Trái tim không hoàn hảo Sưu tầm Có một chàng thanh niên đứng giữa thị trấn và tuyên bố mình có trái tim đẹp nhất vì chẳng hề có tì vết hay rạng nứt nào. Đám đông đều đồng ý đó là trái tim đẹp nhất mà họ từng thấy. Bỗng một cụ già xuất hiện và nói: "Trái tim của anh không đẹp bằng trái tim tôi!". Chàng trai cùng đám đông ngắm nhìn trái tim của cụ. Nó đang đập mạnh mẽ nhưng đã đầy những vết sẹo. Có những phần của tim đã bị lấy ra và những mảnh tim khác được đắp vào nhung không vừa khít nên tạo ra một bề mặt sần sùi, lởm chởm; có cả những đường rãnh khuyết vào mà không hề có mảnh tim nào trám thay thế. Chàng trai cưòi nói: "Chắc là cụ nói đùa! Trái tim của tôi hoàn hảo, còn trái tim của cụ chỉ là những mảnh chắp vá đầy sẹo và vết cắt". - Mỗi vết cắt trong tim tôi tượng trưng cho một người mà tôi yêu, không chỉ là những cô gái mà còn là cha mẹ, anh chị, bạn bè... Tôi xé một mẩu tim mình trao cho họ, thường thì họ cũng sẽ trao lại một mẩu tim của họ để tôi đắp vào nơi vừa xé ra. Thế nhưng những mẩu tim chẳng hoàn toàn giống nhau, mẩu tim của cha mẹ trao cho tôi lớn hơn mẩu tim tôi trao lại họ, ngược lại với mẩu tim của tôi và con cái tôi. Không bằng nhau nên chúng tạo ra những vết sần sùi mà tôi luôn yêu mến vì chúng nhắc nhở đến tình yêu mà tôi đã chia sẻ. Thỉng thoảng tôi trao mẩu tim của mình nhưng không hề được nhận lại gì, chúnh tạo nên những vết khuyết. Tình yêu đôi lúc không cần sự đền đáp qua lại. Dù những vết khuyết đó thật đau đớn nhưng tôi vẫn luôn hy vọng một ngày nào đó họ sẽ trao lại cho tôi mẩu tim của họ, lấp đầy khoảng trống mà tôi luôn chờ đợi. Chàng trai đứng yên với giọt nước mắt lăn trên má. Anh bước tới, xé một mẩu từ trái tim hoàn hảo của mình và trao cho cụ già. Cụ già cũng xé một mẩu từ trái tim đầy vết tích của cụ trao cho chàng trai. Chúng vừa nhưng không hoàn toàn khớp nhau, tạo nên một đường lởm chởm trên trái tim chàng trai. Trái tim của anh không còn hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu của cụ già đã chảy trong tim anh...
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ăn mừng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vũ Trọng Phụng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Bữa nay cụ Phán Uyên, đã được hiểu rõ cái gì là cái vinh quang, những đồ mừng quý giá, những tấm câu đối đỏ treo la liệt khắp tường, đã đủ an ủi về số tiền bỏ ra. Cái cảnh "ăn uống ầm ầm" hai hôm nay không khiến cụ sốt ruột nữa. Đọc những chữ chúc mừng rất văn chương bằng dạ đen trên nền đỏ, cụ mới khám phá ra rằng: chao ôi thì ra mình xưa nay vẫn có nhiều đức tính mà chính mình không biết, để mà sướng như một kẻ chết được lắm câu đối khóc có thể được thỏa cái vong hồn... Thật là linh đình, và vui vẻ. Thật là vinh dự cho tổ tiên. Trong hai ngày ăn uống thì hôm qua để cho họ hàng và con cháu trong nhà. Chính hôm nay mới là để mời khách ở tỉnh. Đây, bàn các bạn đồng sự của cụ, phần nhiều là nhà nho, số đông đã có nhiều phẩm hàm, huy chương. Tô điểm cho dăm đám người ấy có một quan Bố và một quan Phủ, họ bên nhà vợ của cụ, và đã làm cho cụ tăng thêm sĩ diện. Kia là bàn các ông cũng tai to mặt nhớn thuộc tân học, bạn hữu của "anh tham" nghĩa là vào hàng con cháu cụ mà thôi. ở buồng xép bên cạnh thì các cô đốc, cô giáo, bạn hữu của con gái cụ vậy. Ai cũng về dự tiệc vui vẻ và đông đủ. Thì phải biết cái cách xử thế xưa nay cụ là tròn trĩnh thế nào! Một khi cụ đã về làng thì cũng phải thế nào cho đẹp mặt với người làng! Khách tỉnh về tới tấp hết lượt này đến lượt khác, phần nhiều bằng xe nhà, và có cả hai chiếc xe hơi đỗ ngoài cửa đình nữa! Nghĩ như thế, cụ lại kiêu ngạo như một đứa bé con... - Chúng mày đâu cả rồi! Rõ thế đấy! Ngần ấy con người để sai bảo mà gọi lấy thêm có một ít dấm nữa cũng không đứa nào đi lấy được đấy! Lời gắt của cụ lẫn lộn mất vào tiếng đàn, tiếng trống, tiếng hát, tiếng phách... Cụ nhìn trước nhìn sau, lắc đầu thở dài... Vì có ba tên người nhà thì hai đứa đương bưng những bát cỗ mới hâm cho những bàn ở xa, còn một đứa thì đương chới với, buộc bánh pháo dài vào ống máng. Cụ toan tiến bước xuống phía nhà bếp thì chợt một bàn tay nắm cụ lại, trước một câu nói sốt sắng thế này: - Cụ ơi, cụ hãy vào đây với con! Đó là một khách trẻ tuổi, mà cụ không nhớ rõ tên, âu phục chải chuốt khiến cụ kính nể lắm. - Con tấp tểnh cũng làm được một bài hát để mừng cụ, chẳng biết hay dở như thế nào, xong cũng xin mạn phép các quan khách đây một phen... Người ấy mời cụ ngồi xuống ghế, đưa ra một bài thơ bằng mực đen giấy trắng, lại nhét luôn cả cái dùi trống vào tay cụ nữa, nói tiếp: - Bài hát mừng cụ thì xin cụ thưởng thức mấy tiếng trống cho chúng con cùng nghe. Thẹn quýnh cả người, cụ Phán Uyên đẩy cái trống ra, ấp úng: - Văn chương của ông... thì xin... để phần ông, vì thật tình, tôi cũng không biết đánh trống cô đầu. Rồi cụ giương mục kỉnh lên đọc bài hát nói ấy; xong mỗi câu lại thấy mặt cụ vui tươi thêm lên. Sau cùng, cũng không biết bình phẩm dài lời, cụ chỉ đưa trả tác giả bài hát với cái dùi trống và từ chối: - Hay lắm! Nhưng mà tiếc rằng tôi không biết đánh trống, để xin ông cho nghe... Văn hay lắm! Khi đưa cho đào nương mảnh giấy, cụ rất hổ thẹn, thấy rằng mình quê mùa một cách đáng giận, và thú ả đào quả thật là một thứ văn chương tao nhã thật, chứ không phải chỉ là những trò bậy bạ như người ta vẫn nói xưa nay. Cố nhiên, tác giả những câu hát nói kia nhất quyết chối từ. Cuối cùng, danh dự thưởng văn về tay người cao chức nhất bàn tiệc, là quan Bố Chánh, ông anh họ nhà vợ của cụ chủ. Quan Bố gọi cụ Phán đến ngồi bên mình, rót một cốc rượu nhỏ để trước mặt cụ, giao hẹn bằng một thứ tiếng đồng sang sảng, nghiêm nghị và đáng sợ như những lệnh ban ra giữa công đường: - Đây, cứ mỗi tiếng chát thì ông lại cạn một cốc rượu, vì mỗi tiếng chát của tôi không những là thưởng một câu văn mà thôi, nhưng còn đồng ý với tác giả để ca tụng cái cảnh phú quý, an nhàn của ông nữa. Mọi người vỗ tay, rồi có đến hàng mấy chục người nữa vỗ tay theo. Bên buồng xép ở tận trong kia, đám phụ nữ cũng bỏ đũa bát để đứng thấp thoáng trong mành nhìn ra, chú ý đến cái đại sự ấy nó làm tăng phần trang trọng cho cuộc vui tuy vậy trước vẫn tẻ ngắt. Cụ Phán Uyên xoa tay xin lỗi một cách hiền lành đáng tức cười: - Bẩm, mỗi tiếng chát lại một cốc rượu thì có lẽ cũng nhiều quá, vậy xin cho xong bài thì hãy cho một cốc. Tuy có một vài cụ phản đối lại cụ phán để về bè với quan Bố nhưng sau cùng các quý khách cũng biết nể cái sức khỏe của mái tóc hoa râm. Rồi thì cô đào e hèm dọn giọng, rồi bác kép vặn lại dây đàn, rồi quan Bố tom tom tom cho khách ngừng đũa lắng tai nghe để trở nên một cử toạ nghiêm chỉnh. Cành mai hạc đậu thêm xinh Bốn mươi năm nữa, khang ninh còn dài Ngày xuân cảnh thế tươi cười Đào nguyên há để riêng người ngày xưa! Gia nhân chinh cát Trên tiệc đào kẻ trước dắt người sau... Cuộc trăm năm trời có hẹn ai đâu? Con hạc trắng bấy lâu về bến Nhuệ Mai cốt cách mai già mai vẫn thế Đào nhởn nhơ đào thắm vẻ thêm xuân. Lắng tai nghe tiếng chúc lẫn cung đàn Cất chén cúc mừng người trên thọ tịch Khách bạch ốc nào ai tiên trích Xin dang tay "giật phịch" quả đào tiên... Cõi trần cũng có Đào nguyên. Quan Bố ngất ngưởng đánh luôn: tom tom tom chát tom! Đoạn cụ gật gù nói rõ to: - Hay thật đấy chứ! Văn chương như thế mới gọi là tân thời... "Xin dang tay giật phịch quả đào tiên". Thế có lẳng lơ không? Chuyến này thì cụ phán nhà tôi sẽ vì câu thơ ấy mà cải lão hoàn đồng! Quan Bố ngừng một lát, trông trước nhìn sau, rồi vẫy tay gọi một cô trong bốn cô đào rượu mải tiếp cho các quan khác gần đấy: - Này, cô kia! Cô áo đỏ kia! Lại đây đỡ hộ chén rượu cho chủ nhân cạn hộ đi. Khi cô đào trẻ tuổi đến đứng bên cụ phán, bẽn lẽn nâng cốc rượu thì nhanh như cắt, quan Bố đã nắm lấy một bên cánh tay cụ phán mà quệt một cái vào ngực cô ả, để rồi cười nức nở cắt nghĩa: - Này thì đây: xin dang tay giật phịch quả đào tiên! Các ngài đã thấy chưa? Lúc ấy cụ Phán Uyên đương mải hớp chén rượu, cho nên khi cụ vội lôi được tay ra, cái cử chỉ bó buộc kia cũng đã xong hoàn toàn. Cụ thẹn đỏ cả mặt, sung sướng, đến ứa nước mắt, vì lúc ấy, cử toạ khen cụ sốt sắng như khi họ đi xem đá bóng mà gặp lúc có quả vừa sút vào gôn. Cụ vội vàng đứng lên chạy tuy không biết định chạy đi đâu, như người muốn đi trốn. Sau cùng, cụ đánh trống lảng bằng cách gọi đầy tớ ra mà mắng: - Lấy thêm ít dấm tây vào bàn này! Sao mày đốn thế, mày để tao gào rát cả cổ! Tuy nhiên giọng gắt của cụ thật tình lúc ấy cũng không dữ tợn là mấy, vì cụ vẫn còn thấy rõ cái cảm giác dịu dàng về một bên ngực cô đào trẻ nó chưa tiêu tan hẳn mà lại còn như đọng quyện lại ở cả năm đầu ngón tay già nua đã mấy chục năm rồi chẳng còn biết gì là mùi xuân. Chợt thấy quan Phủ gọi cụ rồi nói một hồi dài: - Này chủ nhân ơi! Nhà nho là thâm lắm đấy nhé! Thôi xin các ngài cũng đừng ai nỡ ép duyên ông anh tôi nữa. Ông anh tôi đã trình bày cái cảnh ngộ éo le, khó xử, của ông anh tôi, ra với thiên hạ rồi! Đấy các cụ xem: quan Bố tôi vừa mới ép duyên xong thì ông anh tôi tức khắc gọi người nhà lấy thêm dấm. Chao ôi, thế thì ông anh tôi đã đủ thâm trầm hay chưa? Vì rằng trong Kiều có câu: Dấm chua lại tội bằng ba lửa nồng! Rất nhiều người lại vỗ tay ran, cười to đến vỡ nhà vỡ cửa. Một cụ bảo cô đào non áo đỏ: - Này em ơi, thôi thế thì em cứ cam chịu ở trầm luân khổ hải thôi chứ người quân tử chẳng vớt em đâu! Một người trẻ tuổi đứng lên nói: - Thưa các cụ trăm điều chẳng qua chỉ tại tác giả cái bài hát nói ấy. Ông khách âu phục trẻ tuổi từ nãy ngồi lặng im vừa thẹn vừa kiêu ngạo về cái bài văn của mình, đương lắng tai nghe xem có ai thì thào chỉ trích gì không, bấy giờ đành phải đứng lên, đón đỡ: - Bẩm các cụ, chúng tôi không ngờ rằng cụ Bố tôi đây ngài lại hiểu bài văn ấy một cách kỹ đến thế để mà đem lý thuyết thực hành ngay như thế. Quan Bố cười khà khà, lên râu bảo thiếu niên: - Thế thì đôi ta tri kỷ lắm chứ còn gì nữa! à quên, xin các cụ thưởng một cốc cho tác giả bài văn hữu tình. Chị áo đỏ đâu, chị lại mời ông ấy cho tôi một cốc nữa. Lại vỗ tay... Nhưng chợt một ông khác, cũng trẻ tuổi, mặt đỏ nhất tất cả, đứng lên trịnh trọng nói: - Bẩm trên các cụ, dưới các ông... Mọi người giật mình lắng tai nghe biết là sắp có chuyện. Ông kia tiếp: - Quan Bố chánh thưởng tác giả bài hát nói ấy cốc rượu là vì nó có tính cách hữu tình. Tôi cũng xin hoan nghênh. Nhưng mà xong rồi thì tôi xin các cụ và các ông cho tôi phạt nhà thi sĩ ấy ba chén vì đó là một nhà thi sĩ tham lam! Vì sao? Vì cụ phán nhà tôi đây bữa nay chỉ có khánh thành nhà mới thôi, vậy mà bài hát mừng có câu mừng cả tiệc thượng thọ nữa, thì, cái lối "tiện dịp" như thế là có hại cho tôi, vì sang năm đúng sáu mươi mà cụ phán tôi không khao thượng thọ nữa thì là lỗi ở nhà thi sĩ ấy. Vậy thì phải phạt. Tác giả bài hát nhìn quanh một lượt thấy trong dăm chục quan khách có một số đông gật gù biểu đồng tình với ông phản đối kia, thì rất lấy làm lo, bèn cãi: - Tôi xin uống ba chén rượu ông phạt! Nhưng nếu sang năm cụ Phán tôi lại khao thượng thọ nữa, thì ông sẽ đáp tôi ra sao? Và có lẽ ông chưa nghe kỹ bài hát! Ông kia gân cổ lên, hùng hồn chẳng kém: - Tôi cho ông phạt trước tôi ba chén nữa, sau khi ông uống ba chén mà các cụ phạt ông! Nhiều người lên tiếng xôn xao, không chịu nhận trách nhiệm về ba chén rượu phạt ấy, ông kia lại nói: - Sao tôi lại chưa nghe kỹ! Ông chả có câu: "Cất chén chúc mừng người trên thọ tịch" là gì! Vậy ông thử đọc tất cả câu đối đây xem có ai mừng thọ tịch không? Có một người cãi hộ: - Nhưng mà thọ tịch ở đây là ý phụ không phải ý chính! Tham Châu vỗ vai ông kia, khẽ gắt: - Thôi đi, tôi van ông nữa, ông đừng gây sự thế! Ông say lắm rồi! Và ông uống ít chứ! - Thưa chú, tôi chưa say, và trước mặt công chúng thế này, xin chú đừng mắng tôi! Chú còn là đàn em biết chưa! Ông ấy vừa nói được có thế thì đã đưa tay lên giữ cổ, khòm lưng xuống, rồi nôn ồng ộc ngay ra đấy như một cái ống máng! Thiên hạ ghê tởm quay nhìn đi chỗ khác và nhà thi sĩ thì khẽ so vai một cái hả hê. Đầy tớ mau quét dọn, trong khi Tham Châu nhăn nhó ôm xốc ông quý khách ấy vào bàn đèn thuốc phiện: - Các ông mau tiêm cho ông ấy một điếu cho giã rượu... Rõ khổ quá, cứ uống như một cái phễu! [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ánh ảo[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Vũ Thanh Trúc[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]1. Chuông reo năm giờ sáng, Thùy hốt hoảng bật dậy. Chết, tối qua mệt quá, nó ngủ quên, còn những bốn bài tập Anh Văn chưa làm. Thùy lật đật chạy đến chiếc bàn con kê sát tường, với tay vặn to chiếc đèn dầu, sửa soạn tập vở. Hôm nay sẽ có một bài kiểm tra giữa học kỳ liên quan tới bốn bài tập. Vậy mà nói chưa làm, không khéo bị xơi trứng ngỗng mất. Tiếng sột soạt giở vở khiến bà thức giấc: "Con làm gì đó, Thùy ?" Dạ, con học bài ạ". Thùy ngoái lại nhìn vào mùng bà, thấy bà từ từ nằm xuống, miệng lẩm bẩm: "Tội nghiệp con nhỏ..." Trên đường đi đến trường, Thùy cứ mải suy nghĩ. Tại sao bà cứ luôn miệng tội nghiệp mình thế nhỉ? Mỗi lần thấy nó ngồi vào bàn học sau giờ đi làm về là bà lại chắt lưỡi tội nghiệp. Nhiều lúc, Thùy muốn hỏi vì sao, nhưng lại thôi. Có lẽ bà là bà nên lúc nào cũng thấy cháu mình nhỏ bé, đáng thương. Thùy thấy mình có gì tội nghiệp đâu. Nó có ba có mẹ (dù hai người không có ở gần nhau và gần nó), có bạn bè và có cả... một việc làm hẳn hoi để phụ tiền ăn học (dù chưa hết tháng để lãnh lương) Vậy là đủ cho một đứa sinh viên bình thường như nó rồi còn gì. 2. Thùy nhớ ngày đầu tiên đi xin việc. Hôm đó, trời ủ ủ sắp mưa. Nhỏ bạn mê tín bảo đó là điềm không tốt. Nhưng Thùy vẫn bình thản bước đi. "Kệ, không được thì kiếm việc khác, lo gì "Vậy mà nó vẫn thấy chiếc xe chạy nặng nề làm sao. Người ta bảo "bình tĩnh mà run", chắc tâm trạng của Thùy bấy giờ. Ông chủ người Anh còn khá trẻ (nó đoán khoảng 39,40) có đôi mắt xanh biếc nhìn nó tươi cười. Thùy mừng rơn trong bụng: "Mở màn vậy là hên rồi!" và yên lòng ngồi xuống chiếc ghế salon êm như nhung. Tiếp theo đó là một cuộc sát hạch kiểu: "Cô ở đâu ?" "Còn đi học à, trường gì, lớp mấy ?" "Ồ, sinh viên năm I à, tốt quá!". Nó trả lời trơn tru mọi câu hỏi và nghĩ thầm: "Trời, tưởng đi phỏng vấn xin việc người ta hỏi Trái đất nghiêng bao nhiêu độ hay Malta nằm ở đâu, chứ ba cái vụn vặt này ai trả lời chẳng được?". Ông ta thì gật gù và luôn miệng: "Great! Great!" làm suýt nữa thì nó phì cười. Vậy là bao nhiêu sự hồi hộp, căng thẳng xen lẫn sợ sệt trước khi bước vào đã biến mất. Ðúng là mi ngốc quá Thùy ạ. Ði phỏng vấn xin một chân hầu bàn thì cần gì phải tinh thông thiên địa chứ. Chỉ cần nói được tiếng Anh và ngoại hình tương đối mà nó thì cũng chẳng tồi lắm, dù có hơi... đen, còn tiếng Anh thì... nó là sinh viên khoa Anh mà lại. Thùy tủm tỉm cười. Ông chủ trở lại, đưa cho nó một túi giấy: "Trong đây là hai bộ đồng phục và hai tạp dề của cô". Ông ta nháy mắt tinh nghịch: "Mai bắt đầu đi làm nhé!" Thùy cầm túi xách ông ta đưa, đứng lên chào tạm biệt mà cứ ngỡ như mơ. Vậy là từ nay nó đã có việc làm, và lại được làm việc với một ông chủ vui vẻ, dễ thương nữa chứ! Chà, nó phải đem khoe với bà ngay mới được. Thùy nhấn mạnh bàn đạp, chạy vù vù, sung sướng với cảm giác sắp có việc làm "lương hậu", và như vậy là đồng nghĩa với "ta đã 18, lớn lắm rồi". 3. Quán ăn nó làm nhỏ thôi, nhưng bên trong tiện nghi phải biết. Tất cả đều sáng loáng, đắt tiền. Mỗi khi bước vào quán, Thùy lại thích thú hít lấy mùi thơm thoang thoảng phả ra từ bốn chiếc máy lạnh sát trần. Trong những lúc vắng khách, nó thường nghịch với hai con cá tai tượng to đùng trong chiếc chậu kiếng nhấp nháy đủ màu kê gần cây đàn dương cầm và ước ao mình cũng có được một con cá tha hồ đem khoe với lũ bạn. Ðôi khi nghĩ lại, nó thấy mình trẻ con làm sao. Sinh viên năm I rồi mà cứ như cô bé lớp chín, chẳng chững chạc lúc nào cả. Người lớn ai lại ước ao có... cá để khoe bao giờ?! Công việc của nó hơi mệt, vì phải chạy lăng xăng bưng bê và phải dỏng tai nghe người nước ngoài gọi món ăn nước ngoài. Những ngày đầu, Thùy không sao quen được mùi hương của món mì Ý sapaghetti, món ăn khoái khẩu của dân Âu Mỹ. Những sợi mì to tròn màu vàng trộn lẫn cà chua băm nhuyễn và dăm thứ gia vị không tên làm nó muốn lộn mửa. Vậy mà khi nó bưng ra, họ đua nhau hít hà và hăm hở khen ngon. Nó phì cười, nghĩ đến món cà ghém mắm tôm nước mình, đem lên cho họ ăn thì không hiểu mặt mũi họ ra sao? 4. Cửa bật mở. Thùy đưa mắt nhìn ông chủ, thấy ông chạy ra hồ hởi bắt tay một vài người khách vừa bước vào với cái vẻ ồn ào thường lệ. Ðôi lần, nó thấy việc ấy có vẻ màu mè sao đó, nhưng chắc là công việc của một người quản lý là phải vậy, vui vẻ và luôn luôn mừng rỡ trước mọi người khách. "Này, cô cho tôi một ly chocolate nhé"- ông khách người Mỹ tóc bạch kim to béo ưỡn ẹo trên chiếc ghế mây. "Thưa ông, loại gì ạ ?" Thùy hỏi. "Loại gì à?" Ông ta mở thực đơn và nhìn vào: "Loại có bơ trắng và lạnh" "Vâng, còn ông?" Nó hỏi ông bên cạnh, người nung núc thịt, có cái mũi đỏ au như bảy chú lùn. "À, cho tôi một ly café" ông ta cất giọng eo éo "không đá, ít đường nghe". Thùy vâng dạ rồi chạy vọt xuống bếp gọi. Nó lấy làm tự hào lắm. Mới có vài ngày đi làm thôi mà Thùy đã quen với công việc, không bị ông chủ phiền toái như những người khác. Nó đảo mắt một vòng khắp quán, thấy không ai kêu gì nữa, vội chạy xuống bếp, bưng ly chocolate và cafe lên. Ðến gần bàn hai ông khách, nó hấp tấp đi nhanh, bỗng trượt chân, chúi về phía trước, hất cả khay vào hai ông khách. Có tiếng ai đó ồ lên. Thùy đứng sững. Bao cặp mắt đổ dồn về nó. Thùy run run, đưa mắt xuống phía góc xa. Một đôi mắt xanh đang vằn lên những tia giận dữ nhìn chăm chăm vào nó. Hai ông khách la lên: " Này cô, lo dọn dẹp đi chứ! Thật là..." Thùy nuốt nước bọt: " Vâng... Rất tiếc... " Hai ông khách lắc đầu ngao ngán, lấy tay phủi phủi áo "Ông chủ đâu" ông mũi đỏ quay lại, hất hàm "Nhân viên làm việc gì kỳ lạ thế?" Ông chủ chạy đến, phân trần: "Dạ, tại đó là nhân viên mới. Mong các ông thứ lỗi. Các ông không sao chứ ạ?" Ông tóc bạch kim khoát tay: " Chỉ hơi dơ chút đỉnh. Lần sau bảo nó cẩn thận hơn". Ông chủ thở phào xoay sang nó, bấy giờ đã dọn dẹp xong xuôi, nhỏ nhẹ: "Làm hai ly khác mau lên, Thùy" Nó gật đầu chạy xuống bếp đặt lại thức uống, bao ý nghĩ chen chúc trong đầu. Tại sao khi nãy ông ta nhìn nó bằng cặp mắt dễ sợ, bây giờ lại nhỏ nhẹ vậy? Vì có mặt khách ở đó hay vì tính ông ta dễ chịu? Dễ chịu à? Không phải rồi, những người làm ở đây vẫn thường bảo ông "tuy vậy mà không phải vậy". Vậy thì tại sao? Nó cảm thấy mình như con cá lẻ loi bơi một mình trong cái hồ lớn. Một chút dao động của nước cũng làm nó phải há hốc mồm hớp bọt liên tục như bị ngợp. Nó lắc đầu, xua bớt ý nghĩ. Một, hai, rồi ba tuần trôi qua. Ông chủ vẫn đối xử nhẹ nhàng với nó. Ðiều đó làm cho nó thấy an tâm và nhiệt tình hơn. Nó bảo với mọi người rằng ông ta thật tốt. Mọi người cười cười, có người còn thòng một câu tiếng Anh chọc nó: "Don't go by impression! (Ðừng có trông mặt mà bắt hình dong!) Thùy vẫn có cách nghĩ riêng của mình. 5. Cuối tháng. Nó cầm xấp tiền trong tay, mắt ngân ngấn nước. Dắt chiếc xe đạp cũ kỹ ra khỏi quán, Thùy bắt gặp những ánh mắt ái ngại của mọi người làm trong quán. Nó cười... méo xệch, nhìn xuống đất. Ðạp xe đi khỏi, nó vẫn cảm giác những ánh mắt ấy dõi theo. Thùy xòe bàn tay ra, nhìn những tờ bạc xanh đỏ, màu mè, đa dạng như chính cuộc sống này. Chợt Thùy giật mình. Có một giọt nước rơi xuống tay, nóng hổi. Thì ra nó đã khóc tự lúc nào, nước mắt ướt cả xấp tiền vừa kiếm được. Thùy nắm tay lại, bặm môi cố ngăn nước mắt. Nó đã bước chân vào làm việc với tất cả sự nhiệt tình non trẻ, cố gắng làm việc siêng năng, mong muốn sẽ được lãnh một món tiền xứng đáng. Vậy mà... Nó ngậm ngùi. Tất cả chỉ vừa mới diễn ra đây thôi, như một gáo nước lạnh đổ tạt vào tâm hồn nóng hổi ngây thơ của nó... ..."