Trà Đá @@@<0><0> Những Chuyện Bí Mật...xưa Và Nay <0><0>@@@

Thảo luận trong 'Cà Phê - Trà Đá' bắt đầu bởi hugolina, 25/11/11.

  1. taynam

    taynam Thành Viên

    [​IMG]

    Socrates và nghệ thuật đối thoại



    Ông là người thầy của phương pháp làm triết học và khoa học. Hơn thế, ông là tượng đài lẫm liệt của nhân cách: nhân cách của người trí thức đích thực. Vậy là, ngay từ buổi bình minh của triết học, phương Tây đã được thừa hưởng hai bảo vật vô giá: cách làm triết học và cách sống triết học.
    Ba trong một: trí thức, nhà nhân quyền, triết gia
    Socrates (khoảng 470 – 399 trước Công nguyên) con nhà nghèo: cha làm đồ gốm, mẹ là bà mụ. Nghề của mẹ (và chắc cũng của cha nữa) thường được ví với phong cách sống của ông: làm người “đỡ đẻ” và hun đúc cho việc đi tìm chân lý. Học vấn uyên bác và đã từng là một chiến binh dũng cảm, nhưng rút cục ông thấy công việc “hộ sinh tinh thần” mới thực là sứ mệnh đáng cho ông dâng hiến trọn đời. Socrates không triết lý trong tháp ngà. Ông lang thang giữa chợ Athens (Hy Lạp) để bàn thảo, tranh luận với thanh niên, với những người “học thật” và “học… giả”.
    Tới 50 tuổi mới cưới vợ: bà Xanthippe, nổi danh (và đồng nghĩa) với hình ảnh một bà vợ hung dữ, khó tính. Không phải không có lỗi của ông: chẳng mang được đồng xu nào về nhà! Khác với những biện sĩ đương thời bán trí khôn kiếm tiền, ông dứt khoát dạy miễn phí. Không rõ bà hay cãi cọ có phải vì ông cương quyết không chịu… thương mại hoá giáo dục hay không, nhưng “chân lý” sáng giá được ông khám phá là: “Nên lấy vợ! Gặp vợ hiền, bạn được hạnh phúc; gặp vợ dữ, bạn thành… triết gia; đàng nào cũng có lợi!”
    Thử thách thực sự đến với Socrates vào năm 399 trước Công nguyên. Ông bị tố cáo tội “dụ dỗ thanh niên” và “báng bổ thánh thần”, bị kết án tử hình bằng cách uống thuốc độc. Người như ông mà không bị chụp mũ, tố cáo, lên án mới là chuyện lạ, nhưng thật ra, thời đó, án tử hình cũng hiếm và ông có thể dễ dàng thoát chết bằng hai cách: xin chừa hoặc bỏ trốn. Không thể được! Xin chừa là phản bội sứ mệnh bảo vệ chân lý. Bỏ trốn là phản bội trách nhiệm công dân. Vậy, chỉ có con đường chết: ung dung uống thuốc độc trước mặt bạn hữu và môn đệ, sau khi cùng họ… đàm luận triết học!
    Platon, cao đồ của Socrates, đã tường thuật quang cảnh bi tráng này một cách thật cảm động và nhất là đã ghi lại lời tự biện hộ bất hủ của Socrates trước toà mà hậu thế xem “là bản tuyên ngôn đầu tiên của tri thức” (Socrates tự biện, Nguyễn Văn Khoa dịch, NXB Tri Thức, 2006). Hãy nghe tóm tắt vài lời giới thiệu của dịch giả:
    Tại sao lại bắt đầu với Socrates, người chưa từng tự tay viết một chữ nào để lại hậu thế? Vì tuy không viết chữ nào, nhưng như đức Phật, đức Khổng ở phương Đông, Socrates là triết gia gây ảnh hưởng sâu đậm nhất lên lịch sử tư tưởng Tây phương.
    – Socrate là triết gia đầu tiên, vì “sống” đồng nghĩa với “triết lý”: “Thưa quý đồng hương,… khi nào còn chút hơi sức, tôi sẽ không ngừng sống đời triết gia, khuyên nhủ và khuyến cáo quý vị rằng phải tự xét mình và xét người, bởi vì sống mà không suy xét không đáng gọi là sống”.
    – Socrates là nhà nhân quyền đầu tiên, vì ông xác lập tự do tư duy, tự do phát biểu, tự do sống cuộc đời mình chọn lựa, như một thứ quyền con người, cao hơn bất kỳ bộ luật của một cộng đồng người đặc thù nào: “Trước sự thể này, tôi chỉ cần thưa với quý vị: có trả tự do cho tôi hay không, không thành vấn đề; Socrates này sẽ chẳng bao giờ làm chuyện gì khác, dù phải bỏ mạng ngàn lần”.
    – Socrates là người trí thức đầu tiên theo nghĩa hiện đại, vì dám tin vào một thứ chức năng thiên phú: phê phán không nhân nhượng xã hội ông đang sống: “Thật là sai lầm nếu quý vị nghĩ rằng chỉ cần giết người là trốn thoát lời chê trách sống không suy xét. Cách loại bỏ sự kiểm tra ấy vừa bất chính vừa bất khả thi, còn cách vừa chính đáng vừa dễ dàng là: thay vì tìm cách bịt miệng kẻ khác, hãy tự tu thân sửa tính” (sđd, tr. 35-36).
    Người đỡ đẻ tinh thần
    Ta thường biết đến câu nói nổi tiếng của Socrates: “Tôi biết rằng tôi không biết gì cả” và câu châm ngôn ông theo đuổi suốt đời – “Hãy biết chính mình!” Nhưng, cống hiến lớn nhất của ông là đã mang triết học từ trời xuống đất. Thay vì bàn chuyện vũ trụ cao xa như các bậc tiền bối, ông quan tâm đến những vấn đề của cuộc sống con người. Vì ông tin rằng mọi người ai ai cũng biết lẽ phải, sẵn sàng làm theo lẽ phải nếu được thức tỉnh.
    Do đó, nhiệm vụ của ông không phải là rao giảng, thuyết phục, trái lại, bằng phương pháp và kỹ thuật đặt câu hỏi, giúp mọi người tự tìm thấy lẽ phải, chân lý vốn còn bị che phủ bởi sự mê muội. Dựa theo phương pháp hộ sinh của bà mẹ, Socrates tiến hành nghệ thuật đối thoại bằng bốn bước:
    – Giả vờ không biết để nhờ người đối thoại giảng cho. Rồi bằng những câu hỏi trúng đích (có khi châm biếm, mỉa mai) chứng minh rằng người đối thoại thật ra chẳng biết gì!
    Khôn ngoan là kẻ biết điều mình không biết!
    Không biết không đáng trách, đáng trách là không chịu học

    Ông quan tâm đến những vấn đề của cuộc sống con người. Vì ông tin rằng mọi người ai ai cũng biết lẽ phải, sẵn sàng làm theo lẽ phải nếu được thức tỉnh.
    – Tiếp theo là dùng phương pháp quy nạp để xây dựng từng bước cái biết vững chắc. Đó là phân tích chính xác những ví dụ cụ thể trong đời thường, từ đó rút ra những kết luận và định nghĩa tạm thời.
    – Bằng phương pháp định nghĩa, làm cho những khẳng định tạm thời ấy ngày càng tinh vi và chính xác hơn.
    – Sau cùng, có được những định nghĩa rõ ràng, phổ quát về vấn đề đang bàn.
    Phương pháp đối thoại ấy trở thành cơ sở cho sự phát triển triết học và khoa học của bao thế hệ về sau.
    Ta học được gì từ Socrates? Bên cạnh tấm gương chính trực và dũng cảm mà mỗi khi nản lòng, ta hãy nhớ đến để còn vững tin vào giá trị của con người, còn có thể rút ra mấy kinh nghiệm hay:
    – Biết nghe và biết hỏi là yếu tố cơ bản để thành công. Nhưng, hỏi không phải để truy bức, để bắt bí mà để người được hỏi có dịp suy nghĩ và tự trả lời: câu trả lời và giải pháp là do chính họ tìm ra.
    – Kiểm tra có phê phán sự hiểu biết của chính mình.
    – Nền móng của đối thoại là sự trung thực và minh bạch, là sự tin cậy lẫn nhau: “Quan toà phải có bốn đức tính: lắng nghe một cách lễ độ, trả lời một cách rõ ràng, cân nhắc một cách hợp lý, và quyết định một cách vô tư”.
    – Tránh mọi sự cực đoan: “Sự cực đoan bao giờ cũng tạo ra sự cực đoan ngược lại. Thời tiết cũng thế, thân thể ta cũng thế, nhà nước, quốc gia đều thế cả”.
    – Không cần sống khổ hạnh (“ăn và uống mới làm cho xác và hồn gặp nhau!”), nhưng nên bớt dục vọng và đừng thở than quá mức: “Dồn hết mọi nỗi bất hạnh trên đời này lại rồi chia đều cho mỗi người, chắc ai cũng xin rút phần của mình lại và vui vẻ bỏ đi”.
    Socrates từ biệt chúng ta nhẹ nhàng: “Thôi, bây giờ đến lúc chia tay. Tôi chết đây, còn các bạn cứ sống. Nhưng ai sướng, ai khổ, chưa biết đâu đấy!” Socrates yêu quê hương, sẵn sàng chết chứ không nỡ bỏ đi, nhưng luôn giữ cái nhìn “toàn cầu”: “Tôi không phải là người Athens hay người Hy Lạp, tôi là công dân thế giới!”


    ................Nguồn: SGTT
     
  2. taynam

    taynam Thành Viên

    CÕI VÔ HÌNH

    [​IMG]

    Hamud là một pháp sư có kiến thức rất rộng về cõi vô hình. Khác với những đạo sĩ khác phái đoàn đã gặp, ông này không phải người Ấn mà là một người Ai cập. Ông ta sống một mình trong căn nhà nhỏ, xây dựa vào vách núi.
    Hamud không hề tiếp khách, nhưng trước sự giới thiệu của bác sĩ Kavir, ông bằng lòng tiếp phái đoàn trong một thời gian ngắn. Vị pháp sư có khuôn mặt gầy gò, khắc khổ và một thân hình mảnh khảnh. Ông ta khoác áo choàng rộng và quấn khăn theo kiểu Ai cập.
    Giáo sư Evans-Wentz vào đề :
    - Chúng tôi được biết ông chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí…
    Pháp sư thản nhiên :
    - Đúng thế, tôi chuyên nghiên cứu về cõi vô hình.
    - Như thế ông tin rằng có ma…
    Vị pháp sư nói bằng một giọng chắc chắn, quả quyết :
    - Đó là một sự thật, không những ma quỷ hiện hữu mà chúng còn là đối tượng nghiên cứu của tôi.
    - Bằng cớ nào ông tin rằng ma quỷ có thật ?
    - Khắp nơi trên thế giới đều có các giai thoại về ma, vì con người thường sợ hãi cái gì mà họ không thể nhận thức bằng các giác quan thông thường, nên họ đã phủ nhận nó. Sự phủ nhận này mang đến niềm sợ hãi. Từ đó họ thêu dệt các giai thoại rùng rợn, ly kỳ, không đúng sự thật. Nếu chúng ta chấp nhận ma quỷ hiện hữu như một con voi hay con ngựa thì có lẽ ta sẽ không còn sợ hãi. Các ông đòi hỏi một chứng minh cụ thể chăng ?
    - Dĩ nhiên, chúng tôi cần một bằng chứng hiển nhiên …
    - Được lắm, các ông hãy nhìn đây.
    Vị pháp sư mở ngăn kéo lấy ra một cặp que đan áo, một bó len và mang ra góc phòng để xuống đất. Ông ta thong thả :
    - Chúng ta tiếp tục nói chuyện, rồi các ông sẽ thấy.
    Mọi người ngơ ngác, không hiểu ông muốn nói gì, giáo sư Mortimer nóng nảy :
    - Nếu ông nghiên cứu về cõi vô hình, xin ông giải thích về quan niệm thiên đàng, địa ngục cũng như đời sống sau khi chết ra sao ?
    [​IMG]

    Vị pháp sư nghiêm giọng :
    - Đó là một quan niệm không đúng, sự chết chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp chứ không phải là hết. Vũ trụ có rất nhiều cõi giới, chứ không phải chỉ có một cõi này.
    - Khi chết ta bước qua cõi trung giới và cõi này gồm có bảy cảnh khác nhau. Mỗi cảnh được cấu tạo bằng những nguyên tử rất thanh mà ta gọi là “dĩ thái”. Tùy theo sự rung động khác nhau mà mỗi cảnh giới một khác. Tùy theo
    vía con người có sự rung động thanh cao hay chậm đặc, mà mỗi người thích hợp với một cảnh giới, đây là hiện tượng “đồng thanh tương ứng” mà thôi.
    Khi vừa chết, thể chất cấu tạo cái vía được sắp xếp lại, lớp thanh nhẹ nằm trong và lớp nặng trọc bọc phía ngoài, điều này cũng giống như một người mặc nhiều áo khác nhau vào mùa lạnh, áo lót mặc ở trong, áo choàng dầy khoác ngoài. Vì lớp vỏ bọc bên ngoài cấu tạo bằng nguyên tử rung động chậm và nặng nề, nó thích hợp với các cảnh giới tương ứng ở cõi âm, và con người sẽ đến với cảnh giới này.
    Sau khi ở đây một thời gian, lớp vỏ bao bọc bên ngoài dần dần tan rã giống như con người trút bỏ áo khoác bên ngoài ra, tùy theo các lớp nguyên tử bên trong mà họ thích ứng với một cảnh giới khác. Cứ như thế, theo thời gian, khi các áp lực vật chất tan rã hết thì con người tuần tự tiến lên những cảnh giới cao hơn.
    Điều này cũng giống như một quả bóng bay bị cột vào đó những bao cát; mỗi lần cởi bỏ được một bao thì quả bóng lại bay cao hơn một chút cho đến khi không còn bao cát nào, thì nó sẽ tự do bay bổng.
    Trong bảy cảnh giới của cõi âm, thì cảnh thứ bảy có rung động nặng nề, âm u nhất, nó là nơi chứa các vong linh bất hảo, những kẻ sát nhân, người mổ sẻ súc vật, những cặn bả xã hội, những kẻ tư tưởng xấu xa, còn đầy thú tánh. Vì ở cõi âm, không có thể xác, hình dáng thường biến đổi theo tư tưởng nên những kẻ thú tánh mạnh mẽ thường mang các hình dáng rất ghê rợn, nửa người, nửa thú.
    Những người thiếu kiến thức rõ rệt về cõi này cho rằng đó là những quỷ sứ. Điều này cũng không sai sự thật bao nhiêu vì đa số những vong linh này luôn oán hận, ham muốn, thù hằn và thường tìm cách trở về cõi trần. Tùy theo dục vọng riêng tư mà chúng tụ tập quanh các nơi thích ứng, dĩ nhiên người cõi trần không nhìn thấy chúng được.
    Những loài ma đói khát quanh quẩn bên các chốn trà đình tửu quán, các nơi mổ sẻ thú vật để tìm những rung động theo những khoái lạc vật chất tại đây. Khi một người ăn uống ngon lành họ có các rung động, khoái lạc và loài mà tìm cách hưởng thụ theo tư tưởng này. Đôi khi chúng cũng tìm cách ảnh hưởng, xúi dục con người nếu họ có tinh thần yếu đuối, non nớt.
    [​IMG]

    Những loài ma dục tình thì quanh quẩn nơi buôn hương bán phấn, rung động theo những khoái lạc của người chốn đó, và tìm cách ảnh hưởng họ. Nếu người sống sử dụng rượu, các chất kích thích thì ngay trong giây phút mà họ không còn tự chủ được nữa, các loài ma tìm cách nhập vào trong thoáng giây để hưởng một chút khoái lạc vật chất dư thừa. Vì không được thỏa mãn nên theo thời gian các dục vọng cũng giảm dần, các nguyên tử nặng trọc cũng tan theo, vong linh sẽ có các rung động thích hợp với một cảnh giới cao hơn và y sẽ thăng lên cõi giới tương ứng.
    Dĩ nhiên, một người có đời sống trong sạch, tinh khiết sẽ không lưu ở cõi này, mà thức tỉnh ở một cõi giới tương ứng khác. Tùy theo lối sống, tư tưởng khi ta còn ở cõi trần mà khi chết ta sẽ đến những cảnh giới tương đồng, đây chính là định luật “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
    Toàn thể phái đoàn im lặng nhìn nhau, vị pháp sư Ai cập đã diễn tả bằng những danh từ hết sức khoa học, chính xác, chứ không mơ hồ, viễn vông. Dù sao đây vẫn là một lý thuyết rất hay, nhưng chưa chứng minh được. Có thể đó là một giả thuyết của những dân tộc nhiều tưởng tượng như người Á châu chăng ?
    Hamud mỉm cười như đọc được tư tưởng mọi người :
    - Nếu các ông biết rằng tôi cũng là một tiến sĩ vật lý học tốt nghiệp đại học Oxford…
    Giáo sư Harding giật mình kêu lên :
    - Oxford ư ? Ông đã từng du học bên xứ chúng tôi sao ?
    - Chính thế, tôi tốt nghiệp năm 1964, và là người Ai cập đầu tiên tốt nghiệp về ngành này.
    (Ghi chú của giáo sư Spalding : Phái đoàn đã phối kiểm chi tiết này và hồ sơ đại học Oxford ghi nhận có một tiến sĩ người Ai cập tên là Hamud El Sarim nhập học năm 1956 và tốt nghiệp năm 1964 với bằng Tiến sĩ Vật lý).
    - Nhưng làm sao ông biết rõ được cõi giới này ? Ông đã đọc sách vở hay dựa trên những bằng chứng ở đâu ?
    - Tôi đã
    khai mở các giác quan thể vía, nhờ công phu tu hành trong nhiều năm. Ngay khi còn là sinh viên tôi đã say mê môn Vật lý siêu hình (metaphysics). Tôi dành nhiều thời giờ nghiên cứu sách vở khoa học, nhưng đến một lúc thì khoa học phải bó tay. Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi đến với Khoa Huyền Bí học. Tôi học hỏi rất kỹ về môn này, khi trở về Ai cập tôi may mắn gặp được các vị đạo sư uyên bác, nên sự nghiên cứu càng ngày càng tiến bộ.
    Sự nghiên cứu dẫn dắt tôi sang Ấn độ, và Tây Tạng. Tại đây tôi gặp một Lạt Ma chuyên nghiên cứu về cõi âm, tôi đã học hỏi rất nhiều với vị này. Sau đó, tôi tu nhập thất trong 10 năm liền, và khai mở được một vài giác quan đặc biệt. Từ đó, tôi tha hồ nghiên cứu cõi âm vì tôi có thể sang tận đây học hỏi và cõi này trở nên quen thuộc, tôi kết bạn với rất nhiều sinh vật siêu hình, chúng giúp đỡ tôi rất nhiều.
    [​IMG]

    Giáo sư Evans- Wentz ngập ngừng :
    - Ông muốn nói rằng ông kết bạn với ma ?
    - Dĩ nhiên, vì tôi dành trọn thời giờ hoạt động bên cõi này, nên tôi có rất đông bạn bè, phần lón là vong linh người quá cố nhưng cũng có một vài sinh vật có đường tiến hoá riêng, khác với loài người, có loài khôn hơn người và có loại không thông minh hơn loài vật là bao…
    - Giao thiệp với chúng có lợi ích gì không ?
    - Các ông nên biết cõi âm là một thế giới lạ lùng, phức tạp với những luật thiên nhiên khác hẳn cõi trần. Sự đi lại giao thiệp giúp ta thêm kiến thức rõ ràng…..
    - Như thế có nguy hiểm không ?
    - Dĩ nhiên, có nhiều sinh vật hay vong linh hung ác, dữ tợn… Một số thầy phù thuỷ, thường liên lạc với nhóm này để mưu cầu lợi lộc, chữa bệnh hoặc thư phù, nguyền rủa….
    - Ông có thể làm như vậy không ?
    Vị pháp sư nghiêm mặt :
    - Tất cả những việc gì có tính cách phản thiên nhiên, ngược luật tạo hoá đều mang lại hậu quả không tốt. Mưu cầu lợi lộc cho cá nhân là điều tối kỵ của ai đi trên đường đạo. Tôi không giao thiệp với những loại vong linh này, vì chúng rất nguy hiểm, hay phản phúc và thường giết chết kẻ lợi dụng chúng bất cứ lúc nào. Các ông nên nhớ tôi là một khoa học gia chứ không phải một thầy pháp hạ cấp hay một phù thuỷ chữa bệnh.
    - Xin ông nói rõ hơn về những cảnh giới cõi âm.
    - Các ông nên biết dù ở cõi nào, tất cả cũng không ra ngoài các định luật khoa học. Thí dụ như vật chất có ba thể : thể lỏng, thể đặc và thể hơi, thì bên cõi này cũng có những thể tương tự.
    Luật thiên nhiên cho thấyvật nặng sẽ chìm xuống dưới và vật nhẹ nổi lên trên thì cõi vô hình cũng thế. Nguyên tử cõi âm rung động với một nhịp độ khác với cõi trần, các nguyên tử rung động thật nhanh dĩ nhiên phải nhẹ hơn các nguyên tử nặng trược. Tóm lại, tùy theo nhịp độ rung động mà tạo ra những cảnh giới khác nhau, có bảy loại rung động nên có bảy cõi giới.
    Các nguyên tử rung động chậm chạp phải chìm xuống dưới vì nếu ta mang nó lên cao, sức ép sẽ làm nó tan vỡ ngaỵ Thí dụ ta đặt một quả bóng xuống nước nếu đến một độ sâu nào đó sức ép của nước sẽ làm nó vỡ tan. Loài cá cũng thế, có loại sống gần mặt nước, có loại sống tận đáy đại dương. Nếu loại sống gần mặt biển bị mang xuống đáy nó sẽ bị sức ép mà chết, ngược lại nếu loài sống ở dưới đáycũng không thể lên sát mặt nước vì đã quen với sức ép khác nhau.[​IMG]
    Cảnh giới thứ bảy lúc nào cũng tối tăm, nặng nề với các vong linh hình dáng ghê rợn, nhưng hoàn toàn không có vụ quỷ sứ tra tấn tội nhân. Bị lưu đày ở đây đã là khổ sở lắm rồi, các ông hãy tưởng tượng bị dục vọng hành hạ mà không thể thỏa mãn thì còn khổ gấp trăm lần bị tra tấn. Vong linh thèm muốn nhưng không so thỏa mãn được, như đói mà không thể ăn, khát không thể uống. Do đó, theo thời gian y sẽ học bài học chịu đựng, nhẫn nhục cho đến khi dục vọng giảm bớt và tan ra thì y sẽ thăng lên cảnh giới thứ sáu.
    Cõi giới thứ sáu, có sự rung động rất giống như cõi trần, tại đây các vong linh ít còn thèm muốn vật chất như ăn uống, dục tình, nhưng bận tâm với những nhỏ nhen của cuộc sống như thoa? mãn bản ngã, ích kỷ, ghen tuông, hờn giận, v…v… Đa số có hình dáng giống như người cõi trần, nhưng lờ mờ không rõ. Vì sự rung động của nguyên tử gần giống như cõi trần nên họ hay trở về cõi này, họ thường nhập vào đồng cốt, các buổi cầu cơ, cầu hồn để chỉ dẫn bậy bạ, nói chuyên vu vơ nhằm thỏa mãn tự ái, bản ngã cá nhân. Vì đa số vong linh khi còn sống rất ham mê danh vọng, chức tước, uy quyền nên khi họ nhập vào đồng cốt, họ thường tự xưng là các đấng này, đấng nọ. Theo thời gian, các rung động ham muốn, các cố chấp về bản ngã, danh vọng cũng tan biến nên họ thăng lên cảnh giới thứ năm.
    Cõi thứ năm có sự rung động thanh nhẹ hơn cõi trần nên vong linh có thể biến đổi sắc tướng rất nhanh chóng. Đây là một thế giới với những âm thanh màu sắc lạ lùng dễ bị mê hoặc. Các vong linh ở đây đã bớt ham muốn về cá nhân, nhưng còn ham muốn về tư tưởng, kiến thức. Đây là nơi cư ngụ của những kẻ đạo đức giả, những kẻ bảo thủ nhiều thành kiến, những người trí thức tự phụ, v…v… Đây cũng là cõi có những sinh hoạt của loài Tinh linh. Loài Tinh linh là những sinh vật vô hình có hình dáng hao hao giống như người mà ta thường gọi là Thiên tinh (sylphs), Thổ địa (gnome), Phong tinh (elves), v…v… Một số bị thu phục bởi các phù thuỷ, pháp sư để làm ảo thuật hay luyện phép. Cõi này còn có sự hiện diện của những “hình tư tưởng”.
    [​IMG]

    Các ông nên biết, khi một tư tưởng hay dục vọng phát sinh thì chúng sử dụng tinh chất cõi này tạo nên một hình tư tưởng thích hợp. Đời sống của chúng tùy theo sức mạnh của tư tưởng mạnh hay yếu. Vì đa số tư tưởng con người còn mơ hồ nên hình tư tưởng chỉ tạo ra ít lâu là tan rã ngaỵ Một người tập trung tư tưởng có thể tạo ra một hình tư tưởng sống lâu trong vài giờ hay vài ngày. Một pháp sư cao tay có thể tạo ra các hình tư tưởng sống đến cả năm hay cả thế kỷ, không những thế hình tư tưởng này còn chịu sự sai khiến của ông tạ Các phù thuỷ luyện thần thông đều dựa trên nguyên tắc cấu tạo một sinh vật vô hình để sai khiến.
    Hình tư tưởng không chỉ phát sinh từ một cá nhân mà còn từ một nhóm người hay một quốc gia, dân tộc. Khi một đoàn thể, dân tộc cùng một ý nghĩ, họ sẽ tạo ra một hình tư tưởng của đoàn thể, quốc gia đó. Hình tư tưởng này sẽ tạo một ảnh hưởng vô cùng rộng lớn đối với tình cảm,phong tục, thành kiến của quốc gia, dân tộc. Ta có thể gọi đó là “Hồn thiêng sông núi” hay “dân tộc tính”.
    Khi sinh ra tại một quốc gia, ta ít nhiều chịu ảnh hưởng của hình tư tưởng này, dĩ nhiên chúng chỉ ảnh hưởng lên thể vía, nghĩa là tình cảm của dân tộc đó, chứ không ảnh hưởng đến lý trí. Một người sống nhiều bằng lý trí sẽ ít chịu ảnh hưởng như người bình thường. Điều này giải thích tại sao một dân tộc có tâm hồn mơ mộng như thi sĩ khi dân tộc khác lại có đầu óc thực tế mặc dù trên phương diện địa lý, họ không ở cách xa nhau mấy và ít nhiều chia sẻ một số quan niệm về tôn giáo, phong tục, tập quán.
    Cảnh giới cõi thứ tư sáng sủa hơn và dĩ nhiên nguyên tử cõi này rung động rất nhanh. Phần lớn những vong linh tiến hoá, thánh thiện, những nhà trí thức trầm mặc nhưng còn quyến luyến một ít dục vọng khi chết đều thức tỉnh ở cảnh giới này. Đa số đều ý thức ít nhiều, nên họ bắt đầu cởi bỏ những ham muốn, quyến luyến. Đây cũng là chỗ họ học hỏi và ảnh hưỏong lẫn nhau, và đôi khi kêt những liên hệ để cùng nhau tái sinh trong một gia đình hay quốc gia.
    [​IMG]

    Cõi giới thứ ba chói sáng, có những rung độgn nhẹ nhàng. Tại đâu có những linh hồn từ tâm nhưng vụng về, những tu sĩ thành tâm nhưng thiếu trí tuệ, những nhà lãnh đạo anh minh nhưng thành kiến. Đây cũng là một cảnh giới của một số thần linh (devas) như Cảmđục thiên thần (Kamadeva), Hữu sắc thiên thần (Rupadeva), và Vô sắc thiên thần (Arupadeva). Các thần linh này có đời sống và tiến hoá cao hơn trình độ của nhân loại.
    Cõi giới thứ hai và thứ nhất cấu tạo bằng những nguyên tử hết sức thanh thoát, rung động rất nhanh và tràn đầy ánh sáng. Đây là cõi giới mà những người tiến hoá rất cao, rất tệ nhị không còn dục vọng, ham muốn, lưu lại để học hỏi, trao đổi kinh nhigệm, phát triển ccác đức tính riêng trước khi siêu thoát len cảnh giới cao hơn.
    - Như thế người chết thường lưu lại ở cõi Trung giới bao nhiêu lâu ?
    - Thời gian lưu lại đây hoàn toàn tùy thuộc vào dục vọng con người, có người chỉ ghé lại đây vài giờ, lập tức đầu thai trở lại. Có kẻ ở đây hàng năm và có kẻ lưu lại đây hàng thế kỷ… Để siêu thoát, thể vía phải hoàn toàn tan rã hết thì mới lên đến cõi Thượng thiên hay siêu thoát. Tóm lại danh từ như thiên đàng hay địa ngục chỉ là những biểu tượng của những cảnh ở cõi Trung giới (Kamaloka). Tùy theo sự sắp xếp của thể vía khi chết, mà ta thức tỉnh ở một cảnh giới tương ứng.
    Mọi người yên lặng nhìn nhau, những điều Hamud giải thích hoàn toàn hợp lý và hết sức khoa học, không hoang đường chút nào.
    Nhưng làm sao chứng minh những điều mà khoa học thực nghiệm không thể nhìn thấy được ? Dù sao Hamud cũng là một Tiến sĩ Vật lý tốt nghiệp đại học nổi tiếng nhất Âu châu chứ không phải một phù thuỷ vô học chốn hoang vu, ít nhiều ông ta cũng có một tinh thần khách quan vô tư của một khoa học gia chứ không mê tín dễ chấp nhận một lý thuyết vu vơ, không kiểm chứng. Nhưng làm sao có thể thuyết phục những người Âu Mỹ vốn rất tự hào, nhiều thành kiến và tin tưởng tuyệt đối ở khoa học.
    Hamud mỉm cười tiếp tục :
    - Sự hiểu biết về cõi vô hình rất quan trọng, vì khi hiểu rõ những điều xảy ra sau khi chết, ta sẽ không sợ chết nữa. Nếu có chết chỉ là hình hài, xác thân chứ không phải sự sống, và hình hài có chết đi, thì sự sống mới tiếp tục tiến hoá ở một thể khác tinh vi hơn. Đây là một vấn đề hết sức hợp lý và khoa học cho ta thấy rõ sự công bình của vũ trụ.
    Khi còn sống, con người có dục vọng này nọ, khi dục vọng được thoa? mãn, nó sẽ gia tăng mạnh mẽ, đồng thời các chất thô kệch, các rung động nặng nề sẽ bị thu hút vào thể vía.
    [​IMG]


    Sau khi chết, dục vọng này trở nên mạnh mẽ vì không còn lý trí kiểm soát nữa, chính thế nó sẽ đốt cháy con người của ta. Sự nung đốt của dục vọng chẳng phải địa ngục là gì ? Giống như đức tính, phẩm hạnh khi còn trẻ, quyết định điều kiện sinh sống lúc tuổi già, đời sống cõi trần quyết định đời sống bên kia cửa tử. Luật này hết sức hợp lý và dễ chứng minh.
    Khi còn trẻ ta tập thể thao, giữ thân thể khoẻ mạnh, thì khi về già ta sẽ ít bệnh tật, khi còn trẻ ta chịu khó học hỏi, có một nghề nghiệp vững chắc thì khi về già đời sống được bảo đảm hơn, có đúng thế không ?
    Những người nào chế ngự được dục vọng thấp hèn, làm chủ được đòi hỏi thể xác, thì các dục vọng này không thể hành hạ khi ta chết. Luật thiên nhiên định rằng khi về già thể xác yếu dần, đau ốm, khiến cho ta bớt đi các ham muốn và nhờ thế, dục vọng cũng giảm bớt rất nhiều nên thể vía cũng thanh lọc bớt các chất nặng nề, ô trượt để khi chết, sẽ thức tỉnh ở cảnh giới cao thượng hơn.
    Trái lại những người còn trẻ, lòng ham muốn còn mạnh mẽ, nếu chết bất đắc kỳ tử thường đau khổ rất nhiều và phải lưu lại cõi Trung giới lâu hơn. Nếu hiểu biết như thế, ta cần phải duyệt xét lại đời sống của mình ở cõi trần để khỏi lưu lại những cảnh giới thấp thỏi, nặng nề bên cõi âm.
    Những người lớn tuổi cần chuẩn bị để dứt bỏ các quyến luyến, ràng buộc, các lo lắng ưu phiền, các tranh chấp, giận hờn, phải biết xả ly, dứt bỏ mọi phiền não để mau chóng siêu thoát. Một sự chuẩn bị Ở cõi trần sẽ rút ngắn thời gian bên cõi âm và chóng thúc đẩy thời gian lên cõi giới cao hơn.
    - Nhưng còn các ma quỷ thì sao ?
    - Các ông cứ cho rằng ma quỷ là một thực thể thế nào đó, khác hẳn loài người. Thật ra phần lớn chúng là những vong linh sống ở cảnh giới thứ bảy, thứ sáu mà thôi. Chúng còn lưu luyến cõi trần, còn say mê dục vọng không sao thoát ra khỏi cảnh giới này… Luật thiên nhiên không cho phép chúng trở lại cõi trần, nhưng cũng có những trường hợp đặc biệt, khiến người cõi trần trong một thoáng giây có thể nhìn thấy chúng…Khoan đã, các ông hãy xem kìa, người bạn của tôi đã làm xong việc.
    [​IMG]

    Hamud chỉ vào góc phòng nơi ông ta để bó len và cây kim đan áo. Mọi người bước đến gần và thấy một chiếc áo len đan bằng tay đã thành hình từ lúc nào không ai rõ. Chiếc áo đan tay rất vụng, không khéo léo nhưng trên ngực có thêu tên giáo sư Mortimer. Vị pháp sư giải thích :
    - Con ma này rất nghịch, và thường quanh quẩn ở đây. Tôi yêu cầu hắn đan chiếc áo len cho các ông để làm bằng chứng. Để tránh việc các ông cho rằng tôi làm trò ảo thuật, tráo vào đó một chiếc áo len khác, tôi yêu cầu hắn thêu tên người nào trong phái đoàn có nhiều nghi ngờ nhất. Các ông đều biết rằng từ khi gặp gỡ tôi không hề hỏi tên các ông, và nếu chiếc áo này không đan riêng cho các ông thì còn ai nữa ?
    Qủa thế, vị pháp sư gầy gò không thể mặc chiếc áo đan to tướng, rất vừa vặn cho giáo sư Mortimer, một người Âu mà kích thước đã rất ư quá khổ, so với những người Âu khác, đó là chưa kể vòng bụng khổng lồ, rất hiếm có của ông này. Hơn nữa, áo này cũng không thể may sẵn để bán vì đường kim mũi chỉ rất ư vụng về, nếu có bán, cũng chẳng ai muạ Tại nơi hoang vu, không có ai ngoài vị pháp sư và phái đoàn, sự kiện này quả thật rất lạ lùng.
    Giáo sư Evans-Wentz thắc mắc :
    - Như vậy ông có thể sai khiến ma quỷ hay sao ?
    - Tôi không phải là một phù thuỷ, lợi dụng quyền năng cho tư lợi; mà chỉ là một người có rất nhiều bạn hữu vô hình bên cõi âm. Tôi hiểu rõ các luật thiên nhiên như Luân hồi, Nhân quả, và hậu quả việc thờ cúng ma quỷ để mưu cầu một cái gì. Tôi chỉ là một khoa học gia nghiên cứu cõi vô hình một cách đứng đắn. Sự nghiên cứu những hiện tượng siêu hình là một khoa học hết sức đứng đắn, chứ không phải mê tín dị đoạn.
    Nhiều người thường tỏ ý chê cười khi nói đến vấn đề ma quỷ, nên những ai có gặp ma, cũng chả dám nói vì sợ bị chê cười hay cho là loạn trí. Nếu người nào không tin hãy nghiên cứu và chứng minh một cách khoa học rằng ma quỷ chỉ là những giả thuyết tưởng tượng, còn như phủ nhận không dám chứng minh chỉ là một cái cớ che dấu sự sợ hãi. Điều khoa học chưa chứng minh được không có nghĩa là điều này không có thật, vì một ngày nào đó, khoa học sẽ tiến đến mức mà họ có thể chứng minh tất cả.[​IMG]
    Những phương pháp thông thường như cầu cơ, đồng cốt, thường gặp sai lầm vì như tôi đã trình bày, các vong linh nhập vào phần lớn cũng có kiến thức giới hạn ở cảnh giới nào đó. Đôi khi họ cũng trích dẫn vài câu trong “Thánh kinh”, hoặc sách vở, kinh điển để nâng cao giá trị lời nói, điều này có khác nào những nhà chính trị khi diễn thuyết.
    Phương pháp khoa học chính xác nhất là phải tự mình qua hẳn thế giới đó nghiên cứu. Các ông nên biết thân thể chúng ta không phải môi trường duy nhất của linh hồn và giác quan của nó cũng không phải phương tiện duy nhất để nghiên cứu ngoại cảnh. Nếu ta chấp nhận rằng vũ trụ có nhiều cõi giới khác nhau và mỗi thể con người tương ứng với một cõi, thì ta thấy ngay rằng thể xác cấu tạo bằng nguyên tử cõi trần nên chỉ giới hạn trong cõi này được thôi.
    Các thể khác cũng có giác quan riêng của nó và khi giác quan thể vía được khai mở, ta có thể quan sát các cõi giới vô hình dễ dàng. Khi từ trần, thể xác tiêu hao, các giác quan không còn sử dụng được nữa thì linh hồn sẽ tập phát triển các giác quan thể vía ngaỵ Nếu biết cách khai mở các giác quan này khi còn sống, ta có thể nhìn thấy cõi âm một cách dễ dàng.
    Giáo sư Allen ngập ngừng :
    - Nhưng có một quan niệm lại cho rằng, sau khi chết linh hồn sẽ lên thiên đàng hay xuống địa ngục vĩnh viễn, điều này ra sao ?
    Hamud lắc đầu :
    - Đó là một quan niệm không hợp lý, vì điều này cho rằng khi chết linh hồn sẽ đổi thay toàn diện. Sau khi chết, linh hồn sẽ mất hết tính xấu để trở nên toàn thiện, trở nên một vị thiên thần vào cõi thiên đàng hoặc là linh hồn có thể mất hết các tính tốt để trở nên xấu xa, trở nên một thứ ma quỷ bị đẩy vào địa ngục. Điều này vô lý vì sự tiến hoá phải từ từ, chứ không thể đột ngột được.
    [​IMG]

