĩ vậy và làm. Người đàn bà cô đơn càng có cảm giác cả thế giới này lãng quên mình. Những chiều dạo quanh hồ, những con phố quen bước chân đi lặng lẽ. Đôi khi bọn đàn ông loáng quáng vài câu đi không em, sao buồn thế nhỉ?Chồng chê à?... Mặc cho những lời dèm pha, từng bước chân không cần định hướng. Bao lần ngắm mình trong gương, tự nhủ không thể sống mãi thế này, thế kia, phải thế này, thế kia... Rồi tự coi khinh sao mình lại hèn thế? Đời còn bao điều cần quan tâm hơn những nỗi buồn nhạt nhẽo. Không ai liều lĩnh tìm đến một con người khép kín dưới vỏ bọc của một bà vợ sếp đoan trang giàu có. Rồi con tim như tan chảy khi ngày qua ngày, đêm qua đêm, cuộc đời không có gì mới...

    Kì ngồi nghỉ bên ghế đá. Đôi chân tưởng như không biết mệt mỏi đã bắt Kì dừng lại. Kì ngây ngây nhìn hồ nước. Trong hồ cũng có sóng. Lăn tăn, gợn nhẹ. Kì có cảm giác như được những làn sóng ấy mơn trớn. Bên kia, người đàn bà lặng lẽ ngắm Kì. Lạ thật, tại sao ta lại cứ quan tâm đến anh ta nhỉ? Có lẽ anh là một người sung sướng vì không biết đau khổ là gì hết. Việc gì phải sợ ai? Ai chấp người điên? Con mắt lướt qua bụng chân thon chắc nịch của Kì. Anh ta là một người tử tế, ít ra là vì anh ta không hại ai, không núp trong vỏ bọc dối lừa. Người đàn bà nghĩ. Chợt hai ánh mắt gặp nhau. Mặt Kì dài dại. Kì nhìn chăm chăm vào bộ ngực đầy đặn đang phập phồng như hồi hộp. Kì vẫn nhìn, rồi Kì từ từ tiến đến, đôi tay giơ ra như muốn tóm lấy vật gì đó. Hôm nay, đoạn đường quanh hồ vắng, không có ai ngoài hai người. Người đàn bà hơi sợ, rồi như tin tưởng một cách dũng cảm, lặng ngắm bàn tay Kì đang xoa lên ngực của mình. Thì ra, người đàn bà mặc một chiếc áo có in hình những ngọn cỏ xanh nõn cong cong. Kì thèm những cây dại đó, người đàn bà im lặng, tận hưởng sự đụng chạm thể xác tình cờ. Cảm giác an lành như bên một đứa trẻ ngoan ngoãn. Kì nhìn tay, lạ lẫm, rồi chợt bỏ đi. Tiếng thở dài hắt hiu như đuổi theo cái bóng khoẻ mạnh của Kì. Chiều tàn. Chuẩn bị một đêm dài nữa bắt đầu.

    Kì là đàn ông, không phải là gỗ đá, trông cái đầu đơn sơ bé nhỏ, tưởng như chỉ nạp những hình dáng cây cỏ, chỉ nạp những bộ rễ cây lằng ngoằng, nay nạp thêm bộ mặt hiền lành của một người đàn bà, người có nhiều cây rất hấp dẫn với Kì.

    Tin đồn Kì có người yêu, hay đúng hơn là có bồ, hình như là một bà nạ dòng nào đó chết mê chết mệt Kì điên. Thật là hết khôn lại dồn ra dại... chắc con mẹ đấy nó thế nào đó thì mới đi cả với thằng điên chứ? Đấy, đến thằng điên mà còn không tha, thằng điên mà còn có bồ, nữa là bọn thanh niên trai tráng, chả lẽ chúng mày kém cả thằng điên à? Ngoài hàng nước, ngoài bể nước, ngoài hàng quà, tin đồn cứ thế lan truyền....

    Ông Tráng, thợ tỉa râu chuyên nghiệp cho Kì lấy tiền tháng dứ dứ con dao: tao không ngờ đấy, mày có bồ thật à? Đâu rồi? Xinh không? Tẩm ngẩm tầm ngầm mà số đỏ thế... Kì ngơ ngác, chả cần thanh minh, ai nói người đấy nghe. Vả lại việc đó không nằm trong những mối quan tâm của Kì. Chị dâu đi qua nhìn thấy Kì đang nằm ngửa trên ghế ông Tráng, chị bảo đã nghèo lại còn hoang, mẹ chiều lắm vào. Râu với chả dê, ông cứ cạo phắt đi cho tôi nhờ. Ông Tráng lẵc đầu không được, tôi đã công phu lắm với bộ râu của nó rồi, hơi bị sành điệu đấy, cô có phải mất tiền đâu mà lắm mồm thế nhỉ?Đúng là đàn bà... Ông vỗ vào má Kì cười hề hề bảo yên tâm đi tao làm đẹp cho chú mày rẻ như bèo, để chú mày còn đi với bồ nữa chứ nhỉ?... Vừa lúc, ngưòi đàn bà phóng xe máy qua, đôi mắt trìu mến nhìn Kì như đã hiểu nhau từ lâu rồi.

    Người đàn bà làm sao quên được cái đêm hôm ấy. Khuya lắm rồi. Mảnh trăng bé tí ti, quắt queo lấp ló dưới đám mây không đủ sức soi rọi láng ướt trên vườn. Kì vẫn mải mê với những đám cây mãi mới biết có người đến sau lưng. Người đàn bà hiền lành gật đầu thân thiện, trên người, chiếc váy ngủ in hình toàn cây cỏ. Kì như bị thôi miên theo người đàn bà đi một quãng đường vòng đến nhà, cánh cổng mở sẵn, ngôi nhà có ban công nhìn ra vườn của nhà Kì. Hai người cứ lặng lẽ ngắm nhìn nhau...

    Bây giờ, ít nhất có hai người mong chờ màn đêm buông xuống, Kì lại được nhìn thấy mặt người đàn bà có nhiều cây cỏ trên người, Kì lại được nâng niu, chiều chuộng. Người đó dạy Kì nói, rửa mặt cho Kì, kể cho Kì nghe, người đó không giống mẹ, người đó thương Kì. Trong con người Kì, một thứ tình cảm được đánh thức. Kì không còn ăn cây nữa, chỉ nựng những ngọn cỏ xanh hiền lành. Cả hai đều có cảm giác an toàn khi ở bên nhau, cứ như bây giờ, người đàn bà chỉ mong được gần gũi, chỉ bảo Kì. Nguời đàn bà không hề lo lắng như những ngày nào phải giữ gìn uy tín thanh danh cho chồng. Hạnh phúc có phải là khi cảm thấy mình sống có ích, sống không vô dụng, sống vì mọi người, và quan trọng hơn, sống trong sự thanh thản? Làm sao tôi có thể để tuột khỏi hạnh phúc của tôi được. Tôi không đòi hỏi, tôi không cần cái gì đó xa vời. Trước mắt tôi là bản tính nguyên sơ của một con người, và tôi thích, tôi yêu, tôi cảm thấy bình yên. Tôi sống!

    Rồi cứ vậy, Kì đến như bản năng, như những con phố thân quen đi không bao giờ lạc. Không ai đòi hỏi ai cái gì. Tất cả là tự nhiên, tự nhiên như những ngọn cỏ dại... Mái tóc Kì được vuốt ve, Kì nghe những lời thủ thỉ bên tai, cái đó không nguy hại, cái đó hay, cái đó ru Kì ngủ.... và người kia, chừng như thích nói, cứ nói mãi, chả biết Kì đã ngủ, đầu nghẹo trên đùi người đó....
    Đêm trôi nhanh.
    Nhà tôi ở gần ngõ nhà Kì, mỗi lần thấy Kì điên đi qua, mọi người lại nhìn, lại bảo nhau, Kì đi dạo phố về rồi đấy. Kì cười, bẽn lẽn. Nghe nói Kì và người đàn bà đó đã sống với nhau, Kì đã bớt điên, chịu khó nói hơn trước. Chồng người đàn bà kia cũng đã cưới vợ khác. Bao nhiêu lời dèm pha vẫn còn nhưng sự đời cứ chấp mãi những lời nói nhẫn tâm vô tình ấy thì có lẽ cả thiên hạ này chẳng ai thiết sống nữa. Kì vẫn thích đi trên phố, chỉ ít hơn trước, mái tóc đã cắt ngắn, Kì sắp được làm bố mà. Kì thích áp tai vào bụng vợ, lắng nghe mầm sống nói gì với Kì. Vợ Kì xinh và trẻ hơn trước, chị tích cực ra vườn, trồng thêm những cây hoa rực rỡ, và tất nhiên, có cả những khóm hoa nhài, lặng lẽ toả hương trong đêm. Chị dâu đã bớt khó tính hơn, ý chừng hợp với cô em dâu nhiều tuổi lắm quần áo đẹp chả mặc đến. Thôi thì chị cứ lấy mà dùng... Bà mẹ sung sướng sau nhiều lần khóc lóc, chả hiểu con đĩ ấy có gì mà đến con bà điên nó cũng không tha. Bây giờ bà đã hiểu rồi, bà cười bảo chúng nó yêu thương nhau thật lòng, mà con dâu tôi nó còn chữa được bệnh cho chồng nó, thế là nhất rồi...

    Thỉnh thoảng, vợ Kì lại đến khám thai ở phòng mạch tư của tôi. Người đàn bà không còn những nét ưu tư trên khoé mắt như thuở nào. Niềm vui chăm chút cho đứa con sắp ra đời, trồng cây, trị bệnh cho chồng làm cho chị thêm bận rộn.

    Đến bây giờ, ngày lại là ngày, đêm lại là đêm, khi mọi người đã tạm thời tìm thấy hạnh phúc, cho dù phải đi tìm kiếm nhọc nhằn trong đau khổ, thứ hạnh phúc ấy chắc sẽ được nâng niu giữ gìn, không gì có thể đánh đổi được.

    [/FONT]
     
  4. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    Cá vàng
    Anh Nguyên
    [​IMG]
    [FONT=Verdana, Arial]Biển lặng, mặt trời đã lên cao vài tầm con sào, ánh sáng rực rỡ chiếu xuống mặt biển hồng như dát ngọc. Sóng nhấp nhô loáng bạc. Thuyền của anh vừa thả lưới xong, tiếng máy rì rầm lướt về phía mặt trời.

    Đội thủy thủ đã ngủ. Họ nằm trong khoang trên mui, áo phanh ra bay phần phật như ngọn lửa. Ánh nắng nhuộm người họ vàng rộm như thỏi vàng mười. Anh thong thả đi về phía lái trải áo bạt, gối đầu lên cuộn dây thừng ẩm nước. Vòm ngực căng phồng, anh thở hít không khí biển cả khó nhọc.

    Mắt anh căng lên nhìn trời. Vòm trời cao thẳm, vô số các đám mây trắng mỏng bay và tan loãng vào màu xanh. Nếu như mọi khi, sau một đêm làm việc cật lực, có tiếng sóng ru, gió nhẹ anh đã ngủ say.

    Hôm nay anh không ngủ được. Cứ chợp mắt anh lại nghĩ đến mẹ. Khuôn mặt mẹ đau đớn, co rúm chập chờn mờ ảo trước mắt, rồi anh bừng tỉnh, giấc ngủ tan biến. Xung quanh anh chỉ có biển và mặt trời rực rỡ, rực rỡ đến đơn điệu.

    Ông thuyền trưởng già, ngồi cầm lái đằng kia, lặng lẽ phì phèo điếu thuốc vấn sâu kèn nhìn anh thở dài. Anh trằn trọc xót xa trong nhịp buồn của biển. Nỗi nhớ và lo sợ về mẹ day dứt trong anh.

    Hồi còn bà ngoại, bà thường kể cho anh về mẹ. Mẹ là cô La giỏi giang, chăm làm và lận đận nhất làng chài. Là chị của bốn em nhỏ, mới tí tuổi La đã phải quán xuyến việc nhà.

    - La ơi! Ra bến gánh cá về cho cha!
    - La ơi! Tắm rửa cho các em!
    - La ơi! Cám lợn còn chưa nấu đấy...

    Cô La nín lặng làm xong hết mọi việc. Lũ em thì như quỉ suốt ngày nghịch bùn cát. Con lợn nái cứ chờ La về là hộc lên rên rỉ. Những đêm hè trăng sáng La hay ra bến sông tắm giặt, lúc đó cô mới trở về cái hồn nhiên của người con gái. Đắm mình vào nước giỡn sóng, trong ánh vàng ngời ngợi, La hát thầm câu hát lạy cá thần truyền đời trong làng chài nghèo khổ:

    - Cá vàng ơi! Cá vàng ơi!... Giúp ta được sống với người ta yêu.

    Lấy chồng cô La càng cực nhọc hơn. Chồng cô là chàng trai biển khỏe mạnh, hiền lành. Anh giấu tình yêu của mình với cô gái kia trong vòm ngực căng phồng và ánh mắt nhìn mê dại. Hai người đến với nhau trong một đêm hè lộng lẫy, bến nước choáng ngợp trong ánh vàng vắng vẻ. Cô La tắm một mình, bị chuột rút khi đang bơi giữa dòng sông. La thả lỏng cơ bắp trôi theo nước cuốn rồi từ từ chìm xuống. Lúc La mở mắt thấy cả người mình được nâng trên đôi tay khỏe mạnh nổi cuộn cơ bắp của chàng trai. La chỉ kịp thì thầm:

    - Xấu, nhìn trộm đàn bà tắm...

    Chàng trai cười. Anh phải lòng La từ lâu. Cái tai nạn bất ngờ của La thành điều may mắn cho anh. Anh nâng tấm thân chắc lẳn đặt nhẹ lên mảng luồn rồi nói: “Tôi sẽ cưới La làm vợ”.

    Hạnh phúc của La thật ngắn ngủi. Một cơn bão dữ bất ngờ ập vào vùng biển, chồng La và hai chục dân chài không về nữa. La ôm chặt đứa con trai vừa đầy tuổi gào khóc dọc bến sông. Từ đó cô không ra tắm ở bến sông nữa. Cô trở thành bà La góa bụa sống héo hắt ở túp lều tranh cuối làng.

    Những đám mây trên biển ban trưa bao giờ cũng óng ả hơn đất liền. Anh nhìn một cụm mây tựa hình mẹ ôm con. Khuôn mặt người mẹ đăm chiêu ngó mãi xa vời xuống trần gian. Mẹ ơi! Giờ mẹ đang vật lộn với bệnh tật, còn anh lại lênh đênh trên sóng biển. Anh tự nguyền rủa mình sức dài vai rộng mà chẳng đỡ đần chăm sóc được mẹ. Thân phận anh không vượt qua thân phận của cha, cũng chỉ là người đánh cá thuê cho các ông chủ. Anh nhớ khi chiều đến gặp ông chủ nhiệm hợp tác xã xin phép nghỉ đi biển ở nhà chăm sóc mẹ, ông gắt:

    - Nếu nghỉ thì nghỉ hẳn, lên cạn mà làm việc phụ để thuyền cho người khác đi. Ngày kia xã tổng kết, phải có cá, mực ngon đón đại biểu trên về.

    Lên cạn là mất việc. Anh lầm lũi đi như kẻ có tội. Kẻng hợp tác vừa báo, mẹ bừng tỉnh, thấy anh ngồi bó gối cuối giường, bà khóc:

    - Sao không đi nghề? Ngồi đây mà chết đói cả nhà à? Mẹ chưa việc gì đâu!

    Anh gạt nước mắt bước xuống thuyền. Ông thuyền trưởng già nhìn anh thở dài. Trăng hạ tuần trôi về đây đỏ quạch như máu cá ươn.

    Gió nổi, biển dậy sóng vỗ ầm ầm. Con thuyền hếch mũi đi về hướng đông. Qua sải nước mười lăm thuyền còn đi nữa, muốn có cá to phải ra khơi xa. Hòn Nẹ đã ở sau lưng như chiếc thúng úp còm cõi trên cánh đồng xám bạc. Xa xa hòn Bò, hòn Thịt cũng đơn côi như vậy. Biển đối với anh cũng lạ lẫm, cuốn hút. Càng đi đến cuối trời, anh lại nhớ đến giấc chiêm bao của mẹ.

    Mẹ anh kể đêm ấy trăng rằm sáng lắm trên bầu trời mùa thu cao vợi.

    Dòng sông Sung hư ảo, sương giăng như lụa. Con thuyền nhỏ, mẹ chèo đưa anh xuôi theo dòng sông ra khơi, dập dềnh theo gió trăng huyền bí. Anh ngồi phía đằng mũi, quay mặt nhìn mẹ nhịp nhàng thả chèo cắt nước. Mặt nước óng ánh sắc vàng hắt lên khuôn mặt mẹ. Dưới vầng trăng mỏ quạ, dáng mẹ thon thả như cô tiên ngồi gõ phách trong bức tranh. Váy lĩnh, áo lụa nâu nền nã, mẹ như thoát tục sau bao năm còm cõi. Anh hồi hộp hỏi mẹ giọng lạc hẳn đi:

    - Đi đâu mẹ ơi?
    - Ra với cha con.
    - Cha con hiện ở đâu?
    - Phía xa kia!

    Phía xa có những đốm sáng lóe lên rực rỡ giữa màu đen đục của mặt biển. Làng xóm nào ở đó? Hòn đảo nào ở đó? Người già thường kể cứ đi theo hướng này sẽ đến cái vô cùng của trời biển. Gặp làng ma, xóm ma. Có người còn cam đoan rằng: có đêm thuyền lạc giữa sương mù, bỗng gặp một làng xóm đông vui tấp nập bóng người, bóng nhà, họ mừng quá hú gọi thì tất cả vụt biến mất. Cồn ma đấy! Nơi dồn tấp những oan hồn chết ở cửa sông, vụng biển trôi ngụ về đây. Mẹ đang chèo thuyền ra đấy sao?

    - Ra cồn ma? – anh thì thầm hỏi mẹ.
    - Khẽ chứ con. Ra xóm tiên con ạ, ra với cha.

    Chẳng có làng ma, cồn quỉ, chỉ có xóm tiên. Xóm tiên do mẹ biển hung dữ và dịu hiền lập ra cho những đứa con vất vả cả đời với biển cả về đây nghỉ ngơi. Cha anh đang ở đó, cha là con của mẹ biển.

    Con thuyền cứ trôi đi mờ ảo. Mẹ mải miết chèo. Xung quanh lãng đãng trong sương mù có nhiều con thuyền đang chèo ra xóm trên. Đêm như dài ra vô tận. Sức lực của mẹ dồn ra trong đêm nay bằng cả sức lực của quãng đời mẹ sống.

    Nhớ những đêm, làng xóm vắng lặng, gió thổi xào xạc. Rặng tre sau nhà, đom đóm lập lòe ngoài mái tranh, mẹ dậy thắp nhang bàn thờ cha rồi thức trắng đêm, ngó ra ngoài trời mong đợi. Tiếng lạo xạo của con chuột chạy trong buồng, tiếng vù vù của cánh gián, nhưng chẳng bao giờ có tiếng chân hối hả của cha từ bến cá trở về. Mẹ mong bước chân đó. Còn anh nằm gọn trong vòng tay mẹ ngủ. Anh chấp nhận cái lẻ loi thiếu hụt tình cha, chỉ biết có mẹ.

    Mẹ vắng nhà cả ngày, anh lủi thủi chơi một mình ở mảnh sân nhỏ đầy rêu và lá rụng. Chơi chán, anh lại ngồi bậu cửa ngóng mẹ. Chiều nhọ mặt mẹ mới tất tả về. Đôi quang gánh nhẹ tênh, trong mủng chỉ có vài ống gạo, bó rau và chiếc bánh đa cho anh. Mẹ bận cơm nước, giặt giũ đến tận khuya. Một chút đêm còn lại, mẹ ngồi mong bước chân cha...

    Cho đến đêm nay, mẹ chèo mãi như xuyên qua thế giới này đến thế giới kia. Nơi trăng sao mọc lộng lẫy, nơi quằn quại những con sóng bạc, nơi cái ác hủy diệt, cái thiện khai sinh. Cái phút thuyền gặp xóm tiên là lúc anh mơ màng thiu thiu, nghe đâu đó tiếng người như gió thoảng.

    - Đến xóm tiên rồi con ơi!

    Một làng chài hiện ra, bồng bềnh trên mặt biển lung linh màu sắc. Những ngôi nhà sạch sẽ líu ríu chân người bước lên sàn. Nhiều loài cá đẹp giương vây bơi lội trong xanh biếc ánh lân tinh. Có một người đàn ông đã ngồi bên mẹ. Mẹ vẫn ngồi yên nhịp nhàng đẩy mái chèo cho thuyền bơi dọc các lối ngõ. Anh run lên khi bàn tay người đàn ông xoa mái đầu anh. Một cảm giác ấm áp ruột thịt lan tỏa trong anh. Anh gọi: Cha ơi!

    Anh nhìn khuôn mặt mẹ rạng rỡ. Anh rúc mái tóc đẫm sương vào ngực cha. Vòm ngực rộng nở nang, tỏa nồng mùi biển cả. Cha xòe bàn tay trước mặt anh, trong đó lấp lánh nằm gọn một con cá vàng, mắt trong veo, hai vệt đỏ chạy dọc theo lườn. Con cá vàng thần, con cá mơ ước của những người đi biển. Ai đó được con cá vàng thần này thì bao giờ cũng có may mắn trở thành người thủy thủ tài ba. Đời cha anh không có. Bao năm ròng cha anh đã ở ngoài biển săn tìm con cá vàng thần cho anh. Anh nhìn mẹ, mẹ nhìn anh qua làn nước mắt vui sướng, thỏa mãn.

    - Ta có cá vàng thần rồi con ơi!

    Anh đón con cá nhỏ từ tay cha, nhẹ nhàng thả xuống biển. Cá vàng giương vây bơi một vòng quanh thuyền rồi lượn ra khơi. Thế là anh có bè bạn trên biển, anh khua tay gọi theo: Hẹn gặp cá vàng thần!

    Tiếng anh vang ngân, vỡ òa trên biển. Anh vươn người với theo, bỗng ngã nhào xuống biển. Anh bừng tỉnh, mở mắt. Nắng quái buổi chiều đốt cháy da mặt. Con thuyền lắc mạnh. Mây đùn phía xa, chân trời đang xám xịt. Anh đã gặp lại giấc mơ của mẹ. Bên cạnh anh một con cá loáng bạc theo sóng vọt lên thuyền, không phải cá vàng thần trong mơ.

    Trời sáng đã lâu nhưng căn buồng vẫn âm u. Đôi cánh cửa gỗ mọt khép im lìm suốt ngày. Một vệt sáng mảnh qua khe hở in trắng mờ trên tường. Người ấy nằm bất động trên giường, lờ đờ nhìn vào vệt sáng đó. Người ốm là một bà già teo tóp như đứa bé lên mười.

    Bà bị bệnh dữ đã đến thời kỳ cuối cùng. Mấy ngày rồi bà không ăn được gì, chỉ uống nước múc ở giếng lên. Nước mát lạnh làm dịu đi cái nóng bỏng trong vòm ngực. Bà trôi bồng bềnh trong đám sương mù của nỗi lo sợ và chập chờn các cơn mơ về quá khứ.

    Từ khi biết cầm đũa và miếng cơm ăn, đằng đẵng sáu mươi năm trời bà có bao giờ được thảnh thơi. Gái góa một con, đòn gánh trên vai đầu đường xó chợ, bà tần tảo kiếm sống. Rồi bà trở thành xã viên một hợp tác xã nông nghiệp. Không biết cày, không biết cấy, bà trần vai gánh phân, gánh đất, làm việc tạp vụ để kiếm chút công điểm. Không đủ ăn, bà lại chui lủi mua gánh rau, mớ cá chạy chợ kiếm thêm.

    Những năm đó bà già xọp người đi để lo cho thằng Sơn có miếng cơm, manh áo. Thằng Sơn không được vào học cấp ba, phải đi dân công hỏa tuyến rồi vào bộ đội. Bao nhiêu bom đạn, bao nhiêu mất mát đợi chờ, bà vẫn có thằng Sơn trở về nguyên vẹn. Trời Phật thương bà, cá vàng thần phù trợ cho bà.

    Đêm qua khi tỉnh thấy thằng Sơn vẫn ngồi đấy, bà đã đuổi nó đi. Bây giờ công ăn việc làm là khó khăn lắm. Đời thằng Sơn vất vả lận đận hơn cha nó ngày xưa. Đài dự báo có lốc ngoài khơi sao thuyền vẫn ra khơi đánh cá thế này? Chiều hôm qua đứa cháu về khoe rối rít: “Bà ơi! Bên trụ sở hợp tác có nhiều cờ, biểu ngữ đẹp lắm, cả chiếu phim nữa”. Rồi từ chập tối, tiếng dao thớt bát đĩa từ trụ sở vọng sang, lũ chuột đã rít lên cuồng loạn, cánh gián vù vù bay suốt đêm. Gần sáng ông già Lân mù vác nhị ra chợ sớm kiếm ăn hát í ố một mình.

    Tính tang con cá vàng thần
    Kẻ đi xe cúp kẻ lần không ra!...

    Trước lúc đi chợ, chị con dâu còn hỏi:
    - Mẹ ơi! Hôm nay oi lắm, mẹ có ăn gì mát, con mua?

    Bà lắc đầu lịm đi, tim co thắt, thở hắt ra khó nhọc. Sương mù lan tỏa trước mặt bà. Bà lại mơ thấy giấc mơ ngày xưa, nhưng lạ thay bà thấy mình biến thành cá vàng thần giương vây đỏ rực bơi theo thuyền của thằng Sơn, xua cả một đàn cá thu vào lưới. Tiếng thằng Sơn và bạn bè nó cười vang cả biển rồi biển cồn sóng dữ, lốc bão ập tới. Thuyền của thằng Sơn hụp lặn chạy theo hướng đi của cá vàng thần vào bờ yên lành. Bà bị hất lên bờ nằm thoi thóp thở.

    Ngộ quá! Bà trừng mắt. Bây giờ đã sang chiều, lũ chuột chạy ráo cả sang trụ sở hợp tác xã. Vết nắng ở cánh cửa biên mất. Căn buồng im ắng. Thân xác bà trống rỗng, vòm ngực có cái gì đó đang vỡ ra, vỡ ra...

    Tiếng chân người chạy loạn bên trụ sở hợp tác. “Có lốc, có lốc”. Một cơn gió lạnh hất tung cánh cửa căn buồng người ốm. Một chiếc lá vàng bay trong cơn gió mạnh. Đứa cháu gái chạy về hét lên:

    - Bà ơi!

    Vừa nhác thấy chân trời phía đông lừng lững một cột mây đen từ biển vút lên, ông thuyền trưởng già la lớn:

    - Lốc dài, có lốc dài các con ơi!

    Thủy thủ vội chặt đứt dây kéo lưới, thuyền quay về hướng đất liền. Cả mặt biển tối sầm lại. Sơn cùng ông thuyền trưởng ghì chặt tay lái, khẩn cầu:

    - Lạy trời, lạy biển, lạy cá vàng thần phù hộ chúng con!

    - Lạy mẹ, cho con về với mẹ!

    Một đợt sóng và một đợt sóng nữa. Con thuyền cuốn trong lốc. Một đợt sóng phủ qua thuyền. Có cái gì giãy đành đạch dưới chân anh. Anh ngó xuống: một con cá vàng có hai sọc đỏ chót ở lườn đang nằm thoi thóp thở. Mẹ ơi! Cá vàng thần đấy ư? Ông thuyền trưởng la lớn:

    - May rồi! Đánh lái chạy theo hướng đàn cá vàng các con. Ta sẽ thoát khỏi lốc dài!

    Sáng ngày hôm sau, trong đám tang của bà La, cả đội thuyền của Sơn lầm lũi đi theo. Khi hạ huyệt, họ nhẹ nhàng thả xuống một chú cá vàng có hai sọc đỏ au. Con cá mà cả đời bà La mong ước...

    [/FONT]
     
  5. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    Quá khứ
    Phan Bích Thủy
    [​IMG]
    Mưa như trút nước. Cơn mưa đầu mùa hạ đến thật bất ngờ. Mưa xối ào ào, rửa sạch lớp bụi mờ bám trên cành lá. Những cây sấu già trên hè phố đang độ ra hoa. Hoa sấu trắng như những ngôi sao nhỏ xíu bị cuốn theo làn nước mưa tạo nên một dải Ngân Hà trên mặt đường nhựa đen bóng. Thỉnh thoảng bầu trời xám xịt u ám lại vỡ vụn bởi những tia chớp chói lòa và những tiếng sét inh tai.

    Trong thời tiết như thế nếu chẳng có việc khẩn, hẳn chẳng có ai muốn ra khỏi nhà. Vậy mà vẫn có một người phụ nữ trẻ đang nằm trên bàn khám phụ khoa chờ tôi. Cô còn trẻ lắm, có lẽ chỉ bằng tuổi con gái tôi. Nét mặt cô gái căng thẳng và xúc động nhưng không che dấu nổi những nét thanh tú, xinh đẹp. Cặp đùi trắng như ngà e thẹn khép lại trên mặt bàn khám.