À, Thùy ngồi xuống đi" ông ta cười "Rất cám ơn cô đã làm việc nhiệt tình tháng qua, tôi có lời khen đó". Thùy cảm động: "Dạ, có gì đâu. Công việc mà". Ở đây là lương của cô. Ông ta đưa cho nó một trăm ngàn. Vỏn vẹn chỉ có vậy? Thùy nhìn sững vào những tờ giấy bạc, nhìn lên ông chủ, ngạc nhiên đến nỗi không thốt ra được câu hỏi: "Vì sao?". Ông ta nhún vai: "Biết làm sao được. Cô chỉ làm 4 tiếng buổi tối, và chỉ đến 10 giờ. Ngoài ra còn làm bể hai ly và làm khách bực mình". Ông ta đặt tiền xuống bàn: "Tôi trừ của cô một trăm ngàn". Rồi ông vươn người như chực đứng vậy: "Vậy là khá rồi". Thùy ngồi yên, môi mím chặt. Lẽ ra nó phải biết thỏa thuận lương bổng ngay từ đầu. Lẽ ra nó phải biết con người không chỉ có vẻ bề ngoài... Lẽ ra... Nó ngẩng nhìn lên. Ông ta đã đi từ lúc nào. Thùy đứng dậy, cầm lấy tiền, thấy tức cười. Vậy ra những gì lịch sự hay mềm mỏng của ông ta trong một tháng qua cũng chỉ để lấy đi của nó, một con bé nhỏ hơn ông ta những hai chục tuổi, vài trăm ngàn ư? Sao cực nhọc quá vậy? ...Bà đón nó ở cửa. Thấy nó về, bà hỏi: "Người ta trả con bao nhiêu? Có trừ tiền gì không con?" Thùy hơi ngạc nhiên nhưng nó cũng trả lời bà: "Dạ, trừ tiền hai cái ly bể. À, mai con nấu chè mừng tháng lương đầu tiên, bà nhé!" Rồi chợt nghĩ, hay là ăn mừng cái ảnh ảo nó phải nhận biết cả tháng trời? Một tháng đi làm đầu tiên đã mở mắt cho nó nhìn rõ mọi việc hơn. Bất giác, Thùy mỉm cười. Có cái gì là không có giá của nó đâu? [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ăn mừng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Đào Phong Lưu[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Cái xóm núi heo hút yên bình đến mức buồn tẻ từ bao đời nay bỗng nhộn nhịp sôi sục hẳn lên nhờ cái đám khao thượng thọ chín mươi của bà cụ Vẹo, mẹ ông giám đốc Cty Xây dựng Vùng Cao. Cái đám ăn mừng này nó to nhớn, sôi sục không phải chỉ vì hiếu đễ của ông giám đốc với bà mẹ sắp bước qua cái tuổi cửu thập, mà nó còn là cái lễ ăn mừng kép được ông tổ chức để mừng khánh thành cả ngôi “Ngô tộc Gia trang” này nữa. Tấm biển “Ngô tộc Gia trang” sơn son thiếp vàng bằng Hán tự viết theo Khải thư dạng phồn thể, dưới lại có dòng chữ in hoa dịch ra Quốc ngữ, vừa được gắn lên phía trên hai cánh cửa sắt nặng trịch bởi đôi sư tử vờn hai quả cầu được đúc bằng gang hàn liền trên cổng, trông còn “hoành tráng” hơn cả bức hoành phi cổ ngoài đình làng. Cái lễ ăn mừng kép này được tổ chức thật to nhớn và “hoành tráng” là phải, bởi ông giám đốc đã “xoá sổ” không thương tiếc toàn bộ những cái gì thuộc về dấu tích của thời phong kiến và cả của thời dân chủ nhưng “vưỡn còn bao cấp lạc hậu” nữa. Nó gồm một gian nhà thờ họ lợp ngói móng hài, bên trong có đủ hoành phi, câu đối, được làm toàn bằng gỗ tứ thiết do cụ Lý Chắt, bố chồng bà Vẹo, tức ông nội ông vậy, xây dựng từ cái thời phong kiến, đế quốc sài lang còn sót lại và cả cái cơ ngơi hai tầng lầu tường ngoài được trát bằng đá rửa - mốt thời thượng của đầu thập niên 80 thế kỷ trước - được chính ông mời thợ tận Đà Nẵng ra làm, cùng toàn bộ vườn cây ăn quả xum xuê nào cam, quýt, bưởi bòng, hồng xiêm, nào vải, nhãn, chuối, xoài, na, mít v.v…dều bị ông “phăng teo” hết. Trước hôm “hoá kiếp” cái cơ ngơi “đồ cổ” này, ông đã cho dựng rạp mời cả làng đến ăn uống thoả thê và hát Karaoke miễn phí cả ngày bằng cái “lễ Tống cựu” rồi. Hôm nay là “lễ Nghênh tân” ắt phải “hoành tráng” và “lai rai” hơn là cái chắc. Cả cái xóm núi này, mấy khi đã được ngửi khói xe hơi chạy qua, ấy vậy mà hôm nay có đến mấy chục cái ô tô du lịch sang trọng bóng lộn đỗ dọc từ sân đình vào vào tận cổng nhà ông trông như đàn bọ hung đang chờ tấn công bãi phân trâu vậy. Cái công trình “Ngô tộc gia trang” này của ông có đến vài ba hạng mục chính và dăm hạng mục phụ trợ. Nó gồm khu nhà ở một tầng, vâng toàn bộ một tầng theo lối cổ Trung Hoa - chứ nhà hộp xếp tầng chồng đống lên nhau thì còn gì gọi là sang trọng nữa? - làm thuần bằng gỗ lim Nghệ An và gạch ngói Giếng Đáy. Tiếp đến Khu vui chơi gồm phòng tập thể thao đa năng khoảng ba trăm mét vuông được thiết kế theo mẫu hình Kim Tự Tháp Ai Cập; cuối cùng là khu nghỉ ngơi xây theo lối Nga, nhà tròn, mái chóp tròn hình nấm được sơn những sọc xanh, đỏ, đen, trắng uốn lượn theo chiều dọc, trên nữa còn có chóp nhọn chọc vút lên trời. Các hạng mục phụ trợ gồm bể bơi, sân ten nít, đường rải bê tông át phan từ đình làng vào đến cổng “Ngô tộc Gia trang” và chương trình “ rừng hoá” tức là trồng các loại cây cổ thụ làm cây cảnh được dùng xe cầu chở từ trên rừng về trồng dọc hai bên đường, suốt từ đình làng vào và toàn bộ trong sân, vườn nhà ông, thay thế cho những loại cây vừa bị hoá kiếp kể trên. Nói tóm lại “Ngô tộc Gia trang” được kết hợp tinh hoa của các phong cách cổ, kim, Đông, Tây đủ cả. Cái trị giá của “công trình gia đình” vĩ khụ này có tầm cỡ ngang với “công trình trọng điểm Quốc gia”, nên đã có kẻ xấu bụng nghi ngờ ông là tham ô, tham nhũng. Nhưng thực tình thì ông không hề tơ hào một chinh một cắc nào từ ngân sách nhà nước duyệt cấp cho công ty của ông để phát triển giao thông miền núi cả. Bằng chứng là các đoàn thanh tra, kiểm toán mấy lần đến kiểm tra đã ký biên bản xác nhận bằng giấy trắng mực bút bi hẳn hoi. Lợi nhuận chính đáng mà ông được hưởng đều từ tài năng “biết làm việc” và “sáng kiến cải tiến kỹ thuật” của chính bản thân ông đem lại. Này nhé như khối lượng san lấp mặt bằng tạo nền đường những đoạn qua thung lũng, khe suối đều do bên lập dự án tính toán, rồi được cấp trên phê duyệt, công ty ông chỉ thực hiện thi công chứ ông có vẽ được ra số liệu đâu. Nhưng khi làm xong nó dư dôi ra cho ông được vài vạn mét khối, đơn gía mỗi mét khối chỉ có 150 ngàn đồng bạc là ông đã dư dôi ra được đôi ba chục tỷ đồng rồi; hay như hệ thống cọc tiêu, cọc chắn hai bên ven đường phải làm bằng bê tông cốt thép, nhưng ông đã có “sáng kiến cải tiến kỹ thuật” thay bằng bê tông cốt gỗ lim, mà gỗ lim thì kém gì thép, lại không han gỉ được, ông chỉ việc phái công nhân vào rừng cưa chặt miễn phí, lại dư dôi ra được đôi ba chục tỉ đồng nữa, và còn bao nhiêu là cái “sáng kiến” khác của ông nữa chứ! Đều đen lại các khoản dư dôi rồi ông tích cóp lại mà thôi. Lợi nhuận có được ông đều đã phân phối hài hoà cả ba lợi ích là đóng nộp vào ngân sách Nhà nước, bồi dưỡng cho người lao động theo chính sách qui định xong rồi, còn lại cá nhân ông được hưởng là lẽ đương nhiên, chính đáng lắm chứ, sao bảo ông là tham ô, tham nhũng được? Trở lại cái lễ ăn mừng hôm nay, lẽ ra phải vài tháng nữa mới được diễn ra, đợi cho hoàn công tất cả các hạng mục chính, phụ mới tổ chức thì mĩ mãn hơn nhiều. Nay các hạng mục đều chỉ hoàn thiện được từ 80 đến 90 % mà ông đã phải tổ chức gấp gáp là bởi bà cụ Vẹo, mẹ ông ốm nặng quá, đã mấy ngày nay bón cháo mà cũng không nuốt được nữa, phải cho ngậm sâm rồi. Cứ kể thì còn non hai tháng nữa cụ mới cập cái tuổi cửu trùng thượng thọ, tức là chín mươi. Nhưng với bệnh tình này chắc là cụ khó chờ đến được cái ngày đại phúc đó nữa. Mà theo nhời thầy tướng dạy thì năm nay ông đang tuổi kim lâu, cấm kỵ việc xây cất làm nhà, ông đã trót phải mượn tuổi bà cụ để làm công trình này từ hồi đầu xuân, nên cụ phải sống qua cái nấc cửu tuần thì mới để phúc lộc dồi dào cho con cháu được, cụ phải chứng kiến và “phê duyệt, công nhận” cho cái cơ ngơi “Ngô tộc gia trang” đã “đăng ký” tên tuổi cụ với Thổ địa thần linh rồi, thì sự nghiệp của con cháu họ Ngô mới tiếp tục hanh thông, thẳng tiến, chứ cụ mà đi trước cái ngưỡng ấy, khi chưa “phê duyệt, công nhận công trình” là sẽ xui xẻo lắm. Cái dòng Ngô tộc nhà ông và cả cái “Ngô tộc Gia trang” này nữa cũng sẽ “chết yểu” theo cụ mà lụn bại dần thôi. Vì cái nhẽ ấy nên ông phải tổ chức gấp gáp cái lễ ăn mừng kép này, để ngày mai còn đón đoàn các nhà sư dưới chùa Phúc Ấm lên, tổ chức tiếp cái lễ tụng kinh cầu siêu gia thọ cho cụ thì mới kịp. Ông cũng muốn nhân dịp này mà khuếch trương, quảng bá cho cái thương hiệu Công ty Xây dựng Vùng Cao của ông, để tạo uy tín, lấy đà làm ăn, nên ông đã phát đi hàng trăm giấy mời đến các vị chức sắc hàng tỉnh và cả ngành dọc cấp trên dưới Hà Nội nữa rồi. Ông còn thân chinh đến tận tư gia các vị Bí thơ, Chủ tịch, Tỉnh uỷ, uỷ ban nhân dân, Hội đồng nhân tỉnh để mời, nhưng ai cũng nói “hôm đó có tí việc bận nhưng thế nào cũng cử đại diện đến mừng”, cho nên ông dự đoán tân khách to nhất của nhà ông hôm nay chắc cũng chỉ giám đốc hoặc trưởng, phó phòng, ban các Sở của tỉnh là cùng. Chính vì vậy ông đã phải lệnh cho cô em gái có chồng làm vụ phó ở một bộ dưới Hà Nội và ông anh rể là đại tá về hưu mời cao thân quí hữu của họ đến cho thêm phần long trọng. Còn toàn bộ công nhân của công ty tại các công trường xây dựng ông đều ban lệnh “xá tội gia ân” cho nghỉ làm được hưởng lương để về nhà ông ăn cỗ. Không ngờ cái sáng kiến thế chỗ của ông cho hai ông anh và em rể lại có hiệu quả bất ngờ. Đoàn của ông đương kim vụ phó ngoài Hà Nội về ba xe có cả một vị nguyên bộ trưởng, ba vị nguyên thứ trưởng. Khách của ông anh rể đại tá có đến ba bốn tướng một đến hai sao từ cấp nguyên sư đoàn trưởng, đến nguyên tỉnh đội trưởng. Đoàn nào, vị nào cũng đem theo đồ mừng gồm những bao gói bọc giấy đỏ, chất đầy cả hai cái chiếu trải giữa nhà. Nhưng với ông những thứ vật chất ấy tầm thường quá ông chẳng khoái. Ông khoái nhất là những câu đối bằng nhiễu đỏ viền chỉ vàng đều có nội dung ca ngợi gia chủ sống lâu, nhiều tài, nhiều lộc hay là ngôi nhà sang cảnh quan đẹp sẽ có nhiều phúc, nhiều lộc… đại loại như “Thọ tỷ Nam Sơn, phúc như Đông Hải”, “Đắc thiên đắc địa đắc cảnh, tăng tuế tăng phú tăng tài”, “Niên phong nhân thọ phúc mãn, điểu ngữ hoa hương tình nồng” v.v… Ông sẽ cho treo khắp các phòng trong nhà để mọi người cùng chiêm ngưỡng dài lâu. Ông thích nhất đôi câu đối bằng Hán tự của ông đại tá nhà báo, bạn thân ông anh rể tặng. Tuy ông không hiểu ý nghĩa thế nào vì ông không thuộc dòng dõi nho học, nhưng chắc đã bằng chữ nho mà lại của đại tá nhà báo tự làm thì phải hay ho và thâm thuý phải biết. Ông mạnh dạn không dấu dốt mà chắp tay thỉnh giáo nhà báo rằng: - Thưa bác đồng chí đại tá nhà báo, hôm nay bác đã bớt chút thời gian vàng ngọc mà hạ cố đến bổn tệ xá mừng cho cụ em và nhà em thế này là quí hoá vô vàn rồi. Bác lại cho món quà tinh thần rất văn hoá và dân tộc là đôi liễn này làm em vui mừng khôn xiết và cảm kích bội phần. Dám xin nhờ bác đọc và giảng nghĩa cho em ghi lại thì quí hoá hơn nữa ạ! Được nhời như cởi tấm lòng, ông đại tá nhà báo rất hoan hỉ có phần dương dương tự đắc bảo rằng: - Cái hôm được ông bạn tôi chuyển giấy mời của chú đến, tôi mừng quá, chỉ trong mấy phút tôi đã hứng khởi nghĩ ra câu đối này để mừng thọ cụ và chúc cho chú. Tôi phải đi thuê may thêu gấp để kịp cho hôm nay đấy. Câu đối là thế này- ông hắng giọng đọc thật to như có ý muốn cho nhiều người cùng thưởng thức tài trí uyên thâm của mình: - Mẫu thọ cửu tuần, phúc mãn khoan thưởng cao lầu Bằng trình vạn lí, danh dương mạn trường đại đạo. - Nhưng diễn nôm ra thì nghĩa là gì ạ? - Chủ nhà sốt ruột hỏi và đang cầm giấy bút muốn ghi lại. - Nghĩa là – Ông đại tá nhà báo giảng giải: - Nhà cao cửa rộng, mẹ an khang tuổi thọ chín mươi xuân Phúc nhiều nhà lớn, con thành đạt đường dài vạn dặm. Vừa nghe xong, ông giám đốc sa sầm mặt, không còn hào hứng tán thưởng nữa mà kéo tay ông đại tá anh rể nói: - Bác vào đây em nhờ một tí. Ông anh rể theo vào gian trong thì ông giám đốc hầm hầm hỏi: - Quan hệ giữa anh và tay nhà báo này thân thiết đến mức nào mà để hắn làm câu đối chửi bới xỏ xiên em quá thế? - Câu đối hay đấy chứ, tôi có thấy chỗ nào là chửi bới xỏ xiên đâu nhỉ? - Thì chắc là bác phô với hắn hai thằng con mất dạy nhà em đứa thì phải đi tập trung cai nghiện, đứa thì đua xe tai nạn bán thân bất toại, nên vế trên thì hắn giả vờ ca ngơị “mẹ an khang tuổi thọ”, rồi vế dưới đối bằng câu mỉa mai đểu giả là “con thành đạt đường dài” thì chả là chửi thằng con đua xe máy đường dài nhà em còn gì? Ông anh rể cười phá lên, bảo: - Cậu hiểu nhầm ý tốt của người ta rồi, hôm nay chẳng phải mừng thọ mẹ và mừng tân gia của cậu à? “Con” ở đây là chỉ chính cậu đấy, chứ chỉ chúng nó thì phải là “cháu” chứ! Còn “thành đạt đường dài vạn dặm” là ý ông ấy muốn ca ngợi nghề làm đường của cậu xây dựng cho đất nước hàng vạn cây số đường đẹp, đường mới, chứ nào ông ấy biết đâu cậu có mấy con và chúng nó làm gì? - Ra thế hả bác? Chết thật em tối dạ quá, phải ra xin lỗi ông ấy ngay thôi! Hai anh em vừa định trở ra thì bị bà vợ ông đại tá hốt hoảng chạy đến báo: - U nguy mất rồi cậu với thầy nó ạ, chân cứng đờ rồi, tôi véo vào cũng không biết gì nữa. Mấy lại cậu cho vặn nho nhỏ mấy cái loa hát hổng đàn phách lại cho tôi nhờ, nhức đầu quá đi mất thôi! Ông giám đốc bảo: - Em biết rồi, cứ cho u ngậm sâm, mai các nhà sư sẽ đến làm lễ cầu siêu tụng kinh xin gia thọ là khoẻ lại ngay ấy mà! Mặc cho bà chị đứng đấy âu sầu lo lắng, ông giám đốc quay ra phòng khách rót đầy hai chén rượu cầm đến trước mặt ông đại tá nhà báo: - Xin lỗi, anh em nhà em có tí việc gấp phải trao đổi về sức khoẻ mẹ em. Bây giờ em xin chúc bác một chén để đa tạ bức câu đối tuyệt vời của bác ạ! Ông đại tá phấn khởi cùng cạn chén với chủ nhà. Ông giám đốc lại cầm mi-cờ-rô ý kiến: - Thưa ngài cựu bộ trưởng, thưa ba ngài cựu thứ trưởng, thưa các vị tướng lĩnh cùng các quí khách kính mến, hôm nay tôi vô cùng xúc động trước tấm thịnh tình của mọi người đã không quản ngại đường xá xa xôi mà hạ cố đến đây mừng cho mẹ tôi và gia đình tôi, tôi xin vô cùng cảm ơn và chúc quí vị an khang, hạnh phúc, kính mời quí vị cùng cạn ly! Ông đại tá hô “một, hai, ba”. Mọi người cùng hô lớn: “ dzô!” - Thưa quí vị - Ông Giám đốc nói tiếp – Trong các cuộc vui mọi người đều đã thưởng thức ca nhạc lối mới nhiều rồi, hôm nay cũng là để chào mừng cho sự kiện nước nhà vừa được UNESCO công nhận ca trù và quan họ là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại nên tôi đã mời được cả câu lạc bộ ca trù và làng quan họ đến phục vụ. Xin mời bác đại tá nhà báo đây sáng tác ngẫu hứng cho một câu ca để các đào nương thể hiện hầu quí vị ạ! Ông vừa dứt lời thì bị cô em gái, vợ ông vụ phó sồng sộc chạy ra nắm tay khóc rống lên: - Ới anh ơi!... Ông giám đốc vội vàng lấy tay bịt mồn em gái, rồi quát: - Có việc gì vào trong bình tĩnh nói tao nghe, làm gì mà rống lên thế? - Rồi ông vội kéo em vào trong, rít hai hàm răng quát khẽ: - Mày có câm ngay cái mồm đi không nào? Mày định phá đám phỏng? - U đi rồi… anh ơi!... – Cô em sụt sùi nói. Ông giám đốc lại rít khẽ lên: - Tao biết từ sáng rồi, nhưng u chết rồi thì mày khóc liệu u có sống lại được không? Tao van mày hãy ngận cái mồm cho tao nhờ hết hôm nay, rồi mai sẽ khóc được khô…ô…ông? Rồi ông quay gót trở ra, lại vui vẻ như không có chuyện gì xảy ra, tươi cười nói với mọi người: - Xin lỗi đã làm quí vị mất hứng! Chả là thằng cháu con cô ấy nghịch nước sôi bị bỏng nhẹ một tí, nhưng không sao. Nào xin mời mọi người tiếp tục cạn ly! Loa cứ oang oang hát, bia rượu cứ thoả mái rót, chủ và khách cứ tiếp tục vô tư “trăm phần trăm”, lời hát cứ được hết người này đến người kia tranh nhau sáng tác, đào nương và liền anh liền chị cứ thay nhau trổ tài ca trù, quan họ đan xen, cuộc vui cứ vui như thế và kéo dài thêm nữa… Ông rể đại tá thấy em vợ say lảo đảo rồi thì kéo tay nói khẽ: - Cậu vào trong anh bảo – Rồi ông lôi tuột giám đốc vào trong. Gian trong có bà chị cả, vợ ông đại tá, hai vợ chồng ông vụ phó và bà vợ ông giám đốc đang nước mắt ngắn nước mắt dài sụt sùi khóc lóc. Thấy vậy ông giám đốc vung tay nói lè nhè giọng xay xỉn: - Tôi đã bảo rồi… mọi người hãy chờ ngày mai phát tang rồi khóc thoải mái… còn bây giờ… bây giờ hãy … cứ vui vẻ đã, nghe không? - Nhưng mà cậu ơi! - Vợ ông đại tá thuyết phục em - Thầy chùa bảo u đi vào giờ thìn, thì ngày hôm nay phải liệm vào chính mùi tức là 2 giờ chiều thì mới tốt, chứ để giờ khác là độc lắm em ạ! Ông giám đốc lại vung tay lè nhè: - Độc, độc cái con khỉ. Độc nhà tôi chịu, việc đếch gì đến chị là nữ nhi ngoại đạo…Thôi nhé! Tôi phải ra tiếp khách đây… mà cấm có ai được khóc đấy nhé! Ông lại lảo đảo đi ra, vừa ra đến cửa thì nấc lên và nôn thốc nôn tháo như đổ cám lợn vào máng, rồi gục xuống giữa đám quan khách đang vui vẻ ồn ào. Vợ ông vội chạy ra xốc nách dìu vào trong, vừa đi vừa nói: - Khổ chưa, nốc cho lắm vào! Ông đại tá anh rể, mặt đỏ như quan công giật phắt chiếc mi-cờ-rô của một đào nương đang rên rỉ bài ả đào “hồng hồng tuyết tuyết”. ông nói lớn: - Rất xin lỗi quí vị, vì cậu nó quá say. Tôi thay mặt gia đình làm quyền huynh thế phụ tuyên bố cuộc vui đến đây là kết thúc để chuẩn bị tang lễ cho cụ tôi. Nghe vậy mọi người đều ngơ ngác, chẳng hiểu ông đại tá nói thật hay ông cũng đang quá say mà nói nhảm. [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ám ảnh tình yêu[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Trọng Tấn[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Em có linh cảm rằng tình yêu của chúng ta rồi cũng đổ vỡ". Anh trố mắt nhìn tôi: "Đổ vỡ? Tại sao". Tôi quay đi cố tránh ánh mắt của anh:"Em cũng không biết nữa, đó là do em có thứ linh cảm quái ác đó?" "Có những tình cảm đã được ràng buộc, cứ ngỡ là sẽ bền vững mãi mãi, nhưng rồi cũng đổ vỡ. Vâng, đổ vỡ tất tần tật. Em và anh chưa có gì để ràng buộc!" "Tình yêu của chúng ta chẳng lẽ không là một ràng buộc?" "Tình yêu? Ràng buộc? Những gì thuộc về bên trong của con người chưa hẳn sẽ hiện hữu cùng chủ thể của nó, cho nên tình yêu của đôi ta cũng rất mong manh"... Anh giận tôi vì cho rằng tôi là người không tôn trọng tình yêu, nỡ đùa cợt tình yêu chân thành mà anh dành cho tôi. Vậy là điều tôi linh cảm càng có thật. Vì anh và tôi chưa thật sự hiểu nhau. Sáu tuổi, tôi dã chứng kiến cảnh dổ vỡ của ông bà nội. Tôi đã đọc được ở đâu đó câu nói:"Đôi khi niềm vui của người này lại là nỗi buồn của người