    Trên thế gian này, không ai toàn thiện hay toàn ác. Trong mỗi chúng ta đều có các chủng tử xấu, tốt do các duyên, nghiệp từ tiền kiếp để lại; tùy theo điều kiện bên ngoài mà những chủng tử này nẩy mầm, phát triển hay thui chột, không thể phát triển. Một người tu thân là một người biết mình, lo vun xới tinh thần để các nhân tốt phát triển, giống như người làm vườn lo trồng hoa và nhổ cỏ dại. Thực ra, khi sống và chết, con người không thay đổi bao nhiêu.
    Nếu khi sống họ ăn tham thì khi chết, họ vẫn tham ăn, chỉ có khác ở chỗ, điều này sẽ không còn được thoa? mãn vì thể xác đã hư thối, tan rã mất rồi. Sau khi chết, tìm về nhà thấy con cháu ăn uống linh đình mà họ thì không sao ăn được, lòng ham muốn gia tăng cực độ như lửa đốt gan, đốt ruột, đau khổ không sao tả được.
    - Như ông đã nói, loài ma đói thường rung động theo không khí quanh đó, như thế họ có thỏa mãn không ?
    - Khi người sống ăn ngon có các tư tưởng khoái lạc thì loài ma đói xúm quanh cũng tìm cách rung động theo tư tưởng đó, nhưng không làm sao thoa? mãn cho được. Điều này ví như khi đói, nghĩ đến món ăn ngon ta thấy khoan khoái, ứa nước bọt nhưng điều này đâu có thoa? mãn nhu cầu bao tử đâu. Các loại ma hung dữ, khát máu thường tụ tập nơi mổ sẻ súc vật, lò sát sinh để rung động theo những không khí thô bạo ở đó. Những người giết súc vật trong nhà vô tình mời gọi các vong linh này đến, sự có mặt của họ có thể gây nhiều ảnh hưởng xấu, nhất là cho nhũng người dễ thụ cảm.
    - Đa số mọi người đều cho rằng ma quỷ thường xuất hiện ở nghĩa địa, điều này ra sao ?
    - Sự hiện hình ở nghĩa địa chỉ là hình ảnh của thể phách đang tan rã, chứ không phải ma quỷ, vong linh. Khi ta chết, thể xác hư thối thì thể phách vốn là thể trung gian giữa thể xác và thể vía cũng tan rã theo. Thể phách được cấu tạo bằng những nguyên tử tương đồng với nguyên tử cõi trần. Nhưng trong đó có nhiều nguyên tử ‘dĩ tháí, nên nhẹ hơn, nó thu thập các sinh lực còn rơi rớt trong thể xác, để cố gắng kéo dài sự sống thêm một thời gian nữa. Vì đang tan rã nên thể phách không hoàn toàn, do đó, đôi khi ta thấy trên nghĩa địa có những hình ảnh người cụt đầu, cụt chân, bay là là trên các nấm mồ, người không hiểu thì gọi đó là ma. Theo sự hiểu biết của tôi, thì việc thiêu xác tốt đẹp hơn việc chôn cất, vì để thể xác tan rã từ từ làm cho linh hồn đau khổ không ít và thường ở trong một giai đoạn hôn mê, bất động một thời gian rất lâu. Thiêu xác khiến vong linh thấy mình không còn gì quyến luyến nữa nên siêu thoát nhanh hơn nhiều.
    - Ma quỷ thường thuộc thành phần nào trong xã hội ?
    - Chúng thuộc đủ mọi thành phần, tùy theo dục vọng khi còn sống. Người chết bất đắc kỳ tử thường lưu lại cõi âm lâu hơn người chết già vì còn nhiều ham muốn hơn. Những kẻ sát nhân bị hành quyết vẫn sống trong cảnh tù tội, giận hờn và có ý định trả thù. Một người tự tử để trốn nợ đời cũng thế, y sẽ hôn mê trong trạng thái khổ sở lúc tự tử rất lâu. Định luật cõi âm xác nhận rằng, “Chính cáidục vọng của ta quyết định cảnh giới ta sẽ đến và lưu lại ở đó lâu hay mau.”
    - Số phận của những người quân nhân tử trận thì ra sao ?[​IMG]
    - Họ cũng không ra ngoài luật lệ đó, tùy theo dục vọng từng cá nhân. Tuy nhiên, người hy sinh tính mạng cho một lý tưởng có một tương lai tốt đẹp hơn, vì cái chết cao đẹp là một bậc thang lớn trong cuộc tiến hoá. Họ đã quên mình để chết và sống cho lý tưởng thì cái chết đó có khác nào những vị thánh tử đạo. Dĩ nhiên không phải quân nhân nào cũng sống cho lý tưởng và những kẻ giết chóc vì oán thù và chết trong oán thù lại khác hẳn.
    - Như ông nói thì người chết vẫn thấy người sống ?
    - Thật ra phải nói như thế này. Khi chết các giác quan thể xác đều không sử dụng được nữa, nhưng người chết vẫn theo dõi mọi sự dễ dàng vì các giác quan thể vía. Không những thế họ còn biết rất rõ tư tưởng, tình cảm liên hệ; mặc dù họ không còn nghe thấy như chúng tạ Nhờ đọc được tư tưởng, họ vẫn hiểu điều chúng ta muốn diễn tả.
    - Như vậy thì họ Ở gần hay ở xa chúng ta ?
    - Khi mới từ trần, người chết luôn quanh quẩn bên gia đình, bên những người thân nhưng theo thời gian, khi ý thức hoàn cảnh mới, họ sẽ tách rời các ràng buộc gia đình để sống hẳn ở cõi giới của họ.
    - Như thế có cách nào người sống tiếp xúc được với thân nhân quá cố không ?
    - Điều này không có gì khó. Hãy nghĩ đến họ trong giấc ngủ. Thật ra nếu hiểu biết thì ta không nên quấy rầy, vì làm thế chỉ gây trở ngại cho sự siêu thoát.
    Sự chết là bước vào một đời sống mới, các sinh lực từ trước vẫn hướng ra ngoài, thì nay quay vào trong, linh hồn từ từ rút khỏi thể xác bằng một bí huyệt trên đỉnh đầu. Do đó, hai chân từ từ lạnh dần rồi đến tay và sau cùng là trái tim. Lúc này người chết thấy rất an tĩnh, nhẹ nhàng không còn bị ảnh hưởng vật chất. Khi linh hồn rút lên óc, nó sẽ khơi động các ký ức, cả cuộc đời sẽ diễn lại như cuốn phim. Hiện tượng này gọi là “hồi quang phản chiếu” (Memory projection). Đây là một giây phút hết sức quan trọng vì nó ảnh hưởng rất lớn đến đời sống cõi bên kia. Sợi dây từ điện liên hệ giữa thể xác và thể phách sẽ đứt hẳn. Đây là lúc người chết hoàn toàn hôn mê, vô ý thức để linh hồn rút khỏi thể phách và thể vía bắt đầu lo bảo vệ sự sống của nó bằng cách xếp lại từng lớp nguyên tử, lớp nặng bọc ngoài và lớp thanh nhẹ Ở trong. Sự thu xếp này ấn định cõi giới nào vong linh sẽ đến.
    [​IMG]

    - Ông du hành sang cõi âm thế nào ?
    - Nói như thế không đúng lắm, vì ám chỉ một sự di chuyển từ nơi này đến nơi khác. Các cõi thật ra ở cùng một nơi chỉ khác nhau ở chiều không gian và thời gian. Sang cõi âm là sự chuyển tâm thức, sử dụng giác quan thể vía để nhận thức chứ không phải đi đến một nơi nào hết. Sở dĩ cõi trần không thấy cõi âm vì nguyên tử cấu tạo nó quá nặng nề, rung động quá chậm không thể đáp ứng với sự rung động nhanh của cõi âm.
    Quan niệm về không gian cũng khác vì đây là cõi tư tưởng, nghĩ đến đâu là ta đến đó liền, muốn gặp ai chỉ cần giữ hình ảnh người đó trong tư tưởng ta sẽ gặp người đó ngaỵ Khi di chuyển ta có cảm giác như lướt trôi, bay bỗng vì không còn đi bằng hai chân như thể xác.
    - Những người chết nhận thức về đời sống mới ra sao ?
    - Trừ những kẻ cực kỳ hung dữ, ghê gớm, đa số mọi người thức tỉnh trong cảnh giới thứ năm hoặc thứ sáu, vốn có rung động không khác cõi trần là bao. Lúc đầu họ còn bỡ ngỡ, hoang mang nhưng sau sẽ quen đi. Tùy theo tình cảm, dục vọng mà họ hành động.
    Tôi đã gặp vong linh của một thương gia giàu có, ông này cứ quanh quẩn trong ngôi nhà cũ nhiều năm, ông cho tôi biết rằng ông rất cô đơn và đau khổ. Ông không có bạn và cũng chả cần ai. Ông trở về căn nhà để sống với kỷ niệm xưa nhưng ông buồn vì vợ con ông vẫn còn đó nhưng chả ai để ý đến ông. Họ tin rằng ông đã lên thiên đàng, vì họ đã bỏ ra những số tiền, tổ chức các nghi lễ tôn giáo rất lớn, một tu sĩ đã xác nhận thế nào ông cũng được lên thiên đàng. Tôi khuyên ông ta nên cởi bỏ các quyến luyến để siêu thoát nhưng ông ta từ chối. Một vài người thân đã qua đời cũng đến tìm gặp, nhưng ông cũng không nghe họ. Có lẽ ông ta sẽ còn ở đó một thời gian lâu cho đến khi các lưu luyến phai nhạt hết.
    Tôi đã gặp những vong linh quanh quẩn bên cạnh cơ sở mà họ gầy dựng nên, họ vô cùng đau khổ và tức giận vì không còn ảnh hưởng được gì, họ rất khổ sở khi người nối nghiệp, con cháu có quyết định sai lầm, tiêu phá cơ nghiệp.
    Tôi đã gặp những người chôn cất của cải, phập phồng lo sợ có kẻ tìm ra, họ vẫn quanh quẩn gần đó và đôi khi tìm cách hiện về doa. nạt những người bén mảng đến gần nơi chốn dấu.
    Vong linh ghen tuông còn khổ sở hơn nữa ; họ không muốn người họ yêu mến chia sẻ tình yêu với kẻ khác. Đôi khi họ điên lên khi chứng kiến sự âu yếm của người họ yêu mến và người khác. Dĩ nhiên họ không thể làm gì được nên vô cùng khổ sở.
    Như những nhà lãnh đạo, những vua chúa, những người hống hách quyền uy thì cảm thấy bất lực khi không còn ảnh hưởng gì được nữa, nên họ hết sức đau khổ.
    [​IMG]

    Hãy lấy trường hợp một vong linh chết đuối, vì y không tin mình đã chết, nên cứ ở trong tình trạng lúc chết, nghĩa là ngộp nước. Vì đầu óc hôn mê, nên y không nhìn thấy cõi âm, mà vẫn giữ nguyên hình ảnh cõi trần, dĩ nhiên nó chỉ nằm trong tư tưởng của y mà thôi. Nói một cách khác, thời gian như ngừng lại, y cứ thế hôn mê trong nhiều năm. Tôi đã cố gắng thuyết phục nhưng nói gì y cũng không nghe, tôi bèn yêu cầu y trở về nhà, đầu óc y hôn mê quá rồi, nên cũng không sao trở về được.
    Nhờ các bạn bè cõi vô hình, tôi tìm được tên tuổi, và địa chỉ thân nhân vong linh. Tôi tiếp xúc với họ và yêu cầu lập một nghi lễ cầu siêu để cảnh tỉnh vong linh. Nhờ sức chú nguyện mãnh lực của buổi cầu siêu, tôi thấy vong linh từ từ tỉnh táo ra, nghe được lời kinh. Y trở về nhà và chứng kiến buổi cầu siêu của con cháu gần 60 năm sau khi y qua đời. Sau đó y chấp nhận việc mình đã chết và siêu thoát…
    - Ông cho rằng sự cầu nguyện có lợi ích đến thế sau ?
    - Cầu siêu cho vong linh là một điều hết sức quan trọng và ích lợi, vì nó chứa đựng một sức mạnh tư tưởng vô cùng mãnh liệt. Oai lực lời kinh và âm hưởng của nó thật là vô cùng ở cõi âm nếu người ta tụng niệm chú tâm, sử dụng hết cả tinh thần. Tiếc thay, người đời chỉ coi tụng niệm như một hình thức. Họ chỉ biết đọc các câu kinh trên đầu môi, chót lưỡi chứ không biết tập trung tinh thần, nên mất đi phần nào hiệu nghiệm. Sự cầu nguyện có một sức mạnh kinh khủng, có thể dời núi lấp sông, đó là bí huyết khoa “Mật tông Tây Tạng”.
    - Như ông nói thì tôn giáo Tây Tạng có hiệu nghiệm nhiều hay sao ?
    - Vấn đề cầu nguyện cho người chết không phân biệt tôn giáo và cũng không cần theo một nghi thức, nghi lễ nào nhất định, mà chỉ cần tập trung tư tưởng, hết sức chú tâm cầu nguyện. Theo sự hiểu biết của tôi thì tôn giáo nào cũng có những nghi lễ riêng và nghi lễ nào cũng tốt nếu người thực hành thành tâm.
    - Như vậy nghi lễ rửa tội trước khi chết có ích lợi gì không ?
    - Một số người tin rằng, hạnh phúc vĩnh cữu của con người tùy thuộc tâm trạng y lúc từ trần. Nếu lúc đó y tin rằng mình được cứu rỗi thì như được một vé phi cơ lên thiên đàng, còn không y sẽ xuống địa ngục. Điều này gây nhiều sợ hãi, lo âu vô ích. Nếu một người chết thình lình thì sao ? Phải chăng họ sẽ xuống địa ngục ? Nếu một tín đồ hết sức ngoan đạo nhưng chết ngoài trận mạc thì sao ? Họ đâu được hưởng nghi lễ rửa tội ?
    Sự chuẩn bị hữu hiệu nhất là có một đời sống thanh cao, nếu ta đã có một đời sống cao đẹp, thì tâm trạng khi chết không quan trọng. Trái lại, ta không thể ao ước một tương lai tốt đẹp dù tang lễ được cử hành bằng các nghi lễ to lớn, linh đình nhất.
    [​IMG]

    Dù sao, tư tưởng chót trước khi lìa đời cũng rất hữu ích cho cuộc sống mới bên kia cửa tử . Nó giúp vong linh tỉnh táo, dễ thích hợp với hoàn cảnh mới hơn. Một cái chết thoải mái, ung dung phải hơn một cái chết quằn quại, chết không nhắm mắt được.
    Theo tôi thì sự hiểu biết về cõi vô hình, sự chuẩn bị cho cái chết là điều hết sức quan trọng, cần được phổ biến rộng rãi, nhưng tiếc là ít ai chú ý đến việc này.
    - Vậy theo ông, chúng ta cần có thái độ gì ?
    - Đối với người Âu tây, đời sống bắt đầu khi lọt lòng mẹ, và chấm dứt lúc chết, đó là một quan niệm cần thay đổi. Đời sống cõi trần chỉ là một phần nhỏ của chu kỳ kiếp sống. Chu kỳ này được biểu hiện bằng một vòng tròn mà sự sống và chết là những nhịp cầu chuyển tiếp giữa hai cõi âm, dương, giữa thế giới hữu hình và vô hình. Trên con đường tiến hoá, còn hằng ha sa số các chu ký, các kiếp sống cho mỗi cá nhân. Linh hồn từ cõi thượng giới cũng phải qua cõi trung giới. Phần ở cõi trần chỉ là một phẩn nhỏ của một kiếp sống mà thôi. Trong chu kỳ này, phần quan trọng ở chỗ vòng tròn tiến sâu vào cõi trần và bắt đầu chuyển ngược trở lên, đó là lúc linh hồn hết tha thiết với vật chất, mà có ý hướng về tâm linh. Các cổ thư đã vạch ra một đời sống ở cõi trần như sau : 25 năm đầu để học hỏi, 25 năm sau để lo cho gia đình, đây là giai đoạn tiến sâu vào trần thế, 25 năm sau nữa phải từ bỏ việc đời để lo cho tâm linh, đó là thời điểm quan trọng để đi ngược lên, hướng về tâm linh, và 25 năm sau chót phải từ bỏ tất cả, chỉ tham thiền, quán tưởng ở nơi rừng sâu, núi thẳm.
    Đối với người Á châu thì 50 tuổi là lúc từ bỏ vật chất để hướng về tâm linh, nhưng người Âu châu lại khác, họ ham mê làm việc đến độ mù quáng, cho đến già vẫn tranh đấu hết sức vất vả, cho dục vọng, cho bản ngã, cho sự sống còn, cho sự thụ hưởng . Do đó, đa số mất quân bình và khi chết hay gặp các nghịch cảnh không tốt.
    Theo ý tôi, chính vì sự thiếu hiểu biết về cõi âm nên con người gây nhiều tai hại ở cõi trần. Chính vì không nhìn rõ mọi sự một cách tổng quát, nên họ mới gây lầm lỗi, chứ nếu biết tỷ lệ đời sống cõi trần đối với toàn kiếp người, thì không ai dồn sức để chỉ lo cho 1/3 kiếp sống, mà sao lãng các cõi trên.
    [​IMG]

    Nếu con người hiểu rằng quãng đời ở cõi trần rất ngắn ngủi, đối với trọn kiếp người và đời sống các cõi khác còn gần với chân lý, sự thật hơn thì có thể họ đã hành động khác đi chăng ? Có lẽ vì quá tin tưởng vào giác quan phàm tục, nên đa số coi thế giới hư ảo này là thật và cõi khác là không có…
    - Nhưng nếu ông cho rằng các cõi kia còn gần với sự thật hơn, thì tại sao ta lại kéo lê kiếp sống thừa ở cõi trần làm gì ? Tại sao không rũ nhau đi sang cõi khác có tốt hơn không ?
    Hamud mỉm cười :
    - Tuy cõi trần hư ảo, nhưng nó có những lợi ích của nó, vì con người chỉ có thể tìm hiểu, và phát triển xuyên qua các rung động thô thiển này thôi. Cõi trần có các bài học mà ta không tìm thấy ở đâu khác. Chính các bậc chân tiên, bồ tát trước khi đắc quả vị đều phải chuyển kiếp xuống trần, làm các công việc vĩ đại như một thử thách cuối cùng. Muốn khai mở quyền năng, con người phải tiếp nhận các bài học ở cõi trần, nhờ học hỏi những bài học này, họ mới trở nên nhạy cảm với các rung động ở cõi trên.

    Nguồn : Thế Giới Tâm Linh
     
    Phúc Thịnh, 5dola and Triệu Minh like this.
  3. taynam

    taynam Thành Viên

    Chân dung tình địch của Võ Tắc Thiên

    Thượng Quan Uyển Nhi là một vương phi duy nhất giữ lại tên họ của mình, một phụ nữ tài năng, xinh đẹp và hiểu biết.
    Người giữ văn hóa nhà Đường

    [​IMG]
    Thượng Quan Uyển Nhi được tạo hình trên phim. Ảnh: sinovision.net

    Từ nhỏ, Thượng Quan Uyển Nhi đã đi theo hầu hạ Võ Tắc Thiên, ngoài ra còn có cơ hội theo học các quan trong triều, sau này bà trở thành người thông thạo kinh thư, sử thư, thư pháp, làm thơ, lễ nghĩa... Những bài văn của bà đã nhận được sự khen ngợi của Võ Tắc Thiên. Bà nhanh chóng được Võ Tắc Thiên tin tưởng và được Võ Tắc Thiên nhận làm "thư ký riêng" của mình.

    Nhưng không ai biết được rằng Thượng Quan Uyển Nhi đã từng chuyển từ lòng thù hận sang khâm phục Võ Tắc Thiên. Thượng Quan Uyển Nhi đã bị trí tuệ hơn người của Võ Tắc Thiên chinh phục, đặc biệt là việc mở đường cho sự phát triển của văn học, nghệ thuật.
    Năm 684, Võ Tắc Thiên phế ngôi Đường Trung Tông để đưa Đường Duệ Tông lên thay. 6 năm sau, Đường Duệ Tông từ bỏ ngai vàng, Võ Tắc Thiên tự xưng ngôi Hoàng đế. Tư mã Dương Châu Từ Kính Nghiệp đã đứng lên khởi binh chống lại Võ Tắc Thiên, khôi phục nhà Đường , một trong tứ kiệt nhà Đường là Lạc Tân Vương cũng viết bản "thảo Võ Chiếu hịch văn". Vì lời lẽ trong bài hịch quá hay nên Uyển Nhi tỏ ra rất thích thú. Trong lúc nói chuyện với Võ Hậu, Uyển Nhi đã vô tình nhắc tới những câu nói của mà mình thích trong bài hịch, không ngờ Võ Tắc Thiên bắt cô đọc cả bài hịch ra. Thượng Quan Uyển Nhi tiến thoái lưỡng nan, bèn vội vàng quỳ xuống xin Võ Tắc Thiên tha tội nhưng Võ Tắc Thiên vẫn một mực bắt Uyển Nhi đọc, khi Uyển Nhi đọc xong mới hỏi: "Ai đã viết những lời lẽ trau truốt như vậy?"
    Thấy Võ Tắc Thiên không chỉ không tỏ ra giận dữ mà còn khen văn của Lạc Tân Vương, Thượng Quan Uyển Nhi cầu xin Võ Hậu đừng giết Lạc Tân Vương và khuyên bà nên mở lại khoa cử, phục hưng thơ ca, cổ vũ văn sỹ sáng tác, Võ Tắc Thiên đồng ý với đề nghị của Thượng Quan Uyển Nhi. Từ đó, các kỳ tài của thơ đàn như Lạc Tân Vương, Vương Bột, Dương Quýnh, Đỗ Thẩm Ngôn...có được sự bảo hộ và cho ra đời các tác phẩm lưu truyền tới hậu thế. Các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị...cũng có cơ hội được phát huy khả năng văn thơ của mình.
    Người phụ nữ quyến rũ khiến "tình địch" cũng phải mềm lòng
    Trong lúc đang ngồi ăn sáng với hai anh em Trương Dịch Chi và Trương Xương Tông, Thượng Quan Uyển Nhi cũng ngồi cạnh ăn cùng, đột nhiên, Võ Tắc Thiên quơ tay, rút dao kề lên trán Thượng Quan Uyển Nhi, Thượng Quan Uyển Nhi giơ tay che mặt, quỳ xuống cầu xin Võ Tắc Thiên thương xót.
    Hóa ra trong lúc ăn, Thượng Quan Uyển Nhi đã nhiều lần liếc trộm Trương Xương Tông bị Võ Tắc Thiên bắt gặp và nổi giận. Việc này cũng không thể trách Võ Tắc Thiên chỉ trách Thượng Quan Uyển Nhi vụng trộm với Trương Xương Tông. Trương Xương Tông là người được Võ Tắc Thiên sùng ái trong một thời gian dài, ngày nào cũng xuất hiện bên Võ Tắc Thiên và vô tình lại được Thượng Quan Uyển Nhi để mắt tới. Không cưỡng lại nổi sự cám dỗ của Trương Xương Tông, Thượng Quan Uyển Nhi đã động lòng và tất nhiên bí mật này của Uyển Nhi không thể qua mắt Võ Tắc Thiên. Tuy nhiên, bà cũng đành nhắm mắt làm ngơ vì tự biết bản thân mình đã cao tuổi, không đáp ứng được Trương Xương Tông. Không ngờ rằng, trong lúc ăn cơm, trước mặt mình mà Thượng Quan Uyển Nhi lại dám công khai liếc mắt đưa tình, Trương Xương Tông cũng hùa theo khiến Võ Hậu nổi giận, liền ra lệnh giam Thượng Quan Uyển Nhi lại. Lúc này, trong lòng Võ Tắc Thiên cũng vô cùng mâu thuẫn, Uyển Nhi là một nữ cận thần làm việc rất tốt và không bao giờ làm Võ Hậu lo lắng nhưng nếu không giết thì sẽ không hả được cơn giận. Cuối cùng, Võ Tắc Thiên đã quyết định khắc dấu lên trán Uyển Nhi để Uyển Nhi không bao giờ dám tái phạm nữa.
    Khắc dấu hay hủy hoại nhan sắc đối với Uyển Nhi mà nói đó là điều khó chấp nhận hơn cả cái chết. Tuy nhiên, sau khi khắc xong, trên trán Uyển Nhi lại là hình một bông hoa chứ không phải vết sẹo xấu xí và bông hoa này càng khiến Uyển Nhi trở nên quyến rũ hơn. Đến cả Võ Hậu sau khi gặp lại Uyển Nhi cũng phải thốt lên rằng: "Uyển Nhi, trông ngươi không giống bị khắc dấu chút nào mà ngược lại càng xinh đẹp hơn! Xem ra ông trời đã bảo vệ cho ngươi!".
    Vương phi duy nhất giữ lại tên họ của mình
    Sau khi Đường Trung Tông khôi phục ngôi vị của mình, Thượng Quan Uyển Nhi đã được người tình là Võ Tam Tư dâng cho Đường Trung Tông và trở thành ái phi được Đường Trung Tông yêu quý nhất.
    Thông thường hoàng hậu và vương phi đều chỉ được giữ lại họ khi vào cung là dùng danh hiệu mà nhà vua tấn phong chứ không được sử dụng tên trước đây. Duy nhất chỉ có Thượng Quan Uyển Nhi là vẫn được giữ tên và giữ chức quan văn Chiêu Dung như trước, một điều chưa từng có ở một vương phi.
    Thượng Quan Uyển Nhi là một người phụ nữ thông minh, sắc sảo và có nhiều công trạng nhưng cuộc tình tay ba của bà với Võ Tam Tư và Vi Hậu (hoàng hậu của Đường Trung Tông) không tránh khỏi sự chê trách của người đời.
    Năm 710, Thượng Quan Uyển Nhi và Vi Hậu bị bắt xử trảm khi Lâm tri vương Lý Long Cơ tạo binh biến tiêu diệt Vi Hậu và phe đảng của bà.

    Theo Vietnamnet
     
    Phúc Thịnh, 5dola and Triệu Minh like this.
  4. taynam

    taynam Thành Viên

    Những vĩ nhân bị vợ 'đày ải'

    Đại văn hào Nga Lev Tolstoi bỏ nhà rồi chết ở một nhà ga. Nguyện vọng cuối cùng của ông là không phải thấy mặt vợ.
    Không ít người là vĩ nhân được cả thế giới xưng tụng, hoặc nắm trong tay quyền lực vô đối, nhưng lại sống khổ sống sở dưới sự đay nghiến của vợ mình.
    Yêu nhau vẫn hành nhau
    Cuộc hôn nhân của nhà văn, bá tước Tolstoi với bà vợ Sofya bắt nguồn từ một tình yêu tuyệt đẹp. Họ sống bên nhau 48 năm trời và sinh hạ nhiều con. Sofya không chỉ là vợ mà còn là người trợ lý, thư ký cho chồng, tận tụy hỗ trợ ông trong công việc. Ấy thế mà về sau, bà lại thành một tội nợ của ông, góp phần làm ông thấy cuộc sống thêm bế tắc.
    Thực ra, lỗi không hoàn toàn toàn thuộc về bà Tolstoi, có chăng là họ đã trao nhau trái tim nhưng rốt cục lại không đồng hành về tư tưởng. Tolstoi ngày càng đau đớn về những bất công trong xã hội và sự bất lực của mình trong việc cải tạo nó. Cảm thấy sự giàu có của mình là tội lỗi, ông chỉ muốn từ chối của cải, các tác phẩm của mình được in ra ông từ chối tiền tác quyền. Nhưng bà lại muốn thu vén tài sản để đảm bảo cho gia đình con cái, muốn có danh vọng, tiếng tăm… Sự “trái tính trái nết” của chồng làm Sofya giận dữ và không chịu nổi.


    [​IMG]
    Lev Tolstoi và vợ, ảnh chụp ba năm trước khi ông mất.

    Trong nhiều năm, Sofya hết cằn nhằn, trách móc lại đay nghiến chồng với những lời bẳn gắt, mạt sát độc địa, chua cay. Những cuộc xung khắc dường như bất tận, chất thêm gánh nặng vào tâm hồn vốn đã nặng trĩu nỗi đau đời của đại văn hào. Có những lúc bá tước phu nhân như phát điên, nằm lăn ra đất lăn lộn, vật vã. Nhiều lần bà dọa tự tử, dọa đâm đầu xuống giếng… Thế là mối tình đẹp như mơ của họ dần biến thành địa ngục. Và một ngày đông trời đầy tuyết, đại văn hào bỏ nhà đi rồi 11 ngày sau trút hơi tàn ở một nhà ga, ước nguyện cuối cùng là không nhìn thấy vợ nữa.
    Sau cái chết đó, nhiều người hâm mộ Tolstoi coi Sofya như một tội đồ. Thế nhưng những người công bằng hơn thì hiểu rằng, Sofya rất có công trong cuộc đời sáng tác của Tolstoi và đã phảikhổ vì chồng không kém. Bà đã suốt đời tận tụy với ông, một mình lo thu vén gia đình, và hy sinh cả văn tài của mình để chăm sóc cho người chồng đầy nỗi đau tư tưởng và chỉ lo “chuyện thiên hạ”.
    Nhà triết học và “sư tử Hà Đông”
    Triết gia Hy Lạp cổ đại Socrate được bao nhiêu người quỳ gối ngưỡng vọng, nhưng với bà vợ Xanthippe thì ông chỉ là “con tép”. Socrate lấy vợ khi đã 50 tuổi, bà trẻ hơn ông rất nhiều, nhưng mức độ ghê gớm của người vợ này thì vang lừng cả thành Athen. Ai cũng biết nhà triết học nổi tiếng suốt ngày bị vợ chửi bới, hành hung. Đến nỗi sau mấy nghìn năm, tên bà đã trở thành danh từ chung để chỉ những ác phụ, những người đàn bà đanh đá, lăng loàn. Được cái với vợ thì Socrate là ông chồng “ngoan”, chẳng bao giờ cãi nửa lời.


    [​IMG]
    Tranh vẽ cảnh Socrate bị vợ dội nước trước mặt khách khứa.

    Chuyện kể rằng có lần, bậc thầy triết học đang đàm đạo với các môn sinh thì bà Xanthippe lại mắng nhiếc, rủa sả om sòm đến nỗi tất cả mọi người đều tối tăm mặt mũi, trừ ông chồng vẫn điềm nhiên. Cơn tam bành lên đến đỉnh điểm, bà bưng cả vò nước rót lên đầu chồng, ông vẫn im lặng chịu trận, lại còn đùa với các học trò: “Sau cơn sấm sét bao giờ cũng phải có mưa giông”.
    Lần khác, Socrate đang ăn cơm với bạn thì bà vợ trời đánh lên cơn điên giận, chẳng kể gì khách khứa, ném cả mâm cơm ra sân. Trong khi ai nấy tức nổ đom đóm thì Socrate vẫn nói chữa: “Chắc bà ấy muốn chúng ta ra sân ăn cho mát”. Đáp lại ông chồng AQ, bà Xanthippe lấy chổi quét hết thức ăn để chồng hết đường nhặt lại. Đến nước này thì các ông khách đều muốn giúp khổ chủ cho bà vợ lăng loàn một bài học, nhưng ông ngăn lại: “Giả sử như các anh đang ăn mà có con gà nhảy vào làm đổ hết mâm bát, các anh có đi đuổi nó để trừng phạt không?”.
    Bị vợ hành như vậy nhưng hễ có ai dèm pha bà, ông lại bảo: “Chính nhờ bà ấy mà tôi trở thành triết gia”. Người ta cho rằng Socrate nhẫn nhục, “biết điều” với vợ một phần vì nhà hiền triết biết rằng với gia đình, ông là một ông chồng vô tích sự, là gánh nặng cho vợ con.
    Vua cũng không yên thân với vợ
    Napoleon III (cháu gọi Napoleon đệ nhất bằng bác ruột) không được coi mà một vĩ nhân nhưng đã ghi dấu ấn trong lịch sử nước Pháp như một hoàng đế cuối cùng và tổng thống đầu tiên. Ông cưới nữ bá tước Mari Eugénie Ignace Augustine de Montiji, người đàn bà đẹp nhất châu Âu thời đó, làm vợ và yêu nàng mê mệt. Có thể nói nhà vua phủ lên bà hoàng hậu mỹ miều của mình toàn bộ tình yêu và mọi xa hoa. Nhưng như thế vẫn chưa đủ để hoàng hậu Eugenie đặt niềm tin vào chồng. Bà điên cuồng vì nghi ngờ, ghen tuông và chính điều đó làm ông chồng hoàng đế nghẹt thở, làm vua mà chẳng còn chút tự do nào.


    [​IMG]
    Napoleon III cạnh hoàng hậu xinh đẹp của mình.

    Sợ chồng có nhân tình, hoàng hậu không ngừng canh giữ chồng, tra xét, lùng sục mọi ngóc ngách trong cung điện, bất chấp vương lệnh, nghi thức và sĩ diện. Napoleon III đang làm việc trong văn phòng, hoàng hậu thường đột ngột xộc vào với hy vọng “bắt quả tang”. Thậm chí cả khi nhà vua có cuộc họp bí mật để bàn đại sự, bà cũng nằng nặc đòi có mặt để đảm bảo không có chuyện tình ái lăng nhăng nào.
    Chưa hết, mỹ hậu của Napoleon III còn thường xuyên nói xấu chồng với họ hàng, mắng chửi chồng khi lên cơn ghen bóng gió, khóc lóc ầm ĩ. Nhà vua chỉ muốn được yên thân một mình cũng không xong, vì bà hoàng hậu thấy cái sự một mình đó ẩn chứa quá nhiều nguy hiểm.
    Kết cục là Napoleon III phải lén ra ngoài cung điện một chút cho nó dễ thở và dẫn đến ngoại tình thật.

    Theo Báo Đất Việt
     
    Phúc Thịnh, 5dola and Triệu Minh like this.
  5. Việt Nam - Cuộc chiến 10000 ngày


    nhân dịp 30 tháng tư

    30/4/1975 .30/4/2012

    nhìn lại lịch sử cuộc chiến tranh việt nam .nhé ace .!

    [YOUTUBE]WhQAzTaxok4[/YOUTUBE]


    [​IMG]
    [​IMG]





     
    Chỉnh sửa cuối: 28/4/12
    Phúc Thịnh and Triệu Minh like this.
  6. Việt Nam - Cuộc chiến 10000 ngày

    p 1.2


    [YOUTUBE]0RxKcTrR3dU[/YOUTUBE]



    [​IMG]


     
    Chỉnh sửa cuối: 28/4/12
    Phúc Thịnh and Triệu Minh like this.
  7. Việt Nam - Cuộc chiến 10000 ngày

    p 1.3

    [YOUTUBE]aI1I4McLHqI[/YOUTUBE]


    [​IMG]


     
    Triệu Minh and Phúc Thịnh like this.


  8. Việt Nam - Cuộc chiến 10000 ngày


    p 1.4

    [YOUTUBE]EvrlfaB4OoQ[/YOUTUBE]

    [​IMG]



     
    Triệu Minh and Phúc Thịnh like this.
  9. Việt Nam - Cuộc chiến 10000 ngày

    p 2.1

    [YOUTUBE]HRqNffcdhlY[/YOUTUBE]


    Ảnh tư liệu cực hiếm về Chiến tranh Mậu Thân 1968


    [​IMG]


    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]



    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

    [​IMG]

     
    Chỉnh sửa cuối: 28/4/12
    Triệu Minh and Phúc Thịnh like this.


