Làm dâu Ngô Nữ Thùy Linh Đón Hoàng và Mai ở cửa mẹ Hoàng cười nhạt: – Hai đứa về đấy à, vào thay quần áo rồi ra ăn cơm, em nó chuẩn bị sẵn cả rồi đấy Mai xăng xái đặt túi hoa quả lên bàn rồi xắn tay áo đon đả: – Dạ, để cháu dọn mâm giúp em ạ! Vừa bước đến cửa bếp, mẹ Hoàng đã nhẹ nhàng: - Còn con gà ở trên thớt đấy chưa chặt đâu, cháu vào chặt bày ra đĩa rồi mọi người cùng ăn. Mai vâng dạ chạy vào bếp, một con gà luộc sẵn và một chiếc dao đã nằm ở đó tự bao giờ. Mai cầm dao bắt đầu công việc chặt gà của mình, nàng loay hoay mà không biết chặt thế nào cho hợp lý. Cái thớt quá bé và con dao thì quá nhỏ, lại có vẻ cùn. Nàng nhìn quanh, chẳng thấy con dao nào nữa, cũng chẳng thấy một cái thớt nào to hơn. Nàng nghĩ bụng: “hay là mẹ anh muốn thử mình”. Nàng nhắm mắt nhắm mũi cố lấy hết sức giáng một nhát xuống con gà, gà không đứt, nước bắn tung tóe suýt rơi xuống đất. Nàng luýnh quýnh xoay con gà lại giữa thớt giáng thêm một nhát nữa. Lần này thì con gà đã chia ra làm đôi nhưng có vẻ chẳng đẹp mắt chút nào. Nàng do dự định hỏi con dao sắc hơn cho dễ chặt nhưng lại ngại, nàng vật lộn với con gà gần mười lăm phút. Khi đĩa gà được bày ra, dù cố sắp xếp để che đậy những phần nát nhưng cũng không thể nói đó là một đĩa thịt gà đẹp được. Nàng bối rối đặt đĩa thịt lên mâm trong khi mẹ Hoàng và cô em gái đã ngồi đợi sẵn. Mẹ chàng gắp một miếng thịt gà cho vào bát của mình, bà nhăn mặt, miếng thịt vừa to lại vừa xốc xếch. Mai lắp bắp: – Dạ, tại dao cùn quá, thớt lại bé nên cháu… Hoàng chữa thẹn cho người yêu: – Thôi, đằng nào cũng chặt rồi, một con gà ra đấy cả mà, mọi người ăn đi Mẹ Hoàng lại nhỏ nhẹ:- Lần sau chặt gà phải biết chặt đôi con gà ra, rồi chặt cánh, đến đùi, nó mới đẹp và ngon được. Mai lí nhí: – Dạ cháu biết rồi ạ! – Trong bụng nàng lại nghĩ thầm, rõ ràng mình cũng chặt đúng quy trình, nhưng dao cùn như thế ai mà chặt đẹp được chứ! Bữa ăn trôi đi trong im lặng, vài lần nàng có ý định gắp cho mẹ Hoàng nhưng cứ thấy ngại ngùng, nàng cúi đầu ăn hết bát cơm rồi xin phép rời mâm. Hoàng kéo người yêu ngồi lại ăn thêm nhưng Mai từ chối, nàng cảm thấy khó ăn, có cái gì đó cứ nghèn nghẹn ở cổ. Xong bữa nàng lại xăng xái chạy ra rửa bát, cô em của Hoàng cười tươi: – Mấy khi có người rửa bát hộ, chị rửa đi nhé, em đi tắm một chút. Mai cười gật đầu. *** Buổi trưa, khi mọi người đi ngủ hết, Hoàng cũng leo lên giường ngủ bỏ mặc Mai một mình ở ghế sô pha. Mẹ của Hoàng ngủ được một lúc đi ra phòng khách thấy Mai đang gật gù bên giường của Hoàng bà vội bảo:- Cháu lên ghế sô pha ngủ một giấc đi. Nàng im lặng đứng dậy định đi thì Hoàng tỉnh dậy, anh vội vã: – Thôi, em ngủ ở giường anh đây này, để anh ngủ ở ghế cho. Mẹ Hoàng lườm một cái rồi đi vào phòng bỏ mặc Mai và Hoàng ở lại với cái nhìn ngơ ngác. Mai thấy tủi thân, nàng nói dỗi: - Thôi, anh ngủ trên giường đi, không mẹ anh lại xót, em ngủ ghế cũng được. Hoàng kéo Mai lại nhưng nàng đã ôm gối đến ghế sô pha. Mai úp mặt vào gối, quay vào bên trong, một giọt nước mắt tủi thân trào ra, nàng bắt đầu cảm nhận sự khó khăn của việc làm dâu bắt đầu đến với mình. *** Lần thứ hai Mai vào nhà Hoàng đó là dịp nàng nghỉ Tết, ghé lại thành phố chơi mấy ngày khi Hoàng năn nỉ. Nàng biết thế nào mình cũng sẽ chung sống với Hoàng và cả mẹ Hoàng nên nàng cũng không muốn mẹ chàng phật lòng nhiều. Đón nàng ở cửa vẫn là nụ cười nhạt của mẹ Hoàng. Nhưng khi thấy Mai xách một túi quà to, bà đã vội đỡ lấy cho mai, xuýt xoa hỏi thăm về công việc và câu chuyện đi đường của Mai. Bà vồn vã: – Lương của Mai được bao nhiêu một tháng mà mua quà cho nhà cô nhiều thế này? Mai ấp úng: - Dạ, cháu cũng mới đi làm được hơn một năm nên lương còn thấp lắm à, tết nhất cháu mua hộp quà biếu gia đình cô chứ không có gì nhiều đâu ạ! Hoàng từ ngoài sân chạy vào, chỉ hộp quà to hơn trên bàn dặn Mai: – Tý nữa em nhớ mang hộp quà anh mua về biếu bố mẹ, không lại quên mất. Ra tết rỗi thì anh qua nhà em chơi sau, chắc trong tết anh bận phụ mẹ lau dọn nhà cửa. Mẹ Hoàng lại đặt cái nguýt dài lên môi: – Ôi, tôi cứ tưởng anh chị mua cho gia đình này đấy, thế ra hộp kia là cho bên bố mẹ vợ tương lai à? Cậu Hoàng quý hóa nhỉ, mẹ đẻ ở đây cậu đã bao giờ mua cho cái gì mà chưa gì bên vợ đã đầy đủ nhỉ? Hoàng nhăn mặt: - Mẹ! Biết ý Mai chữa thẹn: - Dạ thôi, nhà cô cứ để đấy trang trí bàn thờ tết với cả biếu bên anh em nội ngoại, cháu về quê cháu mua sau cũng được ạ! Đường xa xe cộ dịp tết lại đông cháu mang về chắc sợ vỡ mất thì tiếc lắm! Mẹ Hoàng không nói gì, bà đứng dậy đi vào nhà bỏ mặc Mai và Hoàng đứng ngẩn ngơ nhìn nhau. Mai thấy uất ức, nàng cầm túi xách dùng dằng định về nhưng Hoàng đã kéo nàng lại, xin lỗi nàng rối rít: – Thì anh đã bảo mà, mẹ khó tính, em phải biết cách mà chiều mẹ chứ! Mai chua chát: – Em chiều theo kiểu nào được anh? *** Mai bàn bạc với Hoàng chuyện ở riêng. Nàng nghĩ lấy nhau rồi nàng sẽ không thể ở chung với mẹ chồng được vì nàng cảm giác nghẹt thở mỗi khi đối diện với mẹ của Hoàng. Nàng sợ xung đột sẽ xảy ra khi về ở chung trong một mái nhà. Nhưng khi vừa nói ý định đó ra Hoàng đã từ chối ngay: - Không được, vợ chồng mình phải ở với mẹ chứ, em không thương mẹ sao? Anh đã nói với em rồi còn gì, ba mất sớm, mẹ tự mình nuôi hai anh em anh trưởng thành, mẹ khó tính là điều đương nhiên. Em phải hiểu và thông cảm cho mẹ anh chứ! Mai phân bua: – Em hiểu, nhưng em có cảm giác mẹ hơi khắt khe với em, hay em làm cái gì sai? Nếu cưới nhau mà suốt ngày em bị mẹ mắng thì chắc em không chịu được đâu. Hoàng nhẹ nhàng: – Anh biết em khó xử như thế nào nhưng em cần cố gắng thật nhiều hơn nữa để làm vừa lòng mẹ thì mẹ sẽ chiều em thôi mà. Cuộc sống thành phố nó khác ở nông thôn, em phải biết cách hòa nhập chứ! Mai nhăn mặt khó chịu: – Anh không phải dạy em, ít ra em cũng học ở thành phố bảy năm, hai năm em đi làm nữa không ít để em không hiểu gì về cuộc sống thành phố. Hoàng im bặt, chàng chui vào lòng Mai tỏ ý hối lỗi nhưng Mai đã đẩy anh ra. Mai lạnh lùng : -Em muốn yên tĩnh một lúc! *** 8.3 Mai xin nghỉ sớm vào shop quần áo tìm mua cho mẹ Hoàng một bộ quần áo. Vừa chọn Mai vừa nghĩ xem vóc dáng của mẹ Hoàng như thế nào để mua cho phù hợp. Suốt hai tiếng lựa chọn nàng đã mua được hai bộ cho mẹ Hoàng và một bộ cho mẹ mình. Nàng đóng gói cẩn thận ra bưu điện gửi về cho hai mẹ. Hai ngày sau, mẹ Mai gọi điện ra rối rít: – Con gái mẹ chu đáo thế, lại còn nhớ ngày 8.3 mua quà cho mẹ nữa cơ à? Thế có biết đường mua quà cho mẹ của cậu Hoàng không? Mai vui vẻ : – Dạ con có nhớ mẹ ạ! Hai ngày hôm sau Hoàng sang chơi, chàng buồn buồn bảo: – Em mua quà cho mẹ mà chẳng để ý gì cả, đến cái mác em cũng làm bung ra, làm mẹ cứ nghĩ là hàng hiệu giả, mẹ chẳng chịu mặc kia kìa. Mai uất ức: – Gửi bưu điện thì nó phải có quá trình vận chuyển bốc dỡ hàng, va chạm rơi mác thì có gì to tát đâu mà phải thế! Mẹ anh không mặc thì thôi, em cũng vì nhớ đến ngày mà quan tâm, sao cứ phải khắt khe thế cơ chứ! Hoàng nhăn nhó: - Thì em gọi điện về mà giải thích với mẹ, sao lại quát anh! Mà sao dạo này anh thấy em khó tính thật đấy! Mai vặc lại: – Thế 8.3 anh mua quà gì gửi về cho mẹ em, em nghe mẹ nói anh còn không gọi điện chúc mừng mẹ em cơ mà! Hoàng ngớ người, chàng ta gãi đầu gãi tai: – À thì… công việc lu bu anh quên mất! Mà mẹ em nữa cũng lắm chuyện cơ,có thế mà cũng nói với em! Mai bực tức: – Em thấy anh có quên bạn anh đâu, hôm đấy anh còn nhắn tin, gọi điện chúc mừng mấy người liền cơ mà, sao mẹ em mà anh lại quên được chứ! Hoàng đỏ mặt không nói được lời nào! *** Lần thứ ba Mai vào nhà Hoàng đó là khi hai gia đình có ý định đi lại với nhau để bàn chuyện cưới xin cho Hoàng và Mai. Mai đi cùng bố và mẹ, bác trai, bác gái đến nhà Hoàng vào một buổi chiều mùa hè. Khi xe vừa đỗ trước cổng, Hoàng đã đứng đó tự bao giờ tươi cười đón bố mẹ vợ và các bác. Mẹ của Hoàng đứng ở cửa đon đả: – Ôi các bác, quý hóa quá, các bác vào đây chơi, ngồi xơi với gia đình em bữa cơm thân mật! Khi bốn người bên nhà Mai đi xuống, định bước vào nhà thì mẹ Hoàng kêu lên: – Ấy ấy, các bác cứ để dép ở ngoài, em mới lau nhà, ở thành phố nó khác nông thôn là vậy đấy! Bố mẹ Mai và hai bác khựng lại, nhưng rồi họ vui vẻ cởi dép đi vào nhà, Mai đứng đó lòng đầy hối hận, hối hận vì đưa ba mẹ và hai bác đến ra mắt nhà chồng tương lai mà bị coi chẳng ra gì cả. Đến cả cái dép cũng bảo phải tuột ra, có phải bố mẹ nàng không biết cách đâu mà phải như thế! Nàng thấy mình xấu hổ không biết chui vào đâu được. Bữa cơm ra mắt hai họ trầm hẳn xuống. *** Mai nói lời chia tay Hoàng trong một ngày cách lễ ra mắt không xa. Hoàng ngơ ngác không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Mai bảo: - Em không thể lấy một người mà mẹ anh ấy và cả anh ấy không biết trân trọng em và gia đình em! Rồi Mai quay đi giấu những giọt nước mắt lăn dài trên má. Nàng biết đó là cách lựa chọn duy nhất để Hoàng thay đổi và cả mẹ Hoàng nữa…
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chuỗi thời gian[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trọng Bảo[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ông Xuyên ngả người nằm xuống ghế xích-đu. Tờ báo trong tay ông rớt xuống đất. Một làn gió hiếm hoi lọt qua bức tường rào cao không làm ông cảm thấy mát hơn. Ông đang bực. Ban sáng, ông đem một triệu đồng đến góp để trùng tu nhà thờ họ và xây mộ tổ. Ông gặp đúng lúc một thằng vào hàng con cháu cũng đang nộp tiền. Tay nó đang cầm một nắm bạc lẻ, mặt mũi còn lấm lem bùn đất. Nó vừa mới tát ao bán cá lấy tiền đóng góp. Nhìn xấp tiền mới cứng trên tay ông, nó nói bóng nói gió với một thằng khác: "Tiền không sạch đem mua vật liệu xây mộ tổ thì có mà sui cả họ!". Thằng kia buông một câu lửng lơ: "Thôi thì để đấy, sau lễ khánh thành cho đám thợ xây một bữa rượu thịt chó cũng được!". Ông nghe mà uất. Không chấp trẻ con nhưng ông cứ thấy sường sượng. Từ ngày về hưu ông Xuyên như người bị tách ra khỏi xã hội. Sự hẫng hụt, vô lo càng làm cho ông thấy bức bối. Cổ nhân có câu "nhân vô thập toàn". Tuy nhiên cuộc đời ông đến lúc này là tương đối chỉn chu, viên mãn. Thế nhưng sao ông vẫn cứ cảm thấy không vui. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Ông Xuyên còn nhớ những năm sáu mươi, trong cuốn sơ yếu lý lịch của mỗi người đều có một dòng "ngày tham gia cách mạng". Cái dòng ấy thật quan trọng. Nó là cánh cửa cuộc đời. Nhiều người đã đi lên kể từ khi ghi ngày, tháng, năm vào cái dòng ấy. Với ông Xuyên, bắt đầu từ độ đặt bút viết vào dòng kê khai ấy đến lúc ký vào bảng lương cuối cùng tại chức là cả một chặng đường đời hơn bốn mươi năm. Ông thấy tự hào. Song sao chợt có một nỗi buồn thoáng qua, không sâu nhưng nó cứ quanh quất đâu đây. Thì ra cả đời sóng gió, gập ghềnh, đua tranh, bợ đỡ hay dìm dập thì cuối cùng cũng phải kết thúc. Cái dòng trong sơ yếu lý lịch có tính chất mở đầu ấy chỉ dành cho mỗi người ghi một lần thôi. Ông Xuyên thấy hẫng hụt. Bởi về hưu tức là từ nay ông đã bước sang một thế giới khác. Đó là "thế giới ACC" mà các cụ hưu trí vẫn thường nói đùa với nhau. ACC tức là "ăn-chờ-chết". Thật là kinh khủng và vô nghĩa quá. Chỉ cần thoáng nghĩ đến điều đó, ông lại cảm thấy lạnh lưng, thảng thốt. Ông còn khoẻ lắm. Chỉ bực mụ vợ quản lý chặt. Một lần, cô thư ký nhớ nghĩa cũ, tình xưa nhắn tin vào điện thoại di động, mụ vợ xem được tịch thu mất máy và cảnh cáo: "Về hưu rồi thì biết điều! Tôi bảo ăn là ăn, bảo ngủ là ngủ. Ngày còn công tác tôi thả cho mà nhông nhênh, đú đởn, giờ thì liệu hồn". Có người bảo ông nên viết hồi ký. Cuộc đời ông xem ra cũng đáng viết lắm chứ. Từ một người có thể nói là "chân đất, mắt toét mà vươn lên làm đến chức vụ ngang cấp thứ trưởng cũng thật nên viết. Nhưng ông chưa viết. Ông sợ mình lại rơi vào cái chuỗi thời gian "ba hồi" nghiệt ngã của cuộc đời như người ta thường khái quát về những người hưu trí. Ba hồi đó là: "hồi ký, hồi sức và hồi kèn". Hồi ký là ngồi tại nhà mà nghiền ngẫm, mà ghi chép lại cuộc đời mình rồi đem xuất bản cho người ta đọc. Tha hồ mà kể công, mà chiêm nghiệm, dạy đời, chẳng ai bắt bẻ được. Viết về mình ai chả kể lể công lao, kỳ tích của bản thân, đùn đẩy trách nhiệm, thất bại cho người khác. Hồi ký thường là xung khắc, đối chọi nhau chan chát. Nhưng đã khối người về hưu nhờ viết hồi ký mà thành danh hơn cả khi còn đang công tác. Hồi sức là khi ngắc ngoải ở bệnh viện (cứ nghĩ đến đã kinh). Một đời người tung hoành ngang dọc mà tới lúc phải dây rợ cắm chằng chịt khắp cơ thể, dẫn lưu, tiếp máu, tiếp nước thì còn ra làm sao nữa. Vậy mà, khối người tiền của chất cao như núi mà cũng chẳng hồi sức nổi. Còn hồi kèn thì là đoạn cuối, kết thúc ở ngoài nghĩa địa. Tiếng kèn réo rắt đưa người ta vào cõi vĩnh hằng nhưng đến nay cũng chả ai biết nơi đó có phải là chốn bồng lai tiên cảnh như vẫn đồn đại hay không. Cứ nghĩ đến cái "chuỗi thời gian ba hồi", ông Xuyên lại giật mình thon thót. Ông buồn đến nẫu cả người. Ông cũng muốn tham gia với tổ thơ của các cụ nghỉ hưu. Khi còn đương chức giám đốc một cơ sở kinh tế lớn nhất tỉnh suýt nữa ông đã trở thành nhà thơ, hội viên hội văn nghệ tỉnh hẳn hoi. ấy là một lần, hội văn nghệ tỉnh tổ chức cuộc thi thơ "Mùa xuân đất mẹ" tìm đến các doanh nghiệp xin tài trợ. Ông xuất luôn quỹ phúc lợi nhà máy ủng hộ hai chục triệu đồng. Thế là đám văn sĩ kính nể ông, thi nhau viết bài lăng-xê. Nhà máy ông tự dưng nổi lên như cồn, trở thành một điển hình tiên tiến của tỉnh, được cấp trên để mắt, rót ngân sách đầu tư. Văn phòng giám đốc luôn có khách văn ghé thăm. Mấy bài thơ kiểu "con cóc" ông viết từ thời còn chiến tranh được đám các nhà thơ "nâng cấp" lên đọc nghe cũng xuôi tai đáo để, rồi được đăng báo, bình tại hội thảo, ngâm trong hội diễn nữa. Hứng khởi, ông vừa chỉ đạo sản xuất vừa làm thơ. Một năm được bảy tám chục bài. Đám văn sĩ tỉnh nhận thù lao mông má lại, chêm thêm vào những mây gió, buồn vui, khao khát, giận hờn thế là hoàn chỉnh xuất bản một tập thơ khá dày dặn. Ông chi tiền in luôn bảy trăm cuốn, biếu tặng hết lượt các quan chức, đối tác trong ngoài tỉnh. Ông chủ tịch hội văn nghệ tỉnh mấy lần đề nghị ông làm đơn vào hội. Nhưng ông chưa kịp viết thì được điều động về bộ. Giờ nghỉ hưu, thơ ông có kém gì mấy cụ ở phường. Nhưng khốn nỗi ông không thể hoà nhập được với họ, đành chịu. Ông buồn. Ông luôn tự hỏi tại sao lại khó bắt nhịp lại với cộng đồng đến thế. Phải chăng ông là cán bộ cấp cao. Khi đã lên cao, hàng quan chức lúc về hưu khó hạ xuống thứ dân, trở lại đời thường. Cũng chưa hẳn là thế. Có lẽ là tại quá trình phấn đấu đi lên ông đã tự đánh mất dần những gì mình vốn có. Đó chính là bản ngã của con người... [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Ngày còn chiến tranh. Thanh niên trai tráng luôn luôn sẵn sàng nhập ngũ, rời quê hương lên đường ra mặt trận. Ông Xuyên cũng trong lớp người đó. Nhưng khi súng nổ ở xa thì tất cả còn hăng hái. Thậm chí có người còn cắt máu viết đơn xung phong nhập ngũ. Song lúc bom nổ ở gần thì người dũng cảm, kẻ yếu hèn thường bộc lộ bản chất. Ông Xuyên đã vô cùng hoảng sợ khi lần đầu tiên nhìn thấy máu. Đó là hôm máy bay Mỹ ném bom trúng bến phà sông Tương lúc đông người. Ông cùng đội thanh niên xung kích có mặt sau trận bom. Nhìn cảnh người chết, người bị thương nằm la liệt, máu me đỏ lòm ông run cầm cập, xé mãi không nổi cuộn băng để bó buộc cho một thằng bé bị thương gẫy tay. Giữa khi ấy lại có tiếng ù ù rồi ai đó hét lên: "Máy bay... Mỹ... lại... đến... đấy!". Hoảng quá, ông vội cuống cuồng xốc thằng bé lên vai chạy như điên vượt qua bờ đê vào xóm. Thằng bé được ông cứu lại chính là con trai duy nhất của đồng chí bí thư huyện uỷ. Thế là, ông được đồng chí bí thư để mắt quan tâm, cất nhắc. Ông được bổ nhiệm vào chức bí thư đoàn xã. Cứ ngỡ đó chỉ là chân sai vặt, xung kích thi đua cho có phong trào. Ngờ đâu lại do "cơ cấu" mà nên. Cơ cấu thường gấp vạn lần phấn đấu, hy sinh. Tuy có người chỉ vì bi kịch "cơ cấu" mà hỏng cả đời. Song phần lớn là nhờ cơ cấu mà nhiều người dù chỉ vào hạng "tầm tầm bậc trung" lại vượt hẳn lên. Là bí thư đoàn, ông được cơ cấu vào đảng uỷ xã, tham gia hội đồng nhân dân. Từ cấp xã ông lên huyện. Cũng chỉ bằng con đường đoàn thể ông lại được vào "cơ cấu" cấp huyện. Huyện ông thời ấy là một trọng điểm nên được trên chú ý, tập trung xây dựng thành điển hình. Đã là một đơn vị điển hình thì mọi mặt phải toàn diện. Song thời buổi chiến tranh nhiều khi chỉ tiêu kinh tế, công nông nghiệp tăng trưởng vài phần trăm, dân no ấm thêm đôi chút lại chẳng gây ấn tượng bằng cảnh trống giong, cờ mở, mít tinh rầm rộ, khẩu hiệu băng rôn rợp trời. Là cán bộ phong trào, ông Xuyên cũng có chút tài năng tổ chức. Những diễn đàn "Cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù" hay hội thảo "Sống như anh" ông đều làm khá rầm rộ. Các xã nô nức thi đua với nhau. Thanh niên hăng hái xung phong ra trận, phụ nữ đăng ký ba đảm đang, thiếu nhi làm nghìn việc tốt. Phong trào thi đua của huyện ông không bao giờ ngừng nghỉ. Mà ở chỗ nào cũng có bóng dáng, vai trò của ông. Ông Xuyên được đánh giá là con người năng động, là cán bộ có năng lực, được cất nhắc lên mãi. Ông trở thành một nhân cốt được giữ lại để xây dựng phong trào ở hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến lớn. Chiến tranh thường như vậy. Nó là thử thách cam go làm rõ trắng đen, yếu hèn, dũng cảm. Tuy nhiên cũng có những người nhờ chiến tranh mà che giấu được khiếm khuyết của mình. Khi đất nước còn cơ chế bao cấp ông Xuyên cũng như tất cả các cán bộ khác, đều chung cảnh ngóng chờ hàng phân phối, gom góp tem phiếu mua gạo thịt hay tìm cách móc ngoặc với nhân viên mậu dịch quốc doanh bớt xén, tuồn hàng hóa ra bán ngoài chợ đen ăn chênh lệch giá. Từ khi ông Xuyên đảm nhận một chức vụ có liên quan đến tài chính kinh tế của tỉnh thì cuộc sống gia đình ông khá giả hẳn lên. Ông không còn phải lo đói rách, thiếu thốn. Tuy thế ông luôn căn dặn vợ con quần áo đẹp vẫn phải mặc lẩn vào trong, có tiền thì chôn xuống đất thà bị mối xông còn hơn là gửi tiết kiệm lấy lãi, lộ mặt tư bản chủ nghĩa. Khi đất nước, quốc dân còn nghèo, ông đã thoát nghèo. Nhưng ở cơ quan chả ai biết là ông giàu. Đến thời cơ chế thị trường tình hình lại khác. Giàu nghèo phân chia, phân cực. Cán bộ đi xe hơi đời mới, xây biệt thự, chi tiêu xa xỉ dần dần cũng trở thành bình thường, đỡ bị những con mắt nhòm ngó, soi mói. Nếu so vào bảng lương thì bốn mươi năm phục vụ của ông chả mua nổi một chiếc xe máy loại tốt nhất. Nhưng thời buổi chính thu chẳng bằng phụ thu này, chỉ qua một nhiệm kỳ đã có tiền tỷ trong tay. Ông vẫn nhớ như in cái cảm giác lần đầu tiên cầm tờ tiền của nước Mỹ. Sao nó cứ như tiền giả. Chỉ mấy tờ mỏng tang mà bằng cả đống tiền Việt Nam đồng. Vợ con ông cũng mở mày, mở mặt. Tiền vào cửa sau nhiều hơn cửa trước. Có nhiều việc được giải quyết ở phía hậu trường. Chả trách mà ngày xưa hậu cung thao túng được cả triều đình. Một hôm, ông vừa ở cơ quan về, bà vợ ông hỏi ngay: - Cơ quan ông đang khuyết một chức phó phòng phải không? - Sao bà biết? Bà vợ ông không trả lời mà lại bảo: - Thằng Bản nó vừa đi học về, có bằng cấp hẳn hoi đấy! Ông nhớ là phải chú ý đến nó đấy! Thế là ông hiểu. Thằng này nó đã "làm việc" với mụ vợ ông rồi. Ông đành nghĩ cách bố trí cho nó vào vị trí ấy. Được đề bạt, nó quay sang phục vụ ông tốt hơn. Dần dà, ông rút ra một kinh nghiệm sử dụng cán bộ ở cơ quan mình. Ông chia họ ra làm hai loại "xa và gần". Cán bộ xa chính là những người làm được việc, giúp ông hoàn thành chức trách, nhiệm vụ cấp trên giao. Cơ quan có thực hiện được chỉ tiêu, kế hoạch hay không là nhờ các cán bộ này. Loại "cán bộ gần" là những người chẳng làm được việc gì theo chức trách cho ra hồn nhưng lại biết cách quan tâm đến thủ trưởng. Thủ trưởng chỉ húng hắng ho đã biết tìm dầu gió. Thủ trưởng đi chơi ten nít biết lo sân bãi. Thủ trưởng vi hành thì chuẩn bị cơ sở, nơi ăn nghỉ, gái gủng, phong bì phong bao. Hai loại cán bộ này bây giờ ở cơ quan nào cũng có. Và bao giờ cũng vậy, công việc thì thủ trưởng đưa cho loại cán bộ xa, ăn chia cho bọn ở gần, vừa kín tiếng, đỡ lộ. Ông Xuyên rất tâm đắc giải pháp sử dụng cán bộ theo kiểu "xa và gần" thấy mọi việc đều xuôi chảy. Nhưng chuyện đời là vậy, cảnh kẻ làm người ăn, cốc mò cò xơi mãi thì chóng hay chầy cũng sinh mâu thuẫn. Những người có năng lực, làm được việc đâm ra chán nản, bê trễ công việc. Những kẻ bất tài thì lên mặt. Nhưng mâu thuẫn tất sẽ có cách giải quyết. Ông Xuyên áp dụng triệt để biện pháp luân chuyển cán bộ. Bướng ư? Làm việc thiếu chăm chỉ ư? Khó gì, cho đi cơ sở, vùng sâu vùng xa, tiếng là thử thách, rèn luyện cán bộ, thực ra là hạ phóng đày ải cho biết. Bao nhiêu cán bộ đã được "hạ phóng" về cơ sở, ông không nhớ hết. Một hôm, trên đường đi công tác ở miền núi, ông nghỉ ở một nhà hàng đặc sản thú rừng cạnh đường. Ông và đám tuỳ tùng đang ăn uống ngon lành chợt nghe "choang" một tiếng. Đó là tiếng vỡ của thuỷ tinh. Có một giọng lè nhè phía sau. Ông Xuyên giật mình ngoái lại. Một gã đầu tóc bù xù tay cầm lăm lăm một đoạn vỏ chai vỡ, giọng sặc mùi rượu: - Còn nhớ không! Còn... nhớ... không! Chiến sĩ thi đua hai năm liền đấy nhé! Thế mà nỡ đày ải ở chốn khỉ ho, cò gáy thế này hả... hả...?... Ông Xuyên nhổm dậy, lùi lại. Cậu lái xe lập tức giơ thân ra che cho thủ trưởng. Ông Xuyên cố nhớ. Hoá ra hắn tên là Khoa. Hắn là cái thằng hay cãi, làm thì được việc nhưng chẳng chịu phục ai. Một lần hắn còn dám đứng lên phê bình ông về công tác cán bộ. Thế là hắn đi đời luôn. Ông hạ phóng hắn về cơ sở phụ trách một trạm ươm cây giống giữa rừng. Trạm ươm ấy mấy năm liền ông không đầu tư, chỉ rót kinh phí cầm chừng. Hắn chán nản, thối chí, đâm ra rượu chè bê tha lè nhè suốt ngày. Sau vụ này có người ám chỉ, gọi chệch tên ông là "Xiên" (ý là xỏ xiên). Ông tức tối muốn truy tìm xem đứa nào dám cả gan gọi ông như thế nhưng đành chịu. Nhiều việc vừa mới xảy ra ở cơ quan đã thành chuyện dân gian, truyền miệng, hơi đâu mà truy tìm nguồn gốc. Mà truy sao cho được. Sau, ông rút ra kinh nghiệm là cứ làm ngơ, mặc kệ, thế gian nói mãi mỏi mồm. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Ông Xuyên bị đột quỵ phải nhập viện. Ông hoảng. Ông lo cái chuỗi thời gian "ba hồi" của mình bị trục trặc, chưa kịp hồi ký đã sang hồi sức, áp sát hồi kèn. Tuy nhiên, ông chỉ bị xuất huyết não nhẹ. Bệnh viện lưu ông lại để theo dõi, bồi bổ vì ông nguyên là cán bộ cao cấp. Khu điều trị bệnh nhân VIP vắng vẻ. Mấy hôm đầu buồng bệnh ba giường chỉ có một mình ông. Ông nằm xem ti vi, đọc báo suốt ngày cũng buồn bởi chẳng có người trò chuyện. Vài ngày sau thêm một bệnh nhân nữa đến nằm cùng phòng. Anh ta là trưởng ban tổ chức chính quyền tỉnh. Lập tức buồng bệnh tập nập hẳn lên. Người ra, người vào liên tục, quà cáp ùn ùn. Tay này bị chứng đau lưng nên lên bệnh viện trung ương kiểm tra rồi nằm lại mấy hôm dưỡng bệnh. Nhưng ông Xuyên hiết tỏng tâm địa của hắn. Hắn nắm sinh mệnh của nhiều cán bộ hàng tỉnh. Nằm viện cũng là dịp để hắn tranh thủ thu hoạch cuối năm. Những túi quà, hoa quả, sữa đường chỉ là phương tiện để những người đến thăm nhét phong bì vào cho đỡ ngại phải đưa trực tiếp. Sau khi rút lấy phong bì trong những túi quà, hắn xếp đầy hoa quả, đường sữa trên cái giường trống giữa hắn và ông Xuyên. Hắn bảo ông dùng được thứ gì thì cứ dùng. Ông Xuyên im lặng vừa buồn lại vừa tức. Giá mà ông còn đương chức thì thằng cha này đã là gì. Ông Xuyên tự ái nhìn mấy quả cam chua loét để lỏng chỏng ở cái tủ nhỏ trên đầu giường. Mụ vợ mải đề đóm, mua vội. Cô con gái út thì bận đi picníc với đám bạn bè. Ông nằm ở bệnh viện mấy ngày mà chẳng ai buồn ngó ngàng đến. Bà vợ bảo: "Ôi dào! Cứ ở bệnh viện mà nghỉ ngơi, vừa đỡ cơm nhà, vài bữa tôi ngớt việc đến đón hãy về". Cô con gái út nghe tin bố ốm thì điện về: "Thank bố! Cái xe Spacy bố mới mua cho con chạy bốc lửa lắm. Chúc bố chóng khoẻ nhé!". Giá mà đương chức ông vào viện thế này thì đám đệ tử "cán bộ gần" hoạt động rộn ràng phải biết. Chúng sẽ túc trực vo ve quanh ông cả ngày. Rồi chúng nhanh nhảu thông báo cho các địa chỉ cần phải cử người đến thăm, nhân tiện kiếm chút phụ thu khi thủ trưởng ốm. Bây giờ ông đã nghỉ hưu, hết lộc, "thớt hết tanh tao", tự dưng đám ấy tản hết. Ông Xuyên nằm trùm chăn kín đầu để khỏi chứng kiến cái cảnh nhộn nhịp ở giường bên cạnh. Thời gian một ngày ở bệnh viện sao thật là lê thê. Ông mong cho chóng tối. Nhưng buổi tối vẫn có nhiều người đến thăm tay trưởng ban tổ chức chính quyền. Ông nghe loáng thoáng họ nói với nhau khi ra khỏi phòng: "Sao cái lão nằm giường bên cạnh trông quen quen thế nhỉ?". Ông nghĩ thầm: "Ngày đương chức tao hay xuất hiện trên tivi làm gì mà chả quen". Cuối cùng ông Xuyên cũng có người đến thăm. Khi người đó bước vào phòng nhìn quanh, tay trưởng ban lập cập chạy ra đón, giọng líu đi: - Chào anh! Anh... - Ơ! Cậu cũng phải đi viện à? Bệnh gì thế? - Dạ! Thế anh... - Mình vào thăm một người đang nằm điều trị ở đây! - Thế người đó là thế nào với anh ạ? - Bác ấy tên là Xuyên, thủ trưởng cũ của tôi... Biết tin bác ấy ốm, mình vội về ngay! Nghe vậy, ông Xuyên lật chăn ngồi nhỏm dậy. Ông chưa nhận ra là ai thì người ấy đã túm tay ông vì vui mừng, vội hỏi thăm sức khoẻ. Nghe ông nói chỉ bệnh nhẹ, người đó mới yên tâm ngồi xuống giường trò chuyện với ông. Ông Xuyên vẫn chưa nhận ra người đến thăm mình. Ông hơi băn khoăn, sợ hỏi tên thì khiếm nhã. May lúc ấy, tay trưởng ban nhanh nhảu: - Bác ạ! Đồng chí phó chủ tịch tỉnh em bận thế mà còn xuống tận đây thăm bác. Ông Xuyên đã lờ mờ nhớ ra. Sau lại nghe hai người nói chuyện với nhau ông nhận ra đó là anh phó phòng thuộc cơ quan ông ngày trước. Anh ta là người làm được việc nhưng bộc trực. Chính anh cũng bị ông "hạ phóng" về một tỉnh miền núi xa xôi. Nhưng không như nhiều người khác, anh này vẫn kiên trì vươn lên bằng chính tài năng, sự phấn đấu của mình. Từng là một người lính phục viên, anh rất quen với việc có lệnh là đi nhận nhiệm vụ ở những nơi khó khăn, gian khổ. Anh không nghĩ là bị "đày" đi cơ sở mà coi là một dịp tốt để rèn luyện, thử thách để khẳng định mình. Bây giờ anh là một phó chủ tịch tỉnh khi tuổi còn rất trẻ. Lúc chia tay ông Xuyên, anh phó chủ tịch tỉnh cứ năn nỉ: "Hè tới mời bác lên chỗ em. Tỉnh em có khu nghỉ dưỡng, suối nước khoáng nóng hay lắm bác ạ!". Ông Xuyên hơi ngường ngượng khi bắt tay anh phó chủ tịch tỉnh. Sau lần anh phó chủ tịch tỉnh viếng thăm, trong lòng ông Xuyên tự dưng nhen lên một thứ tình cảm mới, rất khác với những gì đã sẵn có trong ông bấy lâu nay. Ông chợt nhận ra, ai rồi cũng sẽ đến ba hồi cuối của đời mình. Nhưng mấy ai sẽ thanh thản và không xa lạ với đồng loại khi đã về chiều nếu suốt cuộc đời chỉ biết sống vị thân. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Anh chỉ nhớ em thôi[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phan Thị Tần[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyên thường có cái thú là ngồi trước màn ảnh truyền hình để xem chương trình thời sự. Chẳng phải anh muốn có thêm kiến thức về tình hình trong tỉnh tuần qua đâu, mà bởi vì trong chương trình thời sự mỗi đêm, người phát thanh viên chẳng ai khác hơn chính là Quy. Thật là thú vị khi có người yêu xuất hiện trên ti vi hàng đêm để ngắm nhìn. Rồi chẳng bao lâu khi Quy trở thành "bà xã của ông Nguyên", Nguyên vẫn không bỏ thói quen ngắm nhìn vợ mình qua màn ảnh nhỏ như thế. Nghề nghiệp của hai người hoàn toàn không giống nhau. Quy tốt nghiệp đại học kinh tế, nhưng có bao nhiêu người có bằng cử nhân kinh tế nên Quy đành phải ở nhà, mỗi buổi sáng ra phụ bán cho shop quần áo của mẹ. Cho đến khi đài truyền hình thi tuyển phát thanh viên, Quy cũng nộp đơn cầu may, nhưng kết quả cuối cùng là đài chỉ tuyển có ba người mà Quy thì đứng... thứ tư. Mặc dù đậu vớt, vận may lại đến với Quy vì có một cô trong tốp ba người nhờ đoạt giải giọng hát hay trên sóng phát thanh truyền hình nên đã xin nghỉ việc để vào TPHCM tìm cơ hội. Thế là Quy có việc làm. Sau này ông Giám đốc vẫn gật gù cái đầu khi nói chuyện với Quy: "Chú không ngờ cháu lại là phát thanh viên giỏi. Suýt tí nữa thì một tài năng bị thất nghiệp". Quy chỉ cười, mỗi lần Quy cười thì hai hạt gạo ở hai bên má cứ rung rung khiến cho khối chàng trai phải ngẩn ngơ. Hôm chính thức trở thành phát thanh viên, Quy đã mời Nguyên đi ăn nhà hàng. Ðó là ngoại lệ, bởi vì từ ngày quen nhau, do phải góp nhặt tiền bạc để làm đám cưới, cả hai chỉ rủ nhau đi ăn vỉa hè. Bà bán thịt vịt ở Cầu Dứa đều quen mặt hai người. Khi thấy họ xuất hiện, ngay tức khắc bà đem ra một đĩa tiết canh, một cái đùi luộc, cổ đầu vịt và một chai bia Sài Gòn, có khi hai người chán ăn thịt vịt, lại chở nhau đến tận quán nhỏ dựa theo dòng sông Cái, kêu nửa con gà luộc. Quen Quy, dần dần Nguyên trở nên nghe lời Quy giống như một cậu học trò luôn luôn tin tưởng tuyệt đối vào những bài giảng của cô giáo. Việc mỗi đêm Quy xuất hiện trên màn ảnh nhỏ đã khiến cho Nguyên "yên bụng" vì chẳng có anh chàng nào "mắt liếc ngược liếc xuôi" tán tỉnh Quy. Lễ cưới được tổ chức sau hai tháng Quy về đài phát thanh truyền hình. Dáng Quy nhỏ xíu, khi mặc áo dài Quy thật mảnh khảnh và trông yếu đuối làm sao. Thời đi học, Quy được bầu làm lớp trưởng, những cậu học trò cùng lớp đã tặng cho Quy một cái tên rất ư là học trò: "Bà lớp trưởng". Mặc dù là con gái, nhưng do bản tính năng động nên bọn con trai trong lớp đều e dè Quy. Quy mang tính cách của một người chỉ huy từ thuở đi học về làm vợ Nguyên. Yêu thương vợ, Nguyên gần như chấp nhận những điều kiện mà Quy đưa ra. - Anh không được tiêu xài không có kế hoạch. Tiền bạc thời buổi này cần phải chắt chiu để mua một căn nhà. Nguyên chống chế: - Nhưng nhà của bố mẹ cho mình mà. Trước sau thì nó cũng thuộc về mình. Mình mua nhà làm gì nữa? Mỗi lần Nguyên phản đối một điều gì, Quy luôn luôn trả lời: - Em nói anh có nghe không? Những cuộc nhậu thời độc thân dần lui vào quá khứ từ ngày có Quy. Bạn bè gọi điện, Quy trả lời rất nhỏ nhẹ: "Em có cấm anh điều gì đâu. Ðó là sự tự nguyện mà". Chiếc điện thoại di động không còn là phương tiện liên lạc hữu ích của thời đại thông tin bùng nổ nữa. Nó trở thành công cụ kiểm soát chồng. Việc ngồi trước ti vi xem vợ lúc đầu là thú vị, khi hết giờ làm việc ở đài, Nguyên mới chở vợ về. Quy rất vu vơ: "Em mặc chiếc áo màu xanh lên ti vi có đẹp không anh?". "Ðố anh biết hôm nay em tô son màu gì?". Ðời sống là những hẹn hò cuống quýt, còn là sự hoàn thiện của cho và nhận. Với Nguyên, anh từng hứa với Quy khi có được Quy bên cạnh cuộc đời mình, Nguyên sẵn sàng nghe theo lời Quy. Anh đã hứa như thế trong một buổi chiều mát mẻ, khi hai người dạo chơi ở ngoại ô, không gian là những đồng lúa đang lên xanh, gió cứ thổi, gợi cho những vạt lúa lao xao như sóng. Sống với nhau rồi quen. Bạn bè kháo nhau: "Thôi đừng có rủ thằng Nguyên đi nhậu nữa, bà chằng Nguyên biết được thì nó ra hè nhà mà ngủ", có người còn đùa cợt với Nguyên: "Này, bà xã của mày làm gì mà mày sợ dữ vậy?". Lúc đầu là đùa, nghe xong cười, bỏ qua. Nguyên còn chống chế: "Tao sợ vợ tao chứ tao sợ vợ mày sao mà nhiều chuyện quá vậy?". Rồi Nguyên bỗng ngạc nhiên, là một tên đàn ông to lớn như mình tại sao bỗng dưng lại sợ một người đàn bà nhỏ xíu như thế? Quả thật cuộc sống là những điều tưởng chừng như vô lý mà thực ra lại có lý. Thời gian trôi biệt giống như những cơn mưa qua, rồi tạnh. Lớp trẻ lớn lên, chúng lại thế chỗ của lớp trước. Trong đài truyền hình của Quy cũng vậy, vừa có thêm một số bạn trẻ tuyển vào để làm phát thanh viên. Quy về nói với Nguyên: - Em sắp được đi Ðà Nẵng học khoá biên tập ba tháng. Anh có mừng không? Nguyên nói đùa: Mừng. - Ừ, không mừng sao được khi mà bạn bè rủ đi nhậu không bị vợ ngăn cản. Hàng đêm không phải ngồi trước ti vi để xem vợ mình nói năng. Chưa hết, rồi mặc sức quăng quần áo tứ tung trong nhà, ngủ không chịu đánh răng, sáng không chịu chải đầu. Anh có ba tháng tự do đó. Sướng chưa? Chuyến xe lửa đêm dừng lại 10 phút. Tay Nguyên vẫy trong bóng đêm Quy không nhìn thấy. Những ngọn đèn đường ngả màu vàng chiếu rọi khiến cho con đường có chút gì đó như một bài thơ. Ba năm sống bên nhau, chưa bao giờ hai vợ chồng xa nhau một bước, chưa bao giờ Nguyên làm điều gì trái ý vợ. Giờ đây anh chỉ có một mình trong lòng thành phố như anh đã từng ao ước là lúc nào đó mình sẽ thật tự do như con chim. Nguyên sẽ không sợ Quy nhăn nhó khi chiếc đồng hồ đã chỉ đúng 9 giờ tối mà anh chưa về, bởi mâm cơm chỉ được dọn ra khi chỉ có hai người. Còn nếu hôm nào Quy trực đêm trên đài, thì bữa cơm lại sớm hơn thường lệ. Nguyên không về nhà vội. Bởi đâu có ai nhắc nhở sự trở về của anh đâu? Ðêm đã đưa Quy đi xa, Quy còn đi xa ba tháng xa lắc nữa kia mà. Quán lẩu nằm nép mình dưới tán cây me lớn. Chủ quán đã chọn cho quán một cái tên cũng rất dễ thương: "Quán cây me". Những Ngạn, Tuy, Hà... đủ những thằng bạn nhậu đều có mặt. Tiếng cười vui ầm ĩ: - Hôm nay thằng Nguyên phải say. Say cho bõ những ngày sợ vợ. Say cho những ngày bị cấm uống. Nguyên uống. Nhưng thói quen uống bia cho say đã mất. Anh nhận ra chốn này không phải chốn của mình. Say để làm gì? Trước mặt anh là những gương mặt đỏ gay vì rượu. Nguyên nói: - Thôi! Tao về. - Vợ mày có nhà đâu mà về? Căn nhà thiếu bóng đàn bà rộng thênh thang. Trên chiếc bàn nhỏ đầu giường là tấm giấy Quy ghi chi tiết những điều Nguyên cần nhớ: "Em đã đặt cơm tháng cho anh. Quần áo dơ, nhà sẽ do chị Kim bên cạnh qua phụ giúp. Anh cứ coi như còn độc thân. Khi nào nhớ em thì anh gọi điện kẻo người ta gọi anh là ông chồng sợ vợ". Anh phì cười. Không biết chiếc điện thoại di động Quy mang theo bên người có mở máy không? Và không biết tàu có vào khu vực có sóng điện thoại? Nguyên nhấn đại vào những con số. Tiếng Quy bên kia: "Làm gì khuya khoắt mà anh gọi điện cho em, bộ anh sợ em kiểm tra hả... ông sợ vợ". Nguyên thì thào trong máy, tiếng anh theo gió đến tận toa tàu của Quy: "Anh đâu có sợ em, anh chỉ nhớ em thôi. Mới có một buổi mà anh buồn quá. Anh đi Ðà Nẵng vào tuần sau nhé". Tiếng Quy cười ròn tan: "Không khéo mấy ông bạn của anh lại nói em bắt anh đi Ðà Nẵng như bắt anh ngồi trước ti vi...".