khác". Vâng trong cảnh đổ vỡ của ông bà nội, người chịu thiệt thòi nhất chính là bà nội. Sáu tuổi tôi chưa nhận thức được đúng sai thế nào, nhưng nỗi đau mất mát tinh thần - ghen thầm - vượt quá giới hạn chịu đựng đã biến bà thành người tiều tụy rồi bệnh thần kinh nên tôi oán ông quá chừng! Bây giờ thì tôi không còn giận ông nữa, vì tình yêu là cái gì đó rất ma quái ấy thì không tài nào cưỡng lại nổi. Nên khi hai mươi tuổi tôi đã thông cảm cho sự phản bội của ông hơn. Và khi đã hai mươi tuổi, tôi càng thương và thông cảm sự mất mát của bà hơn. Phải chăng đó là sự thiệt thòi của người phụ nữ trong lãnh vực tình yêu? Phải chăng họ chỉ là một công cụ của tình yêu, người ta có thể vứt bỏ nó lúc nào nếu người ta chán? Và số phận của người phụ nữ là phải tuân theo như tuân theo một qui luật khắc nghiệt và tàn nhẫn! Ôi! Nội ơi, con yêu bà biết chừng nào, vì con cũng là gái! Nếu lâm vào hoàn cảnh của bà thì tôi có suy nghĩ như tôi bây giờ không? Năm tôi lên mười sáu, lại một lần nữa tôi chứng kiến đổ vỡ. Sự đổ vỡ ngay trong mái ấm gia dình tôi. Sự đổ vỡ của ba mẹ - sự đổ vỡ của hai đấng sanh thành mà tôi yêu thương nhất. Sự đổ vỡ tàn nhẫn và khắc nghiệt! Lúc dầu, tôi cứ ngỡ rằng nếu sống vắng mặt một trong hai người ấy thì tôi có thể chết đi được. Nhưng không, tôi vẫn sống, có điều lúc ấy tôi khóc nhiều lắm. Tôi nhớ đã đọc được của anh Thạch Biền: "Trong đời người chỉ thật sự khóc một lần. Những lần trước là người ta tập khóc, những lần sau người ta khóc do thói quen". Tôi không hiểu là mình đã thật sự khóc một lần trong đời người hay là tập khóc, hay là khóc theo thói quen? Và cũng từ đó tôi căm thù hạnh phúc, vì mặt trái của hạnh phúc là đau khổ(?). Và tôi không còn tin vào hạnh phúc của vợ chồng nữa; càng không tin sự hạnh phúc quá mơ hồ của tình yêu, khi mà họ chưa có một sự ràng buộc nào để có thể giữ lấy nhau. Mười sáu tuổi tôi chưa biết yêu, nên tôi nguyện với lòng sẽ không bao giờ nhận ba là cha nếu ba không dứt khoát với người đàn bà xinh đẹp ấy. Ba thở dài buồn bã: "Khi nào con lớn, con sẽ hiểu! Tình yêu là một phạm trù bí ẩn. Nó tự phát, tự sanh sôi nảy nở trong trái tim. Nếu nó không còn sanh sôi nảy nở nữa thì nó sẽ dừng lại. Và có thể nó sẽ chết dần, chết dần dến cạn kiệt trong trái tim. Khi tình yêu đã hết thì không thể nào gầy dựng lại con ạ!" Từ đó, tôi bắt đầu sống trong thế giới dằn vặt nội tâm của mình. Tôi sống như một cái bóng đơn côi trong thế giới nhộn nhịp sôi động. Ngoài thời gian đến lớp, tôi giam mình trong ngôi nhà lạnh lẽo - trước kia thì rất ấm cúng để an ủi và chia sẻ nỗi đau mất mát của mẹ. Mười tám tuổi, tôi đỗ vào đại học. Anh học trên tôi hai lớp. Anh thuộc "mô típ" người hoạt bát, sôi nổi và khá điển trai. Đôi mắt anh đã sưởi ấm hồn tôi và ru tôi vào tình yêu đầu đời ngọt ngào mà không tài nào cưỡng lại nổi. Chỉ cần ánh mắt của anh nhìn tôi, tôi như có cảm giác toàn thân mềm nhũn và tan chảy ra dưới ánh mắt sóng sánh ấy. Phải chăng tôi đã rơi vào trận địa đầy ma quái của những người đi trước - bà tôi và mẹ tôi? Để rồi cuối cùng đau khổ(?) Mười chín tuổi. Mẹ tôi tiến thêm bước nữa với người đàn ông khác. Đổ vỡ! Đổ vỡ tất tần tật! Tôi nghĩ rằng sẽ giữ được mẹ suốt đời bên tôi. Niềm hạnh phúc, an ủi cuối cùng trong đời như một túi thóc trút ngược, đổ sạch sành sanh. Tôi chơi vơi, hụt hẫng giữa dòng nước xoáy. Tôi không ngăn cản mẹ bằng nước mắt. Tôi cũng không giành lại mẹ bằng tính ích kỷ con gái. Mẹ đã vuột khỏi tầm tay tôi rồi. Tôi lặng lẽ nuốt nước mắt trôi nghẹn vào trong. Căn nhà trống vắng lại càng thênh thang, lạnh lẽo hơn khi vắng tiếng nói, tiếng cười của mẹ Tôi lẩn quẩn trong ngôi nhà như một bóng mạ Anh hỏi: "Mẹ đâu vắng?" Tôi đáp "Mẹ về thăm ngoại". Khi tôi hai mươi tuổi, tôi vẫn thường đến thăm mẹ và bạ. Tôi đã nhận thức được nhiều hơn lý do của những cuộc đổ vỡ, nên tôi đã hủy bỏ lời nguyền với ba lúc tôi mười sáu tuổi. Không như ba, mỗi lần tôi dến thăm mẹ, mẹ dều cố tình lẩn tránh tôi. Mặc dù tôi biết mẹ rất nhớ và muốn gặp mặt tôi. Mẹ cảm thấy xấu hổ vì không tròn trách nhiệm với tôi chăng? Mẹ đâu biết rằng tôi rất hiểu và thông cảm cho mẹ Tình yêu là một nhu cầu rất lớn về mặt tinh thần để con người tồn tại mà! Tôi càng quí trọng và yêu mẹ hơn. Sau hai ngày giận hờn, anh đến tìm tôi và làm lành với tôi. Chúng tôi huề nhau. Dường như sau những lần giận hờn, tình yêu lại càng khắng khít, sâu đậm hơn. Nhưng mãi sau này, trong anh, ấn tượng "sự linh cảm" của tôi luôn làm anh hoài nghi về tôi. Anh cho rằng tôi đã có người trong mộng khác. Anh luôn có cảm giác rằng anh đã bị "cắm sừng" vì tôi đã ngoại tình tư tưởng. Tại sao anh không hiểu rằng trong tim tôi chỉ có mỗi một bóng hình của anh? Có phải vì anh quá yêu tôi, càng yêu anh tôi càng ám ảnh mặt trái của hạnh phúc là đau khổ là đổ vỡ. Hôm ấy là ngày anh sắp thi tốt nghiệp ra trường. "Nếu anh không dược phân công công tác tại thành phố mà phải về tỉnh (quê anh ở miền Trung) thì anh chẳng biết sống thế nào khi vắng em!?" Tôi biết thế nào rồi cũng sẽ có ngày này. Tôi cố giữ cho mình không biểu lộ chút cảm xúc nào: "Anh cứ xem như chúng ta đã đổ vỡ thì anh sẽ được bình yên và thanh thản!" Anh trố mắt, tái mặt nhìn tôi, chưa bao giờ tôi thấy anh giận dến như vậy. Anh nhìn sâu vào mắt tôi, nghiêm giọng: "Em trả lời dứt khoát cho anh biết, em có yêu anh không? Nếu em bảo rằng em yêu anh và nếu xa anh em rất buồn, rất nhớ thì anh sẽ ở lại thành phố, dù đạp xích lô hay làm bất cứ việc gì". Tôi không còn kiểm soát được mình nữa, nên tôi không rõ mình đã nói gì với anh. Tôi chỉ mang máng nhớ rằng tôi đã lắc dầu vì tôi sợ làm hỏng tương lai của anh; tôi sợ mặt trái của hạnh phúc... Tôi sợ những gì thuộc "bên trong" con người chưa hẳn sẽ hiện hữu cùng chủ thể của nó. Tôi sợ mình cũng sẽ trượt theo vết xe lăn của nội và mẹ... Một ngày không gặp anh. Một tuần không gặp anh. Một tháng không gặp anh. Năm ngày nữa thì tròn hai tháng, tôi nhận được thư anh. "... Em là một tiểu vũ trụ bí ẩn! Anh yêu em mà không bao giờ hiểu được em có yêu anh không? Khi yêu người ta luôn có nhu cầu đòi hỏi dược yêu lại, như thế tình yêu mới được cân bằng và không vô nghĩa. Sao em nỡ tàn nhẫn và độc ác xem tình yêu chân thành của anh như một trò đùa?! Khi em đọc những dòng này thì anh đã đi thật xa rồi. Nơi ấy không có em, nhưng bóng hình em mãi như một ngôi sao lấp lánh - ngôi sao đầy bí ẩn trong lòng anh!" Ôi! Miền Trung! Miền Trung ơi! Anh đang ở nơi nào, đang làm gì, có hiểu được lòng em lúc này không? Có hiểu không? Tôi cố nuốt nhưng giật gì nghèn nghẹn cứ chận ngang ở cổ. Cả bức thư anh không ghi dòng địa chỉ nào cả. Vâng không một dòng địa chỉ nào cả! Tôi chỉ tìm dược bên ngoài phong thư dấu bưu điện: Đà Nẵng, ngày... tháng... năm... [/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Anh yêu em khác mọi người[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Yi Ming [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyễn Hải Hoành dịch[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Em bảo anh: “Xe đạp của em hỏng rồi, em phải đi bộ nửa tiếng đồng hồ mới đến nhà ga”. Em cứ tưởng là anh sẽ tỏ ra quan tâm và nói: Sao em không đi taxi? Em có mệt không? Thế nhưng anh lại bảo: Dù sao thì đường cũng gần thôi, và em cũng có dịp để giảm béo. Em bực mình, cảm thấy anh chẳng yêu em, chẳng quan tâm em. Hôm sau khi ngủ dậy, em thấy trên bàn có chiếc chìa khóa xe đạp của anh và thức ăn bữa sáng thịnh soạn anh đã chuẩn bị sẵn cho em. Bấy giờ em mới phát hiện: Thì ra anh yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì cả - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người. Em bảo anh: “Em muốn đi thăm Osaka và Hà Lan để thưởng thức biển hoa tươi ở đấy”. Em cứ tưởng anh sẽ tỏ ra quan tâm và nói: Em muốn đi đâu cơ? Nào, chúng mình lên kế hoạch nhé. Dù là anh nói vài câu đãi bôi cũng được. Thế nhưng anh lại bảo: Thật vô vị, bỏ ra một núi tiền đi thăm những nơi chán ngấy ấy để làm gì nhỉ? Em tức lắm, cảm thấy anh không yêu em, không hiểu em. Về sau em thấy các tạp chí du lịch trong nhà mình dù là du lịch trong nước hay ngoài nước, cứ trang nào có giới thiệu về thưởng thức hoa, góc cuối trang ấy đều có vết gấp, trên trang ấy đều có ghi chú của anh. Lúc ấy em mới phát hiện thì ra anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người. Em bảo anh: “Tóc em rụng nhiều quá, thế mà bác sĩ bảo chẳng sao cả. Em thật sợ có ngày em sẽ trở thành một con hói”. Em cứ đinh ninh là anh sẽ an ủi em và nói: Tóc em trông vẫn còn khá nhiều đấy chứ. Nhưng anh lại bảo: Thế đấy, bây giờ mới biết tóc em rụng lung tung khắp nơi, sàn nhà chỗ nào cũng thấy tóc em, bẩn ơi là bẩn. Em thấy đau nhói trong lòng, nghĩ rằng anh chẳng yêu em, chẳng để ý đến em. Về sau, em thấy trên sàn nhà càng ngày càng có ít tóc rụng của mình, em nghĩ là mình hết rụng tóc rồi, vì thế cũng chẳng lo lắng chuyện em sẽ trở thành một con hói nữa. Thế nhưng mấy hôm anh đi công tác vắng, em mới thấy trên sàn nhà có nhiều tóc hơn, trong thùng rác cũng thấy có một đống tóc bọc giấy báo. Bấy giờ em mới phát hiện, thì ra anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người. Em bảo anh: “Hôm nay em đi chơi với mấy đứa bạn, tối nay về muộn đấy”. Cứ tưởng anh sẽ quan tâm hỏi em: Đi chơi với ai thế? Đi đường cẩn thận nhé, nhớ gọi điện về nhà, hoặc về sớm một chút... đại loại những câu như vậy. Thế nhưng anh lại bảo: Tùy em, chỉ cần em vui là tốt rồi. Em rất bực mình, cảm thấy anh chẳng yêu em, chẳng quan tâm em. Đêm hôm ấy em giận dỗi 3 giờ sáng mới về, lúc vào nhà em trông thấy nét mặt buồn ngủ bơ phờ của anh. Bấy giờ em mới phát hiện là anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người. Em bảo anh: “Đây là cái áo khoác em chọn cho anh, mua từ hồi đổi mùa năm ngoái, cất trong tủ đã một năm. Bây giờ mùa đông mới sắp đến, em tặng anh sự ấm áp này”. Cứ tưởng anh sẽ xúc động trả lời: Cảm ơn em yêu của anh. Đây là sự ấm áp trong một mùa và cũng là kỷ niệm khó quên trong suốt đời anh. Thế nhưng anh lại nói: Chắc là em mua trong dịp các cửa hàng đại hạ giá chứ gì? Em bực mình lắm, cảm thấy anh chẳng yêu em, chẳng hiểu em. Về sau khi đến cuối tháng 5, hết rét, mùa xuân bắt đầu trở về, em vẫn thường xuyên trông thấy anh mặc cái em gọi là áo khoác tình yêu, anh cho là áo hạ giá ấy. Em nghĩ đi nghĩ lại, đếm đi đếm lại mới kinh ngạc nhận thấy là hầu như ngày nào anh cũng mặc cái áo ấy đi làm. Bấy giờ em mới phát hiện ra là anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người. Em bảo anh: “Em thích ăn món mì nguội của nhà hàng ở góc phố bên kia”. Mới đầu em cứ tưởng là anh sẽ nói với em: Thế thì ngày mai chúng mình cùng đi ăn nhé! Thế nhưng anh lại bảo: Suốt ngày chỉ nghĩ chuyện ăn uống, sao em chẳng nghĩ xem hồi này mình có béo ra không. Em xót xa trong lòng, cảm thấy anh chẳng yêu em, chẳng quan tâm em. Về sau em thấy anh hay mua nhiều loại tương vừng, tương lạc, lọ này hộp nọ, pha hết bát tương này đến bát tương khác cho em ăn. Bấy giờ em mới phát hiện, thì ra anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người. Em bảo anh: “Em thật mừng là đã lấy anh, anh đúng là người chồng tốt nhất”. Cứ tưởng anh sẽ vui vẻ đáp: Anh cũng thấy em là người vợ tốt nhất. Thế nhưng anh lại bảo: Lấy nhau rồi chứ nếu chưa lấy thì em sẽ nghĩ thế nào nhỉ? Em tức lắm, cảm thấy anh chẳng yêu em, chẳng hiểu em. Về sau em vô tình phát hiện thấy tối nào anh cũng lấy giấy vệ sinh lau chùi tấm ảnh cưới của chúng mình để ở đầu giường, lau xong rồi ngẩn người ra mỉm cười ngắm tấm ảnh ấy khá lâu. Bấy giờ em mới phát hiện thì ra anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người. Em nghĩ cuối cùng em đã hiểu ra, dưới vẻ ngoài không quan tâm của anh có một trái tim khó diễn tả bằng lời nói, một trái tim yêu em. Thì ra anh vẫn yêu em, chỉ có điều anh chẳng nói gì - đây là cách yêu của anh, khác với mọi người. Có người nói, khi bạn ra đời thì đã có một mối nhân duyên thiên định sinh ra dành riêng cho bạn. Song biển người mênh mông, thế giới rộng bao la, đời người đau khổ mà ngắn ngủi, làm thế nào mới có thể tìm được mối nhân duyên thiên định dành riêng cho mình ấy? Làm cách nào để có thể tìm được người bạn đời hoàn mỹ đó? Con người hiện đại chẳng bao giờ có thể cố chờ đến cùng mối nhân duyên trời cho ấy, chẳng thể dùng tuổi thanh xuân chóng tàn lụi và tâm trạng lo lắng để nín thở chờ đợi, và thế là anh (chị) thường rất miễn cưỡng chấp nhận chị (anh) theo gió mà bay đến với mình, nhưng sau đó lại luôn luôn so sánh người ấy với người bạn đời hoàn mỹ để rồi thất vọng hết lần này đến lần khác. Họ không biết rằng, thực ra hiểu được cách quý trọng con người ở bên mình và mình đã sở hữu - đấy mới là niềm hạnh phúc lớn nhất, tình yêu chân thật nhất. Nếu có một tình cảm bền vững lâu dài và một tình cảm vẻ ngoài hào nhoáng nhưng lại chóng phai tàn thì bạn muốn lựa chọn tình cảm nào? Thế gian này có vô vàn đàn ông xuất sắc và đàn bà xinh đẹp, song tình cảm thật sự thuộc về bạn lại chỉ có một mà thôi. Dù thế nào đi nữa cũng chớ có vì ánh mắt của người khác mà thay lòng đổi dạ, bỏ mất tình yêu chân thành. Nhất thiết không được sống trong ánh mắt của kẻ khác mà đánh mất chính mình. Cũng mãi mãi đừng có tham lam quá. Tình yêu không phải là giấc mơ, như một truyện hài kể: Nếu ai đó cho rằng trên thế gian này có tình yêu mười phân vẹn mười thì người ấy chẳng phải là nhà thơ thì cũng là kẻ ngớ ngẩn. Cho nên chúng ta hãy để tâm gìn giữ, chăm sóc tình yêu bình thường không có gì là ghê gớm của mình. Các nhà triết học nói: Tình yêu tức là khi bạn biết người ấy không phải là người bạn sùng bái, hơn nữa rõ ràng còn có các khiếm khuyết này nọ, nhưng bạn vẫn cứ chọn người ấy, không vì các khiếm khuyết đó mà chối bỏ toàn bộ con người ấy. Đúng thế, không có một người yêu nào mười phân vẹn mười cả, cũng không có tình cảm nào không có chút tì vết, đó chính là người yêu và tình yêu đích thực. Đến bao giờ ta mới có thể bình tâm suy ngẫm về những lời nói ấy, nghĩ một chút về sự nực cười và ngây thơ của ta năm nào cố công theo đuổi một người tình hoàn mỹ? Nếu có một người mà trong mắt bạn, người ấy không có khiếm khuyết gì hết, bạn kính sợ người đó nhưng lại khát khao muốn được gần gũi người đó, tình cảm ấy không gọi là “tình yêu” mà gọi là “sùng bái”. Khi đã sùng bái thì phải tạo ra một thần tượng, giống như loại tô-tem, một thứ không máu không thịt. Tình yêu không cần thứ đó. Tình yêu là cái rành rành trước mắt có thể lấy tay chạm vào, dùng con tim để lĩnh hội. Yêu là khi biết rõ ràng người ấy ăn mặc luộm thuộm mà bạn vẫn bằng lòng cùng người đó xuất hiện trước đám đông; là khi bạn coi khinh nghề buôn bán mà người ấy lại vẫn cứ là một tiểu thương đáng yêu của bạn; là khi bạn vốn có tính quá ưa sạch sẽ mà lại cam chịu rửa hộp cơm nhầy nhụa mỡ hoặc giặt đôi giày thể thao hôi hám của người ấy. “Anh (em) không phải là người xuất sắc nhất, nhưng em (anh) chỉ yêu một mình anh (em) mà thôi!”. Khi đọc câu ấy, ta có cảm giác như mường tượng thấy một đôi bạn đời từng trải qua muôn vàn sóng gió của cuộc sống đang nắm tay nhau thong thả dạo bước dưới ánh nắng ấm áp, nét mặt tràn trề hạnh phúc ôn lại quãng đời đã qua. Chuyện cũ đã xa rồi mà kỷ niệm xưa vẫn còn đấy mãi mãi...[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ánh sao xa[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Nguyên Hương[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hồi đó ông là anh chàng ba gác đậu xe ở góc đường. Đêm, các cô ngồi rải quanh ba cái bàn hột vịt lộn chập chờn ngọn đèn dầu tí xíu. Người không biết tưởng đó là khách ăn cái trứng trước giờ ngủ. Người biết thì ngồi xuống bên cạnh, lời rủ rê thì thầm trong tiếng đập trứng lách tách. Rồi dắt nhau đi. Ông chú ý đến Cúc vì ông bị gán ghép với cô trong một tối mà cả ba gác lẫn hột vịt lộn đều ế ẩm, cả các cô cũng vậy. Chẳng biết làm gì ngoài ngáp vặt và than thở cuộc sống ngày càng khó khăn, chợt bà Năm Mập xòe tay đếm quanh: - Năm đứa mày, năm thằng ba gác, vậy là thành năm cặp rồi. Chờ ai chi nữa cho mất công. Tiếng cười ồ lên phá tan cơn buồn ngủ. Tiếng cười rất vui vẻ vì quá biết nhau nên chẳng ai mắc cỡ. Thằng Tiến bẻm mép nhất ngay lập tức búng ngón tay "tách" một cái thật kêu: - Ờ, nếu không chê ba gác cực nhọc thì... Tiến xỉa ngón trỏ của bàn tay phải vào ngực mình còn ngón trỏ bàn tay trái chỉ vào Lan, cô có dáng người tròn trịa nhất. Và lần lượt như vậy, hai ngón trỏ chia những người còn lại thành bốn cặp. Phần ông là Cúc. Khi ngón tay Tiến xỉa tới, cô ngước mắt nhìn ông với nụ cười trên môi. Ánh đèn dầu leo lét vẫn rõ hàm răng cô đều đặn và ánh mắt cô bẽn lẽn. Bẽn lẽn như chưa bao giờ vướng thân vào chốn lênh đênh. Đùa vậy mà hóa ra thật. Những tối sau, có lần Tiến vắng thì Lan cũng vắng. Ba cặp kia cũng có lần vậy. - Mày tu hả? - Bà Năm Mập hỏi vặn. Ông chỉ cười, chẳng nói năng gì. Chuyện trăng hoa đàn ông... Nhưng ông thì không. Thật lòng ông có mến Cúc. Cô xinh xắn hiền lành, nhìn cô ông thấy tiếc. Mến là vậy, nhưng chỉ vậy thôi. - Sao không tìm việc gì khác mà làm? - Có lần ông buột miệng hỏi. - Cũng muốn lắm nhưng biết làm gì bây giờ? Câu trả lời như một phân trần. Ông thở dài. Hồi đó ông còn trẻ nên muốn thốt một lời khuyên cũng thấy khó. Ông chỉ biết lắng nghe. Giọng cô buồn mênh mang: - Hồi đó cứ tưởng là... đâu ngờ... Hồi đó lên đây là để học may. Chủ nói học thí công không tốn tiền lại được nuôi cơm, sau hai năm thì ra nghề. Mà hai năm rồi hai năm rưỡi cũng chỉ cứ cơm nước với quét dọn giặt giũ... Người ta đi ở còn được trả công. Vậy nên mới bỏ qua học uốn tóc... - Sao không học uốn tóc cho tới nơi tới chốn rồi mở tiệm?... Ông đợi nghe một lý do vì sao lỡ bước sa chân nhưng chuyện kể bỏ lửng nửa chừng hoài vẫn không nối lại. Lỡ thì lỡ. Cuộc đời còn dài... Ông muốn nói với cô vậy nhưng rồi cũng không nói được. Có lần ông ăn trứng chưa trả tiền. Hôm sau lúc trả, bà Năm Mập kéo tay ngồi xuống: "Tiền này tính bữa nay còn nợ bữa trước con Cúc trả rồi". Tiến cười hinh hích: - Được gái bao là nhất mày đó nghe. Ông nóng mặt chống chế vài câu. Chợt nhớ đôi lần ánh mắt cô là lạ. Rồi nghĩ tới đồng tiền cô kiếm được ông thấy áy náy trong lòng... [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Từ ba gác ông lên đời xe thồ. Từ cô gái quanh quẩn hàng hột vịt lộn Cúc thay đổi bộ dạng trở thành tiếp viên nhà hàng. Tên Cúc giờ có đệm thêm chữ Thu. Cuốc xe cuối ngày của ông là chở Thu Cúc đi khách, tất nhiên trừ những lúc khách tự đưa đón. Giờ thì ông và cô chuyện trò thoải mái. Chiếc xe chạy dưới thấp thoáng ánh sao xa. Những ngôi nhà cao tầng lùi lại. Những ngõ hẻm tối tăm lùi lại. Giọng cô ngòn ngọt vang sau lưng: - Đáng lẽ Cúc có tiền mua xe rồi đó nghe. Chỉ tại tụi nó cứ rủ ngồi sòng. - Tại cô thôi. Mình đã quyết tâm thì... - Trời ơi, cũng tại quyết tâm nên Cúc mới đánh bài. Cũng định là nếu số mình đỏ thì mua xe hơi luôn. Cô cười vang. Ông cũng bật cười. Tới nơi, cô bước xuống nhét vào tay ông tờ giấy bạc màu xanh rồi lập tức lách mình qua cửa ông không kịp thối tiền lại. "Cuốc xe này cô đừng đưa nữa, mấy lần trước còn dư nhiều", lần nào ông cũng nói vậy nhưng rồi lần nào cô cũng vẫn cứ nhét tiền vào tay ông. - Cô làm vậy tôi mắc nợ. - Nợ nần gì - Cô cười vui vẻ. Có lần cô rủ ông đi ăn cháo khuya. "Tối nay cô không có khách sao?" - Ông ngạc nhiên hỏi, đang còn xinh đẹp thế kia mà rảnh rang sao được. Câu hỏi của ông làm cô phá ra cười. "Ăn cháo thì dính dáng gì tới khách". Nhưng rồi chẳng lâu sau những tờ giấy bạc nhét vào tay ông không còn đều đặn. Cô bắt đầu xuống dốc. Từ trong nhà hàng đi ra dáng cô không còn kiêu hãnh rạng rỡ nữa. Lớp phấn son thật dày không giấu nổi vẻ tàn phai. - Cô sao vậy Cúc? - Bịnh - Cô buông thõng. Ông rùng mình. Cô cười nụ: - Ngồi chung xe không lây đâu mà sợ. - Cô còn cười được sao? Tôi thấy cô xấu đi thật mà. Cô nhìn ông bằng ánh mắt xúc động. Ông quay đi, thấy lòng mình xót xa quá đỗi. Một tối, xe ngừng lại nhưng cô không xuống như thường lệ. Ông không nói gì, chỉ im lặng chờ đợi, biết rằng cô sẽ kể cho ông nghe một chuyện gì đó. - Em có bầu rồi. Không phải lần đầu tiên ông nghe cô nói câu này. - Cô định chừng nào đi bác sĩ? - Không. Ông ngạc nhiên. Giọng cô cương quyết: - Lần này em giữ nó lại. Giọng điệu cương quyết khiến ông cảm thấy cô có lý. - Cha nó là ai? Cô cười khúc khích. - Cô định nuôi nó cách nào? - Thì em gởi nó cho bà Thoa. Ông thấy gai gai sau gáy. Ừ thì Cúc cũng như bất kỳ ai cũng muốn có một đứa con... Cúc biến mất suốt năm trời. Đôi khi quả thật là ông cũng thấy nhơ nhớ. Rồi một buổi chiều Cúc đột ngột xuất hiện, tóc tai phờ phạc áo quần xốc xếch, một đứa bé nhỏ xíu lùng nhùng khăn quấn trên tay. - Anh cho em gởi đứa con... - Cô chìa hai tay về phía ông, toàn thân run lẩy bẩy. Ông sững sờ không nói được gì. Cô nghẹn ngào: - Thuốc phiện... Em định liều một lần thôi để kiếm chút tiền rồi hai mẹ con đi thật xa... không ai biết. - ... - Bị lộ, công an bắt mấy người kia rồi. Mình em chạy trốn được nhưng thế nào họ cũng tìm ra nay mai. Em lạy anh. Em biết anh là người tốt. Xin anh nuôi giùm con em - Thu Cúc quỳ sụp xuống - Suốt đời mẹ con em không quên ơn anh. Ông còn đang ngớ ra thì Thu Cúc đặt đứa nhỏ xuống đất rồi quay lưng bỏ chạy, dáng xiêu xiêu ngay lập tức mất hút trong dòng người ngược xuôi vội vàng. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° °[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Căn nhà của ông như có tang. Con cái cúi gằm mặt, vợ sưng húp mắt. Khóc. Mà không thể không chăm sóc con bé! Đi làm về, nhìn thấy con bé no nê sạch sẽ ngủ ngon trong nôi còn vợ thì lẳng lặng giặt giũ, ông thấy mình có lỗi ghê gớm. Nhưng lỗi gì đây? Ông hiểu vợ mình, chỉ cần rõ ràng đây không phải là của ông thì sao cũng được. Nhưng biết làm sao cho bà tin? Có lần ông nghe vợ trả lời người hàng xóm, giọng nhẹ như không: "Ông nhà tôi lành tính lắm, chị đừng nghĩ oan mang tội". Nói vậy mà khi quay vào nhà, mắt bà đỏ mọng. Hai tháng, con bé mập tròn ra còn bà thì tiều tụy hẳn. "Tên khai sinh của con nhỏ là gì vậy?", câu hỏi của bà hàng xóm tọc mạch giáng một đòn chí tử. Vợ ông không chịu đựng được nữa: - Ông định khai tên mẹ nó sao đây? Làm ơn thì làm cho trót, ông muốn trả lời vợ như vậy nhưng không thể nào mở miệng. Mắt bà nhìn ông là mắt của con thú bị thương tích nặng nề. Lòng tốt trở thành gánh nặng đè lên ông, lên tất cả. Không chỉ bà mất ngủ mà cả ông cũng vậy, và cả những đứa con. Đêm, cả nhà vang tiếng trằn trọc như bầy tắc kè chắc lưỡi. Khuya, mở cửa bước ra sân nhìn lên trời. Thoáng ánh sao xa như những cuốc xe đêm ông chở Thu Cúc đi. Ông lẩm bẩm "Thu Cúc, tôi có lỗi với cô". Nước mắt ông trào ra, thương vợ bị giày vò, thương mình bất lực, thương con bé sớm kiếp khổ, thương Thu Cúc đang lưu lạc phương nào. Hồi đó cứ tưởng là... đâu ngờ... Hồi đó lên đây là để học may. Chủ nói học thí công không tốn tiền lại được nuôi cơm sau hai năm thì ra nghề. Mà hai năm rồi hai năm rưỡi cũng chỉ cứ cơm nước với quét dọn giặt giũ... Người ta đi ở còn được trả công. Vậy nên mới bỏ qua học uốn tóc... Đưa con bé tới nhà bà Thoa, ngồi đợi nó ngủ thật say rồi ông mới dứt bước đi. Biết sẽ day dứt lắm nhưng không lường trước được là mình lại nhớ Thu Cúc đến vậy. Cùng với con bé là hình ảnh Thu Cúc hiện ra, không trách móc, chỉ cam chịu... Trong giấc ngủ đầy xao động ông không biết là mình đã khóc. Ba ngày sau, ông quay lại chỗ bà Thoa. Định là nhìn nó một cái thôi. Rồi ông sững sờ khi thấy vợ đang bế con bé, túi áo quần của nó gọn gàng kế bên. Bà nói mà không nhìn ông: - Tôi bế nó về đây. Ông xúc động tận đáy lòng: - Bà muốn tôi thề độc không? - Thề bồi gì. Nghĩ cái tên gì hay hay mà làm khai sinh cho nó đi. Mắt con bé trong veo, ông đặt tên cho nó là Thu Thủy. Thu Thủy biết lật, rồi biết bò, biết ngồi, biết vịn mép giường đứng lên... Mỗi cái biết của Thu Thủy khiến vợ ông gắn bó với nó nhiều hơn. Tới khi Thu Thủy tập đi thì không riêng vợ ông mà là cả nhà cùng dõi theo, cùng vỗ tay reo cổ vũ khi nó nhấc bàn chân rướn thêm được một bước nữa và cùng hồi hộp khi nó liêu xiêu thân hình chực té. Đứa con út của ông bấy lâu mặt nặng mày nhẹ vì vị trí được nuông chiều không còn nguyên vẹn như trước nữa mà nay cũng vội đưa tay ra đỡ khi Thu Thủy muốn té. Những bước chập chững của Thu Thủy đã làm dậy lên không khí đầm ấm trong gia đình.Tiếng cười, tiếng vỗ tay và lời khen khiến bà hàng xóm tìm cớ nhìn qua nhà ông. Vợ ông đáp lại bằng cách bế hẳn Thu Thủy ra sân. Mỗi bước được thưởng một cái thương vô má. Kết thúc mỗi lần tập đi là một trận mưa thương. Bà hàng xóm đành phụ họa bằng những cây kẹo và chặc lưỡi: "Con nhỏ này lớn lên đẹp gái lắm à nghen...". Lớp mầm, lớp chồi, lớp lá... Công việc cuối ngày của ông là ghé nhà trẻ đón Thu Thủy về, khi ông mắc chở khách thì vợ ông thay. Cũng như ông, bà hãnh diện nhìn Thu Thủy xinh xắn bụ bẫm. Ngoài khuôn mặt trời cho, các con của ông làm đỏm cho Thu Thủy bằng vô số kẹp nơ và ruy băng. Nhà trẻ bình dân, giữa bao đứa nhỏ sàn sàn, Thu Thủy nổi bật như một cô công chúa. Mắt Thu Thủy rạng lên khi nhìn thấy bà ở cổng trường, tiếng reo mừng vui và vòng tay tin cậy choàng qua cổ khiến Thu Thủy trở thành một phần của bà, không thể khác được. Bà bế Thu Thủy lên, khó chịu khi nhìn thấy vết muỗi cắn trên người Thu Thủy, bà nóng mặt khi Thu Thủy mếu máo kể bị đứa nào trên lớp đánh, và giận dữ khiếu nại với cô giáo khi trên mặt Thu Thủy có vết móng tay cào đỏ tấy... Có lần ông mường tượng nếu người đón Thu Thủy là Thu Cúc... Ông thốt giật mình và thở dài, làm sao biết được cô đang ở đâu để nói một câu cho cô yên lòng. Rồi ông thấy nao nao khi vợ mình đối mặt với Thu Cúc! Một cảm giác nao nao rất lạ... [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Người đàn ông dáng dấp bệ vệ xuất hiện vào ngày Thu Thủy chuẩn bị lên lớp một. Mặt vợ ông đột nhiên tái ngắt. Linh cảm của phụ nữ thật lạ lùng. Bà đang thêu bảng tên vào ngực áo trắng đồng phục của Thu Thủy, mũi kim đâm vào đầu ngón tay, giọt máu đỏ tươi, bà ngậm chặt ngón tay như cắn răng lại, cái áo tuột rớt xuống nền. Thu Thủy mở to mắt nhìn người đàn ông. Ông ta cũng nhìn nó với đôi mắt mở to. Khẽ khàng, ông ta chìa ra một tờ giấy và nói là thư của Thu Cúc. Chưa đọc thư, không cần nói năng gì ai cũng đã hiểu. Khuôn mặt của ông ta và Thu Thủy... khuôn mặt của cha và con. Vợ ông trân trối nhìn người đàn ông rồi nhìn qua Thu Thủy. Chừng đó ngày tháng, bây giờ bà mới chắc chồng mình thủy chung. Nhưng điều đó không còn ý nghĩa nữa! Thu Thủy sẽ đi với cha nó. Ông ta có quyền! Lá thư của Thu Cúc từ trong tù gởi ra đã trao cho ông ta quyền làm cha sau bao tháng năm. Và lá thư này sẽ tước đi của bà cái quyền bấy lâu... - Tôi sẽ gởi cháu vào nội trú ở trường tốt nhất - Người đàn ông nói. Bà chụp lấy câu nói: - Không phải chính tay ông sẽ chăm sóc nó sao? - Tôi sẽ chăm sóc con tôi trong điều kiện của tôi - Nhận ra câu nói của mình phũ phàng với người ơn, ông ta dịu xuống - Đành vậy. Vợ tôi rất ghen tuông. - Vậy thì thay vì gởi... Người đàn ông cắt ngang: - Con bé cần được học hành ở một trường đàng hoàng - Nhận ra mình lại lỡ lời, giọng nói nhẹ nhàng hơn - Nó cần phải quên quá khứ. Không thể nói gì được nữa. Ông đau lòng thấy vợ mình chết điếng giống hệt buổi chiều ông đưa Thu Thủy trong mớ khăn tã bùng nhùng về. Ông đau lòng nhìn Thu Thủy lạ lẫm trong tay cha nó. Đã nhiều lần ông hình dung Thu Cúc đến đón con và ông tự hào trao lại Thu Thủy cho cô. Nhưng không phải như thế này.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Anh vẫn bên em[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Phương Trinh[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trung tâm mua bán không vắng cũng không đông quá. Hôm nay là cuối tuần nhưng có lẽ còn sớm nên mọi người chẳng việc gì phải vội vã. Đăng nảy sinh ý định đi thử lên lầu 5, lầu trên cùng, để xem người ta bày bán những gì. Tầng năm đây rồi. Ở đây người ta bán sách và anh trông thấy vài đứa nhỏ đang ngồi bệt xuống sàn mà đọc. Ơ... Hình như tòa nhà biết rùng mình. Đăng cảm thấy lảo đảo, và sách đổ xuống như có ai cố tình nghiêng các kệ. Những đứa trẻ hoảng hốt chạy vội xuống lầu. Tòa nhà không đứng vững nữa. Dường như nó đang nhũn ra và run lên cầm cập. Chuyện gì đang xảy ra? Chưa lần nào trong đời Đăng gặp phải tình huống này. Rầm! Rầm! Có cái gì đó đang rơi đổ xuống. Những hình ảnh ngổn ngang giăng đầy trước mắt anh. Một vật va vào đầu anh, cứng lạnh, Đăng lịm dần. Anh thấy mình trôi tuột đi... Đăng tỉnh dậy khi xung quanh anh là bóng tối rợn người. Anh hồi tưởng tất cả những gì đã xảy ra. Hình như là một trận động đất lớn chưa từng có ở thành phố này... Có thể anh đã bị chôn vùi dưới đống đổ nát của tòa nhà. Vừa nghĩ đến tình cảnh của mình, Đăng nhận ngay ra có rất nhiều tảng gạch vỡ đang đè lên khắp người anh. Tòan thân tê liệt. Ngay cả đầu của anh cũng lọt thỏm trong đống đổ nát, chỉ có một khe hở nhỏ xíu để anh có thể nhìn ra ngoài. Không biết bây giờ là mấy giờ? Xung quanh hoàn toàn im ắng. Đăng mệt lả, cổ họng khô cháy và toàn thân dường như đã hóa thạch. Đăng nghĩ có lẽ rồi anh sẽ chết. Nhưng vào giây phút đó, chàng trai mới ngoài hai mươi không thấy sợ cái chết bằng sợ nỗi cô đơn. "Hơ... hơ...". Một tiếng rên yếu ớt vang lên từ đống đổ nát. Tiếng người hay tiếng những âm hồn? Đăng nín thở lắng nghe. Tiếng rên ấy không xa lắm. Thượng Đế ơi, đó là tiếng con gái! Không hiểu sao Đăng lại tin vậy. - Ai đấy? Tôi là Đăng. Tôi còn sống. Đăng cuống quýt lên tiếng. Có lẽ câu chào của anh không được bình thường lắm. Nhưng bình thường sao được, anh đang ở trong một tình thế khác thường mà. Tiếng rên lại vang lên, lần này nhỏ hơn. Đôi môi bỏng rát của Đăng lại thều thào: - Cô gì ơi, cô mệt lắm à? Đáp lại câu hỏi của Đăng chỉ là khoảng im lặng rợn người. Cô gái ấy ra sao? Lúc này, Đăng muốn cô gái kia phải sống, chỉ vì anh không thể chịu nổi sự cô đơn. Thời gian dần trôi... Đăng thấy sinh mạng mình cũng đang dần tắt lịm. Anh sẽ chết mòn chết mỏi vì nỗi cô đơn, vì bị bỏ quên giữa chốn tan hoang này. Rất lâu sau đó, khi nỗi chờ đợi và tuyệt vọng xoắn lấy nhau, bện thành một sợi thừng rối rắm trong lòng Đăng thì tiếng rên lại cất lên, nho nhỏ. Lần này Đăng không cuống cuồng nữa. Anh lắng nghe thật kỹ, tập xác định khoảng cách từ tiếng rên. Có thể cô ấy chỉ cách anh một cái vươn người. Phải làm một điều gì đó... Đăng cố cử động chân tay nhưng quả là bất lực. Đăng chỉ còn cử động được mấy ngón tay, là phần thân thể duy nhất không bị vùi trong gạch vỡ. Những ngón tay Đăng lần tìm trong những tảng gạch chất chồng. Từng chút, từng chút một, ngón tay trở thành đôi mắt, thành cả bước chân, cả trái tim anh. Ngón tay cử động như nhịp tim đang đập. Nhịp tim của một con người đang hướng đến một con người giữa mông mênh chỉ cát đá. Anh chợt nghe một tiếng động gì đó... rất khẽ khàng..., và hình như... đã có một làn hơi mỏng mảnh. Thượng Đế ơi, tay con vừa chạm phải cái gì thế này? Những ngón tay! Bỗng dưng Đăng rơi nước mắt. Giữa sa mạc cô đơn này, những ngón tay con người vẫn tìm đến được với nhau! Đăng cảm thấy biết ơn cô gái kia vô cùng, biết ơn những ngón tay cô đã tìm đến những ngón tay Đăng. Cứ thế, len lỏi giữa đá cát, những ngón tay của hai con người xa lạ cứ xoắn lấy nhau. Anh lại cất tiếng, dù việc mở miệng làm môi anh như nứt rạn ra: - Cho anh gọi là em nhé! Để anh thấy tự tin hơn. Em biết không, khi tỉnh dậy một mình, anh thấy mọi thứ thật vô nghĩa. Con người luôn cần nhau phải không em? Cô gái không trả lời nhưng Đăng tin rằng cô đang lắng nghe anh nói. - Có một người bên cạnh, anh cảm thấy mạnh mẽ hơn nhiều. Anh sẽ hát cho em nghe. Tiếng hát sẽ làm cả anh và em không còn thấy cô đơn! Giọt sương đời một ngày sẽ vỡ tan. Ta có như sương sáng bừng trước khi tan biến? Giọt sương có còn vương trong nỗi nhớ, của một người dậy sớm lúc hừng đông? Tám mươi sáu nghìn bốn trăm giây một ngày chẳng còn gì cả. Hình bóng ta có còn chăng trong nỗi nhớ của người? Khoảnh khắc này là một trong tám mươi sáu nghìn bốn trăm giây một ngày... Em ơi, sao không gần nhau thêm chút nữa?... Khi Đăng ngừng hát, anh cảm thấy những ngón tay cô gái nắm chặt hơn những ngón tay mình. Cô gái thều thào: - Cám ơn anh đã hát vì em... Gia đình, bạn bè em và... anh ấy sẽ chẳng thể ngờ được em có thể nghe... nhạc giữa chốn hoang tàn, chết chóc này. - Anh ấy? Người yêu của em à? Chắc là một tình yêu rất đẹp? - Tất cả mọi thứ đến với em đều nhẹ nhàng, tình yêu cũng thế. Kể em nghe đi, về người yêu của anh... - Biết nói thế nào nhỉ?... Khi cần đưa tay ra đón lấy cơ hội, anh đã chậm một giây... - Rút kinh nghiệm đi! - OK! Xin chấp hành... Em cứ ngủ đi, nếu mệt... - Em không dám ngủ đâu anh. Sự yên ắng này làm em sợ... - Vậy thì anh sẽ hát cho em yên tâm... Giọt sương đời một ngày sẽ vỡ tan... Cô gái định bảo anh đừng hát và hãy ngủ đi, nhưng những giai điệu đã vang lên. Những giai điệu như chiếc nôi, như nhịp võng nhịp nhàng đưa cô trở về giấc mơ ngày thơ trẻ... Khi cô gái mở choàng mắt dậy, cô rất bàng hoàng: - Kìa anh, anh vẫn đang hát đấy à? - Em dậy rồi à? Anh hát để ngay trong giấc mơ em cũng không phải lẻ loi... Anh không biết mặt em, không biết tên em, không biết liệu bọn mình có thoát khỏi đây không... Anh cảm giác những giây phút cuối của đời mình đang mất đi. Anh không muốn chúng trôi qua vô nghĩa, nên anh dành để tặng em... - Anh thật lạ... Lạ hơn tất cả những người em đã gặp. - Đương nhiên rồi. Làm gì có ai gặp em khi đang bẹp dí dưới đống gạch khổng lồ đâu. Chắc người yêu em đang phát điên lên ngoài kia và mọi người phải khó khăn lắm mới ngăn không cho anh ấy chạy vào đây... Có thể khi ra khỏi nơi này, em sẽ quên tất cả... - Như thế thì em bội bạc quá, anh nhỉ... - Anh đã làm được gì cho em đâu... - Vào lúc nguy cấp nhất của đời mình, anh đã ở cạnh em. Chỉ bao nhiêu đó cũng đủ để em biết ơn anh. - Em là một cô gái thật lạ. Cả hai cùng bật cười. Thời gian nặng nề trôi qua. Họ không thể biết điều gì đang xảy ra ở thế giới bên ngoài, chỉ còn lắng nghe hơi thở yếu ớt của nhau, vì không còn sức để nói. Rồi đột nhiên, cô gái lên tiếng: - Em không chịu nổi nữa rồi, em phải đi đây... Đăng hoảng hồn: - Đừng, em. Cố lên! Rất có thể mọi người sẽ tìm ra chúng ta. Anh không có người nào đang chờ anh ngoài kia. Nhưng em thì khác... Cô gái thều thào: - Anh hát cho em nghe đi. Cái im lặng này quá chết chóc. Trời ơi, làm sao em không nhìn thấy anh... Cho em biết là anh vẫn còn bên đó đi... Đăng mấp máy môi nhưng anh biết chắc mình không thể hát nữa. Phải khó khăn lắm anh mới có thể nói cùng cô: - Được rồi, anh sẽ hát cho em nghe bằng những ngón tay... Đăng gõ lên những tảng gạch vỡ. Tiếng gõ cộc... cộc... cộc... như khẳng định: anh vẫn ở bên em. Những tảng gạch vỡ này đang trở thành một dàn nhạc, cổ vũ cho một người đang kiệt quệ. Cô gái cảm thấy bình yên lại khi nghe tiếng ngón tay Đăng gõ trên gạch. Bùng lên trong cô suy nghĩ: Mình không thể chết. Khi nào chàng trai kia còn sống thì mình không thể chết! Không thể để anh ấy lại một mình ở nơi địa ngục này... Một ngày, một ngày, rồi lại một ngày... Cho đến một buổi sáng, khi cô gái đã lả đi, thiêm thiếp, và những ngón tay Đăng vẫn âm thầm, bền bỉ gõ trên mảng tường vỡ, một điều kỳ diệu đã xảy ra... - Anh ơi, anh có nghe gì không? Tiếng động... Hình như có ai đó cố ra hiệu cho bọn mình... Hai nhân viên cứu hộ đang cố tìm một lần cuối cùng những người vẫn còn mất tích sau trận động đất, đã nghe thấy tiếng gõ của Đăng và đã lần theo âm thanh yếu ớt ấy, tìm ra họ. Những ánh đèn pin sục vào những ngóc ngách của đống hoang tàn. - Trời ơi, anh nhìn xem kìa! Một người...! Anh ta vẫn còn sống sau một tuần bị chôn vùi trong gạch đá! Anh bạn trẻ ơi, anh cừ quá! - Anh chàng này gần như đã mê man mà tay vẫn cố gõ lên mảng tường vỡ. Rồi sẽ có cả một chuyện dài về anh ta đây! Khi được hai nhân viên cứu hộ tháo dỡ các phiến gạch nặng trĩu đè lên người, Đăng dần hồi tỉnh lại. Một tia sáng lóe lên giữa cái màn mờ mịt trong óc anh. Anh vội lên tiếng: - Các anh... Xin hãy cứu cô gái trước! Cô ấy yếu lắm rồi, các anh có thấy cô ấy không, cô ấy nằm giữa đống gạch gần tôi đấy... Sau khi đưa hai nạn nhân đến bệnh viện, hai nhân viên cứu hộ ra về, trò chuyện cùng nhau: - Có lẽ họ là cặp tình nhân anh hả? Họ sẽ cưới nhau và hạnh phúc suốt đời. - Anh nói cứ như truyện cổ tích... - Tôi cho là một tuần sống cùng nhau giữa chốn tan hoang này sẽ khiến họ không bao giờ có thể xa nhau được. Mà này, sao lại phải cần đến một trận động đất mới có thể hiểu được lòng nhau nhỉ? Tôi thì tôi chỉ muốn về ngay nhà và hôn vợ ngay lập tức! Vừa tỉnh dậy sau thời gian dài hôn mê, Đăng hỏi ngay: - Cô ấy đâu rồi? Cô ấy có bình yên không? Người y tá nhanh chóng hiểu ra anh muốn hỏi cô gái cùng lâm nạn với mình, đã trả lời rằng khi nào anh khỏe hơn, anh có thể sang thăm cô ấy. [/FONT][FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] ° ° ° [/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif] Cuối cùng thì Đăng cũng có thể ngồi xe và tự mình lăn bánh xe đi. Anh bị liệt do chấn thương quá nặng. Các bác sĩ bảo trường hợp của anh vẫn có thể chữa được, nhưng hy vọng thì rất mong manh. Đăng không quan tâm đến điều đó. Đốëi với anh, việc được sống và được chứng kiến mọi người quan tâm đến mình đã là một niềm hạnh phúc vô bờ bến. Điều duy nhất anh còn băn khoăn là sức khỏe của cô gái. Anh lăn xe sang phòng cô gái theo lời chỉ dẫn của y tá. Cửa phòng chỉ khép hờ. Anh nhìn vào trong. Một cô gái xinh xắn đang mỉm cười cạnh người yêu. Nàng hoàn tòan lành lặn. Đăng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi giờ đây, anh đã nhìn thấy gương mặt người con gái từng ở cạnh mình lúc thập tử nhất sinh. Anh nhìn cô, mỉm cười. Cô gái ngạc nhiên, hỏi: - Anh là ai? Đăng cảm thấy nhói lòng. Anh ngượng nghịu: - Xin lỗi... tôi nhầm phòng. Và anh vội vàng lăn nhanh những vòng xe. Anh hiểu người ta phải biết chấp nhận những mất mát, thua thiệt, cho dù lòng đau đớn tới đâu... - Giọt sương đời một ngày sẽ vỡ tan. Ta có như sương sáng bừng trước khi tan biến?... Tiếng hát làm anh sững lại. Có thật là anh đang nghe một giọng hát không, hay tiếng hát từ cơn mơ vẳng đến? Anh từ từ ngoái đầu nhìn lại. Cô gái, với gương mặt xanh xao của người chưa hoàn toàn bình phục, đang cất lời: - Giọt sương có còn vương trong nỗi nhớ, của một người dậy sớm lúc hừng đông? Tám mươi sáu nghìn bốn trăm giây một ngày chẳng còn gì cả. Hình bóng ta có còn chăng trong nỗi nhớ của người? Khoảnh khắc này là một trong tám mươi sáu nghìn bốn trăm giây một ngày. Anh ơi, sao không gần nhau thêm chút nữa...