  10. Việt Nam - Cuộc chiến 10000 ngày

    Phần 2.2



    [YOUTUBE]O5KaX7Q6Q4I[/YOUTUBE]


    Năm 1966, Bắc Việt phản ứng mạnh mẽ bằng cách dùng trọng pháo bắn vào Khe Sanh. Cũng trong năm này, Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ có mặt tại Khe Sanh để canh gác và ngăn chận các cu ộc xâm nhập của Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) từ bên Làọ Giữa năm 1967, nhiều vụ chạm súng lẻ tẻ xảy ra quanh khu vực. Rồi sau đó là các trận chiến lớn dành giật những ngọn đồi được kéo dài đến gần cuối tháng 1 năm 1968 thì chiến trường bùng nổ dữ dộị Ba sư đoàn chính quy Bắc Việt bao vây, pháo kích, và dùng chiến thuật xa-luân-chiến đánh Khe Sanh trong 77 ngàỵ​

    Căn cứ Khe Sanh bị CS Bắc Việt Pháo kích

    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]


    [​IMG]

     
    Triệu Minh and Phúc Thịnh like this.


  11. Việt Nam - Cuộc chiến 10000 ngày


    Phần 2.3

    [YOUTUBE]JsJgeE2gD4Y[/YOUTUBE]
    Ngày 28-1-1973, ngừng bắn trên toàn miền Nam.
    Ngày 31-1-1973, Tổng thống Nichxơn gửi công hàm cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc Hoa Kỳ đóng góp hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam.
    Ngày 2-3-1973, ký Định ước Pari về Việt Nam.
    Ngày 29-3-1973, người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi miền Nam Việt Nam.
    [​IMG]
    Quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam (1973).
    [​IMG]
    Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ tại miền Nam Việt Nam cuốn cờ rút khỏi Việt Nam (1973).


     


  12. Việt Nam - Cuộc chiến 10000 ngày


    Phần 2.4

    [YOUTUBE]pyl-W3xiPBo[/YOUTUBE]


    [​IMG]


    [​IMG]

    Thủy thủ tàu sân bay USS Blue Ridge của Hải quân Mỹ đẩy xuống biển ngoài khơi VN một chiếc trực thăng để lấy chỗ cho các chuyến bay di tản khác đến từ Sài Gòn, Thứ tư, 29-4-1975. Chiếc trực thăng này đã chở những người Việt chạy khỏi SG khi các lực lượng Bắc VN tiến gần tới TP thủ đô miền Nam.

    [​IMG]


    [​IMG]

    Xe tăng quân Bắc Việt lăn bánh qua cổng Dinh Tổng Thống tại Sài Gòn, ngày 30-4-1975, đánh dấu sự sụp đổ của Nam VN.

    [​IMG]

    Những người di tản leo thang để lên trực thăng trên mái một ngôi nhà gần Tòa đại sứ Mỹ tại SG.

    [​IMG]

    Đám đông hỗn loạn người Việt trèo tường tòa Đại sứ Mỹ tại SG, cố vào được khu vực trực thăng bốc người di tản vào ngày 29-4-1975, ngay trước khi kết thúc cuộc Chiến tranh VN.

    [​IMG]
    .
    Bộ đội Bắc Việt chạy vượt qua đường băng sân bay Tân Sơn Nhất tại Sài Gòn ngày 30-4-1975 trong lúc khói cuồn cuộn bốc lên phía sau các vận tải cơ của Không quân Mỹ bị bỏ lại. Việc chiếm được SG đánh dấu sự sụp đổ của miền Nam được Mỹ hậu thuẫn và sự kết thúc một thập niên giao tranh.

    [​IMG]


    Người Mỹ và Việt chạy đến một trực thăng của TQLC tại SG trong cuộc di tản của TP ngày 29-4-1975


    [​IMG]

    TT Mỹ Gerald Ford thảo luận việc di tản người Mỹ khỏi VN với một cố vấn cao cấp trong khi phu nhân Betty Ford theo dõi tại phòng khách của Nhà Trắng trong một bức ảnh do Nhà Trắng công bố hôm Thứ ba, 29-4-1975 tại Washington.


     

  13. Thuật Thấy ma Quỷ -- Cách nhìn thấu tương lai-
    [​IMG]
    1.- Phương pháp nhiếp Quỷ 摄鬼法 :

    Đầu tiên ngồi xếp bằng nhắm mắt tĩnh tọa , quên hết mọi việc bên ngoài ;
    để dần dần đi vào mặc tưởng dùng phương pháp hô hấp toàn thân ,
    đưa tâm lực đi vào đơn điền , đễ đưa chân khí từ đan điền lên hai bàn tay đang bắt ấn huyền Thiên Thượng Đế ,




    [​IMG]



    tức hai tay trước bắt ấn như sau :
    đầu tiên ngón đeo nhẫn co lại vào lòng bàn tay , kế đến ngón út bắt quàng qua lưng cũa ngón đeo nhẫn,

    ngón giữa co lại vào lòng bàn tay , ngón cái dễ trên đầu ngón giữa lại , còn ngón trỏ duỗi thẳng ra
    ; xong hai tay chắp lại lòng bàn tay hướng vào mình
    và hai đầu ngón trõ̉ bên trong của hai tay chạm ngữa nhẹ vào nhau ,
    gọi là la Lư Sơn Lưu Ly Ấn ;




    [​IMG]






    tiếp đến dùng tâm lục vận khí từ đan điền lên tỏa ra đầy lồng ngực ,
    và từ đó để ý từ tâm nhãn , như vậy không lâu sẽ trông thấy ma quĩ sẽ hiện hình ,
    nhưng nếu ta
    mỡ mắt ra thì ma quĩ liền biến mất ngay .




    [​IMG]




    2.- Phương pháp ban đêm trông thấy ma夜能见鬼法 :


    cách thứ nhất ma tạm thời :
    Lấy hai mắt của con chim quạ đen , đem đi ngâm nước vài ngày ,
    xong dùng nước này thoa lên trên mí mắt trái ba ngày ,tối ngày thứ tư sẽ thấy quỷ hiện hình
    , tục gọi làm mở quỷ nhãn hay âm dương nhãn .
    cách thứ hai vĩnh viễn thấy ma quỷ :
    hai tròng con mắt tươi của con chim quạ đen ,
    đem nhúng vào nước sôi vài lần và nuốt vào trong bụng , thì suốt đời bạn sẽ trông thấy ma quỷ
    , mà không có cách nào giãi cứu được ,




    3.- Phương pháp mở mắt thấy quĩ 净眼见鬼法 :


    lấy nước sương trong ngày tết thanh minh hay tiết đoan ngọ 清明节或端午节 đổ vào một chậu sành ,
    bỏ̉ hai lá cây liễu xanh tươi 柳叶两片 vào trong đó, ngâm trong nước sương này trong ba ngày ,
    sau đó lấy nước này thoa vào mắt hay lấy lá này dán trên mí mắt sẻ thấy quỉ ngay .




    4.-phép đợi qu 待鬼法 :


    sáng sớm khoảng một giờ đến ba giờ sáng ,
    đi đến đưới một chân cầu vắng vẻ xong đốt ba cây nhang trước mặt ,
    kế đến đem một bó rơm nhỏ đội lên đầu và quì ỡ dưới chân cầu ,
    gần nơi có dòng nước chảy qua , đừng nên động đậy , như thế một lúc sau sẽ thấy ma quỉ đến ,
    sẽ̉ tưởng bạn là thần thỗ địa và đến lạy bạn , thì bạn đừng sợ và đừng lên tiếng ,
    cũng đừng động đậ̣y hoặc bỏ chạy ,

    sẽ nguy hiễm cho bạn ,
    cách này rất nguy hiểm .





    ----------------------------------


    TIÊN ĐOÁN TRƯỚC CÁ́i CHẾT SẼ̉ ĐẾ́N CHO MỘ̣t NGƯỜ̀I :


    Những bậc tu hành Huyền thuật hay mật Tông Du giả

    ,đạo Gia .......nhờ xuyên qua quá trình tu tập ,

    mà đã ấn chứng cùng tích lũy một số kinh nghiệm quí báu ẩn;
    họ có thễ tiên liệu thời gian sắp chết của một người như sau :


    1.- Khi một người trước khi lâm chung , hai ngón tay cái bị xụi lơ ,
    họ không thể dùng sức mà điều khiển hai ngón tay cái cử động ,
    thì nội trong ba
    ngày người này sẽ chết

    2.- Khi một người nhìn hình mình trong gương mà không nhìn thấy đầu của mình
    , tức cái đầu bị biến mất , hay người này mình mọi người ,hay cảnh vật chung quanh không được rõ ràng
    , tất cã hình ảnh chung quanh thấy được rất là mờ ảo
    và thị lực của ngưởi này dần dần biến mất ,
    người này nhất định sẽ̉ bị chết trong vòng 10
    ngày

    3.- Khi người bệnh thường nhìn thấy có́ hai mặt trăng hiện ra trên không trung ,
    thì người này sẽ̉ bị chết trong vòng 3 tháng .


    4.- Khi một người nào cảm thấy trong cái bóng của họ bị̣ lủng một lỗ hỗng đen
    , thì người này sẽ bi chết trong vòng 1 tháng .


    5.- Khi người bệnh dùng hai bàn tay bịt chặt lấy hai lỗ tai ,

    mà họ không nghe được âm thanh của năng lượng tuần hoàn chu lưu trong thân thể
    hay nghe được nhịp tim đập không có qui củ, thì người này sẽ bị chết trong vòng 7 ngày .


    6.- Khi người benh nhìn thấy một cây có cành lá toàn là màu màu vàng kim .
    thì sẽ chết trong vòng 15
    ngày
    7.- Khi một người bệnh nhìn không thấy thân dưới cũa mình
    hoặc không cảm giác được thân dưới của mình ,
    thì người này sẽ chết trong vòng 5 ngày .


    8.- Khi một ngườ̀i nằm mộng thấy mình ôm lấy một người đã c
    hết ,
    thì có thễ sống trong vòng 6 tháng .


    9.- Khi một người cảm nhận thấy mình đang khỏa thân và
    ,mà ngồi suy tư với một tâm sự̣ rất phiền não ,hoặc trong khi nằm mộng mà họ̣,
    thấy họ̣ đang khóc thương đến rơi nước mắt cho một người đã̉ qua đời
    thì người này chỉ còn sống đến 21 ngày là cùng


    10 .- Khi một ngườ̀i , thân thễ̉ tự nhiên trở nên mậ̣p mạ̣p dị thường
    trong khoã̉ng thời gian ngắn, thì người nầy sẽ̉ bị chết trong vòng 6 tháng .


    11.- Khi một người cãm thấy có mộ̣t lỗ hỗng đen trong mặt trời
    hay có một lỗ hỗng đen trong mặt trăng
    ,
    thì cái chết của người này đang cập kề

    12.- Khi người bệnh nhìn không thấy được chót lưỡi của mình ,
    thì người nầy chỉ sống thêm được 3 ngày mà thôi .


    13.- Khi một người nào thường ngày keo kiệt ,
    tự nhiên vô cớ thay đổi tánh tình ,
    trở nên rất rộng lượng và đại từ đại bi ,
    hay ngược lại .thì người này chĩ sống thêm được 6 tháng nữa mà thôi .


    14 .- Người bệnh hai tai hoàn toàn mất thính giác , 6 ngày sau chết


    15.- Người bệnh lưỡi hoàn toàn mất khứu giác , 5 ngày chết.


    16.- người bệnh mắt hoàn toàn mất thị giác , 4 ngày chết .


    17 .- Người bệnh mũ̉i hoàn toàn mất khứu giác , 3 ngày chết .


    18.- Người bệnh thân thễ̉ hoàn toàn mất xúc giác , 2
    ngày chết


    theo nguồn
    http://www.huyenbihoc.com


     
    Triệu Minh and Phúc Thịnh like this.



  14. [​IMG]

    Albert Einstein(1879-1955) là nhà vật lý lý thuyết nổi tiếng người Mỹ gốc Đức, được biết đến như là cha đẻ của thuyết tương đối hẹp và thuyết tương đối rộng.

    những điều chưa biết về Anbert Einstein



    Có phải Einstein là một cậu bé chậm nói, mắc chứng tự kỷ, giỏi toán và suy nghĩ bằng hình ảnh…? Tất cả đã được tiết lộ qua cuốn sách “Einstein: Cuộc đời và Vũ trụ” của Walter Isaacson. Ảnh bên: Einstein trong lễ sinh nhật thứ 72, ngày 14-3-1951.
    1. Einstein là một cậu bé chậm nói?
    Einstein là đứa trẻ chậm biết nói. Thậm chí bố mẹ ông còn phải đưa ông đi khám. “Bố mẹ tôi đã lo sợ đến mức họ phải tham khảo ý kiến của bác sỹ” – Einstein sau này nhớ lại. Thậm chí lúc khoảng hai tuổi, khi ông bắt đầu biết nói một số từ, ông có một tật xấu khiến người hầu trong gia đình gọi ông là “thằng đần”. Bất kỳ khi nào muốn nói điều gì đó, ông sẽ phải tự nói thử trước, bằng cách lẩm bẩm một mình cho đến khi nghe ổn đã. “Mỗi câu anh ấy nói ra, dù đã nói bao nhiêu lần rồi, anh ấy đều tự nhẩm đi nhẩm lại trước.” – Em gái của Einstein nhớ lại. “Anh ấy nói khó khăn đến nỗi mọi người chung quanh đều sợ rằng anh ấy sẽ không bao giờ học được.”
    Ngoài ra Einstein còn có thái độ rất ngỗ ngược với các nhà chức trách. Có lần một thầy hiệu trưởng đã tống cổ ông ra khỏi trường vì ngỗ ngược và chậm hiểu. Nhưng chính những điều đó đã làm nên một Einstein thiên tài. Thái độ bướng bỉnh của ông với các nhà chức trách khiến ông đưa ra những câu hỏi rất thông minh; cũng như việc chậm nói đã làm ông không ngừng tò mò về những điều hết sức bình thường, như không gian và thời gian, những thứ mà người lớn luôn coi là điều dĩ nhiên phải biết. Lên năm tuổi, cha ông đưa cho ông một cái la bàn, và kể từ đó cho đến hết cuộc đời mình ông luôn luôn băn khoăn về đặc điểm của từ trường.
    2. Einstein mắc chứng tự kỷ?
    Một số nhà nghiên cứu cho rằng thời nhỏ Einstein mắc chứng tự kỷ. Chính Simon Baron-Cohen, giám đốc trung tâm nghiên cứu chứng tự kỷ ở Đại học Cambridge là một trong số đó. Ông cho rằng chứng tự kỷ liên quan đến “xu hướng hệ thống hoá rất cao và xu hướng đồng cảm đặc biệt kém”. Ông chỉ ra rằng chính xu hướng đó “giải thích cho khả năng đặc biệt giỏi ở những môn như toán học, âm nhạc và hội hoạ của người mắc chứng tự kỷ. Tất cả những lĩnh vực trên đều cần đến khả năng hệ thống hoá cao.”
    Tuy nhiên, từ khi còn nhỏ, Einstein đã kết thân với nhiều bạn, có những mối quan hệ sâu sắc, thích tán gẫu, và giao tiếp tốt bằng lời nói với mọi người cũng như biết đồng cảm với bạn bè hay con người nói chung.
    3. Einstein thi trượt toán?
    Nhiều người đến nay vẫn đinh ninh rằng khi còn đi học Einstein từng thi trượt môn toán. Nếu tìm kiếm trên Google với từ khoá Einstein failed math, thì có tới hơn 5.000 mục tham khảo. Thậm chí, thông tin trên còn là tiền đề tạo nên mục “Tin hay không tin của Ripley” nổi tiếng trên báo.
    Năm 1935, một giáo sỹ Do thái ở Princeton đưa cho ông xem mục tin của Ripley với dòng chữ “nhà toán học vĩ đại nhất đã trượt môn toán.” Einstein đã cười lớn: “Tôi chưa bao giờ thi trượt môn toán cả. Trước 15 tuổi, tôi đã thành thạo những phép tính vi phân và tích phân.” Ở trường tiểu học, ông luôn đứng đầu lớp và luôn “học vượt quá yêu cầu của trường” đối với môn toán học. Lên 12 tuổi, em gái của ông nhớ lại, “Einstein đã thích giải những vấn đề khó trong môn số học ứng dụng.” Và Einstein đã quyết định tự học hình học và đại số trước. Cha mẹ Einstein đã mua trước sách cho ông để ông có thể học trong dịp nghỉ hè. Không những ông học được những mệnh đề trong những cuốn sách đó mà còn cố gắng tự chứng minh những định lý mới. Thậm chí ông còn tự đưa ra cách chứng minh riêng cho định lý Pythagor.
    4. Einstein nghĩ bằng hình ảnh nhiều hơn là bằng lời nói?
    Đúng như vậy. Các phát minh vĩ đại của ông đều có được nhờ những thí nghiệm tưởng tượng trong đầu ông, chứ không phải là ở trong phòng thí nghiệm. Người ta gọi đó là Gedankenexperiment – tư duy phi kinh nghiệm. Mới 16 tuổi, ông đã cố gắng tưởng tượng trong đầu óc rằng mình sẽ như thế nào nếu đi dọc theo một đường ánh sáng? Nếu đuổi kịp tốc độ của ánh sáng thì liệu sóng ánh sáng có đứng yên so với con người? Nhưng phương trình nổi tiếng của Maxwell mô tả sóng điện từ lại không cho phép điều đó. Einstein biết toán học là ngôn ngữ dùng để diễn tả những điều kỳ diệu của tự nhiên. Vì vậy ông có thể hình dung rõ các phương trình được phản chiếu trong thực tế như thế nào. Và 10 năm sau đó, ông đã nung nấu với thí nghiệm trong đầu mình cho đến ngày đưa ra thuyết tương đối hẹp.
    5. Einstein đã sử dụng bức tranh ý nghĩ nào cho thuyết tương đối hẹp?
    Cùng với những thứ khác, Einstein đã tưởng tượng sét đánh ở hai đầu của một con tàu đang chuyển động. Một người ở cạnh đường tàu có thể nhìn thấy tia chớp đánh ở hai đầu của đoàn tàu cùng một lúc. Nhưng ai đó ở trên con tàu lại thấy chúng có vẻ như xảy ra ở hai thời điểm khác nhau. Do con tàu đang chuyển động nhanh về phía trước nên ánh chớp đánh ở phía trước con tàu sẽ tiến đến người đó trước khi ánh chớp đánh ở phía sau con tàu. Từ đó, ông nhận ra rằng tính đồng thời liên quan đến vị trí của người quan sát. Cũng từ đó ông nảy ra ý tưởng rằng không có cái gọi là thời gian tuyệt đối. Và thuyết tương đối hẹp ra đời.
    6. Thí nghiệm tưởng tượng nào đã đưa Einstein đến với thuyết tương đối rộng?
    Ông tưởng tượng một người đàn ông rơi tự do. Để biết người đó nhìn thấy gì, hãy tưởng tượng một người ở trong một buồng thang máy đóng kín đang chạy xuống dưới. Anh ta sẽ bay lơ lửng trong buồng thang máy và bất kỳ thứ gì anh ta lôi ở trong túi ra và đánh rơi cũng trôi nổi tự do cạnh anh ta, giống như anh ta đứng im trong một phòng đóng kín, không trọng lực ở ngoài không gian vậy.
    Mặt khác, hãy tưởng tượng một người phụ nữ ở trong một phòng đóng kín, đang rảo bước vào không gian, không có trọng lực. Cô sẽ có cảm giác bị kéo xuống sàn nhà, thể như cô bị hút bởi trọng lực vậy. Từ suy nghĩ về sự cân bằng giữa trọng lực và gia tốc, Einstein đã xây dựng nên thuyết tương đối chung.
    7. Có bức tranh ý nghĩ nào miêu tả kết luận của Einstein về thuyết tương đối rộng?
    Ông chỉ ra rằng, lực hấp dẫn là kết quả của việc thời gian và không gian bị bẻ cong. Nó có thể được miêu tả bằng thí nghiệm tưởng tượng sau. Hãy tượng tượng sẽ ra sao nếu lăn một quả bóng bowling lên trên bề mặt hai chiều của một tấm bạt lò xo. Khi chuyển động, nó sẽ làm cong tấm bạt. Sau đó lăn một vài quả bóng bi-a. Chúng chuyển động về phía quả bóng bowling không phải vì quả bóng bowling có một lực hấp dẫn bí ẩn nào đó, mà vì đường cong nó tạo ra trên tấm bạt lò xo. Và giờ hãy tưởng tượng điều này xảy ra ở tấm bạt bốn chiều của không gian và thời gian. Không dễ chút nào. Nhưng đó là điều chúng ta không thể, Einstein có thể.
    8. Năm tuyệt vời nhất đối với Einstein?
    Năm 1905, Einstein tốt nghiệp đại học, nhưng ông không làm thế nào để được chấp nhận làm luận văn tiến sỹ và cũng không xin đi dạy được. Vì vậy ông đã làm việc sáu ngày một tuần tại một văn phòng cấp bằng sáng chế của Thuỵ Sỹ với chức vụ giám định viên hạng ba. Trong suốt thời gian rảnh ở đây, ông đã cho ra đời 4 bài báo lật ngược lại một số lý thuyết vật lý. Bài đầu tiên cho thấy ánh sáng có thể nhận biết như phân tử hoặc sóng. Bài thứ hai chứng minh sự tồn tại của nguyên tử và phân tử. Bài thứ ba là về thuyết tương đối riêng, cho biết không có cái gọi là thời gian hay không gian tuyệt đối. Và bài cuối cùng ông chú ý tới sự cân bằng giữa năng lượng và khối lượng, được biểu thị bằng phương trình nổi tiếng: E=mc2.
    9. Đời sống riêng của Einstein lúc đó ra sao?
    Giúp ông kiểm tra lại các phép toán là một cô gái người Serbia, có khuôn mặt buồn rầu, Mileva Mari. Mari là cô gái duy nhất trong lớp học vật lý của ông ở trường đại học. Họ đã yêu nhau say đắm và có một đứa con gái khi chưa kết hôn. Chính vì vậy, ông đã phải chấp nhận cho con đi làm con nuôi khi chưa nhìn thấy mặt con. Khi đã kết hôn, họ có thêm hai con trai nữa. Nhưng cuối cùng, mối quan hệ của họ lại tan vỡ. Einstein muốn ly dị, và đưa ra đề nghị: Ông biết một trong những công trình xuất bản trên báo năm 1905 sẽ giành được giải Nobel, và nếu Mari đồng ý cho ông ly dị, ông sẽ cho cô tất cả số tiền thưởng đó. Mari suy nghĩ trong một tuần và chấp nhận đề nghị. Nhưng do các học thuyết của Einstein quá cấp tiến nên mãi đến năm 1922 ông mới được trao giải và Mari mới nhận được số tiền cho cuộc ly hôn với chồng.
    10. Mileva Mari có đáng được thưởng với tư cách là một cộng tác?
    Mari đã giúp Einstein trong toán học. Bà đã kiên nhẫn chịu đựng Einstein, nhưng Einstein thậm chí còn phải kiên nhẫn chịu đựng nhiều hơn. Tuy nhiên nếu phân tích kỹ thư từ và tuyên bố của họ sau này thì thấy tất cả các khái niệm đều là của Einstein. Song không thể coi thường khả năng vượt qua hầu hết mọi khó khăn mà một phụ nữ muốn trở thành một nhà vật lý như bà ở thời điểm đó phải đối mặt.
    11. Thuyết tương đối của Einstein được đón nhận như thế nào?
    Đầu tiên giới khoa học đều nghi ngờ về tính đúng đắn của thuyết tương đối rộng. Nhưng trong lần xảy ra hiện tượng nhật thực năm 1919, các nhà khoa học đã đo được ánh sáng phát ra từ những ngôi sao khi đi ngang qua gần mặt trời đã bị trọng lực của mặt trời uốn cong như thế nào. Đến lúc đó thuyết của Einstein mới được công nhận. Lần đầu tiên tờ New York Times giật dòng tít: “Tất cả ánh sáng đều bị uốn cong trên thiên đường/Giới khoa học ít nhiều đều tò mò về kết quả quan sát nhật thực/Thuyết của Einstein đã chiến thắng.” Einstein kể từ đó trở thành một siêu minh tinh trong giới khoa học, thần tượng của nhân loại và một trong những gương mặt nổi tiếng nhất hành tinh. Công chúng đua nhau nghiên cứu học thuyết của ông, đánh giá ông là một thiên tài và phong ông là một vị thánh sống.
    12. Tại sao Einstein phải chờ rất lâu mới nhận được giải Nobel?
    Đầu tiên các bài báo năm 1905 của ông bị đánh giá là thất bại và không được chứng thực. Ông được đề cử cho giải Nobel lần đầu tiên là vào năm 1910. Người đề cử chính là Wilhelm Ostwald, người đoạt giải Nobel hoá học, và đã từ chối nhận Einstein vào làm việc chín năm về trước. Ostwald trích dẫn thuyết tương đối hẹp, nhưng hội đồng trao giải Nobel Thuỵ Điển lại băn khoăn về điều khoản trong di chúc của Alfred Nobel, đó là giải thưởng phải là “phát minh hoặc khám phá quan trọng nhất”. Có vẻ như thuyết tương đối của Einstein không hoàn toàn như vậy.
    Nhưng kết quả quan sát nhật thực tháng 11/1919 đã khẳng định một số phần trong thuyết của Einstein. Và lẽ ra năm 1920 đã trở thành năm của Einstein. Nhưng nó đã bị chính trị can thiệp. Cho đến trước thời điểm này, Einstein không nhận được giải Nobel xét về mặt khoa học: công trình của ông chỉ đơn thuần là lý thuyết, nó không phải là “phát hiện” ra định luật gì mới. Sau khi quan sát hiện tượng nhật thực, thì những lý lẽ phản bác lại ông lại nhuốm màu kỳ thị văn hoá và cá nhân, trong đó có cả chủ nghĩa bài Do Thái. Vì vậy giải Nobel 1920 đã rơi vào tay đối thủ của Einstein: Charles-Edouard Guillaume.
    Nhưng đến năm 1921, sự ủng hộ của công chúng đối với Einstein đã lớn mạnh đủ để ông có thể giành giải Nobel. Tuy nhiên, Uỷ ban trao giải Nobel vẫn chưa sẵn sàng. Cuối cùng, phải nhờ đến “phao cứu hộ”, Einstein mới có được giải Nobel. Phao cứu hộ đó chính là Carl Wilhelm Oseen, một nhà vật lý lý thuyết ở trường Đại học Uppsala, người có chân trong Uỷ ban trao giải thưởng Nobel vào năm 1922. Ông đã nhận ra rằng toàn bộ vấn đề thuyết tương đối gây ra rất nhiều tranh cãi, vì vậy tốt hơn là trao cho Einstein một giải khác. Và ông đã tích cực vận động để trao cho Einstein giải “phát hiện định luật hiệu ứng điện quang”. Từng chữ trong tên giải thưởng đã được tính toán rất kỹ. Như vậy, cuối cùng đề cử cho thuyết tương đối đã không được gì. Trên thực tế, giải thưởng cũng không phải là ghi nhận cho thuyết lượng tử ánh sáng của Einstein, mặc dù đó là vấn đề then chốt trong các bài báo năm 1905 của ông. Nó không dành cho bất kỳ thuyết nào hết. Nó là cho “sự phát hiện của một định luật”.
    Einstein là tác giả của giải Nobel năm 1921 “vì sự cống hiến của ông đối với vật lý lý thuyết và đặc biệt là vì phát hiện ra định luật hiệu ứng điện quang.” – Đó là những từ Uỷ ban trao giải dành cho ông. Như vậy Einstein chưa bao giờ giành được giải Nobel về thuyết tương đối hay trọng lực.
    13. Các học thuyết của Einstein chi phối văn hoá như thế nào?
    Trong gần ba thế kỷ, vũ trụ cơ học của Isaac Newton đã hình thành nền móng tâm lý cho Thời đại khai sáng trong thế kỷ 18 ở châu Âu, khi người ta cho rằng chính lý trí và khoa học (chứ không phải tôn giáo) sẽ làm cho nhân loại tiến bộ. Và giờ xuất hiện cách nhìn mới về vũ trụ, trong đó thời gian và không gian phụ thuộc vào hệ quy chiếu. Một cách không trực tiếp, thuyết tương đối của Einstein liên quan đến việc hình thành chủ nghĩa tương đối trong đạo đức, nghệ thuật và chính trị. Người ta ít tin vào tính tuyệt đối, không chỉ của thời gian, không gian, mà của cả sự thật và đạo đức. Những người có đầu óc tưởng tượng không theo khuôn phép như Picasso, Joyce, Freud, Stravinsky, Schoenberg bắt đầu bứt phá ra khỏi những quy ước thông thường. Bơm vào sự hoang mang này là quan điểm về vũ trụ, trong đó không gian, thời gian và đặc tính của các phần tử dường như phụ thuộc vào vị trí quan sát.
    14. Einstein có phải là người theo chủ nghĩa tương đối về đạo đức?
    Nhiều người coi Einstein là một người theo chủ nghĩa tương đối. Trong số đó có cả những người muốn bày tỏ thái độ bài Do Thái của họ. Nhưng rõ ràng Einstein không phải là người như vậy. Tất cả những học thuyết của ông, kể cả thuyết tương đối, đều là đi tìm cái tuyệt đối và cái đúng đắn. Trên thực tế, ông đã xem xét đến việc đặt tên công trình của mình là “Thuyết bất biến” thay vì “Thuyết tương đối”, bởi nó dựa vào những điều bất biến và đúng đắn ẩn chứa bên trong. Sở dĩ, Einstein phủ định cơ học cổ điển là vì nó đưa ra giả thuyết là thực tại tồn tại dựa vào nhận thức của chúng ta về nó. Điều này đi ngược với quan điểm của ông, đó là thực tại tồn tại độc lập với khả năng nhận thức của con người.
    15. Dòng máu Do Thái có vai trò gì trong cuộc sống cũng như thành tựu của Einstein?
    Trong cuộc đời Einstein, mối liên hệ của ông với người Do Thái là mối liên hệ thân thiết nhất, mặc dù ông không đi theo những nghi lễ tôn giáo của họ. Nhiều người có thái độ bài Do Thái đã công kích cả ông lẫn thuyết tương đối của ông. Nhưng thái độ đó càng lớn, thì lại càng làm ông xích lại gần với người Do Thái hơn. Chuyến đi đầu tiên của ông tới Mỹ là để quyên tiền cho phong trào phục quốc của người Do Thái. Năm 1933 ông đã trốn Hitler đến Princeton. Gần cuối đời mình, ông còn nhận được lời đề nghị làm tổng thống Israel. Tuy nhiên, ông đã lịch sự từ chối.
    16. Einstein có tin vào Chúa?
    Câu trả lời là có. Theo Einstein, Chúa linh thiêng và không tồn tại bằng xương bằng thịt. Tuy nhiên ông vẫn tin rằng “bàn tay” của Chúa có ở mọi nơi và được phản ánh trong sự hài hoà giữa những quy luật tự nhiên và vẻ đẹp của vạn vật. Ông thường gọi tên Chúa, ví dụ như ông nói “Chúa không chơi trò may rủi”, khi phủ nhận cơ học lượng tử. Niềm tin của Einstein vào điều lớn lao hơn cả chính mình đã tạo ra trong ông sự hoà trộn kỳ lạ giữa sự tự tin và khiêm nhường. Như trong lời tuyên bố nổi tiếng của ông: “Có một linh hồn ẩn chứa trong những quy luật của vũ trụ, một linh hồn cao cả hơn linh hồn của con người, và một khi đối mặt với linh hồn đó, chúng ta, với sức mạnh khiêm tốn, cảm thấy nhỏ bé biết chừng nào. Bằng cách đó, theo đuổi khoa học dẫn tới một cảm giác sùng bái đặc biệt.”
    Khi được hỏi ông có tin vào Chúa không, ông luôn khẳng định là có. Có lần ông đã giải thích rằng: “Chúng ta giống như một đứa trẻ bước vào một thư viện lớn, với đầy sách được viết bằng nhiều thứ tiếng. Đứa trẻ biết phải có ai đó viết ra những cuốn sách này. Nhưng nó không biết là bằng cách nào. Nó không hiểu các ngôn ngữ được viết. Nó chỉ lơ mơ hoài nghi về trật tự sắp xếp các cuốn sách đầy bí ẩn nhưng không biết đó là cái gì. Và với tôi, đấy cũng là thái độ của một người thông thái nhất nhân loại đối với Chúa. Chúng ta nhận thấy vũ trụ được sắp xếp theo một cách rất kỳ diệu và tuân theo những quy luật nhất định, nhưng chỉ lờ mờ hiểu về những quy luật đó mà thôi.”
    17. Lý thuyết của Einstein vẫn được chấp nhận?
    Đúng vậy. Cuộc đời Einstein chứa đựng hầu như toàn bộ khoa học hiện đại, từ vi phân đến vô hạn, từ cái nhỏ nhất có thể tưởng tượng được, như sự phóng các hạt pluton, đến cái lớn lao có thể nhận thức được, như sự mở rộng của vũ trụ. Một thế kỷ sau những phát hiện lớn lao của Einstein, chúng ta vẫn đang sống trong vũ trụ của ông. Các hạt quang điện, vô tuyến, năng lượng hạt nhân, tia laser, du hành vũ trụ, thậm chí cả chất bán dẫn, tất cả đều có dấu chân của ông. Ông đã viết một lá thư gửi tới Tổng thống Mỹ Roosevelt, gợi ý về một dự án chế tạo bom hạt nhân và những lá thư viết về phương trình nổi tiếng của ông, mô tả mối liên hệ giữa năng lượng và khối lượng. Hai học thuyết lớn của ông, mở đường đưa khoa học vào thế kỷ 20, thuyết lượng tử và thuyết tương đối, vẫn là hai trụ cột vững chắc cho vật lý lý thuyết một thế kỷ sau đó.
    18. Einstein không phủ nhận cơ học lượng tử?
    Einstein tin rằng cơ học lượng tử có những điều chưa rõ ràng và không chắc chắn, không đưa ra được mô tả hoàn chỉnh về vũ trụ. Ông đã dành một nửa cuộc đời làm khoa học của mình để cố tìm ra lỗ hổng trong học thuyết về cơ học lượng tử, và để sắp xếp nó thành một học thuyết hợp nhất. Nhưng ông đã không thành công. Tuy nhiên, cuộc tìm kiếm đơn phương độc mã và ngoan cố của Einstein đã nói lên rất nhiều điều về tính cách cũng như trí tuệ của ông.
    19. Quan điểm chính trị của Einstein là gì?
    Trước khi Hitler lên nắm quyền và buộc ông phải xem xét lại quan điểm chính trị của mình, Einstein là một người theo chủ nghĩa hoà bình. Ông đã yêu cầu chế tạo bom hạt nhân, nhưng sau đó lại trở thành người đứng đầu trong một phong trào tìm cách kiểm soát nó. Ngay khi tìm kiếm một học thuyết hợp nhất về khoa học, ông đã theo đuổi một thế giới theo chế độ liên bang, có thể áp dụng trật tự đối với những nước cạnh tranh nhau.
    20. Cuối cùng Einstein có phải là người ảo tưởng?
    Einstein không phải sinh ra để chết trong cay đắng. Nằm trên giường bệnh lúc cuối đời (năm 1955), ông đã soạn bài phát biểu ông định đọc trong ngày quốc khánh của Israel với lời mở đầu: “Hôm nay tôi nói với các bạn không phải với tư cách là một người Mỹ, hay một người Do Thái, mà với tư cách là một con người.”
    Nhưng trong đêm cuối cùng của cuộc đời, ông đã đặt bài phát biểu sang một bên, và nhặt lên cuốn sổ đầy những phép tính nguệch ngoạc. Đến phút cuối cùng ông vẫn trăn trở để tìm ra lý thuyết thống nhất chưa có lời kết của mình. Và những dòng chữ cuối cùng ông viết, ngay trước khi bị cơn đau đớn xâm chiếm, là về một hằng số mà ông hi vọng có thể đưa ông, và tất cả chúng ta, xích gần thêm một bước nữa tới linh hồn ẩn chứa bên trong quy luật của vũ trụ.