[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bà chủ hờ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phạm Thùy Chi[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cuối cùng, tôi 'chịu' gã và nhận chức bà chủ của một khu nhà vườn khá thơ mộng. Một bà chủ chẳng phải vợ ông chủ vì không có cưới xin, không công khai, mặc ai muốn hiểu sao thì hiểu. Gã có vợ, mấy đứa con đã lớn cả. Chúng vào hùa với mẹ gầm ghè tôi nhưng không làm gì được vì cái 'uy' của gã. Từ đó, cứ lãnh thổ của ai người đó quản. Vợ con gã làm chủ một dinh thự lớn ở phố cùng một số cửa hàng kinh doanh đồ điện. Còn tôi chịu trách nhiệm cai quản khu nhà vườn với hơn chục phòng trọ. Gã thích đi đâu thì đi, đến đâu thì đến. Với tôi, điều đó chẳng mấy quan trọng. Tôi theo gã chẳng qua để đánh đổi một cuộc sống vật chất. Cái giá rất sòng phẳng. Trong hợp đồng này không có tình yêu, nhớ nhung và những gì đại loại như thế. Phòng ngủ của tôi quét vôi màu nắng. Đó là tôi bảo gã sửa sang lại trước khi tôi đến. Những căn phòng còn lại vẫn được giữ nguyên một màu xám nhờ khó gọi tên, khiến căn phòng quét vôi mới trở nên lạc lõng, trơ trọi và có vẻ hơm hĩnh. Ngày trước, cạnh nhà tôi là một ngôi nhà nhỏ màu nắng. Chủ nhân là hai người chẳng giàu có gì nhưng rất yêu nhau. Với tôi, màu của căn nhà người láng giềng kia lại rạng rỡ hơn bất cứ sắc nắng nào trên trần thế, để từ đó ngấm ngầm mơ ước. Nhưng té ra, tôi có thể gọi thợ quét bao nhiêu lớp vôi mầu vàng tùy thích mà không thể khiến nó trở thành căn nhà rạng rỡ trong ký ức. Cửa sổ phòng ngủ mở ra một khoảng vườn rộng. Một nhánh bàng như thể chia tay tự giới thiệu mình. Cây bàng vươn lên từ đất, vững chãi và trầm tư, làm điểm tựa cho cành lá lòa xòa trong mưa, trong nắng, trong ngày và đêm. Có cảm giác chỉ cần làn gió nhẹ thoảng tới, chiếc lá đỏ rực kia sẽ sà xuống cửa sổ để nói với tôi bằng ngôn ngữ riêng của nó. Điều đó khiến lòng tôi dịu xuống. Chỉ có một điều khó chịu, mỗi khi cánh cửa sổ mở ra, dù muốn hay không tôi cũng phải nhìn thấy dãy phòng cho khách trọ, như một cái gai mà người ta cố quên đi càng không thể quên được. Với tôi, sự hiện diện của những phòng trọ kia không những làm lợn cợn vẻ nên thơ của khu vườn mà còn gợi lên cảm giác lờm lợm chẹn ngang cổ khi tôi quyết định 'lên ngôi' bà chủ như thế này. Mỗi ngày mở cửa là mỗi ngày bắt buộc tôi tự nhìn vào tâm can của mình để đối diện với một sự khuất phục. Những căn phòng trọ được xây dựng kiên cố nhưng vẫn không thể nào che dấu nét tạm bợ. Bởi nó chẳng thuộc về ai. Ai yêu mến chúng? Những người ở trọ rồi sẽ ra đi, còn với kẻ kia chúng chỉ là một phương tiện kiếm tiền. Khách trọ của tôi phần lớn là sinh viên. Có vài người công nhân và duy nhất một cô gái làm nghề bán bia... ôm. Những người đến trọ thường ghép hai hoặc ba người để ở một phòng cho đỡ tiền. Riêng cô gái bán bia ôm ở một mình. Cô ta không có bạn cùng ở hay không muốn cùng ở với ai tôi không được rõ. Chỉ thấy cô chọn căn phòng cuối lối đi, cũ kỹ và tồi tàn. Tôi biết chắc là cô chọn nó, bởi vì còn mấy phòng tốt hơn vẫn để trống. Xem trong sơ đồ và danh sách người thuê nhà, tôi biết cô gái bia ôm tên Vân. Thường mỗi buổi sáng, cô ở nhà. Nếu không giặt giũ gì cô đóng tịt cửa lại, chẳng giao tiếp với ai. Khoảng ba giờ chiều cô 'đi làm' và đến tận khuya mới trở về. Tôi để ý đến Vân không vì cô là gái bia ôm mà bởi vì cô là một gái bia ôm lạ lùng. Hôm đến thu tiền nhà, tôi ngạc nhiên bởi cách bài trí căn phòng của cô. Tuy đơn sơ nhưng trang nhã, tự tin. Những bông cẩm chướng xòa xuống gợi một cảm giác cô đơn đau nhói. Không dưng tôi cảm thấy bối rối. Cảm giác không còn tin vào bản thân trở lại khứa vào da thịt khiến tôi bải hoải, rã rời. Chắc là Vân hiểu nhưng không nói gì. Cô nhìn tôi bằng một cái nhìn cảm thông. Thoạt tiên, tôi phản ứng bằng một cơn giận dữ nhưng rồi tôi nhớ lại cái hợp đồng bất thành văn quỷ quái của cuộc đời mình, đôi tay xuôi xuống. Sao thế nhỉ? Một người dưới đáy xã hội như cô ta mà vẫn còn tin vào bản thân ư? Vậy sao Vân không tự mình thay đổi số phận? Tôi không biết Vân đã học đến lớp mấy, gia cảnh thế nào và vì sao lại làm cái nghề hèn kém, khiến người ta không thể đối xử với cô bình đẳng như với những người khác ngay từ trong ý nghĩ. Coi thường, đó là sự đồng hành với những người đối diện với cô, kể cả những kẻ tiền chùa rửng mỡ đến quán bia của các cô, chịu cái giá cắt cổ để được những cô gái như cô ngồi cạnh, mơn trớn. Những gã đàn ông vỗ ngực tự xưng 'thượng đế' đôi lúc cũng làm ra vẻ tìm hiểu thân phận của các cô gái nhưng chẳng cần câu trả lời. Hỏi chỉ để mà hỏi. Thực ra, các gã kia chẳng có tư cách và lý do gì để có thể hỏi. Những gã đàn ông ấy, mỗi khi đã dùng thân xác phụ nữ làm trò mua vui giải trí bất cứ dưới hình thức nào chăng nữa, cũng là đồi bại lắm. Những gã khốn nạn! Tôi rùng mình nhớ lại bộ mặt nung núc những thịt và mỡ của sếp, đến cuộc giằng co trong phòng lạnh đóng kín và hậu quả là một chiếc cúc áo của tôi văng ra. Chuyện sẽ chẳng ai hay, sếp có thể được bảo toàn danh dự nếu chị tạp vụ không tình cờ vào phòng sếp quét dọn, bắt gặp tôi đâm bổ ra với gương mặt hoảng hốt. Và trong khi quét dọn chị nhặt được chiếc cúc áo. Thế là tôi bị sa thải vì 'không đáp ứng được yêu cầu của công việc'. Tiếp sau đó là những ngày thất nghiệp, lê chân khắp cái thành phố nhỏ bé kiếm việc làm. Việc gì cũng được, miễn lương thiện. ở đâu người ta cũng bảo chờ. ủy là một cách tế nhị của câu trả lời 'không'. Hy vọng kiếm được việc làm càng mong manh hơn khi người ta không tiền bạc, không cả một 'chỗ dựa'. Tôi quyết tâm sống tự lập mỗi khi nghĩ đến mẹ vò võ như một chiếc bóng ngay chính trong ngôi nhà mình. Cái hôm ba quát vào mặt mẹ rằng' tao làm ra tiền, tao có quyền đưa gái về nhà... đừng lộn xộn...' Hôm đó mẹ tự tử. Thế mà nhiều lần mẹ nói với tôi sẽ tự tử, tôi chỉ cười nhạt. Cái kiểu cười có vẻ như ngạo đời nhưng thực ra cũng mang lại cho người ta chút ít niềm an ủi. Và tưởng rằng có thể an ủi được mẹ. Nhưng chẳng hiểu vì sao, cứ mỗi lần mẹ rên rỉ về điều đó, tôi lại liên tưởng đến xác cô gái trong một vụ tự tử mà tôi chứng kiến. Cô gái chấm dứt cuộc sống của mình bằng cách nhảy xuống sông. Người ta bảo, vì uất ức quá mà trầm mình. Xác chết được vớt lên đặt trên bãi cỏ trong cơn nắng gay gắt của một ngày cuối hè. Cô ta nằm đó, thân phận bọt bèo câm lặng một cách thiêng liêng cách biệt với những người tò mò xúm quanh... May mà mẹ không biết. Người ta kịp đưa mẹ đến bệnh viện 'súc' sạch đống thuốc mẹ nuốt vào dạ dày. Nếu không, với cả tôi, mẹ cũng sẽ trở nên bí mật trong cái thể xác câm lặng vĩnh viễn. Mặc kệ tất cả, mặc kệ... Phải tự lập. Tôi đành xin tiếp thị bia. Cũng may người ta chấp nhận ngay vì tôi có một ngoại hình khá. Thực ra công việc tiếp thị bia bọt trong nhà hàng của các cô gái gặp không ít khó khăn. Họ phải làm sao luôn luôn tươi cười mà không lơi lả, đứng đắn nhưng không nghiêm nghị quá... Nói chung, phải thiết lập một khoảng cách cần thiết để tránh sự sàm sỡ của một số thượng đế... mà vẫn mời được khách mua hàng. Một hôm, tôi bị thằng choai choai ngật ngưỡng bất ngờ thọc tay bẹo đùi. Tôi giáng cho hắn một cái tát rồi bỏ việc. Sau cú đó, tôi 'gật' gã. Tôi quen gã cũng chính trong nhà hàng. Gã đợi ai đó. Tôi đến mời gã dùng loại bia của hãng tôi tiếp thị. Gã chăm chú nhìn tôi từ đầu đến chân như thể người ta đang đánh giá cân nhắc một món đồ nào đó mà người ta có dự định sẽ mua với bộ mặt lộ vẻ ưng ý. Sau vài lần như thế, gã bảo muốn có tôi làm 'vợ lẽ', rằng tôi sẽ là bà chủ một cơ ngơi khá. Gã nói về điều đó một cách chậm rãi chính xác từng chữ, dường như để tôi nhận diện sự việc thật rõ ràng trước khi đồng ý hợp đồng với gã. Công bằng mà nói, gã chẳng làm gì để tôi phải ghét. Gã chu cấp cho tôi cuộc sống vật chất thừa thãi, giữ lời hứa để tôi làm 'bà chủ' khu nhà vườn, hàng tháng thu tiền khách trọ, muốn làm gì tùy thích gã không động tới. Chỉ có điều, mỗi lần lên giường cùng gã, cảm giác như muốn nôn ọe bởi nhơ nhớp tiết ra từ chính bản thân. Tôi tập cho mình có thể đánh mất cảm giác, có thể trơ lỳ ra, nhưng không kết quả, chỉ có thể mím môi nhắm tịt mắt lại, chờ đợi lúc gã kết thúc, với luận điệu tự an ủi, rằng gã đã thẳng thắn và sòng phẳng. Còn tôi, cũng đã tự nguyện chấp nhận trò đổi chác chẳng do ai ép buộc, cũng như tự nguyện gục mặt xuống để họa cho mình một kiểu đi lầm lũi. Vân thì khác. Vân có dáng đi rất ấn tượng. Lưng, cổ và đầu đều thẳng khiến những bước đi thanh thoát. Cũng như cách bài trí căn phòng, dáng đi của cô toát lên một sự tự tin và cô đơn quá. Tôi lấy làm lạ lùng. Cốt cách kiêu hãnh kia lại có thể chung chạ với cái mà bản thân mà cô khinh bỉ. Đêm nọ, Vân trở về khá muộn so với thường lệ. Cô có vẻ say, tra mãi chiếc chìa khóa mà không làm được. Lại một sự lạ nữa. Tuy là gái cùng ngồi với khách nhưng chưa bao giờ cô uống. Cô cười nhạt kể: 'Đổ cha nó hết xuống gầm bàn để rồi cứ đầu chai mà chém. Đó là công việc của tụi em mà'. 'Người ta chịu mất tiền dễ dàng thế sao?'. 'Thì cũng phải hy sinh chút đỉnh, quàng tay qua vai hoặc ôm cổ chẳng hạn, cốt nhất là rót vào tai chúng những lời thật trơn. Còn khoản kia 'em' nào đồng ý với khách thì cuốn nhau đến một xó xỉnh nào đó ai mà biết được'... Tôi giúp Vân vào phòng. Cô bảo tôi ngồi xuống, cô kể điều này. Cô ngước nhìn tôi, miệng cười mà mắt lại đang khóc. Những giọt nước mắt không chịu lăn ra cứ tràn trề trong mắt lấp lánh. Tôi nhận thấy ngay, đó không phải là nỗi đau, trái lại, nó đồng nghĩa với nụ cười và còn cao hơn cả nụ cười, đó là niềm hạnh phúc. Hạnh phúc khiến người ta khóc phải là một hạnh phúc lớn lao lắm. 'Ông ấy đã tin tôi. Có một người đã thực sự đau lòng trước hoàn cảnh và số phận của tôi' - Lúc này, Vân như đang nói với chính mình chứ không phải là kể cho tôi nghe nữa. Nhưng tôi vẫn ngồi đó, như thể bị dán chặt xuống chiếc ghế. - Lúc ông ấy bước vào cùng những người khác, thằng đại ca rỉ tai em bảo, phải tiếp đón con người chững chạc kia cho chu đáo. Ông ta là nhà văn đấy. Nhà văn đây cũng cóc cần. Đã bước chân vào chốn này thì cùng họ hàng với nhau cả. Ông ta còn là một ông già cơ đấy. Càng già bao nhiêu lại càng đáng khinh bấy nhiêu. Lúc em bắt đầu dùng khăn ướp lạnh lau mặt cho ông ta theo bài bản, ông liền ngăn lại và bảo. - Con không cần phải làm như thế. - Thì ông đến đây làm gì? - Để biết. Chẳng hiểu sao lúc đó em nổi xung lên, trợn mắt hỏi: - Vậy ông có biết vì sao tôi lại đi làm cái nghề này không? - Ta nghe đây - Ông nhìn em như một người cha độ lượng nhìn đứa con. Và thế là em kể hết, kể cho ông nghe điều kinh khủng mà em đã phải trải qua. Cái điều mà chưa bao giờ em hé răng cho ai biết. Cái nguyên nhân khiến em bán linh hồn cho ma quỷ. Ông ngồi lặng lẽ. Lúc lâu sau, ông rút trong túi áo ngực đưa cho em một chiếc phong bì bảo đó là tiền nhuận bút của ông vừa nhận sáng nay, thế rồi ông đi. Em chỉ còn biết ngồi trơ ra đó, nhìn theo. Ông cúi đầu đi mải miết. Được một lúc thì rẽ sang phố khác, và em chẳng nhìn thấy ông nữa. - Thế đám người cùng đến với ông ấy? - Họ đang say sưa, chỉ bảo vệ ông ấy. Ông ấy hơi bị gàn gàn đấy. - Thế ông không khuyên dạy một điều gì sao? - Không. Ông chỉ bảo, về đi con. Vậy thôi. Nhưng mặt ông ấy lạ lắm, như thể là nỗi đau đớn, em cam đoan với chị đấy, một nỗi đau đớn. Thế là em ngồi đó uống và uống. Chẳng ngon lành gì, đắng lắm, nhưng em vẫn uống'. Một cái gì đó đang vỡ ra. Ngay chính bản thân tôi cũng cảm nhận được. Vân run run mở xách, lấy từ trong đó ra chiếc phong bì, giọng trầm xuống như một lời thì thầm: 'Em đã bán linh hồn cho ma quỷ. Và đây, chính là món tiền chuộc'. Mấy hôm sau, Vân trả phòng. Và ra đi... Không ngờ rằng, một người ở trọ ra đi lại có thể tác động mạnh đến cuộc sống của tôi như thế. Như bị cảm, tôi lên cơn sốt, lúc nóng lúc lạnh, tâm tư thảng thốt. Tôi đóng cửa nằm lì trong phòng, đôi lúc lên cơn mê sảng. Trong cơn mê, tôi thấy mình là một vận động viên trong cuộc thi chạy đường dài. Những người tham dự cuộc thi đang cố gắng để về đích, cái đích dường như ở ngay trước mắt nhưng thực ra vẫn còn xa lắm. Người ta chạy, chạy mãi, kẻ trước người sau. Riêng tôi khó nhọc nhấc những bước chân nặng nề và cuối cùng tôi bỏ cuộc. Vài người chạy qua tôi, nhìn tôi bằng những con mắt xa lạ. Nhưng rồi có một đôi mắt với tôi thân thuộc lắm, đôi mắt với những đường hằn mệt mỏi, đau đáu nhìn tôi. Mẹ! Tôi vùng vẫy, cố tỉnh dậy, nhưng dường như ai đó níu lấy tôi. Gương mặt Vân lòa nhòa. Vân hỏi, bao giờ tôi ra khỏi nhà trọ? Lần này tôi tỉnh được. Đầu nặng trĩu. Cảm thấy ngột ngạt, tôi mở toang cửa sổ. Chiếc lá đỏ rực hôm nào đã không còn. Thay vào đó là chiếc lá xanh non mơn mởn. Có nghĩa, trong lúc tôi trải qua những cơn mê thì chiếc lá đỏ cũng trải qua thời kỳ sống để giã biệt thân cành. Thì ra, những chiếc lá cũng có cuộc sống riêng của chúng. Còn tôi lại không dám sống bằng chính cuộc sống của mình với bao nỗi đau, hạnh phúc và khát vọng... Cũng giống như chiếc lá đỏ trước kia, chiếc lá xanh non rung rung theo gió, như tự giới thiệu mình. Chiếc lá hình con mắt như thể nhìn tôi hỏi, tôi là ai? [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]"Chị em ruột thịt"[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bích Ngân[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hay tin Khả được bác sĩ chỉ định phải cắt bỏ túi mật, Hiên bị choáng. Choáng vì sức khỏe của Khả tệ đến mức đó mà cô, bà chị duy nhất lại không biết gì. Lâu nay Hiên cứ tưởng tướng tá da dẻ cậu em ốm ốm xanh xanh là do nó làm việc nhiều, lại học hàm thụ hết ngoại ngữ đến kinh tế, rồi gồng gánh trách nhiệm một người chồng, một người cha và còn chắt chiu xây được ngôi nhà xinh xinh bên bờ sông rào rạt gió. Hiên choáng còn vì sợi dây ruột rà không rõ từ lúc nào, dường như đã giãn ra đến mức cái đau da thịt của em đã không đau sang chị. Lúc trấn tĩnh, việc đầu tiên Hiên làm là gọi điện thoại cho hai người bạn bác sĩ. A, bác sĩ không có phòng mạch riêng, thú vui sau công việc chuyên môn là làm thơ và chơi nhạc, thì bảo, không còn túi mật, chức năng điều tiết sẽ kém. Khả khó tránh được tâm trạng, dĩ nhiên là không thường xuyên bất an, như đột ngột bị tước mất cảm giác hạnh phúc, nhiều lúc thấy buồn bã bượi và thèm được âu yếm, được khóc hay được một mình lang thang đâu đó. Bác sĩ A còn nhấn nhá, điều Khả cần nhất không chỉ là được làm việc bình thường, ăn uống chừng mực mà là những liệu pháp tinh thần từ phía những người thân. Anh ta còn hỏi, Khả thích trò giải trí nào, âm nhạc, thể thao hay đọc sách. Hiên bảo, lúc nhỏ Khả mê đọc Dế mèn phiêu lưu ký, Những tấm lòng cao thượng, Những ngày xanh... còn bây giờ nó chỉ còn thời gian lướt mắt qua những trang báo. Hồi nhỏ nó mê thổi acmônica nhưng chiếc kèn đang chìm lấp trong tủ lủ khủ đồ chơi của con gái nó. Cái thú chơi nó còn giữ đến giờ là đánh bóng bàn. Liệu không còn túi mật Khả còn có thể tung tẩy với trái bóng ? Anh bạn ậm ờ: "Có thể vẫn còn chơi được...". Hiên nói lời cảm ơn và gác máy. Bác sĩ B, người đặt trân trọng chân dung bán thân của Hyppocrate trong phòng mạch của mình; qua giọng nói tỉnh rụi của anh ta thì xem ra cái sự lo lắng của Hiên chỉ là sự nhạy cảm không nên có. Anh ta cười thành tiếng bảo, chẳng sao cả, cơ thể con người còn chấp nhận, nói đúng hơn là phải chấp nhận những cái thừa, chẳng hạn như... ruột thừa thì cũng có thể chịu đựng được nhiều cái thiếu, như thiếu khả năng sinh con đẻ cái, thiếu may mắn trong cuộc sống lứa đôi, thiếu khả năng làm giàu..., còn trong cơ thể việc khiếm khuyết bộ phận này khác là việc thường. Cậu em Hiên không còn túi mật chẳng có gì là cá biệt. Mỗi ngày Bệnh viện Bình Dân cắt bỏ hàng chục túi mật. Tiếng cười khà khà của bác sĩ B càng làm Hiên thêm rối ruột. Cô xin lỗi và gác máy. Hiên rót đầy ly nước lọc uống cạn, đi đi lại lại trong cái gian nhà thân thuộc của mẹ con cô. Trên bức tường xanh đơn điệu, nơi đặt chiếc bàn vừa viết, vừa đọc, vừa trang điểm của Hiên là khung hình chữ nhật nằm ngang lồng bức ảnh trắng đen của đại gia đình cô thời xa lắc. Ba mẹ Hiên ngày ấy còn trẻ và gầy, Hiên cũng ốm nhom ốm nhách, chỉ có Khả là béo tròn béo trục, miệng cười hết cỡ, chân co lên như đang muốn chạy. Hiên chăm chú nhìn bức ảnh lốm đốm nắng và sáng rực nụ cười rồi mường tượng. Khi không còn cái túi dẻo dai bao giữ, cái chất đắng từ cơ thể của Khả ngấm từ từ vào lục phủ ngũ tạng của nó. Rồi đây Khả sẽ vàng xanh. Nó sẽ mỏi mệt triền miên, sẽ ít đùa giỡn, ít khôi hài, đi đứng không còn hoạt bát và Khả sẽ dễ suy sụp khi bất chợt gặp một cơn mưa, như cơn mưa bất ngờ và dai dẳng từ xế đến giờ. Và điều khó tránh khỏi là khi không còn túi mật, thằng em út của Hiên sẽ giảm thọ. Khả sẽ giảm thọ, điều ấy khiến trái tim Hiên buốt nhói. Cô ôm ngực, ngồi co ro trước cửa sổ, mắt rưng rưng nhìn lớp kính mờ nước, mong trời mau tạnh. Mưa vẫn trút nước rào rào. Nước mưa và con nước lớn từ sông Sài Gòn dềnh lên. Mặt đường ngấp nghé nước. Nhiều chỗ nhiều đoạn nước ngập hơn nửa bánh xe. Người đi bộ phải xắn quần, dò dẫm bì bõm. Hồi bé, ít có trận mưa nào Khả chịu ở trong nhà. Cứ nhào ra mưa nghịch nước và mê đuổi theo những chiếc bong bóng mưa. Hiên cũng chạy theo em, chạy theo vô số bong bóng nhấp nha nhấp nhới khi chỗ máng xối tuôn nước ào ào xuống rãnh nước dưới mái hiên, khi chỗ dòng nước tràn xuống từ bờ mương bờ ruộng. Thỉnh thoảng những chiếc bong bóng mưa vẫn còn len vào những giấc mơ hiếm hoi của Hiên, để khi tỉnh dậy, cô toát mồ hôi và bần thần về sự hiện hữu của