[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Anh, tôi và máy tính[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Hà Vân[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ngày hẹn gặp nhau, trời không nắng cũng không mưa. Tôi đến sớm nên nhìn thấy anh trước. Tôi nhắm mắt lại rồi mở mắt ra, hy vọng chỉ là ảo giác... Ngày mới quen nhau, tôi đã nửa đùa nửa thật: "Anh giống hệt chiếc máy vi tính. Ðầu là CPU, gương mặt là màn hình, cái miệng là bàn phím, còn trái tim là con chuột". Anh gí ngón tay vào trán tôi, cười to: "Em chỉ khéo tưởng tượng, làm sao giống được, bởi anh biết yêu em. Anh chỉ giống máy vi tính ở chỗ biết xử lý rất nhanh mọi tình huống". Ðến lượt tôi phì cười nhớ lại buổi đầu gặp anh, với một kiểu tỏ tình quái lạ chẳng giống ai. Hôm ấy, mới nộp đơn xin việc xong, vừa hồi hộp vừa lo, tôi ghé một quán nước gần trường cũ, gọi ly cà phê uống trấn tĩnh. Ðang ngồi thẫn thờ, tôi cảm thấy nong nóng sau gáy, quay lại thì bắt gặp một ánh mắt. Chúng tôi nhìn nhau thật lâu, nửa như muốn thi gan, nửa như trêu đùa. Anh đột ngột đứng phắt dậy, tiến đến bàn tôi rồi nói một mạch: "Anh là Minh, kỹ sư tin học. Anh muốn biết tên và địa chỉ của em!". Lúc ấy, như bị thôi miên, tôi ngoan ngoãn xé vội mảnh giấy, ghi tên và số điện thoại rồi đưa cho anh. Tối đó, anh gọi điện đến thật. Nói chuyện với nhau gần hai tiếng đồng hồ, "nấu cháo điện thoại" như tôi hay nói đùa. Ba ngày sau, anh xuất hiện trước cửa nhà tôi, tay ôm một bó hoa hồng... Bạn bè khen: "Chúng mày đẹp đôi!" và trầm trồ về mối tình lãng mạn, tưởng chỉ có trong phim hay tiểu thuyết. Chẳng ai biết rằng, tôi và anh khác nhau như nước với lửa, như mặt trăng với mặt trời. Anh trầm ngâm ít nói, tôi liến thoắng luôn miệng. Anh có thể ngồi suốt ngày bên cạnh chiếc máy vi tính, cũng như tôi ngồi suốt ngày với mấy quyển sách. Có khi, mấy tuần liền, tôi không thấy mặt anh. Những lời thăm hỏi qua điện thoại, lúc đầu làm tôi vui vui, nhưng sau đó làm tôi thấy tủi thân. Sau nữa là buồn, trống vắng và cuối cùng là cảm giác bực bội, chán nản. Có lần, tôi trách anh chỉ biết sống hết mình cho công việc mà không biết hết mình cho tình yêu. Cho là tôi ích kỷ, anh bảo: "Ghen tị với con người chứ ai lại ghen tị với máy vi tính". Gặp nhau, anh tiếp tục say sưa nói toàn chuyện tin học, kể về những người bạn mới quen được trên mạng. Tôi tập thói quen im lặng bên anh, nghĩ ngợi chuyện văn chương. Ðôi khi tôi cũng tự hỏi, phải chăng đó là người mình yêu. Chúng tôi chia tay nhau, sau một lần tôi ốm nặng. Cô bạn thân đến tìm anh báo tin, anh vẫn dán mắt vào màn hình máy tính. Ðúng ba hôm sau, anh mới đến bệnh viện với nụ cười hối lỗi vụng về. Ngày chia tay nhau trời không nắng, không mưa, chẳng có mây đen mù mịt, mà cũng chẳng có giông tố đầy trời... Tóm lại là không lãng mạn chút nào. Thỉnh thoảng, anh khuấy động tôi bằng những tiếng chuông điện thoại. Lần nào cũng vậy, nhận ra giọng anh, tôi lặng lẽ gác máy. Bạn bè bảo: "Mày bướng bỉnh, cố chấp quá". Tôi lắc đầu, cười mà ứa nước mắt. Tôi cắt tóc ngắn, trở lại thói quen ngồi quán cà phê một mình, dạo phố lang thang một mình, thức khuya hơn, nhưng đọc sách ít hơn và bắt đầu tin là có số phận. Bạn bè giới thiệu liền mấy chàng để tôi làm quen, nhưng không ai... giống anh cả. Nga, cô bạn thân đến kéo tôi ra khỏi trạng thái "trầm uất" bằng cách rủ tôi đi học thêm tin học. Tôi đồng ý vì muốn biết nhiều hơn về thế giới của anh, thế giới đã biến anh trở nên y hệt một chiếc computer lạnh lùng, không hồn. Ðến lượt tôi suốt ngày ngồi bên máy vi tính. Tôi vào mạng Internet, tìm thêm những thông tin cho nghề nghiệp. Và rồi tôi cũng thấy thinh thích chuyện gẫu với những người bạn không biết mặt. Ðang lúc tôi bắt đầu tin trong ký ức con người có phím delete như máy vi tính, thì một người khác xuất hiện. Chúng tôi quen nhau qua mạng Internet. Lúc đầu, tôi bị ấn tượng bởi cái tên rất lạ: Downcome, thế là tán gẫu thử. Trò chuyện mấy lần mới biết anh chàng cũng là một kỹ sư tin học. "Downcome nghĩa là thất bại, sao anh lại chọn tên ấy?" "Bởi vì tôi thích và vì tôi cũng đã từng thất bại. Còn em sao lại chọn tên Soundless". "Vì hồi trước nói nhiều quá, nên bây giờ muốn im lặng" "Chúng ta có thể là bạn được không?". Tôi thở hắt ra, cảm thấy thời gian dường như trôi ngược lại, bất chấp các định luật vật lý. Tôi trả lời: "yes, sir". Hầu như ngày nào chúng tôi cũng vào mạng trò chuyện với nhau. Lũ bạn ngạc nhiên: "Mày điên rồi, tìm quên hả?". "ừ thì điên, mà có lẽ cũng sắp quên được rồi". Tôi mạnh miệng, nhưng lại giật mình tự hỏi, quên một con người nhanh chóng không biết là điều tốt hay điều xấu. Downcome bảo: "Nói chuyện với Soundless thật vui. Soundless làm tôi vừa nhớ lại vừa quên một người". "Tôi cũng có cảm giác giống y như vậy". "Nếu ngày xưa tôi được gặp Soundless thì có lẽ tôi không thành Downcome". "Vì không gặp Downcome nên tôi mới thành Soundless". "Vậy thì cho xin địa chỉ nhà nhé!". Tôi chợt rùng mình: "Không, không, chuyện gẫu là đủ, biết nhiều không khéo lại khổ nhiều". "Sao bi quan thế!". "Ðó mới là lạc quan". "Ðừng bắt chước Hămlet suy tư gặp gỡ hay không gặp gỡ, mà phải bắt chước Juliet hỏi Romeo ai đưa lối cho chàng đến đây". Tôi tập làm Hămlet, suy tư mất mấy ngày liền. Chuông điện thoại lại reo, lần này tôi ngồi im, đếm được mười ba tiếng thì nó im bặt, bỗng thấy nhẹ lòng. Mấy ngày sau, Downcome lại rủ gặp nhau. Tôi vẫn phân vân: "Gặp nhau biết đâu thêm buồn". "Thì hai người buồn cùng đi tìm một niềm vui". "Triết lý hơi bị xoàng". "Nghề nghiệp có dính đến văn chương phải không?". Tôi chợt run: "Sao anh biết" "Ðã từng có một người bạn gái có lẽ cũng giống như Soundless". "Không giữ được à?". "Tuột khỏi tay mất rồi". "Cảm giác thế nào?". "Tiếc và buồn. Nhưng đừng nói nữa, để gặp nhau nói nhiều hơn". Tôi tò mò: "ừ thì gặp. Cà phê Văn khoa nhé!". "Có cần ám hiệu gì không? Tôi mặc quần xanh, áo đỏ, đội nón trắng, xách cặp đen...". Tôi cười phá lên trước máy vi tính: "Nên mặc đồ đen như Hămlet". "Nói chuyện nghiêm chỉnh đi, làm sao để nhận ra Soundless?". "Tóc ngắn, mắt to, miệng rộng, mũi hếch, quần jean, áo xanh". "Còn tôi cũng tóc ngắn, mắt vừa vừa, miệng rộng, mũi không hếch, quần Jeans, áo sọc xanh. à này, tôi nói một điều rất quan trọng, rất thật lòng: Tôi yêu em". Tôi mở to mắt nhìn dòng chữ trên màn hình, thấy nhói tim. Sao trên đời này có những người giống nhau đến thế. Ngày hẹn gặp nhau trời lại không nắng cũng không mưa. Tôi đến sớm nên nhìn thấy anh trước. Tôi nhắm mắt lại rồi mở mắt ra, hy vọng chỉ là ảo giác, rằng Downcome và anh Minh ngày xưa của tôi không thể cùng là một người. Anh tháo kính, đưa tay dụi mắt, rồi đeo kính vào và quả quyết tiến đến bàn tôi ngồi. Chúng tôi im lặng, nhìn nhau rất lâu rồi cùng cười phá lên. Bây giờ tôi và anh nói chuyện với nhau bằng điện thoại, bằng mạng máy tính và cả những lần gặp gỡ. Tôi thấy anh bớt giống chiếc máy vi tính. Bạn bè bảo: "Một kết cục có hậu. Hóa ra thời hiện đại vẫn có những chuyện cổ tích dành cho người lớn". Khi tôi thì thầm: "Cám ơn trời cho em gặp lại anh", anh vội ngắt lời: "Em đừng cám ơn trời, em phải cảm ơn máy vi tính". Chúng tôi lại cười và âu yếm nhìn... chiếc máy vi tính.[/FONT]
[FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Ảo tưởng[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Linh Bảo[/FONT] [FONT=Verdana, Arial, Helvetica, sans-serif]Trong đời một người, ai cũng có hàng chục hàng trăm lần kêu lên: ”Trời ơi! Tôi bận quá! Tôi bận lắm!” hay “Tôi bận kinh khủng!”. Mai cũng thế. Suốt quãng đời quá khứ, Mai đã vô cùng bận rộn. Khi mới sinh ra, Mai bận khóc: khóc để đòi bú, đòi ăn, đòi mẹ ấp ủ, khóc vì ngã đau hay để vòi. Khi còn bé Mai bận chơi rồi bận học. Tuổi dậy thì, Mai bận mơ mộng và bận xây mộng viễn du. Khi lập gia đình, Mai bận việc nhà, bận chồng, bận con và bận đi làm để lãnh số lươnng hàng tháng. Rồi cứ thế, cuộc sống tiếp tục bận rộn vì tranh đấu không ngừng. Hôm nay bỗng nhiên Mai thấy tất cả mọi việc đều hoàn tất. Hay nói một cách khác, mọi việc như… hết rồ ! Những ngày bận rộn của Mai đã qua và có lẽ vĩnh viễn không bao giờ trở lại nữa. Hôm nay là ngày sinh nhật của Liên, con gái Mai, được 18 tuổi. Đáng lẽ Mai phải bận rộn lắm mới phải. Mai tính toán, xếp đặt chương trình từ lâu về cái ngày đáng bận rộn hôm nay. Mai phải mua quà, làm bánh sinh nhật, tổ chức tiệc trà, viết thư mời, quét dọn nhà cửa, mua ly cốc, mua đồ ăn thức uống cho bạn bè của Mai và Liên đến dự tiệc. Nhưng trái lại, Mai đã không bận gì cả. Không có bánh, không có tiệc, không có bạn. Cả tòa nhà bỗng nhiên im lặng một cách lạ lùng và trống rỗng đến phát sợ. Cái im lặng trống rỗng mông mênh ấy làm Mai cảm thấy những ngày bận rộn của Mai thật đã chấm dứt từ đây. Liên được 18 tuổi hôm nay. Nó có một bạn trai và hai đứa rủ nhau đi xa để ăn mừng sinh nhật của nó. Liên đã nói với Mai một cách không có vẻ gì quan trọng là có lẽ chúng nó sẽ đính hôn nhân thể. Sinh nhật 18 tuổi là một ngày trọng đại đối với pháp luật ở đây. Đứa con 18 tuổi được ở riêng, được uống rượu, được đi lính, được bỏ phiếu và được kết hôn khỏi cần sự đồng ý của cha mẹ. Nó được làm nhiều thứ, không ai có quyền can thiệp, dù những việc ấy trước đây chúng nó cũng đã làm, nhưng sau 18 tuổi thì trên pháp lý danh chánh ngôn thuận. Liên sẽ mang nhẫn đính hôn, nghĩa là nó sắp lấy chồng. Đúng là một ngày quan trọng nhất trong đời hai mẹ con Mai. Mai ước ao chúng nó làm tiệc ở nhà, để Mai cũng được dự vào một phần quan trọng, nhưng chúng nó thích đi ăn mừng ở một nơi riêng biệt theo kiểu mới, kiểu hippy. Căn phòng chỉ sáng mờ mờ vừa đủ trông thấy. Mai không bật đèn. Nàng nằm trong phòng của Liên, nghĩ đến con và hồi tưởng lại thuở ấu thơ của mình. Ngày xưa... Mai cũng đã rất bận rộn, giống như Liên bây giờ. Lần đầu tiên, Mai bỗng thấy bắt được cái cảm giác của mẹ nàng lúc xưa, khi cả gia đình còn sống chung, sống trong thời mới cũ giao nhau. Ngày xưa... Mai cũng đã làm khổ mẹ. Mai đã bị lôi cuốn vào làn sóng đổi thay của đất nước ở cái tuổi 18, cũng như tất cả thanh niên nam nữ cùng trang lứa. Cái lửa bừng bừng nhiệt huyết đòi “ xếp bút nghiên”... Sáu anh chị em lần lượt rời gia đình, lăn vào xã hội trước tuổi chín muồi. Mai làm gương trước hết, và kết quả là chỉ đem lại cho cha mẹ những sự bực mình, lo lắng khổ sở, nhưng đàn chim sổ lồng kia có bao giờ biết đến đâu! Chúng nó chỉ lo bay cao, bay xa, bay không ngừng, bay không biết mệt và cũng không quay đầu nhìn lại, sợ trông thấy những giòng nước mắt của mẹ già làm cho sắt thép cũng phải mềm. Mẹ Mai có cách tự an ủi rất hiệu nghiệm: ”Con cái là nợ của cha mẹ từ tiền kiếp. Chúng nó chỉ đến để đòi nợ. Cha mẹ có bổn phận nuôi dưỡng, thương yêu, dìu dắt, tha thứ, giúp đỡ tận tụy, rồi... quên đi. Còn thứ con có nợ cha mẹ mới biết phụng dưỡng báo hiếu, làm cho cha mẹ vẻ vang. Mình vô phước nợ nhiều, thì đành trả vậy, không trả kiếp này, kiếp sau nó còn đòi nữa... mệt lắm!” Bà nói và khôi hài với chính mình, nhưng sự thật không giấu được niềm thất vọng. Ngày xưa... ngày xưa với ngày nay chỉ cách nhau 20 năm mà đã có biết bao nhiêu là khác biệt. Những việc ngày xưa cho là quan trọng suốt một đời người, thì ngày nay chỉ là một việc “ có lẽ” và “ nhân thể”. Công bình mà nói, Liên cũng chỉ là một nạn nhân của thế hệ. Thế hệ mới, thế hệ đả phá gia đình, thế hệ của phong trào hippy đang lên đến cao độ. Liên lớn lên trong cái phong trào của thế hệ ấy, làm sao chống cự nổi. Tuần trước, Mai có khách ăn cơm. Một ông bạn đề nghị mọi người cho biết, nếu trong đời mình có dịp được làm lại, thì mình sẽ làm lại cái gì. Mọi người đều nói lên một vài chuyện vui vui, vô thưởng vô phạt. Khi đến lượt Liên, nó xụ mặt lại bảo: - Tôi ao ước được... đừng ra đời! Câu nói như một tiếng sét rơi vào giữa bàn tiệc. Mai lặng hẳn người đi. Mai ngượng với khách và khách ngượng hộ cho Mai. Thằng bạn trai của Liên trưởng thành hơn, tuy không nói gì nhưng cũng tái mặt như tất cả mọi người. Mấy phút nặng nề đến ngạt thở trôi qua. Một bà bạn của Mai gượng cười lên tiếng trước: - Vừa rồi cháu Liên đã trả lời hay lắm. Cháu chưa thực sự ra ngoài đời để sinh sống, tranh đấu, làm gì đã hiểu đời, đã ưu tư, làm gì đã có lỗi lầm để ao ước được làm lại. “ Đời là bể khổ”, Phật dạy thế. Thực ra, tôi cũng không thích sống ở cuộc đời đầy vật lộn tranh đấu, mệt óc mệt thân này. Liên thông minh lắm mới biết... sợ đời từ khi chưa biết đời như thế nào! Một ông bạn khác tiếp theo: - Chính tôi lắm lúc cũng muốn bỏ hết, lên núi tu tiên cho rảnh. Chỉ vì cái vụ... “về nhà thấy vợ công phu chưa đền” nên... không nỡ tu, mới khổ thế này. Mọi người lại vui vẻ cười đùa, nhưng niềm đau trong lòng Mai lên đến cùng cực. Đời Liên đã có gì sai lầm để Liên chán ghét đến thế ? Ai cũng có thể phàn nàn nếu gặp lúc rủi ro khổ sở, nhưng Liên đã ra đời đâu! Liên không khuyết điểm một phương diện nào để có thể phàn nàn được. Mai chợt thấy lạnh người. Tình cảm bỗng nhiên xoay ra một lối khác. Mai không còn u uất vì đứa con ăn nói mất dạy trước mặt khách làm nàng xấu hổ nữa. Mai chỉ xấu hổ vì, hơn một lần, chính Mai cũng đã nói câu ấy, không hề biết đến cảm nghĩ của người nghe: “Tôi ao ước giá đừng ra đời!” Bây giờ Mai hiểu thấm thía rồi. Cố nhiên Mai được cha mẹ tha lỗi, không phải một lần mà cả trăm lần, cũng như Mai đã tha lỗi cho Liên không hề biết chán. Hôm nay, ngày Liên 18 tuổi, ngày quan trọng của tuổi thành nhân. Còn quan trọng hơn nữa là nó sẽ làm lễ đính hôn. Thế mà, Mai là mẹ, lại không được dự để chia vui. Giờ này, Liên đang ở xa Mai đến hàng trăm dặm. Liên với bạn trai của nó đang ăn mừng với nhau và với các bạn riêng. Đây là cuộc sống mới, cuộc sống của cao triều hippy mà Mai cũng như bao nhiêu cha mẹ khác cắn răng chịu đựng, thả buông thả lỏng cho khỏi đứt, chờ khi phong trào chìm lặng, đứa con lạc hướng – hy vọng còn sống – sẽ tìm lại đường về. Thỉnh thoảng Liên cũng ở nhà, khi ốm, khi đói, khi cần ngủ hay giận thầy, giận bạn. Những lúc ấy, Mai thấy Liên có bộ mặt lầm lì dài thườn thượt. Nó muốn được chiều ý tất cả mà không muốn trả giá bằng một bộ mặt tươi cười. Càng về tối càng lạnh hơn. Mai không đốt lò sưởi cũng không vặn đèn. Mai muốn hòa lẫn, tan biến vào bóng đêm để trốn tránh hiện tại. Đã lâu không còn ao ước, giờ đây Mai ao ước được trở về quê viếng mộ cha mẹ. Không biết mộ có còn sạch sẽ, hay cỏ dại mọc đâèy. Mộ là nhà của người chết. Cha mẹ Mai ngày xưa rất nghiêm khắc trong việc sạch sẽ ngăn nắp. Mai muốn chính tay mình – ít ra cũng được một lần – nhổ cỏ mộ cha mẹ. Đi xa quá sớm, Mai đã mất tất cả cơ hội được thương yêu khi cha mẹ còn sống, bây giờ Mai mới thấy là đã phí phạm một thứ quí gía nhất trên đời. Lúc cơn buồn lên đến tột độ, Mai cố vùng vẫy để thoát ra khỏi mơ mộng đắm chìm. Mai đứng dậy bước ra khỏi phòng con, không quên khép chặt cửa lại. Khi Liên đi vắng, Mai mở cửa phòng này để nắng gió vào cho thoáng. Khi cửa phòng này đóng chặt thì đó là dấu hiệu Liên có nhà. Mai đến bàn thờ, đốt một điếu thuốc và một cây hương. Sự thờ cúng tối thiểu của Mai chỉ là tượng trưng, để bày tỏ lòng tưởng nhớ. Sự thật, tất cả đều vô nghĩa. Người chết đã chết, đã thuộc về dĩ vãng... Người sống đã đi xa... Hiện tại chỉ còn một mình Mai lững thững xuống núi. Bây giờ là lúc Mai không bận với đời nữa, có đủ thì giờ dành cho gia đình, nhưng nhìn lại, bên mình Mai chỉ còn là khói hương, khói thuốc và cánh cửa phòng con đóng chặt, cho Mai cái ảo tưởng là tất cả những người thân còn lẩn khuất đâu đây. [/FONT]