     
    Chỉnh sửa cuối: 8/5/12
  15. Những chuyện kỳ bí chưa có lời giải đáp P1

    [FONT=&quot]Một trong những vấn đề tồn tại qua nhiều thế kỷ đó là các bí ẩn về thế giới, nó kích thích con người phát triển tư duy để chinh phục, tiến lên những tầm cao mới về kiến thức. [/FONT]

    [FONT=&quot]1. Người tuyết ở núi Hymalaya hay ở Bichsphát (Bắc Mỹ)
    Nhiều nhà thám hiểm leo núi đã thấy những dấu chân người khổng lồ ở trên tuyết trên núi cao. Theo khẳng định của họ, thì người bình thường không thể có những vết chân như vậy được và không thể sinh sống với điều kiện thiên nhiên hà khắc như vậy. Chắc phải có những người khổng lồ, có những khả năng đặc biệt sinh sống ở đó. Cho tới nay chưa có ai chụp ảnh người tuyết chứ chưa nói đến tiếp xúc với họ.
    2. Sự hình thành trái đất hoặc các hành tinh khác được lý giải từ các mảnh thiên thạch hay bụi trong vũ trụ. Còn vũ trụ hình thành là do đâu thì các nhà khoa học còn đang bế tắc. Ngay cả thuyết "Vụ nổ lớn Bigbang", cũng chưa hoàn toàn có sức thuyết phục. Hiện nay người ta vẫn còn đang ở trong cái vòng lẩn quẩn, không biết quả trứng có trước hay con vịt có trước.
    3. Khoa học ngày nay phát hiện rất nhiều chức năng của bộ não con người. Nhưng khả năng vô tận của nó thì không thể nói hết được. Trong bộ não vùng nào là tư duy, người ta chưa xác định được.
    4. Những cấu trúc rất hài hoà của vô cơ, hữu cơ trong tự nhiên như có bàn tay vô hình nào đó sắp đặt. Câu hỏi đặt ra vì sao như vậy thì các nhà khoa học còn đang bó tay.
    5. Những hình khắc trên đá trong các hang động bên Anh, Nhật, hay ở trên mặt phẳng của dãy núi Nasơca (Pêru). Những hình người khổng lồ cấu tạo giống như con người ngày nay đã được tìm thấy từ lâu, nhưng việc lý giải ai vẽ thì vẫn còn đang tranh cãi.
    6. Hiện tượng đĩa bay đã được nhiều người trên khắp hành tinh chứng kiến bằng mắt, đã được chụp ảnh. Nhiều người cho rằng đó là những con tàu vũ trụ của người ngoài hành tinh khác tới thăm trái đất. Nhưng giả thuyết này chưa được chứng minh một cách khoa học.
    7. Sự biến mất của một thành phố Atlantích, Bimini hay của quốc vương Saba…, tuy rằng chỉ thấy chúng ở trong những câu chuyện cổ tích huyền thoại, nhưng người ta cũng tranh cãi nhiều về sự tồn tại và biến mất của nó, ở đâu đó trên đồi Samtôrin (Hylạp) người ta đã tìm thấy những vết tích đáng ngờ của chúng.
    [/FONT]

    [FONT=&quot]8. Sự di chuyển của loài chim trong các mùa. Do đâu mà chúng có những bản năng và tổ chức như vậy? Chúng có thể bay trong đêm tối và chúng rất có đội hình.
    9. Nhiều người có khả năng không bình thường: tiên đoán được sự việc, nhìn và tìm những thứ nằm sâu trong lòng đất (hài cốt, quặng, ngầm…) đọc được ý nghĩ của người khác, hai, ba tuổi không đi học mà đọc được chữ… Điều này khoa học thực nghiệm chưa thể đo đạc hoặc lý giải được.
    10. Sự tiêu diệt của loài khủng long – Đã nhiều lý thuyết, giả định được đưa ra để khẳng định những vẫn dẫn tới sự mâu thuẫn chính trong các thuyết đó.
    11. Bức tượng đức Mẹ Maria ở Zaitaun gần Cairo (Ai Cập) thường xuyên phát quang, có lúc thường xuyên phát ra một tia sáng đơn điệu, có khi phát ra hàng nghìn tia khác nhau. Rất khó giải thích theo khoa học hiện nay.
    12. Những hình thù lạ mắt xuất hiện vài năm gần đây trên cánh đồng vùng Kốtdôphedô ở Anh. Những vật liệu tạo nên những hình thù đó tới nay người ta cũng chưa biết vì đâu mà có. Có giả thuyết cho rằng do những trận sét đánh sinh ra. Tuy vậy các nhà khoa học vẫn tranh cãi, đặc biệt là những đường song song khá đều nhau dài hàng chục cây số.
    13. Do đâu sinh ra từ trường của trái đất và vì sao chỉ có 2 cực mà không có nhiều hơn.
    14. Có tồn tại hay không sự sống ngoài trái đất. Ngày nay với kỹ thuật hiện đại người ta có thể quan sát được những hành tinh cách xa trái đất hơn 4.800 năm ánh sáng (Năm ánh sáng NAS + 10.000 tỷ km). Tuy vậy người ta cũng chưa trả lời được câu hỏi liệu có nền văn hoá ngoài trái đất hay không? Thỉnh thoảng nơi này, nơi kia trên trái đất người ta cũng loan tin nhìn thấy hay tiếp xúc với người ngoài hành tinh khác, nhưng không có bằng chứng cụ thể.
    15. Một vấn đề mà ngày nay các nhà sinh vật hiện đại chưa lý giải được vì sao các tế bào của sự sống lại được tổ chức một cách khéo léo như vậy, ví dụ các tế bào não người có tổ chức hoàn hảo như những hoa văn của các tác phẩm nghệ thuật làm bằng tay.
    16. Những tượng đá khổng lồ mới tìm thấy khoảng ba chục năm nay - người ta gọi nó là những đài quan sát mặt trời, mặt trăng và các vì tinh tú khác. Các nhà khảo cổ cũng mất nhiều công sức nhưng chưa khẳng định được ai làm ra chúng và chúng đã có tự bao giờ.
    17. Toàn thân xá lợi của các vị thiền sư: Khoa học thế giới ngày nay đã khẳng định muốn ướp xác phải thoả mãn 3 điều kiện:
    1. Phải có thuốc
    2. Phải hút ruột, hút óc
    3. Phải để thể xác vào hòm kín, chân không.
    Năm 1983, khoa học đã chứng minh bằng X.quang toàn thân xá lợi của thiền sư Vũ Khắc Minh (chùa Đậu - Thường Tín- Hà Tây):
    - Không vết đục đẽo
    - Không có hiện tượng hút ruột và hút óc và các khớp xương dính với nhau tự nhiên.
    Hai thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Tường không cần 3 điều kiện nói trên mà vẫn để lại toàn thân xá lợi. Không chỉ riêng ở Việt Nam mà ở Trung Quốc, Tây Tạng, Ấn Độ, Nhật Bản cũng có những pho toàn thân xá lợi như vậy.
    - Ở Ấn Độ có pho toàn thân xá lợi sư tổ Mahaca diếp tôn giả.
    - Ở Tây Tạng có toàn thân xá lợi sư tổ đức Đạt lai lạt ma.
    - Ở Trung Hoa có toàn thân xá lợi Lục tổ Huệ năng.
    - Ở Nhật Bản có toàn thân xá lợi Tổ nhật liên bồ tát (Nichiren) và tổ truyền giáo Đại sư Dengo Dainhi.
    Các nhà khoa học trên thế giới muốn tìm ra "phương pháp ướp xác tinh xảo này" đề tài nghiên cứu này vẫn còn là điều bí ẩn đối với các nhà khoa học.
    18. Hiện tượng kỳ lạ trong kim tự tháp.
    Các nhà khoa học và kỹ sư xây dựng đã làm nhiều thí nghiệm trong lăng tháp, phát hiện những hiện tượng kỳ lạ:
    - Để mấy đồng tiền hoen rỉ trong tháp, sau hơn một tháng đồng tiền đó trở lên sáng loáng.
    - Hai cốc sữa bò tươi, 1 để trong tháp, 1 để ở ngoài tháp, khi cốc sữa bên ngoài đã chua, biến chất thì cốc sữa trong tháp vẫn giữ nguyên màu sắc ban đầu.
    - Đem 2 mầm cà chua cùng giống, 1 trong tháp, 1 ngoài tháp. Khi cây bên ngoài còn phát triển chậm chạp thì cây bên trong đã ra hoa kết quả.
    - Người bị nhức đầu, đau răng vào ngồi trong tháp hơn một giờ không còn cảm giác đau nhức nữa…
    Đến nay các nhà khoa học và các kỹ sư xây dựng trên thế giới chưa tìm ra con số giải đáp về công trình xây dựng đầy bí ẩn này.

    Nguyễn Xuân Tấn và Minh Chánh ( Lien hiep khoa hoc tin hoc ung dung UIA)
    [/FONT]
    [FONT=&quot]9 Hiện Tượng Chưa Có Lời Giải Đáp (Y Học Pó Tay)
    [/FONT][FONT=&quot]
    Theo Tạp chí khoa học LiveScience, hiện vẫn còn 9 hiện tượng bí ẩn chưa được khoa học giải thích một cách trọn vẹn.


    1. Mối quan hệ cơ thể và tinh thần.

    Ngành y học mới chỉ bắt đầu hiểu được cách thức tinh thần ảnh hưởng đến cơ thể con người... Một ví dụ điển hình là hiệu ứng "giả dược" (placebo), người bệnh cảm thấy đỡ bệnh khi uống một loại thuốc mà họ tin tưởng có đem lại hiệu quả chữa bệnh.

    Sức mạnh tâm linh và hiện tượng ngoại cảm (extra-sensory perception - ESP)

    Sức mạnh tâm linh và hiện tượng ngoại cảm được xếp vào một trong mười hiện tượng vẫn chưa có lời giải thích bởi niềm tin vào hai hiện tượng này vẫn còn rất phổ biến. Rất nhiều người tin tưởng rằng trực giác là một dạng của sức mạnh tâm linh, một cách tiếp cận những kiến thức đặc biệt về thế giới hoặc về tương lai.

    Các nhà nghiên cứu đã tiến hành kiểm tra những người tự cho rằng mình có sức mạnh tâm linh, dù kết quả dưới những điều kiện có cơ sở khoa học cho đến nay vẫn còn khá mơ hồ. Một số lại cho rằng sức mạnh tâm linh không thể kiểm tra được, hoặc vì một lý do nào đó mà sức mạnh này bị giảm sút đi khi có mặt của những người hoài nghi hoặc các nhà khoa học. Nếu điều này là sự thật, khoa học sẽ không bao giờ chứng minh hoặc phản bác được sự tồn tại của sức mạnh tâm linh.

    2. Những “kinh nghiệm” lúc cận kề với cái chết và cuộc sống sau khi chết.

    Những người đã từng một lần cận kề với cái chết, đôi khi cũng kể lại những sự việc rất huyền bí mà họ đã trải qua khi chuẩn bị đối mặt với cái chết (như đi vào một đường hầm tối và hiện ra trong một ánh đèn sáng, được đoàn tụ với những người thân yêu quý, một cảm giác hòa bình...).

    Do vậy, rất có thể rằng còn có một cuộc sống đằng sau ngôi mộ. Trong khi những sự việc trên còn đang được nghiên cứu, vẫn chưa ai có thể trở về mà có thể mang theo chứng cứ hoặc những thông tin khác nhau về “một cuộc sống đằng sau ngôi mộ.” Những người hoài nghi thì cho rằng những sự việc trên có thể giải thích như là những ảo giác tự nhiên hoặc đoán biết được của một bộ não đã bị tổn thương. Do vậy, vẫn chưa có cách nào để có thể biết chắc được cái gì tạo nên những sự việc lúc sắp qua đời hay chúng có thực là những ảo giác về “một khía cạnh khác.”

    3. Vật thể bay không xác định.

    Chẳng còn nghi ngờ gì nữa khi những vật thể bay không xác định là hoàn toàn có thật- rất nhiều người dã nhìn thấy trên bầu trời nhiều vật thể mà họ không thể xác định đó là máy bay hay các vì sao. Dù những vật thể hay những ánh đèn này có là các con tàu vũ trụ có nguồn gốc ngoài Trái đất hay không thì nó còn là một vấn đề hoàn toàn khác.

    Tuy nhiên, trong khi những điều tra kỹ càng tiết lộ những căn nguyên đã biết về các vật thể được trông thấy rõ nhất, một số trường hợp của vật thể bay không xác định vẫn chưa thể giải thích được.

    4. “Cảm giác ngờ ngợ”- Deja vu.

    Déjà vu là một cụm từ tiếng Pháp có nghĩa rằng “đã gặp,” nhằm chỉ một cảm giác huyền bí, khó hiểu nào đó trước những sự việc cụ thể dường như đã gặp trước đó.

    Ví dụ như một người phụ nữ có thể đi vào trong một tòa nhà, ở một nước mà cô chưa từng đến, và có cảm giác rằng sự bố trí ở đó quen thuộc đến kỳ lạ. Một số thuộc tính dường như liên quan đến các vấn đề về tâm linh hay những ý niệm lờ mờ nảy sinh về cuộc sống của những người quá cố. Cũng giống với trực giác nghiên cứu về tâm lý học, con người có thể đưa ra những lời giải thích mang tính tự nhiên hơn, tuy nhiên rốt cục thì nguyên nhân và bản chất tự nhiên của hiện tượng vẫn luôn là một sự huyền bí.

    5. Ma.

    Từ vở kịch “MacBeth” của Shakespeare tới chương trình “Medium” của đài NBC, linh hồn của người chết từ lâu đã hiện hữu trong nền văn hóa của chúng ta và được mọi người bàn tán nhiều trong dân gian. Rất nhiều người đã kể lại rằng họ đã nhìn thấy sự xuất hiện lờ mờ của bóng những người lạ mặt hay những người thân đã quá cố.

    Dù những chứng cứ xác thực về sự tồn tại của ma thường ít được nhắc tới, những người làm chứng thật thà nhất tiếp tục kể rằng họ đã nhìn thấy chụp được và thậm chí còn có thể nói chuyện với bóng ma. Những người tham gia điều tra về ma hi vọng một ngày họ sẽ chứng minh được người chết có thể nói chuyện với người sống, giúp đưa ra câu trả lời cuối cùng cho điều huyền bí trên.
    [/FONT]

    [FONT=&quot]
    [/FONT][FONT=&quot]6. Những vụ mất tích bí ẩn.

    [/FONT][FONT=&quot]Có nhiều lý do cho những vụ mất tích. Có những người cố tình bỏ trốn, một số bị lẫn trong những vụ tai nạn, một số bị bắt cóc hoặc bị giết, nhưng cuối cùng thì hầu hết những người mất tích đều được tìm thấy. Việc tìm thấy những người mất tích thường thông qua công tác điểu tra của giới cảnh sát, chứ không bao giờ được phát hiện bởi những “nhà trinh thám có sức mạnh tâm linh”. Nhưng khi chứng cứ không rõ ràng và các đầu mối bị mất tích, thì thậm chí cả cảnh sát và giới khoa học tâm linh cũng khó có thể mò ra bọn tội phạm.

    [/FONT][FONT=&quot]7. Trực giác.
    [/FONT][FONT=&quot]
    Dù chúng ta có gọi trực giác là những cảm giác đặc biệt (gut feelings), "giác quan thứ 6", hay một khái niệm nào khác, thì mọi người đều phải thừa nhận rằng chúng ta đều có trực giác vào một thời điểm nào đó. Dĩ nhiên, những cảm giác đặc biệt này thường không đúng (đã bao nhiêu lần bạn có cảm giác máy bay của rmình đi xuống trong quá trình vận hành?), nhưng hầu hết họ đều đúng.

    Các nhà tâm lý học lưu ý, con người trong tiềm thức vẫn thu nhặt thông tin về thế giới xung quanh, làm cho chúng ta có vẻ như cảm giác được hay biết được thông tin mà thực sự chúng ta cũng không biết chính xác tại sao và làm cách nào chúng ta lại biết được nó. Nhưng các trường hợp về trực giác thường khó chứng minh hoặc nghiên cứu, và tâm lý học cũng chỉ có thể là một phần của câu trả lời.
    [/FONT][FONT=&quot]8. Bigfoot.
    [/FONT][FONT=&quot]
    Trong nhiều thập kỷ, một loài thú lớn có tóc, hình dáng giống con người được gọi là Bigfoot, thường được những người làm chứng ở Mỹ kể lại. Mặc dù chắc chắn phải có đến hàng nghìn con Bigfoot đang tồn tại nhằm duy trì nòi giống, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một con nào được phát hiện ra. Cũng chưa có bác thợ săn nào có tài giết được một con, hoặc có con nào xâu số bị xe kẹp chết, hoặc bị chết do những nguyên nhân xuất phát từ tự nhiên.

    Khi chưa có những chứng cứ vững chắc như xương hoặc răng của loài động vật trên, thì những gì mà người làm chứng nhìn thấy cũng như những bức ảnh, thước phim mơ hồ không hỗ trợ được nhiều cho những con vật mà họ đã nhìn thấy. Bởi vì về mặt logic họ sẽ không bao giờ có thể chứng minh được rằng những sinh vật như Bigfoot và Quái vật hồ Loch Ness không tồn tại, và có thể những sinh vật kỳ bí này đang nấp rất xa so với những con mắt đầy tò mò của con người.

    [/FONT][FONT=&quot]9. Tiếng kêu của vùng Taos.
    [/FONT][FONT=&quot]
    Một vài cư dân và khách du lịch ở thành phố nhỏ vùng Taos, bang New Mexico, từ lâu đã bị quấy rầy và gây khó chịu bởi một tiếng kêu yếu, có tần suất thấp và huyền bí ở vùng không gian sa mạc. Kỳ lạ thay, chỉ có khoảng 2% dân số vùng này cho biết là họ nghe thấy tiếng kêu. Một số người đã tin rằng tiếng kêu do một âm thanh hiếm gặp gây ra; một số khác lại cho rằng âm thanh do chứng cuồng loạn isteri hay một mục đích nham hiểm, bí mật nào đó của con người gây ra.

    Dù âm thanh này được miêu tả như là một tiếng kêu vo vo, tiếng ngân nga hay một tiếng kêu rầm rầm và dù chúng có mang các đặc điểm về tâm lý học, tự nhiên hay siêu nhiên, cho đến nay vẫn không ai có thể xác định được nguồn gốc của âm thanh này.
    Theo KhoaHoc


    [/FONT][FONT=&quot]'Điểm chết' - bí ẩn chưa được giải mã
    [/FONT][FONT=&quot]
    Có những khu vực trên trái đất được gọi là "điểm chết". Tại đó có sự bất thường về trọng lực và khí quyển. Thỉnh thoảng những chiếc xe chạy ngang qua đột nhiên bị một lực vô hình kéo đi trên một đoạn, những tín hiệu vô tuyến không còn tác dụng... Hiện các nhà khoa học vẫn chưa có lời giải về những hiện tượng trên.
    Tại Mexico có một khu vực kỳ lạ được gọi là điểm chết thuộc vùng Chihuahua, bang Ceballos. Đó là một hoang mạc rộng lớn gồm những bụi cây dại và xương rồng. Giống như những hoang mạc khác, nơi đây có rất nhiều rắn độc và bọ cạp sinh sống. Điều kỳ lạ là tại khu vực này, những tín hiệu vô tuyến đều không còn tác dụng và người ta đặt giả thuyết rằng đây có thể là do người hành tinh khác gây ra.
    Theo tiến sĩ Santiago Garcia ngay từ giữa thế kỷ 19, người ta đã phát hiện ra những tính chất không bình thường của khu vực này. Khi ấy, những người nông dân nhận thấy vào ngày đẹp trời có những hòn đá cuội nóng từ trên trời rơi xuống khu vực điểm chết. Vào năm 1930, một phi công người Mexico tên là Francisco Sarabia thông báo rằng máy bay của anh không thể truyền được tín hiệu radio khi bay qua khu vực này.
    Tuy vậy, phải đến năm 1970 thì điểm chết mới được biết đến một cách rộng rãi: Một chiếc tên lửa Athena được phóng từ căn cứ tên lửa White Sand của Mỹ khi bay qua vùng này bỗng nhiên bị lệch quỹ đạo bay một cách khó hiểu và rơi xuống đất. Hai năm sau đó, một phần trên của tên lửa đẩy Saturn sử dụng cho tàu vũ trụ Apollo của Mỹ cũng bị rơi khi bay ngang qua đây. Người ta cũng không tìm ra được nguyên nhân sau khi đã điều tra kỹ lưỡng, chỉ biết rằng các chi tiết kỹ thuật và đường bay của tàu Apollo trước đó đều không có gì sai sót. Bộ Quốc phòng Mỹ đã cử một nhóm điều tra sang Mexico để tìm rõ nguyên nhân nhưng không có kết quả.
    Kỹ sư Harry de la Pena là người đầu tiên phát hiện ra những đặc tính kỳ lạ gây nhiễu sóng radio của khu vực này. Pena và những đồng nghiệp trong nhóm nghiên cứu của ông nhận thấy tại nơi này, các máy vô tuyến điện đều không thể liên lạc được, sóng radio không thể truyền được với tốc độ âm thanh bình thường. Cho tới nay, tín hiệu sóng truyền hình cũng không thể thu được tại Ceballos và các vùng phụ cận. Dường như tại đây có một lực hút từ trường nào đó làm vô hiệu hoá tất cả các loại sóng vô tuyến truyền thanh và truyền hình.
    Kể từ sau phát hiện của kỹ sư Pena, các nhà khoa học khắp nơi trên thế giới đã đổ về khu vực này với mong muốn tìm ra lời giải đáp cho những bí ẩn trên. Chính phủ Mexico thậm chí còn cho xây một trung tâm nghiên cứu ngay tại khu vực. Một điều kỳ lạ là về mặt địa lý, Điểm chết nằm ngay trên hạ chí tuyến và nam vĩ tuyến thứ 30, cùng trên một đường thẳng hàng với các khu bí ẩn khác của trái đất như tam giác quỷ Bermuda.
    Nhiều người kể lại rằng họ đã tận mắt nhìn thấy đĩa bay và người ngoài hành tinh tại khu vực này. Vào năm 1976, một du khách người Đức đã chụp được các bức ảnh đĩa bay đỗ gần khu vực đồi nam châm ở Điểm chết. Các bức ảnh cho thấy rõ một vật thể giống nồi hầm khổng lồ có đường kính 10m phát ánh bạc.
    Tiến sĩ Santiago Garcia đưa ra giả thuyết cho rằng một số đĩa sáng đó không phải là đĩa bay của người ngoài trái đất mà là các thiết bị do thám trên không của quân đội Mỹ. Những thiết bị này thường bay cao vào ban ngày để nạp pin mặt trời và hạ thấp vào ban đêm để do thám. Garcia cũng chỉ ra rằng khi quân đội Mỹ sang thu lượm những mảnh vỡ của tên lửa Athena tại đây, họ đã chuyển về Mỹ hàng chục xe tải cát về phân tích, trong đó có thể đã được cất giấu các thiết bị do thám trên không đã bị rơi. Có một giả thuyết khác được đưa ra là tại Điểm chết có một trữ lượng lớn quặng sắt nằm sâu dưới lòng đất, phát ra một từ trường cực mạnh vô hiệu hoá các loại sóng liên lạc. Ngoài ra, người ta cũng phát hiện tại các ngọn núi quanh điểm chết có nhiều quặng uran.
    Ngoài những hiện tượng kỳ lạ, tại điểm chết ở Chihuahua còn có những tàn tích khảo cổ mà cho đến nay vẫn chưa thể xác định độ tuổi của chúng. Đó là một đài thiên văn cổ được xếp lên từ những khối đá cao 15 m, nặng 20 tấn/khối. Chúng có hình gần giống những cột đá ở Stonehenge. Một thiên thạch rơi tại Chihuahua vào năm 1959 có cấu trúc tinh thể có độ tuổi nhiều hơn cả hệ mặt trời. Theo nhà thiên văn học Luis Maeda Villalobos, thiên thạch này có cùng độ tuổi với vũ trụ, khoảng 13 tỷ năm tuổi, trong khi hệ mặt trời mới hình thành cách đây 6 tỷ năm. Cho đến nay, những bí ẩn xung quanh điểm chết như đĩa bay và người ngoài hành tinh, hiện tượng từ trường bí ẩn, vẫn chưa có lời giải thoả đáng. Và các nhà khoa học vẫn đang tiếp tục công việc tìm hiểu của mình.
    (Theo National Geographic)


    [/FONT][FONT=&quot]Vùng đất của Sự im lặng
    [/FONT][FONT=&quot]
    Trên bề mặt của trái đất có nhiều nơi được gọi là "vùng đất của quỷ". Ở đó luôn xảy ra hiện tượng nhiễu loạn về từ trường, không khí... mà khoa học tiên tiến chưa lý giải nổi, như đảo Elba - nơi cơ quan hàng không biển ở Địa Trung Hải luôn gặp tai hoạ; phố Mt. Stredohori (Tiệp Khắc cũ) hiện hữu một lực làm kiệt quệ năng lượng xe ôtô hay tam giác quỷ Bermuda là nỗi kinh hoàng của những người buộc phải qua... Còn ở Mexico, cách El Paso, Texas (Mỹ) 400 dặm, cũng có một nơi được coi là "sân chơi của quỷ" - đó là Vùng đất của Sự im lặng (Zone of Silence).
    Những thế kỷ của sự bí ẩn
    Theo Tiến sĩ Santiago Garcia - người dành cả cuộc đời để nghiên cứu Zone of Silence thì vùng sa mạc nắng nóng này được biết đến từ giữa thế kỷ 19. Vào những năm 1930, viên phi công Francisco Sarabia từ bang Coahuila miền Bắc Mexico thông báo radio của anh đột nhiên ngừng hoạt động, biến anh thành nạn nhân đầu tiên của Zone of Silence. Tới tận năm 1970 hiện tượng kỳ bí của khu vực này mới được công luận biết đến là khi tên lửa Athena (Mỹ) được phóng đi từ căn cứ White Sands đã bay chệch khỏi hành trình một, hướng thẳng về Zone of Silence và đâm xuống đất. Vài năm sau, phần trên của một trong các bộ tăng tốc Saturn trên tàu con thoi Apollo bị hỏng cũng tại địa điểm trên. Quân đội Mỹ đã cử một nhóm nghiên cứu tới khảo sát những đặc tính tự nhiên kỳ lạ tại vùng này.
    Harry de la Pena và nhóm nghiên cứu phát hiện ra hiện tượng "im lặng" khi họ không thể liên lạc được với các máy bộ đàm cầm tay khác: sóng radio không truyền đi ở tốc độ và tần số thông thường. Các máy thu thanh vẫn phát ra tín hiệu nhưng chỉ là tiếng thì thào ngay cả khi vặn hết cỡ âm lượng. Ngày nay, tại vùng Ceballos - khu vực dân cư gần nhất cách đó 25 dặm - không thể bắt được tín hiệu vô tuyến. Sau khi thông tin về khu vực này được công bố, các nhà khoa học khắp nơi trên thế giới đã đến trạm nghiên cứu "Biosphere" (Sinh quyển) do chính phủ Mexico lập ra. Tên ban đầu vùng đất này là Mar de Tetis (Biển Thetys) do nó đã từng nằm dưới nước từ hàng triệu năm trước. Một điều lạ là vùng này nằm ở phía Bắc của hạ chí tuyến và Nam của vĩ tuyến 30 - điều đã xếp nó vào danh mục hàng loạt các địa danh kỳ lạ khác.
    Những cuộc chạm trán hoang đường
    Ngày 13/10/1975, hai vợ chồng Ernesto và Josefina Diaz lái chiếc xe mới toanh hiệu Ford đi sưu tập đá lạ và những bộ xương hoá thạch vốn rất nhiều tại khu vực này. Sau khi say sưa với công việc, họ nhận thấy trận mưa dông sa mạc đang tiến đến. Mặc dù cố gắng, nhưng họ vẫn không chạy thoát cơn dông. Trong khi họ cố gắng giữ chiếc xe không bị chìm vào lớp bùn đặc quánh, có hai người đàn ông cao lớn bất thường mặc áo mưa và đội mũ màu vàng tiến lại gần trong cơn mưa xối xả ra dấu hiệu giúp đỡ. Theo hướng dẫn của họ, chiếc xe dần thoát ra khỏi chỗ sình lầy. Khi người chồng bước ra khỏi xe để cảm ơn, anh nhận thấy họ đã biến mất. Quanh đó không hề có dấu hiệu hay đặc điểm nào chứng tỏ họ đã từng có mặt ở đó.
    Tháng 11/1978, nhà báo Luis Ramirez Reyes đi thực tế khu vực này. Chọn hướng xuyên qua sa mạc để rút ngắn quãng đường, ông xác định hướng đi dựa vào trực giác để đến trạm nghiên cứu "Sinh quyển". Đột nhiên ông nhìn thấy có ba người đang đi bộ phía trước theo hướng ngược lại. Ông bảo lái xe đi chậm lại để bắt chuyện với họ, nhưng ông đã rất ngạc nhiên khi người lái xe vẫn tiếp tục lái xe qua nhóm người này như không hề nhìn thấy họ. Bởi đó là những người có bề ngoài hoàn toàn bình thường và mặc quần áo của dân địa phương nên Ramirez nghĩ rằng hơi nóng sa mạc đã làm lái xe hoa mắt. Nhưng ông đã thực sự bị sốc khi gặp lại họ ở một nơi khác trên sa mạc. Mặc dù phủ nhận việc nhìn thấy xe của ông trước đó nhưng những người này đã chỉ đường cho ông tới "Sinh quyển". Dù họ nói họ đang tìm mấy con vật bị lạc nhưng trong tay không hề có bất kỳ đồ vật gì có thể giúp họ qua được vùng đất khô cằn này. Khi đến trạm "Sinh quyển", Ramirez kể lại cuộc chạm trán kỳ lạ cho Harry de la Pena nghe. Pena nói rằng không có người nào trên sa mạc không thuộc về đội "Sinh quyển" và đương nhiên không hề có đàn gia súc nào. Kết quả thám sát từ trên không trong những ngày sau đó cho thấy toàn vùng sa mạc hoang tàn này kéo dài hàng trăm dặm, hoàn toàn cách biệt với các khu dân cư.
    ... Và những kiến giải
    Những du khách đi qua khu vực này thường kể lại họ nhìn thấy những ánh sáng kỳ lạ hoặc những khối cầu lửa chập chờn trong đêm. Chúng thay đổi màu sắc, đứng im bất động rồi đột nhiên biến mất rất nhanh. Tiến sĩ Santiago Garcia cho rằng ánh sáng đó có thể là từ những chiếc xe thăm dò mà quân đội Mỹ để lại, ban ngày chúng nạp pin mặt trời và thực hiện sứ mạng phân tích bí mật dưới sự đồng loã của bóng đêm. Có giả thiết cho rằng một lượng lớn manhetit (quặng sắt từ) tồn đọng trong khu vực này và chính lượng quặng từ này là nguyên nhân của việc sóng điện từ bị mất.
    Ngoài những đặc điểm nói trên, những phế tích cổ đại ở khu vực này càng khiến Zone of Silence thêm kỳ bí. Các nhà khảo cổ không thể xác định được niên đại của chúng, mặc dù trông giống như đài thiên văn vũ trụ hàng nghìn năm tuổi. Tuy nhiên, sức hút mạnh mẽ nhất đối với các nhà thiên văn và địa lý học ngày nay vẫn là số lượng lớn các thiên thạch nhỏ bị hút về khu vực này nhờ vào đặc điểm kỳ lạ tự nhiên ở đây. Một trong những thiên thạch lao vào Chihuahua vào cuối thập niên 1950 có chứa kết cấu tinh thể vượt xa tuổi hệ mặt trời nhiều triệu năm (hệ mặt trời khoảng 6 tỷ năm tuổi), trong khi đó niên đại của thiên thạch này ước tính khoảng 13 tỷ năm.
    Đoàn Thủy (Theo Strange Magazine)

    [/FONT][FONT=&quot].Tam giác Quỷ trên biển
    [/FONT][FONT=&quot]
    Tam giác Bermuda từng được mệnh danh là “Tam giác của Quỷ” nằm trong vùng biển Đại Tây Dương được bao quanh bởi các cùng đất Miami, Bermuda, và Puerto Rico. Rất nhiều người, tàu thuyền và thậm chí máy bay đã bị biến mất một cách bí ẩn ở ở khu vực này.
    “Truyền thuyết” hiện đại về tam giác Quỷ trên biển bắt đầu từ khi 5 chiếc máy bay của Hải quân Mỹ (Flight 19) biến mất một cách bí ẩn trong muột buổi tập luyện năm 1945.

    Bí ẩn về Tam giác Quỷ xuất hiện từ thời Columbus. Ước tính trong vòng 500 năm qua đã có khoảng từ 200-1000 vụ tai nạn xảy ra ở nơi đây. Chỉ riêng năm 1973, đội Bảo vệ bờ biển Mỹ đã nhận được hơn 8.000 cuộc gọi cầu cứu từ vùng Tam giác Quỷ, hơn 50 thuyền và 20 máy bay đã bị “nuốt chửng” xuống tam giác này trong thế kỷ trước.

    Có hàng loạt những giả thuyết giải thích những vụ mất tích bí ẩn trên. Có thể đó là do bàn tay của những người ngoài hành tình, hoặc “người quỷ” với những thiết chống trọng lực hay do từ trường lạ hoặc một “hố” đại dương nào đó tạo nên.

    Nhưng những nhà nghiên cứu thì lại cho rằng đó là do thời tiết, do không may mắn, do cước biển, do nổ hàng, hoặc do những nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo khác.

    Qua nhiều năm có rất nhiều bài báo, sách vở, chương trình truyền hình giải thích hiện tượng bí ẩn của Tam giác Bermuda. Nhưng cho đến nay, người ta vẫn chưa tìm được một lời giải thích thuyết phục về Tam giác Quỷ đã cướp đi sinh mạng của bao người trên đại dương này.


    [/FONT][FONT=&quot]Cantal - vùng tam giác bí ẩn ở nước Pháp
    [/FONT][FONT=&quot]
    Từ độ cao 800 km, vệ tinh Spot 5 có thể chụp ảnh với độ chính xác chỉ vài mét. Thế nhưng, có một khu vực thuộc vùng Cantal, miền trung nước Pháp, luôn tránh được ống kính của nó. Không những vệ tinh trở nên “mù”, các thiết bị điện tử bị hỏng một cách bí ẩn, ở đây còn có những con bò cái chỉ cho sữa đông…
    Trong bài viết có tựa đề “Vệ tinh Spot thất bại tại Auvergne” hồi tháng 9/2002, tờ báo địa phương Cantal Hebdo đã cho đăng tải bức ảnh vệ tinh của vùng Jussac. Trên ảnh có một vết đen hình tam giác che phủ một diện tích vài kilomét vuông. Tác giả bài viết giải thích: “Vết đen đó là một bí ẩn. Chúng tôi chỉ biết rằng vệ tinh không có lỗi. Khu vực đó đã được chụp nhiều lần bởi nhiều vệ tinh khác nhau từ giữa thập niên 1980. Tam giác được thấy trên mọi bức ảnh, nhưng phải dùng kính lúp mới nhận ra được. Thật ra nếu ông thị trưởng Laroquevieille không yêu cầu phóng to bức ảnh của xã ông, có lẽ chẳng ai nhận ra được điều bí ẩn đó”.
    Từ đó tam giác Cantal lọt vào tầm mắt của giới khoa học. Tháng 11/2002, một nhóm nhà khoa học đã đến tận nơi này để tìm hiểu, nhưng không đưa ra giả thuyết nào để giải thích vết đen bí ẩn đó. Trước hết, họ dò hỏi các cư dân trong vùng, và ghi nhận đầu tiên là: địa điểm chẳng có gì khác lạ, với những cánh đồng phủ tuyết, một cánh rừng và một cái đầm đông cứng. Nhưng người dân kể lại một vài điều lạ lùng. Một số bò cái gặm cỏ trong khu vực thường bị chảy máu mũi và lại cho toàn sữa đông.
    Trưởng nhóm nghiên cứu Rémy Larverne cho biết: “Khi chúng tôi bắt đầu đo đạc, tất cả các thiết bị điện tử đều bị hỏng. Điện thoại di động không thu được sóng, còn radio chỉ phát ra tiếng rè rè. Vào sâu trong khu vực chỉ 100 mét, chúng tôi đã đứt liên lạc với thế giới”. Những sự cố đó khiến ông nghi ngờ rằng khu vực này có một trường điện từ rất mạnh, làm rối loạn các thiết bị điện tử, gây nhiễu sóng vô tuyến. Trường điện từ còn tác động đến hệ tiêu hóa của bò, khiến chúng thải ra nhiều khí methane và axit hóa sữa. Nhưng người ta chưa xác lập được mối liên hệ nào giữa trường điện từ và hiện tượng bò chảy máu mũi.
    Nhóm khoa học gia trở lại vài ngày sau đó với các thiết bị chống nhiễm từ. Họ đo được cường độ trường từ là 20.000 Tesla, gấp vài triệu lần địa từ trường. Thế là bí ẩn của tam giác Cantal đã bắt đầu hé lộ. “Nên nhớ rằng ánh sáng cũng là sóng điện từ. Các camera của vệ tinh được trang bị những đầu dò nhạy cảm với trường điện từ. Mà trường điện từ này mạnh hơn ánh sáng rất nhiều nên chúng bị bão hòa và cho ảnh đen”, Rémy Larverne giải thích.
    Phải tìm hiểu nguồn gốc của trường điện từ đó. Nhà địa chất Jean Gergovie nêu giả thuyết: “Thử tưởng tượng một dòng magma đi lên cách mặt đất vài kilomét. Điều này là có thể vì khu vực đó ở gần các rặng núi Puys. Magma chứa nhiều ion. Nếu dòng magma tạo thành một cái vòng, đó sẽ là một cái vòng tích điện mạnh có đường kính vài kilomet. Ai cũng biết rằng một vòng điện sẽ tạo ra một từ trường đi qua nó, có cường độ tương ứng với cường độ dòng điện”. Giả thuyết này có vẻ ổn, nhưng không giải thích được hình dạng tam giác của khu vực.
    Hiện thời dân cư tại Laroquevieille dường như khá tự hào về khu vực có hình tam giác này của họ. Nhưng có lời đồn rằng nơi này có thể trở thành sào huyệt của bọn tội phạm, bởi vì những kẻ vượt ngục có thể lẩn trốn vào đây, và cảnh sát sẽ bó tay vì bộ đàm của họ không thể hoạt động được. Thực hư điều này chưa rõ, nhưng các dự án nghiêm túc cho vùng tam giác bí ẩn trên thì rất nhiều. Trường điện từ không gây khó khăn gì, vì chỉ cần lót dây thép vào trong tường cũng đủ để cách ly nhà.
    Một hiệp hội bảo vệ môi trường đã chính thức yêu cầu UNESCO công nhận tam giác Cantal là di sản thế giới, nơi duy nhất trên trái đất mà “người ta có thể nằm ngủ giữa trời mà không bị quan sát từ trên cao”.
    (Theo Science et Vie Junior)

    [/FONT][FONT=&quot].Sa mạc Nazca: Bí ẩn lớn nhất trong lịch sử loài người[/FONT][FONT=&quot]

    Không nơi nào trên thế giới lại có thể khuấy động trí tưởng tượng của con người như sa mạc Nazca. Dù đã có nhiều nghiên cứu nghiêm túc của các nhà khoa học, Nazca vẫn tiếp tục là “hiện tượng bí ẩn nhất trong lịch sử loài người”.
    Nơi đây, những đường thẳng với tên gọi Nazca là một trong những bằng chứng đáng kinh ngạc và khó lý giải về sự hiện hữu của một nền văn minh cổ đại hoàn toàn khác với nền văn minh của chúng ta.