    Vừa chào cô gái tôi vừa phủ lên bụng cô một tấm vải săng trắng. Cô đáp lại tôi bằng một giọng nói rụt rè nhưng rất dễ mến.

    Trong lúc rửa tay và đeo găng tôi tranh thủ hỏi cô gái:
    - Cháu làm sao vậy?

    Lúng túng đôi chút, cô gái trả lời:
    - Cô khám giúp cho cháu xem cháu có bình thường không ạ!

    Một câu trả lời thật lạ, hầu hết những người phụ nữ đều biết rất rõ mình có bình thường hay không, vậy mà cô gái này lại đến gặp tôi vào một ngày mưa gió để có được câu trả lời ấy. Tôi lại hỏi tiếp:
    - Cháu có gia đình chưa?

    Một bác sĩ sản phụ khoa như tôi bao giờ cũng phải hỏi câu hỏi ấy trước khi khám. Cô gái trả lời:
    - Cháu lấy chồng cách đây gần hai năm rồi cô ạ!

    Tôi chọn một chiếc mỏ vịt cỡ nhỏ nhất bởi cô gái vẫn còn quá trẻ nhưng để chắc chắn hơn tôi vẫn hỏi:
    - Khi quan hệ với chồng cháu có vấn đề gì không?

    Như bị chạm phải một vết thương, cô gái đỏ mặt chớp chớp mắt:
    - Cô ơi, cháu chưa từng có quan hệ với chồng cô ạ!

    Tôi sững người đặt lại chiếc mỏ vịt vào hộp đựng. Dụng cụ kim loại trông giống như mỏ con vịt này chỉ có thể đặt vào âm đạo của những phụ nữ đã mất trinh. Cô gái này tuy đã xây dựng gia đình nhưng có lẽ vẫn còn trinh nên tôi không được phép làm rách cái màng “đáng giá ngàn vàng” ấy.

    Không dùng dụng cụ, tôi khám bằng tay cho cô gái. Đúng như tôi đoán, chiếc màng trinh mà tôi rất ít khi nhìn thấy ở phòng khám của mình vẫn còn trắng hồng nguyên vẹn. Vừa thăm khám cho cô gái qua đường trực tràng tôi vừa mung lung suy nghĩ. Đã có biết bao nhiêu cô gái đến gặp tôi xin được tái tạo màng trinh trước khi lấy chồng vậy mà cô gái này...

    Tử cung, buồng trứng và âm đạo, tất cả đều bình thường qua khám lâm sàng và siêu âm. Tôi nói với cô gái kết quả khám và không khỏi tò mò:
    - Vì sao cháu lại đến đây trong một ngày mưa gió như thế này?

    Sau khi mặc quần áo, cô gái đã trở nên tự nhiên hơn.
    - Cháu biết là cô đông bệnh nhân lắm nên cháu chờ mãi mới đến một ngày trời mưa để được ngồi nói chuyện với cô. Cô có thời gian không ạ?

    Tất nhiên là tôi đã đồng ý nói chuyện với cô gái, tôi đâu có đông bệnh nhân trong một ngày mưa gió như thế. Cô gái ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh bàn làm việc của tôi. Bây giờ tôi đã có thời gian để ngắm cô được kỹ hơn. Một chiếc mũi thanh tú, một đôi môi đỏ đầy đặn khiến ta liên tưởng đến một trái dâu tây chín mọng còn ướt sương đêm. Một đôi mắt đen sâu thẳm tuyệt đẹp nhưng đượm buồn, hẳn là cô gái có những tâm sự uẩn khúc.

    Cô gái tên là Hương, một cái tên cũng thật đẹp. Để Hương được tự nhiên, tôi bắt đầu câu chuyện bằng những câu hỏi xa xôi, nào là nhà cháu ở đâu, nào là cháu làm việc gì, nào là cháu thường làm gì vào thời gian rỗi... Cứ như vậy, cô gái trẻ càng ngày càng thư giãn và thoải mái hơn. Rồi cuối cùng Hương cũng đi vào câu chuyện chính của mình.

    Hương có một tình yêu đẹp kéo dài hơn ba năm và đôi trẻ đã cưới nhau cách đây gần hai năm. Đêm tân hôn họ âu yếm trong vòng tay nhau nhưng họ đã không thể làm được cái việc mà những cặp uyên ương vẫn thường làm. Hương dừng lại, đôi mắt cô gái bỗng ấng nước.
    - Cô ơi, cháu không thể làm được việc ấy, người cháu cứ cứng đờ, khô khốc, cháu sợ đau lắm cô ơi!

    Tôi lựa lời hỏi cô gái:
    - Có bao giờ cháu nói với bạn bè hay người thân về chuyện này không?
    - Có cô ạ, cháu nói chuyện với mấy đứa bạn mới lấy chồng, chúng nó nói là đau kinh khủng lắm và chảy máu nữa!

    Tôi mỉm cười khi nghe câu nói ngây thơ ấy:
    - Đúng là có đau một chút nhưng không đến nỗi khủng khiếp lắm đâu! Cháu và chồng cháu cứ chịu khó một chút, có thể không thành ngay trong lần đầu tiên nhưng các cháu đừng bỏ cuộc. Có người có màng trinh dầy sẽ phải dừng lại giữa chừng vì đau nhưng sau một vài lần, mọi việc sẽ đâu vào đó thôi. Điều quan trọng là chồng cháu sẽ phải mất thời gian hơn để chuẩn bị cho cháu được sẵn sàng.
    - Cô ơi, cũng có người nói với cháu như thế nhưng cháu không thể làm gì được, chồng cháu càng cố gắng thì cháu càng sợ hãi và người cháu càng cứng hơn!
    - Vậy thái độ của chồng cháu thế nào? Cậu ấy có còn yêu cháu không?
    - Anh ấy vẫn còn yêu cháu cô ạ nhưng cố gắng mãi mà chẳng kết quả gì bản thân anh ấy cũng bị rối loạn, thằng nhỏ không còn nghe lời anh ấy như hồi đầu tiên nữa cô ạ!
    - Vậy gia đình nhà chồng cháu đối xử với cháu ra sao?
    - Cháu không hề có chuyện mẹ chồng nàng dâu hay chị dâu em chồng đâu cô ạ! Nhà chồng cháu và cả nhà cháu đều mong chúng cháu có con nhưng không hề có ai biết chúng cháu không làm được việc ấy.

    Tôi tiếp tục gợi chuyện mong tìm được nguyên nhân gốc rễ nỗi sợ hãi của Hương. Tôi kể cho cô gái nghe những trường hợp tương tự:
    - Cháu biết không, có cô gái rất sợ quan hệ vì đã từng nghe thấy tiếng mèo kêu man rợ trong khi chúng làm việc ấy, lại có cô rất sợ bởi đã từng bị lạm dụng tình dục khi còn nhỏ tuổi... Vậy cháu có nghĩ mình sợ bởi một nguyên nhân nào đó kiểu như vậy không?

    Hương lau khô một giọt nước mắt chảy dài trên má.
    - Cô ạ, cháu sinh ra ở thành phố nhưng bố mẹ cháu mất sớm, chị em cháu về quê sống với ông bà ngoại. Ông bà cháu thương yêu chúng cháu lắm... Ở bên cạnh nhà ông bà cháu có một trạm y tế, cứ mỗi lần có người đến sinh em bé là chị em cháu lại nhòm qua liếp để xem. Nhìn thấy cái đầu em bé thò ra khỏi cửa mình mẹ bê bết máu là cháu rất sợ nhưng lần sau cháu lại vẫn tò mò và cháu lại vẫn xem...

    Trời đã ngớt mưa, bệnh nhân của tôi lục tục kéo đến. Tôi tạm hài lòng với nguyên nhân mà mình vừa tìm thấy và chuyển cuộc tư vấn sang việc gợi ý những thực hành cần thiết cho đôi vợ chồng trẻ. Hương cảm ơn tôi và hứa sẽ nói lại với chồng cô những gì tôi đã tư vấn cho cô. Trước khi ra về, Hương không quên xin số điện thoại của tôi và xin phép gọi tôi khi cần thiết. Tất nhiên là tôi đã cho cô gái trẻ số điện thoại của mình và dặn cô đừng ngại gọi cho tôi.

    Gần một năm trôi qua, tôi gần như đã quên Hương và câu chuyện của cô bởi tôi có nhiều bệnh nhân lắm và mỗi người trong số họ lại là một câu chuyện, một nỗi ưu tư. Rồi đến một hôm tôi bỗng nhận được điện thoại của Hương, cô muốn gặp lại tôi. Biết Hương không hề có bệnh tật gì, tôi hẹn cô ở một quán cà phê ven Hồ Tây.

    Sau giờ tan tầm tôi men theo con đường quanh hồ đến chỗ hẹn. Trời đang vào tiết xuân, vậy mà những cây lộc vừng vẫn còn khoác trên mình những chiếc lá đỏ ối. Những chiếc lá bay bay trong gió chiều trải trên lối đi một thảm lá đỏ đằm thắm. Ven hồ, những gốc ban từ núi rừng Việt Bắc đã nhuộm tím cả bầu trời với những bông hoa nhẹ bẫng dịu dàng như những nàng tiên của mùa xuân. Mặt trời như quả cầu lửa đang chuyển dần về phía tây, những tia nắng cuối cùng của một ngày trải trên mặt hồ dải sáng lấp lánh màu đồng thau ấm áp. Từng đôi tình nhân trên những chiếc thuyền thoi thon thả đang sải những nhịp chèo êm ái. Buổi chiều bên Hồ Tây thật thanh bình.

    Tôi bước vào quán cà phê và nhận ra Hương đang chờ tôi ở một chiếc bàn nhỏ sát hồ. Cô có vẻ xanh xao và hơi gầy nhưng vẫn thật là xinh đẹp. Thấy tôi lại gần, cô nhanh nhảu:
    - Con chào cô!

    Cô gái đã thay đổi cách xưng hô với tôi! Cái từ “con” nghe thật gần gũi và dễ thương, tôi có cảm giác cô gái trẻ này rất giống với con gái tôi và bởi vậy cuộc nói chuyện của chúng tôi không mất nhiều thời gian “khởi động” như lần trước. Tôi hỏi khá thẳng thắn:
    - Các con đã có tiến bộ gì chưa?
    Hương buồn bã lắc đầu:
    - Chưa cô ạ!
    - Vậy hai đứa đã làm gì trong mấy tháng qua?

    Hương hơi cúi đầu, chắc cô gái trẻ sợ làm cho tôi phật lòng.
    - Chồng con đi khám nam học cô ạ! Mỗi lần anh ấy đi khám người ta lại phát hiện ra một nguyên nhân khác nhau. Đầu tiên người ta nói anh ấy bị nấm, vậy là cả con và anh ấy đều phải uống thuốc và phải kiêng chuyện ấy. Rồi sau đó anh ấy bị chẩn đoán là thiểu năng sinh dục do thiếu tetosteron và anh ấy phải tiêm hàng ngày... Bao nhiêu là thuốc đổ vào người mà tình trạng của chúng con vẫn không khá hơn!
    - Vậy vì sao con muốn gặp lại cô?

    Hương nhìn vào mắt tôi, một ánh nhìn thật là tin cậy và đầy hy vọng.
    - Cô ạ, chúng con đã đi nhiều phòng khám nhưng ai cũng chỉ chăm chú đến kết quả siêu âm và các xét nghiệm. Cô là người duy nhất hỏi con về cuộc sống hàng ngày, về tuổi thơ và về nỗi sợ của con. Con muốn gặp lại cô bởi con biết nỗi sợ của con chính là nguyên nhân của tất cả mọi rắc rối.

    Tôi kéo chiếc ghế của mình sát cạnh chiếc ghế của Hương và đặt bàn tay mình lên bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại của cô gái.
    - Con hãy nói đi, cô biết lần trước con chưa nói hết với cô đâu! Con hãy nói cho cô nghe về cha mẹ con, vì sao mà họ mất sớm như thế?

    Như một con chim nhỏ bị trúng đạn, Hương rũ xuống. Tôi quàng tay ôm lấy vai Hương và cô gái trẻ tựa hẳn vào vai tôi.
    - Con nói đi, nếu cần phải khóc thì con cứ khóc! Con có nói ra mới vơi được nỗi lòng và con mới có cơ may thoát ra khỏi những rối loạn mà con đang gặp phải.

    Hương khóc nức nở như một đứa trẻ. Phải khó khăn lắm cô gái mới có thể kể lại câu chuyện đứt đoạn dưới đây:
    - Trước đây bố con là một cán bộ nghiên cứu, bố con rất giỏi. Còn mẹ con là một giáo viên đại học, mẹ con đẹp lắm, giá như mẹ con không đẹp đến thế thì chắc là gia đình con vẫn còn hạnh phúc như ngày xưa. Bố mẹ con sinh được hai chị em chúng con, tuy chúng con đều là con gái nhưng bố con rất hài lòng và hết lòng thương yêu mẹ. Nhưng cô biết đấy, một phụ nữ đẹp mấy khi được yên bình, có rất nhiều đàn ông thường vây quanh mẹ con nhưng mẹ con chỉ yêu thương một người trong số đó. Hồi đó con mới vào cấp hai còn em con mới đang học cấp một. Chúng con không hiểu điều gì đã xẩy ra, chỉ biết rằng bố mẹ chúng con cãi nhau mỗi ngày một nhiều hơn. Có một lần, qua cuộc cãi vã của bố mẹ, con hiểu là bố con đã bắt quả tang mẹ con đi với người đàn ông kia. Rồi bố đuổi chúng con sang nhà hàng xóm chơi để bố mẹ nói chuyện với nhau. Chúng con chơi đồ hàng bên nhà hàng xóm rất lâu mới về. Thấy trong nhà yên ắng quá chúng con sợ, chúng con vào nhà hàng xóm rồi trèo hàng rào vào sân nhà mình nhưng cửa khóa ở bên trong nên chúng con không vào nhà được. Hết gọi mẹ lại gọi bố mà chẳng có ai ra mở cửa cũng chẳng có ai thưa. Chúng con sợ quá nên gọi các bác hàng xóm. Họ phải phá cửa mới vào được nhà con...

    Nói đến đây, giọng Hương bỗng nghẹn tắc lại, những giọt nước mắt lại lã chã rơi. Tôi lau nước mắt cho cô gái trẻ và động viên:
    - Con cứ khóc đi, có lẽ đã lâu lắm rồi con không được khóc phải không?

    Hương lặng đi một lúc lâu rồi nghẹn ngào:
    - Khủng khiếp lắm cô ơi, con chưa bao giờ thấy một điều gì khủng khiếp đến thế! Con luôn cố gắng quên đi nhưng bây giờ dù có nhắm mắt lại con vẫn còn nhìn thấy rất rõ cảnh tượng đau lòng ấy: Bố mẹ chúng con nằm trên một vũng máu. Trên người mẹ con không có một mảnh quần áo nào, trên cổ mẹ con một vết đứt toang hoác vẫn đang còn rỉ máu, trên ngực và cửa mình của mẹ con đầy những vết dao chém... Trên cổ bố con cũng có một vết cứa, máu chảy ra rất nhiều. Chị em chúng con ôm lấy mẹ mà lay gọi nhưng người mẹ con đã lạnh ngắt rồi. Người ta đưa bố con đi cấp cứu. Tuy vết thương do bố con tự gây ra cũng rất nặng nhưng ông ấy được cứu sống. Ông bà ngoại con đã xin cho ông ấy thoát khỏi cái án tử hình nhưng con hận ông ấy nên không bao giờ muốn nhìn mặt ông...

    Tôi xoay người ôm cô gái vào lòng như ôm con gái tôi lúc nó bị ốm nặng. Xa xa, tiếng chuông chùa ngân nga trong hoàng hôn đang chìm dần vào màn đêm...
     
  6. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    Nơi bắt Đầu
    Hồ Thị Ngọc Hoài
    [​IMG]
    - Anh đi đâu đó? Em đi theo với.
    - Thì đi.
    Chúng tôi đi về phía đường cái quan, cái vùng làng sáng sủa vì quán nhiều dần.
    - Anh Bầu này, khi nào cho em đi theo anh ra thành phố với.
    - Khi nào? Thì chuẩn bị đi. Đi chơi thì phải có tí tiền. Gì cũng tiền chú em ạ.
    - Em không có tiền. Em muốn đi thành phố kiếm tiền.
    - Thằng này lại thế rồi.
    - Thế là sao?
    - Là cứ nghĩ phải đi thành phố mới được.
    - Thì cái gì đó nhà quê không bằng ngồi lê thành phố mà.
    - Không biết cứ hay thể hiện.
    - Biết rồi, tại quên.

    Anh Báu vào quán chị Ngần. Người dân mới đây vẫn có kiểu ngồi lai rai ở quán, nhất là quán chị Ngần vào đầu tối.

    Hơn mười tuổi, chúng tôi vẫn còn ngẩn ngơ trước quán chị Ngần thèm kẹo, cái hộp kẹo bán lẻ cho trẻ con vẫn làm chúng tôi thèm rõ dãi, thỉnh thoảng cũng có vài đồng lẻ để mua. Ngày đó, cái chỗ đường làng gặp đường cái quan này còn vắng vẻ lắm, cái quán tre của chị Ngần mọc lên, ai muốn mua gói muối, thẻ hương, chai rượu... cũng không phải chờ đến phiên chợ nữa. Đường cái quan đổ nhựa, dần dần lại có thêm một quán, nó thành nơi rộn nhất của làng.

    Tôi hít căng lồng ngực bởi hình như vừa thoảng nhẹ cái mùi hương rất quen. Cơn gió vừa ùa đến hãy còn làm vòm lá xoan trên đầu rào rạt. Tôi ngửa mặt nhìn lên. Đúng là những cây xoan đang làm nụ kìa, có lẽ đã có cánh hoa nào nở sớm?

    Chị Ngần không lấy được chồng hay không thèm lấy? Người ta nói từ lâu rồi cái chuyện đàn ông dính vào chị Ngần rồi thì bứt không ra, mà bị dính nhiều lắm. Trong làng ngoài xã có hết. Vẫn là người này lườm nguýt, kẻ kia thèm thuồng. Đồn thì nhiều, nhưng bắt tận tay day tận trán thì chưa. Nên chả ai làm gì được. Mà ai dám làm gì, chị ấy mềm dẻo lắm, mấy công an xã, cán bộ xã phải nể hết. Bà nào mà léo xéo gì trước quán, chị ấy thích lên là vặn cho mồm méo. Cái tội chửi đổng, vô chứng cứ là cứ phải thất thế.

    Chuyện trước đây, nghe nói có một gã đàn ông lạ tìm về rồi đi mà không ai hiểu ra chuyện gì.
    Chuyện trước đây, vợ ông chủ tịch xã đổ bệnh vì ghen tuông.

    Chuyện nay vẫn còn, nhiều vợ chồng lục đục, cãi nhau kiểu gì cũng liên quan đến chị Ngần.
    Nghe đâu trước đây chị Ngần đi thành phố về, mắc bệnh gì đó, chẳng chịu làm ruộng, đòi cha mẹ mở quán. Mọi chuyện cứ thật giả lộn phèo. Chả gì cũng là trung tâm rắc rối.

    Mặc anh Báu. Tôi muốn đến nhà cái Mía chơi hơn, nó dạo này đã như cây muốn nở hoa. Đàn bà con gái là thứ gì gì ấy, muốn mà không đến thì không yên.

    Tôi đã yêu như thế nào không rõ. Giờ mới thấy từ khi cha sinh đến giờ thấy không có gì bằng việc yêu. Mà hình như trên đời cũng không có gì hơn là yêu được nữa.
    - Không. Mía phải thi đại học, cao đẳng. Mía chưa yêu.
    - Chưa yêu này...
    - ứ ư ự.. Cái anh này...
    - Dận à? Thôi thì Mía thi đỗ, tôi cứ theo đến tận trường mà yêu cho Mía không còn yêu ai được nữa.
    - ...
    - Mía có biết những lúc đói anh làm gì không?
    - ...
    - Là chui tọt vào giữa ruộng mía bẻ ngang cây, tước, nhai ngấu nghiến, hít hít...
    - Mặc anh, em không thèm biết.
    - Anh thấy Mía giống như cây mía quê mình, thấp nhỏ một chút thôi chứ ngọt lắm.
    - Anh đừng hòng mà phỉnh.
    - Mía thi đỗ thì học, không đỗ thì lấy anh nhé. Anh như thế này mà không yêu, không lấy, sẽ bị cướp mất cho mà xem.
    - Mặc kệ anh.
    - Mặc anh rồi nhé...

    Tôi thèm biết bí mật của Mía. Xáp vô, bứt cái cúc trên cùng, nghe Mía nóng hổi, hầm hập chống trả càng muốn.
    - Mía...
    - ...
    - Nghe thấy gì không?
    - Không.
    - Không này, chết đi này...
    - ùi...đau.
    Những ngày tháng tôi sung sướng vì yêu.

    Chuyến đi xa lần đầu trong đời khiến tôi có cảm giác mình như quả khô tự bong tách vỏ. Thế giới cũ biến vỡ, sắp xếp, hình thành lại. Cái đầu như đất mới được vỡ hoang..

    Anh Báu đón tôi. Vào ăn ở một quán cơm chật chội, kín người.
    - Em chỉ cần được ăn cơm canh thôi cũng sướng rồi, anh mua nhiều thế này.
    - Ăn đi thôi, thế này là tồi lắm rồi em ạ.
    - Ngày đầu đến đây anh thế nào?
    - Anh chẳng nhớ nó ra sao nữa. Đại khái là cũng thiêng liêng lắm. Nhưng cũng chỉ thích vì vẻ ngoài, rất trẻ con.

    Anh Báu dẫn tôi vào một quán cà phê. Trong thoáng chốc đã có thể quen với mọi thứ mà mới trước đó gây choáng ngợp. Bây giờ thành phố đã không còn là cơn thác lũ ào vào tôi đột ngột nữa, tôi ngồi nhìn một góc phố, thấy quen mắt, thấy dần lắng dịu, không muốn nói gì, thấy Mía và cha, Na, làng quê thay nhau chập chờn, xa tít, nhỏ bé, và đáng nhớ. Tôi giờ mới mủi lòng rưng rưng, mới thấy mềm yếu, và càng dần càng im tịt, không muốn nghe anh Báu nói, không muốn quan tâm, chú ý xung quanh. Giờ tôi bị nhũn ra vì lần đầu nhớ. Cả cái làng quê khô cằn, tưởng như không thể nào mà nhớ được, thì chính nó như chực kéo tôi về ngay.

    Anh Báu cũng trở nên trầm ngâm. Chúng tôi ngồi im lặng khá lâu. Khi về phòng trọ, anh Báu ngồi lì bên máy tính.

    Tôi lần đầu uống cà phê, không sao ngủ.
    - Anh Báu này, sao anh không lấy vợ? Anh không muốn chuyện ấy à?
    - Thằng này, thế mày lấy vợ vì chuyện ấy à?

    Nói chán lại im. Im chán lại nói. Đói. Chỉ có ít cá khô, rang lên nhấm nháp với ít rượu, rồi cũng hết.
    - Anh nói thật, mày là thằng được, hay là ôn thi, học đại học? Chẳng muộn đâu, đời đang tha hồ sống. Thế thì may ra mày thoả chí.
    - Em nghèo, học hành sao được, lại còn sắp có con nữa. Mà như anh cũng học hành ngon lành đấy, vẫn chưa ra sao, hay kêu khổ. Đúng không?
    - Ai mà chả hay kêu khổ, mày sống rồi sẽ thấy.
    - Anh đang đọc cái gì mà mê thế, lên ngủ nào?
    - Mày cũng nên đọc nhiều vào, không đọc thì sống chẳng ra cái hồn gì, nhất là những anh nhà quê, không chịu khó đọc thì người ta khinh, mà khinh ngầm ấy.
    - Em cũng nghĩ gần được như thế.
    - Nhưng cái thời buổi này, nhiều thứ nhiễu loạn, nhảm nhí lắm, phải chọn cái đọc, nếu không chỉ phát rồ, phát dại.
    - Em nghe làng nói lâu lắm rồi rằng anh đã từng viết gì đó phải không? Anh viết gì?
    - Viết linh tinh đôi ba bài báo ấy mà.
    - Bây giờ viết nữa không?
    - Không.
    - Sao thế?
    - Chả làm sao cả, không là không, nói nó nhì nhằng lắm.
    - Sao anh không yêu ai, lấy ai nhỉ, nhiều tuổi rồi mà cứ thế này à? Em mà là con gái, thì phải theo yêu anh bằng được.
    - Anh thích đẹp. Đẹp toàn diện. Càng ngày anh càng không chịu được khiếm khuyết của con người, của mình. Cũng có thể chính vì khiếm khuyết của mình mà anh không dám lấy vợ.
    Tôi nghĩ về điều mà anh Báu nói, thực tế là nghĩ về con người anh, một kiểu người.

    Nghe tin cái Na bệnh nặng tôi mong về lắm, nay được về mà không vui. Mười tuổi Na thay tôi đi chợ phiên mua, bán, góp nhóp, đong đếm. Người đã nhỏ, lại xanh rớt, đau vặt.

    Trông thấy cha giặt đồ cho Na. Thật là thương. Đi lâu, giờ nhìn kỹ, thì thấy như là sự khô cằn của đất đai, sự nghèo khổ, lam lũ đã đúc nên gương mặt, những nếp nhăn, và cả xương cốt khô gầy của cha. Thấy tôi, mắt cha rỉ nước, nói bệnh Na không cứu chữa được.

    Tang tóc bắt đầu đến ngõ. Những cơn vật vã đau đớn của em gái trước khi từ giã cõi đời. Cái chết biết trước đến dần, như nạo vét tim óc. Nhưng chỉ cái chết đến thật mới tang thương mà không tưởng tượng nào đạt đến.

    Nhà đang u ám khói hương thì đứa con trong bụng Mía cũng đòi ra đời. Tôi lại chứng kiến cơn đau đẻ vật vã suốt một ngày trời của vợ. Là con gái, được hai cân mốt. Trời đất. Nó còi cọt tách ra từ tấm thân nhỏ bé của mẹ nó, không khác bông ngô trái mùa chịu hạn ở ngoài vườn.

    Mẹ Mía, rồi cả hàng xóm nữa, miệng bày, tay làm. Quạt than, đốt, xông, nấu... các thứ việc mà, nếu không có hàng xóm thì không ổn thoả được. Bà Tam người vốn thường ngày lắm chuyện, hay ghét bỏ, chê bai, thương thì ít, nguýt thì nhiều, cũng sốt sắng tay làm hàm nhai ( trầu), gọi tôi là bố hoe, sai lấy cái tạ, đưa cái quạt... Cho đến khi đâu vào đó, bà ngoại về sau cùng, nhà lại im ắng, vắng hoe.

    Những người đàn bà đến giúp đã khiến tôi nghĩ, thèm nhiều về mẹ. Giá mà tôi cũng có mẹ như người ta. Tôi chẳng còn nhớ mẹ như thế nào? Tôi không biết về mẹ để nói cho chính xác. Có giống như mẹ người ta không? Như mẹ Mía không? Tôi phải hỏi cha về mẹ mới được.
    Cha chưa xuất hiện thì chắc tôi còn ngồi nghĩ mông lung. Đã trưa rồi, nếp sinh hoạt không có bàn tay Mía trở nên khó khăn.

    Anh Báu biết mọi chuyện, bảo tôi đi thành phố kiếm sống nữa hay không không quan trọng, mỗi nơi đều có cái hay cái dở của nó. Đô thị bây giờ hơi người, rác thải, hoá chất tràn ngập bữa ăn, giấc ngủ, huỷ hoại con người từ bào thai chứ không béo bở gì...

    Thế nhưng chờ mọi chuyện ổn thì tôi vẫn phải đi. Không đi không biết gì. Tôi phải nói chuyện với cha. Tôi biết nói với cha cũng như không nhưng vẫn phải nói. Biết là cha sẽ không bàn luận, ý kiến gì, cha chỉ mặc tôi thôi, nhưng tôi vẫn muốn nói với cha đôi lời.

    Sao mà cha bằng lặng, ít điều thế không biết? Cha thấm buồn sang tôi mất. Không tự xoay xở, sợ cuộc đời tôi lại như đời cha.

    Cha cứ ngồi im mãi. Cái bóng dáng của cha, thường làm gì đó thui thủi, hoặc ngồi im bên bàn, ngoài thềm, hoặc bên bếp, càng ngồi lâu, càng như muốn hoá tượng. Tôi đã quen như thế mà không thắc mắc sao cha lại có thể ngồi được như thế?

    Chả hiểu sao tôi lại thích cái ồn ào, lộn xộn của chợ. Nhưng suy cho cùng, ồn ào, lộn xộn như chợ mà vẫn có lề lối, giới hạn. Mới đầu là vẻ tươi mới tươm tất, đâu ra đó. Giờ đông, giờ vãn rất ổn định. Bà hàng dưa tôi hay đến mua, thích nói chuyện, bà ấy còn biết rõ, người xuất hiện ở chợ đúng giờ như một chiếc máy. Có người chỉ được đi chợ có mười phút. Có người cứ thứ bảy mới xuất hiện.