những khoảnh khắc, dường như cô lưu lại không nhiều những khoảnh khắc lẽ ra không được xóa nhòa. Hiên gọi vào di động cho Khả. Cô gọi nhiều lần nhưng chỉ nghe tín hiệu bận. Gọi lại chỗ Khả làm mới biết Khả cùng công ty đi trao nhà tình thương cho một gia đình ở Long Khánh. Khi liên lạc được, lúc đầu Hiên không nghe rõ tiếng thằng em trai, lẫn trong đó là lời nói lao xao và tiếng vỗ tay. Có lẽ lễ trao nhà sắp kết thúc và chủ nhân ngôi nhà mới đang xúc động nói lời cảm ơn. Khả tắt máy. Lúc nào cũng vậy, nó sợ cô tốn tiền và dặn đi dặn lại: "Chị chỉ cần nhá máy, để em gọi lại!". Khi Khả gọi và vừa nói: "Em nghe đây !" thì Hiên liền trút cơn giận lên Khả: "Cái kiểu tham công tiếc việc của mày mới ra nông nỗi đó, biết bịnh mà không chịu trị, giờ này còn thong dong lo việc bao đồng trong khi ngày mai phải lên bàn mổ!". Khả cười lớn: "Người có số mà chị, thằng em này còn sống dài dài mà!". Hiên gắt lên: "Sống dài phải sống khỏe mạnh, sống cho đáng sống, còn mày...". Khả chen vào: "Thôi, chị, đừng nổi nóng mau già lắm. Em sắp về, chừng hơn hai tiếng nữa gia đình em mời cả nhà chị dự sinh nhật bé Bi ở nhà hàng Đồi Xanh. Lát nữa gặp nhau chị mặc sức mà mắng nhiếc thằng em này!". Con cháu trong nhà chỉ đủ đếm trên đầu ngón tay nên Hiên nhớ ngày sinh tháng đẻ mỗi đứa. Sinh nhật bé Bi, đứa con đầu lòng của Khả còn hai ngày nữa mới tới. Vợ chồng Khả tổ chức sớm vì đúng ngày sinh bé Bi thì cha nó đã không còn túi mật và có lẽ còn nằm mê mệt trên giường. Mưa tạnh. Đèn giăng giăng. Mặt đường loang loáng nước, ánh sáng, người xe nhộn nhạo ngược xuôi. Hàng cây cổ thụ dọc con đường Tôn Đức Thắng rắc đám bụi mưa xuống tóc xuống vai mẹ con Hiên. Cô thấy lạnh. Cái lạnh của gió, của hơi nước, của bóng đêm nhập nhoạng, của cái không gian vừa được tắm gội và cái lạnh mơ hồ của cả thế gian hối hả và quạnh quẽ. Rồi cái lạnh se sắt từ những chiếc lá mong manh vừa rời cành mà mặt đất thì tối mờ và ẩm ướt. Vợ chồng Khả nhấp nhổm đứng đợi mẹ con Hiên ở trước cổng nhà hàng. Khả vừa dẫn xe cho chị vừa nói: "Nhà hàng cùng một lúc có tới ba tiệc sinh nhật và hai tiệc cưới, sợ chị khó tìm". Bé Bi, nhân vật chính của bữa tiệc không mặc áo đầm, không tết tóc, thắt nơ. Có lẽ được cha mẹ đón từ trường học và đến thẳng nhà hàng nên con bé còn mặc trên người bộ đồng phục thể dục của nhà trường. Bé Bi mập mạp, da trắng hồng, lanh lợi, nghịch ngợm, đã một lần được VTV mời ra Hà Nội tham dự chương trình "Những đứa bé tinh nghịch" và Hiên đã cười ra nước mắt khi thấy cả cái gia đình ấy vừa dạn dĩ vừa lúng túng trước ống kính trong trường quay S9. Khách mời còn có thêm hai đứa bạn thân của bé Bi. Hoa, quà, bánh kem và yêu thương đầy ắp. Bên những ngọn nến lung linh, mọi người cùng với bé Bi hát vang (đúng hơn là gào lên vì ban nhạc của hai đám cưới bên cạnh chơi quá ầm ĩ) lời chúc mừng sinh nhật... Bài hát vừa dứt, bé Bi kéo hai đứa bạn và con gái nhỏ của Hiên đứng dậy, rời bỏ những món ăn vừa được bày ra, lật đật chạy ào về phía lễ cưới xem cô dâu chú rể trong nghi thức thành hôn, nghi thức quen thuộc không thể thiếu trong đời sống lứa đôi dù cho họ có bên nhau đến răng long tóc bạc hay quay lưng ngoảnh mặt giữa chừng. Hiên cũng từng có ngày cưới rườm rà nghi thức và tưng bừng như thế. Chỉ khác là ngày ấy còn nghe tiếng pháo, dù tiếng pháo nổ giục giã vào lúc khách khứa lục tục ra về. Hiên từng trút giận lên đầu Khả vì điều đó. Khả sụt sùi bảo: "Em giấu dây pháo đi vì em không muốn chị lấy chồng!". Hiên vén tay áo chùi dòng nước mắt chảy dài xuống má Khả: "Không có tiếng pháo thì chị cũng trở thành cô dâu mà !". Khả nhìn lên mặt lên tóc Hiên: "Em ghét cả cái mái tóc cứng đờ của chị !". Hiên vội sờ tay lên những lọn tóc xịt keo mà cô đã ngồi hàng giờ với mấy cô thợ uốn tóc ở cái tiệm góc đường gần nhà cha mẹ, nơi treo cái bảng hiệu sặc sỡ với hình cô gái ngửa mặt và chu đôi môi đón chờ quả táo chín mọng. Từ nơi đó bước ra, mái tóc dài mềm mại của Hiên biến thành mái đầu cao ngất nghểu của một bà hoàng, một bà hoàng xa lạ trong mắt Khả. Khả níu tay chị, nài nỉ: "Chị bỏ mái tóc kỳ cục này ra đi, chị đừng có chồng, ở nhà cha mẹ với bọn em vui hơn, chị !". Lúc cánh cửa xe hoa đóng lại và chạy một hồi, những vệt nước mắt ngoằn ngoèo của Khả trên kính xe mới mờ đi vì bụi và nắng. "Chị ăn đi chớ !", Thu, vợ Khả nói và gỡ lớp giấy bạc gắp miếng cá saba thật to bỏ vào chén Hiên. Cô cũng gắp một miếng to như thế bỏ vào chén Thu: "Người cần ăn nhiều là em !". Thu bỏ miếng cá vào miệng nhai ngon lành. Hiên lại gắp một miếng chả tôm bỏ vào chén Thu: "Em phải thật khỏe để chăm sóc Khả !". Nói với Thu câu đó Hiên thấy mình thật lòng nhưng ích kỷ. Cô đã thiếu công bằng và luôn đặt trọng lượng của tình máu mủ lên trên hết. Và không chỉ riêng Hiên. Cả cha mẹ Hiên cũng vướng víu sợi dây huyết nhục nên đã không mở rộng cánh cửa yêu thương để đón Thu, như đón một thành viên ruột thịt của gia đình. Rào chắn trước tiên là sức khỏe Thu. Mẹ Hiên bảo, hình như nghe nói, lúc nhỏ Thu bị hở van tim. Mà cái van trục trặc thì trái tim không thể lành lặn. Và một khi trái tim èo uột thì không thể sinh được những đứa con khỏe mạnh. Cái lý do ấy thuyết phục cha Hiên và cả những người có vị trí và uy tín của họ hàng. Rào chắn tiếp theo là cái nhan sắc mờ nhạt của Thu. Mẹ Hiên so sánh và băn khoăn: "Con bé nó cười mà không tươi chút nào, cười mà như mếu!". Khả không vượt qua nổi hai lớp rào chắn đó để đưa Thu từ xe hoa đường hoàng bước vào ngôi nhà cha mẹ. Thu âm thầm chịu đựng, âm thầm vượt qua và bé Bi là chứng minh cho cái hạnh phúc nhọc nhằn ấy, cho dù chưa một lần cô được làm cô dâu trong ngày cưới. Bé Bi dẫn bạn quay trở lại. Vừa thở nó vừa nói: "Cô dâu mặc áo trắng đẹp hơn cô dâu mặc áo hồng!". Một đứa bạn của bé Bi thêm vào: "Cô dâu áo hồng xấu ỉn !". Thu vội hỏi: "Vậy cô dâu như thế nào mới xinh ?". Cả bọn nhao nhao: "Như nàng Bạch Tuyết !". "Như búp bê Baby !". "Như mấy chị Mắt Ngọc !"... Khả hỏi to: "Như mẹ Thu có đẹp không nào?". Bé Bi rút chân khỏi giày, leo lên đứng trên ghế, đưa nắm tay ra trước: "Mẹ con là người đẹp nhất thế gian này !". Nét đẹp, cái duyên, đại loại là sự quyến rũ của một con người dường như do đôi mắt vừa tinh tường vừa thiên vị của tình yêu định đoạt. Thu cười tít mắt trước những cái hôn dồn dập kêu chùn chụt của cô con gái, cả gương mặt Thu chợt sáng bừng lên niềm hạnh phúc mà Hiên biết mình khao khát. Khả kéo con vào lòng mình: "Vậy còn ba ?". Bé Bi hét lên: "Ba là người đẹp thứ nhì !". Khả đưa ly cụng ly con gái rồi cụng với ly từng người: "Uống chúc mừng mẹ Thu, người đẹp nhất và uống chúc mừng người đẹp thứ nhì sẽ không còn túi mật !". Mặt bé Bi nghệch ra, ngơ ngác hỏi: "Ủa ba nói cái gì, cái gì túi mật, rồi cái gì không còn, con không hiểu ?". Biết mình vô tình "bật mí", Khả vội nói: "Túi mật giống như túi xách, mình có lỡ mất cái này thì mua cái khác thay vào!". Bé Bi không chịu nghe lời giải thích đó, nó thắc mắc: "Nhưng sao lại để cho mất, ba ?". Khả nói nhỏ với con: "Thì... thì có lúc rủi ro chớ con !". Bé Bi gắt lên: "Nhưng con không muốn có cái rủi ro đó !". Con bé vùng vằng xô ghế bỏ đi. Vừa bước một bước nó vấp viên gạch trơn và trượt chân. Vấp ngã tuy không trầy trụa xây xát gì nhưng nó khóc tức tưởi. Nhìn bé Bi khóc, Hiên thấy mắt cay cay. Không chỉ vì dự cảm lo lắng của cuộc phẫu thuật sắp tới mà còn vì tình yêu thương cô dành cho Khả và cho cái gia đình nhỏ của nó. Trong ba đứa em, Khả là đứa gần gũi với Hiên hơn cả. Cha đi biền biệt, mẹ phải cáng đáng công việc của người cha, nên bà không còn nhiều thời gian dành cho chị em Hiên. Chị em dắt díu nhau, đùm bọc nhau. Nhiều lúc Hiên đã làm vai trò của một người mẹ, một người mẹ chín tuổi, cái tuổi của bé Bi bây giờ. Hiên đã bồng ẵm, hát ru, vỗ về, gào thét, sợ hãi và lao đi như một mũi tên trong mưa to gió lớn để tìm bằng được thầy thuốc chữa những cơn sốt nóng giật của Khả. Khả nóng, mê man, nhưng mỗi khi mở mắt là gọi: "Chị ơi, chị đâu ?". Hiên không dám bỏ Khả nằm một mình, cứ quanh quẩn nằm ngồi bên em. Khả sợ bóng tối. Mà ngày ấy bóng tối nhiều lắm. Chỉ cần mặt trời hụp xuống mí rừng là bốn bề tràn bóng tối. Chiếc đèn dầu leo lét chỉ làm nổi rõ những hình thù kỳ dị chập chờn. Rồi vô số những chiếc bóng tưởng tượng. Khả thường có giấc mơ bị chiếc bóng có sức nặng và hình thù quái gở đè đến suýt nghẹt thở. Khả mếu máo: "Chiếc bóng nặng lắm, chị ơi, chị ôm em thật chặt đi !". Hiên vội ôm em vào ngực, cảm nhận rất rõ nhịp đập hối hả của trái tim bé nhỏ. Bé Bi thôi khóc, đòi về, dù ngoài trời còn rỉ rả mưa. Con gái Hiên cũng không chịu về với mẹ mà đòi về nhà cậu Khả chơi với bé Bi. Nó ôm chân Hiên: "Cho con ngủ với bé Bi một đêm đi mẹ !". Bé Bi chạy lại nắm tay Hiên: "Chìu Nhí đi cô, cho Nhí đến nhà con đi cô !". Hiên xoa đầu cháu hỏi: "Nhí đi, cô về một mình, Bi không sợ cô buồn ?". Bi đáp ngay: "Người lớn buồn đâu sợ bằng con nít buồn phải không cô, đúng không ba mẹ ?". Hiên bần thần trước câu hỏi của đứa cháu lên chín. Bé Bi hơn cô nó, hơn ba nó khi hồn nhiên nói ra điều nó nghĩ. Ngày bé và ngay khi đã nếm trải ngọt đắng cuộc đời, nhiều lúc Hiên muốn rúc vào ngực mẹ, sà vào lòng cha, thủ thỉ bao điều nhưng cô và những đứa em cô đã không làm được điều đó. Cả đến nỗi đau da thịt dai dẳng âm thầm của Khả, đứa em mà cô hết mực yêu thương, cô cũng không hay biết. Và như thế, còn biết bao niềm đau của những người ruột thịt, người gần gũi cứ chơi vơi đâu đó, lửng lơ đâu đó và khó có thể tìm được một địa chỉ để dừng, để san sẻ. "Cô, cô cho Nhí sang nhà con nghen cô ?”. Bé Bi nhắc lại yêu cầu. Hiên và vợ chồng Khả đành chịu thua cái lý lẽ đầy thuyết phục của đứa trẻ. Vợ chồng Khả cùng hai đứa trẻ lên xe và trùm chiếc áo mưa lên cho cả bốn người. Trước khi cho xe phóng đi, Khả ngoảnh lại nhìn bà chị đứng chơ vơ bên vỉa hè. Hiên lặng lẽ nhìn theo thằng em gồnh gánh cái rờ-moọc yêu thương cho đến khi chiếc xe mất hút trên đường. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cổ tích[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phan Hồn Nhiên[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tôi chạy một mạch từ ngoài phố vào trong phòng cậu Vũ. Cậu tôi đang tỉ mẫn mài mấy ngọn bút chì. Mắt tròn mắt dẹt, tôi lắp bắp thông báo cái tin sốt dẻo: Chị Linh Lan đẹp nhất trường tôi là con gái bà chủ quán phở mới chuyển về đầu ngõ. Ðáp lại nhiệt tình của người đưa tin, cậu tôi chỉ ậm ừ trong họng vài tiếng rồi lại chúi mũi vào đám viết chì đen kìn kịt. Tôi ở với bà ngoại và cậu Vũ trong ngôi nhà nhỏ cuối hẻm. Bà ngoại gọi tôi là con ma xó vì chuyện gì trong ngõ tôi cũng biết. Cậu Vũ thì ác miệng hơn, cậu không hề kêu tên thật của tôi bao giờ mà chỉ gào lên: “Con Tí Trụi đâu rồi?” mỗi lần cậu nháo nhào đi tìm sách vở và nhất định đổ riệt cho tôi cái tội bừa bãi. Tôi không xem cậu là thần tượng vì số lần bà ngoại mắng cậu ta trong một ngày cũng sấp xỉ số lần của tôi. Thế nhưng tôi không thể nào hình dung tuổi nhỏ của mình mà thiếu vắng những chuyện thần thoại, viễn tưởng mê ly lẫn những câu chuyện bịa vô duyên cậu kể khi tôi đồng ý rửa bát hộ cậu. Ngồi bó tròn trên cái bàn ngổn ngang bản vẽ và bút thước, tôi quên đi mình là con Tí Trụi tóc thưa để chu du cùng chú lính chì trên con thuyền giấy, hay kỳ diệu hơn tôi thấy mình hóa thành công chúa mồ côi được bầy thiên nga che chở. Lắm khi câu chuyện của cậu hết đã từ lâu mà tôi tưởng mình đang bay cao trong bầu trời nhỏ hình vuông ngoài ô cửa. Ðã được mấy tháng từ ngày nhà chị Linh Lan chuyển về đầu ngõ, một chiều nọ, cậu Vũ nháy tôi vô bếp. Cậu thì thầm: - Tí Trụi ủi cho cậu chiếc áo chemise mới may nhé! Tôi nhảy dựng: - Chi vậy cậu? Cậu khuỳnh khuỳnh hai tay: - Chị Linh Lan mời cậu đến chơi nhà. - Ðến quán phở à? – Tôi nhăn mặt. - Không đâu Tí Trụi ơi - Cậu hất cằm lên nóc bếp - mời vào phòng khách chứ. Khi cậu Vũ có ngườI yêu, thần thoại và cổ tích cậu kể cho tôi bắt đầu thay đổi. Nếu trước đây cậu hay mở đầu bằng câu: “Giả bộ công chúa tội nghiệp là Tí Trụi nhé” thì bây giờ cậu sẽ nói: “Hãy tưởng tượng đi! Nàng tiên dịu dàng là chị Linh Lan, còn hoàng tử đẹp trai là … cậu! (?).” Tôi thường bịt mũi mỗi khi nghe câu mào đầu ấy. Chị Linh Lan nhỏ nhắn với cái cằm nhòn nhọn làm tiên thì đúng rồi, chứ cậu Vũ tóc dựng đứng thế kia mà đòi làm hoàng tử thì thật xấu hổ. Thế nhưng ở ngoài đời thì tôi tin cậu xứng vớI chị Linh Lan lắm bởi bà ngoại tôi vẫn nói: “Trai tài gái sắc.” Bà tôi nói đâu trúng đó, còn cậu Vũ lại học cực giỏi, trong xóm chẳng ai bì. Học hết năm cơ bản, cậu tôi nhận học bổng du học nước ngoài. Áp mặt vào cánh cửa kính ở sân bay, tôi nhìn theo mái tóc bướng bỉnh dựng đứng của cậu nhấp nhô trong đám đông xanh đỏ. Cậu tan vào dòng người mà không ngoảng lại. Tôi hiểu cậu sợ những giọt nước mắt chảy dài trên gương mặt Linh Lan. Tôi học cấp ba ở trường ngày xưa cậu tôi học. Chị Linh Lan thôi học đã từ lâu nên hàng ngày tôi đến lớp một mình. Cứ hai tuần một lần, trong lá thư huyên thuyên đủ thứ về bà ngoạI lẫn chuyện học hành, tôi không quên kể cho cậu nghe về Linh Lan mặc dù tôi biết hai ngườI vẫn đều đặn thư từ. Cho đến bây giờ tôi vẫn lạ lùng chẳng hiểu sao tôi lại có thể yêu quý chị Linh Lan nhiều đến vậy. Trái tim của tôi từng được cậu dạy dỗ bằng cổ tích giàu thương yêu nên phải chăng vì thế mà nó cứ lo lắng từng giờ cho công chúa khi chàng hiệp sĩ đi xa. Tết đầu, cậu Vũ vắng nhà, tôi theo chị Linh Lan về một thị trấn nhỏ thăm họ hàng. Vắt vẻo trên chiếc xe ngựa đậu ở bãi chờ đủ khách, tôi chốc chốc lại ré lên cười. Tôi cười được ở bên cạnh chị, chạm tay vào tà áo lục mướt mềm. Trong bụi tung mù mịt, chị cũng thoảng cười chớp chớp hàng mi, tiếng trẻ con thị trấn í ới gọi nhau làm con ngựa kéo xe chồn chân giậm móng cồm cộp. Bà tôi về nhà trong một buổi cuối năm chợ hàng nhộn nhịp. Bây giờ mỗi khi gặp lại màu hoàng hôn đỏ tím như cái chiều chập choạng ấy, tôi lại buồn và sợ đến tái lòng. Cơm nước xong bà ngoại thở dài và ngồi quạt nhè nhẹ trên cái sập gỗ. Bà tôi chép miệng khẽ khàng: - Cô Tư bán phở sắp gả con Lan cho thằng Khánh kim hoàn đấy Hương à. Sáng nay cả chợ đồn ầm lên. Họ bảo cô Tư cho cưới trước Tết. Tôi không nghe bà ngoại nói hết. Tôi cuống cuồng bỏ vào ngồi nơi xó bếp tối đen. Ðưa tay lên cổ, ngón tay tôi bất giác đụng vào cái tượng Phật bằng vàng mà ngoại tôi dẫn tôi ra mua ở tiệm chú Khánh chột mắt da đen nhờn … Mắt tôi ráo hoảnh mở căng nhức nhối. Tôi muốn cậu tôi về dẫn tôi ra khỏi khung cảnh của một chuyện thần thoại bi thảm. Tiết lạnh cuối năm lẫn mùi tro bếp lưu cữu khiến thân tôi khô cứng. Những lá thư tôi viết cho cậu Vũ giờ rất ngắn. Tôi không đã động đến Linh Lan nữa. Sau nhiều biến động, cậu tôi ở lại làm việc ở đất nước mà cậu đã học tập. Cậu không về như tôi đã mỏi lòng mong. Một cái Tết buồn buồn tiếp đến sau đám cưới chị Linh Lan. Ngày mồng ba, tôi một mình lên xe đò về thị trấn nhỏ rồi đón xe ngựa như buổi xuân nào. Ngồi yên trên tấm vải nhựa cũ nát trải sàn xe, tôi lau giọt nước mắt to tướng nơi khóe mắt. Tôi không hề khóc lần nào từ ngày cậu tôi đi vắng. Tôi đã hai mươi. Tôi biết những điều kỳ diệu bỏ đi khỏi thế giới của tôi ngày càng nhiều. Tôi đa nghi hơn vì sợ bị tổn thương như dạo ấy. Tôi dửng dưng đi qua mọi nỗi buồn vui của mọi người. Nhiều đêm, tôi nhìn vào mắt tôi lạnh lẽo trong gương. Có lẽ tôi đã thành người lớn.