    Những đường thẳng và hình vẽ lạ kỳ trên sa mạc chỉ được phát hiện vào năm 1927 sau chuyến bay đầu tiên trên bầu trời Peru. Năm 1939, giáo sư người Mỹ Paul Cosock đã dùng một chiếc máy bay nhẹ để quan sát sa mạc Nazca từ trên cao, và ông đã không tin vào mắt mình khi nhìn thấy hình một con chim cách điệu khổng lồ trên sa mạc.

    Bên cạnh đó là một “tuyến đường” thẳng một cách đáng kinh ngạc. Đường thẳng này cắt ngang qua địa hình mấp mô của sa mạc và mất hút ở phía chân trời. Sau đó người ta còn tìm thấy nhiều đường thẳng khác nằm song song với nhau, hay tạo thành các hình hình học và tả thực khác có kích thước từ 60 đến 250m (ảnh trên).

    Người ta có thể nhận ra hình dáng của một con nhện khổng lồ, một con khỉ có đuôi xoắn ốc, hay hình cá voi, chim, chó... Tuy nhiên, gây được chú ý nhiều nhất chính là bức vẽ trên một sườn núi mô tả một người khổng lồ đi giày ống có đầu khá to đang giơ tay lên như vẫy chào.

    Sau khi được phát hiện, sa mạc Nazca đã trở thành nơi hấp dẫn những con người lập dị. Erich Von Daniken - tác giả của tập sách nổi tiếng “Những ký ức của tương lai” sau khi tìm hiểu những đường thẳng và hình vẽ trên sa mạc, tuyên bố, Nazca đã từng là trạm tiếp nhiên liệu của các con tàu vũ trụ giữa các dải ngân hà.

    Jim Woodman - một người điều khiển khinh khí cầu, thì suýt mất mạng khi tiến hành một thực nghiệm nguy hiểm nhằm chứng minh người cổ đại ở Peru đã biết sử dụng khí cầu... Nhưng nhà thám hiểm vĩ đại nhất của sa mạc Nazca lại là nhà toán học nữ Maria Reihe. Chỉ bằng cái chổi đơn giản để làm xuất lộ các hình trên mặt đất, bà phải dọn dẹp sạch sẽ sa mạc này trong hơn 50 năm, với ý định làm sáng tỏ những bí ẩn của nó.

    Lần đầu tiên Maria đến sa mạc này cùng với Paul Cosock. Trong khi các nhà nghiên cứu khác quay trở lại Mỹ, bà đã tình nguyện ở lại nơi này và dâng hiến trọn đời mình để nghiên cứu những đường thẳng lạ lùng.

    Hàng ngày bà thực hiện cả núi công việc mà không được trả bất cứ một đồng xu nào. Hàng giờ liền, bà mạo hiểm mạng sống của mình khi treo mình trong một cái giỏ bằng dây thừng tự tạo buộc vào máy bay để chụp các hình vẽ và các đường thẳng Nazca.

    Nhờ sự kiên trì không mệt mỏi của bà, những đường thẳng và hình vẽ trên sa mạc đã được gìn giữ và cuối cùng được Chính phủ Peru công nhận và bảo vệ. Cống hiến của bà cho công cuộc nghiên cứu văn hoá cổ được đánh giá rất cao và bà được người Peru gọi là “Mẹ của sa mạc”.
    [/FONT]
    [FONT=&quot]Bí ẩn lời nguyền của xác ướp Oetzi
    [/FONT][FONT=&quot]
    Oetzi là xác ướp tự nhiên có tuổi đời 5.300 năm được phát hiện năm 1991 trong lớp băng vĩnh hằng trên núi Tyrol của Ý. Theo những người tin vào truyền thuyết thì linh hồn Oetzi rất “tức giận vì bị phá giấc ngủ kéo dài 53 thế kỷ”.
    Những môn đồ của truyền thuyết lời nguyền của xác ướp lại lên tiếng thách thức: Ai không tin thì hãy soi tấm gương của nhà khảo cổ học người Úc Tom Loy, 63 tuổi, chết một cách bí ẩn cách đây 2 tuần tại nhà riêng ở Brisbane, Úc.
    Ông Loy là người thứ 7 chết có liên quan đến xác ướp tự nhiên Oetzi.
    Tiến sĩ Tom Loy là giám đốc Phòng thí nghiệm khảo cổ học của Trường Đại học Queensland: Cách đây 2 tuần, người ta phát hiện ông chết trong tư thế đang viết những dòng cuối cùng của bản thảo một cuốn sách nói về Oetzi - xác ướp cổ nhất thế giới. Ông chết như thế nào không ai biết vì 3 - 4 ngày sau mới phát hiện.
    Tiến sĩ Tom Loy sinh trưởng tại California (Mỹ) mắc bệnh lạ về máu cách đây 12 năm, tức 2 năm sau khi tiếp xúc với xác ướp Oetzi. Gareth Loy, em trai ông Tom, cho biết khám nghiệm pháp y đã không cho kết quả rõ ràng: “Có thể chết tự nhiên, có thể chết vì tai nạn hoặc vì cả hai”. Gareth khẳng định ông Tom không hề tin vào lời nguyền và lúc sinh thời ông Tom cũng thường nói vậy.
    Truyền thuyết về lời nguyền phát huy tác hại bắt đầu từ cái chết của du khách Đức Helmut Simon, người tìm thấy Oetzi. Ông Helmut, 67 tuổi,bị ngã chết ngay gần nơi ông phát hiện xác ướp cổ trong một cơn bão nhỏ hồi năm ngoái.
    Sau đó, đám tang ông Helmut được tiến hành một giờ thì Dieter Warnecke, 45 tuổi, trưởng nhóm cứu nạn được phái đi tìm xác Helmut Simon, bất ngờ ngã ra chết vì đau tim.
    Nạn nhân thứ ba là nhà khảo cổ học Konrad Spindler, 55 tuổi, chuyên gia hàng đầu về Oetzi, người đầu tiên khảo nghiệm xác ướp cổ, chết hồi tháng 4 vừa qua.
    Ba người nữa từng tiếp xúc với Oetzi cũng lần lượt chết trong những hoàn cảnh bi thương do tai nạn hoặc bệnh tật.
    Theo Khoa học/D.H.Anh


    [/FONT][FONT=&quot].Đồ đạc trong một ngôi nhà tự nhiên bốc cháy[/FONT][FONT=&quot]

    Dù trời đang có mưa nhỏ, nhưng các vật dụng trong gia đình ông Nguyễn Đình Thuận, trú tại số nhà 23/46 đường Hồ Đắc Di, thành phố Huế lại bốc cháy. Cứ dập tắt lửa cái này thì cái khác lại bùng lên.
    Khoảng 1 giờ chiều 29/10, trong lúc hai vợ chồng ông Thuận đi làm, thì người cháu ở nhà tên là Bảo Vĩnh Hùng - học sinh lớp 4, phát hiện một tờ giấy dán tường tự nhiên bốc cháy thành lửa ngọn, sau đó là các vật dụng trong gia đình như các bao nylon, chăn màn, chiếu trúc... Quá hoảng sợ, cháu Hùng đã kêu cứu và nhiều người hàng xóm đã chạy qua chữa cháy.

    Trao đổi với chúng tôi sáng 1/11, ông Nguyễn Hoà - một trong những người có mặt chữa cháy hôm đó - cho biết: “Rất lạ lùng là trời đang có mưa nhỏ, nhưng các vật dụng trong gia đình, chúng tôi dập tắt lửa cái này thì cái khác lại bùng lên và hiện tượng này kéo dài cho đến khoảng 6 giờ sáng ngày 31/10 thì ngưng”.

    Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường tỉnh Thừa Thiên - Huế cũng đã đến lấy mẫu để kiểm nghiệm, tìm rõ nguyên nhân.




    [/FONT][FONT=&quot].Người tự bốc cháy - hiện tượng kì bí chưa được giải thích
    [/FONT][FONT=&quot]
    Đột nhiên, ngọn lửa bùng lên và chỉ trong vài phút ngắn ngủi, nạn nhân cháy tan thành tro, để lại lớp khói mịt mù, muội đen và những phần thân thể còn vương vãi. Đôi khi, sự việc xảy ra quá nhanh đến nỗi những vật thể chung quanh còn chưa kịp bắt nhiệt, thậm chí quần áo nạn nhân vẫn còn vẹn nguyên.
    Cho đến nay vẫn chưa có nhà khoa học, nhà nghiên cứu bệnh học hay chuyên viên pháp y nào đưa ra được lời giải thích thỏa đáng. Điều đó khiến người ta nghĩ rằng chính các thế lực siêu nhiên nằm ngoài sự kiểm soát của con người là thủ phạm gây ra những vụ “bốc hỏa” kì bí này.

    Tàn tích còn sót lại

    Trong hầu hết các trường hợp, cơ thể những người tự bốc hỏa bị cháy xém và hủy hoại tệ hại hơn nhiều so với các nạn nhân chết cháy thông thường. Ngọn lửa không phân tán đều khắp mà chỉ tập trung đốt cháy ở một vùng nhất định, thường là giữa thân người, sau đó xương tan thành tro. Trong khi đó, những bộ phận ở xa như cánh tay, ngón chân, có thể cả đầu... thậm chí còn được để lại nguyên vẹn.

    Chỉ những vật dụng gắn liền với cơ thể nạn nhân may ra mới bắt lửa cháy theo - mà thường thì ngọn lửa không bao giờ lan rộng ra vùng lân cận. Có trường hợp nạn nhân bốc cháy khi đang nằm trên giường nhưng ga đệm vẫn y nguyên, quần áo vẫn không hề xém lửa, mấy thứ đồ dễ cháy nằm cách đó vài phân cũng không hề hấn gì... Tuy nhiên lại có dấu hiệu của sự hủy hoại do sức nóng: nến tan chảy, gương bị rạn nứt...

    Tàn tích dễ thấy nhất sau những vụ phát hỏa kiểu này là muội đen và hồ bóng - chúng bám chặt xung quanh tường và trần nhà trong phạm vi bán kính 1 mét.

    Những lời giải thích chưa thỏa đáng

    Khi chứng kiến những hiện tượng người tự bốc hỏa kinh hoàng đầu tiên, nhân loại có niềm tin rất giản đơn rằng: đó là hiện thân sự trừng phạt của Chúa. Nhưng dần dần khoa học phát triển đã khiến người ta phải nghĩ tới nhiều cách giải thích khác thực tế và hợp lý hơn.

    Liệu con người có thể bốc cháy được không? Chắc chắn là có, nhưng bắt buộc phải kèm theo một số điều kiện tác động nhất định từ phía bên ngoài; ví dụ như nhiệt độ cực nóng (ngồi trên lò lửa hoặc trên một thiết bị đang bốc cháy chẳng hạn), hoặc là sử dụng chất xúc tác kích nhiệt (xăng, dầu lửa...). Tuy nhiên ở các trường hợp người tự bốc cháy kì bí, mồi lửa đột nhiên xuất hiện từ chính cơ thể nạn nhân và một phần hoặc toàn bộ cơ thể nhanh chóng tan thành tro bụi chỉ trong một thời gian rất ngắn.

    Vào thế kỉ thứ 17 và 18, hầu hết mọi người tin rằng hiện tượng này là hậu quả của việc nạn nhân lưu trữ trong người một lượng quá lớn bia rượu hoặc chất có nồng độ cồn cao, và chỉ cần một tia lửa nhỏ cũng khiến cho cơ thể bốc cháy. Tuy vậy kết quả điều tra cho thấy nhiều nạn nhân không hề có thói quen uống bia rượu; hơn nữa với lượng chất cồn lớn tới mức bão hòa thì có lẽ họ đã chết vì ngộ độc chứ chẳng chờ đến khi bốc cháy.

    Một cách giải thích khác thì cho rằng: những luồng điện sinh học trong cơ thể chính là nguyên nhân gây ra vụ “chập mạch”. Có nghĩa là, phản ứng dây chuyền của một loại nguyên tử nào đó đã đẩy thân nhiệt lên mức đỉnh điểm, kết hợp với dao động từ tính trái đất để bùng phát thành ngọn lửa.

    Tháng 1/1982, nhà nghiên cứu Larry Arnold đưa ra giả thuyết về mối liên hệ giữa hiện tượng người bốc cháy và “đường lửa”. Trên lý thuyết, đây là những đường từ lực của trái đất chạy ngang dọc khắp hành tinh; và theo phát hiện của Arnold, các đường này đều chạy qua những nơi xảy ra vụ “phát hỏa” kì bí - trong đó có đường dài hơn 400 dặm, nối liền 5 địa điểm có 10 trường hợp người bốc cháy liên tiếp suốt từ năm 1852 đến 1908.

    Một số người khác thì cho rằng hiện tượng này có liên quan tới trạng thái tâm lý siêu nhiên, ví dụ như thần giao cách cảm, lên đồng, ảo giác...

    Tuy vậy, những giả thuyết trên mới chỉ dừng lại ở mức phỏng đoán, chưa có cơ sở khoa học vững chắc cũng như chứng cứ xác thực. Cho đến nay, hiện tượng người bốc cháy vẫn là dấu hỏi lớn trong kho tàng bí ẩn về loài người.



    [/FONT][FONT=&quot]Con người có mắt thứ ba?
    [/FONT][FONT=&quot]
    Các nhà khoa học từ lâu đã tranh luận và nghiên cứu về giả thuyết này. Theo họ, con mắt thứ ba rất có thể là cơ quan giúp một số người có được những khả năng hết sức đặc biệt như tiên tri hay thần giao cách cảm…, và bất cứ ai trong chúng ta cũng có con mắt đó, vấn đề là ta có biết “mở” nó ra hay không.
    Khả năng đọc được chữ hay phim ảnh trong một phong bì dán kín, ngăn ánh sáng, được đặt trên trán của nhiều nhà ngoại cảm không phải là quá xa lạ với chúng ta. Khoa học hiện vẫn chưa thể giải thích thấu đáo về hiện tượng này. Còn truyền thuyết cổ xưa của phương Đông lại khẳng định, có những trung tâm năng lượng đặc biệt có khả năng đọc và phát ra các dạng ý nghĩ được gọi là “con mắt thứ ba”.
    Việc sùng bái loại mắt này có nguồn gốc từ rất xa xưa. Trong nhiều tín ngưỡng phương Đông, cơ quan đặc biệt này gần như được coi là tài sản riêng của các vị thần. Nó cho phép họ theo dõi lịch sử của toàn bộ thế giới, nhìn thấy tương lai, quan sát bất cứ ngóc ngách nào trong vũ trụ bao la. Có thể thường xuyên bắt gặp con mắt thứ ba được gắn trên trán các vị thần trên các hình vẽ hay pho tượng tại những đền chùa đạo Phật. Một số nhà nghiên cứu còn cho rằng, đây chính là ký ức về những “tổ tiên có nguồn gốc ngoài trái đất” của nhân loại. Theo những truyền thuyết còn tồn tại đến ngày nay, con mắt đó giúp họ có những khả năng hết sức đặc biệt - thôi miên và tiên tri, thần giao cách cảm và tác động từ xa, khả năng thu nhận kiến thức trực tiếp từ trí tuệ của vũ trụ, biết được quá khứ và tương lai…
    Những người luyện yoga trên thực tế đã khai phá được các khả năng tâm lý khác thường. Nhiều người từng tận mắt chứng kiến kỳ công của họ đã nhận xét: “Chính xác tương tự như các tia sáng xuyên qua kính hay tia X đi qua các vật không trong suốt, nhà yoga có thể nhìn thấy các đồ vật đằng sau bức tường dày, biết nội dung bức thư trong phong bì dán kín hay phát hiện kho báu dưới đất nhờ sự giúp đỡ của con mắt tinh thần bên trong của mình”.
    Phạm vi ảnh hưởng của “con mắt thứ ba” còn vượt ra ngoài không gian 3 chiều quen thuộc đối với chúng ta. Các nhà yoga có thể quan sát được các sự kiện diễn ra trên những khoảng cách lớn, và ở bất cứ thời gian nào: quá khứ, hiện tại hay tương lai. Tại Ấn Độ, những người có khả năng kỳ diệu như vậy được gọi là Trikalazna (người biết ba thời gian). Tuy nhiên, không phải nhà yoga nào cũng có được những khả năng đặc biệt trên - tất cả phụ thuộc vào sự phát triển của “con mắt thứ ba”. Theo truyền thống của yoga, người ta chia những khả năng này thành 4 mức độ.
    Mức thấp nhất cho phép nhìn thấy những vòng hào quang (hay còn gọi là tinh hoa) phát tiết ra từ đồ vật hay con người. “Hào quang” này thường thay đổi về hình dạng và màu sắc tùy theo mức độ sức khỏe và trạng thái tâm lý của người đó. Chính nhờ khả năng này, một vài nhà yoga có khả năng dự đoán được một số bệnh tật của con người.
    Ở mức độ tiếp theo, con người có thể quan sát các đồ vật và sự kiện tương tự như trong một “bản vẽ thu nhỏ” - ví dụ như nhìn thấy từ bên trong cơ thể hay từ độ cao của các loài chim đang bay. Những bức tranh được quan sát thấy thường liên quan đến hiện tại, hay một quá khứ mới xảy ra không lâu. Tại mức độ này, đôi khi người ta còn nhìn thấy những dạng ý nghĩ cực kỳ mạnh mẽ (ví như liên quan đến tôn giáo tín ngưỡng) - kết quả của quá trình tập trung cao độ của con người. Những giai đoạn đầu, khả năng nhìn thấu này vẫn chưa rõ ràng và bền vững. Nhưng với bước phát triển tiếp theo của con mắt thứ ba, độ sáng và rõ nét của các bức tranh sẽ ngày càng tăng lên. Đến một thời điểm nào đó của mức độ thứ ba, những hình ảnh được quan sát bằng “con mắt thứ ba” sẽ có chất lượng không kém những gì chúng ta nhìn thấy bằng mắt thường. Dù cho thời gian hiển thị của chúng rất ngắn, thậm chí thường chỉ trong khoảnh khắc, ta vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng và tỉ mỉ từng chi tiết.
    Các chuyên gia khẳng định, bất cứ người nào cũng có thể đạt được ba mức độ nói trên bằng cách luyện tập. Thậm chí đối với những người mù, khả năng phát triển “con mắt thứ ba” thường nhanh chóng và thành công hơn. Còn mức độ thứ tư - mức độ tinh thông - thì rất ít người có thể làm được. Để đạt tới ngưỡng này, con người cần phải cống hiến toàn bộ cho sự nghiệp hoàn thiện về tinh thần. Khi đã dạt đến mức độ tuyệt đỉnh của giai đoạn thứ tư, con người sẽ trở thành một môn đồ “không cần học ai và không cần học cái gì nữa”. Điều này không phải do anh ta đã biết tất cả, mà là anh ta sẽ không cần phải vùi đầu vào hàng trăm cuốn sách, nghe giảng suốt ngày, chúi đầu vào kính hiển vi hay kính viễn vọng… Khả năng thị giác bằng tinh thần sẽ cho phép con người biết và nhìn thấy tất cả những gì anh ta mong muốn - không phụ thuộc vào thời gian hay không gian.

    Vào thập niên 80, các nhà khoa học Anh và Đức đã đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của những người có con mắt thứ ba, tương tự như ở bò sát nguyên thủy. Tuy nhiên ở người, con mắt này dần dần chui sâu vào bên trong lớp xương sọ và có thể đã thu nhỏ lại, trở thành tuyến quả thông (epiphisis), nằm trước tiểu não.
    Các ý kiến nhận định về vấn đề này khá khác biệt. Một luận điểm cho rằng những động vật có con mắt thứ ba cũng không phải là hiếm, thường xuyên gặp hơn cả là những loài bò sát, đặc biệt là rắn và thằn lằn. Chúng có một con mắt thóp đặc biệt, nằm ngay dưới một lỗ nhỏ trên phần xương sọ. Ở loài bò sát, lỗ này được phủ một lớp da mỏng bán trong suốt khiến các nhà khoa học nhận định nó không chỉ làm việc trong dải ánh sáng nhìn thấy. Dự đoán trên đã được khẳng định, sau khi người ta phát hiện cơ quan này đặc biệt nhạy cảm với dải sóng milimét cũng như đối với từ trường. Họ còn đặt giả thuyết, nó có thể thu nhận được các loại sóng siêu âm và hạ âm. Chính nhờ đó, loài bò sát thường có khả năng cảm nhận trước những thảm họa thiên nhiên như động đất, núi lửa phun trào hay thậm chí cả bão từ.
    Còn đối với một số người, chúng ta cũng có bằng chứng khá thuyết phục về “con mắt thứ ba”: Cơ quan kỳ lạ này đôi khi nằm trên thóp hay gáy của một số người vẫn đang sống bên cạnh chúng ta. Đó là trường hợp của Emi Hanson, một cô giáo 25 tuổi tại thành phố Columbus (Mỹ). Emi quả thật có tới 3 con mắt, trong khi mắt thứ ba nằm sau gáy lại nhìn rõ hơn hai con mắt thường vốn bị cận của cô. Ưu điểm của con mắt này khá rõ ràng, Emi có thể xem truyền hình bằng gáy hay quan sát được đằng sau xe hơi của mình mà không cần kính chiếu hậu.
    Những huyền thoại của Ấn Độ về “con mắt thứ ba” - con mắt của sự tưởng tượng và mơ ước đã thuyết phục được các nhà khoa học Anh và Đức. Vào thập niên 80, họ đưa ra giả thuyết về sự tồn tại của những người có con mắt thứ ba, tương tự như ở các loài bò sát nguyên thủy. Tuy nhiên ở con người, con mắt này dần dần chui sâu vào bên trong lớp xương sọ. Theo xu hướng này, hiện có nhiều ý kiến cho rằng cơ quan bí ẩn trên không có gì khác mà chính là tuyến quả thông (epiphisis) - một bộ phận chỉ nhỏ cỡ hạt đậu, có dạng hình quả lê và màu đỏ nâu, nằm ngay phía trước tiểu não.
    Những nghiên cứu khoa học gần đây cũng nói nhiều về cơ quan thần bí này. Người ta phát hiện trong epiphisis có chứa các thành phần gọi là “cát não” (acervulus cerebralis) - những mẩu khoáng chất hình cầu có kích thước khoảng 0,5 mm. Cho dù chúng có ở mọi người ngay từ lúc sinh ra, nhưng các nhà khoa học vẫn chưa biết nó có tác dụng gì. Xung quanh đó có khá nhiều giả thuyết. Phân tích bằng tia X ghi nhận trong những “hạt cát” có những cấu trúc dạng tinh thể silic. Dường như những vi tinh thể này là nơi chứa đựng thông tin dạng ba chiều về toàn bộ cơ thể con người.
    Trong khi tìm hiểu tác dụng của epiphisis, một số người đã chú ý tới một chuyển động kỳ lạ của cơ quan này. Nó có khả năng tự xoay tương tự như mắt người. Người ta còn bàn về những điểm giống nhau giữa epiphisis với nhãn cầu mắt do nó cũng có thấu kính và các thành phần thụ cảm màu sắc. Một điểm chú ý nữa là hoạt động của tuyến quả thông được thúc đẩy đáng kể bởi tín hiệu sáng đến từ mắt. Cũng có ý kiến nhận định, do kết quả của quá trình hàng nghìn năm không hoạt động, epiphisis đã thu nhỏ kích thước đáng kể (trong quá khứ, nó lớn cỡ viên bi của trẻ em).
    Hiện vẫn chưa thể khẳng định chắc chắn epiphisis có phải là con mắt thứ ba từng có thời nằm trên não, hay là một cơ quan độc lập nào đó có những khả năng đặc biệt. Tuy nhiên, người ta vẫn có được một bằng chứng, dù là gián tiếp, cho thấy epiphsis có liên quan đến thị giác và những khả năng thông tin đặc biệt của con người. Các nhà khoa học còn nhận thấy một quy luật khá thú vị: Ở những người thường xuyên rèn luyện về tinh thần và có được những khả năng thông tin - tâm lý đặc biệt, phần xương trên chóp lại mỏng đi đến mức chỉ còn như một lớp da - tương tự như con mắt của rắn.
    (Theo Thế Giới Mới)

    [/FONT][FONT=&quot]Bí ẩn "con mắt thứ ba"
    [/FONT]
    [FONT=&quot]
    Sau buổi thí nghiệm về khả năng nhìn bằng trán, mũi, thái dương của chị A như số báo trước chúng tôi đã nêu, các nhà khoa học vẫn chưa có được kết luận mới, chính xác về hiện tượng này.
    Tuy nhiên, một vài nhận định ban đầu cũng phần nào hé lộ được những khả năng tiềm ẩn của con người. Cũng như vũ trụ bao la, bộ não con người bé nhỏ, song còn vô vàn điều bí ẩn mà chúng ta chưa khám phá hết được.
    Lý giải của các nhà khoa học về "con mắt thứ ba"
    Trong nhiều tài liệu mà ông Tuệ Đức tham khảo, các nhà khoa học trên thế giới nhận định "con mắt thứ ba" có thể là cơ quan giúp một số người có được những khả năng đặc biệt như tiên tri hay thần giao cách cảm...
    Còn đối với các nhà yoga, các thiên sư lỗi lạc thì bất cứ ai trong chúng ta cũng có "con mắt" đó, vấn đề là có biết "mở" nó ra hay không mà thôi.
    Truyền thuyết cổ xưa của phương Đông lại khẳng định con người có những trung tâm năng lượng đặc biệt có khả năng đọc và phát ra các dạng ý nghĩ và nó được gọi là "con mắt thứ ba".
    Ta có thể thường xuyên bắt gặp "con mắt thứ ba" được gán trên trán các vị thần qua hình vẽ hoặc các pho tượng tại những đền chùa đạo Phật. Một số nhà nghiên cứu lại cho rằng, đây chính là ký ức về "những tổ tiên có nguồn gốc ngoài trái đất" của nhân loại (?!).
    Theo truyền thuyết, "con mắt" đó giúp họ có khả năng tiên tri, thôi miên, thần giao cách cảm, tác động từ xa, thu nhận kiến thức trực tiếp từ trí tuệ vũ trụ, nhìn được quá khứ và tương lai...
    Những nhà yoga tài ba trên thế giới đều khai thác được những khả năng tâm lý khác thường."Con mắt thứ ba" của một số nhà yoga có tác dụng như những tia :-@quang đi xuyên qua các bức tường, nhìn thấy vật đằng sau, hoặc phát hiện được kho báu dưới lòng đất. Họ còn có thể quan sát được các sự kiện diễn ra ở bất cứ thời gian nào và bất cứ ở đâu trên trái đất.
    Ở Ấn Độ, những người có khả năng như vậy được gọi là Trikalazna, có nghĩa là người biết được cả quá khứ, hiện tại, tương lai. Ở châu Âu người ta gọi là nhà chiêm tinh học.
    Tài năng của các nhà yoga phụ thuộc vào sự phát triển của "con mắt thứ ba" và sự phát triển đó được chia thành 4 mực độ khác nhau:
    Mức thứ nhất cho phép nhìn thấy những vòng hào quang phát tiết từ đồ vật, con người. Trong Phật giáo, những vòng hào quang đó được gọi là tinh hoa, tinh lực. Hào quang phát ra từ mỗi người đều có một hình dạng, màu sắc khác nhau, phụ thuộc vào sức khỏe, trạng thái tâm lý của người đó.
    Chính vì thế, khi các nhà yoga đạt được mức thấp nhất cũng có thể dự đoán được bệnh tật của con người thông qua việc quan sát hào quang phát ra từ xung quanh cơ thể họ.
    Mức thứ hai, có thể nhìn xuyên qua các đồ vật, đọc được ý nghĩ của người khác, thậm chí nhìn rất rõ con chim đang bay trên không trung, ở rất xa và cao, trong khi người bình thường không thấy gì. Tuy nhiên, khả năng nhìn xuyên thấy là chưa rõ ràng và chưa bền vững.
    Mức thứ ba chính là sự hoàn thiện của mức thứ hai, khi đó, những hình ảnh quan sát bằng "con mắt thứ ba" sẽ có chất lượng không kém gì mắt thường. "Con mắt thứ ba" sẽ như một chiếc máy ảnh, chụp được tỉ mỉ, từng chi tiết từng sự kiện diễn ra trong cả quá khứ, hiện tại và tương lai.
    Các nhà khoa học khẳng định, dựa vào cấu trúc của bộ não, vật báu trời cho, bất cứ người nào cũng có thể đạt được ba mức độ trên bằng cách luyện tập kiên trì, bài bản. Đối với những người khiếm thị, "con mắt thứ ba" sẽ được bộ não kích thích hoạt động và việc khai mở nó sẽ nhanh chóng và dễ thành công hơn.
    Mức độ cao nhất, luyện đến độ tinh thông thì hiếm người làm được. Để đạt tới ngưỡng này, con người cần phải cống hiến toàn bộ cho sự nghiệp hoàn thiện về tinh thần. Khi đã đạt đến mức độ tuyệt đỉnh của giai đoạn thứ tư, con người sẽ không cần học ai và không cần học cái gì nữa. Khả năng tinh thần sẽ cho phép con người biết và "nhìn" thấy tất cả những gì mong muốn, không phụ thuộc vào thời gian và không gian.
    Các nhà khoa học Anh và Đức thì giải thích sự tồn tại của "con mắt thứ ba" tương tự như một số loài động vật. Thực tế, những động vật có "con mắt thứ ba" không phải là hiếm, phổ biến nhất là những loài bò sát, đặc biệt là rắn và thằn lằn.
    Chúng có một con mắt thóp nằm ngay dưới một lỗ nhỏ trên phần xương sọ và được phủ một lớp da mỏng trong suốt và cơ quan này rất nhạy cảm với milimet và từ trường. Nhiều khả năng nó còn thu nhận được các loại sóng siêu âm và hạ âm. Nhờ đó, các loài bò sát thường có khả năng biết trước thảm họa thiên nhiên như động đất, núi lửa phun trào, bão từ...
    Đối với con người, chúng ta cũng có bằng chứng khá thuyết phục về "con mắt thứ ba". Cơ quan kỳ lạ này đôi khi nằm trên thóp hoặc gáy. Đó là trường hợp của Emi Hanson, một cô giáo 25 tuổi, sống tại thành phố Columbus (Mỹ).
    Emi có tới ba con mắt, trong khi "mắt thứ ba" nằm sau gáy lại nhìn rõ hơn hai con mắt thường vốn bị cận của cô. Hồi nhỏ, Emi phải để tóc dài để che con mắt này đi, nhưng bọn trẻ đã phát hiện ra và người ta đặt cho cô cái tên Cyclops (tên người khổng lồ một mắt trong thần thoại Hy Lạp).
    Khi lớn lên, Emi được rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu được công bố rộng rãi trên báo chí. Do vậy, Emi không còn cảm thấy ngượng nữa mà để cho rất nhiều người xem. Giờ đây, Emi đã lấy chồng và sinh con bình thường như những phụ nữ khác. Đối với Emi, "mắt thứ ba" rất có lợi khi cô có thể xem truyền hình bằng gáy hoặc quan sát được đằng sau khi lái xe mà không cần kính chiếu hậu.
    Tiến sĩ Pravdivtsev, người Nga, đã bỏ gần như cả cuộc đời để nghiên cứu Emi Hanson và những người có khả năng phát ra năng lượng sinh học từ một điểm nằm trên trán. Ông khẳng định rằng, bằng nghiên cứu về phôi thai hiện đại, có thể tìm thấy "con mắt thứ ba" ở tháng thứ hai của phôi thai, nhưng con mắt này sẽ dần mắt đi khi thai nhi tiếp tục lớn và chỉ còn là tuyến yên trước tiểu não mà thôi.
    Khác với các loài bò sát nguyên thủy, ở con người, con mắt này dần chui sâu vào bên trong lớp xương sọ. Hấu hết ý kiến của các nhà khoa học trên thế giới đều nhận định rằng, cơ quan bí ẩn trên chính là tuyến apiphysis (tuyến quả thông), một bộ phận nhỏ cỡ hạt đậu có hình dạng quả lê và màu đỏ nâu, nằm ngay trước tiểu não. Theo nhận định của các nhà khoa học, trong quá khứ, bộ phận này có thể to bằng hạt nhãn.
    Hiện các nhà khoa học vẫn chưa phát hiện được chức năng của tuyến apiphysis, song những chuyển động của nó thì rất lạ, xoay đảo như mắt người. Đặc biệt là nó cũng có thấu kính và các thành phần cảm thụ màu sắc như mắt.
    Qua phân tích, trong epiphysis có chứa những mẩu khoáng chất hình cầu, có kích thước 0,5 mm và có những cấu trúc dạng tinh thể silic. Nhiều khả năng những vi tinh thể này là nơi chứa đựng thông tin dạng ba chiều về toàn bộ cơ thể con người.
    Còn nhà nghiên cứu nổi tiếng người Nga Voronezh Anatoly Rodionov thì nhận định rằng, "con mắt thứ ba" nằm ở vùng đỉnh hoặc vách xương chẩm ở đầu người từ cách đây nhiều thế kỷ. Con mắt này rất hữu ích và có một số tác dụng đặc biệt. Nó như một thấu kính hội tụ truyền đi tối đa thông tin mà nó nhận được, giúp con người giám sát xung quanh một cách toàn diện.
    Tuy nhiên, trong suốt thời kỳ tiến hóa, con mắt này đã dịch chuyển vào sâu trong não. Điều này có liên quan rất rõ đến nền nghệ thuật Ấn Độ, bởi trong các tác phẩm nghệ thuật cổ xưa, bao giờ họ cũng vẽ một con mắt ở trán và họ coi đó là trung tâm có khả năng đặc biệt bằng ngoại cảm vô hình.
    Cũng theo nhà khoa học này thì những người dồi dào sinh khí, tràn đầy sức sống thường hay có từ trường sinh học, trong điều kiện nhất định, những từ trường này có thể trở thành "con mắt thứ ba", điều quan trọng là phải biết khai thác tối đa nguồn năng lượng sinh học huyền ảo và tinh tế trên và điều khiển được nó trong cơ thể mình thì nó mới phát huy tác dụng.
    Qua nghiên cứu, các nhà khoa học nhận thấy một quy luật khá thú vị, đó là những người có khả năng thông tin đặc biệt, phần xương trên chóp mỏng đến mức chỉ còn như một lớp da, tương tự như con mắt của rắn, thằn lằn và một số loài bò sát. Phải chăng, spiphysis có liên quan đến thị giác và những thông tin đặc biệt của con người?
    Trở lại với câu chuyện về người phụ nữ tên A có thể nhìn thấy bằng ""con mắt thứ ba". So sánh với những lý giải của các nhà khoa học trên thế giới thì "con mắt thứ ba" của chị đặc biệt hơn, khó lý giải cụ thể hơn rất nhiều.
    "Con mắt thứ ba" của chị có lúc ở trán, có lúc ở mũi, có lúc lại ở hai bên thái dương và hoàn toàn chịu điều khiển bằng tinh thần của chị. Vậy biết giải thích hiện tượng kỳ lạ này bằng cách nào?
    Nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải cho biết, bộ não của con người là một siêu máy tính, mà hiện giờ chúng ta mới chỉ biết được một phần chức năng của nó.
    Theo Bách khoa toàn thư Anh năm 2002, bộ não con người có từ 100 đến 200 tỉ neron thần kinh, nhưng chúng ta mới chỉ sử dụng một phần rất nhỏ trong nhiều tỉ noron thần kinh đó. Còn nhiều trung tâm khác trong não người mà chúng ta chưa khai mở được.
    Để khai mở được những trung tâm này, từ hàng ngàn năm trước, các thuật sĩ, các nhà yoga, chủ yếu là phương pháp prana yoga, người ta có thể khai mở được những trung tâm đó và có thể còn rất nhiều giác quan mới sẽ được phát hiện chứ không phải chỉ có 5 giác quan thông thường.
    Muốn làm được điều đó, đòi hỏi phải có chương trình tập luyện riêng và đặc biệt là tính kiên nhẫn. Có những trường hợp chỉ tập luyện một thời gian đã có thể khai mở được những khả năng siêu thường, nhưng cũng có những người phải tập trung rất lâu mới có thể đạt được vài khả năng đặc biệt.
    Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải thì chị A có thể nhìn bằng con mắt thứ ba là do chị đã mở được luân 66. Tuy nhiên, cũng như rất nhiều người có khả năng đặc biệt khác ở nước ta, mặc dù không phải do luyện tập yoga mà có được, song cũng có thể do những tác nhân bên ngoài kích động vào vỏ não đã vô tình mở ra được những trung tâm vốn đã bị đóng từ ngàn xưa.
    Theo nhà yoga số 1 Việt Nam Nguyễn Thế Thường, đối với những người luyện yoga đến mức thượng thừa thì chuyện nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong vũ trụ không có gì lạ, chứ đừng nói đến chuyện chỉ là đọc chữ khi nhắm mắt.
    Một số nhà yago Ấn Độ, Tây Tạng giam mình trong hang động, tu luyện suốt cuộc đời đã có thể làm chủ được bản thân, khai mở được những bí huyệt, huy động được những tiềm năng sâu ẩn trong cơ thể mình, nắm được chìa khóa tác động đến những tầng bậc sâu kín của "cái tôi đích thực", đạt được những khả năng siêu phàm bí ẩn, tới được cảnh giới tối cao làm biểu hiện "bản tính chân như", hợp nhất cá thể cùng vũ trụ...
    Khi các nhà yoga hòa hợp được với vũ trụ thì quyền năng của họ là không thể lường hết được. Ý thức con người như một tảng băng, phần ta nhận ra chỉ là phần nổi, còn tiềm thức là phần chìm.
    Yoga có những phương pháp khai thác được tiềm năng còn chìm trong mỗi con người. Do vậy, yoga có thể làm sáng tỏ những bí ẩn của con người trong vũ trụ. Đối với chị A, tuy không luyện tập yoga, song nhờ cơ duyên đặc biệt đã khai mở được những bí huyệt trong bộ não.
    Tuy nhiên, theo ông Trường, nếu chị A không tiếp tục có sự luyện tập đúng bài bản, có sự hướng dẫn của những chuyên gia về yoga hoặc thiền tông thì đến một độ tuổi nào đó, khả năng này sẽ dần biến mất và đó sẽ là một điều đáng tiếc đối với các nhà nghiên cứu về tiềm năng con người.
    Nhà nghiên cứu Tuệ Đức, người đã bỏ công sức làm các thí nghiệm về chị A trong suốt 4 năm trời qua thì khẳng định rằng, những người luyện thiền cũng có thể khai mở được những khả năng nhìn không bằng mắt.
    Hiện tại ông cũng đang nghiên cứu một số trường hợp nhìn bằng "con mắt" ở trán của một số thiền sư, song ông không cung cấp địa chỉ vì đối với những người luyện thiền họ cần có sự yên tĩnh, tập trung trong luyện tập.
    Tuy nhiên, kể cả những thiền sư lỗi lạc nhất cũng chưa luyện được đến mức nhìn vật rõ ràng như chị A, đặc biệt lại có thể nhìn bằng cả trán, mũi và hai thái dương. Ông Tuệ Đức chưa công bố lời giải thích cụ thể, song ông đã liên hệ hiện tượng nhìn bằng ""con mắt thứ ba" của chị A có những có chế đặc biệt giống với rất nhiều loài bò sát như các nhà khoa học trên thế giới đã nhận định.
    Tuy nhiên, theo ông Đức, khả năng nhìn của một số động vật còn ghê gớm hơn nhiều. Chẳng hạn như một số loài cá, ngoài việc có thể cảm thụ ánh sáng bằng da, nó còn phân tích nhanh chóng màu nước để thay đổi màu da cho lẫn với màu nước nhằm che mắt kẻ thù.
    "Con mắt thứ ba" của chị A là tuyến epiphysis trong não như các nhà khoa học trên thế giới phân tích hay do những điểm trên da của chị A có những cấu tạo đặc biệt còn phải tiếp tục nghiên cứu bằng cuộc thí nghiệm và bằng khoa học hiện đại.
    Ông Đức cũng khẳng định rằng, việc "nhìn" bằng trán, mũi, thái dương của chị A hoàn toàn không có tính chất ma quái và khoa học sẽ giải thích được trong thời gian tới.
    Theo các nhà khoa học, ở Hội Người mù Hà Nội cũng có một số trường hợp khiếm thị đã khai mở được "con mắt thứ ba" do tập thiền công phu. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải đã gặp chị Tú, người bị hỏng hoàn toàn hai mắt nhà ở Láng Hạ (Hà Nội). Theo chị Tú, khi ngồi thiền, chị đã nhiều lần thấy được hình ảnh trên ti vi bằng "con mắt" đặc biệt ở vùng trán.
    Chị Tú bảo, đã vài lần "nhìn" thấy ông Hải trên chương trình "Những chuyện lạ Việt Nam" nên khi ông bước vào nhà là chị nhận ra ngay. Tuy nhiên, việc "nhìn" bằng "con mắt thứ ba" của chị Tú là rất hãn hữu và mờ nhạt. Khả năng này chỉ chợt đến rồi chợt biến mất.
    Việc chị Tú có chút khả năng đặc biệt là do rất chăm chỉ ngồi thiền trong 4 năm qua. Hiện một ông thầy dậy thiền đang tập luyện cho những người khiếm thị ở Hội Người mù Hà Nội như chị Tú để khai mở tiềm năng bí ẩn của "con mắt thứ ba".
    Nhiều tài liệu cổ khẳng định khả năng đặc biệt này có thể được đánh thức nhờ tập luyện thiền công phu hoặc yoga và hiệu quả cũng đã có, như vậy, một tia hy vọng mới dù rất ít ở đã mở ra cho những người khiếm thị.