    Náo nhiệt thế chưa đủ, thỉnh thoảng phải chửi nhau, mất cắp. Tôi được chứng kiến cảnh mất cắp chồng. Lần đầu tiên tôi được chứng kiến vụ đánh ghen kinh hồn. Cô gái trẻ đẹp bị xé tơi tả. Nhiều người đứng ngẩn, nhiều người hùa vào: Đồ đĩ, cái quân cướp chồng... Cái loại... Cái ngữ... đừng nương tay...
    Chỉ vài ba phút sau cô gái kia không chống đỡ, van xin nổi, ngồi thụp, co rúm như muốn vo tròn lại, người bên cạnh rỉ tai người bên cạnh, chị em nhà nọ là chị em họ Hoạn, tướng hộ pháp, dữ lắm, cô kia rồi sẽ bị làm thịt...

    Vẫn không có ai giây vào làm gì. Có vẻ như ai cũng muốn xem cho tận cùng màn bi kịch tươi sống, và có lẽ để lại nhiều suy tư.

    Cái máu ghen thật ghê đời. Chưa bao giờ tôi tưởng tượng được đàn bà tệ với nhau đến thế. Cô gái mới vừa nãy khoác quần áo mỹ miều, nom như công chúa, bây giờ lấm lem, rách rưới, nom thật man rợ giữa nền đất chợ đen đúa, lớp nhớp. Có lẽ sự dày vò, sỉ nhục ở chợ là tàn nhẫn nhất.
    Anh Báu vào viện khám lại, rồi thông báo rằng phải về quê một thời gian. Tôi bất ngờ quá. Không có anh thì tôi còn đâu tinh thần, làm sao có thể tính kế phát triển gì về sau? Anh ấy có trở lại đây nữa không mà bốc cả máy tính về? Từ nay vô mạng cũng khó khăn.

    Tôi đã nghiện mạng. Tôi đang bắt đầu viết. Trong máy tính anh Báu đã có đoạn:
    “Khúc sông hiện ra, tôi nhảy xuống ngụp lặn vẫy vùng, đuổi theo Mía, kéo xuống sông, toàn thân hai đứa ướt đầm chồng lên nhau. Hổn hển. Mía chụp lại, tay giữ khư khư. Tôi cắn lên vai Mía một miếng thật đau. Thèm da dẻ, thân thể Mía, thèm chuyện bí mật.”

    Nhưng thật ra tôi muốn viết về cha hơn. Tôi muốn mọi người biết được rằng cha có mặt trên cõi đời, nếu không cha sẽ chìm khuất nơi góc quê, chìm lặng, u ám, rồi chết. Tôi muốn mọi người biết về cha. Nhưng viết như thế nào? Bắt đầu như thế nào? Cha chỉ biết một vùng đất rất bé nhỏ so với toàn bộ những chỗ tôi đã đi, chưa nói nhiều nơi tôi chưa đi. Cha không biết chữ. Cha không biết được gì nhiều. Hay tại tôi không biết được gì nhiều về cha? Người ta viết về cha hay thế, nhiều thế, tôi cũng muốn viết về cha vì cha tội nghiệp, đáng thương. Người cha khô gầy, nhỏ bé, gần như cả ngày không nói, cứ lầm lụi mang bóng ra đồng bãi, ngồi khuất bên cỏ cây, rồi quanh quẩn ở trong nhà. Cha dấu trong cái thân hình bé nhỏ những gì? Tôi không biết. Viết như thế nào thì được. Có lẽ tôi phải về hỏi cha nhiều.

    Đó chỉ là ước muốn. Nó nung nấu, thôi thúc tôi. Chỉ có điều tôi chưa biết viết như thế nào thôi. Giá như có ma quỉ, thần thánh gì ám vào người cho tôi làm được mong muốn này. Giá như mà cả thế giới biết được. Cha tôi không vĩ đại, nhưng mà cha cũng rất đáng biết, cha không vĩ đại, không có gì phải kính phục, nhưng tôi sẽ buồn khi nghĩ cha khổ cực đi vào cõi chết, như chưa hề có mặt trên đời.

    Trời sáng hẳn. Tôi ra ngoài hít thở. Tôi thấy như là mình già đi thì phải. Tôi vừa nhận lương phụ hồ hôm qua, bỗng trở chứng không muốn đi làm. Tôi cảm thấy chán ngán, buồn tẻ nếu hôm nay tôi vẫn cố như mọi hôm.

    Tôi quyết định tìm đến nhà hàng Hoa Lan làm việc vì sự thay đổi, và lương cũng khá hơn. Tôi có nghe người xung quanh nói một chút về bà chủ, nhưng khi vào phòng làm việc tôi nghĩ, một vài thông tin ngoài chưa nói được gì.

    Thì ra mọi hoạt động của nhà hàng đều có trên màn hình cả.
    - Chào cậu. Mình bắt đầu nhé. Trước hết cậu đọc cái này đã.
    Đó là bản in những yêu cầu, và những phổ biến kiến thức nghề cần thiết. Đọc xong tôi cảm thấy thoải mái tự tin, thấy mới mẻ.
    - Được chứ? Cậu có thể giới thiệu mình, viết vào đây giúp tôi. Vui lòng gửi lại chứng minh nhân dân nhé.
    - Dạ. Được rồi thưa chị.
    - Ngày mai bắt đầu chứ?
    - Vâng.
    - Ok.

    Không khí mới, nhịp sống mới, cái mới bao giờ cũng dễ chịu. Mười giờ đêm trở đi được tự do, tuỳ sức khoẻ, sở thích mà chơi. Ngày nhận lương, tôi lên gác gặp bà chủ xin về vài hôm. Tôi sẽ nói dối người nhà có chuyện. Hy vọng ban đêm, con người ta thư thái, thong thả, nói chuyện, xin xiếc gì cũng dễ hơn.

    Tôi giơ tay gõ cửa, nhưng nghe có tiếng... Là tiếng rên rỉ. Tôi cảm thấy những cơn thúc mạnh mẽ sau tiếng rên. Tôi đứng căng buốt, ghì lại. Tiếng rên nhỏ, lịm dần. Người sống một thân, một mình thì không được phép làm cái việc ấy hay sao? Tôi đi lang thang, không lên mạng.

    Cái thời của bao cao su, tàu nhanh, tàu suốt mà mình lạc hậu thật. Không biết, không quen. Bắt đầu có ai quen và biết cái gì đâu. Dơ bẩn, bệnh tật. Thì đã có bao cao su.
    Đôi mắt cô ta ướt, như sắp có tình, nhưng một cô gái mới lớn, chưa biết làm cho đỡ xấu thì chắc chưa biết gì về việc ấy. Nhưng dù sao cô ta cũng như cây sắp trổ hoa. Mà nghĩ thế thôi, ai lại làm thế.

    Đi hoang về mỏi rũ, đặt đít ngồi ở cái chỗ đoạn tường chắn xây lửng sân sau.
    Tôi không sao ngủ được. Nghe những cơn thúc mạnh, nghe tiếng rên hoan lạc. Tôi mơ về nhà. Tắm xong, xông lên giường bóc xé lớp vỏ ngoài của Mía, hổn hển, Mía chưa cho:
    - Từ từ nói chuyện em nghe đã.
    - Không.
    - Không!
    - Có chịu yên không? Dập ra bã ngay bây giờ.
    - Không.
    - Không chỉ ra bã mà cho thành tro luôn...

    Sáng dậy, nhớ lại giấc mơ, tôi như người khát khô dốc cái bình cạn nước. Có lẽ tôi phải về nhà vài hôm.

    Lần này, nghe ngóng cẩn thận tôi mới gõ cửa.
    Cửa phòng khẽ hé mở, một góc bên trong lạ lùng lôi kéo.
    - Bầu vào đi.

    Tôi bước vào như bị thôi miên, rồi như vỡ ra trong một không gian đầy ắp tình tiết đẹp. Lần đầu tiên tôi biết một căn phòng như thế. Người tôi chuyển biến vì thèm muốn, ít ra thì cũng thèm muốn ngồi nghiêm túc, nhìn lại những gì vừa thoáng qua, những gì mà trước đó tôi chưa bao giờ nghĩ tới. Tôi chạm vào sâu chính mình trong một khoảnh khắc hiếm hoi, mà thật ra là chưa bao giờ có cảnh này.

    Khác với cách tôi nghĩ về bức tường, bức tường trước mặt tôi có màu sắc tạo hình lạ lắm. Người ta dành toàn bộ bức tường này cho một bức tranh khoả thân.
    - Một hoạ sỹ đã vẽ cho tôi đấy.

    Tôi sẽ bị các chi tiết ở đây dẫn dắt mất. Chắc không cảm nhận một lúc đầy đủ hết. Những bông hồng trước mặt...
    - Bầu uống đi. Đã được một tháng rồi ấy nhỉ? Thấy sao?

    Bắt đầu một bản nhạc êm nhẹ, có lẽ...
    - Là cái gì ạ? Nói chung, tất cả đều vẫn đang còn mới lạ.
    - Người ta hầu hết chỉ thích khi đang còn mới lạ.

    Tôi chẳng hiểu hết cái nhìn, cái điệu vẻ của bà chủ. Nó được tạo ra như một thứ chuẩn, nhưng mà có vẻ cứ như không. Bà chủ với chị Ngần, có gì giống nhau. Nhưng bà chủ, kiều diễm, cao sang, bảo đẹp vì lụa thì rất đúng.
    - Phòng chị có những đồ vật lạ nhỉ?
    - Một số đồ vật là kỷ niệm hồi ở Tây, cách trang trí, thiết kế cũng ảnh hưởng cái vẻ của Tây đấy. Bầu có cảm nhận được không? Người Tây họ văn minh lắm. Tôi thì nửa Á nửa Âu.
    - Thỉnh thoảng em lên phòng chị chơi được không?
    - Được chứ. Tôi sống thoải mái mà, chã lẽ bình thường cậu thấy tôi đáng ngại sao?
    - Không. Nhưng bây giờ thì khác.
    - Ok. Tôi hiểu. Hôm đầu, nhìn cậu đọc, tôi đã nhận ra cậu có cái gì đó khác với nhiều người. Mình uống một chút bia nhé?
    - Em muốn về nhà vài hôm chị ạ.
    - Cậu có theo qui định của nhà hàng không?
    - Em biết, nhưng... em muốn đưa tiền về cho cha.
    - Việc đó đã có bưu điện.
    - Cha em không thể ra bưu điện.
    - Tôi hiểu, có lẽ ông bị bệnh gì đó. Không còn cách nào khác sao?

    Tôi không đành nói khác sự thật cho sâu hơn. Tôi nói lý do về là không cơ bản. Tuy nhiên, thực thì tôi cũng muốn đưa tiền về cho cha vui. Cha có lẽ chưa bao giờ có nhiều tiền. Trước đây, khi Na bán được cái gì, đưa tiền cho cha, cha cầm lấy vuốt vuốt rồi đưa lại cho Na.
    - Tối mai, tối kia em lại lên chơi được không?
    - Được chứ. Tôi có thể biết điều gì làm nên mong muốn này?
    - Vì cái đẹp.
    - Thế à? Cái đẹp chênh lệch nhau dài ngắn tuỳ mắt nhìn, và không phải là đẹp không bị chán đâu.
    - Bây giờ em thấy chị khác với những ngày qua lắm.
    - Cậu thấy gì?
    - Một phần thật bên trong.
    - Cậu đang muốn khen?! Con người rất thích được tán thưởng đúng. Thật ra không phải bây giờ tôi mới thấy cậu thú vị. Tôi nghĩ cậu đã sớm là người sâu sắc, và cậu để mà xem, cứ khoảng năm hoặc bảy năm, cậu lại có những bước ngoặt. Sau một thời kỳ, với những người có khả năng tích luỹ thì điều đó là tất yếu.

    Tôi thấy mình như đang được học. Tôi thấy người trước mặt tôi mỗi lúc một khác, rõ hơn nhưng cũng vô cùng hơn. Cảm xúc của tôi vẫn mạnh khác thường.
    - Khuya rồi. Mình đi ngủ thôi nhé.
    Tôi đứng dậy về phòng. Thấy luyến tiếc.

    Từ đó tôi mê say chị, người đàn bà đã từng học tâm lý ở Tây về, hình như phải trải qua rất nhiều chấn động về tâm lý nên dám có những lựa chọn rất lạ. Tôi đã đến với chị trong nhiều vai. Tôi đã không đừng được việc ấy, khi mà trong không gian ấy cái gì cũng đẹp và chín hồng.
    Những lúc như thế tôi là thằng đàn ông mê muội. Không ân hận gì, không tiếc gì, không thấy gì ngoài cái đẹp. Chị cũng biến mình, cũng lột xác, trong phòng ngủ của chị, mọi thứ đều hoàn hảo.

    Chị biết cách làm cho tất cả trở nên phù hợp.

    Nhưng tôi không thể chịu được những đêm chị đóng cửa sau khi đã đi đâu đó về khuya. Những đêm bị từ chối làm tôi khổ sở. Tôi dận, nhưng với chị thì như không.
    - Cậu đừng như thế. Phải quen với việc tôn trọng tự do của người khác chứ.
    - Chị làm cho sự việc thành tầm thường.
    - Thôi mà. Sao lại có những ý nghĩ như thế mới được chứ.
    - Với em đó là cái đẹp, sự thiêng liêng.

    Chị ngồi thế. Im lặng xa xăm và phảng phất buồn. Tôi lại đắm đuối. Lại đích thực thằng đàn ông mê muội.

    Có khi tôi cũng nghĩ mình chỉ là một tên tôi tớ tình dục thôi. Sự vật chỉ khác ở tên gọi, và cảm xúc phủ lên nó. Nhưng tôi không thể dứt lìa, vẫn cố nuôi cảm giác thiêng liêng.

    Cũng biết là không thể sống như thế này mãi, mà cái tình với Mía thì lạt mất rồi. Một năm một lần về tết, thấy đời sống quê khắc khoải, nhạt nhẽo, Mía vô vị, chênh lệch.

    Nhưng dù sao tôi vẫn phải đền đáp công của Mía. Có lẽ cũng chỉ là ở những đồng tiền tôi mang về, và những lần làm chuyện ấy nhưng gần như trơ ráo cảm xúc.

    Cho đến khi Mía gọi tôi về gấp, chìa cho tôi tờ đơn li dị tôi mới ngẫm nghĩ nghiêm túc lại mọi chuyện. Tôi không ngờ được. Tôi nhầm tưởng vì thái độ của Mía. Tôi không hiểu hết.

    Không thể thay đổi được sự việc. Tôi là con người thế nào? Tôi phải làm thế nào? Tôi cũng không biết làm thế nào thì được. Con người tôi muốn cái gì, không muốn cái gì? Không có gì rõ ràng chắc chắn cả. Tôi đang thấy không thích phía trước, không thích phía sau, và ngán hiện tại.

    Mía đã mang con gái đi đâu bằn bặt. Có lẽ cha tôi nhớ cháu, vẫn lẩm bẩm gọi tên nó như thói quen, và thường bỏ bữa đi nằm. Cái cảnh làm tôi buồn rệu rã. Đâu như tôi đã rơi nước mắt.

    Bây giờ anh Báu và chị Ngần cũng bẻ dần những miếng bí mật của đời mình cho tôi hay. Có lẽ tôi chưa đến mức để đi khám nghiệm chăn
     
    Chỉnh sửa cuối: 12/5/12
  7. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    Cầm Đồ
    Phan Ngọc Danh
    [​IMG]
    Hôm ấy là một buổi chiều cuối tuần, khách vãng lai trong bệnh viện thị trấn thưa thớt hơn mọi ngày. Mặt trời sắp lặn bên kia đỉnh núi nên nắng dịu hẳn; bóng của căn nhà hồi sức trải dài lên trên bãi cỏ, liếm dần ra tới cuối sân.

    Trên một chiếc giường trong căn phòng B1 ông Xây nằm bất động, mắt lờ đờ nhìn vẩn vơ ra ngoài hành lang. Tuổi ngoài 40, ông có dáng người tầm thước, nước da xanh xao, má hóp, mũi khoằm, mái tóc lưa thưa với hai cọng râu mép uốn cong trông như râu ông Táo. Đầu óc ông đang rối bù vì tiệm cầm đồ phải đóng cửa hơn một tuần nay. Ông đang lo, ‘Nếu cứ phải đóng mãi như thế này thì lấy tiền đâu để nộp thuế thổ trạch, trả hụi hè, điện nước và mấy thứ linh tinh khác?’ Đang nghĩ ngợi bâng quơ, chợt ông nhớ đến cô Thêm, ‘Tuy mình đã khóa chặt cái tủ sắt, nhưng cô này tinh mắt lắm. Nó mà biết được mình giấu chìa khóa chỗ nào thì… tan gia bại sản.’ Để tự trấn an rằng cô không thể nào biết được chỗ giấu chìa khóa, ông lấy tay bóp trán, cố nhớ lại từng giây phút, từng cử chỉ, vị trí của cô kể từ ngày cô bước vào cửa tiệm cầm đồ của ông, cách nay gần ba tháng.
    “Chào cô Thêm! Gánh nước xong rồi hay sao mà đến đây chơi vậy?”

    “Đâu đã xong! Trời nóng quá, mới mười giờ sáng mà nóng cứ như một hai giờ trưa, chịu không thấu! Anh cho em vào đây nghỉ mát một chút được không?”

    “Trời ơi! Cô nói gì kỳ cục vậy. Khi nào rảnh cô cứ vào đây chơi, chỗ quen biết với nhau cả mà! Mời cô uống miếng nước.” Vừa nói ông vừa rót ly nước đưa cho cô. Trong khi cô đang uống ông quan sát cô từ đầu đến chân rồi nghĩ thầm, ‘Mặt mày cũng không đến nỗi tệ lắm, chỉ có cái thân bồ tượng… lấy chồng thì mắn đẻ phải biết!’

    Cô Thêm mới ngoài 30, mặt tròn quay như cái bánh đúc, da ngăm đen với cặp môi dày và cái mũi đã hở lại còn tẹt. Người cô thấp nhưng đẫy đà với hai gò ngực tròn lẳn, hai bờ vai chắc nịch. Vì quen gánh nước nên hai tay cô đánh đong đưa theo mỗi bước đi và đôi chân lạch bạch như vịt sắp nằm ổ. Dân buôn xung quanh thị trấn này đều biết cô gánh nước mướn. Người nào cần nước chỉ nhắn một tiếng là cô tới ngay. Trung bình mỗi ngày cô gánh khoảng hơn mười thùng từ cái máy nước công cộng sát cổng chợ. Giá cả cô tính tùy theo xa gần; gặp nhằm bữa cơm, nếu chủ nhà mời ăn thì cô lấy công rẻ hơn hoặc gánh dôi thêm cho một hai thùng. Lâu nay ông Xây biết cô nhưng chưa bao giờ có dịp thuê cô gánh nước cả.

    Uống xong nước cô Thêm trả lại ly rồi quan sát mấy thứ hàng bày biện trong tiệm. Cô thấy một chiếc xe đạp xẹp bánh dựng sát tường, vài cái nồi đồng thật lớn dùng để nấu cỗ được treo trên trần nhà. Phía sau quầy, sát chỗ ông Xây ngồi, là vài chiếc đồng hồ treo tường và những thứ vặt vãnh khác. Trong các thứ người ta đem đến cầm ông thích nhất là cầm vàng, bởi vì vàng dễ cất giữ, không choáng nhiều chỗ, mà lại có giá nếu phải bán và tiền lời lại cao.

    “Anh Xây à, hồi này giá vàng lên hay xuống hả anh?”

    Ông trợn tròn mắt, ngạc nhiên sao ‘con nhỏ gánh nước mướn’ này lại hỏi một câu láo lếu như vậy. ‘Nó cả đời kiếm không đủ ăn, chưa bao giờ thấy vàng là gì mà dám hỏi giá cả. Hay nó muốn giỡn mặt mình?’

    “Vàng à? Giá chuộc thì lên, giá cầm thì xuống.”

    Ông nói rắc rối quá, cô không hiểu nổi. Với dáng rụt rè cô bước đến gần quầy rồi nói vừa đủ nghe, “Anh Xây, em… cần một ít tiền.”

    “Cô có gì cầm thế không?”

    Cô Thêm không trả lời ngay, chỉ lần mò trong túi áo lấy ra một cái bọc vải. Cô cẩn thận tháo sợi dây cột và mấy lớp vải bọc rồi liếc quanh xem chừng có người nào theo dõi không. Sau cùng cô trịnh trọng cầm cái nhẫn vàng, hai tay run run đưa vào cho ông.

    “Ồ… cô cũng có vàng à?”

    “Dạ, mẹ em cho em trước khi bà mất để làm của hồi môn.”

    Tay trái ông cầm chiếc nhẫn, tay phải nâng cái ống kính hiển vi bé tí lên kẹp vào mắt để quan sát.

    “Khoảng hai chỉ, 24 ca ra.”

    Theo thói quen nghề nghiệp, ông cầm trả chiếc nhẫn lại cho cô ngay để cô tin cậy là ông không có ý tráo trở. Còn cô, khi đưa nhẫn cho ông thì sợ bị giựt vì không có ai đứng cạnh làm chứng, nhưng khi ông trả lại thì cảm thấy không vui, sợ chiếc nhẫn là vàng giả, ông chẳng thèm cầm cho.

    Trong khi cô đứng chờ đợi, với ngón tay lần mò trên cuốn lịch tam tông miếu treo sát cạnh, ông Xây vừa nhìn vừa lẩm nhẩm phần bói toán, điều kỵ húy, giờ trùng, sao hạn, vân vân. Xem lịch xong ông dùng ngón tay cái bấm đốt vào mấy ngón tay kia, miệng lẩm bẩm tính toán rồi thở dài, “Xui quá cô Thêm ơi! Giá vàng bây giờ xuống lắm, tôi sợ không cầm được cao đâu!”

    “Dạ, thì đã biết vậy. Em chỉ nhờ anh giúp cho… được chừng nào hay chừng nấy.”

    “Cô làm gì mà cần tiền gấp dữ vậy?” ông Xây dò hỏi để ước lượng tâm lý khách hàng.

    “Chẳng nói giấu gì anh, em… vỡ một bát hụi vì… đánh số đề.”

    “À… thì ra vậy. Nhưng lỡ có tiền rồi cô thua nữa thì sao? Lấy đâu ra tiền để chuộc chiếc nhẫn?”

    “Không, anh đừng lo. Bây giờ em đã biết cách đánh. Vả lại, người ta còn nợ em hơn hai mươi thùng nước chưa trả. Cuối tháng này em sẽ có tiền chuộc, anh tin em đi!”

    Cô Thêm đứng tần ngần, tay cầm cái nón, quạt phành phạch lên khuôn mặt đang đỏ ửng. Cô hồi hộp theo dõi từng cử chỉ, nét mặt của ông Xây, hy vọng ông cho giá cao.

    “Đâu? Cô đưa cho tôi coi lại xem sao?”

    Ông đưa chiếc nhẫn lên sát mắt, quan sát một hồi thật lâu rồi đặt lên bàn cân để đo. Sau đó, ngước đầu nhìn chăm chú vào mặt khách hàng, ông quả quyết, “Cái nhẫn này… khá lắm thì chỉ được một triệu hai.”

    “Một triệu hai?” cô Thêm há hốc mồm ngạc nhiên. Ngừng giây lát để lấy lại bình tĩnh cô năn nỉ, “Người ta nói với em là thế nào cũng hai triệu bảy, anh thử tính lại xem…”

    Ông Xây ngồi yên lắc đầu, mặt lạnh như tiền, không nói gì thêm mặc cho cô van lơn,

    “Anh Xây à, cái nhẫn này vàng thật đó. Anh nhìn xem, nước nó bóng lộn như thế kia! Mẹ em dặn mãi, khi nào đi lấy chồng mới đem ra dùng chứ nhất định không được đem… đi cầm.”

    Nói đến đó mắt cô đỏ lên như muốn khóc, không hiểu cô khóc vì làm trái ý mẹ hay vì ông Xây cho giá quá hời. Trước khi vào tiệm cô đã nghĩ thế nào cũng cầm được ít nhất là hai triệu rưởi hoặc tệ lắm là hai triệu ba, nào ngờ chỉ được một triệu hai, không tới một nửa.

    “Anh… anh làm ơn làm phước giúp em. Bất cứ giá nào cuối tháng này em cũng phải chuộc lại. Anh đừng lo… em…”

    Thấy tình cảnh cô Thêm khó khăn, vả lại cầm vàng chứ cầm gì mà phải sợ nên ông Xây nhượng bộ chút đỉnh,

    “Thôi, nể tình cô, tôi cầm cho triệu rưởi. Tôi vốn ăn ngay nói thiệt, bà con mình với nhau cả, giúp được cái gì thì mình giúp chứ nhiều lời để làm chi! Đó, cô tính kỹ đi, một triệu rưởi. Được thì làm giấy tờ, còn không thì thôi. Chỗ tôi với cô… quen biết nên tôi không nói thách, không tin cô cứ hỏi thử bọn bạn hàng xung quanh đây mà xem...” Vừa nói ông vừa đưa trả chiếc nhẫn cho cô.

    “Anh cho em triệu bảy… thêm chỉ một chút thôi! Tin em đi… cuối tháng em chuộc lại ngay.”

    Suy nghĩ một lúc ông Xây rút tờ giấy giao kèo dưới gầm bàn lên để viết. Viết xong ông bảo cô ký vào rồi đếm tiền giao cho cô.
    Hai tuần sau đó cô Thêm lại bước vào tiệm cầm đồ của ông Xây một lần nữa. Lần này tóc tai cô bơ phờ, mặt tái như miếng thịt luộc ba chỉ, cái áo cánh rách một bên nách, để lộ một mảng da trên vai. Cô cẩn thận đặt cái đòn gánh lên trên hai cái thùng không sát ngoài cửa rồi đẩy nhẹ, bước vào. Vì đã quen với lần trước, cô bạo dạng bước đến sát quầy.

    “Chào cô Thêm, cô đến chuộc chiếc nhẫn à?”

    “Dạ… không! Em kẹt tiền quá anh Xây ơi!”

    “Vậy à? Lạ… quá nhỉ!” Ngẫm nghĩ một lúc ông tiếp, “Nếu cô kiếm được một người nào trong thị trấn này mà không kẹt tiền tôi trả cho cô một triệu.” Nói xong, ông Xây nhe răng cười, cảm thấy hãnh diện cho câu nói châm biếm của mình.

    “Em khổ quá… chỉ muốn chết mà không cách nào chết cho được. Người ta đã dặn là đánh hai đầu cho chắc, lỡ hụt đầu này còn có đầu kia. Đã vậy, cái con số 10… mua nó làm gì không biết nữa?”

    Trong khi cô đang than thân trách phận thì ông Xây lại mỉm cười, sung sướng. Không sung sướng sao được khi mà khách hàng túng bấn, làm ăn thua lỗ, không có tiền chuộc thì thời gian cầm đồ lại kéo dài để tiền lời tăng vọt lên. Ông ấn định mức lời tùy theo hoàn cảnh mỗi người; lời cao quá người ta không chuộc nổi thì ông mất công đem đi bán, mà lời thấp quá thì lấy gì để ông được rủng rỉnh như ngày hôm nay. Chính vì vậy, để làm giàu trong nghề này, ông phải cẩn thận, xét đoán người và vật một cách tinh tế, lẹ làng chứ không ỷ y được.

    “Anh Xây, anh có thể cho em vay… ba triệu được không?”

    “Ba triệu? Cô nói đùa hay nói thật hả?” ông Xây lớn giọng.

    “Dạ, em nói thật mà!”

    Nghe vậy ông Xây liền xoay người, ngồi nhổm dậy rồi nghiêm nét mặt, “Cô có gì để cầm không?”

    “Dạ, em tính… nếu gánh nước chừng sáu tháng thì có đủ tiền trả cho anh.”

    “Thôi, chỗ làm ăn lương thiện với nhau, vả lại tôi mới mở hàng, cô đừng có đùa dai nữa. Lỡ cô bỏ trốn đi xứ khác thì lấy gì tôi đòi? Người ta vào đây cầm đồ phải có một cái gì đưa cho tôi để thế chân, chứ còn cô, đưa tiền cho cô thì tôi cầm lấy cái gì?”

    Cô Thêm suy nghĩ mông lung, không biết trả lời như thế nào. Chợt cô nghĩ ra một cách,

    “Hay anh cầm… em?”

    Ông Xây trố mắt, há hốc mồm, “Cái thân cô tôi ôm còn không xuể nói gì đến cầm… Cô tính tôi cầm cô là cầm làm sao?”

    “Thì anh cho em mỗi tối về đây để anh… cầm… còn ban ngày em đi gánh nước cho người ta. Khi nào kiếm đủ tiền em lại chuộc lấy thân em.”