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ca ve xóm núi[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Đình Tú[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Tiên rất sợ cái câu thơ định mệnh Đến khi thác xuống làm ma không chồng nên cô đã phải chọn sẵn cho mình một ngôi mộ đá để khi nằm trong đó mới thực sự cảm thấy vững chãi, thực sự cảm thấy bình yên. Cái mùa đông đó cách nay đã bốn năm rồi. Khi ấy Hoàng còn được coi là một phóng viên trẻ, cần phải khẳng định mình trước sếp và đồng nghiệp. Tờ báo mười sáu trang “ngốn” bài ghê gớm. Mà báo chí chưa bao giờ lại ra nhiều như bây giờ. Viết mãi thì cũng phải hết. Xã hội muôn màu muôn vẻ, muôn tầng muôn vỉa nhưng cào mãi thì cũng nhạt, đào mãi thì cũng kiệt. Thế nên cánh phóng viên trẻ như Hoàng hễ có cơ hội là mò đi vùng sâu vùng xa, lặn lội tới miền núi hải đảo. Dù sao bài cũng dễ được in hơn, lại không bị coi là “rặt một thứ câu chữ cớm nắng”. Nhưng đó cũng chưa phải là lý do chính để Hoàng quyết định mò lên cái cổng trời Quán Bù ấy những mười lăm ngày để rồi về toà soạn cũng nộp được cái phóng sự đi ba kỳ, càng đọc càng thấy nhạt hoét. Lý do chính là sự “nhờ vả” của Vi! Em gái Vi đang học năm thứ ba trường Mỹ thuật công nghiệp. Nhà trường tổ chức đi thực tế. Chả hiểu có một ai đó nói rằng Quán Bù có rất nhiều tam giác mạch, thế là đám sinh viên rồ lên, cứ đòi mò lên cổng trời bằng được để vẽ hoa tam giác mạch. Vi bảo Hoàng: “Lần đầu tiên nó đi xa. Mẹ em đứng ngồi không yên. Anh đi với nó ít hôm để mẹ em yên tâm. Nếu anh không đi thì em phải đi. Nhà chỉ có hai chị em gái. Anh lại là nhà báo, đến đâu cũng quan hệ được. Ở nơi núi rừng heo hút ấy, có anh đi cùng nó, em và mẹ đỡ lo hơn nhiều. Anh đi nhé?!” Ừ thì... ý Vi là mệnh lệnh đối với Hoàng lúc này. Mới chớm yêu mà. Tình yêu đòi hỏi con người ta phải “thể hiện”. Thứ tình kỳ lạ ấy lại vừa mới nhen nhóm lên trong Hoàng, tất nhiên, trong cả Vi nữa. Thế là chưa nhờ đã nhận, chưa hỏi đã gật. Đám bạn sinh viên của em gái Vi cũng đều “chất nghệ đầy mình” cả, thế nên có thêm một anh nhà báo đi cùng đối với họ chỉ thêm vui chứ không thêm phiền. Hoàng thực sự thấy thoải mái trong chuyến đi cực bắc này. Mấy ngày đầu Hoàng còn hăng hái vác bảng gỗ, giấy vẽ, hộp màu, túi bút, palét, xô, thùng đi theo đám sinh viên mỹ thuật mò vào các bản làng, chốn chợ phiên, đến các địa danh lạ tai như Núm Vú Cô Tiên, Hang Gà, Khu mộ cổ, Suối Tầm Gai, Cây Si Bảy Gốc... Sau thấy chán, lại không hiểu gì về bố cục, gam màu, hình khối của các bức ký họa, phong cảnh, chân dung nên bảo em gái Vi: “Mai anh bắt đầu hành nghề của anh, tạm thời chia tay nhau một ngày nhé. Em nhớ đi cẩn thận!” Khi em gái Vi cùng đám bạn của cô cổ mang, tay xách khuất sau Núm Vú Cô Tiên thì việc đầu tiên là Hoàng vào Phòng giáo dục huyện. Lên vùng cao, cái có thể viết được nhất có lẽ là sự dạy và học. Sau khi nắm qua vài ba số liệu cần thiết, Hoàng gật gù cảm ơn Phó phòng giáo dục huyện rồi thuê xe ôm đi vào các xã, lê la đến các điểm trường. Về đến nhà cũng sẩm tối, người mệt bã ra. Em gái Vi vẫn chưa về. Có lẽ cô bé đã ở lại một bản nào đó. Đám sinh viên này rất mê ở lại qua đêm với một bản người Dao hay người Mông để thực sự được “hết mình” với những nét phác thảo ẩn chứa đầy ý đồ nghệ thuật của họ. Hoàng đã từng đi với những nhóm sinh viên mỹ thuật như thế này đôi ba lần. Có lần đi cả với đám Mỹ thuật Yết Kiêu nữa. Khi họ đã “máu” lên thì dù có bị coi là rồ dại họ vẫn làm theo ý mình. Buổi tối dường như lạnh thêm. Nhà trọ lại không có phòng tắm nước nóng. Hoàng lang thang ra phố huyện tìm dịch vụ tắm nóng lạnh. Phố núi buồn hiu hắt. Khi chưa lên đến đây thì hai từ “Cổng trời” có sức hấp dẫn ghê gớm. Sau cổng trời sẽ là thiên đình, là nhà trời, là xứ sở của những vua Mông, hoa hậu Mường, của thầy mo, của bùa ngải và vô vàn những điều kỳ bí giấu sau những nếp nhà mái gỗ tường trình ẩn mình bên thung núi. Trước đây Hoàng cũng đã từng run rẩy khi lần đầu tiên được nghe thông báo xe sắp lên cổng trời Quán Bù. Từ cổng trời lại được nghe hướng dẫn rằng xe đang chạy xuống một thung lũng nơi đặt trung tâm huyện lỵ, và trước khi vào thị trấn Quán Bù mọi người sẽ được chứng kiến một kỳ quan của tạo hóa, đó là Núm Vú Cô Tiên. Quả là mọi người đã “ồ” lên thích thú khi nhìn thấy hai trái núi đất vồng lên như hai mâm xôi, đều đặn, cân đối như một “đôi gò bồng đảo” ngay bên cạnh con đường chạy qua thị trấn. Lần ấy xe chạy qua Quán Bù lên cao nữa chứ không dừng lại ở phố núi này nên Hoàng chưa có dịp được nhìn thật gần Núm Vú Cô Tiên. Còn lần này thì coi như Hoàng đã khám phá xong cái thị trấn dưới chân cổng trời. Nếu theo lối tư duy cổ tích thì “Thiên đình” hay “Nhà trời” có tên là Quán Bù này chẳng có gì đặc biệt, nó giống như bao phố núi khác, chỉ có vài ba dãy phố, một cái chợ vùng cao, một ngôi trường nội trú, đôi dãy nhà trụ sở công cùng số dân cư thưa thớt của nhiều sắc tộc. Thời tiết thì sáng lạnh, tối lạnh, trưa nóng. Không phải một bản làng phình to mà cũng chẳng phải một thành thị thu nhỏ như ở dưới xuôi. Nó có những nét rất riêng của nó. Dường như ở đây cái gì cũng một và chỉ một mà thôi. Một quán cơm phở bình dân. Một cửa hàng kính mắt. Một nhà tắm nóng lạnh. Một quán bánh cuốn. Một cửa hàng sửa xe ngựa. Một nhà thuốc bắc. Một quán thắng dền... Nó là Xóm núi. Cách gọi ấy phù hợp với nó hơn cả. Đúng với nó hơn cả. Nghĩa là với những người như Hoàng thì không thể ở đây lâu được. Ngay cả với những người như cô em gái Vi cũng thế. Họ chỉ đến đây chơi, xem, vẽ vời, làm thơ và viết báo chứ không thể ở đây được. Hiu hắt kinh khủng. Buồn chán kinh khủng. Tẻ nhạt kinh khủng. Và hơn tất cả là một cái gì đó thất vọng kinh khủng. Ngay cả “kỳ quan của tạo hóa”, tức Núm Vú Cô Tiên cũng mất đi vẻ đẹp gợi tình của nó khi bàn chân Hoàng đặt lên tới đỉnh một trong hai núm vú đó. Nhìn xa thì tròn trịa, mịn màng, lạ lẫm, đẹp đẽ là vậy. Nhưng đến gần thì loang lổ những vết cào xước, màu xanh của cỏ lẫn với những đường rãnh, khe nứt, những vùng đất đá lổn nhổn trông thật nhức nhối. Lật xới lớp vỏ cổ tích lên là điều tệ hại nhất đối với loài người. Hoàng đã có lần chiêm nghiệm rằng: Nếu có thể, thì, đừng bao giờ vừa nghe chuyện cổ tích lại vừa làm người lớn. Vậy mà Hoàng lại lạc vào thế giới cổ tích của Quán Bù ở cái tuổi hai mươi nhăm. Tuổi ấy nhiều ước mơ nhưng cũng hay thất vọng. ... Đi gần hết dãy phố mà vẫn chưa tìm thấy nhà tắm nóng lạnh đâu. Đang ngó nghiêng thì cái biển hiệu “Gội đầu Xóm Núi” đập vào mắt Hoàng. Chắc chắn đây cũng lại là cái quán duy nhất ở phố núi này. Một tí tiểu tư sản bỗng bốc lên trong Hoàng. Cũng nên thử xem con gái xóm núi gãi đầu, vỗ trán, mát xa mặt ra sao? Hoàng vén tấm mành nhựa buông trước cửa, lách người vào. Trước mắt Hoàng là một thứ dịch vụ hơi có phần... hổ lốn! Gian quán không rộng lắm vừa để ghế gãi, giường xả cho khách gội đầu lại vừa được dùng để bán cà phê; vừa bày bán mấy củ tam thất, nấm linh chi, thảo quả lại vừa cả làm dịch vụ váy áo cô dâu, trang trí đám cưới nữa. Và đèn mờ. Không gian của quán chìm trong ánh đèn mờ pha màu tím ngắt. Quán vắng tanh. Từ sau tấm màn ri đô ngăn quán với góc trong cùng, một cô gái vén rèm bước ra. - Anh uống nước hay gội đầu? Trước khi nghe trọn tai câu hỏi ấy Hoàng kịp nhận ra cô chủ quán rất xinh đẹp và... đặc sệt chất miền xuôi. - Cả hai. - Quán em có thể phục vụ được cả bốn trong một cơ. Nào, bây giờ anh lên ghế em gãi. Hoàng thấy thú vị trước cái cách đùa của cô gái. Anh hỏi lại: - Anh không muốn gội đầu trước thì sao? - Uống nước với một cái đầu ngứa ngáy thì sẽ không thoải mái đâu. Thôi nào, em biết là anh cần gội đầu trước mà, anh ngồi vào ghế đi. Cô gái quấn tấm vải quanh cổ Hoàng rồi hỏi: “Anh dùng dầu gì?”. Hoàng không trả lời mà hỏi lại cô ta: “Em giỏi thật. Thế em còn biết gì về anh nữa?” - Anh là thầy giáo hướng dẫn đoàn sinh viên thực tập phải không? Hoàng không trả lời, lặng lẽ nhận cái danh vị mà cô gái muốn khoác cho anh. Đúng hơn là anh không muốn thanh minh. Và đó quả là một buổi tối thú vị. Cô chủ quán tên Tiên. Hai mươi ba tuổi. Quê Tuyên Quang. Lên Quán Bù được hai năm rồi. Lý do: Nuôi em ăn học. Những ngày sau đó, mỗi khi em gái Vi cùng chúng bạn xách bảng vẽ vào bản là Hoàng lại ra quán Tiên ngồi. Bỗng tìm được một người trò chuyện ở cái chỗ chẳng có việc gì mà làm như thế này, đối với Hoàng kể cũng bớt đi phần nhàm chán. Tiên lại là người hay chuyện. “Anh bảo anh ở đường Đê La Thành à? Thế anh có biết quán Mây Chiều gần Ô Chợ Dừa không? Không à? Tại sao em lại biết á? Biết chứ! Trước em xuống làm cho dì em ở gần đấy mà. Sao bây giờ lại chuyển lên xó núi này á? Vì hai đứa em của em học nội trú ở đây. Sao lại chuyển được về đây học á? Chú em làm ở ủy ban mà. Dưới Tuyên Quang không có điều kiện học nên chú xin cho cả hai đứa lên trên này. Em phải đi theo chúng nó. Bố mẹ em á? Buồn lắm. Tai nạn nên mất sớm cả rồi. Em á? Em chỉ được học đến lớp tám thôi. Rồi em theo dì xuống Hà Nội, ở đó vài năm thì lên đây. Có buồn không á? Cũng phải quen thôi. Lấy chồng á? Thôi, còn lấy gì nữa, chỉ mong hai đứa em học xong rồi em bỏ hết mọi thứ lại để đi. Đi đâu á? Không nói được, mà có nói anh cũng chả tin. Có tin á? Thôi, em không nói đâu...” Cứ thế, mỗi ngày cô gái tên Tiên lại rủ rỉ vào tai Hoàng những chuyện rất quen mà lại rất lạ như thế. Hoàng không phân định nổi trong khối chuyện mà Tiên nói có bao nhiêu phần trăm sự thật, nhưng rõ ràng là ít nhiều nó có sức ám ảnh đối với người nghe. Có thể cái khứu giác báo chí trong Hoàng đã gửi thấy mùi “sự kiện” ở chuyện đời của cô gái này, cũng có thể Hoàng quá ngây thơ và ủy mị trước một nhan sắc biết nói dối, nhưng dẫu sao thì cũng phải thừa nhận Tiên và những câu chuyện của cô hấp dẫn Hoàng. Một lần Tiên hỏi: “Anh có máy ảnh à? Chụp cho em một kiểu được không?”. Hoàng gật đầu: “Ôkê! Em muốn chụp ở đâu?”. “Ở núi Cô Tiên, chỗ giữa hai...” - Núm vú? Tiên khẽ gật đầu, miệng tủm tỉm cười. Thế là buổi sáng hôm ấy Tiên nhờ em gái trông hàng rồi diện đẹp, cùng Hoàng đi bộ ra Núm Vú Cô Tiên. Hoàng chụp cho Tiên bốn, năm kiểu liền, sau đó lại còn cao hứng kể cho Tiên nghe sự tích núi Cô Tiên nữa. Tất nhiên câu chuyện hoàn toàn do Hoàng bịa đặt. Câu chuyện ấy trong một phút ngẫu hứng đã được Hoàng nghĩ ra, nội dung của nó đại loại như thế này: Ngày xửa ngày xưa có một nàng tiên nữ rất thích mây gió trăng hoa. Nàng thường ngao du với các vị nam thần, nhất là các sơn thần ngụ ở hạ giới. Thế rồi nàng tiên nữ ấy mắc một thứ bệnh không thuốc nào giải nổi. Bệnh ấy bắt đầu từ cơ quan sinh dục, cứ thế phát triển lên khắp cơ thể, đầy mình tiên nữ chẳng mấy chốc xuất hiện những vết bầm đỏ, những vết này sưng tấy, làm mủ, vỡ ra và nhiễm trùng. Đến một ngày kia, bệnh nặng quá, tiên nữ bay về trời để tìm thuốc chữa nhưng cô cất mình lên đến cổng trời thì mệt quá rớt xuống thung lũng Quán Bù và chết. Thân xác cô nằm phơi giữa thung sâu, theo năm tháng phân hủy đi nhưng riêng có bộ ngực thì hoá thành hai trái núi đất. Ngọc Hoàng Thượng Đế cho thái y đến khám nghiệm, chỉ thấy bộ ngực của tiên nữ có nhiều vết cào xước, bầm nát mà không phát hiện ra được nguyên nhân cái chết của tiên nữ nọ. Sau khi tiên nữ chết được một thời gian, dưới hạ giới các sơn thần đã từng quan hệ với nàng tiên này cũng lần lượt mắc chứng bệnh lạ. Thân thể họ hao mòn, trí lực họ giảm sút, phép thuật họ mất linh, họ không còn làm được những công việc họ phải đảm nhiệm nữa. Rồi họ đổi chính thành tà, bỏ thánh làm ma, dùng thuốc quỷ thay thuốc tiên. Nhiều vị trong số họ đoản số trước ngày giờ ghi trong cuốn sổ đặc biệt của Nam Tào - sổ cai quản các vị nam thần. Ngọc Hoàng Thượng Đế thấy vậy vội sai người điều tra, kết quả cho thấy các nam thần này đều mắc chung một chứng bệnh với tiên nữ nọ, vợ con của họ cũng đang có nguy cơ mắc bệnh theo. Ngọc Hoàng lo lắng vội cho gọi Thái Thượng Lão Quân đến để tìm phương thuốc chữa trị chứng bệnh nan y đang làm điên đảo quân thần Nhà Trời. Lão Quân dùng lò bát quái luyện linh đan thần dược nhưng nghe ra thần dược không trị nổi bệnh quỷ, thuốc tiên không cứu được ma trùng. Lão Quân tâu lên rằng, bệnh này do chuyện sinh hoạt nam nữ mà ra, muốn trị bệnh chỉ còn cách cấm trai gái chung đụng mà thôi. Vì thế Nhà trời sau ba vạn chín nghìn năm thì tuyệt chủng. Bây giờ quân thần nhà trời đều đã tan vào hư vô, chỉ còn hai trái núi đất ở cửa ngõ nhà trời là chứng tích còn lại của giống thần tiên mà thôi. Sau này con người ở dưới hạ giới cũng đã tràn lên trời để ở. Vì thế Quán Bù mới được gọi là Cổng Trời, và hai trái núi đất kia mới được gọi là Núm Vú Cô Tiên... Câu chuyện kể có dụng ý của Hoàng lập tức gây tác dụng. Mặt Tiên tái đi. Những nét đẹp trên khuôn mặt cô trở nên u ám như có vầng mây đen che phủ. Tiên đòi về. Hoàng cảm thấy áy náy vì mình đã đùa ác với Tiên. Rất có thể những tháng ngày Tiên ở Hà Nội có điều gì đó uẩn khúc, nhưng Hoàng lại đem câu chuyện ẩn dụ trên ra kể cho Tiên nghe thì tàn nhẫn quá. Mặt trời đã lên cao và những đám mù mây không vượt qua nổi cổng trời bắt đầu lẫn vào đám cây tạp, rã ra, tan loãng trong sắc xanh nơi triền núi. Hoàng đưa Tiên về theo lối khu mộ cổ. Có vài ngôi mộ hình thuyền được xây bằng đá đã ngả màu thời gian đen thẫm. Không biết đó là mộ của người Tàu, người Mông, người Dao hay người Kinh nhưng hầu hết chúng đều có bia hình sừng trâu đặt ở đầu mộ, bên trên có khắc chữ tượng hình. Hoàng tranh thủ chụp mấy kiểu ảnh vì thấy chúng lạ mắt. Bỗng Tiên bảo: “Ngày còn bé mẹ em hay đọc Kiều và có nói đến nấm mộ Đạm Tiên. Không hiểu sao khi lần đầu tiên nhìn thấy những ngôi mộ này em lại nghĩ đến mẹ em và cái nấm mộ của người kỹ nữ sống làm vợ khắp người ta ấy. Em chỉ học đến lớp tám thôi. Có được học Kiều và có nhớ mấy câu thơ ấy. Lần nào đọc đến cái câu Đến khi thác xuống làm ma không chồng em cũng rùng mình. Lên đây ở, thỉnh thoảng em lại ra thắp hương cho mấy ngôi mộ này. Chúng không có chủ đâu anh ạ. Em sống ở đây em biết. Lắm khi em ngồi bên chúng cả buổi. Rồi em cũng nằm xuống một ngôi mộ như thế này thôi. Và chắc gì đã có ai nhang khói cho em?” Hoàng bảo: - Sao Tiên lại nói thế? Nay mai các em Tiên học xong cả nhà sẽ chuyển xuống xuôi chứ chắc gì đã ở lại đây? Tiên cười buồn: - Em sẽ ở đây. Sẽ tự xây mộ đá cho mình. Không hiểu sao em rất thích mộ đá. Nằm trong đó sẽ thực sự cảm thấy vững chãi, thực sự bình yên... Nghe Tiên nói Hoàng thấy hoảng. Tại sao một cô gái đẹp như Tiên lại nói toàn những điều quái gở thế nhỉ? Hôm nay Tiên diện một bộ đồ màu trắng. Tóc cô dài, buông chùng xuống bờ vai nhỏ trông đẹp một cách mỏng manh, yếu ớt. Nét mặt Tiên căng mịn, dáng dấp Tiên thanh thoát, nhẹ nhàng không có biểu hiện gì của một sinh thể đang ủ đầy mầm bệnh. Tại Hoàng quá giàu trí tưởng tượng hay tại khung cảnh này đã khiến Hoàng tự gieo vào lòng mình mối hồ nghi không đáng có? Khi hai người ra tới đường cái thì gặp một thanh niên trạc tuổi Hoàng đứng chờ bên vệ đường cùng chiếc xe máy màu mận chín. Anh ta ăn mặc khá lịch sự, sơmi bỏ quần, cổ cài ca vát, mắt đeo kính cận. Thấy Hoàng và Tiên anh ta cười thân thiện và hỏi rất nhã nhặn: - Hai anh em đi thăm núi về rồi à? Tiên cũng đáp lại một cách vui vẻ: “Vâng, đây là anh Hoàng mới ở Hà Nội lên, còn đây là anh Tuấn bên Phòng văn hóa huyện”. Thanh niên tên Tuấn gật đầu chào Hoàng xong, quay sang Tiên bảo: “Việc em nhờ anh làm xong rồi, đây là giấy biên nhận thu lệ phí của huyện, em cứ việc lấy đá xếp quanh khoảnh đất ấy lại thôi, khi nào thu xếp được thì chuyển cốt cho các cụ” Tiên nhận tập giấy tờ từ tay Tuấn, bảo: “Để em gửi tiền anh”. Nhưng Tuấn quay ra xe ngay, nói với lại: “Để khi khác, bây giờ anh phải về cơ quan có tí việc, em với anh Hoàng về sau nhé” Tuấn đi rồi, Tiên quay sang nói với Hoàng: - Em nhờ anh ấy xin cho phần đất giữa mấy ngôi mộ cổ. Mai này em chuyển bố mẹ em về nằm đấy. Hoàng nói vu vơ: - Ở xóm núi này mà cũng có người đẹp trai nhỉ! Tiên bảo: - Anh ấy quê ở thị xã, mới lên đây nhận công tác được vài năm. Anh ấy tốt lắm. Tiên nói không sai. Hoàng còn được chứng kiến lòng tốt của Tuấn đôi ba lần nữa trước khi rời cổng trời về xuôi. Tuấn đã bỏ ra hai buổi chiều để giúp Tiên xếp đá quanh “sinh phần của các cụ”, và theo yêu cầu của Tiên, Tuấn đã chở Hoàng đi chợ rượu ở bản Lũng Pàn cách cổng trời những bốn mươi cây số. Chợ rượu Lũng Pàn họp phiên theo tháng. Ở đây có đủ các loại rượu của mọi dân tộc. Rượu nấu từ ngũ cốc, rượu chắt từ các loại rễ củ, rượu men gạo, men lá, rượu ngâm các loại, rượu hạ thổ, rượu tự nhiên và nhân tạo... đủ cả! Lần đầu tiên Hoàng hoa mắt vì các chủng loại rượu. Mấy ngày sau đó Hoàng còn được Tiên giúp tìm hiểu thêm nhiều điều về vùng đất dưới chân cổng trời Quán Bù này. Hoàng nhận ra tình cảm của Tuấn dành cho Tiên chính là thứ tình cảm mà anh đã dành cho Vi. Tự sâu thẳm lòng mình Hoàng thấy mừng cho cô gái mồ côi phải lưu lạc từ đất Tuyên Quang lên đây nuôi em ăn học như Tiên. Hóa ra Hoàng nhạy cảm và suy diễn thái quá chứ Tiên đang được cuộc đời trả lãi đấy thôi. Nếu Tiên lấy Tuấn thì đó sẽ là một đôi uyên ương đẹp. Nếu các em Tiên học hành đến nơi đến chốn thì cũng có nghĩa là cô đã trả được hiếu cho bố mẹ mình dưới suối vàng rồi. Và Hoàng còn phải ơn Tiên nữa kia. Loạt phóng sự đi ba kỳ sau này tư liệu chủ yếu do Tiên cung cấp và gợi mở. Và cái mùa đông ấy cũng đã trở thành một ký ức đẹp trong cuộc đời làm báo của Hoàng. Cái mùa đông ấy đã trở thành quá vãng rồi. Bốn năm sau Hoàng mới lại có dịp quay trở lại cổng trời Quán Bù. Vừa đúng bốn năm, cũng lại vào mùa đông... Lần này Hoàng lên cổng trời Quán Bù với nhóm phóng viên của một hãng truyền hình Nhật Bản. Họ đã đọc được cái phóng sự ba kỳ của Hoàng ở một xó xỉnh nào đó và họ mê cái đoạn tả về chợ rượu Lũng Pàn. Mùa đông này họ sang Việt Nam nhờ Hoàng đưa đến phiên chợ rượu độc đáo đó để họ làm phim ẩm thực. Bên họ có một kênh truyền hình chuyên phát những loại phim này. Tất nhiên là Hoàng ôkê ngay. Bốn năm qua đủ biến Hoàng trở thành một phóng viên cứng cỏi. Sự chia tay với Vi cũng làm cho con tim Hoàng dường như trưởng thành hơn. Một anh bạn Hoàng từng bảo: “Không nên dùng từ trưởng thành đối với con tim, nghe nó điêu ngoa lắm”. Hoàng cười khẩy: “Người ta còn gọi là trái tim non, là con tim mù lòa được kia mà. Sao lại không thể gọi là con tim trưởng thành?”