    Việt Báo (Theo_Thanh_Nien)
    [/FONT]


     

  16. Những chuyện kỳ bí chưa có lời giải đáp P2




    [FONT=&quot]Bí ẩn về những ngọn đèn vĩnh cửu[/FONT][FONT=&quot]

    Đèn cháy hết bấc và hết dầu thì phải tắt, ấy vậy mà vẫn có những ngọn đèn rực sáng qua hàng thiên niên kỷ với cả “dầu” lẫn bấc còn nguyên. Phải chăng, người xưa đã tìm ra kỹ thuật cháy trong chân không hay có thể duy trì sự cháy mà không cần ôxy.
    Nhà thơ trào phúng Hy Lạp Lucian (120-180) là người thích chu du. Một lần, khi đặt chân đến Syrie và thăm thú khu vực Heirapolis, ông nhận thấy một pho tượng rất lớn đặt giữa một ngôi đền. Trên trán pho tượng là một viên ngọc sáng rực, soi rõ cả khu vực vào ban đêm. Trên bàn tay phải là một ngọn đèn vĩnh cửu. Theo lời kể của dân địa phương thì “không ai biết ngọn đèn ấy cháy từ bao giờ và bao giờ tắt”. Hoàng đế Numa Pompilius (La Mã) cũng có một ngọn đèn vĩnh cửu và không hề tiết lộ tại sao nó cứ cháy mãi.
    Từ thế kỷ thứ nhất, triết gia La Mã Pliny đã cho rằng ngọn đèn vĩnh cửu phải được thắp bằng một loại dầu đặc biệt và có một sợi bấc cũng hết sức khác thường. Lời kết luận mơ hồ này được các nhà khoa học ngày nay bổ sung như sau: đó là một loại dầu cực kỳ tinh khiết (không hề có tạp chất), còn bấc có lẽ được làm từ amiante. Tất nhiên, để được gọi là ngọn đèn vĩnh cửu thì nó phải phát sáng ít nhất là vài chục năm mà không cần châm dầu, thay bấc.
    Thế kỷ thứ hai, nhà nghiên cứu Pausanius đã mô tả khá chi tiết một ngọn đèn vĩnh cửu trong tác phẩm Atlicus. Sự trùng hợp nằm ở chỗ, có khoảng vài trăm tư liệu khác cũng nói về cây đèn này. Nó nằm trong ngôi đền Minerve Polius ở Athen (Hy Lạp), do một người có tên là Callimadun sáng chế. Nhiều tác phẩm cổ xưa của Hy Lạp đôi khi cũng nhắc đến nhân vật này: “…Một người tài hoa, biết chế tạo những dụng cụ hết sức kỳ lạ, đặc biệt là những ngọn đèn vĩnh cửu. Ông ta có loại dầu đặc biệt, cho phép những ngọn đèn này cháy mãi”. Đền thờ thần Apollon Carneus và đền Aberdain đều có một bàn thờ, trên đó có ngọn đèn vĩnh cửu.
    Nhưng cháy mãi là một chuyện, còn cháy trong gió mưa lại là bí ẩn lớn hơn nhiều.
    Saint Augustin (354-430) đã mô tả về một ngọn đèn vĩnh cửu trong ngôi đền Isis (Ai Cập). Điều khó hiểu nhất là nó nằm ở phần không có mái che, bất chấp gió mưa. Tương tự như thế, ngọn đèn ở Edessa (Syrie) đã cháy suốt 500 năm trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
    Năm 1300, lý thuyết “dầu đặc biệt” được soi rõ phần nào, khi nhà nghiên cứu Marcus Grecus viết trong tác phẩm Liber Ignum (Sách lửa) rằng một số ngọn đèn vĩnh cửu có dùng nhiên liệu đặc biệt. Đó không phải là dầu mà chỉ là một loại bột mịn được tạo ra từ những “con sâu phát sáng”, nhưng là loại sâu gì thì Marcus không biết và bí ẩn mãi mãi bị chôn vùi. Marcus chỉ nói rằng “ta đã quan sát sợi bấc, nó dài bằng cánh tay ta. Rất lâu sau đó, ta quay lại và thấy chiều dài của nó vẫn thế, chẳng có ai thay bấc mới hay trút thêm bột”.
    Năm 1401, trong mộ phần Pallas (con trai vua Evandra - La Mã), người ta tìm được một ngọn đèn vĩnh cửu và cho rằng nó đã cháy được 2.600 năm. Để dập tắt nó, theo các bậc cao niên, chỉ có cách đập vỡ tất cả hoặc trút ngược “dầu” của nó.
    Năm 1450, một nông dân ở Padoue (Italy), trong lúc cày xới cánh đồng của mình đã tìm được một cái bình bằng đất nung, kế đó là hai bình nhỏ bằng kim loại, một bằng vàng và một bằng bạc. Trong hai hũ này là một loại chất nhờn kỳ lạ, nửa như dầu nửa như mật ong. Bên trong cái bình bằng đất nung là một cái bình đất nung khác đựng một ngọn đèn vĩnh cửu vẫn đang cháy. Bị chôn dưới đất (không biết từ bao giờ) và cháy trong điều kiện ít ôxy như vậy, đó quả là một bí ẩn.
    Năm 1610, nhà nghiên cứu Ludovicius Vives khẳng định ông đã từng nhìn thấy một ngọn đèn vĩnh cửu (cháy qua 1.500 năm) và bị đám thợ gốm đập vỡ. Nhà sử học Cambden (Anh) vào năm 1586 cũng nhắc về một ngọn đèn vĩnh cửu tại phần mộ của Constantius Chlorus, cha của Costantin Đại Đế. Chlorus qua đời năm 306 ở Anh và từ đó, có một ngọn đèn vĩnh cửu được đặt trong phần mộ của ông. Vua Henri 8 vào năm 1539 đã giải tán rất nhiều nhà thờ và tu viện ở Anh, từ đó, có rất nhiều ngọn đèn vĩnh cửu được thắp lên và không bao giờ tắt, trừ khi bị đập vỡ. Ở Tây Ban Nha, cũng có một ngọn đèn vĩnh cửu được tìm thấy tại Cordone vào năm 1846.
    Các phát hiện nói trên chứng tỏ những ngọn đèn kỳ bí này không phải là sản phẩm của riêng Hy Lạp, Ai Cập hay La Mã. Linh mục Evariste - Regis Huc (1813-1860) là người rất thích du ngoạn ở châu Á và đã tìm được một ngọn đèn bất tử như vậy ở Tây Tạng vào năm 1853.
    Nhưng tại sao thông tin về loại đèn bí ẩn này lại ít ỏi đến vậy? Một số người cho rằng chúng chỉ là sản phẩm của óc tưởng tượng, vì người xưa không thể nào tạo ra những kỳ tích như thế. Tuy nhiên, một số nhà sử học lại lập luận rằng, “vậy bằng cách nào, người ta có thể tạo ra kim tự tháp khi mà cần cẩu, xe nâng hay xe tải chưa xuất hiện?”. Nhà hóa học Brand (Hambourg - Đức) vào năm 1669 nhận định những ngọn đèn vĩnh cửu này cháy lâu như thế là do phốt pho. Người khác lại cho rằng chúng cháy lâu là do không cần không khí, ngược lại, nếu tiếp xúc với không khí chúng sẽ tắt. Nếu quả ý kiến này là đúng, thì lẽ nào người xưa đã biết kỹ thuật hút chân không? Vả chăng, lửa cháy không cần ôxy là chuyện hết sức khó hiểu.
    Những cuộc tranh luận này buộc người ta quay về một bí ẩn khác: kỹ thuật chiếu sáng của người Ai Cập. Trên các đường phố Ai Cập cổ, người ta dùng đèn dầu và đuốc. Nhiên liệu là những cặn bã có nhiều chất béo và chất nhờn. Nhưng ở những hầm mộ được đào sâu vào núi đến 100 mét thì các nô lệ và nhà điêu khắc đã làm việc với ánh sáng gì? Trong các hầm mộ này, không hề có dấu vết của ngọn đèn hay ngọn đuốc nào. Vậy phải chăng người Ai Cập đã dùng các loại gương để phản chiếu ánh sáng mặt trời? Nhưng các loại “gương” thời ấy chỉ bằng bạc, và chỉ có thể phản chiếu 40% ánh sáng, nghĩa là ở độ sâu vài chục mét, bóng tối sẽ lại bao phủ hoàn toàn.
    Và rồi một phát hiện chấn động đã làm thế giới khảo cổ bàng hoàng: tại đền Hator ở Denderah (được xây dựng cách đây hơn 4.200 năm) có một gian phòng nằm rất sâu. Trong đó có những bức vẽ cho thấy người Ai Cập “đã sử dụng những dụng cụ kỳ lạ trông như bóng đèn điện ngày nay!”. Phải chăng đây chính là kỹ thuật ánh sáng bí ẩn. Nhà khoa học Erich Von Daniken (Đức) đang cố công tái tạo những bóng đèn to tướng này trong phòng thí nghiệm, nhưng vẫn chưa tìm được cốt lõi của vấn đề. Các nhà Ai Cập học cũng chào thua, vì rõ ràng thời ấy chưa có điện. Vậy, những ngọn đèn ấy được thắp sáng bằng gì? Giải được bài toán này, chúng ta cũng sẽ có câu trả lời cho bí ẩn về những ngọn đèn vĩnh cửu.
    Thế Giới Mới (theo Lycos, Marcogce)



    [/FONT][FONT=&quot].Bí ẩn về bức họa 500 triệu năm trước
    [/FONT][FONT=&quot]
    Trong một hang động gần như không có dấu chân người ở miền Bắc Tây Ban Nha, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra những tác phẩm điêu khắc và hội họa của thời kỳ đồ đá cũ cách ngày nay khoảng 26000 - 10000 năm. Họ còn khai quật được dưới lòng đất của khu vực này những bộ hài cốt dã thú giống hệt như trong bức bích họa. Theo khảo chứng của các nhà sinh vật học, những loài động vật này đại đa số là các loài cầm thú quý hiếm, kỳ lạ ở thời đại xa xưa, có loài ở Châu Âu đã tuyệt chủng.
    Những bức bích họa được vẽ trên đỉnh và bốn vách động này rất giống với các bức bích họa ở giáo đường. Vì vậy, nơi đây còn được coi là "Giáo đường Sistin của nghệ thuật tiền sử". Một số tác phẩm không chỉ miêu tả chân thực mà còn ẩn chứa sự nhạy cảm và tâm hồn của những nghệ thuật gia có trình độ uyên thâm. Một hang động ở Altamila có đỉnh dài 20m, rộng 10m và vẽ 16 con vật sống động như thật, có con đang lấy móng vuốt cào xuống mặt đất, có con đang gầm thét giận dữ, có con đang nằm, có con bị giáo dài đâm trọng thương. Tất cả đều biểu thị tâm trạng đau khổ của sự chết chóc. Xung quanh những con vật đang gầm thét, các họa sỹ thời ấy còn vẽ một con ngựa, một đàn lợn đực hoang dã, một con sói và một con hươu cái. Ở đây vẽ rất nhiều loài động vật mà ngày nay có một số loài còn tồn tại và rất quen thuộc như ngựa, trâu rừng, lợn rừng, hươu sao... nhưng có một số loài chúng ta chưa bao giờ gặp. Kỹ thuật hội họa của các họa sỹ về cơ bản rất tinh xảo, cho đến nay trình độ hội họa ấy vẫn đạt ở trình độ nghệ thuật khá cao. Điều khiến người ta không thể lý giải được là quần áo, trang sức của nhân vật được vẽ trong bức bích họa rất giống với người hiện đại.
    Năm 1912, trên ngọn Núi Brandepierg ở Namibia - miền Tây Nam Châu Phi, trong một bức bích họa miêu tả động vật nguyên thủy có người đã phát hiện ra bức họa đá nguyên thủy miêu tả một quý bà da trắng. Quý bà này mặc áo sơ mi ngắn tay và quần đi ngựa bó sát mông; đeo găng tay và đi giày vải, buộc dây nịt tất. Đứng bên cạnh quý bà là một người đeo mặt nạ và mũ sắt rất phức tạp. Nhân vật mặc áo sơ mi hoa cà trong bức họa tiền sử Lusajac được các nhà khảo cổ xác định là sản phẩm chính hiệu của Pháp. Còn nhân vật trong bức họa đá ở vùng Arnhem (Australia) thậm chí còn mặc đồ vũ trụ có khóa kéo, đầu đội mũ sắt có các tua giống như dây ăng ten và lỗ nhỏ để quan sát. Bức họa đá trong thủ phủ Phang Nga ở miền Nam Thái Lan còn miêu tả một người máy đầu đội mũ sắt, mặc quần áo, mình mang thiết bị lọc khí thở, bụng mang đèn pin, phải chăng đó là chỉ thị linh thiêng mà người đầu tiên của nhân loại lệnh cho con người thực hiện chế tạo những bộ y phục như vậy? Hay có một lực lượng thần kỳ nào giúp tổ tiên chúng ta vượt qua cả không gian và thời gian? Chẳng lẽ ở thời kỳ hoang dại, con người còn ăn lông ở lỗ mà đã giàu trí tưởng tượng có thể chế tạo ra trang phục cho hậu thế cách hàng nghìn hàng, vạn năm như vậy sao?
    Năm 1998, một học giả đã căn cứ vào những nghiên cứu của các nhà khảo cổ học và nhân chủng học các định, đến nay nhân loại đã hình thành hơn 4 triệu năm, còn Trái đất được hình thành từ 4,5 tỷ năm trước đó. Cách đây khoảng 2 tỷ năm, trên Trái đất đã xuất hiện một loài sinh vật có nền văn minh cực kỳ phát triển. Do Trái đất xảy ra đại họa và sự biến chuyển của tự nhiên qua hàng trăm triệu năm đã biến nền văn minh thành di tích. cũng có người suy luận: Trái đất hình thành từ 500 triệu, 350 triệu, 230 triệu, 100 triệu và cuối cùng là 65 triệu năm trước, trải qua một thảm họa mang tính hủy diệt khiến nền văn minh thời kỳ đó đã bị hủy diệt hoàn toàn. Trong mỗi nền văn minh đều xuất hiện sự ngắt quãng. Nền văn minh ngày nay ngắt quãng với nền văn minh trước đó khoảng từ 12000 đến năm 10000 trước Công nguyên. Nếu như trên Trái đất từng tồn tại mấy cấp độ văn minh như vậy thì kỹ thuật và phương pháp khảo cổ hiện nay vẫn chưa thể xác định được. Do vậy, khó có thể chấm dứt cuộc luận chiến kéo dài giữa các nhà nghiên cứu.
    Tầng tầng lớp lớp các di tích tiền sử khiến chúng ta không tài nào lý giải được hướng phát triển dần từ cấp độ thấp đến cấp độ cao của nền văn minh nhân loại. Quan điểm truyền thống về sự tiến hóa và phát triển đi lên của nền văn minh nhân loại cũng chính là một sự thách thức dành cho các nhà khoa học. Chúng ta hy vọng, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, phương pháp và kỹ thuật của ngành khảo cổ cũng sẽ phát triển mang tính đột phá để giới khảo cổ có thể khám phá và làm sáng tỏ những bí ẩn cần giải đáp.
    [/FONT][FONT=&quot].Quả trứng khổng lồ trong vũ trụ từ đâu mà có[/FONT][FONT=&quot]?

    [/FONT]
    [FONT=&quot]"Vũ trụ ngày mai", tạp chí khoa học Công hòa liên bang Đức đưa tin, một phi thuyền vũ trụ Liên Xô đi thăm dò hệ Mặt Trời đã gặp một quả trứng khổng lồ màu xanh xám trong Vũ Trụ, lúc đó hai bên chỉ cách nhau mấy dặm Anh.
    Smith, nhà thiên văn học Đức đã nói với tạp chí đó: "Tôi là cố vấn phân tích tư liệu Vũ Trụ của Liên Xô, có dịp được trông thấy hàng trăm bức ảnh có độ phân giải cao liên quan đến quả trứng khổng lồ. Nó dài tới 700 dặm Anh, bề mặt nhẵn bóng, hinh quả trám, rất giống một quả trứng chim khổng lồ. Đương nhiên nó có thể là một sao băng hoặc một thứ rác thải vũ trụ, nhưng cũng không loại trừ khả năng nó là vật sống, có sinh mệnh".
    Tháng 3 năm sau, một tờ báo Liên Xô cũng đăng tải tin đó, nói rằng đây là lần "tiếp xúc loại thứ ba" trong Vũ Trụ, xảy ra vào cuối năm 1986, nhưng cũng không nói là quả trứng khổng lồ ở vùng nào trong Vũ Trụ.
    Pancơkhamốp, nhà khoa học Vũ Trụ Liên Xô nói rằng, đây có thể là lần phát hiện quan trọng nhất kể từ năm 1930 khi phát hiện ra sao Diêm Vương.
    Ông nói, nếu như vật thể bí ẩn đó mà là một quả trứng thì chẳng phải có nghĩa là ở ngoài Vũ Trụ cũng có sinh vật sao, mà loài sinh vật đó còn đang sống ở ngoài Vũ Trụ.
    Ông nói: "Quả trứng mà to đến như vậy, nếu như nở ra mà trưởng thành lên thì chẳng hóa ra nó phải to bằng Mặt Trăng. Và nếu như như cái sinh vật đó mà đến quấy phá Trái Đất, thì nền văn minh của loài người chắc sẽ bị hủy diệt trong một sớm một chiều, Trái Đất cũng sẽ phải rời quỹ đạo của nó, và đến ngày tận thế".
    Ông tỏ ý, Liên Xô sẽ cố gắng phân tích những bức ảnh do phi thuyền vũ trụ gửi về, cho đến bao giờ có thể xác định rõ tính chất của quả trứng khổng lồ đó mới thôi.[/FONT]
    [FONT=&quot].Bí ẩn dòng suối thánh Lourdes[/FONT][FONT=&quot]

    Ivơ Bác Đô - một nhà bác học có tên tuổi, một bậc thầy về tâm thần học đã nghiên cứu, điều tra và viết ra cuốn "Phép màu nhiệm của suối thánh Lourdes"
    Lourdes là một dòng suối ở miền Nam nước Pháp. Đã nhiều năm, chẳng mấy ai biết tới nguồn nước nhỏ này. Nhưng rồi bỗng nhiên suối trở thành nồi tiếng không phải chỉ ở nước Pháp mà gần như khắp thế giới. Tại sao suối Lourdes lại trở lên nổi tiếng?
    Tháng 3 năm 1858, một cô gái Pháp tên Margrette bỗng thấy Đức Mẹ nhập vào mình và phán truyền: "Ta ban cho các con nguồn nước suối màu nhiệm này để làm dịu bớt phần nào nỗi khổ đau trên thế giới".
    Margrette như được một sự chỉ dẫn bí ấn, một mình đi vào hang sâu trong núi. Cô lật tảng đá phủ rêu thì thấy có một nguồn nước bốc khói tuôn ra dào đạt. Người đầu tiên chứng kiến sự màu nhiệm của nguồn nước là cha xứ thuộc địa phân Lourdes. Được nghe kể lại lời phán truyền của Đức Mẹ, cha xứ coi suối là một thứ nước linh thiêng. Ông lấy nước đó nhỏ và mắt anh mù Sactơlê. Lạ thay, ngay lúc đó đôi mắt anh sáng trở lại và đọc được dòng chữ viết từ mảnh giấy của cha xứ đang cầm ở tay.
    Tin đó lập tức lan đi rất nhanh, một cô gái Charlotte bị liệt từ lâu không đứng lên được liền được đưa đến suối Lourdes, cô thấy khỏe ra và đi lại bình thường sau khi uống nước suối Lourdes. Một cụ già bị hen mãn tính, mới uống có hai lần thuốc nước suối đã dứt hẳn cơ hen. Ngoài những người có bệnh tật tìm đến còn có rất nhiều nhà báo, nhà nghiên cứu, bác học cũng tới. Vùng Lourdes xa xôi vắng vẻ trước đây nay bỗng trở nên sầm uất, náo nhiệt vì người đến cầu xin khỏi bệnh, lấy tin tức, xác định khảo cứu...
    Theo Ivơ Bác Đô và các báo chí cho biết, hàng năm có từ 4-8 vạn người từ các miền của nước Pháp đổ đến Lourdes. Số người nước ngoài tới cũng không ít. Nhà bác học đã chứng kiến rất nhiều người được chữa khỏi bệnh. Bệnh trạng cả những người đến đây rất đa dạng: có người bệnh tim, người bệnh phổi, bệnh dạ dày, kinh niên,... đặc biệt có cả những người mù lòa, bại liệt, người bị bệnh "ma làm". Các phóng viên, nhà nghiên cứu đã mục kích, chụp ảnh, quy phim về các cảnh tượng đó.
    [/FONT][FONT=&quot].[/FONT][FONT=&quot]Tai họa lớn ở Bắc Kinh thời Nhà Minh[/FONT][FONT=&quot]
    [/FONT]
    [FONT=&quot]
    [/FONT]
    [FONT=&quot]Ngày 20 tháng 5 năm 1625 (mùng 6 tháng 5 năm Hy Tông Thiên Khởi thứ 6), tại cố đô Bắc Kinh triều Minh, vương cung xưởng thành Tây Nam (nay là cửa Tuyên Vũ), cả một vùng đã xảy ra tai biến với sự phá hoại nặng nề, đến nay người nghe chuyện còn cảm thấy kinh hãi, và thật khó hiểu.
    Buổi sáng hôm ấy, trời đang trong trẻo, bỗng có tiếng vang lên như tiếng thét. Từ hướng Đông Bắc chuyển dần tới phía Tây Nam kinh thành, trời long đất lở, tối đen như mực, muôn nhà đổ sụp. Rối như tơ vò, tựa như ngũ sắc, làn hơi khói tựa hình nấm linh chi bốc tận trời cao, mãi lâu mới tan. Phía Đông đến dãy phố lớn cửa Thuận Thành, phía Bắc đến phố Hình Bộ, dài đến ba bốn dặm, chu vi 13 dặm, hàng vạn nhà cửa, hơn hai vạn người đều biến thành tro bụi, gạch đá, ngói vụn từ trên trời đổ xuống. Những mảnh xác người từ đầu, vai, tai, mũi đến chân tay cũng được ném tới tấp từ trên trời xuống.
    Trên phố, các mảnh xác người chồng chất lên nhau, tanh hôi nồng nặc. Người chết thê thảm. Lừa, bò, chó ngựa, lợn gà cũng đều chết sạch. Trong Tử Kim Thành, hơn 2000 thầy thợ đang thi công, từ trên những giàn giáo cao ngất, bị chấn động ngã ào xuống tan xương nát thịt. Cấy cối bị bật lên cả gốc rễ bay tít tận xa. Trên đại lộ Phò Mã, một con sư tử đá nặng tới 2500 kg cũng bị bốc bay ra ngoài cửa Thuận Thành. Chuồng voi của hoàng gia ở phố Tượng Lai sụp đổ hoàn toàn, đàn voi giật mình kinh sợ xông hết ra ngoài chạy tán loạn.
    Nhiều nạn nhân chết trong tư thế kỳ quặc, trên phố Thừa Ân Tự, 8 người khênh kiệu chở một cô gái đang đi trên đường thì tai họa ập đến, chiếc kiệu bị đánh vỡ tan nằm giữa đường, cô gái trong kiệu và 8 người khênh kiệu thì biến đâu mất. Tại cổng chợ sau, một vị khách đến từ Thiệu Hưng đang nói chuyện với 6 người, bỗng bay mất đầu, thân thể và chân tay đổ vật ra đất, nhưng 6 người kia thì lại bình an vô sự.
    Một điều ai cũng lấy làm quái lạ là người chết, kẻ bị thương hay người bình yên vô sự, thì trong giây phút tai họa ập đến đều bị lột sạch quần áo, mình trần như nhộng. Ở phố Nguyễn Hồng Khuê một chiếc kiệu đang khêng một cô gái đi qua, tai họa ập đến, phần mái nóc kiệu bị phạt bay đi mất, cô gái trong đó bị lột sạch quần áo và mọi đồ trang sức, nhưng người thì hoàn toàn nguyên vẹn. Một người làm thị tòng cho nhà quan nào đó, lúc tai họa ập xuống chỉ thấy loáng một cái, từ quần áo giày mũ cho đến cả bít tất đều bị lột sạch, thật kinh ngạc trước sự kỳ lạ đó. Có một người bị đè gãy đùi, nhìn thấy xung quanh mình, đàn ông đàn bà đều trần như nhộng, không mảnh vải che thân. Có người lấy mảnh ngói che chỗ kín, có người dùng cái bó chân để che đậy, có người vớ được tẩm trải giường, mảnh váy rách để che... Mọi người nhìn nhau dở khóc dở cười, không có cách gì khác. Có một người thiếp yêu của một vị quan nọ bị vùi dưới đống gạch vụn, nghe thấy có người ở phía trên kêu: "Dưới này có ai thì bảo?" bèn kêu lên: "Cứu tôi với". Đến lúc vội vàng bới được cô ta lên, mới biết trên người cô ta không chút vải che thân. Vị văn thư bới cứu cô ta lên vội vàng cởi áo dài bọc kín cô ta lại, rồi để cô ta cưỡi lên con la mã về nhà mẹ.
    Quần áo của mọi người bị lột đưa đi đâu vậy? Sau tai họa, có người báo cáo, toàn bộ quần áo đều bay tới Tây Sơn, cách xa mấy chục dặm (1 dặm Trung Quốc ~ 0.5 km - ND), phần lớn đều măc trên ngọn cây. Người phụ trách Bộ Hộ (cơ quan trông coi việc dân chính dưới triều Minh) Trương Phương Khuê cử "Trưởng ban" (tức thi tòng) đến đó kiểm tra, quả nhiên đúng như vậy; tại giáo trường Xương Bình Châu ở Tây Sơn, áo quần chất đống. Đồ trang sức, tiền bạc, bát đĩa... chẳng thiếu thứ gì.
    Nhân dịp 360 năm tròn kể từ khi Bắc Kinh bị thảm họa năm 1986, Hội địa chất học Bắc Kinh và hơn 20 tổ chức đoàn thể, tổ chức hội thảo khoa học về nguyên nhân xảy ra tai họa khủng khiếp đó. Các học giả mỗi người một quan điểm không thể thống nhất. Chủ yếu có các quan điểm: Cho rằng do tĩnh điện khí quyển gây nên, hoặc do động đất làm cháy nổ kho thuốc súng gây ra hoặc do tác dụng cưỡng bức nổ của nhiệt hạch Trái đất... Những quan điểm đó cũng mới mẻ và kỳ lạ, nhưng khó mà giải thích được, trong khi tai họa đổ xuống thì nhiệt độ lại thấp và không có lửa. Nhất là hiện tượng lột sạch quần áo rất lạ lùng.
    Hoàng đế lúc bấy giờ là Thiên Khởi Chu Do Hiệu cho rằng, tai họa đó là do nguyên nhân ông ta chấp chính không tốt, và hạ "tội kỷ chiếu" để khiển trách bản thân. Nhưng xem xét kỹ lại thì thấy, tai họa khủng khiếp đó chỉ có thể coi là một hiện tượng bí ẩn chưa từng có.
    [/FONT][FONT=&quot]
    ( Theo diendan.dangkhoa.vn)

    [/FONT]
    [FONT=&quot].Mối giao cảm kỳ lạ ở những cặp song sinh
    [/FONT]
    [FONT=&quot]Những cặp sinh đôi giống nhau như tạc không những chia sẻ sự tương đồng về gien, mà họ còn có thể cảm nhận được nỗi đau lẫn niềm hạnh phúc của nhau. Sau đây là một vài trường hợp như vậy trong số 45.000 cặp song sinh ở Úc.
    Tony Mooy và Adelie Hurley, 87 tuổi
    Mỗi khi nhận được cuốn băng ghi âm trò chuyện của Adelie Hurley gửi cho mình qua bưu điện, bà Tony Mooy đều phải ngồi phịch xuống ghế để trấn tĩnh cơn sốc, vì bà cũng vừa mới gửi cho bà Hurley một cuốn băng với nội dung tương tự. Tại Úc, họ được mệnh danh là “cặp song sinh khủng khiếp”, vì tất cả những hành động của họ hầu như giống nhau, dù họ ở cách xa nhau.
    Ở tuổi 80, họ cùng có ý định đi đến Nam Cực để tìm lại dấu vết hành trình của cha mình là Frank Hurley, một chuyên gia điện ảnh và nhiếp ảnh nổi tiếng. Bà Tony sống ở ngoại ô Sydney, là nhân viên đánh máy cho hải quân, rồi sau đó làm y tá cho một trung tâm phục hồi sức khỏe. Trong khi đó, bà Adelie là nhiếp ảnh gia đi chu du khắp thế giới, đến tận cả Ấn Độ và Nga. Tuy nhiên, vào những năm sau này, sau khi chồng của Tony qua đời và cuộc hôn nhân của Adelie thất bại, họ đã quyết định dọn nhà đến cảng Coffs, ở hai căn nhà đối diện nhau.
    Từ đó trở đi, họ càng phát hiện ra những điểm tương đồng đến ngạc nhiên. Cả hai đều yêu nghệ thuật - Tony vẽ tranh còn Adelie thì thêu thảm. Adelie phải phẫu thuật tim tạo 3 đường chảy thông máu, trong khi Tony cũng phải phẫu thuật tim, nhưng chỉ cần tạo 2 đường chảy. Adelie phải thay khớp nhân tạo cho chân trái, còn Tony thì thay khớp nhân tạo cho chân phải. Thông thường, Adelie bị trước, rồi đến Tony bị sau. Kỳ lạ không kém là họ còn có những quan điểm giống nhau về nhiều điều, cùng bàn về một đề tài và biết người kia đang nghĩ gì.
    Barbara Corbett và Beryl Francis, 62 tuổi
    Khuôn mặt tái nhợt, Barbara Corbett cong oằn người bởi từng đợt đau chuyển dạ dồn dập. Nhưng khi cô điện thoại cầu cứu, thì mẹ của cô đang bận chăm sóc một cô con gái song sinh khác là Barbara Francis cũng đang chuyển dạ ở bệnh viện. Điều hết sức lạ lùng là cô Francis không hề cảm thấy mệt mỏi đau đớn gì cả, mà người phải chịu đựng điều đó là cô Corbett.
    Thế nhưng, đến khi cô Corbett sinh con lần hai - rất nhẹ nhàng - thì cô Francis lại phải chịu đựng cơn đau không thể tả. Cặp chị em song sinh này sống gần nhà nhau ở Brisbane. Cả hai đều góa chồng và đều đã tái hôn. Họ còn phải cảnh báo cho nhau biết khi một trong hai người phải nhập viện. Bởi vì khi bác sĩ đưa con dao hay kim khâu vào da thịt người này là người kia sẽ đột ngột bị ngất xỉu. Tốt nhất là họ cần phải được chuẩn bị tinh thần từ trước, để tránh điều nguy hiểm đáng tiếc.
    Jessica và Natalie Anthony, 26 tuổi
    “Natalie! Cứu! Cứu!”, cô bé Jessica Anthony 7 tuổi đã nắm chặt cánh tay duỗi thẳng của mình ra và hét lên như điên dại, không ai có thể ngăn cản lại được. Nhưng chỉ khi mẹ cô bé về đến nhà thì mọi người mới hiểu lý do tại sao. Thì ra, sáng hôm ấy, người chị em song sinh của Jessica đã trèo lên thanh chấn song chuồng khỉ ở trường và té xuống đất, bị gãy tay.
    Vào bệnh viện, Jessica được các bác sĩ nắn xương lại cho đúng vị trí. Và đấy cũng chính là lúc mà Jessica hét lên. Giờ đây, dù cặp chị em song sinh với mái tóc nâu xoăn tít này đã 26 tuổi, nhưng họ vẫn cảm nhận được những xúc cảm của nhau và không chịu rời xa nhau. Những ngày này, họ cùng làm việc tại một khách sạn ở Sydney.
    Một cô đã từ chối lời đề nghị thăng tiến, chỉ vì không chịu xa rời cô kia. Mới đây, khi Natalie chia tay bạn trai, cả hai cô đã ngồi bên nhau và buồn khóc trong rất nhiều ngày. Thật là khó khăn khi một trong hai cô có việc đi xa mà không có người kia. Cả hai đều mơ ước sẽ lấy chồng là một cặp song sinh và họ sẽ ở bên cạnh nhau.
    Bernie và Pamela McMahon nee Craig, Brian và Pauline McMahon nee Craig
    Năm 1961, ở tuổi 20, cặp nam song sinh Bernie và Brian McMahon đến thành phố Sydney ở và được giới thiệu làm quen với cặp song sinh nữ Pamela và Pauline Craige. Sự hấp dẫn tức thì và 5 năm sau, họ kết hôn với nhau - cậu em Bernie lấy cô chị Pamela và ngược lại. Từ đó đến nay, hai gia đình này sống trong hai căn nhà đối diện và không rời xa nhau: cùng làm việc chung hãng, cùng ăn cơm trưa, cùng chia sẻ các sở thích (xem và bình luận quyền Anh, sưu tầm xe hơi cổ...) và cùng nhau về hưu.