    Ông Xây không ngờ cô Thêm đề nghị một giải pháp táo tợn; nếu người ngoài biết được ông phải giải thích làm sao? Vì chưa bao giờ cầm thế một mạng người để sinh lời nên ông ái ngại, đắn đo hơn thiệt. Ông tự hỏi, cô Thêm này, vai u thịt bắp với hai bộ ngực như hai quả bưởi, đáng giá thị trường bao nhiêu? Nếu sau này cô không có đủ tiền để chuộc lấy cái thân của cô thì ông phải xử trí ra sao? Nuôi cơm suốt đời? Đem ra chợ bán? Nếu bán theo cân ký chắc chắn là có lời nhưng… thôi rồi, ông bán… nô lệ. Mới nghĩ vậy ông đã hãi quá, nói ngay như ma đuổi,

    “Không được, nhất định là không được. Tôi mà cầm lấy thân cô thì có nước ở tù; sau này, nếu phải đem cô ra chợ để bán công an còng tay tôi ngay. Mà cầm lấy thân cô biết bao giờ cô trả nổi tiền cho tôi? Vả lại, khi thân cô đói hoặc đau ốm tôi phải nuôi cơm, thuốc thang… nếu không, đến khi cô đến chuộc lại tôi lấy đâu ra cái thân cô lành lặn để mà trả, mà hủy giao kèo?”

    Nghe ông Xây giải thích cô Thêm không hiểu gì cả; cô chỉ nghĩ đơn giản là cầm lấy tiền, một nửa để đóng hụi chết, một nửa đánh số đề rồi khi nào kiếm đủ tiền thì chuộc lại cái thân. Đơn giản như vậy mà tại sao ông này cứ nói lòng vòng?

    “Anh cho em cầm thế tạm thân em. Em hứa là em không bỏ trốn đi đâu cả. Anh biết mà, nhà em ở ngay trong chợ, quê em là thị trấn này, anh tính em bỏ trốn đi đâu?” Nói xong cô đảo mắt tìm một góc nào thuận lợi ở trong tiệm để có thể nằm ngủ được. “Mỗi tối anh chỉ việc cho em trải chiếc chiếu, ngủ vào cái góc này… rồi sáng dậy em sẽ dọn dẹp đàng hoàng mọi thứ trước khi đi ra chợ. Em hứa…”

    Nhà ông Xây chỉ có hai phòng sát mặt đường cái; phòng dưới dùng làm tiệm cầm đồ, phòng trên gác để cho ông nghỉ ngơi. Theo thói quen nghề nghiệp, tính toán điều hơn lẽ thiệt, ông thấy chỉ bỏ ra ba triệu mà có người canh gác không công cho mình thì còn muốn gì hơn nữa? Thêm vào đó, sau một thời gian, ba triệu thành ba triệu mốt, ba triệu hai rồi cứ vậy, nhiều lên mãi. Ban đêm ông lại được ngủ yên giấc, không phải lắng nghe có người nào cạy cửa, trộm cắp ở dưới nhà. Ông nghĩ thầm, ‘Cái mối này đúng là của bở, một vốn mười lời chứ chẳng sai!’

    “Thôi, nghe cô nói như vậy tôi thấy cũng tạm ổn. Nhưng mà tuyệt đối cô phải kín miệng, không được nói cho ai hay chuyện này.” Nói xong ông thò tay vào dưới gầm bàn rút ra tờ giấy giao kèo. Viết được vài chữ ông chợt khựng lại, nhìn chăm chăm vào cô, “Tôi phải viết, cầm thế cái gì đây?”

    Cô Thêm cũng hoảng vía, sợ rắc rối giấy tờ nên nói đại, “Thì anh cứ viết cầm cái thân của Nguyễn thị Thêm cũng được. Chỉ có anh với em đọc thôi mà!”

    Suy nghĩ giây lát ông viết, ‘thân của cô Nguyễn thị Thêm, khoảng chừng 60 ký thịt’ vào mục vật dụng thế chấp. Trong phần lãi xuất ông ghi một trăm nghìn mỗi tháng và hạn định một năm sau phải trả cả vốn lẫn lời. Khi mọi thứ đã điền xong ông đếm tiền rồi đưa tờ giấy cho cô ký vào.

    Từ đó, mỗi tối trước khi ông đóng cửa tiệm cô Thêm lại gánh hai cái thùng không đi vào. Đợi cho ông khóa xong cửa ngõ và leo lên gác cô liền trải tấm chiếu ra một góc rồi nằm ca cải lương, ru giấc ngủ.

    “Bác Xây, xin bác cho cháu lấy máu để thử,” cô y tá nói lớn sau khi bước vào phòng B1.

    Đang nghĩ ngợi miên man về chuyện cô Thêm mò lên gác để tìm chìa khóa tủ sắt, ông Xây giật mình khi nghe gọi tên. “Cô định lấy bao nhiêu? Lấy đủ dùng thôi nghe không! Đừng lấy dư quá, phí đi mất.”

    “Vâng ạ!” Cô trợn tròn mắt trả lời, bước đến vén tay áo của ông rồi hút ra đầy một ống tiêm. “Xong rồi. Bác có mệt lắm không?”

    “Không. Cám ơn cô. À, mấy giờ thì có cái để ăn?”

    “Dạ, hồi nãy nhà bàn đem đồ ăn vào nhưng thấy bác mê man nên họ đem về.”

    “Như vậy đâu có được. Mê man là chuyện khác, phần ăn của tôi vẫn phải để cho tôi chứ?”

    “Dạ, bây giờ thì trễ quá rồi. Hay là thế này… trưa mai cháu bảo họ đem vào cho bác… hai phần ăn, bù cho tối hôm nay.” Vừa nói cô vừa ghi vội mấy chữ vào cuốn sổ bệnh trạng treo trên đầu giường rồi bước ra cửa.

    Trời tối dần, một vài hàng quán bên ngoài bệnh viện đã lên đèn. Tiếng ca Út Trà Ôn trong bài ‘Tình anh bán chiếu’ vọng ra từ đâu đó trong khu nhà ăn. Thỉnh thoảng người ta lại thấy một vài chiếc xe máy, xích lô chạy vội vào cổng. Trong trạm, anh gác dan uể oải ngồi nhìn bâng quơ; một tay anh cầm lá cờ hiệu màu đỏ còn tay kia cầm điếu thuốc đang hút dở. Khung cảnh bệnh viện chiều thứ bảy vắng lặng, đìu hiu.

    Hơn hai tuần nay, bệnh tình ông Xây mới đầu tưởng chỉ cảm sốt nhẹ vì thời tiết thay đổi, không ngờ lại nặng hơn khiến ông phải đóng cửa tiệm. Hàng xóm sang thăm, thấy ông nằm co quắp, run cầm cập trên gác xép nên khuyên đi khám. Nhưng ông khất lần, viện lẽ, ‘đi bác sĩ, nhà thương chỉ tốn kém chứ được ích gì! Xưa nay, người ta vẫn khuyên ăn cháo trắng, vừa đỡ tốn tiền vừa trị được bá bệnh.’

    Thế là ông nhờ cô Thêm nấu cho ông một nồi cháo trắng thật lớn để ăn dần. Ăn được vài hôm ông nuốt cháo không nổi, môi ông lạt, cổ đắng chát và đầu nhức như búa bổ. Nằm một mình trên căn gác xép, ông cảm thấy một nỗi cô đơn mà cớ sao những lúc khỏe mạnh ông lại không nghĩ đến. Bây giờ, gặp lúc phải nằm trong bệnh viện như thế này, ông mới thật sự thấy cần một người đàn bà trong cuộc đời của mình, dẫu đó là một người mẹ, chị hay em hay tốt hơn cả là một người vợ.

    Lấy vợ tốn hết bao nhiêu? Ông tự hỏi rồi tính nhẩm, ‘Bao nhiêu thì không biết, nhưng chắc chắn là phải tốn. Mà tốn kém thì không ai muốn cả.’ Chính vì sự tốn kém này mà bấy lâu nay ông khất lần, mặc cho mẹ ông năn nỉ là bà muốn có một đứa con dâu và vài đứa cháu. Ông thoái thác mãi, khi thì viện cớ chưa gặp được người hợp ý, khi thì buôn bán bận rộn, không được giao tiếp nhiều. Cho đến ngày mẹ ông mất mấy năm về trước ông thấy mình cũng đã lớn tuổi; sợ cảnh 'cha già con mọn' nên ông thôi, không nghĩ đến chuyện vợ con nữa. Tuy vậy, cũng có những lúc ông xót xa cho thân phận hẩm hiu của mình: Phải chi mẹ đừng mất để ông vừa có một người đàn bà trong nhà mà lại không phải tốn một đồng xu nào cả.

    Đang suy nghĩ bâng quơ về cuộc đời, về cảnh tuổi già đơn chiếc sau này, ông nghe một vài tiếng sấm nổ đì đùng như súng đại bác vọng về từ hướng tây nguyên. Một lúc sau gió ngoài sân bắt đầu thổi mạnh hơn, tạt vào phòng khiến ông cảm thấy ớn lạnh. Mưa phùn cũng bắt đầu rơi lộp độp lên trên mái tôn, văng vào hiên và tiếng người chạy rầm rập dọc theo hành lang khiến ông nao lòng, chán nản. Ông thấy đầu nóng phừng như lửa đốt, mồ hôi vã ra như tắm, tay chân lại lạnh cóng, không cử động được. Ông bắt đầu nói lảm nhảm những câu vô nghĩa, nhìn ở đâu cũng thấy đom đóm quay lòng vòng. Cơn sốt đến thật bất ngờ, hành hạ ông quá tàn nhẫn khiến ông sợ hãi, cảm thấy bất lực, tin chắc rằng mình sắp chết. Như thể có chết trôi mới thấy cần mảnh ván, ông biết ông không có can đảm để tiếp tục cuộc sống đơn chiếc như thế này được nữa.

    Khuya hôm ấy, khi mưa gió đã ngưng và cơn sốt đã hạ, ông quyết định sẽ ngỏ lời lấy cô Thêm. Nhưng rồi theo bản năng nghề nghiệp, ông lại bắt đầu tính toán, ‘Với món nợ ba triệu, cộng thêm tiền lời mỗi tháng, nếu không lấy mình biết bao giờ cô ấy trả nổi?’ Ông tin nếu ngỏ lời cô ấy sẽ đồng ý ngay, bởi ‘chỉ một bước mà cô trở thành bà chủ tiệm cầm đồ, khỏi phải còng lưng gánh nước, vất vả suốt đời.’ Còn về phần ông? ‘Mình lấy vợ mà không hao hụt một cắc nào cả.’

    Trong khi chờ đợi trời sáng ông khám phá một điều, ‘Mình vớ phải người vợ cờ bạc, hụi hè mà không biết! Nếu cô ấy đánh số đề, nợ nần ngập đầu thì sao?’ Không phải lo, ông đã có cách. ‘Nếu không có một đồng xu dính túi cô ấy lấy đâu ra mà cờ với bạc?’ Lấy nhau xong ông định sẽ giao tiền chợ cho cô mỗi ngày, cho thêm tí đỉnh để ăn quà vặt vãnh, còn ngoài ra chuyện tiền bạc ông sẽ tuyệt đối không cho cô ấy đụng vào. Nếu cần, ông sẽ thường xuyên nhắc nhở cho cô biết rằng, tuy đã là vợ chồng nhưng ông vẫn còn giữ cái tờ giấy giao kèo là cô nợ ba triệu, cộng thêm tiền lời mỗi tháng.

    Khi trời vừa hừng sáng, ánh bình minh phủ ngập lấy căn phòng B1, ông hớn hở ngồi dậy để làm thủ tục xuất viện. Chừng hơn một giờ sau đó chiếc xích lô đạp chở ông về tới cửa tiệm. Cô Thêm bước ra đón, “Khỏe rồi hả anh Xây? Anh làm em chờ đợi mãi mấy hôm nay.”

    Nghe cô nói ‘chờ đợi mãi’ ông cảm thấy thương cô nhiều hơn, không ngờ cô cũng có ‘tình ý’ với ông mà sao bấy lâu nay ông không biết. Ông muốn ôm choàng lấy cô để báo cho một tin vui, rất quan trọng, có ảnh hưởng đến tương lai của cả ‘hai đứa.’ Sau khi dìu ông vào tới trong tiệm cô Thêm nói ngay,

    “Anh Xây à, mấy bữa nay em đợi anh về tại em đã có đủ tiền để chuộc lại… thân em.” Nói xong, cô đưa cho ông một gói bạc bọc trong tờ giấy dầu màu vàng đục. “Anh đếm đi, ba triệu cộng với tiền lời hai tháng rưỡi, vị chi là...”

    Ông Xây không còn nghe được gì nữa, hai tay run lẩy bẩy cầm lấy gói bạc, miệng lắp bắp không nói nên lời. Vói tay vịn vào vai cô Thêm, ông bước khập khiễng, lết bết đến ngồi vào một chiếc ghế sát tường. Mặt ông tái hẳn lại, mồ hôi vã ra trên trán và ông cảm thấy chóng mặt, choáng váng như người say rượu. Sau khi cô Thêm chào và gánh hai cái thùng không bước ra cửa ông vẫn ngồi thẫn thờ, nhìn theo bóng cô khuất dần bên kia đường rồi nhìn lại gói bạc trong tay mà cảm thấy mình bất hạnh.

    Đêm hôm ấy người ta lại thấy ông nằm buông xuôi trên một chiếc xích lô và anh tài cong lưng, đạp thật nhanh về hướng bệnh viện.
     
  8. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    Bọt Biển
    Diệp Hồng Phương

    [​IMG]
    - Hồi chiều… hinh như… tui… có thấy bà… - Ông Thứ nâng cặp kính lão lên sống mũi nhìn ra biển chậm rãi nói với bà Minh đang đứng cạnh bên. Bà Minh khép hai vạt áo khoác lại che ngực vì sợ gió. Bà ho húng hắng, trả lời:
    - Có thấy tui sao? Tui ra biển… chơi với mấy… đứa cháu nội!

    Ban đêm biển rất đẹp. Nhìn ra xa biển là bóng tối lờ mờ lấp lánh từng lớp sóng xô bờ bọt nước tung trắng xóa. Trên bãi biển rộng thênh thang có nhiều nhóm người ngồi chơi, vài đôi bạn tâm tình và có hai ông bà già đang đứng nhìn ra biển… Thủy triều đang lên nên mép nước cứ loang dần lên sủi bọt nước thấm sâu vào cát…
    - Vậy là phải rồi. Tui cứ ngờ ngợ không biết… có phải là bà hay không? Mà…bà ngồi với ai …chớ đâu phải ngồi với… cháu nội? – Ông Thứ day qua nhìn bà Minh hỏi vừa đủ bà nghe. Bà Minh gật đầu:
    - Mấy đứa cháu tắm biển. Tui ngồi với con dâu của tui. Nó ăn bún riêu cua… người ta gánh bán ngoài bãi…
    Ông Thứ mỉm cười:
    - Món đó là món ruột của bà! Bà ăn thấy ngon không?
    - Con dâu tui nó ăn, tui nhìn mà thèm. Bây giờ đâu có được ăn. Bác sĩ nói tui máu cao, phải cữ đủ thứ…
    - À ra vậy! Nhớ hồi xưa bà… - Ông Minh bỏ lửng câu nói rồi buông tiếng thở dài. Ông biết người bạn của mình sức khỏe đang suy giảm không chỉ thể hiện qua giọng nói mà còn kiêng cữ ăn uống. Ông do dự một lát mới lên tiếng – Bây giờ trái tim bà…ổn chưa?
    Biển đêm nhấp nháy ánh đèn của thuyền câu mực ngoài xa và trên bầu trời là hàng vạn ngôi sao sáng tạo cho khung cảnh trời và biển về đêm vô cùng rực rỡ. Bà Minh nhìn biển, rồi nhìn bầu trời đêm như nghĩ ngợi điều gì đó đã xa, rất xa.
    - Bác sĩ khuyên tui…đừng quá xúc động!
    - Hồi xưa bà nói… trái tim bà nó đập… không đúng nhịp. Còn bây giờ? Bà Minh không đáp. Có lẽ bà không muốn nói ra điều gì đó về trái tim bà đang có nhiều dấu hiệu bất ổn. Mấy chục năm rồi nó đập lỗi nhịp, cho nên…
    - Tui hỏi câu này có gì không phải thì bà…bỏ qua cho tui! Tại tui quên…bà vui lòng nhắc lại…- Ông Thứ ngập ngừng mãi mới nói được hết câu.
    - Ông sống ở nước ngoài lâu nên khách sáo quá… Ông cứ hỏi đi miễn là câu hỏi phù hợp…với tuổi già- Trong giọng nói của bà Minh có chút giận dỗi, trông chờ. Bà nghiêng đầu để nghe ông nói giống như hồi xưa bà đã nghiêng đầu lắng nghe ông nói tiếng yêu dù đã muộn màng…
    - Tại tui quên nên… muốn hỏi lại – Ông Thứ tỳ hai bàn tay lên phần trên của cây gậy như tạo một điểm tựa cho tinh thần - Lâu quá rồi tui với bà… không gặp nhau. Ba mươi mốt năm rồi chớ ít ỏi gì! À… Tui muốn hỏi bà…năm nay bà… được mấy mươi rồi?
    - Sáu mươi tám!- Bà Minh thở ra sau câu trả lời – Tui già rồi phải không ông? Thời gian và bệnh hoạn làm con người ta mệt mỏi …
    - Còn tui thì bảy mươi lăm coi như đã sống quá một đời người. Hồi xưa tui không chịu nói đến chữ già. Còn bây giờ thì phải chấp nhận.
    - Hồi xưa ông ưa nói “Mình không còn trẻ nữa” chớ gì! – Bà Minh cười nhẹ nhắc lại câu nói ông từng nói với bà. Ngày xưa, cũng tại đây, hai người đứng nhìn biển đêm vắng vẻ, ông Thứ nói với bà “mình không còn trẻ nữa”. Lúc đó bà Minh ba mươi bảy tuổi, ông Thứ bốn mươi bốn. Họ không còn trẻ như đám thanh niên yêu ồn ào, sống sôi động mà đã chững lại với cuộc đời, biết suy nghĩ, biết cân nhắc trước khi quyết định một điều gì. Họ yêu dè dặt vì cả hai đều có gia đình, có con cái. Hai trái tim họ có thể cùng chung nhịp đập, tâm hồn họ có thể đồng cảm và hướng về nhau nhưng họ không thể là của nhau. Họ chỉ hôn nhau trong cái đêm ngắm biển xa xưa ấy rồi thì xa nhau cho tới bây giờ.

    Đó cũng là định mệnh!

    Thời gian trôi qua lạnh lùng. Nhìn lại đã ba mươi mốt năm…
    - Ông ơi. Sóng nó vô… coi chừng ướt cây gậy – Bà Minh chợt nói rồi nắm tay áo ông Thứ kéo nhẹ. Ông Thứ nhấc cây gậy lên khỏi lớp nước biển, bật cười:
    - Gậy bằng nhôm ướt có sao đâu… Mà bà lo một mình cây gậy ướt… thôi sao?
    Bà Minh cười nhẹ:
    - Tại chân ông… thì ướt lâu rồi…nhắc cũng vậy thôi. Hồi xưa mình đứng ở đây…sóng biển tràn lên làm chân của tui, chân của ông đều ướt… Lúc đó…không có cây gậy này!
    - Cũng phải. Sóng tràn qua chân mình lâu rồi mà tui đâu có biết. Muộn màng quá phải không?
    Bà Minh nghe không rõ, hỏi lại.
    - Ông nói muộn… chuyện gì?
    - Chuyện con sóng nó tràn vô bãi quá chỗ mình đang đứng.
    - Chớ gì nữa? Thủy triều lên chậm mà ông …còn chậm hơn nó.
    - Bởi vậy tui mới nói tới hai chữ muộn màng… Muộn tới ba mươi mốt năm trời…
    Bà Minh và ông Thứ cùng lùi lại sau mép nước rồi vô tình họ đứng nép vào nhau. Bà Minh nói thì thầm trong tiếng sóng biển:
    - Ba chục lần tui ra đây nhìn biển ban đêm…nhớ ông mà ông đâu có biết? Tui đứng đây thiệt lâu cho tới lúc sóng tràn vô ướt hết hai bàn chân tui, bọt biển tan ra trắng xóa… Tôi ngẫm nghĩ… tình cảm của mình cũng như bọt biển. Nó trào lên mạnh vậy đó, rồi tan mất tức thì… Ba chục năm rồi…năm nào bọt biển cũng tan như vậy!
    - Bà chờ tui lâu vậy sao? – Ông Thứ xúc động.

    Bà Minh lắc đầu buông lời trách móc nhẹ nhàng:
    - Tui có chờ, có đợi ông đâu. Sinh nhựt tui thì tui ra đây. Sinh nhựt mình mà được đứng nhìn biển ban đêm là một hạnh phúc lớn lao. Không ai biết điều này…chỉ trừ một mình tui. À mà ông cũng biết nữa chớ phải không? Năm nào sóng cũng làm tui ướt hai bàn chân, nước mắt ướt hai go má!
    Bàn tay ông Thứ tìm lấy bàn tay bà Minh. Tay trong tay hình như họ thấy ấm hơn một chút. Ông Thứ nói như để giãi bày, biện bạch lý do vì sao ông ra đi, vì sao ông tìm ra đây trong đêm nay đúng lần sinh nhựt thứ sáu mươi tám của người bạn cũ:
    - Sau đêm đó không lâu tui bỏ gia đình theo người ta trốn ra nước ngoài. Thấm thoát mà… tui sống ở xứ người ba mươi mốt năm trời. Lần này tui về nước là về…ở luôn. Sống thì ở xứ người, chết …phải quy cố hương! Nhìn tờ lịch, tui nhớ kỷ niệm xưa nên mới ra tận đây mong gặp lại bà. Ông trời có mắt còn cho mình gặp nhau. Vậy bà đừng trách tui vô tình nữa nghe?
    Bà Minh im lặng. Trong trái tim bà hình như có tiếng sóng rì rào và có lời thổn thức của ba mươi năm một mình ra đây nhìn biển vắng. Sau giọt nước mắt nóng hổi lăn dài trên má là tiếng thở dài:
    - Ông không vô tình thì còn ai vô đây…?
    - Tui xin lỗi…Tui xin lỗi! - Bàn tay ông Thứ không nắm bàn tay bà Minh mà đặt nhẹ lên vai bà - Tui sống bên đó cũng vất vả chớ có khỏe khoắn gì đâu. Cuộc sống của tui nó cô độc, lạnh lùng. Tôi có muốn về đây tìm bà cũng không được. Nhưng mà lần này… là tui về luôn. Tui hứa từ nay trở đi …hàng năm tui sẽ…
    - Hồi xưa ông cũng hứa… - Câu nói của bà Minh như lưỡi dao cứa vào trái tim già nua của ông Thứ. Ông thấy nhói đau…

    Trời đã khuya. Gió nhiều hơn. Mực nước một lần nữa tràn lên chân hai người. Bà Minh khoanh tay trước ngực để ngăn gió lạnh. Ông Thứ ho khẽ vài tiếng. Nghe ông ho, bà hỏi:
    - Ông bỏ… thuốc lá chưa?
    - Rồi! – Ông Thứ ôm ngực cố nén cơn ho.
    - Giữ gìn sức khỏe nghen ông! Thôi mình về đi. Mấy đứa nhỏ chờ kia cà!
    Con dâu bà Minh đến đón bà về. Hai đứa cháu nội của bà cứ đứng nhìn ông già chống gậy quên lời mẹ chúng bảo phải chào ông.
    - À… Bà …bà Minh.. – Lúc bà Minh đi khá xa, ông Thứ mới sựt nhớ vói kêu.
    Bà Minh dừng bước, day lại, chờ đợi. Ông Thứ chống gậy bước nhanh tới. Ông lấy trong túi áo chiếc hộp dài trong đó có con cọp nhỏ bằng gỗ do ông khắc trong những ngày ở đảo Bu-đong. Đó cũng là hình ảnh của bà Minh –người đàn bà tuổi Dần – ông lưu giữ từ bấy lâu nay.
    Ông trao cho bà Minh chiếc hộp và run run nói:
    - Quà… sinh nhựt…của ..của… em! Happy…birthday!

    Gần một năm sau ông Thứ trở bệnh nặng. Con cái đưa ông vào bệnh viện. Bác sĩ hết lòng điều trị, chăm sóc… Hai tháng sau, bác sĩ nói với cô con gái út của ông là bệnh tình ông Thứ khó qua khỏi, gia đình liệu bề lo tính cho ông.
    Cô con gái út bỏ ra ngoài hành lang khóc một mình.

    Lúc tỉnh lại, dù sức đã cạn, ông cũng cố thều thào nói với vợ chồng đứa con gái út:
    - Cuốn nhật ký…tía …để trong tủ. Mấy đứa… giúp tía…lo dùm… trang cuối!
    Thằng rể út về nhà tìm được quyển sổ nhật ký của ông. Ở trang cuối ông có ghi tên bà Minh, số điện thoại nhà và dòng chữ: Niềm hạnh phúc nhỏ nhoi của tôi là được gặp Minh vào phút cuối của cuộc đời. Muốn thì muốn vậy… mà biết có được không?
    Thằng rể hiểu ý bàn với vợ mình rồi tức tốc đi gọi điện thoại cho bà Minh để mong sẽ giúp tía mình có được “niềm hạnh phúc nhỏ nhoi” trước lúc ra đi.
    Cô con gái út nắm bàn tay gầy guộc của ông nói để ông yên lòng:
    - Tía ơi… bà Minh sẽ đến. Tía… ráng… chờ nghen!
    Nghe nhắc đến bà Minh, ông Thứ nở nụ cười héo hắt. Ông nói tiếng được tiếng mất với con gái là muốn tặng bà Minh cây gậy của ông. Ông biết bà sẽ cần nó trong lúc tuổi già…
    Rồi ông nhắm mắt ra đi nhẹ nhàng, thanh thản.

    Thằng rể út đi gọi điện thoại về cho vợ mình biết bà Minh đã “đi” một tháng trước đây vì bị nhồi máu cơ tim. Người nhà bà Minh biết ông Thứ đang nằm bệnh viện nên ngại báo tin…
    Vậy là trong chuyến xe cuối của cuộc đời, ông Thứ…lại cũng muộn màng!
     
  9. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    Lời thú nhận cuối Cùng
    Đặng Hồng Quang
    [​IMG]
    Đứa con trai của Hoài đến mời tôi về gặp anh gấp bởi bệnh anh đã đến giai đoạn tuyệt vọng, bệnh viện đã phải trả anh về nhà! Thế là một người bạn thân nữa của tôi sắp sửa ra đi. Vẫn cái bệnh gan chết tiệt đáng nguyền rủa ấy. Ba mươi hai năm trời đã trôi qua tôi làm sao quên được cái vạt rừng đầy những đầm lầy hoang dại kinh người ấy! Một vách núi đá dựng đứng khiến nơi đây ban ngày ngắn lạ, chỉ hai giờ chiều là mặt trời đã khuất bóng. Rừng âm u thiếu nắng, đầy những cây dây leo, những cây gỗ khòng khèo kỳ lạ với những bộ rễ lằng nhằng chằng chịt to lớn như những thân con rắn đang trằn mình ngoi trên mặt đất rồi sau đó lại rúc sâu xuống đám bùn lầy sền sệt đen ngòm. Ở đấy chứa đầy những loài rết, sâu cuốn chiếu, bò cạp khổng lồ và muỗi vắt... Có một bệnh viện nhỏ tiền phương đóng ở đó. Nó đã hai lần chịu cảnh máy bay T28 đến bỏ bom bắn phá làm chết mất 6 nhân viên của bệnh viện và 11 thương binh. Hoài và tôi thuở đó cùng làm y tá. Chúng tôi đã từng đói cơm hàng tháng trời, chỉ ăn những củ rừng lạ rất ngứa cùng với những mớ rau môn thục, tai voi mọc ở bờ suối. Hai chúng tôi đã chịu cảnh sốt rét, da mặt vàng bủng beo, chân tay run rẩy phải chống gậy chậm chạp bước đi như một ông già, giữa tuổi hoa niên … Và bây giờ mặc dù những tháng năm dài chồng chất lên nhiều như thế mà món nợ của nơi hoang dã đó đã lên tiếng gọi bạn tôi trở về. Bệnh gan đã phát triển đến giai đoạn cuối cùng, thời kỳ xơ gan cổ chướng!.

    Căn nhà anh vẫn như xưa, chật hẹp sơ sài, hai vợ chồng cùng làm giáo viên phải nuôi hai đứa con nhỏ vì thế cuộc sống họ vô cùng đạm bạc. Anh nằm trên một chiếc giường gỗ tồi tàn. Trên người anh phủ một chiếc mền nhưng tôi vẫn thấy cái bụng rất lớn của anh nổi phình lên sau lần vải ấy. Anh nói với tôi giọng nói rời rạc, đôi lúc yếu đuối như hụt hơi nhưng vẫn nghe rất rõ:
    – Mình xin lỗi đã làm phiền cậu vì biết cậu rất bận... nhưng mình biết rằng chỉ có cậu mới giúp được thôi... Mình vô cùng biết ơn cậu, trước khi mình lìa bỏ cuộc đời này!.