Mẹ Điên Vương Hằng Tích; dịch giả: Trang Hạ P.s: Khuyến cáo chị em Phụ Nữ chuẩn bị một chiếc khắc tay trước khi đọc! Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người. Vì vậy, đàn bà trong làng đi qua cô gái thường nhổ nước bọt, có bà còn chạy lên trước dậm chân, đuổi "Cút cho xa!". Thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng. Hồi đó, cha tôi đã 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá bị máy chém cụt tay trái, nhà lại quá nghèo, mãi không cưới được vợ. Bà nội thấy con điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi, làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi "đứa nối dõi" sẽ đuổi đi liền. Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng đành chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không phải mất đồng xu nào, nghiễm nhiên thành chú rể. Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẵm cháu, hóp cái miệng chẳng còn mấy cái răng vui sướng nói: "Cái con mẹ điên này, mà lại sinh cho bà cái đứa chống gậy rồi!". Có điều sinh tôi ra, bà nội ẵm mất tôi, không bao giờ cho mẹ đến gần con. Mẹ chỉ muốn ôm tôi, bao nhiêu lần đứng trước mặt bà nội dùng hết sức gào lên: "Đưa, đưa tôi..." bà nội mặc kệ. Tôi còn trứng nước như thế, như khối thịt non, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? Dù sao, mẹ cũng chỉ là con điên. Cứ mỗi khi mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội lại trợn mắt lên chửi: "Mày đừng có hòng bế con, tao còn lâu mới đưa cho mày. Tao mà phát hiện mày bế nó, tao đánh mày chết. Có đánh chưa chết thì tao cũng sẽ đuổi mày cút!". Bà nội nói với vẻ kiên quyết và chắc chắn. Mẹ hiểu ra, mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, mỗi lần chỉ dám đứng ở xa xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được một ngụm sữa mẹ nào, bà nội đút từng thìa từng thìa nuôi cho tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có "bệnh thần kinh", nếu lây sang tôi thì phiền lắm. Hồi đó nhà tôi vẫn đang giãy giụa giữa vũng bùn lầy của nghèo đói. Đặc biệt là sau khi có thêm mẹ và tôi, nhà vẫn thường phải treo niêu. Bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại cơm nhà, còn thỉnh thoảng làm thành tiếng thị phi. Một ngày, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay xúc đầy một bát cơm đưa cho mẹ, bảo: "Con dâu, nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô. Cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà nào giàu có hơn một tí mà ở, sau này cấm không được quay lại đây nữa, nghe chửa?". Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội tôi hạ "lệnh tiễn khách" liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đờ ra lã tã trong miệng. Mẹ nhìn tôi đang nằm trong lòng bà, lắp bắp kêu ai oán: "Đừng... đừng...". Bà nội sắt mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét: "Con dâu điên mày ngang bướng cái gì, bướng thì chả có quả tốt lành gì đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao dung mày hai năm rồi, mày còn đòi cái gì nữa? Ăn hết bát đấy rồi đi đi, nghe thấy chưa hả?". Nói đoạn bà nội lôi sau cửa ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất như Dư Thái Quân nắm gậy đầu rồng, "phầm!" một tiếng. Mẹ sợ chết giấc, khiếp nhược lén nhìn bà nội, lại chậm rãi cúi đầu nhìn xuống bát cơm trước mặt, có nước mắt rưới trên những hạt cơm trắng nhệch. Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà một cách đáng thương hại. Bà nội ngồi thẫn thờ, hoá ra, mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ sẽ chỉ ăn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ ngoài. Bà nội quay đầu đi, nuốt những nước mắt nóng đi, rồi quay lại sắt mặt nói: "Ăn mau ăn mau, ăn xong còn đi. Ở nhà này cô cũng chết đói thôi!". Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm con cũng không ăn, thập thễnh bước ra khỏi cửa, nhưng mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu không bước ra. Bà nội dằn lòng đuổi: "Cô đi, cô đi, đừng có quay đầu lại. Dưới gầm trời này còn nhiều nhà người ta giàu!". Mẹ tôi quay lại, đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra, mẹ muốn được ôm tôi một tí. Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tã lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẵm tôi vào lòng, môi nhắp nhắp cười, cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội như gặp quân thù, hai tay đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơn điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ ôm tôi chưa được ba phút, bà nội không đợi được giằng tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa lại. Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu biết một chút, tôi mới phát hiện, ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ. Tôi tìm cha đòi, tìm bà đòi, họ đều nói, mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn bạn cùng làng đều bảo tôi: "Mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi." Tôi tìm bà nội vòi vĩnh, đòi bà phải trả mẹ lại, còn chửi bà là đồ "bà lang sói", thậm chí hất tung mọi cơm rau bà bưng cho tôi. Ngày đó, tôi làm gì biết "điên" nghĩa là cái gì đâu, tôi chỉ cảm thấy nhớ mẹ tôi vô cùng, mẹ trông như thế nào nhỉ? mẹ còn sống không? Không ngờ, năm tôi sáu tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang. Hôm đó, mấy đứa nhóc bạn tôi chạy như bay tới báo: "Thụ, mau đi xem, mẹ mày về rồi kìa, mẹ bị điên của mày về rồi!" Tôi mừng quá đít nhổng nhổng, co giò chạy vội ra ngoài, bà nội và cha cũng chạy theo tôi. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó vẫn áo quần rách nát, tóc tai còn những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là do ngủ đêm trong đống cỏ nào. Mẹ không dám bước vào cửa, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, trong tay còn cầm một quả bóng bay bẩn thỉu. Khi tôi và lũ trẻ đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám tôi tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi, nhìn tôi chòng chọc, nhếch mép bảo: "Thụ... bóng... bóng...". Mẹ đứng lên, liên tục giơ lên quả bóng bay trong tay, dúi vào lòng tôi với vẻ nịnh nọt. Tôi thì liên tục lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ ngày đêm tôi nhớ thương lại là cái hình người này. Một thằng cu đứng cạnh tôi kêu to: "Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa? Là mẹ mày như thế này đấy!" Tôi tức tối đáp lại nó: "Nó là mẹ mày ấy! Mẹ mày mới là con điên ấy, mẹ mày mới là thế này!" Tôi quay đầu chạy trốn. Người mẹ bị điên này tôi không thèm. Bà nội và bố thì lại đưa mẹ về nhà. Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị chất vấn dày vò, bà càng ngày càng già, trái tim bà cũng không còn sắt thép được nữa, nên bà chủ động đưa mẹ về, còn tôi lại bực bội, bởi mẹ đã làm tôi mất thể diện. Tôi không bao giờ tươi tỉnh với mẹ, chưa bao giờ chủ động nói với mẹ, càng không bao giờ gọi "Mẹ!", khi phải trao đổi với mẹ, tôi gào là chủ yếu, mẹ không bao giờ dám hé miệng. Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội quyết định huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi đi làm đồng, bà nội dắt mẹ đi "quan sát học hỏi", bà bảo mẹ không nghe lời sẽ bị đánh đòn. Sau một thời gian, bà nội nghĩ mẹ đã được dạy dỗ tương đối rồi, liền để mẹ tự đi cắt cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong cả hai bồ "cỏ lợn". Bà nội vừa nhìn đã tá hỏa sợ hãi, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đòng trỗ bông trong ruộng nhà người ta. Bà nội vừa sợ vừa giận phát cuồng chửi rủa: "Con mẹ điên lúa và cỏ mà không phân biệt được..." Bà nội còn đang chưa biết nên xoay xở ra sao, thì nhà có ruộng bị cắt lúa tìm tới, mắng bà cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội tôi lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta lấy gậy đánh vào eo lưng con dâu, chửi: "Đánh chết con điên này, mày cút ngay đi cho bà..." Mẹ tuy điên, nhưng vẫn biết đau, mẹ nhảy nhỏm lên chạy trốn đầu gậy, miệng phát ra những tiếng lắp bắp sợ hãi: "Đừng... đừng...". Sau rồi, nhà người ta cũng cảm thấy chướng mắt, chủ động bảo: "Thôi, chúng tôi cũng chẳng bắt đền nữa. Sau này giữ cô ta chặt một tí là được...". Sau khi cơn sóng gió qua, mẹ oại người dưới đất thút thít khóc. Tôi khinh bỉ bảo: "Cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn!" Lời vừa dứt, gáy tôi bị một cái tát lật, là bà. Bà trừng mắt bảo tôi: "Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy? Mày còn thế này nữa? Đấy là mẹ mày đấy!" Tôi vùng vằng bĩu môi: "Cháu không có loại mẹ điên khùng thế này!" "A, mày càng ngày càng láo. Xem bà có đánh mày không!" Bà nội lại giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt: "Đánh tôi, đánh tôi!" Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, đừng đánh tôi. Cánh tay bà trên không trung thõng xuống, miệng lẩm bẩm: "Con mẹ điên này, trong lòng nó cũng biết thương con đây!". Tôi vào lớp một, cha được một hộ chuyên nuôi cá làng bên mời đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm ruộng dưới sự chỉ bảo của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không còn gây ra vụ rầy rà nào lớn nữa. Nhớ một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi mẹ đã ngã ì oạch mấy lần, toàn thân trông như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ở ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng còn gọi tôi: "Thụ... ô...". Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông, oán hận mẹ khủng khiếp, hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi xấu hổ, càng hận thằng Phạm Gia Hỷ cầm đầu trêu chọc. Trong lúc nó còn đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp cái hộp bút trước mặt, đập thật mạnh cho nó một phát, nhưng bị Phạm Gia Hỷ tránh được. Nó xông tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau. Tôi nhỏ con, vốn không phải là đối thủ của nó, bị nó dễ dàng đè xuống đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng "vút" kéo dài từ bên ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp "bay" ào vào, một tay tóm cổ Phạm Gia Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp. Ai cũng bảo người điên rất khỏe, thật sự đúng là như vậy. Mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên trên không trung, nó kinh sợ kêu khóc gọi bố mẹ, một chân béo ị khua khoắng đạp loạn xạ trên không trung. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, rồi mặt thản nhiên, mẹ đi ra. Mẹ vì tôi gây ra đại hoạ, mẹ lại làm như không có việc gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, nhìn tôi vẻ muốn lấy lòng. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt. Lúc đó tôi không kìm được kêu lên: "Mẹ!" đây là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói. Mẹ sững sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, rồi y hệt như một đứa trẻ con, mặt mẹ đỏ hồng lên, cười ngớ ngẩn. Hôm đó, lần đầu tiên hai mẹ con tôi cùng che một cái ô về nhà. Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà nội sợ rụng rời ngã ngồi lên ghế, vội vã nhờ người đi gọi cha về. Cha vừa bước vào nhà, một đám người tráng niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì, trước tiên đập phá mọi bát đũa vò hũ trong nhà nát như tương, trong nhà như vừa có động đất cấp chín. Đây là những người do nhà Phạm Gia Hỷ nhờ tới, bố Phạm hung hãn chỉ vào cha tôi nói: "Con trai tao sợ quá đã phát điên rồi, hiện đang nằm nhà thương. Nhà mày mà không mang 1000 tệ trả tiền thuốc thang, mẹ mày tao cho một mồi lửa đốt tan cái nhà mày ra." Một nghìn tệ? Cha đi làm một tháng chỉ 50 tệ! Nhìn những người sát khí đằng đằng nhà họ Phạm, cha tôi mắt đỏ lên dần, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt dỡ thắt lưng da, đánh tới tấp khắp đầu mặt mẹ. Một trận lại một trận, mẹ chỉ còn như một con chuột khiếp hãi run rẩy, lại như một con thú săn đã bị dồn vào đường chết, nhảy lên hãi hùng, chạy trốn, cả đời tôi không thể quên tiếng thắt lưng da vụt lạnh lùng lên thân mẹ và những tiếng thê thiết mẹ kêu. Sau đó phải trưởng đồn cảnh sát đến ngănbàn tay bạo lực của cha. Kết quả hoà giải của đồn cảnh sát là: Cả hai bên đều có tổn thất, cả hai không nợ nần gì nhau cả. Ai còn gây sự sẽ bắt luôn người đó. Đám người đi rồi, cha tôi nhìn khắp nhà mảnh vỡ nồi niêu bát đũa tan tành, lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, cha tôi bất ngờ ôm mẹ tôi vào lòng khóc thảm thiết. "Mẹ điên ơi, không phải là tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như tôi không đánh thì việc này không thể dàn xếp nổi, nhà mình làm gì có tiền mà đền cho người. Bởi nghèo khổ quá mà thành hoạ đấy thôi!". Cha lại nhìn tôi nói: "Thụ, con phải cố mà học lên đại học. Không thì, nhà ta cứ bị người khác bắt nạt suốt đời, nhé!". Tôi gật đầu, tôi hiểu. Mùa hè năm 2000, tôi thi đỗ vào trung học với kết quả xuất sắc. Bà nội tôi vì làm việc cực nhọc cả đời mà mất trước đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Cục Dân Chính khu tự trị Ân Thi (Hồ Bắc) xếp nhà tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, mỗi tháng trợ cấp 40 tệ. Trường tôi học cũng giảm bớt học phí cho tôi, nhờ thế tôi mới có thể học tiếp. Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn đi làm thuê 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi đặt lên vai mẹ, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa cho mẹ mang đi. Hai mươi ki lô mét đường núi ngoằn ngoèo ruột dê làm khổ mẹ phải tốn sức ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào. Ngoài tình yêu mẫu tử ra, tôi không còn cách giải thích nào khác. Y học cũng nên giải thích khám phá hiện tượng này. 27/4/2003, lại là một chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ: "Ngọt quá, ở đâu ra?" Mẹ nói: "Tôi... tôi hái..." không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ: "Mẹ, mẹ càng ngày càng tài giỏi!". Mẹ cười hì hì. Trước lúc mẹ về, tôi theo thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập trước kỳ thi cuối cùng của thời phổ thông. Ngày hôm sau, khi đang ở trên lớp, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi tôi, mẹ tôi có đến đưa tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói đưa rồi, hôm qua mẹ về rồi. Thím nói: "Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!" Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không đi lạc đường? Chặng đường này mẹ đã đi ba năm rồi, có lẽ không thể lạc được. Thím hỏi: "Mẹ mày có nói gì không?" Tôi bảo không, mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi. Thím đập hai tay:" Thôi chết rồi, hỏng rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!" Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi đi men theo đường núi về tìm. Đường về quả thực có mấy cây đào dại, trên cây chỉ lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả. Chúng tôi cùng lúc nhìn thấy trên thân cây đào có một vết gãy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước. Thím nhìn tôi rồi nói: "Chúng ta đi xuống khe vách đá tìm!" Tôi nói: "Thím, thím đừng doạ cháu...". Thím không nói năng kéo tôi đi xuống vách núi... Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành đám màu đen nặng nề. Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi: "Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ... Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào..." Tôi sát đầu tôi vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá dại trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi. Ngày 7/8/2003, một trăm ngày sau khi chôn cất mẹ, thư gọi nhập học dát vàng dát bạc của Đại học Hồ Bắc đi xuyên qua những ngả đường mẹ tôi đã đi, chạy qua những cây đào dại, xuyên qua ruộng lúa đầu làng, "bay" thẳng vào cửa nhà tôi. Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào đầu ngôi mộ cô tịch của mẹ: "Mẹ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi, MẸ có nghe thấy không? MẸ có thể ngậm cười nơi chín suối rồi!"
Người trẻ NGUYỄN BÍCH LAN Nó đi đâu, làm gì, tôi chịu, không hỏi, không xâm phạm sự riêng tư của nó. Nó thuộc “lớp trẻ” mà bây giờ báo chí hay nhắc tới, lớp trẻ dễ bùng nổ, dễ làm... mọi chuyện. Dưới mái nhà chung có tới bốn thế hệ sinh sống, tôi không muốn quan hệ cô cháu giữa tôi và nó có sấm chớp nhì nhằng. Những người lớn khác trong nhà cũng vậy. Cứ như thể có thỏa thuận ngầm giữa tất cả mọi người: mỗi người đều tự cho phép mình liên quan đến mức tối thiểu tới thành viên trẻ nhất. Bố mẹ nó đều là cán bộ quản lý, đi tối ngày, bận tối ngày. Với trọng trách của mình ngoài xã hội không biết đến bao giờ họ mới hết bận. Thỉnh thoảng từ một cuộc họp quan trọng nào đó mẹ nó gọi điện về dặn: “Có gì không hỏi mẹ được cứ hỏi cô An”. Mẹ nó ngầm giao phó nó cho tôi. Lúc còn chưa bận như bây giờ mẹ nó vốn là “fan” hâm mộ của tôi. Mẹ nó từng bảo đang buồn mà đọc một bài thơ buồn của tôi thì hợp như ốc nóng chấm mắm gừng. Nhưng thơ chẳng có liên quan gì ở đây hết. Nào nó có cần hỏi gì tôi. Nó đi cạo đầu trọc lốc có cần hỏi gì tôi đâu. Nó sắm những chiếc quần thô có một lô túi trước túi sau, túi trên túi dưới, mang cái sự lôi thôi luộm thuộm trên người suốt quanh năm có cần hỏi tôi đâu. Ngày nào nó cũng đi tút lút đến tận khuya với lũ bạn trọc đầu cũng chẳng cần hỏi tôi nốt. Những ngày này đi đâu tôi cũng thấy người ta nhắc tới những đám người trẻ xé áo, xé quần, giật tóc, đấm đá nhau, ghi hình từ đầu đến cuối rồi đưa lên mạng Internet như thể muốn tuyên bố với xã hội rằng bọn này tự quyết, tự xử được, chẳng cần ai. Những người không thuộc lớp trẻ cứ hỏi: “Bọn trẻ cứ như thế này thì liệu xã hội sẽ ra sao nhỉ?”. Họ hỏi vu vơ vậy thôi. Hôm nay tôi có nhiệm vụ đưa nó đi khám mắt. Nói thực đi chung với nó cả buổi tôi ngại lắm. Tôi ngại bị nó làm mất mặt. Ông bác sĩ trông thấy cái đầu trọc của nó có vẻ ớn, chỉ hỏi những gì cần phải hỏi. Tuyệt nhiên không có lấy tiếng hỏi han ngoài lề. Ông ấy nói mắt nó có vấn đề cần phải được theo dõi và tôi đã tự nhủ rằng mình phải vin vào lý do đó để ân cần với nó trên đường về. Nhỡ chẳng may mắt nó không nhìn được nữa thì sao? Tôi muốn làm một điều gì đó để chứng tỏ rằng tôi quan tâm đến nó. Thế nhưng ngay cả đến việc ngồi gần nó trên xe buýt tôi cũng không làm nổi. Tôi để cho những người đồng hành chen bật xuống cuối xe. Trong khi nó đứng ở gần cửa lên xuống tận phía trên, tay bám lấy cái vòng sắt ở nóc xe như thể đang chuẩn bị đánh đu. Tôi cứ nghển cổ lên nhìn nó, cố nhìn cho thấy được ánh mắt nó. Tôi muốn xem có chút lo âu nào trong ánh mắt nó hay không. Giá mà tôi chen được lên đứng bên nó. Chỉ cần tôi đứng bên nó thôi biết đâu nó cũng hiểu ra cái thông điệp muốn sẻ chia của tôi nhỉ? Nhưng ai dại gì chen lên, chen xuống trên xe buýt khi đã tìm được chỗ ngồi yên ổn. Ai dại gì mà làm thế! Xuống xe đáng lẽ hai cô cháu tôi cùng về nhà, thế nhưng về đến đầu ngõ nó ngoái lại bảo tôi: “Cháu chưa về đâu”. Tôi chẳng kịp hỏi gì. Lần này đúng là tôi không kịp hỏi gì. Lần này quả thật tôi muốn hỏi nó đi đâu, đi mấy giờ về nhưng tôi không kịp hỏi. Nó cắm đầu bước đi. Chắc là nó đi đàn đúm với lũ bạn để bù cho cả buổi chiều bị con mắt người lớn của tôi giám sát. Mười giờ đêm tôi chưa thấy nó về. Tôi và cả nhà đã quá quen với việc nó về khuya. Thế nhưng hôm nay không hiểu sao tôi cảm thấy lo lắng và day dứt về nó quá. Tôi đi loanh quanh trong nhà, thấy cánh cửa phòng nó không khóa tôi đánh liều bước vào. Tôi thấy phòng nó ngăn nắp đến lạ lùng. Từ chăn gối đến quần áo tất cả đều rất phẳng phiu, in ắn. Cái bàn học của nó đã được chuyển từ bức tường phía nam tới sát ô cửa sổ nhìn ra hướng tây từ bao giờ không ai biết. Tôi rón rén đi tới bên bàn, khẽ lật đám sách vở được xếp thành chồng trên đó. Tôi thấy một tập giấy được đóng thành quyển theo kiểu thủ công có mấy chữ viết tay to tướng của nó trên trang đầu: “TÔI SINH LẠC MÙA”. Tôi lật từng trang giấy có đề ngày tháng và lờ mờ nhận ra rằng đó là nhật ký của nó. Ôi chao, tôi chưa từng thấy ai viết nhật ký theo cái lối kỳ cục như nó. Mỗi trang chỉ có một chữ. “Rách”, “lạnh”, “vắng”, “rơi”, “muộn”, “câm”, ““buồn”, “vỡ”, “nhạt”, “đứt”. Mỗi chữ như mũi kim châm, như một vết thương, như một giọt buồn. Tôi đứng bần thần trước cuốn nhật ký của nó. Rồi tôi choàng tỉnh. Mỗi con chữ lẻ loi và nhói buốt ấy như một bàn tay đẩy tôi ra cửa, kéo tôi xuống cầu thang, lôi tôi ra cổng. Tôi đi tìm nó. Lần đầu tiên tôi cảm thấy mình thực sự muốn liên quan đến mức tối đa tới thành viên trẻ nhất của gia đình.
Bình lựng dzui dzui chút xíu hihihi! Mẹ là Quê Hương... Quê Hương là Mẹ. Gần như kg thể tách rời đc giữa Mẹ và Quê Hương. Mẹ, dù có xấu, có vụng về... thậm chí là có Điên đi chăng nữa thì vẫn là Người sinh ra ta, cho ta hình hài và trí óc... Trong ta, luôn mang dòng máu của Mẹ, trong suốt cuộc đời của mỗi con người! Quê Hương, dù có nghèo, có khốn khó bao nhiêu thì vẫn là nơi ta đc sinh ra, đc chôn nhau cắt rốn và lớn lên... Trong mỗi chúng ta, kg ai lựa chọn đc Cha Mẹ và nơi Sinh ra! Khi ta lớn lên, dù có đi khắp bốn phương trời... Nỗi nhớ khắc khoải trong mỗi con người vẫn là Mẹ, là Quê Hương... Những người Đàn Ông... nếu kg tốt với Mẹ mình thì chắc chắn kg bao giờ là người Chồng tốt trong tương lai. Những người Phụ Nữ... nếu kg tốt với Mẹ mình thì chắc chắn kg bao giờ là người Vợ, người Mẹ tốt trong tương lai. Cảm ơn Huynh Maytinh_5p đã cho mọi người đọc 1 truyện ngắn rất hay, rất cảm động về Tình Mẫu Tử! Nhà Thơ Đỗ Trung Quân đã viết: Quê Hương "Quê Hương mỗi người chỉ một Như là chỉ một Mẹ thôi Quê Hương nếu ai không nhớ Sẽ không lớn nổi thành Người!"