. Cô em gái Vi cũng đã ra trường và xin được việc làm ở công ty mỹ thuật Thủ đô. Bức tranh vẽ hoa tam giác mạch của cô bây giờ treo trong phòng ngủ của chị gái mình. Vi và người chồng của cô sẽ nhìn ngắm bức tranh ấy vào những lúc tâm hồn họ thanh thản nhất, và Vi sẽ giới thiệu về lịch sử bức tranh cho chồng cô nghe. Trong câu chuyện của cô chắc chắn sẽ không có cái tên Hoàng xuất hiện với tư cách là người hộ tống tác giả bức tranh. Vi đã không thể lấy một anh nhà báo giỏi mà không có nhà ở Hà Nội, đồng lương lại không đảm bảo hạnh phúc gia đình nên Hoàng đành mất đi cơ hội được treo bức tranh tam giác mạch đó nơi phòng ngủ của mình vào đêm tân hôn. Và sự trở lại cổng trời lần này không phải để tìm một bức tranh tam giác mạch khác thay thế. Điều khiến Hoàng bồi hồi nhất chính là niềm phấn khích được gặp lại Tiên. Đoàn làm phim được thu xếp nghỉ ở Trung tâm văn hóa huyện. Nhận phòng xong, quay ra Hoàng bỗng nhận thấy dáng Tuấn đang đi ở dưới sân. Vẫn cái dáng cao gầy với sơ mi bỏ quần có thắt cà vạt và đeo kính gọng đen y như bốn năm trước đây. Hoàng liền cất tiếng gọi. Cái người ở dưới sân vội ngước mắt lên nhìn Hoàng. Ánh mắt anh ta tỏ ra hết sức ngỡ ngàng. Hoàng cũng đã ngờ ngợ là mình nhầm người. Cậu thanh niên đeo cà vạt đó tiếp tục đi vào lối dẫn lên cầu thang và chỉ lát sau thì anh ta đã xuất hiện ngay trước mắt Hoàng. - Anh quen anh Tuấn à? – Cậu ta hỏi Hoàng. - Ừ, xin lỗi, mình nhầm. - Anh Tuấn chuyển về sở rồi. Em về thay anh ấy. Trước khi anh ấy đi, hai anh em ở với nhau gần hai tháng. Em là Quân. Hoàng vội làm thân: - Mình với Quân ra phố uống cà phê đi. Trước mình có quen Tuấn, nay có dịp lên công tác muốn hỏi thăm cậu ta thôi. Quân gật đầu: - Ở đây chỉ có một quán cà phê duy nhất. Tỉnh lẻ mà. Ngon dở thế nào anh dùng tạm nhé? Hoàng gật đầu: “Ôkê!” rồi khoác vai Quân đi xuống cầu thang gác. Đúng là vẫn quán cà phê của Tiên, vẫn biển hiệu “Gội đầu Xóm Núi”, vẫn tấm mành mành nhựa hai màu xanh, trắng. Khi tấm mành được vén lên thì vẫn là một thứ kinh doang tổng hợp như bốn năm trước đây Tiên đã từng làm. Chỉ có điều, chủ quán không phải là Tiên. Hoàng vội quay sang Quân: - Quán này mới thay chủ à? Quân gật đâu: - Vâng, quán này trước là của chị Tiên. Chị ấy chết rồi. Hoàng kinh ngạc: - Chết rồi? Thế Tuấn...? Quân nhìn thẳng vào Hoàng, đáp: - Anh cũng biết chuyện giữa chị Tiên và anh Tuấn à? Chị ấy chết được hơn một năm rồi. Chết sau ngày đứa em thứ hai của chị ấy vào đại học. Anh Tuấn buồn lắm. Anh ấy rất yêu chị Tiên. Chẳng hiểu sao chị ấy lại không lấy anh Tuấn. Có người bảo chị ấy chết bệnh, lại có người bảo chị ấy tự tử. Anh Tuấn là người đưa xác chị ấy từ bệnh viện tỉnh về chôn ở khu mộ cổ. Có lẽ anh Tuấn là người biết rõ nhất về chị ấy. Nhưng anh ấy không bao giờ nói với ai về chuyện đó cả. Chỉ có một lần anh ấy bảo với em là: “Tiên đã chuẩn bị trước cho cái chết của mình, cô ấy đã xây sẵn một ngôi mộ đá” Hoàng uống vội ly cà phê đắng ngắt rồi cùng Quân ra khu mộ cổ. Đúng là Tiên đã về nằm dưới ngôi mộ đá do chính tay cô chuẩn bị từ trước. Những chuyện mà Tiên nói với Hoàng bốn năm về trước như vẫn còn bên tai anh, như văng vẳng đâu đây giữa nghĩa địa hoang vu, bên những nóc mộ cổ in dấu thời gian này. Tiên rất sợ cái câu thơ định mệnh Đến khi thác xuống làm ma không chồng nên cô đã phải chọn sẵn cho mình một ngôi mộ đá để khi nằm trong đó mới thực sự cảm thấy vững chãi, thực sự cảm thấy bình yên. Bây giờ thì em đã bình yên chưa Tiên ơi? Trước ánh mắt đờ đẫn vì xúc cảm của Hoàng, Quân bảo: “Muốn hiểu về chị ấy, anh cứ về sở gặp anh Tuấn là rõ. Anh Tuấn là con trai của bác phó giám đốc sở đấy, cũng dễ tìm thôi mà” Hoàng mỉm cười chua chát. Quân quên mất Hoàng là nhà báo ư? Việc tìm Tuấn đối với Hoàng có gì là khó đâu. Ngay cả việc xác minh lý lịch của Tiên với cái nhà hàng Mây Chiều đã bị đóng cửa ở gần Ô Chợ Dừa ấy đối với Hoàng cũng chẳng khó gì. Nhưng tìm Tuấn để làm gì? Biết rõ hơn về Tiên cũng để làm gì? Làm sao tìm hiểu cho hết uẩn khúc của mỗi con người trong cái thế gian đầy phức tạp này?! Tiên đã muốn bình yên trong nấm mộ đá kia, những muốn người đời quên mình đi thì cũng chẳng nên xới lật cuộc đời cô thêm một lần nữa. Có chăng là cắm cho cô nén nhang để linh hồn cô khỏi lạnh lẽo nơi lòng đá mà thôi. Hoàng nhìn sang Núm Vú Cô Tiên, thấy câu chuyện tự biên tự diễn của mình sao kinh khủng thế? Nếu ba vạn chín nghìn năm trước đây có một nàng tiên như thế thì bây giờ nàng nằm kia mưa nắng dãi dầu, đắng cay, oan nghiệt quá. Cho nên Tiên mới muốn trốn vào mộ đá để khỏi bị miệng lưỡi người đời nhắc đến chăng? Ngay sáng hôm sau Hoàng rời Quán Bù lên Lũng Pàn và ở lại đó cho đến khi đoàn làm phim quay xong. Trở lại Hà Nội được một tuần thì Vi điện đến cho Hoàng. Vi bảo: “Nghe nói anh dạo này hay la cà ở các quán gội đầu thẩm mĩ lắm phải không? Cẩn thận không các cô ca ve ấy cho anh tiêu đời luôn đấy. Tốt hơn hết là anh lấy vợ đi. Rồi cố đẻ một cô công chúa để làm thông gia với em” Hoàng bảo: “Cảm ơn lời nhắc nhở của em. Đừng lo cho anh nữa. Con tim anh trưởng thành lên nhiều rồi mà” Và Hoàng cúp máy.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cái chết của con Mực [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nam Cao[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Người ta định giết Mực đã lâu rồị Mực là con già hơn trong hai con chó của nhà. Nhưng cũng là con nhiều nết xấụ Nó tục ăn: đó là thường. Nó nhiều vắt: cái ấy đủ khổ cho nó. Nó cắn càn ấy là cái khổ của bọn ăn màỵ Nhưng nó lại sủa như một con gà gáy: cái này thì không thể nào tha thứ được. Thoạt tiên người ta định ngày chết cho nó vào dịp Thanh Minh. May cho nó hôm ấy bà chủ nhà bị ốm. Rồi thì là Tết tháng năm. Bỗng nhiên đứa con út của bà ươn mình: bà phải kiêng để lấy sữa lành cho con bú. Sau cùng người ta nhất định thịt nó vào rằm tháng bảy ai ốm mặc. Nhưng lần nầy Mực vẫn còn thoát nạn là vì nhờ có Dụ Người con cả xa xôi ấy vừa viết thư báo chẳng bao lâu sẽ về. Bà mẹ mừng như tìm được một vật quý bị rơi và bà nhất định lùi ngày xử con Mực lạị Bây giờ thì Du về rồị Chiều hôm qua con người phóng đãng ấy đã khệ nệ xách cái vali rất nặng bước vào sân, miệng mỉm cười và mặt đỏ. Cái nhà tranh, mấy cây cau hình như vừa đúng thẳng hơn lên để chào chàng. Rồi đến lũ em ầm ỹ đẩy mành chạy òa ra, và bà mẹ mừng quá cười và khóc. Nhưng kẻ lên tiếng trước nhất là con Mực. Con chó già nua ấy rít lên cái thứ tiếng gà gáy của nó và chạy lại Dụ Bà mẹ thét lên và lũ em chửi những câu thô tục. Du bỡ ngỡ nhìn mọi ngườị - Hình như mẹ không được khoẻ, ồ các em đã lớn cả rồi: Thanh, Tú, đứa nào đâỷ à, Thảo con chuột nhắt, trông Thảo xinh quá nhỉ? À! Con Mực, vẫn con chó ngày ấy đấy à?... trông nó già đi tệ!... Con chó đã nhận ra người chủ cũ. Nó đứng lặng vẫy đuôi, đầu cúi xuống, hai mắt nhèm ương ướt nhìn đất như tủi phận. Du thương hại: đó là người bạn lặng lẽ thui thủi bên chàng những năm xưa khi đêm vắng, chàng ngồi nhìn trăng mà oơ mộng. Chàng muốn cúi xuống vuốt vẹ Nhưng nó bẩn ghê gớm quá, lông rụng từng mảng, thịt trắng lộ ra có nơi sần mụn nữạ Dáng điệu thì già nua, có vẻ buồn và len lén như phòng bị một cách yếu ớt. Không còn những cái vẫy đuôi mạnh dạn những cái nhìn rất bạn bè và những cái hít chân vồ vập như khi một con chó đã vui và không ngờ vực. Du thấy lòng nằng nặng. Chàng đưa chân chạm khẽ vào con chó để tỏ tình thương. Con chó vẫy đuôi mạnh hơn nhưng len lén lánh ra: dáng điệu một kẻ sợ hãi cố cười với người nó sợ. Và tức khắc nó vặn vẹo mình và rít lên một tiếng ngắn và to; đứa em tưởng anh đá hụt trả thù cho anh bằng một cái đá mạnh vào sườn con vật. Nó lấm lét lảng dần cũng không dám chạy một cách thẳng thắn để đi trốn nữạ Du trách em: - Sao Tú ác thế? - Cần gì, đến mai giết thịt cho anh ăn đấỵ Du thấy cái vui đoàn tụ giảm hẳn đi một nửạ Hình ảnh con chó ghẻ với cái buồn mơ hồ cứ lảng vảng trong óc chàng mãi mãị Sáng hôm sau lúc ăn cơm chàng thoáng thấy nó đi qua, đầu cúi mắt nhìn nghiêng như những người giả trá. Chàng muốn gọi nó vào kẹp nó vào giữa hai bàn chân và vừa ăn vừa vẩy cho nó miếng cơm chung một bát. Nhưng mà không thể được: dịu dàng quá là yếu tâm hòn, và ai hiểu được rằng mình lại có thể yêu thương một con chó bẩn ghê gớm như thế được? Bữa ăn xong, con Hoa cầm bát cơm ra: một tay nó xách cái thúng như để rồi xếp bát. Thấy được ăn, tất cả thú tính của con Mực hoàn toàn nổi dậỵ Nó nhảy tới vẫy đuôi hếch mõm nhìn và đợị Cơm vừa đổ xuống nó vội vàng chúi mõm ăn ngaỵ Miếng chưa qua cổ thì cái thúng đã chụp quanh trên mình. Nó rít lên, vùng mạnh; nhưng Hoa đã tì cả người lên cái thúng rồi, và con Mực bị thu gọn ở trong vừa vặn đến nỗi không còn giẫy và kêu được. Lũ trẻ con réo ầm lên. Người ta lấy sẵn dao thớt và dây để tróị Phần mở thứng đã đành phải về Du: ông chủ đi vắng, cả nhà chỉ có chàng là đàn ông, mà không lẽ đi mượn hàng xóm trói giùm một con chó đã úp gọn gàng chỉ việc hơi hé cạp thúng lên, hễ chó thò đầu ra thì một đứa em đặt gậy lên cổ nó để chân chàng dận xuống. Nhưng tay chàng thấy run run. Và khi con chó vừa thò đầu ra thì nó quẫy luôn một cái mạnh, vùng ra được. Con Hoa tủm tỉm cườị Lũ em ngơ ngác nhìn theo con chó vừa ẳng ẳng vừa chạy ở ngoài vườn. Còn Du thì mặt đỏ như gấc chín. Chàng thấy mình yếu tay hơn cả con Hoạ Có lẽ nào chàng lại dịu lòng hơn cả một người con gáị Và tự nhiên chàng giận con Mực. Người ta còn lo con Mực sợ hãi mà đi mất. Quả nhiên suốt ngày hôm ấy nó không về. Nó vẩn vơ vườn hàng xóm, lẩn lút như một con chó trước khi hóa dạị Người ta tưởng đã mất toị Nhưng tối hôm ấy nó lần vào gầm giường rồi Du lại nghe thấy cái thứ tiếng gà gáy của nó rít lên ở phía ngõ. Sáng hôm sau nó vẫn bỏ cơm. Trưa cũng thế. Và cứ thấy bóng người lại cúp đuôi chạy mất. Du thương hại sai người đem cơm đổ ra vườn. Một lúc sau Mực lại gần. Nó trông trước trông sau, đưa mõm rê trên những hạt cơm rồi vô cớ giật mình chạy thẳng. Có lẽ cái kỹ niệm khủng khiếp vừa lóe ra và đập mạnh vào thần kinh nó như luồng điện. Du thấy bồn chồn và vẩn vơ: thương, hối hận hay là thẹn. Sau cùng thì chàng bực mình: chàng nhận ra rằng một con chó đã làm mất sực bình tĩnh của tâm hồn chàng. Và đột nhiên chàng muốn giết con Mực lắm. Chàng muốn có đủ can đảm để giết ngườị Phải dám giết mà không run tay khi cần phải giết. Còn làm được trò gì nữa nếu chỉ giết một con chó mà tim cũng đập? Sự do dự đã hết rồị Khi có một ý định thì ý định ấy chóng thành mạnh mẽ. Du thấy lòng cứng cỏị Đã có lúc chàng tưởng đến cái thú dí con dao vào súc thịt giẫy lên đành đạch để máu ấm phọt vào taỵ Và chiều hôm ấy khi thấy con chó ở vườn thì chàng gần như mừng rỡ. Con vật khốn nạn đói và sợ đã mệt lử đi rồị Nó hiện ngủ bên bờ giậụ Du cầm cái gậy to rón rén lại gần. Nhưng giơ gậy lên chàng bỗng thấy tim run một cáị Chàng tưởng như ngạt thở và ngừng lại một giây để nhìn con chó. Giấc ngủ của nó có lẽ đầy ác mộng vì thỉnh thoảng khắp mình nó lại giật lên. Du thấy lòng qủa quyết tiêu tán hết. Nhưng con chó bỗng giật mình. Du hoảng hốt thẳng cánh vụt mạnh trên mình nó, bụng nó thót hẳn vào rồi lại phình ra như một khối cao sụ Nó rống lên gượng dậy loạng choạng mấy vòng rồi chui bừa qua giậu trong khi Du vụt cuống cuồng theo xuống đất... Đêm đã khuyạ Du lại nghe tiếng Mực rống lên. Chàng thấy toát mồ hôi và nhất định không giết con chó nữạ Nhưng trời gần sáng chàng còn đương mơ mộng, thì đã nghe tiếng Hoa gọi cuống cuồng lên. Con vật khốn nạn không biết mỏi mệt thế nào mà ngủ quên đi ngay ở giữa san để đến nỗi bị Hoa úp được. Lần này thì người ta cẩn thận hơn. Hai ba người nắm vào hai đầu gậy tre ngáng sẵn bên cạnh thúng rồi Hoa mới hơi hé miệng thúng lên. Thấy sáng con Mực nhô ra ngoài cái mõm ướt phì phì. Hoa nhích lên tí nữa nhưng một cái gối đã tì sẵn trên thúng. Mực lách cả cái đầu rạ Cái gậy đè mạnh xuống. Con vật khốn nạn không còn kịp kêụ - Đè chặt, thật chặt, đừng buông nó ra nó cắn đấy! Du kêu lên như thế nhưng tiếng chàng đã hơi run run. Con chó phì một cái nữa: hơi thở mới thoát ra một nửa bị tắc. Cái gậy đè sát đất, mắt nó trợn lên. Lòng đen ươn ướt cứ đờ dần rồi ngược lên lần một nửa vào mí trên. Lòng trắng đã hơi đục. Lúc Hoa trói xong cả chân trước, chân sau và buộc mõm rồi thì con chó đã mềm ra không còn cựa quậy nữa. Du nghẹn ngào nén khóc... [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cái chết của Nàng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Katty Nguyễn[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nàng chết sau một cơn đau tim quằn quại. Trái tim co thắt từng cơn, gào rú lên những cảm xúc kìm nén cuối cùng trước khi nguội đập. Bác sĩ chẩn đoán nàng chết do suy tim cấp. Nàng nằm trên giường bệnh trắng ởn giữa mọi người khóc lóc thương tiếc nàng. Bao khuôn mặt kia, khuôn mặt nào đang khóc vì thương tiếc thật, bộ mặt nào là dối trá nén niềm vui. Trong cơn đau hay sự lột xé cảm xúc cuối cùng của nàng, chỉ có một người chia sẻ cơn đau đó với nàng bằng ánh mắt tuỵệt vọng, nắm chặt tay nàng như để chia sẻ cơn đau. Nhưng mọi sự chia sẻ, những lời nói an ủi, những giọt nước mắt cũng không thể giữ nàng lại trên trần thế. Một ánh mắt cười nhẹ thoáng nhìn chàng rồi lặng lẽ nàng trút hơi thở cuối cùng mặc cho chàng gào thét gọi, lay cái cơ thể mới chết vẫn chưa kịp nguội lạnh. Nàng đã chết khi còn quá trẻ. Với người khác, đó là một sự khởi đầu, một sự tiếp nối chuỗi những ngày tháng vất vả gây dựng tương lai hay cũng có thể bắt đầu tháng ngày thành đạt hạnh phúc. Với nàng, là kết thúc một sự sống. Một vòng đời quá ngắn, hay vừa đủ, hay quá dài cho những gì nàng đã trải qua. Nó là như thế nào, mỗi người quan tâm sẽ có câu trả lời cho riêng mình. Vì nàng đã chết rồi, mà khi chết rồi thì nàng đâu thể trả lời họ được. Ai sẽ có câu trả lời chính xác nhất về nguyên nhân cái chết của nàng phù hợp với ý nàng nhỉ? Có lẽ chỉ có chàng. Chàng hiểu tại sao nàng chết. Chàng là người gần như duy nhất biết được sự thật về cuộc đời u tối được che đậy khéo léo qua khuôn mặt cười của nàng. Nhưng chàng không thể giữ nàng lại được, vì số phận của nàng vốn ngắn gủi và bạc mệnh như vậy. Chàng không thể thay đổi cả một cuộc đời, mà chỉ có thể thay đổi được một quãng thời gian sống của nàng. Nhưng có câu trả lời rồi thì sao? Nàng đâu có sống lại được đâu và chàng cũng đâu được phép nói nó ra. Chàng phải giữ nó trong sâu thẳm tâm hồn riêng mình cho tới tận khi xuống mồ vì đã hứa với nàng. Thân xác nàng được người ta giằng ra khỏi vòng tay níu kéo của chàng. Mình chàng sao có thể chống lại cả một nhóm người, cũng như chàng đã không thể bảo vệ nàng trước những thế lực đen tối. Người ta mặc cho nàng một bộ áo dài màu trắng truyền thống. Thật nực cười. Nàng vốn không hợp với áo dài, mà hợp với những bộ đầm hiện đại hơn. Nàng có khuôn mặt của một con búp bê Tây Âu. Và thật lố bịch là lại màu trắng. Nàng đâu còn trong trắng. Nàng đã bị cướp mất sự tinh khiết của một nụ cười từ trước 18 tuổi. Rồi những sự tráo đổi suy đồi truyền thống để thoả mãn ý định hèn mọi của người đời, hỏi làm sao nàng còn có thể giữ được sự trong trắng cơ chứ. Ấy thế mà bây giờ người ta lại bọc nàng trong một vỏ bọc truyền thống. Kệch cỡm. Người ta make up cho nàng, bôi lên da nàng một lớp son phấn rẻ tiền dày cỡ 2 cm, để che đi sự tím tái khi máu rút khỏi huyết mạch, để chụp ảnh cho có màu, khỏi lờ lờ như cảm xúc người đi viếng đám ma dành cho người chết. Nếu như còn có thể nói ra được ý kiến của mình trước khuôn mặt trang điểm giả tạo sự sống gắn trên bộ áo dài trắng, chắc chắn nàng sẽ sợ hãi và phải phá lên cười. Cười cái sự dởm đời. Cười những người tự cho mình quyền được tô vẽ cho người khác trong khi không dám tô vẽ cho bản thân mình, chẳng hiểu hay chưa được qua một trường lớp trang điểm tối thiểu; hay họ nghĩ rằng những người chết thì là hết và muốn tô vẽ ra sao thì tô, nằm im dưới lớp đất dày với khuôn mặt do họ vẽ ra, làm chết đi những nét thanh tú, những nét bỉ ổi, đặc trưng của từng người. Trăm người chết gần như đều được trang điểm theo một kiểu. Vậy chứ người ta nói đến sự khác nhau của các linh hồn để làm gì nhỉ? À, thế thì sẽ dễ hiểu hơn tại sao những con ma mà người ta bắt gặp đâu đó chỉ toàn không đầu hoặc có một khuôn mặt giống y như nhau, trắng bệch. Bao năm, bao lớp đất vẫn không thể xoá mờ cái lớp phấn rẻ tiền trát trên mặt những xác chết, những linh hồn vật vờ vô vọng đi tìm lại chính mình. Những người thổi kèn đám ma cố gắng kìm nén sự thèm thuồng được nuốt nước bọt qua tiếng kèn ai oán. Một khối nước bọt chỉ chờ một cái nuốt ực để có thể thoát khỏi cái vòm miệng đang phồng lên cho nó rộng chỗ. Cái nhu cầu tự nhiên của con người rồi vẫn được phát ra tự nhiên qua những nốt rê giáng che giấu tiếng “chẹp”. Với họ, người chết nào chẳng thế, chẳng được đưa tiễn bằng một loạt những bài kèn theo thứ tự mặc định. Người mới vào nghề thì còn có chút tâm huyết, hổ thẹn không dám thể hiện cái nhu cầu nuốt nước bọt của bản thân. Nhưng khi đã quen nghề và chai nghề, người ta cũng quên mất cái nỗi hổ thẹn đó, thoải mái, tự nhiên, vì dù sao người chết cũng đâu có thể oán hay cười họ được. Hồn nàng bây giờ đã được gọi về nhập quan, nên nàng có thể đếm được bao nhiêu lần người thổi kèn kia nuốt nước bọt. Hồn nàng ngồi chồm hỗm trên mặt quan tài, nghịch ngợm hai cái đũa được đánh bông lên, ngó nhìn xung quanh, đếm vòng hoa và theo dõi những cơ mặt đang căng ra hay chùng xuống của người đi viếng đám ma nàng. Nàng vui thích vì có được cảm giác mình nhìn thấy mọi người, trêu chọc mọi người mà không ai biết gì cả. Thích ngồi đâu cũng được, thích làm gì cũng chẳng ai nói hay bị xét nét hay đề phòng. Hồn nàng lởn vởn quanh phòng tang lễ. Nhưng vui chơi một mình, ngắm nhìn những khuôn mặt đau khổ giả vờ, những giọt nước mắt cố nặn mãi cũng chán. Mà nàng thì chẳng muốn chui vào cái quan tài chứa đựng một cái xác mặc định như vậy. Nàng len lén bước ra cửa. Những linh hồn mới lìa xác còn quá mỏng