    Sau khi nghỉ một lúc anh nói tiếp và từ lúc đó trở đi con mắt vàng đục của anh hầu như lúc nào cũng tràn đầy nước mắt khiến tôi buộc phải lấy khăn mùi xoa trong túi ra lau nước mắt cho anh. Anh yếu quá rồi, tay không thể nào nâng lên được để làm cái nhiệm vụ quá bình thường đơn giản ấy nữa!
    – … Cậu hãy nhìn lên bàn thờ kia, cái bàn thờ đặt phía bên phải gần bàn thờ của bố mẹ mình đó. Nó là cái bàn thờ của thằng Hoàng đấy, cậu còn nhớ không?.
    Tôi nhìn theo hướng đó, một chiếc bàn thờ nhỏ đặt cách xa bàn thờ của bố mẹ anh khoảng nửa mét. Một bức ảnh chụp lại phóng to đã cũ, ở đó một đôi mắt rất buồn của người chiến sĩ trẻ có đeo quân hàm binh nhất. Tôi cố lục lọi trong cái cõi ký ức lộn xộn trong đầu nhưng vô hiệu! Tôi đành thú nhận với anh là tôi không hề nhớ!
    Mặt Hoài có vẻ buồn, anh nói:
    – Cậu không nhớ à! Chính mình và cậu mang anh ta đi chôn đó. Cậu Hoàng ở tiểu đoàn D17, ấy bị sốt rét đến nằm viện mình khoảng một tháng rồi bị ác tính, hình như cậu ấy chết vào khoảng tháng 7 năm 1972, lúc đó cậu ấy rất trẻ. À, mà cũng đúng thôi, mình với cậu đã cùng đi chôn không biết bao nhiêu thương bệnh binh chết ở các đơn vị của Sư đoàn trong cái nghĩa trang khủng khiếp đó, làm sao cậu có thể nhớ hết được nhỉ!.
    … Tôi ngạc nhiên hỏi vặn:
    – Ông ấy không cùng đơn vị với bọn mình, mà tại sao cậu thờ ông ấy, hay là ông ấy họ hàng với cậu? Tại sao lúc ấy mình không hề biết chuyện đó nhỉ!.
    Bỗng Hoài oà lên khóc nức nở:
    – Mình không còn cách nào nữa! Không hẳn là mình thờ, đã bao lần dưới bàn thờ này mình đã quỳ xuống tạ tội trước Hoàng. Mình là kẻ đê tiện, hèn nhát vô cùng! Vì sự ích kỷ, vì sự suy nghĩ nông cạn, đơn giản và đần độn mà mình đã giết hại Hoàng!.

    Nghe thấy tiếng khóc và tiếng nói to, chị Minh vợ Hoài vội chạy đến:
    – Anh ơi! Anh làm sao vậy!
    Một phút im lặng trôi qua, Hoài lấy giọng bình thản nói với vợ:
    – Không sao cả, chúng tôi nói chuyện ngày xưa bình thường thôi, mẹ con Hồng cứ ra làm việc đi để chúng tôi tiếp tục.
    Chị nghe theo lời chồng đi ra ngoài và còn quay lại nói với tôi:
    – Chẳng hiểu tại sao mấy hôm nay tính tình anh ấy đổi khác nhiều lắm, cứ nằm một mình khóc hoài, có gì anh hãy khuyên nhủ giùm anh ấy hộ em nhé!
    Tôi sững sờ ngạc nhiên nhìn Hoài...
    – Vợ mình cũng không hề biết chuyện đó đâu! Anh nói tiếp. Chuyện này theo mình cũng chỉ để cậu biết thôi, nói ra làm gì để vợ mình buồn thêm, khi mình phóng bức ảnh này để lập bàn thờ, mình cũng chỉ nói với cô ấy đây là người đồng đội thân thiết của mình mà thôi. Trời ơi, cô ấy có biết đâu tại nơi này mình đã bao đêm thức dậy quỳ xuống nói những lời xám hối khủng khiếp ghê gớm với hương hồn của Hoàng!.

    Cậu còn nhớ chứ, ngày ấy mình đang ở diện cảm tình Đảng, được tín nhiệm giao nhiệm vụ săn sóc điều trị thương bệnh binh nặng, mình hiểu đây là sự thử thách của Chi bộ. Cậu còn nhớ không, thằng Dụ cũng chỉ vì một lần tiêm áp xe một ca bệnh binh mà đã phải hoãn kết nạp Đảng. Chính vì thế mình rất sợ số phận mình cũng giống như nó.

    Cậu Hoàng lúc ấy sốt rét rất nặng Bác sĩ Hoạt đã cho chích quy–nine. Nhưng mỗi lần chích mình rất sợ là nếu không may mà nó sưng lên thì tương lai vào Đảng của mình cũng tan vỡ nên mình chỉ tiêm được 4 lần, Hoàng kêu đau là mình liền bảo Hoàng rằng nên uống thuốc thay tiêm vì mông Hoàng do tiêm nhiều nên bị chai xơ cả rồi! Thực ra, không hẳn thế, mình nói vậy mục đích là để lợi cho mình mà thôi!.

    Khi đi khám bệnh, Hoàng đã đề nghị lời mình nói nhưng bị Bác sĩ Hoạt gạt đi. Ông nói phải dùng hết phác đồ này đã, vì ở vùng đất này sốt rét rất dễ chuyển thành ác tính.

    Nhưng mình không nghe lời ông ta và mình đã khuyên nhủ rồi thông đồng với Hoàng để thay sang thuốc uống. Còn Hoàng thì rất ngây thơ làm sao biết được; cậu ta rất thích vì đã thoát cảnh hàng ngày phải chích thuốc hai lần vào mông rất đau và thuốc thấm vào rất mệt!

    Anh lại bỗng khóc nấc lên, nghẹn ngào nói tiếp: Mình là một tên đê hèn về sau không kiếm được thuốc quy-nine viên cho cậu ta uống nữa mình liền chuyển sang thuốc khác là Ni-va-quine... và cậu biết đấy, phác đồ điều trị chưa kết thúc thì Hoàng lên cơn co giật. Bác sĩ Hoạt rất ngạc nhiên là tại sao đang sử dụng thuốc đặc trị liều cao mà bệnh nhân vẫn bị chuyển thành ác tính?

    Lúc đó cậu có hiểu không cái thằng Hoài hèn nhát khốn nạn này chỉ sợ bị lộ mà thôi! Hắn sợ bệnh nhân khi tỉnh sẽ nói điều sai trái mà hắn đã làm. Và, càng nhục nhã hơn, ghê tởm hơn khi bệnh nhân trút hơi thở cuối cùng thì hắn lại thở phào thoải mái vì người chết đó sẽ mang mãi cái điều bí mật đầy sự gian dối, hèn hạ ấy xuống tận đáy mồ! Vâng, vậy đó, tội ác đơn giản là như vậy, từ việc sai nhỏ đã dẫn đến việc lớn tầy đình và cuối cùng là cả sự táng tận lương tâm khủng khiếp. Cậu biết không đời thuở nào thấy đồng đội của mình chết hay nói đúng hơn nếu không lầm, chính hắn làm đồng đội mình chết mà lại vui mừng vì đã thoát nợ!.

    … Ngày đó khi chôn mình đã giữ lại bức ảnh nhỏ của Hoàng, còn ba lô của cậu ta mình gửi trả về đơn vị.

    Thế mà có một lần cách đây 8 năm mình đã nằm mơ thấy Hoàng. Trong mơ mình thấy Hoàng đến gặp mình và đòi uống những viên thuốc đó. Ôi những viên thuốc chết tiệt, tội lỗi, giả dối như là một thứ độc dược của một tên sát nhân hèn hạ! Giấc mơ đó nó chỉ như là đoạn phim quay chậm lại mà thôi nhưng khi tỉnh lại mình bỗng rơi vào trạng thái kinh hoàng đau đớn, buồn bã đến tột cùng …

    Mình quyết định lập bàn thờ Hoàng từ ngày ấy!
    Im lặng một lúc, nước mắt anh lại đầm đìa tuôn chảy, tôi lau không kịp, có nhiều giọt đã rơi xuống làm ướt cả gối. Anh nói tiếp:
    – Cách đây hơn một tuần mình xem Tivi thấy ở chuyên mục “ nhắn tìm đồng đội ” có bức ảnh của Hoàng … Như thể phần mộ của Hoàng hiện nay gia đình cậu ta vẫn chưa biết … Đây mình có ít tiền mà mình dành dụm từ lúc lập bàn thờ Hoàng đến nay định sau này sẽ bí mật gửi đến cha mẹ Hoàng, tất cả là 8 triệu đồng. Mình để cả dưới gối mình đây!. Cậu cầm lấy để thay mình làm tiếp việc đó và nhất định cậu phải giúp gia đình Hoàng tìm được mộ của cậu ta … Không, cậu không được quyền từ chối việc đó trước một người bạn sắp chết … Cậu vạch gối lên, lấy đi … lấy đi … cảm ơn cậu... cảm ơn nhiều...

    Bây giờ tôi chưa làm được điều Hoài nhờ vì công việc này phải cần có thời gian, nhưng trước sau tôi cũng phải thực hiện thật sớm cái nghĩa cử thiêng liêng đó trước đồng đội.

    Chiều nay tôi lại về thăm Hoài. Những vòng hoa đặt trên ngôi mộ cô quạnh ấy đã tàn héo hết, nhưng rất lạ, có một bông hoa trắng nhỏ nhoi vẫn còn tươi đang xoè cánh vươn lên đầy sức sống. Vốn dĩ tôi rất dốt về khoản này, không biết loài hoa trắng đó là loài hoa có tên gì nhỉ?
     
  10. Phúc Thịnh

    Phúc Thịnh Thần Tài Perennial member

    Tình Xưa
    Đặng Kim Côn

    [​IMG]
    Ông Hải tắt máy chiếc xe Honda, dựng trước sân một căn nhà gạch, bước vào nhà.

    Căn nhà lặng lẽ. Một người đàn bà dưới bốn mươi đang ngồi đút cơm cho đứa con gái chừng bốn, năm tuổi ăn, ngước mặt nhìn ông, cũng lặng lẽ, nếu không có cái ánh mắt sáng lên thật nhanh thay lời chào thì giống như họ không quen.
    - Chú đâu rồi?
    Và không đợi mời, Hải ngồi xuống một chiếc ghế đẩu của một bộ bàn chữ U nơi phòng khách.
    - Chắc chiều hay tối gì Ba mới về.
    - Cháu là…?
    Chị vẫn chăm chú vào đứa con, trả lời mà không ngẩng đầu lên:
    - Út của Ngọc. Đứa lớn là con trai.
    Người đàn bà tên xưng Ngọc đặt chén cơm xuống đi-văng, lau nhanh miệng con, nói nhỏ:
    - Lại chào cậu đi con.
    Đứa bé bước rụt rè đến trước mặt Hải:
    - Thưa cậu tới nhà con chơi.
    Ông vuốt đầu bé:
    - Con giỏi quá.
    Rồi hỏi trổng:
    - Ba cháu?
    Người mẹ đứng dậy, bước lại vừa bồng con vừa trả lời, run run, không giấu được nỗi xúc động:
    - Ngọc đã trở về đây rồi…
    Và chị nói tiếp:
    - Ngồi một mình nha, Ngọc tắm rửa cho mấy đứa nhỏ nó ngủ chút.
    - Bảo Ngọc…

    Hải lắp bắp không nhớ định nói gì tiếp. Bảo Ngọc dẫn con ra phía sau nhà. Hải ngồi nhìn vẩn vơ. Cái lồng chim yến phụng mấy chục con đủ màu sắc của chú Quí, cha chị, đặt ở góc nhà, đang không lặng lẽ, con thì rỉa lông, con thì dùng mỏ quặm lấy mấy thanh lồng bằng sắt để leo từ từ lên nóc lồng, con thì hót ríu rít, tiếng ríu rít trầm bỗng của những lời thơ mang mang mực tím một thời, những buổi sáng bồi hồi mở những mảnh giấy còn ngái ngủ, những dòng thơ ngô nghê quyến luyến, có cặp đang nựng nịu, âu yếm nhau như không biết có Hải đang sốt ruột, nôn nao cho lần hội ngộ bất ngờ này…

    “Ngọc đã trở về đây rồi!” không có nghĩa là Ngọc đã về với ông, nhưng rõ ràng cái câu nói dứt khoát ấy có nghĩa là Ngọc sẽ không còn ở “trong ấy” nữa. Có phải vậy không? không phải là Ngọc đã ấm êm, hạnh phúc như Hải vẫn mong sao? Hải không nghĩ là phải xảy ra nông nỗi nào dù loáng thoáng có lúc ông nghe chú thím than van cái anh con rể “không nên” sao đó. Hải nghĩ, có phải định mệnh muốn bắt anh phải dày vò với lỗi lầm mình ngày trước? Sao tuần rồi đến thăm chú Quí, ông đã không nghe chú nói gì? Và nếu sáng nay, giữa giòng người nhộn nhịp trên chợ, họ đã không tình cờ chạm mặt nhau, cả hai cùng mở to đôi mắt thảng thốt lắp bắp gọi tên nhau, thì liệu chú có sẽ nói cho anh biết là em đã về không? (lâu nay hai chú cháu đã rất ít khi nhắc tới cái bóng giữa hai người, dù cả hai đều hiểu đó là cái cầu nối tình thân). Có phải chúng ta hoàn toàn không thay đổi gì trong mắt nhau suốt gần hai mươi năm không gặp? Hay là chúng ta đã không phải nhìn thấy nhau bằng mắt? Chuyện gì đã xảy đến với em?

    Gần hai mươi năm ấy, không phải là họ đã già đi? Không phải những nét vui tươi, tinh nghịch ngày ấy đã không còn chút dấu vết nào sót lại nơi họ? Họ không cao lên, hay mập ốm chút nào sao? Chỉ là giống như mới chiều qua, rồi một đêm, rồi một giấc ngủ, mở mắt dậy, họ lại thấy nhau. Có điều, là bất chợt thấy nhau. Trong tim họ, họ vẫn vậy. Khác chăng là cái giấc ngủ ấy dài quá.

    Không thể dừng lâu giữa giòng người, xe như nước ấy, trước khi lách tay lái sang một bên, một lời (mà ông nghe vẫn ngọt), nhanh, dịu, lọt kịp vào tai “lát xuống nhà…”

    Chắc “mấy nhỏ” của Ngọc đã ngủ. Chị bưng ly nước chanh lên đặt trước mặt Hải và ngồi đối diện với ông. Hai cánh chỏ tay chị dựng lên bàn cho mười ngón tay đan nhau làm giá cho chiếc cầm tựa lên đó. Chị mở tròn đôi mắt (đôi mắt to, đen, không biết tự bao giờ đã trở nên xa xôi mệt mỏi, nhàn nhạt mấy vết quầng thâm) nhìn sững vào mặt chàng. Cái nhìn dịu dàng, sâu thẳm, làm cho Hải thoáng chút bối rối, hỏi nhỏ:
    -Ngọc không uống?

    Bảo Ngọc lắc đầu nhè nhẹ. Thốt nhiên, mấy giọt nước mắt rơm rớm ra mi, lờ lững lăn xuống má. Cùng lúc, thoáng trên môi chị một nụ cười chua chát không giấu giếm. Hải hốt hoảng :
    -Ơ hay, Ngọc làm sao vậy?
    -Không…

    Đôi tay Bảo Ngọc rũ xuống bàn, để mặt nàng úp lên đó, thấy rõ chị đã rất cố gắng giữ không cho tiếng nấc bật ra môi. Như chiếc xe phải thắng gấp, hai vai Bảo Ngọc rung lên cơ hồ cả người chị muốn rã ra từng mảnh. Hải ngồi chết trân nhìn chị khóc, lính quýnh đôi tay, đôi tay đã qua thời vụng dại, đã từng nhiều phen biết lợi dụng thời cơ, và cũng đang muốn nhích tới, muốn vượt qua cái khoảng trống ngắn trên mặt bàn chỉ cách một ly nước chanh, muốn luồn mấy ngón tay vào mái tóc đã ngắn bớt đi kia. Mái tóc ngày xưa dài dưới lưng quần, mái tóc mà từ rất xa cũng không khó nhận ra một Bảo Ngọc đơn giản, hiền dịu và cũng rất chân thành…

    Từ xa ấy, Hải đã kịp nhận ra, người con gái mặc áo dài trắng ôm cặp ngồi sau một quân nhân trên chiếc xe Honda hai bánh chạy phía trước đó không phải là Bảo Ngọc sao? Cái mái tóc dưới eo ấy, cái dáng mảnh khảnh xinh xắn ấy, và nữa, chiếc Honda Dame thường ngày của nàng. Hải run bắn lên, chàng đã khao khát cái vị trí của người lính ấy biết bao. Có bao giờ Bảo Ngọc đã cho phép chàng được lái chở nàng đi? Chiếc xe vẫn chạy chầm chậm phía trước, và chàng cũng đang cố để không vượt qua mặt hai người. Không thể để họ nhìn thấy mình, chàng nghĩ. Hình như họ vừa đi vừa nói chuyện?

    Coi bộ Bảo Ngọc ngồi phía sau cũng khá lúng túng, tay trái ôm cặp, tay phải vịn thật chặc chiếc yên xe. Chắc là mới quen, chứ nếu lâu thì sao nàng không ôm eo ếch anh chàng cho dễ chịu. “Hai anh chị” ghé vào một quán café, chết chửa, lại đúng vào cái quán mà Hải ăn dầm nằm dề ở đây. Trống ngực Hải đánh liên hồi như trống hát bội lúc mấy tay cầm chầu sắp sửa “thướng thẻ”. Bình tĩnh. Bình tĩnh. Hải tự nhủ. Dựng xe kề xe hai người, chàng vuốt ngực. Có lẽ mặt mình đang tái lắm. Chàng bước thật nhanh vào quán, ngang qua bàn hai người đang ngồi ở sát vách, may quá, Bảo Ngọc đang ngồi quay lưng ra lối đi, đối diện với tay lính nên không thấy Hải. Hải đi thẳng ra phía sau, khu pha chế, vỗ vỗ ngực một lần nữa cho hạ hỏa, nói với cô chạy bàn “để mình lo cho”, rồi đủng đỉnh bước lên chỗ hai người, đứng ở đầu bàn giữa hai người, đặt tấm thực đơn lên bàn, cúi đầu chào:
    -Thưa, anh chị uống gì ạ?

    Như chợt giật mình, khuôn mặt đẹp ấy thảng thốt ngước lên, mở to mắt nhìn chàng. Hải quay về phía người lính để khỏi phải nhìn Bảo Ngọc. Gã lính không nhìn thực đơn, nói:
    - Cho ly đen đá, Ngọc uống gì?
    Không nghe tiếng Bảo Ngọc trả lời, anh ta nói luôn:
    - Hay là uống đá chanh đi. Cho ly đá chanh.

    Hải quay đi, và cũng không lâu sau đó, cô chạy bàn (lúc này cũng đang sửa soạn kiêm luôn cái nhiệm vụ két-sê) chuyển cho Hải cái khay thức uống để chàng mang đặt lên bàn hai người “khách”. Người lính lại lên tiếng, nói trổng:
    - Cho một gói Cotab và một hộp diêm.
    Hải cố tình “dạ” nho nhỏ. Và sau cái lần đặt gói thuốc cùng bao diêm quẹt lên bàn, chàng bước thẳng ra cửa. Có một điều không ngờ, Bảo Ngọc đã phá cái không khí “trịnh trọng” ấy:
    - Hải ngồi xuống uống nước. Để Ngọc giới thiệu…

    Nhưng Hải không nghe thấy gì nữa. Chàng bước thật nhanh. Thoáng thấy dáng Bảo Ngọc loạng choạng bước theo:
    - Hải…
    Hải không muốn cái vở kịch đó có hậu. Hải không muốn câu chuyện khác với sự hình dung của chàng. Hải lao xe vun vút về nhà, lục hết những trang thơ chép bằng giấy vở của Bảo Ngọc ra châm lửa đốt. Vừa đốt vừa đọc lại một lần cuối cùng “Đừng để nắng xuân nhạt màu hoa thắm, Đừng để lá rơi ngập lối thu vàng…”. Không hiểu. Không muốn hiểu. Không muốn nghĩ ngợi, nhức đầu. Bất giác nghe buồn đâu kéo tới như mây xám chiều đông. Anh hùng lưu huyết bất lưu lệ, “Ô hay, nước mắt đâu mà sẵn…”. Không có gì cả. Buồn một chút thôi, cười lên đi.

    Đang ngồi thừ ra nhìn đống tro tàn còn hâm hấp khói thì Bảo Ngọc đến. Hương, bạn cùng lớp Bảo Ngọc, chở nàng đến bằng chiếc Velo Solex của Hương. Chiếc Dame kia chắc để thằng đó đi rồi. Hải mời họ vào bàn ngồi, Hương cười cười:
    - Hờn anh giận em kiểu gì đến nỗi lái xe không nổi, nó bắt Hương chở giùm nó đây.
    Hải nhát gừng:
    - Ai làm gì thì biết.
    Bảo Ngọc vẫn nhẹ nhàng:
    - Anh con ông bác của Ngọc mà. Lúc nãy chịu ngồi xuống là hiểu ngay thôi.
    - Sao từ đầu không mời, đợi người ta làm hề cho mấy người xem rồi mấy người mới tính chuyện giàn cảnh chọc gan tôi?
    - Gì giàn cảnh?
    - Tôi theo chiếc xe hai người lâu lắm rồi.
    - Đủ rồi, tin hay không tùy Hải. Những gì cần nói thì Ngọc đã nói. Không phải một mình Hải có lá gan to. Nội cái chuyện đem những kỷ niệm ra đốt đi kia đủ để trời sập rồi.

    Hương xen vào:
    - Cho tui can hai ông bà. Êm đềm quá chắc thấy không vui. Cái tuồng này tụi lớp nghe được chắc nó chết tập thể vì bể bụng quá.
    - Trời đã sập trước rồi, đừng có ăn được nói được. Mấy người đi về cho. Tôi không rảnh…
    Bảo Ngọc giận tái mặt. Đến nước này thì đúng là không còn gì đáng nói. Giá như nàng và Hương đứng dậy ra về thì đỡ tủi hơn… Nhưng Bảo Ngọc hãy còn tần ngần… Còn Hải thì được thể làm tới, vùng vằng đứng dậy:
    - Tôi có việc phải đi. Mấy người ngồi đó nghĩ cách nói dối cho hay đi.

    Và chàng bỏ hai người ngồi chơ vơ đó, nổ máy xe, phóng đi.

    Thế chiến 1, thế chiến 2 cũng đã xảy ra bắt đầu từ những chuyện nhỏ. Sẽ không có gì xảy ra nếu chiếc xe của Hải đã không tình cờ nhận ra mái tóc dài ngồi sau chiếc xe Dame chạy phía trước vào buổi trưa hôm ấy.

    Sau này, khi họ đã xa nhau, ở ngoài đơn vị thỉnh thoảng Hải cũng có viết và nhận được thư thăm của nhau, chỉ là thăm hỏi, không ai trách móc gì ai, và cũng không nhắc gì tới kỷ niệm, hầu như quá khứ của họ đã bốc khói theo những bài thơ mộng mị năm nào. Có cái gì đó để họ thấy càng lúc khoảng cách giữa họ càng xa. Cái tựa một bài thơ Bảo Ngọc gửi cho Hải “Mưa Trên Cư Xá Minh Mạng” vô hình chung làm cho chàng Trung sĩ Hải hiểu được cái vị trí của chàng.

    Tiếng khóc nho nhỏ của Bảo Ngọc cũng đủ tuôn tràn ra át tiếng kêu “rích rích” của mấy con chim yến phụng đang tình tự trong lồng.

    Chú Quý, Ba của Bảo Ngọc, nhiều năm qua, vắng Bảo Ngọc, vẫn xem Hải như chiếc bóng của chị, dẫn hai đứa cháu ngoại vào. Hải đứng dậy chào, liếc thấy con gái đang gục đầu trên bàn, ông nói đùa với Hải:
    - Đang xử án hả?
    Ông bảo hai đứa cháu chào cậu. Đứa nhỏ ôm tay mẹ nó lay lay, lí nhí gì đó. Bảo Ngọc vẫn lì lợm không ngẩng đầu lên. Chú Quí sai mấy nhỏ lấy nước và thực phẩm cho chim, rồi ông hỏi Hải đến lâu chưa, ở chơi ăn cơm chiều với chú luôn. Thay vì trả lời, Hải nói như phân trần:
    - Con cưng là con hư đó chú. Thôi đủ rồi đó, gái hư.

    Chú Quý cười. Hải bước ra cửa, dứt khoát, không muốn để chú Quý nài ép:
    - Con có việc bận, thưa chú con về.

    *

    - Đêm qua Ngọc đã lục tìm được tập nhật ký này. Cũng may là nó nằm trong tủ sách của ba nên không bị lũ mối mọt xếp vào danh sách văn hóa đồi trụy.

    Bảo Ngọc nói giọng đều đều, không vui không buồn. Mà đáng lẽ cái câu bông đùa ấy phải được đi kèm với một nụ cười, hay ít lắm cũng với ánh mắt hấp háy. Không biết là nếu cho chị một chút hạnh phúc sẽ có thấy được chị tươi vui lên không?
    Hải hỏi vu vơ:
    - Của ngày xưa hở?
    Bảo Ngọc ngồi xuống bàn:
    - Ngọc muốn Hải đọc.
    - Đọc hết?
    - Không cần, chỉ mấy trang, chỗ đã làm cho Hải vui. Hải uống café chứ?

    Hải ngạc nhiên, nhưng riu ríu gật đầu:
    - Mấy nhỏ đâu?
    - Ông ngoại dẫn ra chợ cho bà ngoại khoe với hàng xóm…
    Bảo Ngọc mở tập nhật ký, đẩy tới trước mặt Hải, rồi đứng dậy đi pha càfé. Trước mắt Hải, một quá khứ đã ngã màu, những trang chữ rất quen thuộc đang lội ngược giòng mực tím, nhảy nhót tung tăng như phố xá ngày xưa xôn xao những bước chân về lớp.

    …Chỉ có một điều không ai biết là chiều qua em đã về nhà đóng cửa phòng, khóc. Lo bữa cơm chiều xong, em lại nằm bất động trên giường. Ba đi xa, má bán ở chợ về tối nên nghĩ là em bận bài vở không để ý tới em. Sáng nay em không đến lớp. Có thể nhỏ Hương đến trường đã phổ biến rộng rãi cái tin động trời ấy. Không ai dễ gì chịu bỏ qua một cuốn phim hấp dẫn giữa đám bạn tò mò, sôi nổi, rất ưa chọc phá và cũng rất thích thú trước những sóng gió của người khác. Đối với chúng, nắng rồi phải mưa và mưa để rồi nắng đẹp. Chúng nói tình học trò là những bản nháp của những áng văn hay. Cứ tẩy xóa đi rồi viết lại. Em không phải là chúng, anh yêu. Nhưng mà cái bốc đồng vô lý của anh đã làm cho em thất vọng. Đâu phải mới năm bảy tháng một năm gì, anh nhớ không, gần ba năm với tất cả những êm đềm phẳng lặng dễ thương nhất. Tất cả yêu thương ấy đã không cần phải nói ra bằng lời, bằng hò hẹn. Ngoại trừ có những lúc hai chúng ta sóng bước đến trường hay về nhà, lặng lẽ, như những người bạn học đi bên nhau, anh chưa hề nắm tay em, chưa hề hôn em một lần, mà như vậy không có nghĩa là tất cả bạn bè anh và em không biết chúng mình là gì của nhau. 1001 đêm kia, đã đủ làm cảm động một ông vua chưa từng hiểu gì người đối diện, đã lấy người con gái kể chuyện đó làm vợ, huống chi chúng ta, không phải là anh đã quá hiểu em sao? Anh ghen thật hay anh cố tình sỉ nhục em? Có thể em dùng chữ sỉ nhục là sai, nhưng chắc anh biết rõ là anh đang sỉ nhục hay hành hạ em. Sự bướng bỉnh cố chấp của anh đã làm em thất vọng. Nếu anh ấy là gì của em tại sao em phải hạ mình đến van nài anh? Mà nhất là bên em còn có Hương nữa (điều tủi nhục chính ở chỗ anh đã tạt những gáo nước lạnh vào mặt em ngay trước mặt Hương. Em có thể tha thứ cho anh được không?). Bạn bè, có thể nhiều đứa ganh tỵ với hạnh phúc của mình, nhưng chắc nó sẽ không tha cho em nếu quả thật em có một người khác.

    …Anh nhập ngũ rồi. Ba rất buồn chuyện này. Ba quý anh, nhưng kỳ vọng của ba về anh, em biết, cũng không nhỏ. Hôm đến trung tâm nhập ngũ thăm anh, em đã không khóc, và chắn chắn anh không biết khi trở về em đã ngất xỉu thế nào. Sức chịu đựng của em chỉ đủ để em đến nhìn anh thật sự đang muốn cho em đau khổ. Em bệnh la liệt đến cả tuần lễ. Anh to gan thật, cũng chả thèm giã từ em một tiếng. Có thật anh tin là em đã có người yêu khác sao? Dễ vậy sao? Bây giờ anh đang ở ngoài mặt trận, chúng ta vẫn viết thư cho nhau, vẫn có những bài thơ nói nhớ nói thương (dĩ nhiên, xa cách vẫn là đề tài nhiều hương vị nhất) nhưng em biết, có gì đó đang làm tình yêu mọc cánh.