Người đàn bà không nhan sắc Trần Lệ Thường [FONT=Verdana, Arial]Thơm đứng bên cửa sổ, tóc buộc ở sau gáy bằng một sợi dây thun màu vàng. Trong ngày, hễ có lúc nào thuận tiện chị lại đứng bên cửa sổ nhìn ra khoảng sân xi măng rợp bóng cây bàng. Gió đưa những chiếc lá xào xạc, lá nào vàng thì lìa cành rơi xuống sân. Hoàng hôn với những bóng râm sẫm lại giữa những cây bàng trong khi bầu trời vẫn còn giữ được một màu nhôm đánh bóng. luồng ánh sáng lấp lánh cuối ngày ví như tia hy vọng mỏng manh ở trong chị. Đến tháng bảy mưa dầm thì chị về đây làm việc đã mười năm. Trước đó chị công tác ở một cơ quan hành chánh sự nghiệp trong thị xã. Quê ở vùng nông thôn sâu, bên dòng sông nước đục ngầu sáng chiều vẫn chở những mảng lục bình xuôi ngược. Khi chiến tranh kết thúc, mái nhà của gia đình chị chỉ còn là một hố bom khuất sau hàng dừa nước xanh rì. Cô bé Thơm lúc ấy mười ba tuổi, người gầy nhom đen đúa với đôi bàn tay, bàn chân thô kệch lại thêm tật lãng tai sau lần hụt chết vì một quả bom nổ rất gần - chẳng còn ai thân thích ngoài một người chú họ xa. Thơm được chú đưa về thị xã nuôi nấng và bắt cô phải học văn hoá dù cô đã qua tuổi tiểu học. Dù sau Thơm cũng qua được lớp năm phổ cập và đậu tiểu học. Năm Thơm hai mươi tuổi, chú Thơm xin cho cô vào làm việc ở một cơ quan hành chánh. Cô làm tạp vụ, tiếp phẩm và vô số công việc khác. Ban ngày, lặng lẽ chăm chỉ với công việc. Tối đến, lùi lũi về căn hộ chật hẹp ở khu tập thể, Thơm nằm co quắp trên chiếc giường gỗ cứng, mắt mở thao láo nhìn lên nóc mùng, cô cố vận dụng đôi tai bệnh tật của mình để lắng nghe tiếng gió thổi bên ngoài cửa sổ. Sáng ra, chưa sáu giờ, Thơm đã dậy nấu cơm, quét sân với đôi mắt trũng sâu vốn có tròng trắng nhiều hơn tròng đen. Sau, nghe nói có làng trẻ mồ côi Thơm xin chuyển về đó. Ở đây, công việc có bận rộn hơn nhưng những đứa trẻ hình như khiến chị vui lên. Cùng với chị có hai người phụ nữ khác cũng làm công việc nuôi trẻ. Mẹ Hai, mẹ Tươi ngoài ba mươi tuổi có gia đình và con cái. Vì công việc đòi hỏi nên thỉnh thoảng cả hai mới về thăm nhà. Họ có một mái nhà riêng và một hạnh phúc riêng. Đôi lần chị thở dài khi chị nghĩ về họ rồi nhớ đến mình. Chú chị giờ đây đã về hưu sống với vợ chồng người con trai duy nhất, hoạ hoằn một năm có hai lần chú đến thăm chị, mặc dầu từ thị xã đến đây chỉ hơn hai mươi cây số. Lặng lẽ, cô đơn, đêm đêm ngồi đom những chiếc cúc áo đứt như người thư ký ngồi mân mê những chiếc đinh ghim mà mong cho đến giờ tan sở. Gần bốn mươi tuổi, chị chưa bao giờ nghe được một lời tỏ tình, một câu hò hẹn, nào đâu một bài thơ đẹp, nào đâu nhữngcánh bướm ép khô trong quyển vở học trò. Và chị chưa bao giờ nhỏ được một giọt nước mắt dỗi hờn trong một lần ai lỗi hẹn. Có lần xem phim truyền hình “Hoa Phong Lan” chị cứ bồi hồi day dứt. Giá mà có ai đó tặng cho chị một giò phong lan như vậy có lẽ chị hạnh phúc lắm. Thời gian cứ qua, mỗi ngày tóc chị mỗi ít đi, xơ xác, đôi vai gầy nhô lên qua lần vải áo rẻ tiền. Tự biết mình, một người đàn bà không nhan sắc, nên chị chẳng màng soi gương, không bao giờ quan tâm đến thân thể áo quần. chị chỉ cặm cụi với công việc và tìm vui trong tiếng cười của các đứa trẻ. Rồi bỗng dưng một tối ẵm thằng bé quấy khóc trên tay chị nẩy ra ý nghĩ có một đứa con riêng của mình. Thật hạnh phúc! Đó sẽ là niềm an ủi vô biên của chị! Và chị chọn đứa trẻ mà chị yêu mến nhất. Nó được mang đến đây khi vừa mở mắt chào đời được hai ngày, bây giờ đã qua tuổi thôi nôi. Trước tình cảnh của chị, ban giám đốc bằng lòng để chị nhận nuôi đứa bé. Mọi sinh hoạt chẳng có gì thay đổi, duy có đìều nó sẽ được khai sinh mang tên Lê Minh Nhựt, mẹ là Lê Thị Thơm. Cũng chẳng có gì khiến cho chị phải ngóng trông khắc khoải nếu như không có một người trong đoàn từ thiện thường đến thăm trẻ muốn nhận nuôi bé Nhựt. Chẳng phải chú Sáu giám đốc đã cho anh ta biết bé Nhựt không phải là trẻ mồ côi đó hay sao... Nhưng anh ta vẫn tỏ ra quyến luyến bé, quan tâm đặc biệt đến nó làm như thằng bé bụ bẩm vừa biết nói bập bẹ này có sức thu hút đặc biệt đối với anh ta. Qua cô Huế y sĩ chị cũng biết đôi điều về anh ta. Tên là Phạm Văn Quân, đã từng đi bộ đội, có một mối tình dang dỡ trong chiến tranh. Hoà bình rồi, cuộc sống ổn định, anh ta có một cửa hiệu bán tạp hoá bên chợ Ba mươi tháng tư, sống với mẹ và một cô em gái… tất cả những chuyện về Quân chị không hề quan tâm. Huế nói thì chị làm ra vẻ chú ý, đầu gật gật. Những điều Huế được biết về Quân là qua những người cùng đi với Quân nói lại chưa biết thực hư thế nào. Cho dù có thực hay hư thì chị cũng không màng đến, cả đến dáng đi khập khểnh của Quân, nếu Huế không nói thì chị cũng không biết. “Anh ta là thương binh, bị thương ở chân trái”. Điều chị lo lắng là bé Nhựt rất mến Quân. Trẻ con được ai thương yêu chiều chuộng cũng đều quyến luyến người đó. Nào đồ chơi, nào quần áo, nào quà, nào bánh… Nó thường cười nắc nẻ mỗi khi Quân nhấc bổng nó lên cao. tiếng cười của cả hai làm vỡ toang không gian yên tĩnh của buổi trưa êm ả và muốn làm vỡ tung lồng ngực chị. Những lúc ấy Thơm từ trong cửa sổ nhìn ra rất khó chịu. bản tính ích kỷ của người phụ nữ trổi dậy ở trong chị, chị không muốn ai đụng vào một sở hữu của chị dù rằng họ không làm mất mát một thứ gì. Thêm nữa đó lại là lẽ sống của đời chị. bởi vậy chị thường tìm cách giữ rịt lấy thằng bé ở trong nhà mỗi khi thoáng thấy Quân đi vào hay đang đứng nói chuyện với ai đó cạnh cây bàng. Còn bé Nhựt vừa nhác thấy Quân đã vứt bỏ cả đồ chơi, bỏ dỡ chén cơm đang ăn tất tả chạy ra ngoài “Ba! Ba Quân! ”. Nó hét to lắm. Thật là ghét! Thơm bị lãng tai mà còn nghe nó hét inh ỏi. mỗi lần nghe như vậy chị lại thấy tưng tức, mặc dù tất cả trẻ ở đây đều gọi Quân là “Ba Quân”. Có lần Quân đến vào lúc bé Nhựt đang ngủ trưa. Thật may! Trưa nó ngủ dậy muộn. Chị khắp khởi mừng thầm. “Nó ngủ rồi”. Chị nói ngay khi Quân vừa bước vào. “Vậy à! ” Quân đưa mắt nhìn về phía thằng bé đang nằm ngủ như để yên tâm về những lời chị vừa nói. Thơm hả hê trong lòng khi thấy Quân có vẻ ngượng ngập, tay cầm một món gì đó trong chiếc hộp giấy. Chị vờ chăm chú xếp quần áo. “Nó mới ngủ thôi. Đừng đánh thức nó”. “Ờ! ” “Mà nè! ” Hôm trước nó ăn sôcôla của anh cho nó đau bụng cả đêm. Lần sau đừng để phần cho nó nữa, cứ chia hết cho mấy đứa kia đi”. Không ngẩng lên nhưng Thơm biết Quân đang nhìn chị khó chịu. “Tôi có bắt mất nó đâu mà chị ghét tôi quá vậy... ” Quân hỏi lớn tiếng, nhưng không phải vì đang bực mình mà vì anh biết chị bị lãng tai. Anh toan đi ra cửa nhưng chưa đi vội mà đưa chiếc hộp về phía chị. “Đưa bé hộ tôi”. chẳng biết chị có nghe hay không nhưng chị vẫn bình thản gấp chiếc áo trên tay và không buồn ngẩng lên. Quân thở ra, đặt chiếc hộp trển đầu giường rồi khập khểnh ra khỏi phòng. Tiếng chân của anh vang lên không đều và chị cũng không nghe thấy. Lại một buổi chiều, mọi sinh hoạt đang dần đi vào buổi tối, tất cả trẻ đều đã tập trung vào nhà sau bữa ăn chiều vậy mà Quân còn bế bé Nhựt ngồi trên thành xi măng ở gốc cây bàng. Những người cùng đi với Quân chờ anh không được đã đi về trước. Đã vậy, đến lúc anh lên xe bảo nó vào nhà để anh đi về nó cứ lắc đầu “hổng chịu! hổng chịu! ” và khóc đòi theo. Thơm bồn chồn từ nãy giờ, không nén được chị ra ẵm phắt nó vào còn phát vào mông nó mấy cái ngay trước mặt Quân. Anh nhìn theo cả hai một lúc lâu với vẻ mặt buồn bã. Đợi hai mẹ con khuất hẳn trong nhà, anh mới nổ máy xe chạy đi. Nghe tiếng xe nổ bé Nhựt càng khóc dữ dội hơn, nó dỗi không thèm nhìn chị mà úp mặt xuống gối đến khi ngủ thiếp đi. Đêm hôm đó chị mấy lần đến giường thăm chừng như thể sợ nó có thể bất ngờ biến mất, như sợ có ngọn gió lạ ùa vào phòng cuốn nó đi. “Tôi có bắt mất nó đâu mà chị ghét tôi quá vậy”. Câu nói của Quân như là tiếng chuông gõ vào đầu Thơm từng hồi, từng hồi khiến chị vô cùng hoang mang lo sợ. Liệu có một lúc nào đó Quân sẽ thực hiện lời nói ấy không... Và bé Nhựt, tự nó sẽ bỏ chị mà về với Quân. Chị không có thời gian dành riêng cho nó, ăn thì ngồi xếp hàng như các trẻ khác, ngủ cùng đồng loạt trên giường như nhau. Với chị chỉ có sự khắc khe và hình phạt còn Quân luôn mở rộng vòng tay đón với bao vuốt ve trìu mến, cả đến những sự nuông chiều có khi quá đáng. Chị cứ ngồi bó gối trên giường thằng bé cho đến sáng. Phải biết giành giật lấy những gì mình đang có. chị quyết tâm nghĩ như vậy nên sáng hôm sau chị lên văn phòng gặp chú sáu giám đốc. “Cái gì... Nghỉ việc à... ” Chú sáu muốn nhảy chồm lên trên ghế khi nghe nguyện vọng của chị. “Rồi hai mẹ con sẽ sống ra sao... Đâu cần phải trốn tránh như vậy…”. “Cháu phải đi chú à…”. “Chặc! Thôi để chú nói với Quân đừng đến đây nữa để cho cháu yên tâm. Chú hứa như vậy. Nhớ! Không được lén lút bỏ đi đâu. Nghe chưa...”. Quân không đến thật! Một ngày, hai ngày, rồi ba ngày… chị thở phào nhẹ nhõm như người vừa cất được gánh nặng khỏi vai. Chị không còn lúc nào cũng để mắt đến thằng bé nữa. Có lẽ vì vậy nên chị không thấy nó buồn và ngơ ngác. Một tuần, hai tuần, rồi ba tuần… một đoàn xe gắn máy chạy vào sân chưa kịp dừng lại bé Nhựt đã chạy ra ngoài hét to: “Ba Quân! Ba Quân! ” Thơm ôm một chồng quần áo trẻ em. Vừa bước vào nhà trẻ, trông qua cửa sổ chị thấy nó xẻn lẻn đứng nhìn những gương mặt lạ hoắc vừa mới đến. Một người cúi xuống bế nó lên nựng nụi. Nó buồn thiu sụp mắt nhìn xuống đất. Thơm quay mặt đi che giấu nỗi xót xa và cũng như chị trốn tránh không muốn nhìn nhận lòng cảm thấy trống vắng. Như Huy Cận “Vậy đó tự nhiên mà họ lớn”. Cái “tự nhiên” sao mà thật “tự nhiên”. Đã hơn nửa đời người lẽ nào vẫn còn “tự nhiên” đến vậy. Lần đầu tiên trong đời chị cảm nhận một nỗi nhớ da diết dày vò tâm tư chị. Một sự tiếc nuối tưởng chừng như khiến chị ngạt thở. Thằng bé mỗi ngày càng bơ phờ thấy rõ, biếng ăn, lười chơi, đêm ngủ hay giật mình. Chị chợt nhận ra mình đã quá ích kỷ. Có lẽ không nên giành giựt những gì không thể giành giựt được. Về với Quân tương lai nó sẽ tốt đẹp hơn. Quân sẽ cho nó một mái nhà riêng và những gì nó mong muốn. Thơm muốn ứa nước mắt khi nghĩ đến lúc chị phải mất nó. Nhưng chị không thể vì chị mà không nghĩ đến tương lai của nó. Chị thầm mong Quân trở lại, lần này thôi, chị sẽ nói: “Tôi thua anh rồi!” và để Quân mang thằng bé đi càng xa càng tốt. Chị sẽ khóc, sẽ đau khổ lắm nhưng rồi chị sẽ quên, sẽ lại sống như những ngày tẻ nhạt trước đó. Không có bé Nhựt và không có cả Quân. Hôm trước, thằng bé ôm con gấu nhồi bông ngồi ở bậc thềm thì chú Sáu đến, thấy chú nó hỏi: “Ba! Ba Quân đâu...” Chú cười xoa đầu nó: “Bỏ rồi! Bỏ Nhựt rồi!” Rồi chú nhìn Thơm đang đứng cạnh đó. “Con có mẹ Thơm rồi”. Vẻ đắc ý của chú khiến Thơm phải nhìn xuống đất. Chị chỉ muốn nói với chú “Cháu đã sai rồi chú ạ!” Hai mươi chín ngày rôi Quân vắng bóng. Mẹ Hai và mẹ Tư nói như vậy còn Huế y sĩ thì nói ba mươi ngày. Thơm thì cho là ba mươi mốt ngày. Chị tin là mình chính xác nhất. Từ buổi chiều Quân mặc chiếc áo sơ mi màu xanh dương và chiếc quần xam xám đứng vịn con ngựa gỗ cho thằng bé Nhựt cưỡi với vẽ mặt nặng trĩu. Chị biết, hôm đó chú Sáu đã nói những gì chú đã hứa với chị. Chú đâu biết là giờ đây chị cảm thấy thiêu thiếu một cái gì đó. Hình như là tiếng cười của Quân và thằng bé, hình như chiếc bóng của Quân ngã dài trên mặt sân, hình như… mọi cái điều hình như thoắt ẩn thoắt hiện ở trong chị, ở nơi người đàn bà không nhan sắc đã đi quá xa tuổi dậy thì. Chị bỗng dưng khắc khoải từng ngày, mong chờ từng phút mà hy vọng thì như ánh hoàng hôn sắp tắt ở cuối ngày. Thơm vén mấy sợi tóc loà xoà trên má, nghe tiếng trẻ nhốn nháo chị biết chúng sắp sửa từ nhà ăn đi lên. Thơm định rời cửa sổ thì bỗng nhiên chị trông thấy Quân xuất hiện trên khoảng sân đã râm mát. Chị nhìn đăm đăm không chớp mắt như sợ chỉ cần chớp mắt một cái thì dáng người vừa xuất hiện kia sẽ biến mất như ảo ảnh. Trên sân Quân đang hối hả đi vào, về phía nhà trẻ, một tay xách vali, tay kia xách mấy túi nilon nằng trĩu. Anh có vẽ bơ phờ như vừa qua một chặng đường dài. Sau phút lặng người, Thơm như sực tỉnh quay đi toan tìm thằng bé thì nó đã cùng bọn trẻ chạy vào phòng. “Nhựt! Lại đây! Ba Quân! Ba Quân!” Chị gọi nó và chỉ tay ra cửa. Thằng bé ngẩn người ra nhìn chị một chút rồi chợt hiểu, nó ù chạy ra khỏi phòng. Bọn trẻ chạy theo nó nhưng đến cửa thì cả bọn dừng lại trố mắt nhìn nó đang lao vào vòng tay của Quân. “Ba! Ba!” Các thứ trên tay Quân bị vứt xuống sân. Anh nhấc bổng nó lên miết cằm vào mặt vào cổ nó. “Ôi! Nhớ quá! Nhớ quá!” Thằng bé cười nắc nẻ. “Bỏ! bỏ rồi!” “Bỏ à! Ai bỏ... Bỏ ai...” “Ba! Bỏ! Bỏ Nhựt!” Quân bật cười. “Không bao giờ! Không bao giờ ba Quân bỏ Nhựt”. Thơm đứng bất động bên cửa sổ với đôi mắt vô hồn. Cuối cùng thì ánh sáng le lói cuối ngày cũng tắt. Cuối cùng thì Quân cũng trở lại. Chị sắp mất tất cả rồi. Có ai như chị, đợi chờ để bàn giao lẽ sống của đời mình. Có cái gì đó dâng lên ngực chị đầy ứ, tức uất. Chị bỏ đi như chạy trốn ra phía sau nhà, đứng tựa vào bồn chứa nước, úp mặt vào hai bàn tay chị khóc nức nở. Khóc thật to như ngày nào người ta cho chị hay bom rơi ngay nhà của chị mà mẹ chị còn ở trong đó, như lúc người ta đưa cho chị chiếc nón tai bèo và chiếc khăn rằn của ba chị. Những giọt nước mắt đã từ lâu lắm rồi không thoát ra khỏi đôi mắt khô khốc của Thơm giờ như nguồn nước có muốn ngăn cũng không được. “Mẹ Thơm!” Tiếng gọi của thằng bé lôi khuôn mặt đầy nước mắt của chị ra khỏi đôi bàn tay, Quân đang bế nó trên tay đứng trước mặt chị. Thơm nhìn cả hai như qua một tấm kính phủ hơi sương. “Xin lỗi!”. Quân có vẽ bối rối. “Tôi thăm thằng bé một lát… tôi biết chị phiền. Xin chị thông cảm! Tôi đi thành phố vừa về đến đây thì ghé lại. Tôi … có quà cho hai mẹ con”. Quân đặt bé Nhựt xuống đất để nó chạy đến với thơm. Chị bế nó lên, úp mặt vào vai nó thổn thức. “Anh mang nó theo đi. Nó nhớ anh lắm… Nó rất cần anh…” Rồi chị sụt sùi khóc. Những tiếng nấc bị nén lại trong lồng ngực khiến đôi vai chị run lên. Tai chị lùng bùng nhưng chị vẫn nghe được tiếng Quân rõ ràng, chậm rãi. “Đi xa lâu ngày tôi cứ nôn nóng, linh cảm có người đang chờ đợi tôi. Không phải là bé Nhựt! Vì thằng bé, tôi biết nó nhớ tôi lắm, nó rất cần tôi. Và nó cũng rất cần chị” Quân bước tới một chút như sợ Thơm không nghe được lời anh. “Tôi cũng rất cần chị, nhưng… tôi không biết chị có cần tôi hay không?" Thơm không trả lời, người người như nhẹ hẫng lâng lâng và chị như thấy trước mặt một giò phong lan thơm ngát.[/FONT]
Những nấc thang Phan Thanh Nhã [FONT=Verdana, Arial]Cầu thang xoắn ốc ba mươi sáu bậc dẫn lên một văn phòng nhỏ ở tầng hai. Ở bậc thứ hai mươi lăm Hoàng dừng lại, thoáng chóng mặt và nghe tim đập liên hồi. Anh sợ độ cao. Hoàng ngước mặt nhìn lên, hít một hơi thở sâu như để lấy thêm sức mạnh. Những tán lá xanh phủ loà xoà lên tay vịn ở những bậc thang cuối làm cho mắt Hoàng dịu lại. Cô gái đi sau đuổi theo kịp, dừng sát bên Hoàng khẽ hỏi: "Mệt ư?" Hoàng nép sát sang bên trái, cố ý tránh đường để cô ta bước lên: "Vâng, chỉ một chút. Tôi...". Cô gái nhìn Hoàng đang bối rối, có vẻ như anh muốn diễn đạt điều gì đó nhưng nói không thành lời. Vì mệt. Cô nhìn đến bàn tay đang vịn ở thành lan can. Bàn tay xương xương với những ngón dài, gân máu nổi xanh nơi cổ tay. Có lẽ lúc ấy mặt Hoàng xanh rớt. Khi những cơn đau đến một cách bất ngờ, Hoàng có cảm giác máu trong người mình ngừng chảy. Mắt cô gái ánh lên một tia nhìn giễu cợt. Hoàng như sực tỉnh, hấp tấp bước theo. Cái gấu váy mềm mại quẹt ngang bàn tay xách cặp của Hoàng một cách dịu dàng, tinh nghịch. Hoàng mới chuyển chỗ làm sau gần ba năm làm trợ lý hành chính cho một văn phòng luật. Mấy người bạn cũ từng xuýt xoa đầy vẻ ghen tị bảo rằng chẳng mấy người có cơ hội làm việc đúng ngành nghề đã được học. Thế nhưng công việc soạn thảo các đơn khởi điện, viết những bài bào chữa và đọc các hồ sơ vụ án làm Hoàng thấy ớn chết. Cảm giác cuộc sống này đầy rẫy những điều xấu xa, cạm bẫy giăng giăng mà con người ta chỉ cần bước một bước không thận trọng là có thể vấp phải. Ông luật sư trực tiếp hướng dẫn lớn hơn Hoàng năm tuổi hay chê những bản thảo bào chữa của Hoàng ngắn gọn quá, khô khan quá và không có tính thuyết phục. Hoàng cố chấp một cách tàn nhẫn. Ông thuyết giảng cho Hoàng một trận ra trò, cố gắng chấm dứt lối nhìn phiến diện bằng cách lôi Hoàng theo trong những phiên toà có ông tham gia bào chữa. Hoàng đi theo ông chỉ một lần nhưng đã thấy ngán ngẩm đến tận cổ. Vì có một lần ngồi xem truyền hình, Hoàng thấy người ta bu đèn đỏ để xem hai người đàn ông bị tuột ra khỏi thang máy đang lơ lửng ở độ cao hàng trăm mét khi làm vệ sinh các cửa kính của toà cao ốc. Cái chết đang đến với họ từng giây mà những người ở bên dưới vẫn không ngớt chỉ trỏ, bàn tán. Hoàng giận dữ tắt tivi, cảm thấy không có gì độc ác hơn thế. Trong lòng thoáng nỗi lo sợ khi nghĩ đến chuyện có khi mình phải đối diện với cái chết trong một hoàn cảnh tương tự như vậy. Bất ngờ, đau đớn và hoàn toàn tuyệt vọng... Lúc ngồi ở phòng xử án, Hoàng đã thấy mình giống y hết những con người hiếu kỳ ấy. Lạnh lùng và nhẫn tâm. Ông luật sư hay bảo với mọi người rằng Hoàng không có tư chất của một luật sư, học mãi chẳng có chút tiến bộ. Hoàng ghét nói chuyện đạo đức vì đạo đức nghe lý tưởng và trừu tượng quá. Cái mà người ta cần chỉ là lương tâm. Mà với Hoàng, lương tâm là một điều gì rất dễ hiểu. Như biết việc xấu thì đừng làm, như trong cuộc sống không thích giao du với ai thì đừng chơi với người ấy... Cứ vậy, sự bất đồng đã tạo nên khoảng cách giữa hai người. Hoàng chán việc và cũng chán người. Anh muốn nghỉ. An, bạn thân của Hoàng, cũng chỉ trích anh thậm tệ, bảo rằng Hoàng quá ích kỷ và chẳng biết nhìn xa trông rộng: "Đáng lẽ cậu phải làm một điều gì đó để thay đổi tình thế chứ. Cuộc sống bây giờ cần những người trẻ tuổi như bọn mình để làm một cuộc cách mạng mới!". Hoàng rụt vai, nói một cách yếm thế: "Vấn đề này to tát quá, vượt khả năng của mình". Hoàng biết An chẳng hiểu gì sất nhưng không giải thích thêm. Hoàng nghỉ làm. Ban đầu còn cảm thấy khoan khoái vì thoát khỏi những ràng buộc của công việc. Nghĩ rằng mình sẽ có thời gian để đọc hết những quyển sách. Bác sĩ bảo đọc sách là một liệu pháp tốt để chữa căn bệnh mất ngủ trầm kha của Hoàng. Như cách khám phá thế giới bằng những chuyến du lịch. Với cách đó, giấc ngủ đến với Hoàng êm ái và nhẹ nhàng hơn, như sau một cuộc hành trình dài người ta kiệt sức và thiếp đi trong giây lát vậy. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn, Hoàng đã cảm thấy tù túng và muốn có việc gì đó để làm. Sách không giúp gì được Hoàng. Chứng mất ngủ vẫn hành hạ. Không có những giao tiếp, Hoàng như mất hẳn sự thư thái. Nằm ở nhà, những suy nghĩ tỉnh táo về công việc quay trở về làm bức bách đầu óc. Có thể trước đây Hoàng đã từng chán ghét công việc đơn điệu và vụn vặt, có thể Hoàng đã cảm thấy mình hoàn toàn không phù hợp với nó. Nhưng chính nhờ có nó Hoàng mới thấy được cuộc sống của mình có tí chút ý nghĩa. Ngược xuôi cả tháng, Hoàng kiếm được một công việc mới, hoàn toàn không dính dáng gì đến chuyên môn anh đã học và những kinh nghiệm thực tế đã trải qua. An bất bình thêm một lần nữa, cậu ta gắt um qua điện thoại: "Chẳng ai như cậu cả. Đang yên lành tự dưng lại nghỉ việc. Trong khi thiên hạ mơ ước một cái bàn làm việc ngon lành trong phòng máy lạnh thì cậu lại bỏ tất cả để bắt tay vào một việc thật vớ vẩn, suốt ngày phơi mặt ngoài đường. Xin lỗi cậu nhé, công việc ấy ở những nơi khác chỉ cần thuê bọn sinh viên làm việc trong hai, ba tuần là xong... Cậu nghĩ gì thế? Tớ thấy uổng phí cho cậu quá!". Hoàng yên lặng, thấy tranh cãi lúc người ta đang bực dọc chẳng có ích gì. Để cho sự sôi nổi của An lắng xuống, Hoàng mới bắt đầu nói. Đầu tiên Hoàng khẳng định sự sai lầm của mình. Thị hiếu về nghề nghiệp và về cuộc sống của Hoàng những năm trước đây rất mập mờ. Sự đắn đo quá tỉ mẩn, sự kính trọng hơi thiển cận và nhất là sự thiếu kinh nghiệm về những gì mà anh tin là những tiêu chuẩn thực của cuộc sống đã khiến anh phải chịu vài lời bình phẩm không hay và cả những ê chề. Bản thân Hoàng không có gì nổi bật, cả những hiểu biết về cuộc sống cũng nông cạn. Nhưng nhờ thời gian, nhờ công việc và những kinh nghiệm tích lũy được, Hoàng đã nhận thấy đôi lúc cũng cần phải lùi lại một chút trước những tham vọng quá lớn của mình để cho cái gọi là thiên hướng trong con người mình được hình thành một cách chắc chắn và những ham muốn có thời gian để chín... Trong giọng nói của Hoàng hẳn phải có một cái gì đó đủ để thay thế cho những lý lẽ mạnh mẽ nhất, nó dập tắt ý định cắt ngang câu chuyện của người đối thoại. An bực bội và chán nản, giống như đang đôi co với một kẻ gàn dở. Mà sự thật cũng gần như thế, những thay đổi nơi Hoàng chẳng làm An thấy dễ chịu chút nào. Văn phòng ở tầng hai, bước qua 36 bậc trên một cầu thang xoắn ốc. Mỗi khi bước lên cao, cái cảm giác chống chếnh trong Hoàng dâng theo và sự thăng bằng dần biến mất. Hoàng có cảm giác mình có thể ngã dúi xuống bất cứ lúc nào. Nhìn những đồng nghiệp phăm phăm chạy lên chạy xuống, Hoàng cảm thấy xấu hổ. Tại sao lại có một nỗi sợ hãi kỳ lạ như thế tồn tại trong con người mình? Và như có một sự sắp đặt tình cờ, cô gái Hoàng gặp ở cầu thang hôm mới đến - tên Vinh - thi thoảng lại bắt gặp Hoàng đứng thở dốc. Cảm giác mất tự chủ lộ rõ từ khi Hoàng biết cô gái nhỏ nhắn chính là trưởng phòng của mình. Anh phỏng đoán những nhận xét, những đánh giá của cô gái ấy về mình và thấy tự ti khủng khiếp. Để bù lại, anh cố gắng làm việc hết mình. Cố gắng xoá bỏ thói quen làm việc trì trệ của công việc hành chính trước đây. Cuối cùng Hoàng đã thuyết phục được mọi người không phải ở tài hùng biện của một luật sư mà ở những thông số, những kế hoạch, chiến lược kinh doanh rút tỉa được sau một thời gian dài tiếp xúc với hàng trăm khách hàng và nghiên cứu hồ sơ. Dĩ nhiên Vinh rất hài lòng về chuyện đó. Nhờ thời gian và công việc, khoảng cách giữa Vinh và Hoàng được rút ngắn dần và những ác cảm vụn vặt cũng dần biến mất. Họ ngồi chung bàn, thảo luận công việc và chuyện phiếm vào những giờ nghỉ trưa. Vinh bảo: "Anh đen đi nhiều nhưng trông khoẻ mạnh hơn đấy!". Hoàng bật cười, chợt nhận thấy thời gian gần đây sức khoẻ của mình có những chuyển biến tốt. Hoàng kể Vinh nghe về chứng mất ngủ của mình. Nó xuất hiện từ lâu và kéo dài suốt những năm anh làm việc ở công ty cũ. Không hiểu sao lại tự dưng mất đi từ khi về làm việc ở đây. "Có lẽ là do công việc - Vinh nói - Cuộc sống đô thị nhiều áp lực. Những vụ án và những công việc đòi hỏi sự tư duy quá nhiều khiến anh cảm thấy nặng đầu. Anh đã bị ám ảnh bởi tất cả những điều đó và sợ gặp lại chúng trong những giấc mơ nên không chợp mắt được!". Hoàng gật gù xác nhận, nhiều khi anh có cảm tưởng như mình làm chuyện ác, làm liên lụy đến nhiều người nên lúc nào cũng lo sợ họ về tìm. Anh muốn trốn khỏi họ mà không sao thoát được vì những quy luật của những giấc mơ là như vậy. Cứ tưởng rằng trong mơ mình được tự do tuyệt đối nhưng thực tế thì lại không có sự ràng buộc nào tệ hại hơn thế. Giấc mơ và những người trong đó! Vinh cười: "Thế còn nỗi ám ảnh hiện tại?". Hoàng bật cười thành tiếng, nghĩ ngay đến cái cầu thang xoắn ốc. Những vòng xoáy và độ cao. Chúng làm anh chóng cả mặt và bủn rủn chân tay. Vinh đồng tình. "Lúc mới vào tôi cũng giống như anh. Không sao. Rồi sẽ quen thôi!". Vinh chuyển đề tài: "Những lúc rảnh rỗi anh thường làm gì?". Hoàng bảo anh thường nghe nhạc và đọc sách. "Đáng lẽ anh nên dành thời gian cho một môn thể thao nào đó". Vinh gợi ý. Đang lúc câu chuyện có đà, suýt chút nữa Hoàng đã tiết lộ rằng trước đây anh từng là một vận động viên bơi lội, nhưng sau một đợt kiểm tra sức khoẻ, người ta bảo anh rằng anh không thể theo đuổi con đường thể thao chuyên nghiệp. Và rồi tự ti và mặc cảm anh đã từ bỏ nó. Chuyện đó đã lâu lắm rồi, có thể Hoàng sẽ không nhớ nếu Vinh không vô tình nhắc đến. Nó như một mũi tên được bắn ngược về quá khứ, xuyên qua tim anh, đau nhói. Hoàng choáng váng. Anh đang có cảm giác của một cơn đau thật sự, từ bên trong lồng ngực. Anh rất ghét cái cảm giác bị người khác phát hiện những biểu hiện bệnh tật của mình. Rời xa chiếc bàn giấy với những vụ án nặng nề, suy nghĩ rằng mỗi con người dường như đang sống trong sự bủa vây của một màng lưới vô hình nhưng chắc chắn của số phận trong Hoàng cũng mờ nhạt dần. Tuy nhiên, có những khi thức dậy vào nửa đêm, trong cơn đau, Hoàng có cảm giác như cái chết đang lảng vảng xung quanh nhà và chờ đợi anh ngoài kia. Ý tưởng đó như một bàn tay tàn bạo bóp chết tất cả những dự định tốt đẹp. Nhưng cuộc đời thường hay trêu ghẹo những người yếu tim bằng những câu chuyện bất ngờ. Đầu tiên, Hoàng nhận được quyết định bổ nhiệm làm trợ lý cho trưởng phòng. Một bước trung chuyển lên chiếc ghế phó phòng chưa có ai đảm nhiệm. Mấy đồng nghiệp được thể rỉ tai nhau ngoài giờ làm việc về mối quan hệ "mờ ám" giữa Vinh và Hoàng. Họ bảo hai người không còn đơn thuần là mối quan hệ đồng nghiệp nữa. Vài lần họ bắt gặp Vinh và Hoàng đèo nhau đi ăn cơm trưa rất thân mật. Một cô nhân viên lắm điều còn khăng khăng đã tận mắt chứng kiến hai người "liếc mắt đưa tình" rất chi là tình tứ trong cuộc họp nội bộ của phòng. Rồi một anh lớn tuổi nhất trong phòng một hôm đã vỗ vai Hoàng: "Vinh lớn tuổi hơn mày thật nhưng cũng dễ thương ra phết. Gắng lên. Hai đứa sẽ là một cặp đẹp đôi nhất của công ty đấy!". Hoàng ngượng đỏ cả mặt không biết phải đối đáp ra sao nữa. Ừ, thì họ có đi ăn cơm chung, thi thoảng cũng có ghé vào quán cà phê sau những buổi công tác xuống các địa bàn. Nhưng thường là vào ban ngày giữa giờ làm việc, còn ban đêm thì... chỉ một lần duy nhất. Đó là lần Vinh trở về Hà Nội sau đợt công tác gần một tháng trời. Cô hẹn Hoàng ra quán H bảo có chút việc cần bàn. Hoàng tìm đến cái quán tối như hũ nút. Ánh sáng từ những ngọn nến được thắp trong những ly thuỷ tinh bé xíu như những đốm ma trơi không đủ để nhìn rõ mặt người. Hoàng ngạc nhiên khi đã thấy Vinh ngồi chờ sẵn ở đó - bối rối và duyên dáng khác hẳn ngày thường. Hay tại đêm?... Hoàng nghĩ thầm và lúng túng ngồi xuống cạnh cô gái trên chiếc nệm dài nhìn ra khung cửa kính lấp loá ánh đèn đường. Hoàng hỏi về công việc nhưng người ngồi cạnh trả lời lan man, không rõ đầu đuôi. Mắt hướng nhìn những đốm sáng ngoài cửa kính và như đang đắm chìm vào những suy nghĩ khó tỏ bày. Hoàng uống cạn số nước trà còn sót lại trong ly, thấy người run lên vì những điều gì chẳng rõ... Giọng Vinh run rẩy: "Có một chuyện Vinh muốn nói với Hoàng...". Ngưng một lúc, giọng nói ấy bỗng trở nên xúc động dữ dội: "Trong suốt thời gian Vinh ở Hà Nội, sao... anh không một lần gọi điện?...". Trong khoảnh khắc, Hoàng như ngừng thở. Anh muốn giải thích nhưng không nói thành lời. "Vinh không nghĩ có lúc gương mặt anh, giọng nói anh trở nên thân thuộc với mình đến mức không thể thiếu được như lúc này. Vinh đã cố chờ anh... phác một cử chỉ nào đó nhưng giờ thì không thể chờ thêm được nữa!...". Điều bất ngờ này làm tim Hoàng đau nhói. Anh nắm chặt bàn tay nóng như sốt của Vinh trong cơn đau có thấp thoáng hình bóng của cái chết. Nhưng cái chết không hiện diện ở đó. Nó chỉ lảng vảng đâu đấy rồi vòng xuống đường và biến mất giữa những khúc ngoặt... Cầu thang xoắn ốc ba mươi sáu bậc vẫn dẫn lên một văn phòng nhỏ ở tầng hai. Hoàng bước lên và không còn một nỗi sợ hãi nào nữa. Bây giờ anh đã biết rõ vì sao mình có thể làm được điều đó. Hoàng thong thả bước, miệng huýt sáo một bài hát yêu thích. Anh chờ một tiếng chân vội vã đuổi theo sau, một nụ cười rộng mở và tiếng nói quen thuộc. Với anh đó mới là những cảm xúc thật và đẹp.[/FONT]
Mối tình đầu Dương Nữ Khánh Thương [FONT=Verdana, Arial]Buổi tối lũ con gái như những con gà mái tơ nhốt chung một chuồng tự dưng khó khé tra hỏi nhau về mối tình đầu. Ừm. Yêu từ bao giờ, cầm tay lần đầu ở đâu? Hôn người đầu tiên là ai, có thích không, bao lâu thì tan vỡ? Dư âm, đại loại là những chuyện vô cùng "dở hơi không biết bơi". Hương cười phe phé kể yêu chú hàng xóm từ năm lớp mười. Chú hay sang nhà xin mẹ mắm tôm để ăn cà. Nhà có bà con ở vùng biển nên hay biếu cả can mắm tôm đặc sản. Mẹ Hương thơm thảo hôm nào cũng cho, chú hôm nào cũng sang xin, Hương nhìn thấy chú thành quen, bữa cơm nào không thấy cái bát chìa vào là nuốt cơm không trôi. Hẹn hò đi chơi mấy buổi. Mà đi thì trốn xuôi, trốn ngược mới được. Quy ra cũng tại chú gấp hai rưỡi tuổi Hương. Hương xoe xoé "Nhưng đừng tưởng già, trông chú còn "phong độ" lắm". Chú dẫn Hương đi chơi viện bảo tàng, đến nơi chú làm việc và nhân buổi trưa không ai để ý, định hôn Hương. Nhưng luống cuống thế nào Hương ngã ngồi ra đất, đập mông đau quá nên không thể hôn nổi. Hương bảo sau này đi với ai mà cả hai đều có tình ý thì Hương phải chọn một chỗ cố thủ thật chắc chắn, đề phòng rủi ro. Cả bọn nhao nhao "Thế sau có tiếp tục xi-nê-ma gì nữa không?". Hương lắc đầu. Chú vẫn sang xin mắm tôm đều và mấy năm sau cưới một cô goá chồng. Đến lượt Huế. Nó thẹn thò một lúc mới dám thú nhận là hôn lần đầu ở trong phòng hóa trang sau cánh gà hội trường. Nó với thằng bạn cùng lớp diễn cặp với nhau trong vai đôi bạn cùng tiến. Trong quá trình tập vở chung, hai đứa đã mắt la mày lét rồi nhưng thằng kia nhát gái đến nỗi phải diễn cảnh hai đứa tay trong tay rất vui vẻ, hồn nhiên mà hai đứa cắc cớ nắm kiểu gì cũng thẹn thò như đôi đang yêu nhau nên cô giáo bắt cầm tay luôn cho dạn. Đương nhiên cầm lâu thì thích nhưng cái hồi hộp ban đầu cũng mất đi, thực tình cả hai chỉ muốn hôn xem mùi vị nó như thế nào. Diễn xong đám bạn cùng trường hoan hô quá trời, hai đứa chạy vào trong tập hợp để sơi cháo gà bồi dưỡng. Đang theo đà chạy vào thì thằng kia giật Huế lại dúi vào sau cánh gà và nụ hôn đầu đời thấm mùi son phấn hoá trang đến nghẹt thở. Đúng ra là thằng kia phải ăn mấy lớp son của Huế. "Thế là ngọt ngào rùi". Đứa khỉ gió nào đó kết luận và nhìn chăm chăm vào môi Huế xem cái môi "hun" rồi nó như thế nào. Huế ngượng quá dúi mặt xuống đám chăn. Để gỡ lũ tiểu yêu ra khỏi Huế, Hoa quyết định tự kể chuyện mình. Hoa nổi tiếng là đứa đa tình, giống gien mẹ. Mà mẹ nó có ai là không biết: Trẻ tươi mơn mởn, bỏ bố con nó từ lâu và cặp với không biết bao nhiêu là ông quyền cao chức trọng. Bà có tài "căn" đúng thời điểm ông nào sắp phất lên thì sà đến, đúng lúc nào ông ta sắp sa cơ lỡ vận thì lảng ra, rút lui an toàn. Nó còn xinh hơn cả mẹ. Mới học trung học mặt mũi đã rạng rỡ như hoa đào. Nó tự hào từng là bồ của tất cả đám con trai "có giá" ở trường. "Giá" ở đây là theo nhiều tiêu chuẩn. Một là đẹp trai con nhà giàu, hai là học giỏi có khả năng, ba cũng là cậu ấm con quan. Hạng bét nhất cũng phải có chút tài vặt như hát hay, đánh bóng chuyền giỏi hay mồm mép tép nhảy… Nó làm cho khối đứa con gái dè chừng vì sợ nó cướp bồ nhưng với bạn bè vô tư thì Hoa quả là một đứa rất đáng quý, thẳng thắn và nhiệt tình. Thế mà nụ hôn đầu đời của nó thật thảm hại. Một lần mẹ Hoa tổ chức sinh nhật cho nó ở nhà hàng. Khi nó đến nơi thì cả một bàn tiệc toàn các ông tai to mặt lớn và có mỗi mình mẹ nó là phụ nữ. Nó lịch sự cũng nâng ly với các chú nhưng chỉ được vòng đầu mặt mày đã xây xẩm. Ai đó dìu nó vào phòng. Chú ngồi cạnh lúc nãy vào theo và đặt tay lên hông Hoa, gắn vào môi nó một cái hôn nồng nặc mùi bia, rượu, gỏi cá sống. Hoa bảo chính nhờ mùi tanh ghê tởm ấy mà nó tỉnh trí ra được mấy phút để kịp tát bốp vào mặt ông ta và vùng chạy. Hoa nghẹn ngào "Sau này dù tao đã hôn rất nhiều, đã vung vãi nhiều thứ hơn cả hôn nhưng giá như ai cho tao một cái hôn đầu đời thật thanh khiết thì có lẽ tao đã không như bây giờ". Cả lũ tự dưng trầm lắng xuống và bất giác đều thở dài theo tâm trạng của cô bạn đáng thương. Riêng Châu, Châu thấy mình thật hạnh phúc. So với tất cả những gì lũ bạn vừa kể, Châu không biết đấy đã phải mối tình đầu của mình chưa, nhưng rõ ràng bảo đó chỉ là một trò trẻ nít thì Châu không đồng ý. Bởi vì đó là một "mối tình tay ba" hẳn hoi. Hồi ấy Châu học lớp hai. Vào lớp cô giáo bầu Châu làm quản ca. May làm lớp phó. Hùng làm lớp trưởng. Bộ ba ấy đã gắn bó với nhau suốt năm lớp hai do cô Hoài chủ nhiệm. Cô Hoài cũng là một cô giáo mà Châu nhớ nhất trong suốt thời đi học của mình. Có lẽ là do những kỷ niệm đầu đời bao giờ cũng như lúa ngậm đòng. Hương sữa thơm thảng thốt trên tay người cầm dẫu sau này hạt lúa có mẩy căng đến bao nhiêu nữa. Nhưng chuyện về cô Hoài nói sau vậy. Còn lúc này đây, mặc cho lũ con gái kêu toang toác, cười xoe xoé trên một cái giường chật chội, Châu im lặng sống lại với kỷ niệm thơ dại của mình. Lớp trưởng chịu trách nhiệm chung về mọi mặt từ quân số, vệ sinh đến hoạt động phong trào, lớp phó như May chỉ chuyên về học tập. Châu làm quản ca, học rất giỏi, thêm nữa là con gái nên chữ viết đẹp và tròn trịa vô cùng. Trẻ con chưa biết chú ý nhiều đến xinh đẹp, nhà giàu hay những tiêu chuẩn như về sau này. Đơn giản đứa nào học giỏi sẽ là thống soái. Châu chẳng có một chức vụ gì đáng kể nhưng lại nắm quyền chỉ huy cả hai "ông tướng". Ngoài học, lũ Châu còn có bao nhiêu trò vui, như đi hái trộm me, xoài của những lâm trường ở gần trường. Đi học hồi đấy cũng không có nhiều hàng rong và lũ trẻ con cuối thời bao cấp làm gì có tiền mà tiêu vặt như bây giờ. Mỗi đứa được nhà chuẩn bị cho một chai sáu lăm đựng nước lọc, đứa nào "xuya" hơn thì có cái biđông cũ của bố. Nhưng ở trường chạy nhảy chơi bao nhiêu trò, chỉ một loáng cả nước lẫn các thứ quả để dành đều cạn kiệt. May hay đi múc nước lã ở cái giếng trên đỉnh dốc để đổ đầy lại cho Châu. Nước lã lại còn ngọt, mát hơn cả nước đun sôi nên lắm lúc chỉ mong nước đun sôi hết để uống nước lã. Hùng ghen tị với May vì điều đấy, và cả hai đứa con trai ngồi trong lớp chỉ chăm chắm nhìn chai nước của Châu đã sắp hết chưa để còn giành nhau đi lấy. May gần nhà Châu hơn Hùng, nhưng bù lại, Hùng hay được đi "họp" cùng Châu hơn chứ lớp phó chả bao giờ được đi họp dù vẫn "có chức". Hùng rất "tâm lý", mỗi lần có dịp đi đâu cùng lại để dành cho Châu mấy quả me chín. Hùng khoái nhìn cảnh Châu bóc từng lớp vỏ đã khô rốp sau đó nhăn mặt nuốt từ từ cả quả me dài ngoằng vào miệng. Mặt Châu rất yêu. Trắng hồng như búp bê, mỗi tội toàn bị các bạn bắt chấy từ đầu mình bỏ lên đầu Châu nên bố Châu bực lắm. Mẹ tìm hạt na giã ra gội đầu cho Châu còn bố thì sắm cả bộ dao kéo và nghĩ ra bất cứ kiểu tóc nào ngắn, gọn nhất để thực hành ngay trên đầu Châu. Thành ra cái mặt xinh xắn ấy có hôm vác nguyên cả mớ đen đen ngắn um ủm như cái nồi đất úp lên, hôm lại ba tầng xiên xẹo. Châu cứ khóc hết trận này đến trận khác rồi lại phải mang kiểu tóc đấy cho đến lúc nào bố Châu nghĩ ra kiểu tóc mới. May không bao giờ trêu Châu như các bạn khác. May dẫn Châu, bảo vệ Châu về đến tận nhà. Hôm nào trời mưa May sang tận nhà đón Châu, hai đứa cùng đi chung một mảnh áo mưa nhà binh của bố May. Mẹ Châu dạy cùng mẹ May nên hai bà mẹ rất hay tâm sự về con cái. Thâm tâm Châu quý Hùng hơn dù Hùng không quan tâm được đến Châu nhiều như May. Thậm chí trong quyển vở ô ly, Châu còn tập viết thư gửi Hùng. May từ đấy ghét Hùng ra mặt và khi Hùng giao công việc hay cô giáo cử hai đứa đi đâu May không bao giờ chịu đi chung với Hùng. Ngược lại Hùng cũng luôn khó chịu mỗi lần May về chung với Châu. Nhưng rồi mùa xuân năm đấy làm đảo lộn tất cả. Học sinh được nghỉ tết thì May tích cực sang nhà Châu rửa lá, tỉa cây, quét dọn cùng Châu. Nhà May có một cây mận trắng, mẹ May rất quý thế mà May dám bẻ một cành to sang cho Châu. Mẹ May giận nhưng không dám mắng con vì sợ đến tai mẹ Châu. Cả tết năm ấy nhà Châu ngào ngạt trong hương mận. Châu quên hẳn Hùng. Rồi bố Châu được điều đi công tác ở vùng khác và đưa cả hai mẹ con Châu đi. Mọi việc diễn ra nhanh chóng, Châu không kịp tạm biệt cả cô giáo Hoài, lớp 2A lẫn Hùng và các bạn. Buổi chiều hôm ấy, May và Châu đứng dưới gốc cây mận trắng nhà May đầy lưu luyến. May nắm bàn tay xiu xíu của Châu hẹn hò "Sau này mình nhất định gặp lại Châu. Mình sẽ đưa Châu ra tiệm cắt tóc chứ không để cho bố Châu cắt và... và mình... nhất định sẽ... lấy Châu làm vợ". Châu cũng gật đầu. Hoàn toàn không phải là một cái gật đầu thơ trẻ mà ngay cả bây giờ Châu vẫn gật nếu May xuất hiện. Sự thực thì Châu có gặp lại "mối tình đầu" ấy một lần. Hôm ấy, bố Châu đang ở cơ quan đột nhiên có một người đàn bà cùng thằng bé trạc tuổi Châu xuất hiện. Lúc đó Châu đã học lớp sáu. Bố Châu đến trường đón Châu về. Hai đứa đứng ngây ngô ngắm nhau và cả thẹn thùng nữa. Châu chỉ dám liếc trộm May. May đã cao hơn Châu rất nhiều và không giống như trong tưởng tượng của Châu. Chỉ một loáng mẹ May đã kéo May đi. May dặn với theo "May nói gì hồi lớp hai Châu vẫn nhớ chứ? Luôn luôn là thế. Bao giờ mình lớn...". Châu lại gật đầu. Suốt cả mối tình đầu, hai lần người ta nói những câu quan trọng thì hai lần Châu đều gật gật. Cả hai đều còn bé quá để biết hôn nhưng dẫu sao cái nắm tay rụt rè dưới cây mận Châu vẫn nhớ như in. Và mỗi lần như thế Châu lại mỉm cười. Rõ ràng mình yêu từ rất sớm. Từ lớp hai đã biết yêu và hẹn ước rồi. Ghê thật. Châu ngoảnh lại đã thấy lũ gà mái ngủ hết rồi. Đầu đứa nọ ở dưới chân đứa kia. Mông cái Hoa đặt ngang mũi cái Huế. Cái Hằng xoạc chân ngang như cầu thủ chuẩn bị sút bóng, còn cái miệng "chi-ca-vâu" của cái Lan phô hết lợi. Cái Bông ngủ ngoan nhất, hai tay khép trước ngực, mặt rất duyên, rõ là một đứa con gái ý tứ kể cả trong giấc ngủ. Châu mãi vẫn chưa thu xếp được một góc cho mình đành ngồi bó gối trong bóng tối mờ dịu phủ khắp căn phòng. Tám đứa con gái, tám mối tình đầu, tám nụ hôn đầu, tám kiểu hẹn hò. Dẫu chua chát, buồn khổ, êm đềm, trong trẻo hay bi hài đến cỡ nào đi chăng nữa, những kỷ niệm đầu đời vẫn như một giọt nước từng làm lay động cả một lá khoai xanh mướt, non tơ...[/FONT]