    Theo báo An Ninh Thế Giới
    [/FONT]







     
  17. Những chuyện kỳ bí chưa có lời giải đáp P3

    [FONT=&quot].Người thích ăn gương kính, kim loại...[/FONT][FONT=&quot]

    Bữa ăn xa xỉ nhất của "Ngài Ăn Tuốt” là một… chiếc máy bay, tuy nhiên tivi, xe đạp mới thực sự là những món khoái khẩu đạm bạc.
    Người đàn ông quốc tịch Pháp ấy tên thật là Michel Lotito, nhưng đa số mọi người vẫn gọi ông bằng cái tên Monsieur Mangetout - “Ngài ăn tuốt” bởi khả năng có thể nhét vào dạ dày bất kỳ đồ vật gì, ngay cả những thứ chẳng tí ti liên quan đến thực phẩm.

    “Thứ lớn nhất mà tôi từng đánh chén là chiếc máy bay Cessna 150- cũng chính nhờ sự kiện này mà tôi được ghi danh vào Kỷ lục Guiness. Đến giờ tính ra tôi ăn được 18 chiếc xe đạp, còn vô tuyến, xe đẩy hàng trong siêu thị thì không biết bao nhiêu mà kể”.


    “Ngài ăn tuốt” cũng không quên khoe cái lần nhấm nháp nguyên cả cái quan tài, tất nhiên là bên trong rỗng tuếch.


    Mangetout cho biết, mỗi lần thưởng thức những “món” khác người như thế, ông chỉ cần hơi tập trung một chút mà thôi. Cho vào miệng, nhai, nuốt, tiêu hoá và “thải” ra ngoài theo đúng chu trình ăn uống thông thường. Chỉ cần não phát tín hiệu đòi ăn là dạ dày mở cửa nghiền nát tất cả những gì trôi vào bụng.


    Khả năng kì diệu (và tốn kém) này hình thành khi Ngài Ăn Tuốt nhiễm “sở thích” ăn kính, kim loại, thậm chí cả hoá chất độc hại hồi lên 9 tuổi.


    Bác sĩ Bernard Morzol - người đã liên tục theo dõi trường hợp Mangetout trong suốt những năm qua cho biết: từ khi họ quen biết, ông chưa một lần thấy Mangetout bị xuất huyết, ngay cả khi các bức chụp :-@quang cho thấy trong dạ dày Ngài phàm ăn này vẫn còn nhiều mẩu dây xích và mấy miếng kính vỡ chưa tiêu hoá hết.



    Ngoài sở thích ăn kim loại ra, Ngài Ăn Tuốt cũng bình thường như bao người khác. Ông cũng hay bị bệnh vặt vãnh, nhưng những triệu chứng đó hoàn toàn không liên quan gì đến thói quen ăn uống kia.


    Vậy nên giải thích khả năng bất thường này như thế nào?


    Các bác sĩ phát hiện ra: thành dạ dày của Mangetout dày gấp đôi dạ dày người thường, và đây chính là tác nhân cho phép ông làm nên điều kỳ diệu. Theo phán đoán, có lẽ đặc điểm khác người này đã hình thành ngay từ khi Ngài Ăn Tuốt còn nằm trong bụng mẹ.




    [/FONT][FONT=&quot]Galina Karpova, người có khả năng đặc biệt[/FONT][FONT=&quot]

    Bà Karpova không nhận thức về căn nguyên khả năng phi thường của mình như lắng nghe chuyện của động vật, nói chuyện với người cõi âm... và bà tin rằng ý nghĩ con người là vô hạn.
    Galina Karpova tuyên bố bà nghe được cá heo "nói chuyện". Bà đã khám phá những con cá heo cái đang mang thai tụ tập dưới đáy mạch nước phun ở biển Barents. Karpova cũng giao tiếp được với lũ kiến. Có một dạo, Karpova đụng đầu con chó hung dữ trong một thung lũng tối đen. Bà đã xoa dịu được nó và thoát đi an toàn.
    Lắng nghe câu chuyện của một con chó nhà
    Galina Karpova là một trong số ít người trên thế giới có khả năng “nói chuyện” với thú vật. Bà cũng có thể "giao tiếp" với người chết (?), đọc được ý nghĩ và xác định được những đồ vật bị mất ở khoảng xách rất xa. Với khả năng phi thường của Galina Karpova đã được Viện Khoa học tự nhiên Nga trao học vị Tiến sĩ khoa học sau khi bà bảo vệ thành công luận án của mình.
    Cách đây một thời gian, một nhóm phóng viên truyền hình Nhật Bản đã tìm đến nhà Karpova và đề nghị bà biểu diễn tài năng giao tiếp với thú vật tại Nhà hát thú vật Durov ở Moskva. Karpova tỏ vẻ hoài nghi trước những con vật nhốt trong nhà hát. Bởi vì bà biết rất rõ rằng những con vật được huấn luyện để phản ứng với 1 hay 2 mệnh lệnh như thế này thường từ lâu trở nên không quen với sự trò chuyện “vô âm” bằng trí óc. Cuối cùng, Karpova dừng lại gần một chuồng nhốt 3 con chó ghẻ lở không được ai nhòm ngó đến. Chúng đã được cho "về hưu" do tuổi quá già. Karpova đặc biệt quan tâm đến một con trong số đó có vảy cá ở mắt và đã 14 tuổi.
    Nhóm phóng viên truyền hình Nhật tỏ vẻ thất vọng thấy rõ trước sự lựa chọn của Galina Karpova - nhằm vào con chó tệ hại nhất trong số hàng trăm con vật xuất sắc của nhà hát - nên đã lên tiếng yêu cầu bà đổi con thú khác để thí nghiệm. Nhưng Karpova vẫn không thay đổi sự lựa chọn của mình. Bà nói: “Đó là con vật muốn san sẻ nỗi khổ của nó với tôi”.
    Theo bà Karpova, "chuyện đời" của con chó diễn ra như thế này: nó từng được lên sân khấu biểu diễn bên cạnh huấn luyện viên của nó, rồi sau đó người này qua đời. Con chó suýt bị tống vào lò sát sinh nếu như người huấn luyện khác - người bạn tốt và người thầy của nó - không can thiệp. Con chó lặp lại nhiều lần tên của ân nhân cứu mạng nó cho Karpova nghe. Người huấn luyện này cũng ở độ tuổi 60 như Karpova và bây giờ đã về hưu và chỉ sống quanh quẩn trong nhà.
    Sau khi quay phim cuộc thí nghiệm tại Nhà hát Durov xong, nhóm phóng viên truyền hình Nhật sắp xếp cuộc phỏng vấn với người huấn luyện thứ hai của con chó. Họ gặp người huấn luyện về hưu và đưa ra vài câu hỏi kiểm chứng câu chuyện của con chó được Karpova giao tiếp bằng thần giao cách cảm. Nhóm người Nhật hết sức kinh ngạc khi nghe câu chuyện mà người huấn luyện về hưu kể lại khớp từng chi tiết với câu chuyện mà con chó đã “bộc bạch” với Karpova!
    Nói chuyện với Mendeleyev
    Galina Karpova tin rằng con người sẽ tiếp tục sống ở một thế giới khác sau khi quả tim ngừng đập. Theo Giáo sư Fedor Turenko, bà Karpova đã thực hiện được một số cuộc giao tiếp với người đã chết chẳng hạn như cha đẻ của bảng hệ thống tuần hoàn, nhà hóa học Nga lỗi lạc quá cố Dmitry Mendeleyev. Karpova hỏi ông ta vài câu mà tôi đã lập sẵn trước đó. Các câu hỏi được soạn đặc biệt để thu được bằng chứng chắc chắn nhất cho thấy những câu trả lời thật sự là của Mendeleyev “nói ra”!
    Trong những buổi giao tiếp đó, Karpova nói ra những thuật ngữ hóa học đúng là của Mendeleyev, song bà hoàn toàn không biết ý nghĩa của chúng là gì. Nhưng nghĩa của chúng thì quá rõ đối với tôi. Karpova nói ra được 4 định luật cơ bản trong khi “trò chuyện” với nhà hóa học thiên tài. Thông qua bà Karpova, Mendeleyev tiết lộ rằng, toàn bộ các chi tiết liên quan đến thông tin đều nằm trong các tác phẩm của ông được bảo tồn trong thư khố Viện Hàn lâm Khoa học Nga hơn một thế kỷ qua.
    Rõ ràng là đã không có ai quan tâm phân tích các tác phẩm này. Mendeleyev cũng đề cập đến một số ấn phẩm khoa học hiện nay. Thậm chí ông còn “nói” đến các trang viết đặc biệt. Tôi đã kiểm tra số ấn phẩm này, và nhận thấy tất cả đều phù hợp! Tôi tin kết quả thí nghiệm đã chứng minh một cách chắc chắn rằng, những gì trong thế giới khác cùng đồng hành với những gì diễn ra trên mảnh đất của người sống!”.
    Đừng sợ cái chết
    Không chỉ giao tiếp với những nhân vật vĩ đại trong lịch sử, bà Karpova còn tiếp xúc với những người chết bình thường sau này. Ví dụ, đứa con trai 27 tuổi của bà bị tai nạn chết cách đây nhiều năm. Karpova vẫn duy trì giao tiếp với anh ta từ đó cho đến ngày nay. Phải mất vài năm Karpova mới nguôi ngoai được nỗi đau mất con. Bây giờ thì bà không còn sợ hãi cái chết nữa, bởi vì bà cho rằng chết không phải là chấm dứt tất cả, mà thật ra là sự sống vẫn tiếp tục ở thế giới khác. Khái niệm không gian và thời gian không có ở thế giới khác bởi vì những người “sống” ở đó có thể nhìn thấy mọi chuyện và biết mọi thứ. Bất cứ loại thông tin nào liên quan đến quá khứ hay tương lai đều có được theo yêu cầu.
    Một ví dụ khác cho thấy khả năng đọc được ý nghĩ người khác của bà Karpova. Mùa hè năm ngoái, bà Karpova đáp tàu hỏa đến thị trấn Zvenigivo của nước Cộng hòa tự trị Mari-El. Cháu trai Sergei của bà đi đón muộn khi tàu đến. Sergei là thám tử của cảnh sát địa phương. Sau khi có mặt tại sân ga, Sergei lên tiếng xin lỗi: “Cháu rất tiếc đã đến muộn, thưa dì. Bởi vì chúng cháu đang điều tra một án mạng...”. Bà Karpova nói liền: “Có phải cháu đang nói đến vụ án anh giết em trai phải không?”. “Đúng như thế, nhưng làm sao dì biết được?”.
    Bà Karpova liền đáp: “Dì có thể cho cháu biết nhiều hơn về án mạng này. Dì biết chắc chắn nạn nhân cũng có tội không kém người đã ra tay giết chết anh ta. Vấn đề là trước đó mấy năm, nạn nhân đã cưỡng bức chị dâu. Người anh không trả thù, song anh ta rất căm giận đứa em trai trong suốt những năm đó. Vào ngày xảy ra án mạng, kẻ cưỡng bức chị dâu sử dụng ma túy, và người anh cố gắng ngăn cản điều đó. Thế là cuộc giằng co dữ dội xảy ra ngay sau đó, người anh lấy được cây chĩa ba và anh ta đã lỡ tay. Hung thủ rất ân hận về những gì mình đã làm. Tình tiết trên có thể giảm nhẹ tội cho anh ta”.
    Bà Karpova không nhận thức về căn nguyên khả năng phi thường của mình và bà tin rằng ý nghĩ con người không có giới hạn

    Trần Thanh Phong (Pravda)/tinnhanh.com

    [/FONT][FONT=&quot]Phẫu thuật không dao mổ!
    [/FONT]
    [FONT=&quot]
    Thông tin về những “nhà phẫu thuật không dao mổ thần bí” (thường được gọi là các healer - theo tiếng Anh là người chữa bệnh) tại Philippines đã gây xôn xao từ cả vài chục năm nay và cho đến nay vẫn chưa có ai đưa ra được lời giải thích chính xác về mặt khoa học.

    Một dạng thôi miên?

    Vấn đề của những tranh luận này xuất phát ở chỗ, các healer ở Philippines có khả năng tiến hành những ca phẫu thuật phức tạp nhất mà không hề dùng đến bất kỳ một thứ gì khác ngoài… đôi tay.

    Khi trong một trạng thái xuất thần (tương tự như một dạng thiền), họ chỉ cần dùng những ngón tay có thể dễ dàng rạch da thịt người bệnh, đưa tay sâu vào trong cơ thể, kéo ra cơ quan bị bệnh hay một khối u nào đó (một cuộc phẫu thuật như vậy chỉ khoảng từ 1 đến 10 phút), trong khi máu của bệnh nhân chảy ra rất nhiều.


    Tuy nhiên, khi healer kết thúc phẫu thuật, rút tay ra khỏi vết thương, trên cơ thể bệnh nhân lại hầu như không phát hiện một chút dấu vết nào, thậm chí ngay cả một vết sẹo nhỏ. Bản thân người được phẫu thuật không hề cảm thấy đau, ngoại trừ những “cảm giác nhức buốt kỳ lạ” ở vùng da đang tiến hành phẫu thuật.


    Các healer (hiện ước tính có tới vài trăm người) sinh sống chủ yếu ở phía Bắc
    Philippines, xung quanh thành phố Bagio. Những chuyện kỳ lạ xung quanh thành phố này cũng có khá nhiều: Mỗi khi có con tàu nào cập bến tại đây, các thiết bị lắp đặt trên đó đều rung lên bần bật. Điều tương tự này cũng xảy ra đối với các máy bay trực thăng, dẫn đến quy định cấm chúng bay xung quanh thành phố.

    Có một giả thuyết cho rằng, trong khu vực hòn đảo này tồn tại một trường năng lượng rất mạnh nào đó. Điều đó giải thích vì sao các healer rất hiếm khi có khả năng phẫu thuật tại một nơi nào đó ngoài khu vực phía Bắc Luson và họ hầu như không có chút khả năng đặc biệt nào khi đi ra nước ngoài.


    Tổng thư ký Melvin Salvior của “Hiệp hội các healer
    Philippines” giải thích: “Trong thời gian phẫu thuật, healer sẽ rơi vào trạng thái thôi miên rất sâu, tương tự một dạng thiền định của các nhà yoga Ấn Độ”.

    [/FONT][FONT=&quot]Những lý giải [/FONT][FONT=&quot]

    Mối nghi ngờ chính của nhiều người là ở chỗ làm sao các healer có thể phẫu thuật mà không cần dao? Có một lời giải thích tương tự hình ảnh con người thò tay xuống nước và rút lên, mặt nước liền lại mà không để lại dấu vết. Khi phẫu thuật trong trạng thái thiền định, healer có thể đã rơi vào một chiều không gian khác, một phần cơ thể của bệnh nhân đang được chữa trị cũng tương tự như vậy. Thật ra, việc đó từ lâu không còn là chuyện quá lạ lẫm - các nhà sư, các nhà yoga Ấn Độ hay các phù thủy châu Phi cũng làm được như vậy.

    Một giả thuyết cho rằng, khả năng thôi miên sâu của healer giúp tạo ra một trường sinh học đặc biệt, tập trung tại các đầu ngón tay và hoạt động tương tự nguyên lý của tia laser chia cắt các lớp mô.


    Còn theo một giáo sư y khoa Thụy Sĩ, healer mang một năng lượng đặc biệt, có thể truyền nó vào cơ thể người bệnh. Năng lượng này như một sóng vô tuyến tới được các khối u, “mở” chúng ra và đưa chúng ra ngoài lên lòng bàn tay của healer. Người được phẫu thuật không cảm thấy đau vì vết cắt do các ngón tay không chạm tới phần đầu dây thần kinh, còn bản thân việc phát xạ năng lượng sẽ giúp “khử trùng” cho đôi tay của healer. Ngay khi phẫu thuật kết thúc và trường sinh học biến mất, các tế bào mô sẽ trở lại trạng thái trước đây và ngay lập tức khép lại.


    Không chữa bệnh cho kẻ xấu

    Healer nổi tiếng đầu tiên của Philippines chính là Eleuturio Terte (sau khi chữa khỏi cho một viên sĩ quan Mỹ đang hấp hối). Một lần khác, ngay trước mắt một hội đồng chẩn bệnh của Thụy Sĩ, healer này ấn tay thẳng vào mắt một bệnh nhân trong khi anh ta không hề cảm thấy đau đớn.

    Ông ta nhanh chóng làm lành các vết loét và lấy ra phần thủy tinh thể bị đục. Tiến sĩ Steller, chuyên gia vật lý của Trường Đại học tổng hợp Dortmund, đã viết cả một tác phẩm về Terte, trong đó ghi nhận đã tiến hành hàng trăm phép phân tích và nghiên cứu về “những ca phẫu thuật không dao mổ”.


    Cũng theo giáo sư này, các healer của
    Philippines có thể phẫu thuật bằng tay trần mà không cần thôi miên bệnh nhân, không cần gây mê hay gây tê, không bị đau và không hề bị nhiễm trùng. Đây cũng là luận điểm của bác sĩ người Nhật Isamu Kumura, người đã trực tiếp nghiên cứu máu lấy từ một loạt cuộc phẫu thuật của Terte và xác định đó chính là máu của bệnh nhân. Terte chết vào năm 1979 khi đã 80 tuổi trong một hoàn cảnh khá nghèo túng.

    Cựu Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos (bị lật đổ vào năm 1986) cũng thường xuyên phải nhờ đến sự giúp đỡ của một healer riêng là Emilio Lemes. Sau khi chạy ra nước ngoài, ông ta từng nhiều lần yêu cầu chính quyền mới cho phép Lemes tới chỗ mình nhưng bị từ chối. Chỉ 3 năm sau, Marcos chết ở tuổi 72.


    Còn nhiều nhân vật nổi tiếng khác như cố Tổng thống Mỹ Ronald Reagan và cựu Thủ tướng Anh Margaret Thatcher (77 tuổi) đã từng được chữa trị bởi những healer tốt nhất qua lời giới thiệu của Marcos. Một healer nổi tiếng khác là Fiorentino Rino cho biết, nhiều healer đã từng khước từ việc chữa bệnh cho viên tướng Mỹ Geremy Stenson, một kẻ “nổi danh” vì những vụ sát hại các nông dân vô tội trong chiến tranh Việt Nam.


    “Họ đã nói thẳng ông là một người xấu xa. Thượng đế không muốn cho ông sống nữa. Stenson đã phàn nàn về điều này lên cả chính phủ, cảnh sát và đại sứ quán nhưng không ai có thể giúp được ông ta. Kết quả là một năm sau, ông ta chết” - Rino đã kể lại như vậy.

    Theo dddn.com.vn


    Chính phủ Mỹ sử dụng các biện pháp "siêu nhiên" trong cuộc chiến chống khủng bố
    ________________________________________
    Từ tháng 2/2003, Kênh truyền hình CBS của Mỹ đã cho trình chiếu một bộ phim truyền hình nhiều tập có nhan đề “Fringe” và liền thu hút đông đảo khán giả theo dõi và cả sự quan tâm của dư luận.
    “Fringe” thuộc thể loại phim khoa học giả tưởng đề cập đến việc Chính phủ Anh đã triển khai một kế hoạch thử nghiệm và sử dụng vũ khí siêu nhiên để phá vỡ các âm mưu khủng bố vào nước Anh. Nhiều tên khủng bố lần lượt bị bắt giữ cùng vũ khí.
    Tưởng đâu, những sự việc được cho là không tưởng như trên chỉ diễn ra trong phim ảnh nhưng lại diễn ra trong đời thực khi vào tháng 10/2008 xuất hiện những tiết lộ trên tạp chí Skeptical Inquirer trực thuộc Ủy ban Điều tra khoa học về các hiện tượng siêu nhiên (GSICP) của Đại học Stanford, Mỹ, rằng Bộ Quốc phòng Mỹ và Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA) đã hợp tác trong một kế hoạch bí mật có mục tiêu sử dụng các biện pháp siêu nhiên như thần giao cách cảm, ngoại cảm, chiêm tinh và cả bói toán trong cuộc chiến chống khủng bố!
    Thực ra, từ cuối những năm 50 thế kỷ trước, Bộ Quốc phòng Mỹ đã quan tâm nghiên cứu về các hiện tượng siêu nhiên để qua đó vén bức màn bí mật về ma quỷ, đĩa bay... Đến năm 1969, để tìm cách vận dụng các biện pháp siêu nhiên trong cuộc đối đầu với Liên Xô và các quốc gia XHCN trong Chiến tranh lạnh, Tổng thống Mỹ Richard Nixon quyết định thành lập một ủy ban cấp quốc gia có tên gọi Starstream Research có nhiệm vụ nghiên cứu và ứng dụng các biện pháp siêu nhiên trong Chiến tranh lạnh.
    Ủy ban này do Eric Davis, phụ trách nghiên cứu khoa học của Cơ quan Tình báo thông tin Mỹ (NSA), làm người đứng đầu với thành viên là hầu hết các cơ quan tình báo của Mỹ như CIA, Cơ quan Tình báo quốc phòng (DIA), Cục Điều tra liên bang (FBI)...
    Người ta không biết hiệu quả hoạt động của Ủy ban Starstream Research như thế nào vì mọi thông tin liên quan đều được giữ bí mật cho đến khi xuất hiện thông tin về việc chính quyền Mỹ sử dụng các biện pháp “siêu nhiên” trong cuộc chiến chống khủng bố đăng trên tạp chí Skeptical Inquirer vào tháng 10/2008.
    Theo tiết lộ của tạp chí Skeptical Inquirer thì chỉ hơn một tháng sau khi xảy ra vụ khủng bố kinh hoàng vào nước Mỹ, ngày 1/11/2001 đã ra đời một cơ quan bí mật có tên gọi Nghiên cứu, Thử nghiệm và Sử dụng vũ khí siêu nhiên (viết tắt là TIGER) do tướng Robert Steele, người đứng đầu Cục Khoa học quốc phòng của Bộ Quốc phòng Mỹ, chỉ huy. Phụ tá cho tướng Steele là Ruth Davis, Trưởng ban Khoa học và Kỹ thuật của CIA. Trụ sở của TIGER được đặt tại vùng núi phía bắc bang Utah có tên gọi Trại Skinwalker.
    Trại Skinwalker là một đồn điền tư nhân được thành lập vào những năm đầu thế kỷ XX, đến năm 1940 được chính quyền bang Utah mua lại để xây dựng thành một trạm phát sóng truyền thanh cho cả một vùng rộng lớn ở phía bắc.
    Đầu năm 1959, chính quyền liên bang đã trưng dụng Trại Skinwalker để xây dựng thành một trung tâm bí mật chuyên nghiên cứu các hoạt động siêu nhiên như thôi miên, thần giao cách cảm và nhất là đĩa bay.
    Để tránh sự tò mò của dân chúng, chính quyền liên bang đã cho xây dựng quanh Trại Skinwalker một hệ thống bảo vệ liên hoàn bao gồm hàng rào, trạm gác, chỉ có một con đường nhỏ từ xa lộ nối liền thành phố Salt Lake đến thành phố ChristChurch dẫn vào trại nhưng phải vượt qua nhiều trạm gác.
    Theo tiết lộ của tạp chí Skeptical Inquirer, kể từ khi Chính phủ Mỹ triển khai kế hoạch sử dụng các biện pháp siêu nhiên trong cuộc chiến chống khủng bố, đã có hàng trăm nhà khoa học, nhà nghiên cứu, nhân viên tình báo được điều động đến làm việc ngày đêm tại Trại Skinwalker.
    Tại đây đã diễn ra các cuộc thử nghiệm để phát hiện việc truyền và nhận thông tin của những kẻ khủng bố bằng thần giao cách cảm, sử dụng năng lực ngoại cảm để đoán được các âm mưu khủng bố, tiến hành thôi miên nghi can khủng bố để buộc phải khai báo sự thật. Cả bói toán và tiên tri cũng được thử nghiệm tại Trại Skinwalker.
    Để tạo điều kiện cho việc sử dụng các biện pháp “siêu nhiên” phát huy hiệu quả, TIGER còn tiến hành vận dụng các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến như sinh học, hóa học, điện tử, công nghệ thông tin, vật lý, khí động học cho việc nghiên cứu.
    Nếu như trước đây, khi nghiên cứu về thần giao cách cảm, các nhà khoa học đã thử nghiệm trên chuột bằng việc cách ly hoàn toàn chúng với thế giới bên ngoài, bỏ hết mọi giác quan của chúng (thính giác, khứu giác, thị giác...) để chúng có thể tập trung tuyệt đối vào việc nắm bắt các thông tin bằng linh cảm thì tại Trại Skinwalker việc thử nghiệm được tiến hành trên người, đó là những kẻ khủng bố và nghi can khủng bố bị bắt giữ không chỉ ngay trên lãnh thổ Mỹ mà tại nhiều nơi khác trên thế giới.
    Những chuyến bay bí mật trên có chở những đối tượng này đáp xuống sân bay thành phố Salt Lake rồi sau đó được chuyển ngay đến Trại Skinwalker để được thử nghiệm bắt buộc. Ngoài biện pháp thần giao cách cảm thì thôi miên, ngoại cảm cũng được thử nghiệm trên người.
    Cho dù Chính phủ Mỹ chưa bình luận bất cứ thông tin gì liên quan đến tiết lộ của tạp chí Skeptical Inquirer về việc sử dụng các biện pháp “siêu nhiên” trong cuộc chiến chống khủng bố, nhưng sự việc đã thu hút sự quan tâm không chỉ của giới khoa học, các tổ chức nhân quyền và cả của người dân Mỹ.
    Một cuộc khảo sát của Viện Gallup thực hiện vào cuối tháng 10/2008 sau khi xuất hiện thông tin về việc chính quyền Mỹ sử dụng các biện pháp “siêu nhiên” trong cuộc chiến chống khủng bố cho thấy chỉ có 20% dân chúng Mỹ cho rằng đây là một hành động cần thiết, 65% cho rằng đây là việc làm không cần thiết, 10% cho rằng đây là một việc làm phản khoa học và 9% không có ý kiến


    Những vùng đất kinh dị nhất thế giới
    Những vùng đất dưới đây nổi tiếng là những vùng đất chết, nơi mà sự sống luôn bị đe doạ. Biết bao đoàn thám hiểm, công trình nghiên cứu nhưng đến nay chúng vẫn là một ẩn số!
    Động thung lũng Java

    Những hang động nằm rải rác trong thung lũng Java tại Indonesia có thể ví như "con quỷ ăn thịt" ghê sợ và kì dị nhất. Ở đây có tất cả 6 hang động, tất cả các cửa hang đều leo ra tứ phía tựa như chiếc phễu và đều là những cái bẫy chết người. Đừng nói là cố tình sa vào hang động này mà ngay cả vô tình đi qua miệng hang, thậm chí cách xa 6-7 m thôi cũng bị hút vào lúc nào không biết! Người ta đồn rằng hiện trong hang có lớp lớp xương trắng và không thể phân biệt được đâu là xương người, đâu là xương động vật!

    Bán đảo Kamchatka - nơi trú ngụ của tử thần
    Bán đảo Kamchatka thuộc lãnh thổ liên bang Nga có một thung lũng dài 2.000 m và rộng từ 100-300 m. Địa thế ở đây hiểm trở, mỏm đá tua tủa, cái chết bất đắc kì tử ở đây không chỉ dành cho thú rừng như gấu, chồn, lợn lòi... mà ngay cả với người, nếu chẳng may lọt vào đây thì cũng chịu chung số phận. Theo báo cáo mới đây của các nhà chức trách địa phương, số người tử nạn ở đây đã không dưới 30 người! Các nhà khoa học cho rằng thủ phạm gây chết người và thú là một loại khí độc bốc lên từ thung lũng. Song điều đáng ngạc nhiên là chỉ cách đấy không xa, dân làng vẫn sống yên ổn mà không hề chịu ảnh hưởng của khí độc.
    Địa ngục trần gian, thiên đường động vật ở Mỹ
    Có một thung lũng lớn nhất thế giới nằm giữa vùng đất bang California và bang Nevada (Mỹ) có chiều dài 300 km, nơi hẹp nhất 6 km và nơi rộng nhất là 26 km. Chung quanh đều là núi đá dựng đứng và tua tủa những mỏm đá nhọn tựa như hàm răng quỷ, cộng với tiếng rít của gió và tiếng hú của thú rừng lúc gần lúc xa khiến cảnh tượng thung lũng vốn đã âm u lại càng thêm khiếp đảm, hãi hùng.
    Mùa xuân năm 1949, một đoàn thám hiểm đến đây để thực hiện giấc mộng vàng là khai phá mảnh đất nhiều huyền bí và đầy vẻ ghê sợ. Kết quả là đoàn thám hiểm đã ra đi mà không một người trở về! Sau đó nhiều năm vẫn còn nhiều đoàn đến đây với trang thiết bị hiện đại và hi vọng có thể tìm ra lời giải cuối cùng về thung lũng chết người nhưng đều thất bại và số phận của họ cũng chẳng khác gì những người đi trước, chỉ để lại những câu chuyện kinh dị và bi tráng.
    Gần đây, qua quan sát và ảnh chụp từ trên không, các nhà khoa học mới có sự phát hiện khiến loài người phải kinh ngạc: chốn địa ngục dành cho loài người này lại là thiên đường của các loài động vật, theo thống kê sơ bộ, nơi đây có 300 loài chim, trên 2.000 con lợn rừng, hơn 20 loài rắn và 17 loài kì đà... Xem ra cuộc sống của các loài động vật tại thung lũng chết này khá ung dung nhưng sao không chứa nổi con người, điều bí ẩn này vẫn chưa có lời giải!
    Mồ chôn động vật, thiên đường cho con người
    Đó là cái tên đặt cho vùng đất tử thần nằm cạnh tỉnh Naples của Italia. Nhưng khác với thung lũng tử thần ở Mỹ, thung lũng này chỉ du nạp con người và thực sự là "lò sát sinh" với động vật. Trong một lần khảo sát, các nhà khoa học đã sơ sơ đếm được hơn 4.000 xác chết động vật trong một diện tích rất hẹp. Nhưng nguyên nhân dẫn đến cái chết của chúng - sau khi loại trừ khả năng các con vật ăn thịt lẫn nhau hoặc do con người săn bắn, thì đến nay vẫn chưa có lời giải đáp! Điều khiến các nhà khoa học kinh ngạc là thung lũng này chỉ "ăn thịt" động vật và loại trừ con người. Theo thống kê, mỗi năm số động vật "chết oan" tại đây lên đến 30 nghìn con các loại!
    Tạng Bắc - khu vô dân cư và lạc viên của thế giới động vật
    Có một nơi mà các nhà khoa học đặt cho cái tên "vùng cấm đối với sự sống con người", đó chính là khu "vô dân cư" Tạng Bắc, một vùng đất hoang nằm giữa cao nguyên Thanh Hải - Tây Tạng - Trung Quốc.
    Khu vô dân cư có diện tích 600 ngàn mét vuông, cao hơn 5.000 m so với mặt biển, ngoài núi, hồ, thảo nguyên, sa mạc và động vật hoang dã thì không một bóng người. Thời xưa Tạng Bắc vừa hoang vắng, vừa tiềm ẩn nhiều tai hoạ khủng khiếp.
    Được biết điều kiện sống của khu vô dân cư Tạng Bắc rất khắc nghiệt: thiếu oxy trong không khí, thời tiết thất thường, nhiều hồ nhưng đều là nước mặn... Song, giống như thung lũng chết tại Mỹ, điều khiến người ta không thể lý giải nổi tại sao khu vô dân cư Bắc Tạng chỉ cho muôn thú như ngựa rừng, linh dương, hươu, lừa rừng, bò rừng, thậm chí có cả sói, gấu... trú ngụ mà không chứa nổi loài người - dù là khách vãng lai!
    Hồ La Bố - biến mất lạ lùng
    Từ nhà Tần đến nhà Thanh, suốt 2000 năm người ta vẫn nhầm hồ La Bố là đầu nguồn của sông Hoàng Hà, thậm chí các nhà phong kiến Trung Quốc xưa còn ra lệnh cấm nước hồ vì lo "làm cạn Hoàng Hà"! Hồ La Bố từng là đoạn đường đi qua của Huyền Trang Đường Tăng trong chuyến tây du đến Tây Trúc thỉnh kinh và cũng là miền đất mà Marco Polo đã đặt chân tới! Thế nhưng đến năm 1972, hồ La Bố bỗng cạn sạch và mọi sự sống ở đây cũng chấm dứt, để lại một lòng chảo khô nẻ, hoang tàn, không còn tiếng chuông lạc đà đi trên con đường tơ lụa, cũng không còn tiếng nhạc của thành cổ Lầu Lan xưa... Mọi thứ bỗng biến mất và để lại những bí mật để hậu thế khám phá và giải đáp.