    …Cái que diêm nhỏ ấy đã làm cho nhà cháy thật. Vô lý, bây giờ hẳn anh đã hiểu em không có lỗi gì? Anh đã thấy sự bốc đồng của anh là con nít quá? Xin lỗi anh, em cũng là con nít mà, nhưng ba em thì lại là người lớn, người lớn có sự suy nghĩ của người lớn, anh là niềm hy vọng của ba nhưng em mới chính là trái tim của ba. Anh còn nhớ có một lần anh đến nhà thăm Tết, người bạn anh đã chụp cho chúng ta những tấm ảnh chung. Lần đầu tiên em đã cho phép mình hư như vậy, và em đã giữ gìn chúng như báu vật. Ba có biết nhưng không la. Giờ thì những tấm ảnh đó em không còn được giữ nữa. Ba đã “mượn” cất mất tiêu rồi…

    Hải say sưa đọc, quên cả không để ý là Bảo Ngọc đã bưng ly café lên từ bao giờ, chị cũng ngồi vào chỗ hôm qua, cũng tư thế hai tay chống cầm, nhưng ánh mắt hôm nay không đăm đắm nhìn Hải mà nhìn bâng quơ xuống ly café. Hải vẫn còn tham lam đọc lan man đến những trang khác, không hiểu ông đang tìm kiếm lại mình hay tìm những vết sẹo trong tim Bảo Ngọc. Có điều chắn chắn là ông không muốn lỡ phải gặp một lầm lỗi nào của chị.
    - Chuyện con nít cũng vui phải không? Uống café đi, đá tan lạt hết rồi đổ thừa Ngọc không biết pha.
    - Chưa dám nói gì hết đó nha! Chuyện vậy mà kêu cũng vui. Hôm qua làm gì khóc dữ?
    - Vui khóc.
    - Đã có từng vui như vậy?

    Ngọc đánh trống lảng:
    - Coi thử café có vừa uống không.
    Hớp một ngụm café, đặt ly xuống bàn, Hải hí hửng gật đầu:
    - Dễ thương lắm
    - Già đầu cứ như con nít.
    Được trách yêu, Hải sung sướng lên mặt:
    - Ai dám chửi Hải vậy?

    Bảo Ngọc liếc thật nhanh, để lại đuôi mắt đằm thắm trong đôi mắt đầy ắp hạnh phúc của Hải. Bảo Ngọc nói lẩy:
    - Ngọc tưởng Ngọc vẫn còn có quyền với tội phạm của Ngọc. Thôi thì, đàng hoàng chút được không?
    - Thì nói café thôi mà. Hôm nay mà khóc nữa thì đôi tay này không còn khờ đâu đấy. Mà sao về đây vậy?
    Bảo Ngọc nghiêm giọng:
    - Giỏi thiệt. Mới nói bậy xong là làm bộ đánh trống lảng hỏi một câu. Mà công nhận Ngọc hư thật, chắc tại chửi không được nên khóc cho đỡ tức ngực, có muốn nghe trả lời không?
    - Nghe thì muốn. Nhưng mà già không cho nói thì bao giờ mới trẻ lại được?
    - Nữa! Nghe “trích ngang” đây: không còn gì nữa, về ngoại xin ăn, có gì cũng còn có gia đình.

    Hải lợi dụng cơ hội, truy vấn:
    - Có gì là có gì? Trong đó không có gia đình hở?
    Bảo Ngọc lấp lửng:
    - Không mà có hai đứa con sao?
    - Huề vốn. Trả lời kiểu dễ tức ngực không.
    Bảo Ngọc hỏi lại:
    - Mấy đứa nhỏ Hải vẫn đi học chứ? Ngọc ít đi về nên cả chục năm mới nghe mẹ cháu mất.

    Hải xa vắng:
    - Biết sớm hơn để được gì?
    - Xem con của Ngọc kìa, đứa lớn còn nhỏ hơn đứa nhỏ của mấy người.
    - Chắc tại chung thủy với người xưa quá? Hay muốn đổ thừa tại người ta lấy vợ trước? Không lấy thì có còn ai bận lòng đâu!
    - Mà bệnh sao chết vậy?
    - Tại chồng bị nhốt kỹ quá, tận trong núi sâu, toàn là muỗi chống Mỹ, độc lắm, ở tù thì có chuẩn bị mùng mà người đi thăm thì không có, nên lên thăm về bị sốt ác tính chết. Đợt đó nghe nói thị xã mình chết ba bốn người gì đó.
    - Kiếm mẹ khác cho con rồi phải không? Hình như Ngọc cũng biết người đó?

    Hải trả bài:
    - Biết còn hỏi. Có mong vậy không?
    - Vui không?
    - Vui chút chút, buồn chút chút.

    Bảo Ngọc nhíu mày:
    - Cũng huề vốn. Học trò thuộc bài nhanh đấy.
    Chị muốn nói đùa cho vui, nhưng vẻ mặt chị thì như đã kéo cả người chị xuống đâu tận một vực sâu hun hút nào. Chị cắn môi, cố nhếch một nụ cười nửa miệng, mà lại không giữ nổi mấy giọt nước mắt vô kỷ luật đang lăn xuống môi. Không biết có phải vì bối rối nhớ lời “hăm dọa” mới rồi của Hải hay không mà chị vội chớp mắt cúi thấp đầu xuống. Hải bối rối hơn, nói một câu vớt vát vô duyên:
    - Mình là anh em nhé!
    Bảo Ngọc ngước lên, lắc đầu:
    - Dẹp. Chỉ còn có hận thôi.
    - Ngày ấy…
    - Không là gì hết. “Hình như là…” vậy thôi.

    Và chị hít một hơi thật sâu, như để lấy lại chút thăng bằng:
    - Uống café đi. Ngon không?
    - Ngon mà đắng. Uống miếng nhé?
    Im lặng. Không khí như chùng xuống. Hai người không ai nhìn ai, cả hai cùng nhìn ly café, như muốn tìm trong đó những giọt ngọt đắng hai mươi năm nằm ở đâu đó.
    Chặp sau, chừng như khó nén một tiếng thở dài, Bảo Ngọc lên tiếng:
    - Trả nhật ký lại Ngọc.

    Hải đẩy ly café tới, tiếc rẽ:
    - Hải muốn giữ luôn?

    Bảo Ngọc hớp một ngụm nhỏ:
    - Không được.
    - Vậy có trang nào mới viết đêm qua không?
     
  11. hugolina

    hugolina Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/9/12
  12. Hoài Niệm

    Hoài Niệm Thần Tài

    Chạm vào giấc Mơ
    Văn Công Mỹ
    [​IMG]
    Mới tám giờ tối mà cái phòng trà nhỏ xíu đã đông nghẹt khách. Không còn một chỗ trống. Thằng quản lý đang lăng xăng chỉ đạo đám phục vụ bày thêm mấy cái ghế xếp ở những khoảng không còn sót lại trong các góc phòng. Trên gác lửng từng cặp đôi cũng đã chiếm lĩnh hết mười mấy bộ sô- pha bày sát rạt với nhau. Sàn nhà lót thảm nên không nhiều tiếng ồn khi xê dịch bàn ghế và triệt tiêu luôn tiếng cọc cạch của những đôi giày da bóng lộn, đắt tiền. Không có sự cộng hưởng của những tạp âm nên mọi người bỗng tự điều chỉnh âm thanh phát ra từ miệng của mình. Những tiếng suýt xoa trầm trồ trang phục của nhau, những nụ cười thật tươi nhưng không thành tiếng, những lời thăm hỏi…tất đều cố gắng giữ một âm lượng nhỏ nhất, trông giống như cái hoạt cảnh của một vở kịch nói về giới thượng lưu hồi xưa.

    Lúc Doãn bước vào là thấy xa lạ ngay lập tức, biết sẽ không gặp ai quen nhưng chàng vẫn đảo mắt nhìn quanh với một hy vọng nhỏ nhoi. Chàng thấy ngợp giữa cái mùi thuốc lá thơm nồng nặc và mùi nước hoa đủ các loại quánh đặc trong cái không gian ngột ngạt này. Chẳng ai nhìn đến bộ dạng Doãn một khắc, cho dù lúc này trên người chàng chỉnh chu một bộ veston màu đen mới cứng vừa mang từ tiệm giặt ủi về. Tay vuốt vuốt đầu, Doãn ân hận là không mua chai gel để chải tóc, có mấy ngàn bạc cũng tiếc, để rồi sau khi gội đầu mái tóc khô rang lung bung, lòa xòa soi trong cái kính treo tường trông như thằng ngố. Bộ dạng Doãn trông lớ ngớ, hai tay khư khư giữa cái túi rỗng quàng vai. Vừa ngồi xuống ở cái ghế trống trước mặt nghe có tiếng thằng phục vụ: “ Bàn đó reserved rồi !” lại lật đật đứng dậy dạt vô đứng cạnh quầy bar, cười ngô nghê nói với cô bé pha chế: “ Cho anh ly…trà đá”. Con nhỏ chọc quê bằng cách nói to, kéo dài giọng: “ Cho một ly trà đá…đi” làm Doãn muốn độn thổ. Nhưng khi nghe Doãn trả lời đang chờ ông chủ thì con bé cười hì hì chỉ ly trà đá nói: “ Cái này free đó nghen”.

    Khi nãy ngồi sau lưng gã xe ôm chạy vút vút qua mấy con đường đèn xanh đỏ nhấp nháy, khoái trá nghe gã trầm trồ: “Thiệt sao ? Chú em chơi ở đó hả ? Dữ à nghen. Chỗ đó giờ nổi tiếng nhất thành phố đó!” Rồi hăm hở tò mò: “ Mà kiếm được nhiêu vậy, chú?” Doãn cụt hứng, ngượng ngịu: “ Ờ, thì cũng vừa…đủ xài”. Kỳ thực Doãn đâu đã thấy mặt mũi cái phòng trà mà chàng đang trên đường đến. Doãn suy nghĩ thật chậm để cố nhớ hết mọi thứ diễn ra trong cái đêm mùa hè nóng nực vào tuần trước và chàng nhớ như in khuôn mặt hiền hiền của người đàn ông đó khi chú Vĩnh Thụy giới thiệu: “ Đây là anh Tuấn mới ở trỏng ra. Còn đây, thằng này coi được nhất ở đây, Quang Doãn”. Hơi thở Doãn như muốn ngắt quãng, chàng đã nghe chú Thụy với cô Nụ nói nhiều về ông Tuấn. Họ là bạn thân nhau từ nhỏ. Ở chốn quê nhà nhỏ bé này vợ chồng chú Thụy mỗi tuần miệt mài tập dợt cho đám ca sĩ phố thị chỉ để có mỗi một đêm thứ bảy hát hò phục vụ trong cái quán cà phê cà tàng mang tên cô chủ: Thu Trầm. May thay tuần nào khách kín hết mấy chục chỗ thì mỗi đứa ca sĩ cũng được mươi ngàn để khuya lắc tụ lại cái quán bún bò, bún chả cá ăn uống tán dóc vung trời. Có lúc cao hứng chú Thụy hứa: “ Tụi bay ráng đi. Biết đâu trời độ nay mai tao giới thiệu hát ở Đồng Hương thì…chắc nụi !” Nghĩ cũng tội mấy đứa nhỏ, lao xao chỉ Doãn: “ Chú, chú giới thiệu anh Doãn đi. Ảnh…đẹp trai nhất đó!” Chú Thụy cười hề hề : “ Ờ…ờ để coi ”.Doãn có nghe chú Thụy nói ông Tuấn vào thành phố đã sáu năm nay, dường như ổng đang làm ăn phát đạt, có đến mấy cái quán cà phê to đùng. Cách đây mấy tháng ông Tuấn mở phòng trà, hàng đêm có ca sĩ hát, mà nghe đâu toàn ca sĩ thứ dữ không ! Cô Nụ trả lời thắc mắc của Doãn : “ Ừ thì giống như quán cà phê vậy đó. Nhưng nay gọi phòng trà cho…sang”. Doãn hồi hộp cũng phải, gần đây những đêm trong giấc ngủ chập chờn chàng thường mơ những giấc mơ nhỏ. Cảm giác khao khát được hát trong cái thành phố hừng hực sức sống đó xâm chiếm, âm ỉ, chậm chạp dày vò Doãn lâu nay. Năm ngoái chàng có vào thử giọng Tiếng Hát Trẻ ở đài truyền thanh thành phố này đến nay cũng không thấy cú a lô nào của ông trưởng ban tổ chức. Tranh thủ mấy ngày dự thi, tối tối Doãn có đến ngồi chầu ở mấy cái tụ điểm ca nhạc, có thằng bầu không thèm liếc chàng một cái, thằng khác thì hỗn: “ Em, tối nay về nhà anh nói chuyện, nghen” Miệng nói cười nhăn nhở, tay nó sờ soạng trên người Doãn làm như sợ chàng mang…dao găm không bằng. Rồi mấy triệu mang theo cũng cạn, chàng quay về quê nhà như một tất yếu. Nhưng cái thứ không tốn tiền mà muốn bao nhiêu cũng có là mơ ước thì Doãn ngày càng vơ vào không biết mệt. Nhớ lại đêm đó, tháng sáu tỉnh lẻ nóng như lò lửa mà Doãn hát cho ông Tuấn nghe bài hát nói về chàng lữ thứ nhớ về quê mẹ trong đêm đông dài giá buốt. Không tin ở tai mình lòng chàng như mở hội khi nghe ông Tuấn nói với chú Thụy: “ Thôi được, để tao đem “con gà” này vô cho nó hát ở Đồng Hương. Dân quê mình phải có một đứa chớ !” Cánh mũi phập phồng, khóe mắt cay cay khi Doãn nhớ lại buổi nhậu chia tay ngày nọ, thằng Quốc Phương lè nhè: “ Đ.m, đừng quên anh em nghen mậy!” Rồi tiếng con ca sĩ mới mười lăm tuổi Ánh Hương cứ thầm thì, thầm thì: “ Vào, nhớ biên thư thiệt dài cho em nghen” Còn cô chủ quán Thu Trầm thì cầm tay chàng lắc lắc : “ Mỗi lần về nhớ ghé chị kể chuyện, nghe”.

    Doãn nhoài người ra khỏi chỗ tối để chào ông Tuấn và quay sang cúi đầu chào ông to con bên cạnh, khi ông Tuấn nói: “ Anh Mập, bạn anh. Xếp sòng ca sĩ ở đây đó!” Rồi ổng nói với Lão Mập: “ Thằng này là gà tui, mới đem ở ngoải vô. Chút cho nó thử cựa nghen”. Lão Mập bảo Doãn: “ Lên ngồi gần thằng Quân Đui đi, chừng nào tao bảo lên thì lên, tự giới thiệu bài hát luôn nghe”. Doãn lóng ngóng móc ra từ cái túi xách gói thuốc rút ra một điếu hai tay mời Quân Đui, xong rón rén để lại cả gói trên cây đàn piano. Tuy không hút thuốc nhưng Doãn đã chuẩn bị sẵn cái hộp quẹt gas bật lên nhanh chóng mồi thuốc cho thằng nhạc công mà nãy giờ cứ khinh khỉnh ngó lên trần nhà chứ không thèm ngó chàng một miếng. Phải dè chừng, và lấy lòng gã nhạc sĩ này, Doãn thầm nghĩ. Nghe nói ngay mấy đứa ca sĩ hạng A cũng phải biết điều thuốc lá, cà phê, ăn sáng…lâu lâu cũng bữa nhậu ra trò. Gã này nghiệt, trong giới vũ trường, cà phê ca nhạc ở thành phố này đều biết tiếng. Chơi piano như xiếc kèm theo cái tính nết mưa nắng khôn lường. Đòn độc mà hắn thường sử dụng những đêm trái gió trở trời là khi ca sĩ báo tông, Quân Đui nhẹ nhàng bỏ những hợp âm, du dương từng nốt đợi khi ca sĩ hả miệng để hớp hồn khán giả thì ngay lúc đó hắn thả vô một nốt lạ hoắc làm em bé ngắc ngứ ngớ người ngượng ngịu đứng trơ trên sân khấu coi phô chịu không nổi.

    Nãy giờ ngồi sát bên Quân Đui, Doãn chăm chú theo dõi đám ca sĩ tài danh biểu diễn mà giật mình choáng váng. Đúng là nhờ đêm nào cũng hát và chạy đến hai, ba chỗ mà mỗi cái quán hát hai, ba bài cho nên giọng mấy anh chị ngọt xớt, bà con nghe xong vỗ tay rần rần. Mà trang phục của họ cũng lạ nữa, trong khi Doãn đóng trên người bộ veston đen thùi lùi, thì ca sĩ Đức Mạnh chơi cái áo màu đỏ chói có gắn kim tuyến lóng la lóng lánh, rồi choàng thêm trên cổ một giải khăn lụa buộc thành cái nơ trông giống như diễn viên điện ảnh thứ thiệt. Nhìn Hoàng Tùng, với áo lụa vàng bỏ ngoài quần, đi đôi giày da trắng toát nhảy như điên với Phi Yến song ca một bài hát gì đó có đoạn hai đứa gào lên: “ Sài Gòn ơi ! Sài Gòn ơi…” Doãn bỗng thấy mình như nhỏ lại. Người lâng lâng, tai ù đi nghe loáng thoáng tiếng lào xào của những vị khách ngồi sát sân khấu khi Doãn hồi hộp nghiêng mình: “ Quang Doãn xin kính chào quí khách…”. Nỗi lo âu, sợ hãi đến với chàng lúc hát vừa xong, một không gian yên tĩnh lạ thường, chỉ trong một thoáng chốc Doãn muốn bỏ chạy thật nhanh nhưng còn kịp nở một nụ cười, cúi chào khi nghe có vài tiếng vỗ tay rời rạc bên dưới. Lão Mập thì biến mất lúc Doãn mới hát mấy câu. Ông Tuấn đang nhìn Doãn cười cười vỗ tay nhỏ dần. Cảm giác tủi thân, muốn khóc khi chàng nghe loáng thoáng: “ Nhưng thằng này…đẹp trai”.

    Đám ca sĩ còn ngồi lại rất đông, uống nước và nói chuyện ồn ào náo nhiệt. Đêm nay, cuối tuần là ngày lĩnh lương của một tuần ca hát. Những khuôn mặt hớn hở khi cầm những phong bì dày cộm. Cả bọn lục tục kéo nhau đi ăn khuya. Còn lại mình Doãn lặng lẽ đến bên quầy thu ngân, người kế toán lạnh lùng: “ Em hát mỗi đêm ba chục. Tuần này coi như tính một đêm, há!”. Cầm những tờ tiền trên tay, Doãn cảm giác có chút vui mừng như đã chạm vào, đã nắm được cái giấc mơ, nhưng sao miệng môi đắng ngắt, bụng dạ lo lắng bất thường. Vô định, Doãn đi chênh vênh chậm chạp, tai nghe tiếng cửa sắt kéo sập sau lưng. Giấc mơ cả đời ngủ thấy mà chàng mới vừa chạm đến, cầm lấy có thực hay không? Tiếng chổi của người công nhân xát mạnh xuống mặt đường làm Doãn giật mình ôm chặc cái túi không. Rồi mệt mỏi chàng hỏi ông xe ôm đang rà rà nãy giờ: “ Bao nhiêu, chú?”.
     
    No MercY and Aprilia like this.
  13. Hoài Niệm

    Hoài Niệm Thần Tài

    Không là truyện cổ Tích
    Hòa Văn

    [​IMG]
    Trẻ sơ sinh giới tính nam. Không có dị tật. Phát hiện ở ngã tư xã Trà Diên sáng sớm ngày 22/02/2000. Nhận dạng ban đầu tóc hơi quắn, mũi cao, cân nặng 3505 Gram. Mặc áo thun màu cánh sen bên trong áo có chữ King. Ngày nhập vào Trung tâm nuôi dưỡng mồ côi Nhân Ái: tạm thời 22/02/2000, chính thức 22/03/2000. Người nhận làm bảo mẫu cô Nguyên Hà”.
    Trên đây là tóm tắt về cháu Nguyên Hạnh.

    Trân gởi tôi mảnh giấy như thế và nói chiều nay ghé lại quán Nguồn Cội uống cà phê sẽ kể tiếp.

    Trời tháng giêng âm lịch mà nắng gắt quá, Trân đi môt lần rồi, con đường từ ngã ba quán An vào Trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi Nhân Ái chỉ mười hai cây số nhưng sao hôm nay thấy xa thế! Trân lẩm bẩm giục Nguyện cho xe chạy nhanh hơn. Nguyện nói: “Hôm nay chủ nhật, mới chín giờ còn sớm vội gì!” Trân nói: “Buổi chiều mình còn thăm Trung tâm phụng dưỡng người già Nhơn Bổn nữa” Nguyện: “Ừ, ừ…” tăng ga, chiếc xe tám chỗ ngồi đời mới vút lên ngọt xợt.

    Đến nơi, các cô bảo mẫu và mấy chục trẻ vui vẻ chào đón, việc này làm thường xuyên nên cả cô và cháu thực hiện nền nếp lịch sự không chê vào đâu được. Tiếp sau các cô cùng Trân và Nguyện chuyển những kiện quà từ xe vào hội trường.

    Hội trường được trang hoàn tươm tất, có câu: “KÍNH CHÀO MỪNG VÀ CẢM ƠN QUÝ NHÀ TÀI TRỢ” gắn trang trọng trên phông xanh. Việc tặng quà cho các cháu chóng vánh, tiếp đó là buổi giao lưu trong không khí ấm cúng các cháu vừa ăn bánh uống nước ngọt vừa vui hát rộn ràng. Nguyên Hạnh, mười tuổi học lớp bốn dẫn chương trình nói không hề vấp lời nào giỏi y như MC chính hiệu trên truyền hình. Sau khi hát, giới thiệu các bạn hát, Nguyên Hạnh xin phép kể chuyện: (từ lớp mẫu giáo đến nay các cô nói đây là một cây kể chuyện vừa có duyên, vừa có giọng kể và diễn đạt nhân vật, sự việc xuất sắc đã đạt nhiều giải thưởng cấp huyện, cấp tỉnh).

    “Kính thưa…! Câu chuyện cháu kể không phải là truyện cổ tích mà là chuyện thật đêm qua khi ngủ cháu mơ thấy rõ ràng.

    Cách đây… năm (chỗ này cu cậu nói là nghe không được rõ nên không kể chính xác số năm), con người tốt đẹp hơn con người bây giờ nhiều lắm, tốt…, đẹp…(chỗ này diễn đạt bằng tay chứ không kể), và con người là động vật sướng nhất trong số động vật có mặt trên quả đất vào thời ấy. Không cần đi học: hiểu biết, không cần lao động: có ăn, mà ăn ngon nữa (từ ngữ lao động hồi đó gọi là đi tìm thức ăn). Đặc biệt con người rất tài giỏi: bay, nhảy thoắt một cái là được tựa như phép đằng vân. Muốn đi đâu chỉ cần nhún chân vẫy tay là bay vút vút lên bầu trời xanh, tích tắc đến nơi cần đến hạ chân an toàn (bây giờ gọi là hạ cánh an toàn), con người ai cũng biết sáng tác thơ, văn, nhạc, hoạ và biết đủ tất cả nghề nghiệp… môn nào nghề nào không làm thì thôi đã làm nhất định rất đẹp, rất hay, riêng phần hót (tức là hát bây giờ) khỏi nói, giọng nam giọng nữ, giọng thiếu niên thiếu nhi và cả người cao tuổi tuỳ tuổi tác sẽ trầm bổng du dương, nhất là khi hót hợp ca, hợp xướng không cần tập tành, muốn hót đứng gần lại, hót”.

    Nguyên Hạnh ngừng kể nháy nháy đôi mắt sáng trưng, lấy khăn lau khuôn mặt khôi ngô, cười tươi để lộ những chiếc răng trắng đều y chang những hạt lựu, khiến cho Trân và Nguyện đã thương càng thương cu cậu hơn. Trân nói nhỏ với cô Nguyên Hà: “Chặp nữa cô cho tôi gặp Nguyên Hạnh một chút được không?” Cô Hà nhẹ nhàng trả lời: “Dạ được”.

    Nguyên Hạnh kể tiếp: “Đặc biệt mọi người yêu thương nhau lắm! (đoạn này cu cậu vừa kể vừa ra điệu bộ) ví dụ như…, ví dụ như… (cu cậu đưa ra nhiều ví dụ thấm đẫm tình người nhất là tình yêu thương trong mái ấm gia đình, không khác mấy với bây giờ điều nầy chứng tỏ chuyện ngủ mơ thấy là thật, vì từ hồi sinh ra đến nay sống tập thể, được cô và các bạn trong Trung tâm thương yêu thì có, chứ đâu có ông bà, cha mẹ anh chị em ruột đâu mà biết mà kể, nghe cu cậu kể chuyện với giọng thanh bân diễn cảm ai nấy cũng cảm động rơm rớm nước mắt…) Dạ câu chuyện còn dài, cháu kể nữa làm mất thì giờ các bác, các cô quá! Cháu xin hẹn lần sau kể tiếp”.
    Cô Nguyên Hà có ý kiến: “Đúng đó, xin phép anh Trân và anh Nguyện cho cháu hẹn…” Cả hội trường đồng ý vỗ tay tán thưởng Nguyên Hạnh liên hồi.
    (Phần viết trong ngoặc đơn là do tôi thêm vào, không phải lời kể của Nguyên Hạnh.)

    Đoạn cuối của truyện ngắn:
    Theo Nguyên Hạnh sau đó vì một lý do gì đó không rõ, con người mất dần thiên tài được thừa hưởng và như ngày nay ai muốn giỏi điều gì việc gì phải rèn luyện học hỏi mới phát huy được tài năng, “vì một lý do gì…” cháu biết mà không dám kể, đó là càng về sau con người sống với nhau thiếu dần tình yêu thương, dẫn tới nhiêu khê, xung đột, nhiều gia đình tan vỡ, nhiều đôi trai gái yêu nhau không cưới nhau, nhiều trường hợp để lại hậu quả “có em bé” cũng rũ bỏ không chút lương tâm. Thế giới chiến tranh, đầy bất trắc… đạo đức suy đồi… kẻ đạo đức giả nhan nhản, người lương thiện, người làm việc thiện hiếm hoi. Thật ra làm điều tốt cốt ở cái tâm, tôi biết anh Trân, anh Nguyện đây không giàu có gì nhưng như hai anh nói: “Mình khác người một chút, trong khi thiên hạ bù khú nhậu nhẹt, mình có mà ít thôi còn chủ yếu dành dụm tiền lâu lâu đi thăm viếng tặng quà cụ già neo đơn, trẻ em bất hạnh cơ nhỡ.”

    Truyện ngắn nầy đăng trên báo, ông Liếng đọc thấy trường hợp nhân vật Nguyên Hạnh trong truyện sao giống tình cảnh con của ông ta quá! – rồi ông chủ tâm đi tìm. Chiếc áo thun là chiếc áo do chính ông ta mua trong đó có ghi chữ King nơi gần lai áo, nét chữ ông viết bằng mực xạ sau mười mấy năm Trung tâm Nhân Ái lưu giữ giờ đưa ra xem màu mực đen còn nguyên. Tôi hỏi ý nghĩa chữ King ông ta buồn buồn không trả lời, chắc có gì trắc ẩn. Ông nói trời thương ông quá, nếu ngày ấy không mua áo, không dùng cây cọ viết thư pháp viết chữ như thế vào áo thì nay lấy gì làm tin.

    Ông Luyến kể sau này cưới vợ, làm ăn sung túc, chức phận hẳn hoi nhưng không có con cái, gia đình luc đục, vợ đi Sài Gòn nghe nói có chồng có con, làm ăn khá giả lâu nay không về Đà Nẵng nên không gặp, hay tin này mẹ Nguyên Hạnh vui hay buồn không biết riêng ông mừng hơn cả được vàng khối.

    Ở đời có việc không ngờ, ông Liếng không ngờ tìm gặp được con!
    Tôi không ngờ truyện ngắn này giúp được một điều Nguyên Hạnh thường mong mỏi trong nhiều giấc mơ… nay em đã gặp cha!.
     
    No MercY and Aprilia like this.
  14. Hoài Niệm

    Hoài Niệm Thần Tài

    Không môt chỗ để Về
    Trần Yên Hòa
    [​IMG]
    Ngận đưa Phụng đến rạp ciné Nam Quang lúc chín giờ sáng. Rạp hãy còn đóng cửa. Còn sớm quá. Thời gian gần đây các rạp chiếu bóng trong thành phố mở cửa trể vì buổi sáng không có ai đi xem phim sớm. Ngận không biết đưa Phụng đi đâu? lang thang hay ngồi quán vệ đường uống nước trà đá. Kim Phụng của một thời áo dài trắng bay bay trong khung trời thị xã ngày xưa, nay qua một cơn đổi đời, đã trở thành cô gái bán quán nhậu bình dân ở trên đường Chi Lăng, Gia Định. Chuyện đó cũng bình thường thôi. Không có gì phải suy nghĩ. Ngận cũng vậy chứ có gì khác đâu. Từ một sĩ quan chỉ huy rồi đến một người tù, rồi một tay đạp xích lô, đi long rong khắp các ngã đường thành phố như chó chạy rong. Cũng vậy thôi. Cuộc đời nó nối khít, bện chặt vào nhau một vòng luân chuyển. Rất bình thường.

    Nhưng Ngận cũng sững người lại khi gặp Phụng ở quán bán đồ nhậu bình dân có cái tên rất tình, quán Bụi Hồng.

    Hôm đó, buổi chiều anh đang chạy xe long rong kiếm khách, thì Ngận gặp Phong, người bạn tù, đã ở với nhau từ trại Trảng Lớn rồi đến Long Giao. Phong đi ngược chiều, thấy Ngận thì kêu to:
    - Ngận, Ngận, phải mầy đó không?

    Ngận kéo sát cái cần thắng xe xích lô cho xe ngừng lại, anh nhận ra Phong ngay, anh trả lời:
    - Tau đây, còn mầy là Phong phải không?
    Phong nhanh nhẩu:
    - Ừ, Phong đây, nghe nói mầy về, vợ con tan đàn xẻ nghé, tau tìm mầy mãi mà không ra, hôm nay tình cờ may mà gặp, tau mừng quá.
    Đôi bạn đứng giữa đường nói chuyện oang oang tự nhiên như người Hà Nội, ai đi qua cũng nhìn đau đáu. Ngận trả lời bạn, cũng giọng mừng vui, cũng oang oang không kém:
    - Tau cũng tìm mầy muốn chết. Thôi mình cho xe ép lên lề bên kia, tấp vào quán nhậu Bụi Hồng làm chút đế, nhé, cho vui.

    Thật ra thì cũng gần mười năm hai người mới gặp lại nhau. Ở tù chung được hai năm, hai người nằm khít nhau. Tối tối, Phong kể chuyện cho Ngận nghe, nào chuyện Tam quốc chí, chuyện Đông Chu liệt quốc, chuyện Cô gái Đồ Long, chuyện Cậu Chó... Ngận nghe chưa hết kho sách chứa trong đầu Phong thì Phong bị biên chế ra Bắc. Đến bây giờ đúng là mười năm. Mười năm đôi bạn tù mới gặp lại, sao không nhậu một bữa cho ra trò. Hai người dắt xe lên lề rồi dắt luôn vào quán.

    Hai người tù cũ nhìn nhau và thấy thằng bạn mình sao già quá. Mới đó mà đã mười năm qua. Khi vô trại thằng nào cũng tóc còn xanh, mắt còn trong sáng, mà bây chừ hai đứa, đứa nào cũng tiều tụy thấy rõ. Thằng Phong dựng xe đạp, nó khóa xe cẩn thận, Ngận cũng dắt chiếc xích lô vào trong sân quán, Phong nói:
    - Kêu cái gì lai rai đi. Mười năm mới gặp lại mầy.
    - Ừ tau cũng hỏi tin mầy mãi mà biệt tăm.
    Khi hai người ngồi an vị trên chiếc ghế gỗ thấp. Ngận hỏi:
    - Mày uống gì, đế Gò Đen nghe. Ở đây có lẩu bò.

    Thằng Phong hùng hổ:
    - Ừ thì một lít đế Gò Đen, một lẩu bò lớn. Hôm nay để tau lo, người còn của còn mà, mầy đừng ngại.
    Ngận hỏi lại bạn:
    - Bây giờ mầy làm gì, ở đâu, gia đình thế nào?
    Phong đáp:
    - Tau ở ngã tư Bảy Hiền, chạy mối vải kiếm ăn qua ngày. Vợ con còn đủ, tau đi tù bảy năm mới về, nó chưa bỏ tau là may.

    Người con gái phục vụ bận cặp đồ bộ bằng loại tơ mỏng dính, cầm tờ giấy đến ghi thực đơn. Thằng Phong kê toa xong, nó quay sang Ngận:
    - Hồi ở Long Giao với mầy rồi nghe tin biên chế có tên tau, tau nghĩ chắc là tau may mắn được thả trong đợt Tết đó chớ, nhưng khi lên xe bít bùng rồi mới biết mình mừng hụt. Loại lính tác chiến dữ dằn như tau làm sao về sớm được. Khi xuống tàu ra bắc, tau cứ tưởng là tụi nó dồn mình bỏ ra biển cho cá nó ăn.
    Cái lẩu bò được người phục vụ đem ra đặt trên một bếp lửa nhỏ, có thêm mì và rau tươi đủ loại. Một chai đế Gò Đen trắng với hai cái ly nhỏ. Phong rót rượu ra ly cho hai người rồi cầm ly lên ngang miệng, nói:
    - Dô đi mầy, hôm nay thật tình cờ mà tau gặp lại mầy, thế mới vui. Tụi mình về được là may, còn sống được là may. Phải không? Hồi tau đi bắc, tụi mầy thế nào?
    - Thì ở Long Giao rồi chuyển trại về Hốc Môn. Rồi xuống Suối Máu. Ở Suối Máu tụi tau quậy một đêm Noel làm tụi nó kinh hoàng bạt vía, cả một liên trại không ngủ cả đêm. Sau đó tụi tau thành lập Uỷ Ban Hành Động.
    Ngận nói xong ực ly rượu thật ngon lành như ngày ở trong tù được ăn một tép mỡ, nghe thấm từ đầu đến chân rồi chảy len vào từng thớ thịt. Đôi bạn tù khi gặp lại nhau, biết nói gì hơn là kể lễ cho nhau nghe đủ thứ chuyện trên đời, về bạn bè, đứa nào còn, đứa nào mất. Những ngày nắng, ngày mưa, ở xứ Bắc hay miền Trung khô cháy suốt những năm lao tù cưởng bách. Đến khi cạn đến ly thứ 5 và chai rượu đế Gò Đen cũng vơi đi hai phần ba, thì Ngận đã nói lè nhè:
    - Tau bây giờ chẳng còn gì, vợ con không còn, của cải không còn, tau chạy xe xích lô lang thang khắp phố phường để nhìn thiên hạ. Sao người ta vẫn ăn chơi sung sướng được không biết. Tau đang tính đường over sea mà tính chưa ra. Đời là cái đếch gì, làm sao ở lại được, làm sao sống chung nổi với lũ chó má nầy.
    Phong thấy Ngận đã say và bắt đàu ăn nói vung vít thì cũng hơi dội. Ở đây tai vách mạch rừng, thằng nào đã từng đi tù về cũng đều ớn chuyện phải quay trở lại những nơi đó, với những năm lao động khổ sai, nên Phong nói nhỏ với Ngận:
    - Ở đây còn nhiều ăn ten hơn trong tù nữa đó nghe mậy. Mày muốn trở lại Xuân Phước một lần nữa không?

    Ngận đang nói ngon trớn nghe Phong nói vậy thì liền tốp bớt, nó chuyển qua chuyện đàn bà:
    - Mày biết không, tau về thì con vợ tau không còn ở nhà cũ của tau nữa, nó bán nhà dẫn con đi biệt tăm đâu mất. Mày thấy hoàn cảnh tau vậy mà không chán đời sao được.
    Phong thấy thương cảm hoàn cảnh của bạn, đâu có phải một mình Ngận gặp hoàn cảnh đó đâu, biết bao nhiêu chuyện xãy ra cho những người tù trở về. Phong nói:
    - Thôi bỏ qua hết mọi chuyện để sống với đời chứ mầy ngồi kể lể dài dòng cũng chẳng đi đến đâu. Tau gặp mầy hôm nay là mừng rồi, để tau thanh toán tiền nhậu, tau về trước, chớ về trễ, con vợ tau bỏ đói tau thì nguy.
    Ngận còn muốn ngồi một chút cho dã rượu, Ngận bảo:
    - Thôi mầy về trước đi, gặp lại mầy là tau vui, hôm nào tau đến nhà thăm vợ con mầy.

    Phong đứng dậy đến quày tính tiền rồi mở khóa xe đạp, dắt xe ra cửa. Ngận ngồi một mình, đầu cúi xuống thấp. Khi anh ngững lên thì anh thấy Phụng từ trong quày đi ra. Phụng bận cặp đồ vàng, thật vàng. Phụng đó phải không? Phụng của một thời trung học? của thị xã nhỏ nhắn mà xinh đẹp nơi anh đã sống và học suốt thời thơ ấu. Ngận buột miệng hỏi:
    - Phụng, Kim Phụng phải không ?

    Phụng đến trước mặt anh với một nụ cười. Một người khách say. Nhậu xỉn, say là chuyện xãy ra thường ngày ở đây. Nàng không để ý, chỉ muốn đến để thăm hỏi một người khách. Quán nhậu có hàng trăm người biết tên nàng, đâu có gì lạ. Nhưng khi người đàn ông ngẫn măt lên nhìn nàng cười, nàng mới thấy người nầy quen quen.
    Ngận hỏi:
    - Chắc Phụng không biết tôi đâu, không nhớ tôi đâu. Nhưng tôi biết Phụng, có phải Phụng quê ở Tam Kỳ không?
    - Dạ, em ở Tam Kỳ, anh có ở đó không?
    - Tôi sinh ra ở đó, lớn lên đi lính cũng về đóng ở đó, tôi làm đại đội trưởng đại đội trinh sát ở Chu Lai.
    Phụng trố đôi mắt thật to, đôi mắt rất đẹp, nàng hỏi lại:
    - Anh có phải Ngận không, anh làm đại đội trưởng trinh sát sau anh Giỏi phải không?
    - Đúng rồi.
    - Trông anh lạ hoắc.
    - Tôi tơi tả quá phải không?

    Phụng chựng lại nhìn Ngận, anh chỉ còn đôi mắt là tinh anh và nụ cười tươi. Còn tất cả đổi thay quá nhiều. Hình như ở thị xã ngày trước, lúc nàng còn đi học, những sĩ quan thuộc trung đoàn bu quanh nàng dày đặc, nàng chỉ biết Ngận qua những người bạn thường tán tỉnh nàng. Ngận tốt nghiệp sĩ quan Đà Lạt, đánh giặc lì lợm, nỗi tiếng cả sư đoàn, nhưng về thành phố thì anh hiền như bụt. Nàng chỉ biết Ngận bấy nhiêu, một vài lần nàng thấy anh cùng đám lính đi rong chơi ở thị xã trên chiếc xe jeep đầy bùn đất. Bây giờ cũng mười mấy năm. Mười mấy năm đổi thay cả một cuộc sống của cả hai người. Những huy hoàng xưa đã hết.
    Phụng nói cho Ngận vui:
    - Anh không tơi tả nhưng có vẽ bụi đời quá, nếu anh không nhớ em, chắc em cũng không nhớ nổi anh.
    Phụng ngồi xuống bên Ngận, nàng biết những người say là những người có tâm sự buồn. Mở quán nhậu bình dân ven đường, hằng ngày có trăm khách đến ăn uống nhậu nhẹt, nàng biết có những hoàn cảnh rất đau thương. Sau cuộc đổi đời, ai sống vững bình yên được là một phép lạ.
    Ngận hỏi Phụng trong dè dặt:
    - Hồi ở trung đoàn 6, một thời gian sau tôi nghe tin Phụng lấy chồng, đại uý Trảng phải không?
    Phụng cười thành tiếng:
    - Sao anh biết nhiều về em, hay vậy?
    - Thành phố nhỏ, Phụng lại đẹp nữa, chuyện gì xãy ra ai không biết.
    Giọng Phụng trầm xuống, nàng kể lể:
    - Nhưng cuối cùng rồi cũng đỗ vở. Sau ba mươi tháng tư, anh Trảng đi cải tạo bảy năm sau mới về, tụi em bỏ nhau.

    Phụng thở dài rất nhẹ. Hai người ngồi với nhau suốt hai tiếng đồng hồ.
    Thế là Ngận hay ghé đến quán nhậu của Phụng buổi chiều. Có khi anh ngồi uống xị rượu một mình rồi lên xe về căn gác gỗ thuê. Có khi Phụng ra ngồi nói chuyện với anh. Riết rồi hai người kết lại với nhau lúc nào không hay. Ngận có thốt lời yêu thương với Phụng hay không, lúc nào, anh cũng quên đi, có thể, trong cơn say, trong khi quán vắng khách, Phụng ra ngồi với anh và anh đã ôm hôn Phụng, nụ hôn dữ dội, mạnh bạo, cuồng nhiệt. Phụng đáp lại mối tình của Ngạn cũng rừng rực lửa, rừng rực sức sống của cô gái trên dưới ba mươi.

    Phụng tâm sự với Ngận về những ngày đã qua của mình:
    «Khi Trảng vào tù Phụng mới hai mươi tuổi. Tình yêu với Trảng như một dòng suối chảy rất hiền hoà. Trảng cùng học một trường với anh Châu, anh Phụng. Rồi Trảng đi sĩ quan Thủ Đức, được bổ nhiệm về làm ở quận lỵ, rồi Trảng yêu Phụng, hỏi cưới Phụng. Chuyện tình bình thường và thật dễ thương. Hai người sống với nhau có được hai con, cho đến ngày trời sụp. »

    Trảng bị vào trại tập trung cải tạo. Một năm, hai năm, rồi ba năm. Phụng ở ngoài phải bương chải với cuộc sống. Nàng biết làm gì khi lý lịch của nàng với vết chì đen, có chồng là sĩ quan ngụỵ đang bị tập trung. Nàng nhào ra làm đủ mọi nghề, buôn bán chợ trời, trao đổi hàng hóa ở các cửa hàng thương nghiệp, buôn bán thuốc tây. Nghề nào nàng cũng lăn xã vào để kiếm đồng tiền nuôi chồng, nuôi con.

    Cho đến một hôm nàng gặp ông Mạnh. Hôm đó nàng mang một mớ thuốc tây từ Tam Kỳ ra Đà Nẵng để bán. Xuống tàu lửa ở ga Đà Nẵng thì bị toán quản lý thị trường thành phố đón bắt. Tất cả số thuốc tây bị tịch thu làm biên bản. Nàng về phòng quản lý thị trường thì gặp Mạnh. Mạnh là trưởng toán quản lý thị trường ở đây. Nàng được đưa về đây để ký biên bản buôn bán thuốc tây lậu phải tịch thu hàng. Mạnh ngồi trong phòng làm việc nhìn nàng với vẽ mặt nghênh ngang:
    - Những thuốc tây nầy là của cô?
    Phụng lí nhí trong miệng:
    - Dạ.
    Mạnh nhìn xoáy vào đôi mắt nàng, khuôn mặt nàng, khuôn mặt trắng hồng rất đẹp. Mạnh nói:
    - Cô có biết thuốc tây là độc quyền của nhà nước không? thuốc tây là quốc cấm, buôn bán thuốc tây là có tội như buôn bán đồ lậu hay không?
    Nàng nhỏ nhẹ trả lời:
    - Em thấy nhà thương nhiều người bị bịnh đang cần thuốc chữa trị mà không có, em chạy thuốc bán cho họ, để họ chữa bịnh, thế thôi, chứ em có tội gì đâu.

    Phụng nói cho có vẻ ngu ngơ thế, chứ trong nghề nầy, nàng biết rành quá đi mất những tay quản lý thị trường chuyên hù doạ con buôn, tìm cách bắt hàng cho bằng được, để bọn nó chia chát nhau, chứ có tốt lành gì đâu. Nhưng thế của kẻ có quyền bao giờ cũng thắng.
    Con chim non bước vào nghề buôn bán hàng chuyến, chạy thuốc tây. Đây là những nghề có muôn ngàn ngõ ngách. Nhưng chuyến đi hàng bị tịch thu như thế nầy, về nhà với hai bàn tay không, không gạo, không rau cải thịt cá cho con, không chút quà cho con, nàng như tê điếng cả lòng. Mạnh đánh phủ đầu nàng:
    - Cô nói chuyện như đùa. Bệnh nhân không có thuốc chữa bệnh nên cô phải chạy thuốc bán cho họ, cô coi như nhà nước ta hết thuốc rồi sao? cô bôi bác chế độ vừa vừa thôi chứ. Tôi quyết định tất cả các lô thuốc của cô đều bị tịch thu. Cô hãy ký vào biên bản.

    Phụng ứa nước mắt, nàng nghĩ đến số vốn bị mất, đến miếng ăn cho hai con, đến cuộc đời nàng, đến Trảng. Cuộc đời đã xô đẩy nàng xuống dưới vực sâu cùng tận, không còn cách nào ngóc lên nổi. Nàng tự dưng bật khóc, nước mắt đầm đìa.

    Mạnh cố ý tấn công nàng, người đàn bà hai con nầy đẹp quá, cái đẹp nồng đượm của thiếu phụ chín mùi, xa chồng hơn năm năm. Ý muốn ham hố đó đã khiến Mạnh đi đến một quyết định, tha hàng cho Phụng. Mạnh nhìn nàng đang khóc đầm đìa, Mạnh nói:
    - Xét rằng cô vi phạm lần đầu và hoàn cảnh của cô cũng quá khó khăn, nên tôi xét tha cho cô lô hàng nầy, lần sau không được tái phạm.

    Có những chuyện không ngờ được mà vẫn được. Phụng như từ trên trời rớt xuống đất. Đó là cái cảm động. Trong những cái khốn cùng nhất, mà được người ta tha thứ, cứu vớt, tự nhiên, đó là một sự mang ơn.
    Rồi những ngày sau đó là Mạnh đeo theo nàng, quyến rũ nàng bằng đủ mọi cách. Thân gái dặm trường, nàng đã ngã vào tay Mạnh.

    Điều đáng buồn nhất là khi nàng có thai với Mạnh. Mạnh biểu nàng phá đi, nàng không phá, nàng không phải vì thương Mạnh mà vì thương đứa con mình. Nàng giữ nó lại, nàng sinh con, một tháng sau thì Trảng từ trại cải tạo trở về.
    Trong trong nổi đau mất vợ, tan nát gia đình. Nhưng Trảng cố bám lấy cái phao cuối cùng, Trảng nói với Phụng:
    - Anh bỏ qua hết mọi chuyện, em hãy về sống lại với anh, anh coi đứa bé như là con anh vậy, em đồng ý không?

    Phụng trả lời nhẹ nhàng nhưng quyết liệt:
    - Anh tha lỗi cho em, em không ra gì, đáng lẽ khi anh đi tù em phải giữ được sự trung thành với anh, nhưng em không làm được điều đó. Bây giờ em không còn mặt mủi nào sống lại với anh, dù anh có tha thứ cho em đi nữa. Bây giờ mình cứ sống xa nhau một thời gian, nếu hai ba năm nữa mà anh còn thương yêu em, anh trở về với em cũng không muộn. Bây giờ, anh mới ra trại, sợ ý nghĩ của anh còn vội. Xin anh hiểu và đừng trách em.
    Trảng nghe lời nàng, hứa sẽ trở lại với nàng. Nhưng khoảng ba tháng sau Trảng đã có người yêu mới. Anh trở về gặp Phụng không phải để đoàn tụ mà xin ly hôn. Từ đó Phụng bỏ quê, bỏ xứ, dắt díu con vào Sài Gòn kiếm sống.

    Ngận nói với Phụng:
    - Mình đi xem phim sớm quá, rạp chưa mở cửa. Mà cũng chẳng biết đi đâu, thôi anh với em lên chùa Vĩnh Nghiêm chơi, ở đó những cây hoa sứ độ rày trỗ bông rất nhiều, mùi hoa sứ thơm lừng khắp không gian. Lên đó mình thấy như được bỏ xa cõi trần tục nầy vậy.

    Phụng leo lên ngồi phía sau yên chiếc xe mobylette của chàng. Chiếc xe mobylette như con ngựa trời ho khục khặc rồi nổ bạch bạch chạy lạng quạng trên đoạn đường đầy ổ gà. Gần Tết rồi, không có một chỗ để về. Cuộc sống hai người lêu bêu như đang sống ngoài đường ngoài sá, như đang sống bên ngoài quê hương mình vậy. Một mái nhà. Một mái nhà. Ôi sao mà xa vời quá.

    Tiếng hát từ loa phóng thanh đặt trên những cột điện cao, vang vang một giọng nữ, rót vào tai Phụng một chuổi âm thanh, ''rồi dặt dìu mùa xuân theo én về, mùa bình thường mùa vui nay đã về, mùa xuân mơ ước ấy, đang đến, đầu tiên, với khói bay, trên sông, gà đang gáy trưa, bên sông, một trưa nắng vui, cho bao tâm hồn...Rồi dặt dìu muà xuân nay đã về, mùa bình thường mùa vui nay đã về, mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên... Từ đây người biết thương người, từ đây người biết yêu người...'' Tiếng hát vút lên cao toả ra một vùng không gian rộng lớn, toả xuống lòng đường, với dòng người xe bất tận, dày đặc những người bận áo quần rách rưới đi lê thê lếch thếch trên khắp mọi nẽo đường.

    Phụng ngồi phía sau yên xe mobylette của Ngận, nàng ôm lấy eo ếch chàng, cái eo gầy trơ xương. Phụng thấy tủi thân quá, tủi thân cho cả hai người, nàng ứa nước mắt...
     
    No MercY and Aprilia like this.
  15. Triệu Minh

    Triệu Minh Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 5/9/12
    Ajinomot, No MercY, Aprilia and 3 others like this.
  16. Hoài Niệm

    Hoài Niệm Thần Tài

    Bàn tay trong một bàn Tay
    Trương Văn Dân
    Nguyên tác: Sempre mano nella mano
    Của Elena Pucillo Truong (Italia). Bản dịch của Trương Văn Dân

    [​IMG]
    Chìm trong tiếng ồn của cuộc sống bon chen đô thị, phần lớn là những người trẻ, tuổi ba mươi, bốn mươi…lúc nào cũng vội vàng, hấp tấp, đi và đến bằng các phương tiện tân thời, xe hơi, bus, taxi…

    Giữa những cao ốc nguy nga, tráng lệ, ánh đèn chiếu sáng những bảng hiệu, biểu tượng của sự phát triển về một thế giới hiện đại và lý tưởng, về tính hiệu quả, mang vẻ ngoài thật xinh đẹp và trẻ trung…

    Bỗng có hai người già như lạc lõng, bước từng bước nhỏ đến chiếc băng gỗ quen thuộc đặt ở góc công viên. Tay trong tay, nụ cười như in trên hai khuôn mặt đã có nhiều nếp nhăn theo năm tháng. Ông lão nắm tay bà, cẩn trọng đỡ người bạn đời của mình, giúp bà ngồi xuống một cách nhẹ nhàng và thoải mái. Mỗi cử chỉ của ông đều ân cần, chậm rãi và cẩn thận như đang che chở và ve vuốt một chú chim non bằng những lời yêu thương ngọt ngào.

    Ngày nào cũng thế...tôi chẳng biết bắt đầu từ lúc nào, nhưng có lẽ từ lâu lắm. Mỗi ngày mỗi mới và có vẻ như mỗi ngày tình cảm giữa hai người mỗi thiết tha mạnh mẽ. Nó tương phản hoàn toàn với thế giới xung quanh, đến nỗi giống một nghịch lý.

    Trong cái vũ trụ thu hẹp của họ, giữa những vụn bánh cho vài chú chim sẻ, có những cái vuốt ve cô mèo con bị lạc hay tiếng cười rạng rỡ của một em bé tập đi đang ngã vào vòng tay người mẹ. Họ luôn mang theo mình một chiếc dù, để che nắng hay phòng ngừa sự chòng ghẹo từ những cụm mây, riêng bà thì không bao giờ quên chiếc khăn quàng khổ rộng, sau khi ngồi vững liền âu yếm quấn quanh cổ ông để che chắn những cơn gió lạnh.

    Tôi tưởng đó là một bức tranh đang đặt trước mắt mình; sự thực đó đang nằm ngoài thế giới này. Chẳng biết gì về họ nhưng lâu nay tôi không thể làm gì khác là nhìn ngắm và quan sát cho đến khi nào, sau chừng một giờ, bằng những cử động ban đầu rất yếu ớt, về sau mạnh mẽ hơn, họ chống tay đứng dậy tay nắm tay bước đi cho đến khi mất hút giữa dòng người vô cảm.

    Rồi sau đó thì sao? Họ sẽ làm gì trong quãng thời gian còn lại trong ngày? Tôi tưởng tượng như mình đang tò mò theo dõi, bị cuốn hút bởi thứ hào quang hạnh phúc bao quanh người họ. Một cuộc đời đơn giản. Chỉ có những cử chỉ quen thuộc nhưng thật ngọt ngào và trìu mến dành cho người thân. Dĩ nhiên tôi không thể nào tưởng tượng là họ sống trong ác mộng, trong lòng họ đang chất ngất bao điều ưu tư. Hằng ngày lo lắng và đau khổ, một nỗi đau kinh khiếp có thể cướp mất hơi thở tối cần cho cuộc sống

    Trong bóng tối của buổi chiều tàn, bà vợ mắt nhắm nghiền, nằm bất động trên chiếc giường đôi. Hai bàn tay bà đặt trên ngực, những ngón tay nắm chặt chuỗi tràng hạt. Trên chiếc ghế đẩu đặt cạnh giường, ông chồng ngồi gục đầu, kiệt sức sau một cơn khóc tuyệt vọng. Ông liên tục lau mặt bằng chiếc khăn giấy ướt rã vì nước mắt. Rồi, bất thình lình, trong tay ông loé lên ánh thép lạnh lẽo của một khẩu súng. Ông đăm đăm nhìn họng súng, những giọt nước mắt vẫn tiếp tục rơi, làm ướt chiếc nòng lạnh giá. Ông thì thầm vài lời gì đó, rồi bằng một cử chỉ thật nhanh đưa họng súng chỉa vào màng tang mình. Chỉ trong tích tắc.
    Bàn tay rớt xuống! Chẳng có tiếng nổ nào xảy ra.
    Giống như trong phút chót sự can đảm đã biến mất...

    Cuối cùng ông dợm đứng lên, lấy lại tự chủ, rồi đặt khẩu súng trong ngăn kéo của chiếc bàn đêm.

    Bây giờ tới phiên ông.

    Ông nằm bất động trên chiếc giường đôi, mắt nhắm nghiền và cũng với chuỗi tràng hạt trên tay. Bà vợ, thận trọng và run rẩy đặt một bàn tay lên trên quyển sách nằm trên ngực chồng. Đó là quyển sách mà ông đã viết và nó sẽ theo ông làm bạn trong thế giới bên kia. Một vài giọt nước mắt ứa ra, rớt xuống trang bìa làm ướt những ngón tay khẳng khiu, gầy yếu...Rồi bà lão như kiệt sức, ngã gục xuống chiếc ghế đặt bên cạnh giường. Những ngón tay bà cố gượng vuốt ve lên thân thể thân thương. Bà vuốt đôi mắt, vành môi, khi vuốt đến ngực những ngón tay bà ngập ngừng dừng lại, như thể còn muốn vuốt ve cả trái tim ông...Cuối cùng bà áp tay mình lên bàn tay ông, bàn tay đã từng nâng đỡ và che chở bà suốt một cuộc đời. Nước mắt vẫn tiếp tục lăn xuống nhưng bà chẳng có chiếc khăn nào để ngăn. Sau những tiếng rên rỉ, bà thì thầm bên tai ông những lời ngọt ngào như xưa nay bà đã từng làm. Rồi gượng đứng lên, bà áp môi mình lên môi ông, đặt thêm một lần nữa chiếc hôn cuối cùng.

    Run run, bà với tay lấy khẩu súng đặt trên chiếc bàn đêm. Một tay bà nắm chặt tay chồng, còn tay kia, rất tự tin, bà đưa họng súng chỉa vào màng tang mình. Chỉ một tích tắc. Rồi bà ngã xuống trên xác chồng, như muốn ôm lấy ông một lần cuối.

    Cứ thế, từ hai tháng nay mỗi buổi tối cảnh đó luôn được lập lại như đang trình diễn trong rạp hát.
    Mọi chuyện bắt đầu từ sau hôm đi khám bác sĩ. Trước đó bà thường thấy mệt, nhiều lúc thở rất khó khăn, như bị ngạt, tưởng như có một khối đá đè lên lồng ngực trong những chuyến cùng chồng đi dạo. Tay trong tay, trong nước mắt, họ lắng nghe phán quyết của người thầy thuốc.
    Tôi rất lấy làm tiếc nhưng trái tim của bà nhà rất yếu...một cuộc giải phẩu là điều không thể thực hiện...Rất tiếc là tôi không biết phải làm gì để có thể giúp bà...Nguy cấp lắm rồi...bà yếu quá...” rồi sau câu hỏi thầm lặng từ đôi mắt đau đớn và khẩn cầu của họ là câu trả lời ngập ngừng nhưng thành thật và xúc động của bác sĩ:

    Rất tiếc...điều đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào...”

    Sau đó thì hai người già vẫn tiếp tục sống cuộc đời họ như đã từng, nhưng mỗi ngày đều rất đau đớn vì ý nghĩ là bà sẽ đột ngột ra đi, bỏ ông lại một mình; Bà, người chưa bao giờ rời xa, chưa bao giờ phản bội ông.