manh và phải tránh ánh sáng để khỏi tiêu tan, nàng ý thức được điều đó, và thấy cần tìm cho mình một chỗ nấp an toàn. Đúng rồi, chỗ an toàn nhất là sau lưng chàng. Chàng đang đứng tựa cửa hút thuốc, nuốt nước mắt vào trong. Có lẽ cả phòng tang lễ này chỉ có chàng là thương xót nàng thật - mỗi chàng hiểu nỗi oan khuất cái chết của nàng. Nàng đưa tay nghịch những lọn tóc của chàng, chúng lọt qua tay nàng, nàng không thể cầm hay sờ được nó, chỉ có thể cảm nhận qua những gì tiềm thức còn giữ lại. Nàng thấy ngón tay mình nằm bên trong giọt nước mắt của chàng, ngón tay nàng không thể lau nó giúp chàng như trước. Nàng hốt hoảng, nàng đau đớn nhận ra thế yếu của một linh hồn. Nàng cố gắng nắm lấy tay chàng để lay mạnh, để gọi chàng, nhưng bàn tay này của nàng nhẹ nhàng lướt qua lớp vải bên ngoài, rồi da thịt chàng, và cả xương tuỷ của chàng để tóm lấy tay bên kia của chính nàng. Chàng vẫn trầm ngâm đốt thuốc, mặc cho nàng dậm chân, đấm vào ngực chàng. Vô ích. Một linh hồn khóc lóc trước một con người. Nàng thực sự cảm nhận được rằng nàng đang tan ra, nàng đã chết và những con người đang sống kia đang dần quên nàng. Họ đang làm cái việc mà khi còn sống nàng khao khát họ làm để nàng được sống yên thân, vậy mà họ lại chọn lúc này để làm. Ngay cả chàng, dù nàng đã bắt chàng hứa sẽ chỉ được nhớ đến nàng không quá 7 ngày, hôm nay đã là ngày thứ 3, vậy mà sao nàng vẫn không muốn tin cái thực tại hiển nhiên đó: nàng đang bị lãng quên. Nàng muốn được sống lại. Thực ra cái chết của nàng là sự kết thúc tất yếu của một cuộc đời như cuộc đời nàng, chứ nàng đâu đã muốn chết. Nàng chết để cứu nhiều người khác được sống… Chàng đã đến với nàng tình cờ như hơi thở, không hẹn trước, không điều khoản trao đổi… như những cuộc gặp không tình cờ hay giả vở tình cờ trước đây của nàng. Chàng tin nàng, nhìn nàng như một thiên thần, chua xót cho những gì nàng đã phải trải qua. Chàng cố gắng đem đến cho nàng những phút giây hạnh phúc bằng tình yêu chân thành của mình. Ban đầu nàng nhìn chàng với một ánh mắt dành cho những kẻ đang si mê cuồng dại nàng, một chút thương hại, một chút cợt nhả, và hoàn toàn không tin. Nàng bỡn cợt chàng, vờn chàng phát điên. Nhưng chàng trước sau vẫn bên nàng, kiên nhẫn chăm sóc nàng sau những cơn say, đợi nàng sau những chuyến đi đột ngột mất tích không báo trước. Chàng đã chứng tỏ mình là một người đàn ông trưởng thành chứ không phải một chàng si mê cuồng điên một người đàn bà quá sành sỏi về đàn ông như nàng. Chàng đã giúp nàng biết khóc, khơi những cảm xúc trong nàng, những yếu lòng của nàng… chàng đưa nàng về cuộc sống của một người con gái ở độ tuổi nàng bằng tình yêu chân thành xuất phát từ trái tim. Nàng khóc ngon lành trên vai chàng, nhõng nhẽo với chàng. Trước chàng, nàng thấy mình vẫn chỉ là một cô bé. Nàng dần kể cho chàng về cuộc đời của mình, lý do của những chuyến đi không báo trước của nàng và cái gì đang đón chờ nàng. Và báo trước cho chàng cả một cái kết tất yếu: nàng sẽ chết. Nàng bắt chàng thề không được nói ra sự thật về cuộc đời nàng, không được khóc khi nàng chết và phải quên nàng trong vòng 7 ngày. Vì nàng thực sự yêu chàng. Nếu như chàng nói ra sự thật về cái chết của nàng, chàng sẽ gặp nguy hiểm, và khó thoát được lưới giăng của vòng vây ma quỷ. Chàng không được khóc trước quan tài nàng vì nàng không muốn ai biết chàng chính là người nàng yêu và là người khiến nàng lẩn tránh những chuyến đi, chống đối lại những mệnh lệnh, và phải trả giá bằng cái chết. Nàng cho chỉ phép chàng được nghĩ đến nàng trong vòng 7 ngày sau khi nàng chết và rồi sau đó phải quên đi, vì nàng hiểu chàng còn quá trẻ để mà đau khổ, sống trong tuyệt vọng về mối tình với nàng. Nàng đề ra một kế hoạch hoàn hảo cho cái chết của mình. Nàng đã ngầm chuẩn bị cho chàng một cuộc sống sau khi nàng chết. Nàng sắp xếp lần lượt cả những hình phạt thích đáng dành cho những kẻ suy đồi đã tàn phá cuộc đời nàng theo những mốc thời gian đã định. Cất nhắc, hoàn tất tất cả những việc cần phải làm. Không còn đắn đo điều gì, nàng uống nốt viên thuốc phá huỷ tim được nguỵ trang đựng trong lọ thuốc bổ cuối cùng. Hàm lượng độc tố cùng với các chất trong máu, cộng với chất xúc tác rượu mạnh sẽ làm tim nàng ngừng đập sau 12h đồng hồ. Thời gian đó vừa đủ chàng đưa nàng đến bệnh viện cấp cứu, hoàn tất vở kịch chết vì suy tim do nàng dàn dựng. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cái cớ[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đỗ Thanh Vân[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nhìn bó hoa. Lần này, trong ánh nắng xiên từng sợi vàng óng ánh li ti bụi mờ, Trung dường như cảm nhận được mùi hương dịu nhẹ theo gió lan tỏa vào đầu giường. Làn hương ấy hoang hoải quen thuộc khiến Trung thấy nhớ lại những ngày đã qua. Thi thoảng người ta cần một cái cớ Để tự an ủi rằng mình không cô đơn... Trung thức dậy và nhìn thấy trên mé bàn làm việc gần cửa sổ một bó hoa hồng. Những bông hoa đỏ mịn màng ánh nhung lên trong vạt nắng xế ngày. Bó hoa đấy là của ai? Nếu là của Trung, thì ai là người đặt nó lên bàn? Nếu chị Ba giúp việc là người đặt nó lên bàn, thì ai là người đã ghé qua nhà tặng bó hoa ấy? Hay cũng có thể, chính người con gái ấy đã xin phép được lên tận phòng Trung, lựa ngay lúc Trung đang ngủ lu bù sau trận nhậu tất niên, lặng lẽ để lại đóa hoa trên bàn, và cũng như lúc đến, lại lặng lẽ ra về. Trung đăm đăm nhìn. Có lẽ chỉ là dư âm còn sót lại của giấc mơ nhòe nhoẹt đêm qua, nhắm mắt vào lần nữa và mở ra lần nữa, sẽ chẳng còn thấy hoa đâu. Trung nhắm mắt thiếp đi, rồi mở mắt ra. Bó hoa vẫn còn nằm đó, nghiêng nghiêng mềm mại, ánh dưới nắng. Có lẽ là hoa ai đó tặng anh bạn phòng bên, nhưng đưa nhầm sang phòng Trung. Nhưng rõ ràng Trung nằm ngay đó, nếu cô gái nào đó, có vào nhầm phòng, thì ngay lập tức có thể nhận ra và sửa chữa sai lầm ấy. Hôm nay đâu phải ngày gì đặc biệt? Một ngày cuối năm bình thường hơn cả bình thường. Không phải ngày lễ. Không phải sinh nhật. Mà dù cho có phải đi nữa, chưa ai trong số các cô gái Trung từng quen biết có thói quen tặng hoa cho đàn ông. Hay là của một thằng bạn nào rỗi việc, muốn trêu đùa Trung? Cuối năm thằng nào thằng nấy bận bù đầu, nếu có rảnh thật, có lẽ chúng nó sẽ mua hoa đi tặng bạn gái, thay vì mất thời gian vô bổ với Trung như thế này. Trung miên man nhìn bó hoa, trong tư thế nằm nghiêng vùi nửa mặt vào gối - chiếc gối mềm nồng mùi rượu và hơi đàn ông rất-riêng-tư, đến độ, chưa có cô gái nào trong đời Trung được phép ngả đầu lên. Toàn thân uể oải dễ chịu, hoàn toàn thả lỏng, có cảm giác rượu đã làm cho máu huyết trong người chảy ngược chảy xuôi dễ dàng hơn. “Anh uống rượu cho nhiều vào. Rồi chết sớm đi cho em nhờ!”, Thanh đã nói với Trung như thế, khi Trung gục đầu xuống bàn, khóc âm thầm đúng kiểu bất lực khi biết chẳng thể níu kéo nổi một thứ tựa tình yêu kéo dài ba năm. Phụ nữ luôn như thế, sâu sắc trong sự giản đơn, Thanh nhìn Trung đầy chán chường, vì thất vọng một người đàn ông đã từng rất mạnh mẽ, lại trở nên say sưa vô độ. Cho đến bây giờ, chẳng còn dịp nào, mà cũng chẳng có lý do nào để Trung nói với Thanh rằng: rượu, cũng như nước mắt, chỉ là một cái cớ để người ta trở nên yếu mềm hơn. Một cái cớ. Hay là Thanh? Trung bật cười trước chính suy nghĩ của mình. Thanh có lẽ đã quên Trung lâu rồi. Chưa kể nàng đang sống ở Đà Lạt. Không cô gái nào lặn lội một quãng đường xa chỉ để tặng một bó hồng cho anh chàng người yêu cũ, bây giờ vẫn đang cần mẫn bóc từng ngày lịch của đời độc thân vô lo. Hay là Thảo? Cô thư ký của văn phòng làm việc ngay ở lầu dưới? Mỗi lần Trung đi ngang qua để lên phòng, Thảo vẫn nhìn Trung cười rất tươi. Hai đứa có đi cà phê đôi ba lần. Song chẳng đâu vào đâu. Nhưng, trong tâm tưởng miên man của mình, Trung tin rằng, chỉ có Thảo là cô gái duy nhất dễ dàng vượt qua được sự “kiểm soát” gắt gao của chị Ba giúp việc vốn tính thẳng ruột ngựa, chẳng nể nang ai bao giờ, để lên phòng Trung mà đặt bó hoa. Biết đâu cô ấy đã nhìn mình một lúc lâu trước khi rời phòng? Trung thoáng đỏ mặt, thói quen rất phụ nữ ấy, lại khiến bao nhiêu phụ nữ xiêu lòng. Trung chưa bao giờ được nhìn thấy chính mình trong lúc ngủ say, ở một tư thế không thể che giấu sự thiếu thốn tình cảm và thèm khát một thân người nóng ấm, mềm mại, dịu dàng kề bên. Thảo đã nhìn mình như thế thật sao? Trung thấy mặt mình nóng thêm. Từ trước đến giờ, đối với mọi người, Trung bao giờ cũng cố chứng tỏ sự thoải mái phóng khoáng hết sức của cuộc sống đàn ông độc thân, chưa muốn bị ràng dây, cắt cánh; cho đến lúc cô gái nào đó, nhìn thẳng vào Trung trong cơn ngủ mê, thẳng thắn và trơ lộ ra mọi sự yếu đuối bình thường của con người, của tâm hồn, của những ước ao. Nhưng Thảo không thích hoa hồng. Đã có lần cô nói với Trung: “Hoa hồng chỉ là thứ phù du bên ngoài của tình yêu. Mau tàn và còn hay bị cưỡng ép đông lạnh đến rũ cả cuống!”. Trung chưa bao giờ tranh cãi điều này, với bản tính nhường nhịn vốn có, Trung chỉ cho phép mình tranh cãi về những vấn đề Trung xem là quan trọng, và chỉ với người Trung thương mến. Nhìn bó hoa. Lần này, trong ánh nắng xiên từng sợi vàng óng ánh li ti bụi mờ, Trung dường như cảm nhận được mùi hương dịu nhẹ theo gió lan tỏa vào đầu giường. Làn hương ấy hoang hoải quen thuộc khiến Trung thấy nhớ lại những ngày đã qua. Cuộc tình ba năm, Trung đã bao lần tặng hoa cho Thanh – bó hoa kết bằng hồng và lan, xen lẫn với lưu ly và lá thủy tùng – tràn ngập yêu thương và lãng đãng giữa một xứ sở lạnh đầy hoa. Những nụ hôn vụng trộm đâu đó bên chái nhà, men bên rừng thông, tan vào trong hơi ấm của sương non. Những khoảnh khắc ôm nhau thật chặt trong tay, tưởng như đôi lứa là điểm ấm áp duy nhất giữa Đà Lạt lạnh và buồn. Lúc ấy, Thanh nói: “Đời em chỉ cần có mình anh!”. Rời khỏi không gian yêu đương giá lạnh, xuống thành phố phẳng lì trơ trụi toàn cao ốc, “Đời em chỉ cần có mình anh” trở nên lạc lõng và ngại ngần. Ở đây, người ta không yêu nhau vụng trộm bằng những nụ hôn đầy sương và những đóa hoa còn rỉ nhựa đầu cành. Đến khi Trung hoàn toàn ổn định và dứt khoát, nắm chặt đôi tay mềm bé nhỏ của Thanh trong tay mình, nói được lời nói sâu tận cùng của người đàn ông cần tình yêu, và thèm khát một mái ấm thực sự: “Đời anh chỉ cần có mình em!”; thì Thanh, bằng một cử chỉ nhẹ nhàng kiên quyết, rút tay ra: “Đây không phải là Đà Lạt anh biết không?”. Trung chưa bao giờ thấy hối tiếc vì mình đã xa rời thành phố buồn lặng và thơ mộng đến lạnh lẽo ấy, nhất là, nhờ chuyến đi xa đó, Trung nhìn lại rõ hơn một mối tình quá yểu chẳng đủ sức tồn tại, như gốc cây non, đưa sang nơi khác, lập tức tàn lụi đi ngay. Nhưng thi thoảng, trong cuộc sống bộn bề, hay giữa phố ngày cuối tuần các đôi lứa tay trong tay, Trung vẫn da diết nhớ Thanh. Dù sao, đôi bàn tay của em rất mềm, và đôi môi em rất ấm. Đã có ai nói với em như thế chưa? Nếu có Thanh ở đây lúc này, nàng sẽ bình thản cười: “Anh thử nhớ xem có cô bé nào thầm thương trộm nhớ anh không?”. Trung dụi đầu lần nữa vào gối chăn, hít thở hương thơm ngan ngát cả căn phòng. Những khuôn mặt con gái lần lượt điểm qua trong trí nhớ. Cái đầu trống hoác đến lạ lẫm. Cô văn thư ở cơ quan, hay cô bé cộng tác viên của nhà xuất bản? Cô bạn học chung lớp tiếng Hoa buổi tối, hay cô bé nào trong câu lạc bộ thơ văn vẫn gặp nhau dăm bữa nửa tháng một lần? Không ấn tượng. Không kỷ niệm. Chỉ là mơ hồ hoài nghi. Hơi rượu còn nồng váng vất. Trung dứt khoát trở mình đứng dậy, xuống nhà dưới, đem theo đóa hoa, bỏ lại sau lưng cả một gian phòng đang bề bộn xô xệch chăn gối, sách vở. Chị Ba đang ngồi nhặt rau, nhìn Trung đầy thương cảm: “Hôm qua tưởng chú chết ngoài đường rồi chớ! Về đến nhà là quăng xe lăn đùng ra, chị với thằng Hải phải lôi mãi mới lên được tới phòng”. Trung gượng cười, tay giơ bó hoa ra: “Chị ơi, ai đặt bó hoa này lên phòng em?”. Chị có tật đãng trí, gục gặc đầu: “Chị chớ ai!”. “Vậy ai đến đưa hoa cho em?”. Chị lại gục gặc thêm lúc nữa, điệu bộ khổ sở: “Hình như là một ông chạy xe ôm, đến đưa hoa rồi đi liền hà!”. Trung ngớ người. Chẳng còn thiết ăn uống gì nữa. Trung quay trở lên phòng, mặc kệ chị Ba hớt hải gọi sau lưng: “Không ăn cơm thì chết làm sao. Thằng kia!”. Nằm trên giường, vắt tay ngang trán, Trung tự rủa mình. Có lẽ độc thân lâu quá nên mắc chứng hoang tưởng về sự đào hoa của mình cũng nên. Trời! Chỉ trong một quãng nằm ườn trên giường, với cảm hứng từ bó hồng chẳng biết nguồn cơn, Trung có thể nhớ đến bao nhiêu cô gái, phần lớn là đã từng quan trọng, hoặc chẳng quan trọng gì trong đời. Một duyên cớ vô nghĩa lý hết sức! Điện thoại rung nhẹ báo tin nhắn. Hay là... Trung tự dưng thấy mình ngớ ngẩn hết sức khi hồi hộp lần mở tin nhắn. Tin của một thằng bạn ở quê: “Bọn khốn. Hôm nay sinh nhật ta mà chẳng thằng nào thèm nhớ. Chán đời quá!”. Nghĩ thế nào, Trung lại nhảy phốc xuống giường. “Chị ơi, chị chịu khó nhớ kỹ lại giùm em người đem tặng bó hoa có dặn gì không?”. Chị Ba, vẫn với cung cách gục gặc đến sốt ruột, hết lắc đầu, lại ậm ừ. Độ chừng mươi phút sau, ra chiều vận dụng hết khả năng trí nhớ, chị nói vẻ dè dặt: “Không nhớ chắc, nhưng hình như có nghe người ta nói loáng thoáng... ơ... sinh nhật... hay là du lịch gì đó...”. Mặc chị Ba ngơ ngác, căn vặn: “Có chuyện chi mà chú hỏi rát vậy?”. Trung thử xâu chuỗi lại: thằng bạn, sinh nhật, du lịch, bó hoa... Cũng sau khoảng mươi phút đăm đăm, Trung chợt nhớ ra, trong một lần thằng bạn từ quê lên thành phố chơi, hai đứa đã cùng đăng ký đi tour ở một công ty dịch vụ lữ hành, đăng ký ngày tháng năm sinh, và địa chỉ tại chỗ Trung ở bây giờ. Hôm nay là ngày sinh nhật của nó, công ty áp dụng chiêu bài gửi tặng hoa lấy lòng khách hàng. Trung ngồi thơ thẩn bên bàn làm việc. Trời đã xế chiều. Nắng và gió nhẹ. Bó hồng dịu dàng lan tỏa mùi hương ngai ngái cuối mùa. Chẳng hít sâu, mà sao bất chợt Trung thèm được thở dài. Phải. Một hơi thật dài. Một cái cớ để tự cười buồn cho kẻ giàu trí tưởng tượng thiếu vắng tình yêu. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cái dấu hỏi[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Phương [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nó đen đủi, xấu như ma lem. Nó bé xíu, bé đến nỗi có nhắm mắt tôi cũng không tưởng tượng ra được là nó đã mười hai tuổi. Ðã thế, nó lại còn co người lại như thể nó sẽ bé mãi, bé mãi vậy. Trông nó giống như con mèo hoang hôm nọ ai vứt trước thềm nhà tôi, chỉ kêu meo meo được vài tiếng rồi chết vì trời mưa lạnh ! Thằng bé không kêu meo meo, cũng chẳng nhắm nghiền đôi mắt. Mắt nó mở to, hoang mang, như không hiểu người ta sẽ làm gì mình, lại có cái vẻ thách thức thế nào. Tôi nhìn nó, không giấu sự hằn học. Không hiểu sao mẹ lại đem nó về đây cơ chứ ? Nó là con của bố tôi. Không phải con của một cô bồ nhí nào đấy, mà là con bà vợ sau của bố tôi. Ngày bố mẹ tôi yêu nhau, bên nội tôi đã không đồng ý, vì mẹ tôi “trông yếu ớt ẻo lả thế kia, rõ là không phải gái mắn con”. Nhưng với sự đấu tranh quyết liệt và kiên trì của cậu quý tử, ông bà nội tôi phải đồng ý. Sau ngày cưới của bố mẹ một năm thì tôi ra đời. Trái với sự mong đợi của ông bà nội, mẹ tôi hạ sinh một con nhóc “yếu ớt ẻo lả như mẹ nó”, là tôi. Mẹ tôi sinh khó, phải đi bệnh viện mổ đem tôi ra, tưởng cả hai mẹ con không sống nổi. Mẹ tôi vốn bị bệnh tim, tuy không nặng nhưng bác sĩ bảo mẹ không nên sinh nữa. Bố tôi bảo, con nào chẳng là con, nhưng khi tôi lớn lên, đôi lúc thấy bố tôi nhìn tôi, rồi thở dài. Ông bà làm ầm lên, bắt bố cưới vợ lẻ. Bố không đồng ý, nhưng rồi ngọt nhạt, chì chiết mãi cũng có tác dụng. Mẹ không đành nhìn ông bà lo tuyệt tự, nhìn bố buồn rầu, bảo bố nghe lời ông bà. Năm tôi lên sáu, tôi biết mình có em trai. Một đứa em mà tôi không hề mong đợi. Cuộc sống chung giữa bố và “mẹ hai” ban đầu là sự gượng ép; rồi thì người đàn bà khỏe mạnh, vui vẻ, hay cười hay nói dần dần chiếm lấy cả phần xác lẫn phần hồn của bố tôi. Tôi nhìn thằng em cùng cha với vẻ hằn học kỳ lạ, ít thấy ở trẻ con, hằn học vì nó sung sướng hơn tôi, vì chả ai xỉ vả, đay nghiến nó là đồ mặt u mày ám, đồ vịt giời. Mẹ tôi sống khép kín dần như một nữ tu ; mẹ ít khi ra khỏi nhà. Tưởng như mọi chuyện đã an bài. Ấy vậy mà tự dưng mẹ hai biến mất. Người đàn bà trẻ không chịu trói đời làm cái máy đẻ ở xó quê. Mẹ hai bỏ nhà, bỏ làng theo một gã lái buôn vẫn hay ghé qua làng. Mẹ hai tôi đem thằng Quý đi theo. Ông bà nội lòng nóng như lửa đốt. Bố tôi vào ra thẫn thờ. Chuyện trong nhà ngoài ngõ đổ hết lên đôi vai gầy guộc của mẹ. Bố buồn quá đi uống rượu, nghe kể lại là vừa uống vừa lầm bầm không rõ là than thở hay khóc lóc, hay là chửi rủa nữa, rồi mặc kệ mọi người giữ lại, bố tôi bỏ ra về giữa trời mưa tầm tã. Sau bận ấy, bố tôi bệnh nặng, không ăn uống gì, chỉ nằm nhìn chăm chăm lên trần nhà, hơn tháng thì mất. Ông bà nội, phần thì đau buồn con trai mất, phần mong nhớ đứa cháu đích tôn không rõ sống chết nơi đâu, cũng lâm bệnh nặng. Ông tôi qua đời. Ðó là quãng thời gian chỉ có mẹ thương yêu chăm sóc tôi; ngoài mẹ ra, chả còn ai buồn ngó ngàng đến tôi dù chỉ để mắng tôi một câu. Những ngày sắp mất, bà hay nắm tay tôi kéo lại gần, nhìn thật kỹ khuôn mặt xanh xao của tôi, rồi bà thở dài, thế là dòng họ mày chỉ đến đời bố mày thôi con ạ. Sao đứa dâu ngoan như mẹ mày lại chẳng có con trai nhỉ ? Sau ngày bà mất, mẹ tôi một mình lam lũ nuôi tôi; sau từng ấy biến cố, công việc tưởng chừng quá sức mẹ. Ấy vậy mà tôi vẫn cứ lớn, vẫn ăn no mặc ấm, vẫn được đi học trường làng với lũ trẻ khác. Cực nhọc là thế nhưng đêm đêm mẹ vẫn dạy tôi học. Tôi gần như quên hẳn “nó” cùng với những kỷ niệm đau buồn thuở bé. Tôi học hết trường làng, rồi trường huyện. Bây giờ tôi phải ra thành phố học Ðại học, nghĩa là tôi phải xa mẹ. Bây giờ nhà tôi cũng không còn quá nghèo khổ như xưa nữa. Cái vốn chữ nghĩa của cô tiểu thư con nhà trí thức tưởng như vô dụng những ngày xưa về làm dâu, giờ giúp mẹ tôi đứng vững với nghề dạy học . Làng tôi chẳng còn lạc hậu và nghèo khó như xưa, bây giờ có nhiều nhà khá giả. Mẹ mở lớp dạy ngoại ngữ, cả Anh, Pháp, rồi dạy cả văn, toán nữa. Mẹ còn mở một hàng nho nhỏ bán đủ thứ linh tinh. Tôi gọi đùa mẹ là chủ doanh nghiệp kinh doanh “trăm thứ tùm lum” kiêm bà giáo “gõ đầu trẻ”. Mọi thứ sẽ êm đềm trôi đi như vậy, nếu như nó không xuất hiện khuấy lên cái quá khứ tưởng đã ngủ yên. Như cơn lũ đột ngột kéo về làm cuộn lên lớp phù sa đục ngầu dòng sông vốn êm đềm trong vắt ! Nó đang ngồi đó. Ðúng hơn, là nó đang nép người vào góc tường, dáng cong cong như cái dấu hỏi. Tôi quay phắt đi, thấy hình ảnh của mình ngày bé. Sao lại nhắc tôi về những ngày cơ cực ấy chứ ? Trong thư gửi tôi, mẹ chỉ nói ngắn gọn : “Con có thể thu xếp về được không ? Mẹ đã tìm được em Quý”. À ra vậy, nó còn sống. Còn người đàn bà mà tôi phải gọi là mẹ hai kia có về không nhỉ ? Tôi đón xe về nhà, đầu óc bềnh bồng, lòng ngổn ngang trăm thứ cảm giác không thể định nghĩa được. Tại sao việc mẹ tìm ra nó lại quan trọng đến thế chứ ? Sao lại phải gọi tôi về ? Tôi không thể gọi nó là em. Như ngày xưa tôi đã không thể coi nó là em tôi. Như ngày xưa tôi chỉ thấy nó là tai họa cho mẹ tôi. Mẹ đi đâu rồi nhỉ, sao lại để tôi một mình đối mặt với thằng bé này ? Ðêm hôm ấy, lần đầu tiên tôi về nhà mà không ngủ với mẹ. Nằm một mình trong chiếc giường nhỏ trong buồng, tôi trằn trọc mãi. Lẽ nào những điều mẹ kể về Quý lại là sự thật ? Lẽ nào thằng bé lại phải chịu những nỗi đau dường ấy ? …Mẹ Quý khi trốn theo người đàn ông nọ đã đem theo tất cả nữ trang, tiền bạc, những thứ mà ông bà nội cho khi cưới. Gã lái buôn nọ vừa được cả tình lẫn tiền, thấy thật vô lý khi phải nuôi con người khác. Gã đem bán Quý cho một đôi vợ chồng hiếm muộn. Mẹ Quý dù có là người đàn bà phụ chồng, cũng không thể là một người mẹ vô tâm. Bà van xin một cách vô ích; gã không cho bà biết đã bán Quý đi đâu. Thương đứa con lên ba bị mất tích, mẹ hai đâm lẩn thẩn, lúc tỉnh thì u sầu, lúc lại ngây ngây dại dại. Một lần bà ra bến sông tìm con, chạy theo cái bóng hư ảo nào đấy rồi hụt chân rơi xuống dòng nước mùa lũ chảy xiết. Còn Quý, sau khi đem nó về được hai, ba năm, “ba mẹ” của nó sinh được một đứa con và lạnh nhạt dần với thằng con không máu mủ ruột rà lúc này đã trở nên thừa thãi. Họ đem Quý cho đi ở đợ, rồi đi mất. Mới bảy tuổi, nó đã phải bắt đầu cuộc đời đi ở hết nhà này đến nhà khác . Không ai biết ba mẹ nuôi nó đi đâu. Quý cũng không biết ! Việc mẹ tôi tìm lại được nó là cả một câu chuyện ly kỳ và hy hữu. Bây giờ, tôi biết rằng tôi còn có một đứa em trai, đứa em mà tôi đã từng ghanh tị và căm ghét, đứa em mà tôi chưa bao giờ thừa nhận. Một đứa bé mới mười hai tuổi mà những nỗi đau nó phải gánh chịu quá lớn đến nỗi tưởng chừng sẽ không bao giờ xóa được dấu tích trên tấm thâm gầy gò bé bỏng. Tôi đến bên giường mẹ. Mẹ cũng đang thao thức. Bên cạnh mẹ, “con mèo ướt” nằm cong queo thành cái dấu hỏi quen thuộc. Tội nghiệp em tôi, giấc ngủ không quen được vòng tay mẹ ôm ấp, cứ phải co ro lại cho đủ ấm. Mẹ khẻ nâng chăn đắp cho em. Từ đây, đời em sẽ sang một trang mới. Từ đây, cái dấu hỏi khắc khoải kia sẽ không còn tìm đến em mỗi giấc ngủ nữa đâu. “Con mèo ướt”. “Cái dấu hỏi”. Không, từ giờ em sẽ là em Quý của tôi, ngôi sao bé bỏng của tôi. Mẹ tôi mỉm cười - hạnh phúc. Tôi bước ra sân. Bầu trời đêm ba mươi lấp lánh ánh sao. Một ngôi sao băng đang rơi xuống. Một linh hồn có lẽ đã hồi sinh. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cái đầu[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Mai Sơn[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Anh nhìn mình trong gương. Người thợ hớt tóc đứng sau lưng anh cũng nhìn anh trong gương, vẻ hài lòng. Ông ta vừa tạo ra một tác phẩm nghệ thuật trên đầu anh. Ông ta chờ anh mỉm cười, biểu lộ niềm vui. Anh cảm thấy e thẹn. Trẻ quá! Hồi vợ anh còn sống, mỗi lần anh hớt tóc xong, về nhà, thế nào cô cũng đăm đăm nhìn vào mặt anh một hồi rồi mắng yêu: “Đồ con nít!”. A, cái đầu to to, mái tóc dợn sóng, khuôn mặt xương xương giống mẹ khổ ba đời, miệng có ria, cằm có râu, hai cái tai khá dài và thẳng thớm, mũi cao, mắt sáng, nước da có hơi đen một chút nhưng đó là màu da của triết gia phiếm thần Spinoza, của Gandhi. . . A, cái đầu thông minh, một tác phẩm của tạo hóa. Cái đầu ấy đã từng gối lên biết bao cuốn sách chứa đầy những ý tưởng cao siêu thâm trầm về thẩm mỹ, đạo đức, triết học, nghệ thuật, cuộc sống, tình yêu... Chợt anh cựa quậy trên ghế, tự dưng cảm thấy bức bối khó chịu. Ông thợ hớt tóc tinh ý, vội tháo tấm khăn choàng màu trắng ra khỏi người anh. Anh vẫn tiếp tục cựa quậy trên ghế, thoáng thấy mặt mình đang biến dạng trong gương. Ông thợ hớt tóc vội đỡ lấy đầu anh, dùng chiếc khăn nhỏ phủi phủi những sợi tóc con bám đầy trên gáy, trên cổ anh. Và anh ngồi im. Nhìn trừng trừng vào mặt mình trong gương. Đối diện với chính mình. Từ dưới thắt lưng anh một cơn sôi trào đang dâng lên, chực thoát ra thành tiếng hét. Anh lại cựa quậy, lần này dữ dội, khiến cái ghế hớt tóc xoay tròn. Ông thợ hớt tóc tưởng anh muốn xem toàn diện mái đầu của mình nên lom khom bước vòng theo anh. Anh muốn hét lên. Nhưng anh dồn nén tất cả sức mạnh thành lời thì thào: - Này bác ơi! Bác cạo trọc đầu giùm tôi đi! - Cái gì? Anh nói sao? Cạo trọc đầu anh hả? - Vâng! - Sao vậy? Anh không hài lòng chỗ nào, thì tôi sửa cho. - Tôi hoàn toàn vừa lòng, bác ạ. Không chê chỗ nào cả. Nhưng bác hãy cứ cạo trọc đầu tôi đi! - Nhưng anh có thể nói cho tôi biết vì sao anh có ý định cạo trọc đầu không? Anh lại ngồi im, gần như bất động. Chiếc ghế thôi không xoay tròn nữa. Anh nhắm mắt lại, cố giữ bình thản từng tiếng: - Chỉ vì thế này thôi, bác ơi. Cái đầu này của tôi đã từng, xin lỗi bác, gối lên cứt nhiều đêm mà ngủ. - Anh nói thật hả? Mới đây hả? - Thật. Nhưng lâu rồi. Bác thợ hớt tóc đột nhiên nhìn thẳng vào mặt anh bằng ánh mắt lạ lùng pha chút sợ sệt: - Xin lỗi, anh có sao không? Là tôi muốn hỏi anh có khoẻ không? - Bác yên tâm. Để tôi kể tóm tắt sự thể cho bác nghe nhé. Tôi ở tù. Và trong thời gian đó, nhiều lần những người cai tù yêu cầu chúng tôi lượm phân bò khô ngoài đồng ngoài rẫy để thúc bón cho mấy vườn rau quả tăng gia tự túc trồng chung quanh trại tù. Họ ra chỉ tiêu cho mỗi tù nhân mỗi ngày phải nộp đủ từ hai lạng, đến nửa ký, một ký phân khô. Không được sai chạy. Nếu không đủ chỉ tiêu, sẽ bị ngồi cùm. Bác biết ngồi cùm là thế nào không? À, bác biết hả. Thế nên ai nấy đều lo giữ kỹ số phân mà mình lượm được sau một ngày căng mắt tập trung ngoài trời, cực nhọc như người đi tìm vàng, và nghiêm trọng chẳng khác gì các nhân viên điều tra xem xét hiện trường một vụ rơi máy bay, và lâu ngày mắt chúng tôi có thể phân biệt được những màu sắc tinh tế khác nhau trên mặt đất. Và bác biết không, tình trạng ăn cắp phân xảy ra hằng đêm giữa những người tù. Rồi ai cũng lo giữ khư khư thành quả lao động của mình. Trong cái khó ló cái khôn. Tôi nảy ra sáng kiến gói phân lại trong bao rồi gối cái đầu thông minh của tôi lên cái bao phân lộm cộm đó mà ngủ, để sáng mai nộp chỉ tiêu cho tên cai tù. Từ đó đêm đêm tôi mới được ngủ ngon giấc, và ít có mộng mị gì. Vậy đó, có những tháng ngày trong đời, tôi đã gối đầu lên phân mà ngủ, ngủ rất ngon. - Thật không thể tưởng tượng nổi. Cứ như là chuyện bịa. - Làm sao mà bịa, mà hư cấu, mà tưởng tượng được một chuyện như vậy hả bác? Dù tôi cũng đã từng viết văn đấy, bác ạ. - Không còn gì tàn nhẫn hơn. - Bác nói đúng, hoàn cảnh đã đẩy mình đến chỗ tàn nhẫn với mình như vậy đó. - Tôi không nói anh... Tôi nói bọn chúng. - Cũng không thể chỉ đích xác bọn nào là tác giả thực sự của hoàn cảnh vô nhân đạo đó. - Vậy không ai chịu trách nhiệm hết sao? - Những kẻ đồng lõa thì đầy ra đó, nhưng thủ phạm chính (anh chợt nhận ra mình cao giọng riết róng; nhận ra mình đã thay chữ “tác giả” bằng chữ “thủ phạm”) thì đúng là không chỉ đích danh được. - Vì sao vậy? - Tôi cũng không biết. Mỗi lần đi hớt tóc, hoặc mỗi sáng soi gương, tôi lại cảm thấy nhục nhã ê chề. Bác làm ơn cạo lẹ giùm đi bác. Ông thợ cạo tần ngần ngẩn ngơ như sắp đánh mất một vật gì quí báu. Ông cầm cái tông đơ lên. - Bác đừng buồn tôi nhé. Ông đặt cái tông đơ ở gáy anh, nhắp nhắp. Tóc rơi lả tả. - Xin lỗi bác nhé. Không nói không rằng, ông thợ cạo đột nhiên tập trung vào công việc. Và ông chăm chút từng li từng tí, không để sót một cọng tóc nào trên đường đi của cái tông đơ. Ông thoáng nghĩ đến gương mặt các bậc chân tu. Rồi ứa nước mắt. Một tác phẩm khác sắp hoàn thành. Ông nghĩ. Và nghiêng người nhìn cái đầu của người khách lúc ấy đang trừng trừng nhìn mình trong gương.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cái lúm đồng Tiền[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Chiêu Hoàng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hoàng ghét cái con bé ấy tệ. Nó xãnh xẹ gì đâu!! Khổ nỗi, càng "ghét" nó, Hoàng càng "phải" để ý đến nó nhiều hơn. Lần đầu "đụng trận" với nó là trong ngày khai trường. Nó đi sấn sổ chẳng nhìn ai, đụng vào Hoàng một cái rầm, sách của nó đổ toé xuống đường. Một cuốn sách súyt làm Hoàng bể mũi. Nó vừa nhặt sách, vừa tía lia cái miệng: "Xin lỗi.. xin lỗi nghe..." Rồi chẳng cần nhìn Hoàng hay hỏi han lấy một tiếng, nó ù chạy vì đã trễ giờ học rồi... Hoàng nhìn theo. Con bé thắt cái bím cao tòng teng gần tới cái xoáy trên đỉnh đầu. Nó có đôi mắt tinh ranh, người gầy gò như cây sậy. Nhưng điểm đặc biệt nhất trên khuôn mặt nó là cái lúm đồng tiền. Mọi sự duyên dáng của nó đều chui vào cái trũng nho nhỏ trên má trái. Mỗi lần nó cười, trông nó lanh và có duyên làm sao!!! Nó thường đi chung với một cô bạn. Ngược lại với nó. Cô này hơi mũm mĩm và thấp người, mái tóc cắt ngắn cũn cỡn ôm lấy khuôn mặt bầu bĩnh làm cho cô có vẻ tròn hơn. Hoàng không thấy cô có cái lúm đồng tiền giống như nó. Họ thường đi líu ríu dính với nhau có vẻ tâm đầu ý hợp lắm... Ít khi nào Hoàng thấy họ vào cafereria để mua đồ. Thường là họ đem theo những hộp đồ ăn ngồi ngay ở bãi cỏ trong khuôn viên đại học, dưới những tàn cây lớn, vừa ăn, vừa rù rì nói chuyện. Nhìn thoáng. Hoàng biết ngay đây là những "chú lính mới" vừa rời khỏi ghế nhà trường trung học để bước vào ngưỡng cửa của đại học. Nên cái gì con bé cũng làm ra vẻ rất quan trọng và nghiêm túc. Từ cái ngày con bé làm Hoàng gần bể mũi. Hoàng đâm ra kiêm thêm một nghề phụ không lương, nhưng lại mất rất nhiều thì giờ. Đó là nghề "Điệp - Viên - Không - Không - Biết" để đi điều tra về lý lịch con bé. Cuối cùng Hoàng cũng biết đại khái những lớp học và thời khóa biểu trong tuần của nó. Hoàng còn biết thêm con bé tên gì nữa cơ. Nó tên Thùy. Ôi chao, tên thì như vậy, nhưng chẳng.. thùy mị tí nào!!! Nhiều lần, Hoàng lảng vảng muốn làm quen. Nhưng gần như con bé rất vô tình. (Đụng người ta súyt phải.... vào nhà thương vì bể mũi ) mà những khi gặp nhau trong khuôn viên đại học, dọc theo hành lang, hay trên những bực thang dẫn lên lớp học, nó nhìn Hoàng như một người xa lạ, chẳng thèm chào hỏi tí nào. Hoàng tức lắm. Giá nó đừng có cái lúm đồng tiền khiêu khích kia thì Hoàng.... thèm vào!!! "Cả trăm con gái, nghìn con gái. Nàng cũng chỉ là người con gái thôi!!!".... Nói thế, chứ dẫu Hoàng có đọc thuộc lòng câu thơ bất hủ đó thì cái "con gái ấy" vẫn quấy rối trong tâm Hoàng lắm. Hoàng cố nghĩ rằng mình ghét nó. Nhưng hình như cái "ghét" nó cứ đi theo chiều nghịch mới khổ thân Hoàng chứ!! Cuối cùng, Hoàng cũng có dịp làm quen được với Thùy. Đó là gần cuối năm. Hội sinh viên Việt Nam có tổ chức một buổi picnic tất niên ngoài trời. Thùy cũng tham dự, và may mắn hơn nữa nàng nằm trong ban hợp ca của trường. Hoàng cũng bon chen xin một chân vào trong nhóm ấy. Ca hát thì Hoàng rất dở. Nhưng nếu nhập nhằng ca cùng một nhóm thì ai biết đấy vào đâu. Dẫu giọng Hoàng có tệ thế nào chắc cũng chẳng sao. Trước tết khoàng hơn một tháng. Ca đoàn trong trường tập dợt ráo riết. Nhưng hình như ông trời không tha cho Hoàng tí nào. Chẳng hiểu sao cứ hễ rướn cổ lên bắt đầu hát thì giọng Hoàng to nhất, ồm ồm, ngang phè không ra tông nào cả, bè cũng không ra bè, mà chính cũng chẳng ra chính. Dẫu Hoàng đã đứng lẫn trong nhóm và hạ thấp giọng mình xuống hát khe khẽ mà giọng vẫn cứ rõ mồn một. Cuối cùng, anh trưởng nhóm đành phải cho Hoàng ra rìa, vác đồ, vác đạc chạy vòng ngoài vậy. Nhưng chính vì thế mà Thùy mới bắt đầu để ý đến Hoàng. Nàng hay cười phì ra mỗi khi nghe Hoàng chuẩn bị.... rống. Hoàng khấp khởi mừng thầm, cảm ơn giọng ca "bất hủ" của mình. Thật cũng không uổng công cho Hoàng bon chen!! Một lần, trong giờ nghỉ lao. Bọn con trai, con gái xúm xít vào nhau nói chuyện. Hoàng ngồi gần Thùy mon men làm quen: - Tôi để ý mỗi lần tôi sắp hát sao thấy Thùy cứ cười hoài vậy? Thùy nhìn Hoàng với ánh mắt ranh mãnh: - Vì anh hát... hay quá. Không nhịn được cười. Hoàng giả bộ ngu: - Hay thì vỗ tay chứ sao lại cười được? Thùy tủm tỉm làm cho cái lúm đồng tiền khi ẩn, khi hiện trên má: - Có loại "hay" mà phải cười chứ không vỗ tay! Hoàng thả một câu thăm dò, hy vọng Thùy sẽ an ủi, nói vài câu lịch sự: - Đúng là Thùy nói móc tôi. Thùy chê tôi hát dở chứ gì? Ai ngờ, Thùy cắn môi, như cố nén nụ cười chực vỡ tuôn: - Phải rồi. Giọng anh... "đặc biệt" quá. Chẳng cứ gì mình Thùy, mà ai cũng phải cười hết.... Đang nói chuyện thì con bạn phải gió của Thùy từ đâu hớt hơ, hớt hải lạch bạch chạy tới. Bằng một cử chỉ rất bất lịch sự, không cần xin phép, nó lôi Thùy đi sềnh sệch về hướng cửa thì thầm chuyện gì đó. Còn lại Hoàng ngồi lại một mình, bực tức. Thầm nhủ: "Phải kiếm một thằng bạn cù lần nào giới thiệu cho "con phải gió" ấy để nó đừng phá mình..." Nhưng giới thiệu thằng nào "con phải gió" cũng đều chê hết. Hoàng tức lắm. Chàng có cảm tưởng nó đang giành nhau Thùy với mình. Hay nó là dân lesbian? Chẳng lẽ nào. Tuy "chúng nó" đi chung với nhau thật nhưng chẳng có cử chỉ gì đáng nghi ngờ cả. Một buổi chiều, trong khuôn viên đại học nhạt nhòa nắng úa. Thùy đi song song với Hoàng làm bộ hỏi bâng quơ: - Ở Thùy có điểm gì anh thích nhất? - Cái lúm đồng tiền!. Thùy tỏ vẻ hơi thất vọng, kêu lên: - Chỉ có mỗi cái lúm đồng tiền thôi hả? Hoàng khôn ngoan đủ để không bị Thùy đưa vào tròng: - Đâu có. Đó là cái "thích nhất". Nhưng Thùy còn có nhiều cái đáng yêu lắm. Như cặp mắt nè. Mắt này đố ai mà bắt nạt được nghe, lanh thì phải biết!!. Cái miệng lém lỉnh nè... Tính tình dễ thương nè... Thùy cười lên khanh khách cãi: - Đâu có. Thùy chỉ.... hơi bắt nạt anh thôi mờ... (giải thích) Thùy "bắt buộc" phải bắt nạt anh trước kẻo anh sẽ bắt nạt Thùy mất. Hoàng biểu đồng tình: - Ờ..., Thùy chỉ có... "khôn nhà, dại chợ" thôi. Mắt lanh chỉ để dành bắt nạt anh tối đa, còn ra đường, dẫu thiên hạ làm gì thì cũng im thin thít. Chạy tuốt về nhà mới dám khóc... Nghe Hoàng "tán" như thế. Thùy hất mặt, "Hứ" lên một tiếng ngắn, rồi hỏi: - Còn anh ghét cái gì nhất? Hoàng trả lời không do dự: - "Con phải gió"... Thùy ngạc nhiên, trợn mắt, khuôn mặt đỏ bừng lên vì giận: - Hả? Anh bảo ai là "con phải gió"? Hoàng biết mình vừa lỡ lời để làm Thùy hiểu lầm, vội vã đính chính: - Xin lỗi. Anh lỡ lời. Ý anh muốn nói cái "con phải gió" là... là... bạn Thùy... Cái cô hay đi với Thùy ấy mà. Chứ không phải anh nói Thùy là... con phải gió...!! Tuy nghe lời giải thích của Hoàng. Nhưng Thùy vẫn giận tím mặt. Nàng quyết chí giận thật dai cho Hoàng biết thân. Nhưng kỳ thực Thùy cũng chẳng giận được Hoàng lâu. Vì hình như, cái "thằng" có cái giọng ồm ồm hát dở ngoại hạng, ngoài hàng rào ấy cũng đã có một ấn tượng đặc biệt trong tâm Thùy mất rồi... Cứ thế đó. Hai đứa yêu nhau rồi giận nhau. Ngủng ngoẳng cả ngày. Tâm hồn Hoàng cứ nổi trôi như giá vàng lên xuống theo những buồn, vui của Thùy. Nhất là những lúc Thùy giận thì khổ biết mấy. Mà cơn giận cũng được chia làm hai loại đó nghe. "Giận ồn ào" và " Giận yên lặng"... Giận ồn ào thì đỡ... "sợ" hơn, Thùy chỉ đánh "võ miệng" ồn ào một lúc rồi quay ra ôm mặt khóc hu hu. Hoàng dễ dỗ, Thùy dễ quên. Nhưng cái giận yên lặng mới đáng sợ. Nó còn yên lặng hơn cả "mặt trận miền Tây vẫn yên tĩnh" nữa.... Lúc đó, mặt Thùy lạnh như tiền. Đố mà có thấy được cái lúm đồng tiền thấp thoáng trên má... Nhưng lúc nào Hoàng cũng luôn luôn là người thua cuộc. Là người phải xin lỗi trước. Mặc dù, nhiều khi chẳng biết mình đã làm lỗi gì để xin. Một đôi lần, oải quá, vì Thùy giận quá dai. Hoàng ngồi bó gối nghĩ thầm: "Giá nó đừng có cái lúm đồng tiền ấy thì chưa chắc gì "ông" đã... mê... Tức chết được!!!"[/FONT]