    Bởi, suốt một đời họ đã luôn sống bên nhau. Trong một thoáng bà hồi tưởng thời hai người còn trẻ, những cử chỉ ngập ngừng và vụng về trong mối tình đầu, trái tim bà chỉ đập khi chờ đợi ông, chỉ vì ông, người đàn ông duy nhất có thể lấp đầy cái khoảng trống trong tâm hồn bà; cũng như chỉ ánh nhìn nhân ái của ông mới có thể xoa dịu đi nỗi đau hay mang lại cho bà niềm hạnh phúc. Cứ thế, họ đã sát cánh bên nhau đi qua cuộc đời này. Rồi họ cùng nổi tiếng với tất cả các nhà hát kịch trên thế giới. Trên tường nhà họ hiện vẫn còn treo đầy các biểu ngữ giới thiệu các vở kịch: Shakespeare, Mann, Eliot, Racine, Molière, Pinter.... có tấm in khuôn mặt, miệng mỉm cười của họ, có tấm chụp họ đang mặc đồ diễn trên sân khấu, đứng giữa những bạn diễn thân thiết mà đến nay tên tuổi vẫn còn sáng chói. Hình như hào quang hạnh phúc đã bao quanh họ từng ngày. Và họ luôn ở bên nhau.

    Có lẽ trong cuộc sống hạnh phúc và bình an đó, chỉ có một nỗi đau trong trái tim bà, đó là sự thiếu vắng một đứa con...điều duy nhất của riêng họ, chỉ của họ mà thôi. Nhưng mỗi lần bà vật vã, chỉ cần những lời ngọt ngào của chồng “ Em yêu ơi, xin em đừng tuyệt vọng. Không có con chúng ta sẽ yêu nhau nhiều hơn...” là có thể làm dịu nỗi đớn đau, để nó trốn ngay đi, dù chưa hoàn toàn xoá mất.

    Rồi cuộc sống đổi thay. Thăng trầm. Chìm nổi. Có lần họ cũng rơi vào cảnh nghèo túng vì từ chối các vai diễn không phù hợp hay không chịu ký hợp đồng với những công ty ca kịch không hoạt động vì nghệ thuật...và cuối cùng, với tuổi tác, họ bình thản từ giã ánh đèn sân khấu, chấp nhận cuộc sống giản đơn, bùi ngùi nhìn lại những kỷ niệm sáng ngời trong quá khứ. Nhưng họ luôn ở bên nhau, luôn luôn hạnh phúc vì người này chỉ sống cho người kia. Và ngược lại.

    Là những diễn viên tài hoa nên mỗi buổi tối họ đều chuẩn bị cho chính mình vai diễn, cố thể hiện thật xuất sắc vở kịch cuối cùng.

    “ Cái chết của chúng mình. Sự chia lìa sẽ bất ngờ là điều không thể tránh khỏi. Nhưng người nào đi trước sẽ không phải hứng chịu nỗi cô đơn ở thế giới bên kia”.
    Ông thường đi lập lại rất nhiều lần:“ Ước muốn lớn nhất là chúng ta có thể chết cùng một lúc, nhưng dễ gì Chúa ban cho ta ân sủng này!”

    Nhưng, ông đã lầm...
    Vài tháng trôi qua. Và chỉ có vài hàng trên một tờ báo.

    Trong lúc ngủ trái tim mệt mỏi của bà đã vĩnh viễn ngừng đập. Và ông, bất thình lình thức giấc, tin là còn có thể cứu bà, ông lao tới chụp ống điện thoại để gọi xe cấp cứu...nhưng đã không kịp nữa. Trái tim của ông cũng ngừng đập vì đau đớn, nó chỉ cho ông một tích tắc thời gian để đưa cánh tay nắm lấy tay bà.
    Sự việc chỉ xảy ra trong tích tắc.
     
    No MercY and Aprilia like this.
  17. Triệu Minh

    Triệu Minh Thần Tài Perennial member

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 5/9/12
    Ajinomot, No MercY, Aprilia and 3 others like this.
  18. Triệu Minh

    Triệu Minh Thần Tài Perennial member

    _________________________________________Sưu Tầm

    [​IMG]
     
    Chỉnh sửa cuối: 5/9/12
    Ajinomot, No MercY, Aprilia and 3 others like this.
  19. Thiên Tốc Tinh

    Thiên Tốc Tinh Thần Tài

    Bước Ngoặt
    Văn Công Mỹ
    [​IMG]
    Tuấn lơ ngơ bước đi trên những đoạn phố ngắn, đầu óc lan man nghĩ. Trong khi chuyện bận tâm sáng nay là tìm mua bằng được dàn âm thanh cho cái quán café thì cái đầu cứ nghĩ lung tung về chuyện thay thay đổi đổi của cuộc đời. Ừ, cũng chính cái sự đổi thay mà anh đang suy nghĩ nó dẫn đến cái việc sáng nay anh phải đi tới đi lui nhiều bận trên cái khu chợ trời nổi tiếng của thành phố này.

    Coi, cách đây bốn năm đang ngon lành với một công việc có chút bổng lộc ở một công ty xuất nhập khẩu. Vợ đang là biên tập viên truyền hình tỉnh nhà. Thêm thằng con trai sáu tuổi kháu ra phết. Thêm nữa, cơ quan cho miếng đất, chạy vạy cất được cái nhà rõ lớn. Thêm nữa, cùng với gia đình đang kinh doanh hai cái quán café to, thu nhập hàng tháng ổn. Ngày nọ nhận cái thư của ông anh vợ : “Hai tháng nữa gia đình anh xuất cảnh theo diện HO. Tụi em không vào thì anh bán cái nhà cho người khác.”

    Coi, cái này giống như ông trời sắp. Đã từ lâu vợ thường hay nói ra miệng cái mơ ước đời mình là phải được sống ở cái thành phố hoa lệ ấy mới thỏa đời, ngặt nỗi không có cái nhà để an cư. Nay giống như cầu được ước thấy. Bạn bè, người thân té ngửa khi chứng kiến vợ chồng con cái bỏ hết nhà cửa, công ăn chuyện làm dắt díu nhau hành phương nam với bốn chỉ vàng lận lưng.

    Coi, không là thay đổi thì là gì? Ngày đặt chân vào cái thành phố náo nhiệt này vợ chồng đèo nhau trên cái cúp cà tàng mượn của ông anh ban ngày đi khắp chốn để tìm cơ hội, để đêm về dưới mái nhà lợp tôle hăm hở cùng nhau thêu dệt ước mơ. Thằng con trai thôi chấp nhận nhà mình chưa có ti vi thì sang nhà hàng xóm coi ké con ạ. Suốt hai tuần phơi nắng đen nhẻm cả người cuối cùng với chừng đó vốn liếng chỉ đủ sang được một cái quán café nhỏ xíu ở trong góc một cái chung cư đã xuống cấp. Ấy vậy mà trời thương, thức khuya dậy sớm kì cà kì cục mỗi ngày mười sáu, mười bảy tiếng đồng hồ pha pha chế chế, hàng tháng cũng còn dư được … nửa chỉ ! Và chắc hẳn với cái bầu máu nóng hực, với cái độ sung sức của tuổi ba lăm hồi đó vợ chồng xem chuyện đầu tắt mặt tối ấy nhẹ tợ lông hồng. Rồi một ngày đẹp trời nọ thản nhiên như không cả hai lao vào một đám sình hóc hẻm ven sông, quần quật ngày đêm như đứa khùng lôi đất lôi cát , kéo tranh tre nứa lá về mở thêm cái quán café nữa! Ôi trời, cái hóc bà tó này đẻ ra vàng. Khởi đầu chỉ dám bày ra trăm ghế vậy mà sáu tháng sau mỗi đêm cuối tuần ngàn chỗ không đủ cho cái đám loi choi từ khắp nơi kìn kịt đổ về. Cũng phải thôi, hồi ấy ở cái thành phố mười triệu dân này đâu đếm được đầu ngón tay những quán café khá nổi 343, Báo Chí, Lầu Phượng…so với đằng này sông nước hữu tình, gió mát trăng thanh, là dưới cơ thấy rõ. Quán mang tên tây đàng hoàng, Moon Light, nghe cũng kêu. Rồi mấy thằng nhóc dân chơi đòi nghe nhạc tuyển này nọ, vợ lưu ý chồng đi kiếm cho bằng được dàn máy xịn đem về “dập” cho nó đã.

    Miên man nghĩ, chân dừng ở cái tiệm khá lớn chứa đầy những đầu disk, amply, loa… Đang nghe Tuấn kể lể dông dài, thằng chủ tiệm cắt ngang: “ Thôi, tui hiểu rồi. Đồ ông kiếm chỉ có một thằng ở khu này mới take care được!” . Từ đó Tuấn biết Lão Mập.

    Lão Mập xởi lởi, thân thiết như đã quen biết từ lâu cười hề hề hỏi Tuấn: “Sao, ông anh kiếm hàng gì?”.Tuấn chưa nói hết câu, lão tới luôn: “ Quán của anh phải chơi pre-power !”.Trời đất, hồi giờ nào quan hệ với mấy ông anh có tiếng chơi đồ dữ, Tuấn nhớ tháng trước mấy ổng khoe bữa nay mới sắm được cái Sansui 500, cặp loa Pionner 2500, cặp bass ba tấc nghe nhức nhối luôn. Lão Mập nghe vậy cười rổn rảng: “Chỗ của anh mà khiêng mấy cái đó về thì nghe như dế nó kêu”. Lần đầu tiên Tuấn biết cái pre-power, cái mixer mười tám cần, và dàn loa JPL với những cái loa bass bốn tấc. Theo lẽ thường cũng cò kè bớt một thêm hai, Lão Mập nói: “Dứt giá năm nghìn, ông anh cứ đem về xài khi nào có tiền, trả!”.Nghĩ cũng lạ, lão tuổi nhâm thìn mà cứ kêu Tuấn bằng anh xưng em ngọt xớt: “Giờ anh em mình qua bên kia uống café”.

    Quán café tọa lạc ngay góc đường chính của thành phố mang bảng hiệu tiếng Ý. Lão Mập giải thích: “Nói theo tiếng Mỹ là Hello ấy mà”. Khách khứa đa phần là đám Tây: ba lô có, nhân viên văn phòng có. Thêm một vài chàng Việt kiều da mặt trắng bóc, râu ria tỉa tót khéo léo đi kèm là mấy em gái mắt sáng như nai, chân dài bước chậm rãi. Máy lạnh thả hơi lạnh ngắt. Không khí sực nức mùi nước hoa hàng hiệu. Tiếng nhạc êm như ru. Không gian ấy làm con người ta như sống chậm lại : ăn, uống, nói, đi…và tự thấy mình sang cả hẳn! Nói nào ngay, tuy là tiếng đã bốn năm sống ở cái hòn ngọc viễn đông này nhưng Tuấn cũng chỉ quanh quẩn ở cái chung cư nghèo nàn cất từ thời ông Thiệu. Trước có la cà quán xá thì cũng mấy cái quán thời thượng, chủ yếu là ngồi để… học nghề. Tiền thì có leng keng trong túi nhưng ngó mấy cái quán máy lạnh khu trung tâm thấy ngài ngại đố dám bước vào, nói chi cái kiểu Lão Mập cợt nhả xí xô xí xào với mấy thằng Tây, rồi vỗ vai bồm bộp như quen mấy gã Việt kiều từ kiếp trước. Tuấn thoáng nghĩ phải đưa vợ con đến nơi chốn này nhân ngày sinh nhật của vợ mình, và mỉm cười hình dung vợ con diện đồ đẹp thật đẹp đang khép nép, ngơ ngác đi bên cạnh mình. Lão Mập sành sỏi , quen thuộc kêu thằng nhóc phục vụ: “Cho ông anh này một phần tái vừa, còn tớ… như cũ !”. Tuấn cũng ráng làm mặt tỉnh, cơn run lúc nãy khi mới bước vào đã hết khi anh ngồi trên chiếc ghế nệm bọc da êm ái. Sự tự tin của người có tiền nhanh chóng quay lại trên dáng ngồi vắt chéo chân, Tuấn giả bộ bàng quan ngó lung ra đường. Những cô gái bước đều đều ngoài nắng trưa, cao ráo, dấu vẻ đẹp tây phương trong cặp mắt kính đen che gần hết khuôn mặt. Những gã đàn ông quần áo thẳng tắp vội vã vừa đi vừa nói chuyện lắm lúc như muốn đâm sầm vào nhau. Họ đi nhanh trông y như trong cuốn phim Mỹ mà Tuấn mới coi đêm qua. Hồ như có một thế giới khác, khác nhiều so với cái thế giới chung cư mà Tuấn đang sống. Hết nhìn ra đường, Tuấn vờ lơ đãng ngó xung quanh rồi kín đáo nhìn xuống chân mình mang đôi dép mới tinh vợ mới sắm tuần trước thấy có cảm giác ngượng ngượng…

    Thằng nhóc nghiêm trang đặt dĩa thịt bò to quá khổ trước mặt Tuấn. Miếng thịt dày cháy xém bốn cạnh vuông vức. Tuấn lóng ngóng với bộ dao nĩa sáng loáng trong tay. Ừ nhỉ, ngon thật, mà thơm nữa. Tuấn vừa nhai vừa gật gật đầu khi Lão Mập miệng nói cho biết đây là thịt bò nhập khẩu, tay lão dùng nĩa xoắn xoắn mấy sợi mì, gật gù: “Quán này em khoái nhất món mì Ý”. Bữa ăn thật lạ và ngon. Bộ dạng no đủ, lười biếng, Tuấn khoan khoái ngả người trên chiếc ghế rộng nhấm nháp tách café nhỏ xíu nổi bọt trắng xóa điểm thêm chút sô cô la ở giữa. Tuấn lơ mơ buồn ngủ, tai nghe đều đều giọng Lão Mập kể những chuyện buồn vui của cái thời mới mở cửa ở thành phố này. Loáng thoáng những âm thanh như xé gió của thứ ngôn ngữ lạ hoắc; có những tiếng dỡn hớt kìm nén của một đám tây ta lẫn lộn ở trong cùng góc quán…

    Không uống chút rượu nào nhưng đầu óc Tuấn lâng lâng, lảo đảo khi ngồi trên chiếc Dream phóng nhanh về nhà giữa buổi trưa tháng tư nắng chói chang, gay gắt trên đầu. Trong cái hanh hao, ngột ngạt, ầm ào trên đường, giật mình Tuấn có một cái cảm giác rõ rệt là mình vừa mắc một lỗi lầm khi nhớ lại lời nhắn của vợ sáng nay: “Trưa, em và con chờ anh về ăn cơm. Có món thịt heo kho Tàu với dưa cải chua đấy!”.
     
  20. Thiên Tốc Tinh

    Thiên Tốc Tinh Thần Tài

    Bọn Bốn Đứa
    Võ Xuân Phương
    [​IMG]
    Đó là Lan, Chi, Thương, Hoàng. Nhóm con gái 12C2 học giỏi, có chút nhan sắc. Trong đó có nhiều đứa dễ ghét, thường chơi chung, đi chung, lúc nào cũng thấy bọn chúng nhí nha nhí nhảnh. Thằng Tùng ghét nhất là con Hoàng, cha nó làm thầy thuốc Bắc, nhà có tiền, chưa giàu lắm mà bản mặt kênh kênh, nhưng phải nhận rằng chúng học giỏi, trong đó con Chi là đẹp và hiền nhất.

    Nhớ năm lớp 10, thầy Bộ chủ nhiệm, là giáo viên ở miền Bắc mới vào, còn rất trẻ, giọng trọ trẹ. Buổi đầu bầu cán bộ lớp, khi bầu cán bộ phụ trách văn thể, thầy thấy con Chi khá xinh, nên chỉ định, và hỏi: Em tên chi? Nó đứng dậy, trả lời: Em tên Chi, làm thầy Bộ đỏ mặt và nghiêm giọng hỏi: Em tên chi? Nó run run và trả lời: Em tên Chi, cả lớp ém tiếng cười, con Chi tái mặt, sau đó bạn lớp trưởng mới được bầu đứng dậy nói thưa thầy bạn tên là Chi, thầy Bộ à và nói xuôi, đặt tên chi lạ! lúc này lớp mới thở nhẹ.

    Nhóm thằng Tùng có ba đứa, Tùng, Thông, Tấn, bọn con gái gọi nhóm 3T, con Hoàng gọi là nhóm tam tam, nhóm Tùng cũng học giỏi, bọn chúng ngoéo với nhau đứa nào điểm tổng kết học kỳ thua bọn bốn đứa là phải đãi một bữa chè ở quán gốc keo sau trường. Nơi khu tập thể của Thầy Cô. Đó là dãy nhà cấp bốn mới làm, dọc theo đường Hai Bà Trưng, nhiều phòng, phân cho Thầy Cô, Thầy Cô nào có gia đình được phân một phòng, những Thầy Cô chưa có gia đình phân bốn người một phòng, Vợ hoặc người nhà của Thầy Cô không có việc làm, thì nấu chè bán cho học sinh.

    Trước đây là trường trung học đệ nhất và đệ nhị cấp Kỳ Ngoại Hầu. Sau 1975 đổi tên là trường cấp III Nguyễn Huệ, tên vị anh hùng của quê hương. Trước đây là trường của học sinh nam, trường học sinh nữ riêng, sau 1975 nhập chung, có con gái học chung cũng vui, nhưng cũng có nhiều rắc rối, nhất là lúc không thuộc bài, nhìn xuống thấy tụi nó cười tủm tỉm thấy ghét và ê mặt cả tuần, chỉ có thằng Thông giỏi toán và thằng Tấn giỏi tiếng Anh là thích, đến các giờ này là chúng nó ồn ào ra mặt, nhưng giờ các môn khác là tụi nó cũng im re.

    Chiều thứ tư trực trường, nhóm Tùng dọn vệ sinh nhà cầu xong. Ngồi trên lề đường cổng vào tán chuyện, thấy bọn bốn đứa đi tới. Tùng nói để tao chọc bọn này một câu cho tụi nó quê mặt chơi. Thằng Tấn can, coi chừng con Hoàng đanh đá lắm đấy, Tùng nói không sao, khi thấy bọn bốn đứa tới gần thằng Tùng đọc:-Tứ nữ đồng hành tung hoành bát khẩu. Rồi cười hả hả, Thông và Tấn cũng tủm tỉm cười theo, con Chi nép vào con Thương nói đi nhanh, còn con Hoàng dừng lại quắt mắt. -À, nhóm tam tam nghe bà chị đối đây. Con Lan can nói thôi kệ tụi nó, con Hoàng nói không được phải dạy tụi nó biết thế nào là lễ độ, và đọc: - Tam nam cọng tọa thượng hạ lục đầu. Xong, cười và nói chết chưa! Em út mà bày đặt chơi chữ với bà chị!

    Thằng Tùng lúng túng, con này ghê thật, không rõ nó đọc ở đâu hay nghe ai kể mà ứng đối nhanh, chuyển hay. Ba nó làm thuốc Bắc, và nghe có ông anh trước học văn khoa Sài Gòn, sau trốn lính ở nhà, rất ham đọc sách và có nhiều sách văn học. Con này đọc lén, có lần Tùng vào nhà con Hoàng chơi gặp ông anh này, đang làm ở hợp tác xã nuôi heo. Tùng hỏi anh làm gì, ông này nói anh đang sinh hoạt trong câu lạc bộ “khoái ăn sang”, Tùng biết anh này chán đời chơi chữ.

    Mà con Hoàng cũng giỏi văn, được Thầy Phúc khen luôn, nói đến Thầy Phúc, Tùng liếc qua thằng Thông, nó giỏi toán nhưng dốt văn. Có lần không thuộc bài, Thầy Phúc cho điểm không và bắt chép phạt, làm nó quê quá, nhất là với bọn bốn đứa. Không rõ ma đưa lối quỉ dẫn đường sao mà bức thư thằng Thông gởi con Chi lại lọt vào tay con Hoàng. Con Hoàng cầm đến trả lại cho thằng Thông và nói văn ăn hột vịt, mà bày đặt viết thư tình! Làm thằng Thông chết điếng, thư này do thằng Tùng viết dùm, kẹp vào vở con Chi. Tùng xấu hổ than - Hỡi ơi con gái nhiều vô kể, nào biết tìm đâu một mụ hiền.

    Hôm giờ ra chơi, ba đứa dung giăng dung dẻ trên hành lang, thằng Tấn nói tý nữa giờ văn, thằng Thông coi chừng, Tùng xía vô tao cũng ngán ông Quỷ Kiến Sầu nữa là thằng Thông, vô tình Thầy Phúc đi sau, bước trờ tới, hỏi cậu vừa nói gì? Tùng tái mặt, tụt ra sau, trong giờ văn nó cúi gầm mặt xuống bàn sợ hết hồn, cái thằng ngoài lớp thì tía lia, Thầy Phúc dạy văn, nhỏ người, trắng, cũng đẹp trai, do mặt mụn nhiều, lại thường nặn nên nổi sần, có cặp mày xếch, dạng chổi xể, nhất là khi Thầy không hài lòng điều gì thì nhăn mặt thấy sợ, giống nhân vật Quỉ Kiến Sầu trong phim kiếm hiệp của Hồng Kông, quỉ thấy cũng sầu huống chi học trò!

    Nhớ năm lớp 10 đi lao động vỡ hóa ở Cát Chánh, Phù Cát, Thầy Thân làm trưởng đoàn, Thầy Hoàng làm phó đoàn kỷ luật. Hai hướng, hướng ra bến Đống Đa đi đò lên, hướng đi xe đạp lên Gò Bồi đi ra. Cả trường vui như đi hội, như là cuộc picnic, bọn con gái, tất tay, tất chân ồn ào, bọn con trai đem theo cà phê. Đến nơi, tối đó có trăng, vui ơi là vui, đom đóm bám đầy trên các cây chưn bầu, như sao nhấp nháy. Cả trường khi đi chỉ biết đi lên giúp xã vỡ hóa, nhưng chưa biết làm gì. Đến nơi mới biết là cắt và nhổ lác. Thầy Bộ đi họp về phổ biến, nói gay nhất là khâu liêm, không có. Con Chi quê ngoại nó ở chợ Dinh thường về chơi, biết cu liêm dùng cắt lúa, nên nói không cần khâu cũng dùng được ta cầm sát vào. Thầy Bộ ngơ ngác, cả lớp ngơ ngác. Té ra con Chi hiểu khâu liêm là cái vòng sắt giữ cán dao không cho nứt, còn Thầy Bộ nói khâu liêm là một mắc xích trong công việc đó là cái cu liêm. Sau đó xã đi muợn của dân một ít, còn lại dùng tay nhổ, ngày đầu rất vui, vì lạ, cả vùng ruộng chạy dài, lác, cỏ mọc um tùm. Xa xa là Núi Bà, căn cứ cách mạng, nơi bộ chỉ huy của tỉnh trong chiến tranh

    Đêm thứ hai, sau một ngày lao động, không còn không khí ồn ào, ca hát như đêm đầu tiên, cả dãy trại dọc theo đụn cát im lìm, trăng vẫn trong, lên từ từ, đâu đó có tiếng mớ, một số em nam, ra xa trại ngồi uống cà phê ngắm trăng.

    Chiều ngày thứ hai xảy sự cố có một học sinh, sau khi đi làm về ra tắm sông bị chết đuối. Bọn con gái nghe xanh mặt, chỉ rửa sơ ở gần bờ rồi về, tối đó không khí trại thê lương, không cần thông báo mà mới xẩm tối học sinh đã ở yên trong trại rồi.
    - Mới đó mà đã hai mươi lăm năm rồi mầy hả? Tấn đưa ly cà phê lên môi nhắp, nhìn ra biển nói, Tùng ừ, một phần tư thế kỷ, mau thật. Thời gian không để ý thì qua nhanh.

    Ngồi nơi nhà hàng Hoàng Hậu, nhìn ra biển Gềnh Ráng, chiều xuống chậm, bóng núi in đậm xuống biển, gió vẫn mát. Hè năm 1978, thằng Thông đậu bách khoa, nhưng phòng tuyển sinh không cho đi học vì lý lịch gia đình xấu, năm 1980 vượt biên, cùng cô em gái, nghe có người kể lại thuyền nó bị bọn cướp biển chận lấy hết, em nó bị hiếp, nó vùng chống cự thì bị bắn vứt xác xuống biển, em nó nhảy theo.Tấn đậu sư phạm tiếng Anh, nhưng cùng số phận với Thông, sau theo gia đình dạng HO, Tùng có ông bác làm ban giám hiệu trường đại học y nên được vào học, nay làm lãnh đạo một bệnh viện. Tấn nói
    - Lúc tao ra đi Qui Nhơn mới là thị xã, nay đã thành phố. Mầy biết không, ngồi trên máy bay, khi nghe thông báo máy bay ra khỏi không phận Việt Nam tao buồn da diết, nhớ tụi mầy, nhớ các bạn học phổ thông, nhớ bà con, nhớ phố phường, tao đã khóc! Bọn con Lan, con Hoàng giờ sao rồi? Tùng búng tàn thuốc bay vèo xuống biển,
    - Con Hoàng đậu sư phạm sinh ở Huế, cô em hách lắm chả coi ai ra gì, sau ưng anh chàng học cùng khóa, đẹp trai con nhà giàu, nhưng chưa đầy năm là đổ vỡ, ai mà chịu nổi tính đanh đá của ả được chớ, qua năm sau ưng thằng Tính học A2 là Việt Kiều Mỹ, không rõ giờ ra sao. Con Lan học bách khoa điện, được giữ lại trường, sau ưng giáo viên dạy nhạc rồi cũng đổ vỡ, giờ sống với anh chồng dạy nhảy, dân văn nghệ mà. Con Thương học kinh tế, ra trường, không làm cho nhà nước. Mà tham gia buôn bán cố phiếu, bất động sản. Lúc đầu là đại gia đấy, sau trật vài vụ tụt luôn. Giờ làm kế toán cho công ty gỗ ở Phú Tài. Chưa chồng. Ông có muốn đến thăm không! Tấn cười. Con Chi thì an phận, thi vào cao đẳng toán lý, xin về dạy cấp I Hải Sơn, gần nhà để chăm sóc ba má nó. Sau ưng anh chàng giáo viên cùng trường, cô nàng có 2 con, đứa đầu con gái đang học năm thứ nhất sư phạm sinh Qui Nhơn, đứa thứ hai con trai học lớp 11 chuyên toán Lê Quí Đôn.

    Với con người tâm tính chỉ đạo hạnh phúc gia đình! Tấn nhắp ly cà phê. Hôm nào tao với mầy đến thăm nhà con Chi.
    - Thôi, thằng chồng nó ghen lắm, hơn nữa ông là Việt kiều, nó lại ghen nhiều hơn, để cho chúng nó yên. Tùng nhớ có lần thằng con của Chi sốt cao co giật, đưa vào bệnh viện, có đến nhờ, hôm đó đúng ca bác sĩ Hương trực, trong bệnh viện ai cũng ngán bà này, được gọi là bác sĩ năm trăm, đanh đá số một, lúc đó nó cũng là bác sĩ bình thường, khó quá, sau đó Tùng rất ngại gặp mặt Chi.
    - Cầu Thị Nại khởi công hơn năm, nghe cây cầu vượt biển dài nhất nước, Tấn lơ đãng nhìn ra biển, nói trổng. Cây cầu bắt qua khu kinh tế Nhơn Hội, bên đó rộng mênh mông, ông về đầu tư vào, để phát triển kinh tế địa phương. Tấn cười. Sau gần hai mươi năm tao về lại, thiên nhiên Qui Nhơn ít thay đổi, mà bên trong nó thay đổi nhiều quá. Tùng liếc nhìn Tấn dò xét! Nhà mới nhiều tầng, chen với xóm lao động cũ nghèo nàn. Vùng phi trường là nhà, là quán. Bãi biển từ eo nín thở chạy xuống khu một, trước là nhà lụp xụp, rác là rác, chiều tối hay mờ sáng người ra ỉa đầy. Nay là đường Xuân Diệu thơ mộng, pha chút lãng mạng. Mộ Hàn Mặc Tử hồi đó muốn lên chơi, phải đi bộ, đến nơi, còn bị mấy người lạ chận hỏi tiền chăm sóc mộ. Giờ xe lên đến nơi, chỉ mua vé vào cổng, nơi này xưa là triền núi, nay là nhà hàng. Những năm tụi mình học lớp sáu vẫn còn suối Tiên chảy mát, nay mất rồi, thay vào đó con đường Qui Nhơn - Sông Cầu, đẹp chạy dọc biển. Tùng nói dọc đường đó có khu du lịch suối Vàng, ông có muốn đến đấy chơi không? Tấn cười. Hẳn có lúc, tụi mình cũng phải đến chơi suối Vàng! Tùng ực ly bia, mãn nguyện, có nhà, có xe, vợ kế toán một công ty, con 2 đứa, đang học trường chuyên. Tùng nói Qui Nhơn nới rộng, phát triển vùng bắc Hà Thanh, nhà mới xây dọc đường ra cầu Thị Nại. Tấn đề nghị giờ mầy chở tao chạy vòng ra chỗ cầu Thị Nại xem cho biết, Tùng giả bộ lấy điện thoại nghe,
    - Tao phải về khám bệnh rồi, hẹn ông ngày mai!
     
    No MercY and Aprilia like this.