    (Theo Truyền hình Hà Nội)



    [/FONT][FONT=&quot]Bí ẩn của những vòng tròn lạ trên các cánh đồng

    [/FONT]
    [FONT=&quot]Các vòng tròn trên cánh đồng (crop circles) là một trong những bí ẩn lớn trong quá khứ cũng như hiện tại. Vậy chúng là sản phẩm của một số người tinh nghịch hay người ngoài hành tinh?
    Vòng tròn được đề cập tới trong các văn bản khoa học vào cuối thế kỷ 17 và tính tới năm 1970, gần 200 trường hợp đã được thông báo. Kể từ đó, khoảng 80 nhân chứng ở mọi nơi từ Australia cho tới British Columbia, Canada, đã thông báo về những vòng tròn được hình thành trên các cánh đồng trong chưa đầy 20 giây, kèm theo chúng là những quả cầu sáng chói hoặc có màu sắc sặc sỡ, tia sáng hoặc vật thể bay lạ.
    Con người quan tâm nghiêm túc tới các vòng tròn này vào năm 1980 tại miền Nam nước Anh. Ban đầu đó là những vòng tròn đơn giản, sau đó phát triển thành những đường thẳng, chữ tượng hình giống như chữ khắc trên đá tại các địa điểm linh thiêng khắp thế giới. Sau năm 1990, hình để lại trên cánh đồng trở nên phức tạp hơn nhiều và ngày nay mọi người thường gặp hình các nguyên tố. Kích cỡ của chúng cũng tăng lên, một số hình có diện tích 200.000 feet vuông. Cho tới nay, đã có trên 10.000 hình trên cánh đồng được thông báo và ghi lại trên toàn thế giới. Khoảng 90% trong số này xuất hiện ở miền Nam nước Anh.
    Doug và Dave
    Theo các bộ phim tài liệu trên vô tuyến, mọi vòng tròn trên cánh đồng cho tới năm 1992 là tác phẩm của hai nam giới cao tuổi tên là Doug và Dave. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu chẳng hạn như George Wingfield và Armen Victorian đã phát hiện ra rằng câu chuyện về hai người tên D trên có lẽ bắt nguồn từ Bộ Quốc phòng Anh. Bộ này đã thông đồng với CIA. Bằng chứng do một quan chức cấp cao tại Bộ Quốc phòng Anh cho thấy Chính phủ nước này có ý định làm cho công chúng không tin và ngừng quan tâm tới hiện tượng kỳ lạ trên bằng cách đưa ra hai nam giới trên.
    Khi được yêu cầu cung cấp bằng chứng về những vòng tròn trên, Doug và Dave đã thay đổi câu chuyện của họ, thậm chí là đảo ngược hoàn toàn những lời khẳng định trước kia. Họ không thể giải thích những đặc điểm khác thường trong hiện tượng này. Chẳng hạn khi họ khẳng định đã tạo ra mọi hình ở hạt Hampshire, Anh, một số nhà kiểm chứng chỉ ra rằng trên thực tế 50% trong số các hình đó được tạo ra ở một hạt khác. Hai người trả lời: ''À chúng tôi không làm những hình đó''. Cuối cùng Doug và Dave không biết họ là tác giả của những hình nào.
    Mặc dù Doug và Dave khẳng định đã thực hiện công việc trên từ năm 1978 song bằng chứng chưa được công bố khẳng định các vòng tròn trong cánh đồng có từ những năm 1980. Công chúng chưa bao giờ nghe tin về việc hai người rút lại lời khẳng định của họ cũng như không có cơ hội so sánh hình do họ tạo ra với hiện tượng thực. Vào năm 1998, một trong hai người còn sống thú nhận với các tờ báo ở Anh rằng ông ta bị một thế lực nào đó chỉ dẫn.
    Thật giả lẫn lộn
    Kể từ sau tuyên bố của Doug và Dave, nhiều kẻ chơi xỏ đã xuất hiện. Một số tạo ra các hình trên cánh đồng để làm chệch hướng giới nghiên cứu, một số vì lợi nhuận. Những người khác làm điều đó bởi họ tin có thể giao tiếp với hiện tượng thực. Trước năm 1989, không ai nghe tin về vấn đề chơi xỏ. Vấn đề thực sự là không một vòng tròn nhân tạo nào trong cánh đồng giống hệt những đặc trưng liên quan tới hiện tượng thực. Họ sử dụng một vật thể để làm cây trồng đổ rạp sát đất, thân cây bị gẫy. Trái lại, ở những hình thật, thân cây chỉ bị uốn cong, thường cách mặt đất khoảng 2,5cm và gần mấu đầu tiên của cây. Cây vẫn tăng trưởng và hạt vẫn chín nếu con người không chạm tới chúng.
    Cây trồng dường như bị hơ nóng trong một thời gian ngắn. Sức nóng làm thân cây uốn cong một góc 90 độ ngay bên trên mặt đất. Cây sẽ ở vị trí đó vĩnh viễn song không bị gẫy. Hiện tượng này làm các chuyên gia sinh học bối rối. Nông dân cũng không thể đưa ra lời giải thích. Đây chính là dấu hiệu đơn giản nhất để giới khoa học nhận biết hiện tượng thực. Các nghiên cứu và thí nghiệm cho thấy có lẽ chỉ sóng cực ngắn mới có thể tạo ra một ảnh hưởng như vậy. Thỉnh thoảng, đi kèm các vòng tròn trên cánh đồng là những âm thanh rung. NASA đã thu băng và phân tích.
    Dò điện từ là cách thứ hai để phân biệt vòng tròn thật với vòng tròn nhân tạo. Dạng năng lượng tự nhiên này tồn tại ở các địa điểm cổ xưa chẳng hạn như vòng đá, những nấm mồ dài, mô đất bên trên các mộ táng cổ, mộ đá, đá dài dựng đứng, và các nhà thờ được xây dựng bên trên những địa điểm này. Các vòng tròn trên cánh đồng, địa điểm linh thiêng và những nơi thờ cúng khác cũng được tìm thấy trên những điểm giao nhau dọc theo mạng năng lượng vô hình này của trái đất.
    Vòng tròn lợi hay hại?
    Kích cỡ và hình dạng của một vòng tròn được quyết định bởi diện tích của các điểm giao nhau này trên bề mặt trái đất. Các tần số của điện từ liên quan tới những thay đổi về kiểu sóng não. Chúng cũng ảnh hưởng tới nhịp lý sinh của cơ thể. Vì vậy, chẳng có gì đặc biệt khi một số người thông báo đã trải qua tình trạng ý thức cao độ và vết thương mau lành trong các vòng tròn trên cánh đồng. Tình trạng này cũng phổ biến tại các địa điểm linh thiêng. Con người cũng bị chóng mặt, mất phương hướng và buồn nôn. Tất cả những tác động trên có thể là do tiếp xúc lâu với sóng cực ngắn hoặc âm thanh có tần số dưới mức nghe của con người.
    Các vòng tròn thực trên cánh đồng là những khu vực cây trồng bị xoáy và đổ rạp. Đáy của chúng có thể gồm 5 lớp cây trồng bện với nhau. Mọi hạt vẫn còn nguyên vẹn và nằm cạnh nhau như thể chúng được sắp xếp trong một tủ trưng bày tại viện bảo tàng. Trung tâm của vòng tròn có thể chỉ còn một cây đứng trơ trọi. Các vòng tròn thực trên cánh đồng không tròn vành vạnh mà có hình gần như elip. Mẫu đất cho thấy có 4 loại đồng vị phóng xạ phi tự nhiên, tồn tại trong một thời gian ngắn bên trong các vòng tròn thực. Những đồng vị này phân rã sau 3-4 giờ. Đất xung quanh vòng tròn dường như đã bị nướng.
    Về mặt toán học, vòng tròn thật mã hoá các định lý khó hiểu dựa trên hình học Euclidian cũng như những nguyên lý hình học quan trọng không thể thay đổi. Vòng tròn có khả năng thay đổi trường điện từ trong vùng. Do đó, các la bàn không thể định vị được hướng bắc, các camera, điện thoại di động và pin không hoạt động được. Thiết bị trên những máy bay bay trên vòng tròn cũng vậy. Mức bức xạ cao hơn 300% so với bình thường, tầng số radio tăng hoặc giảm mạnh trong vòng tròn. Động vật trong các trang trại địa phương tránh khu vực đặc biệt đó hoặc bị kích động vài giờ trước khi vòng tròn xuất hiện. Ắc quy của ôtô trong toàn bộ các ngôi làng không hoạt động sau khi một vòng tròn được phát hiện ở vùng lân cận. Trong một số trường hợp, toàn bộ thị trấn bị mất điện.
    Ẩn số
    Do vòng tròn thực xuất hiện ở điểm giao nhau dọc theo các dòng năng lượng điện từ của trái đất nên chúng ảnh hưởng tới kiểu năng lượng của những địa điểm tiền sử. Vòng tròn thường được hình thành từ 2 tới 4 giờ sáng, đặc biệt là những đêm ngắn nhất khi bóng tối chỉ kéo dài gần 4 tiếng. Nhiều nông dân, binh lính, nhà khoa học và hàng trăm người hiếu kỳ ngủ qua đêm trên cánh đồng với hy vọng trở thành những người may mắn chứng kiến một vòng tròn đang hình thành. Mặc dù các cánh đồng có nhiều người và thiết bị khảo sát tiên tiến song vòng tròn vẫn xuất hiện từ sương mù ngay dưới mũi của những người đang tìm kiếm chúng.
    Tại vòng đá Stonehenge vào năm 1996, một phi công thông báo không nhìn thấy điều gì bất bình thường trong khi đang bay bên trên công trình này. Tuy nhiên, 15 phút sau, 149 vòng tròn xuất hiện ngay bên cạnh Stonghenge được giám sát kỹ càng. Cho tới giờ, vòng tròn thực trên các cánh đồng vẫn là một hiện tượng bí ẩn và tác giả tạo ra nó vẫn còn là một ẩn số. Một số người cho rằng đó là thông điệp của sinh vật ngoài hành tinh. Những người khác tin vòng tròn trên cánh đồng do một loại năng lượng nào đó mà con người chưa biết tới tạo ra.

    (Minh Sơn - Theo Clara.net)

    [/FONT][FONT=&quot]Bí ẩn những "cái đầu khổng lồ" ở châu Mỹ
    [/FONT]
    [FONT=&quot]
    Lịch sử loài người phát triển không đồng đều ở các châu lục nhưng có thể khẳng định châu lục nào cũng có những di sản văn hóa, những kỳ quan vô giá. Châu Phi có Kim tự tháp, châu Âu có những di sản của La Mã, Hy Lạp; châu Á có Vạn Lý Trường Thành (Trung Quốc), Bodobudur (Indonesia), Angkor (Campuchia), Tháp Chăm (Việt Nam), Bamyoab (Afghanistan). Ở châu Mỹ thời tiền Colombo, ngoài những di tích đã phát hiện như Đại Kim tự tháp Toccali, cung Tintonni (Mexico), các pháo đài Inca (Colombia, Chile) và rất nhiều công trình khác, miền đất Nam Bắc Mỹ còn ẩn giấu nhiều bí hiểm chưa phát hiện.
    Dưới đây là vài nét về những cái đầu khổng lồ và những pho tượng khổng lồ ở châu Mỹ.
    Từ thế kỷ 19 người ta tìm thấy gần Mexico 17 cái đầu khổng lồ bằng đá nặng tới 60 tấn, có cái cao đến 3 mét. Nét mặt của các tượng cái thì mỉm cười, cái thì nhăn nhó. Người ta chưa rõ tên các pho tượng đó vì chưa có văn bản nào chứng minh. Những cái đầu tìm thấy ở Mexico nhưng người ta cho rằng đây là những di sản của văn minh Olmec, nền văn minh đầu tiên của vùng Trung Mỹ đã có ảnh hưởng sâu sắc đến các dân tộc Aztec và Inca.
    Một kỳ quan nữa là những pho tượng khổng lồ trên đảo Paques thuộc Chile giữa Thái Bình Dương. Đảo Paques là một tam giác có ba cạnh 16, 18, 24 km. Người đầu tiên đã phát hiện ra đảo này là thuyền trưởng người Hà Lan Roggewen chỉ huy một hạm đội ba chiếc tàu. Từ đó về sau trong hai thế kỷ nhiều đoàn tàu của Na Uy, Pháp, Anh, Mỹ, Peru đến thám hiểm, nghiên cứu khoa học... nhưng mãi đến thế kỷ 18 thuyền trưởng Anh James Cook mới phát hiện ra các pho tượng đá. Nhiều đoàn ngẫu nhiên tìm đến đảo Paques nhưng các nhà tư bản Peru đã tổ chức nhiều đoàn đến để bắt người dân làm nô lệ.
    Những pho tượng này nhỏ nhất cũng nặng 20 tấn, cao lớn nhất có cái đầu khổng lồ đặt trên cái cổ có chu vi 3 mét, cả cái cổ dài 7 mét, mũi dài 3,4 mét, thân dài 13 mét, toàn bộ pho tượng cao 22 mét và nặng khoảng 50 tấn.
    Một vài phái đoàn khoa học đã đến đây nghiên cứu, nhưng còn nhiều vấn đề chưa được xác minh, đặc biệt theo truyền thuyết đã xảy ra hiện tượng đất sụt xuống đại dương hay dân tộc đã biến mất là dân tộc nào, việc chế tác các tượng ra sao, làm thế nào để vận chuyển được các pho tượng đó từ mỏ đá ra các vị trí ở bờ biển?...
    Ngày nay đảo Paques được người dân địa phương gọi là "cái rốn của vũ trụ".

    Phương Minh Quân

    Những pho tượng bí ẩn ở
    Brazil

    Không hiểu từ bao giờ trên những đỉnh núi ven biển ở
    Rio de Janeiro, Brazil xuất hiện những khuôn mặt người cổ đại với kích cỡ vô cùng to lớn. Điều này không khỏi khiến mọi người liên tưởng tới tượng nhân sư ở đất nước Ai Cập. Câu hỏi được đặt ra là ai đã chạm khắc nên những bức tượng này và mục đích là gì?
    Những nét chạm khắc bí ẩn
    Nằm giữa Sóo Conrado và Barra da Tijuca, Rio de Janeiro là dãy núi huyền thoại cao 842 mét so với mặt nước biển. Khi Brazil được phát hiện, các nhà thám hiểm Bồ Đào Nha đã đặt tên cho ngọn núi này là Pedra da Govea vì trông nó giống như một đài quan sát hoàn hảo có thể bao quát toàn cảnh biển lục địa châu Mỹ. Trong nhiều thế kỷ, khối đá khổng lồ Pedra da Gávea được thảm thực vật sum suê bao bọc đã thu hút sự quan tâm không chỉ của công chúng mà còn của cả giới nghiên cứu lịch sử phát triển nhân loại.
    Vào thế kỷ 19, những "dấu hiệu" kỳ lạ trên vách đá bắt đầu thu hút sự chú ý của Hoàng đế D.Petro I, mặc dù cha ông D. Joroo - Vua Bồ Đào Nha trước đó đã nhận được sớ tấu từ một vị linh mục kể về những dấu hiệu kỳ lạ có niên đại trước năm 1500 - thời gian Brazil mới được phát hiện. Năm 1839, Viện Địa lý và Lịch sử Brazil mới chính thức khám phá ngọn núi, nhưng mức độ nghiên cứu thời đó chỉ dừng lại ở việc... đứng từ dưới nhìn lên bằng ống nhòm. Sau chuyến khảo sát này, không còn ai nói đến khối đá đó cho tới năm 1931, một nhóm nhà thám hiểm đi tìm hầm mộ vua Phoenicia (lên ngôi năm 856 trước CN) đặt chân tới vùng này.
    Tuy nhiên, việc đào xới của các nhà thám hiểm nghiệp dư không thu được kết quả. Hai năm sau (1933), một câu lạc bộ từ Rio đã tổ chức cuộc thám hiểm quy mô lớn với sự tham gia của 85 vận động viên leo núi đã phát hiện ra khuôn mặt và cặp mắt của chiếc đầu đá khổng lồ khi nhìn từ trên xuống.
    Năm 1946, tai bên phải chiếc đầu đá nằm ở độ nghiêng 80 độ so với mặt đất và ở một vị trí vô cùng hiểm trở đã được nhóm khách của trung tâm du lịch Brazil chinh phục. Tại đây, ngay phía sau tai có lối đi dẫn vào chiếc hang ngầm hẹp xuyên qua sườn núi. Tới năm 1972, một nhóm leo núi thuộc trung tâm "Equipe Neblina" đã leo lên bức tường phía Đông chiếc đầu đá và bắt gặp những chữ viết kỳ lạ. Mặc dù hàng năm Rio có lượng mưa rất lớn, nhưng những chữ viết này gần như còn nguyên vẹn.
    Năm 1963, Bernardo A. Silva - nhà nghiên cứu các ký tự cổ đã dịch các dòng chữ này là: Tyro Phoenicia Firsborn Jethbaal (tạm dịch: Vua Phoenicia đời Tyro, con đầu lòng Jethbaal). Trên đỉnh đầu là những tảng đá lớn giống như hình vương miện hoặc đồ trang sức của vua chúa. Một lỗ hổng lớn như hình chiếc cổng ở phần phía Đông Bắc, tháp canh trên phần Đông Nam trông giống như khu hầm mộ có một số nét khắc chạm.
    Những giả thuyết
    Theo Roldoro Pires Brandoro, Chủ tịch Hiệp hội Nghiên cứu hang động và Khảo cổ học Brazil tại Rio, đây chính là bức tượng nhân sư do người Phoenicia tạc. Phần đuôi tượng có lẽ đã bị thời gian bào mòn. Giả thuyết này không được các nhà khảo cổ phần nào chấp thuận, bởi những phiến đá được tìm thấy gần đó có nét giống như khuôn mặt của các vị tộc trưởng thời cổ đại. Theo tài liệu ghi chép, năm 856 trước CN, vua Badezir (Phoenicia) lên ngôi thay cha, lấy hiệu là Tyro. Vậy đây có phải là phần mộ của nhà vua hay không?
    Có giả thuyết khác lại cho rằng ngọn núi này là nơi bắt đầu con đường dẫn tới Agarta - một đế chế rộng lớn nằm sâu dưới lòng đất với hàng nghìn cư dân sinh sống. Chiếc "cổng" phía trái của ngọn núi từ độ cao 800m trên mực nước biển hẳn là đường dẫn tới thế giới đó. Nhiều người leo núi kể rằng, họ nhìn thấy những đốm lửa bay lọt ra từ khe hở của cánh cửa đá to lớn bịt lối vào Agarta.
    Sức hấp dẫn không thể cưỡng lại
    Cho dù nhiều giả thuyết được đưa ra, nhưng một thực tế không thể phủ nhận rằng ngọn núi huyền thoại này thực sự giữ vị trí "quán quân" về số lượng người leo núi chết do sẩy chân. Chính điều này càng làm tăng sự huyền bí của truyền thuyết cho rằng đó là do lời nguyền của vua Phoenicia cùng kho báu được chôn giấu sâu phía trong tảng đá dành cho những kẻ có ý định phá vỡ giấc ngủ yên tĩnh của đức vua.
    Mặc dù có những bằng chứng cho thấy núi đá này thực sự là một dấu hiệu của người xưa để lại và nhiều phần của núi đá cần được nghiên cứu kỹ hơn, nhưng xét về cảnh quan, Pedra da Gávea là một trong những bức tranh toàn cảnh đẹp nhất Rio de Janeiro, là sự thách thức với bất kỳ ai muốn thử sức với lực hút của trái đất.
    Cho dù đó là hầm mộ của vua Badezir hay đường dẫn tới Agarta thì ngày nay, nơi đây thực sự là điểm du lịch sinh thái hấp dẫn của Brazil với sự huyền bí của nó. Ai là tác giả của công trình kiến trúc khổng lồ này? Lý do việc tạc khuôn mặt người khổng lồ ngủ? Trong khi hàng loạt câu hỏi vẫn bỏ ngỏ thì khuôn mặt người khổng lồ đang say giấc nồng vẫn ngày ngày đón bình minh như chờ đợi con người tới khám phá bí ẩn của riêng mình. Liệu có ai dám thử sức?.

    Minh Quý - (Tổng hợp)
    [/FONT]



     
  18. Những chuyện kỳ bí chưa có lời giải đáp P4

    [FONT=&quot].Tượng người Nam Mỹ

    Trước khi Colombo đặt chân lên châu Mỹ, nơi này vốn là lãnh địa của ngời Indian. Điều làm cho người ta khó lý giải là: Trong tác phẩm nghệ thuật cổ đại được phát hiện ở Mexico và một vài nơi ở Nam Mỹ đã xuất hiện tượng đầu người của các dân tộc làm bằng đá hoặc gốm.
    Ở Mexico các nhà khỏa cổ đã từng phát hiện thấy một tượng đầu người Feicui điêu khắc vào thời kỳ văn hóa Olmek. Tuy phần mũi của tượng đầu người này đã bị hủy hoại nhưng từ các đặc trưng như khuôn mặt phẳng, hõm mắt không sâu, lông mày, trán và xương gò má người có thể nhận ra đây là tượng người phương Đông. Một tượng người bằng đá khác được phát hiện ở Oatimala cũng có đặc trưng giống người phương Đông rõ rệt.
    Một tượng đầu người bằng đá khác được phát hiện ở Valalucks thuộc Mexico, thoạt nhìn người ta đã nhận ra là người da đen châu Phi với môi dày, trán tròn chứ không thể là tướng mạo của người Indian châu Mỹ.
    Theo cách nói thông thường, nghệ thuật là sự phản ánh cuộc sống. Người Indian cổ đại khó có thể điêu khắc tượng của người mà mình hoàn toàn không quen biết. Vậy tại ở đây lại có những bức tượng của những con người chưa một lần đặt chân lên châu Mỹ?
    Từ lâu, người ta vẫn nói về người cổ đại Trung Quốc đã từng đặt chân đến châu Mỹ hay cũng có người tin vào tin đồn về người Phinigi tiền sử đã đến đây. Nhưng chũng vẫn là những giả thiết chưa có sức thuyết phục. Liệu có phải người da đen được đúc tượng ấy là người nô lệ chèo thuyền trong hạm đội của người Phinigi cổ đại. Mà nếu tính cả sự việc như vậy thì ai là người đã lấy họ để khắc tượng đây?
    Ở bên cạnh "Cửa mặt trời" nổi tiếng tại Tijuana cũng có tới 48 pho tượng người. Người ta cho rằng, đó là đội danh dự tế thần giống như tượng đá trước các miếu thần thường thấy. Tuy nhiên, điều làm cho các nhà khảo cổ và nhân loại học chú ý là dung mạo của 48 pho tượng đá này không giống nhau: Có người mũi cao, có người môi dày, có người tai to, có người sống mũi thấp,... Qua các khảo sát tỷ mỷ, họ phát hiện ra những tượng đá này là hình tượng của các tộc người và các dân tộc chủ yếu trên Trái đất.
    Cũng có thể nói, những tượng đá này được chế tác dựa trên cơ sở đặc trưng về ngoại hình của các dân tộc và tộc người mà những người tạo ra nó nắm bắt được. Tuy nhiên, làm thế nào mà những người chế tác tượng đá hiểu biết được các dân tộc và các tộc người đây?


    Bí ẩn xung quanh cuốn di cảo Voynich thế kỷ 13

    Cuốn sách khổ 14,6 cm x 21,6 cm, gồm 232 trang giấy da cừu. Nét chữ đều chằn chặn, không tẩy xóa, kể cả các hình minh họa. Hẳn người viết đã cân nhắc rất kỹ trước khi đặt bút. Có điều, đó là một kiểu chữ chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại, còn những hình vẽ thực vật và động vật lại không hề giống với những gì chúng ta thấy trên mặt đất.
    Nguồn gốc của cuốn sách cũng không rõ ràng. Một tài liệu lịch sử viết năm 1666 cho hay, nó được Hoàng đế Rudolf II (1552-1612) của Đức mua với giá cao khủng khiếp: 600 thùng vàng. Vị vua này đoán rằng cuốn sách bí hiểm được nhà bác học và tiên tri Roger Bacon (1220-1292) viết ra, và trong đó hẳn chứa những kiến thức kỳ lạ, những lời sấm về tương lai.
    Cuốn sách được viết bằng bút lông với nét chữ đều đặn, chính xác và sạch sẽ kỳ lạ. Ký tự thoáng nhìn như chữ latinh, nhưng kỳ thực đó là một kiểu chữ chưa từng có trong lịch sử chữ viết nhân loại. Một số hình vẽ trông giống người và cây cỏ, nhưng lại không phải vậy.
    Cuốn sách nổi tiếng này hiện được giữ như một báu vật tại Đại học Yale (Mỹ). Nó còn có tên là Bản cảo Voynich. Các nhà nghiên cứu ký tự cổ hàng đầu thế giới đã vắt óc để tìm ra những "điểm yếu" của văn bản. Điểm yếu ở đây được hiểu là các đoạn chữ mà những ký tự xuất hiện có quy luật. Trong kỹ thuật giải mã chữ, những điểm yếu này là chìa khóa để mở bí mật của một ngôn ngữ. Cũng bằng cách này, nhà ngôn ngữ học Mỹ Herbert Yardley đã giải được nhiều đoạn mã trong các công hàm ngoại giao mật của Nhật Bản, dù ông
    không giỏi tiếng Nhật. Tuy nhiên lần này, Yardley không tìm ra được những tín hiệu lặp lại thường thấy ở một ngôn ngữ trong Bản cảo Voynich. Theo Yardley, cái được viết trong bản cảo này có thể không phải ngôn ngữ mà chúng ta biết, hoặc nó đã được mã hóa nhiều lần một cách tài tình đến nỗi không thể lần ra được nữa.
    Sự việc không dừng lại ở đó. Ở trang cuối của cuốn sách, có một đoạn được viết bởi chữ của một người khác, có lẽ là một lời nhận xét. Nét chữ mờ mịt, rối rắm, hầu như không thể đọc được. Nhưng sau nhiều năm mày mò, Giáo sư William R. Newbold, Đại học California (Mỹ), tin rằng trong đó có một đoạn tiếng latinh: A mihi dabas multas portas. Newbold khẳng định, nội dung cuốn sách đã được mã hóa nhiều lần. Có thể tác giả đã ghép hai hoặc ba chữ cái latinh thành một chữ cái theo cách nào đó. Tuy nhiên, ông cũng chỉ dừng lại ở đây mà không thể giải thêm được gì nữa.
    Gần đây nhất, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng tại Đại học Yale, Giáo sư Brumbaugh, cho rằng Bản cảo Voynich được viết bằng một bảng mã gồm 26 ký tự. Con số này trùng lặp với số chữ cái latinh (liệu đây có phải là một sự ngẫu nhiên?). Có điều, mọi giải pháp latinh hóa những ký tự này, rồi thay vào các dòng chữ viết tay trong bản cảo, đều tạo ra các đoạn chạy không theo quy luật, và có vẻ không mang một ý nghĩa gì. Brumbaugh cho rằng, có lẽ nội dung cuốn sách đã được mã hóa theo hệ ngôn ngữ khác latinh. Đến nay, Bản cảo Voynich vẫn còn là một bí ẩn.

    Minh Hy (theo Freenet.DE)

    .Bí ẩn những vùng đất “chết”

    Đồi Chết, Đầm Ma, Thung lũng Chết... - đó là những địa danh gắn liền với nhiều hiện tượng kỳ bí mà tới nay khoa học vẫn không sao giải thích nổi.
    Cao nguyên 1079 tại miền bắc Urals, Kholat Sjahyl, được dịch theo ngôn ngữ của người Mansi là “Núi Chết” khi thời gian và thực tế đã chứng tỏ cái tên đó hoàn toàn đúng với những gì đã xảy ra.

    Vào ngày 2/2/1959, một đoàn khách du lịch từ Học viện Bách khoa Urals đã dựng trại trên sườn núi này và vài ngày sau, tất cả họ đều được phát hiện là đã chết. Không ai rõ nguyên nhân của những cái chết này là do đâu.


    Người ta cũng phỏng đoán rằng có thể đoàn người đã bị sét đánh hay bị đĩa bay tấn công. Tuy nhiên, cũng có người cho rằng, họ đã bỏ mạng vì thâm nhập vào đúng nơi đã diễn ra các cuộc thử nghiệm vũ khí. Tuy nhiên, không ai chứng minh được các giả thiết này.


    Điều đáng ngạc nhiên hơn là khi khám nghiệm thi thể của các nạn nhân, người ta thấy trên lớp da của họ có những vạch đỏ rất khác thường. Do đó có thể khẳng định họ đã bị thương từ bên trong và bị xuất huyết.


    Cũng có người giải thích có thể bom khinh khí đã làm loãng không khí của một vùng rộng lớn trong khu vực này. Khi đó, mạch máu của con người nổ tung vì áp suất bên trong lên rất cao, có thể dẫn đến cơ thể bị nổ thành nhiều mảnh. Mặc dù vậy, giả thiết này cũng chưa được khẳng định.


    Những hiện tượng kỳ lạ tương tự còn được phát hiện tại Thung lũng Chết ở
    Kamchatka, thung lũng nằm trên biên giới của khu vực cấm săn bắn Kronotsky. Cho đến nay đã không còn ai thấy xa lạ với những đống xương trắng chất chồng trong thung lũng. Có cả xác của các loài chim, những chú chồn gulo và thậm chí cả những con gấu rất lớn.

    Các nhà khoa học đã nghiên cứu và kết luận những cái chết này xảy ra do khí xyanic phát ra từ núi lửa tại các điểm nứt trên bề mặt trái đất, khí này đã làm tê liệt hệ hô hấp của các sinh vật.


    Những lời giải thích này cũng chưa được chứng minh đầy đủ.


    Một địa danh khác cũng được đặt tên là Thung lũng Chết nằm tại cộng hòa Yakutia, Nga. Thung lũng này nằm tại vùng Vilyui Thượng và những câu chuyện kỳ lạ ở đây xoay quanh tác hại của những vật có hình bán cầu bằng kim loại nằm nhô ra tại những nơi bị đóng băng.


    Những câu chuyện này kể rằng, chỉ cần ngủ qua đêm tại một nơi gần những vật thể đó, không ai tránh khỏi cái chết. Người ta đã nghiên cứu những nạn nhân xấu số tại đây và thấy rằng họ giống hệt như những người chết vì tia phóng xạ. Tuy nhiên, liệu ở khu Yakutia này có nguồn phóng xạ mạnh như vậy hay không?


    Không một cuộc thám hiểm địa lý nào tại vùng này tìm ra một chất phóng xạ như vậy.


    Tiếng tăm về Thung lũng Chết ở tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) hay còn gọi là thung lũng Tre Đen, cũng không nằm ngoài những hiện tượng bí ẩn. Mùa hè năm 1950, có khoảng 100 người đã đột ngột bị biến mất ở đó và một chiếc máy bay cũng gặp nạn tại khu vực này không rõ lý do.


    Con số nạn nhân lớn như vậy lại một lần nữa xảy ra vào năm 1962. Một người đàn ông dẫn đường cho đoàn lữ hành là các nhà địa lý sống sót đã kể lại tai nạn đó như sau: “Ngay khi đoàn thám hiểm bước vào thung lũng, một đám sương mù dày đặc bao vây lấy đoàn người. Người ta nghe thấy những âm thanh rất mơ hồ nhưng không rõ là tiếng gì. Và khi sương mù tan, những âm thanh đó cũng biến mất.”


    Các nhà khoa học mới đây đã tổ chức một chuyến thám hiểm đến khu vực bí ẩn ở Tứ Xuyên. Họ nói rằng những vụ việc kỳ lạ đó xảy ra có lẽ là do hơi độc đậm đặc từ những thực vật chết phân hủy và làm người ta nghẹt thở, sau đó mất phương hướng và chết tại những khe đất có rất nhiều trong khu vực. Tuy nhiên, các nhà khoa học khác lại cho rằng nguyên nhân của những cái chết bí ẩn là hoàn toàn có thể nhìn thấy được.


    Trên thực tế, các thảm kịch xảy ra ở đó bởi vì một khu vực đất có lực từ cực mạnh nằm trong thung lũng Tre đen. Hiện tượng kỳ lạ này cũng điển hình cho một thung lũng chết khác ở Trung Quốc nằm trong khu vực miền núi thuộc tỉnh Cát Lâm. Vì những lý do không ai biết, các vụ đâm máy bay liên tục xảy ra tại đó cùng với lượng người mất tích ngày càng tăng lên.


    Những vụ tai nạn hay xảy ra đến nỗi mà những người đi đào củ sâm, vốn rất quen thuộc với khu vực, cũng lần lượt mất tích một khi họ dám đi vào vùng núi. Cứ vào đến đó, la bàn lại quay lung tung và người ra dễ dàng mất trí nhớ và phương hướng. Những người du hành cùng lạc tại một địa điểm nhưng đều không thể tìm được đường ra. Và thung lũng chết ngày càng lấy đi mạng sống của nhiều người xấu số.



    .Bí mật Cửa Mặt trời


    Ở góc Tây Bắc Quảng trường Carachacha trong Thành Tiahuanaco có một bức điêu khắc bằng đá vô cùng lớn và rất nổi tiếng, đó là Cửa Mặt trời - Là một trong những kỳ tích của nền văn minh cổ xưa có tiếng nhất Đại lục Nam Mỹ.
    Cửa Mặt trời do một tảng nham thạch cực lớn trên núi tạo thành một cách hoàn chỉnh: cao 3,1m; rộng 3,96m và nặng hơn 10 tấn. Sở dĩ người ta gọi nơi đây là Cửa Mặt trời vì vào ngày 21 tháng 9, tiết Thu phân hàng năm, những tia nắng bình minh đầu tiên luôn chiếu rọi xuống mặt đất ở giữa cửa đá này.
    Những người đã nhìn thấy Cửa Mặt trời, không ai là không bị khuất phục trước vẻ đẹp hùng vĩ của nó. Trên Cửa Mặt trời có khắc các hình vẽ rất tinh xảo, trong đó nổi bật nhất là hình vẽ Lịch Mặt trời tô điểm trên mi cửa theo chiều ngang. Chính giữa Cửa Mặt trời khắc tượng Phi thần (Thần biết bay). Theo truyền thuyết, ông chính là thánh nhân đã du nhập các loại hình nghệ thuật và chế độ vào Nam Mỹ. Đầu bức tượng đội vương miện vô cùng uy nghiêm, trong tay cầm gậy tô điểm bởi chim tọa sơn điêu, thần sắc mười phần nghiêm túc, 2 hàng lệ nhỏ xuống từ khóe mắt. Đứng hầu 2 hàng trên dưới Phi thần là các dũng sỹ oai phong. Phần dưới của Lịch Mặt trời khắc một loại đồ hình, chúng được xếp liên tục thành hình Kim Tự Tháp. Ngoài ra, ở đó còn vẽ vô vàn các đồ án và văn tự, cho đến nay vẫn chưa lý giải được hàm nghĩa của nó.
    Đứng trước Cửa Mặt trời, người ta luôn đặt câu hỏi: "Cư dân của Thành Tiahuanaco cổ đại tại sao phải kiến tạo cửa đá lớn như vậy?".
    Xét từ điểm tia nắng Mặt trời đầu tiên xuyên qua Cửa Mặt trời và tiết Thu phân thì rõ ràng đây là một kiến trúc có liên quan đến lịch pháp. Rất nhiều học giả cho rằng, hầu hết các hình và ký hiệu được khắc trên Cửa Mặt trời đều có liên quan đến lịch pháp.
    Nhưng những ký hiệu này biểu đạt lịch pháp như thế nào? Người Tiahuanaco làm thế nào để tính toán chính xác mối quan hệ giữa các tia nắng Mặt trời vào tiết Thu phân với vị trí của Cửa Mặt trời.
    Trong cuốn sách "Hiện tượng ngẫu nhiên của Tiahuanaco", hai nhà khoa học Bellermi và Aluan đã nghiên cứu tỉ mỉ các đồ án và ký hiệu của Cửa Mặt trời. Họ cho rằng, phía trên của Cửa Mặt trời đã ghi lại số lượng lớn kiến thức thiên văn, sớm nhất 2.700 năm về trước, mà những tri thức này được tạo nên trên cơ sở Trái đất là hình tròn. Điều này một lần nữa làm cho mọi người đặt câu hỏi: "Người Tiahuanaco tiền sử lẽ nào lại tồn tại ở một nền văn minh đạt đến trình độ cao như vậy?".
    Khi khảo sát Cửa Mặt trời, học giả Hanke người Anh đã phát hiện thấy trên mi Cửa Mặt trời còn khắc những hình động vật thời tiền sử kỳ dị nằm ngoài ý muốn. Loại động vật này có hình thể béo tốt, bốn chân hơi thô, dường như nó là loài tạp giao giữa hà mã và trâu.
    Trong giới động vật ngày nay, dường như từ lâu đã không tồn tại loài động vật nào giống như vậy. Nhưng các nhà sinh vật cổ vừa nhìn thấy chúng đã nhận ra ngay loại động vật hình thù chậm chạp trong hình vẽ là thú răng hở - một loài động vật thời tiền sử đã tiệt chủng.
    Kết quả nghiên cứu chỉ rõ: Thú răng hở sống từ 1.600.000 đến 12.000 năm trước, có lẽ nó là động vật thuộc loại lưỡng cư, có tập tính sinh hoạt giống hà mã ngày nay. Nó là loài động vật có móng phổ biến nhất ở đại lục châu Mỹ đương thời. Loài động vật này dài khoảng 2,8m; cao 1,4m; có 3 ngón chân giống trâu nhưng lại thấp và không có sừng, giữa răng cửa có kẽ hở lớn, do vậy được gọi là thú răng hở. Nhưng nó sớm bị tuyệt chủng từ 12.000 năm trước. Ngày nay, những hiểu biết của con người có được về loài động vật này là từ các hóa thạch đã được phát hiện.
    Vậy, tại sao loài động vật thời tiền sử đã tiệt chủng lại được vẽ trên Cửa Mặt trời? Có hơn 47 chỗ trên mi Cửa Mặt trời đều điêu khắc hình tượng của thú răng hở. Loài động vật xấu xí này không chỉ xuất hiện trên Cửa Mặt trời mà còn thấy chúng vẽ ở bất kỳ nơi nào trên các mảnh gốm vỡ cùng thời đại, trên một vài tác phẩm điêu khắc vẫn còn có hình thể hoàn chỉnh của nó.
    Thực ra, các hình vẽ động vật cổ đại trên Cửa Mặt trời và Feijin chỉ có một loài thú răng hở. Trên các hình vẽ ở Cửa Mặt trời còn có một loài động vật mọc ngà và mũi dài như voi. Ngày nay, loài voi lớn ở Nam Mỹ đã bị diệt chủng. Nhưng theo các tài liệu nghiên cứu, ở thời tiền sử, châu Nam Mỹ đã từng tồn tại một loài động vật giống như loài voi có tên khoa học là Juxiak. Chúng thuộc loài động vật mũi dài, sinh sống đông nhất ở khu vực Tiahuanaco, đoạn phía Nam mạch núi Altis. Nhưng loài động vật này cũng sớm bị tiệt chủng từ khoảng 1 vạn năm trước Công nguyên.
    Loài động vật đã bị tiệt chủng từ khoảng hơn một vạn năm trước, nhiều lần xuất hiện ở Thành cổ Tiahuanaco thể hiện điều gì? Nó chỉ có thể chứng minh những người đầu tiên xây dựng thành Tiahuanaco thường nhìn thấy loài động vật này, loài voi thực sự chứ không phải căn cứ vào trí tưởng tượng để vẽ nên các hình thú răng hở trên Cửa Mặt trời. Do vậy, chúng ta có thể đưa ra phán đoán, niên đại xây dựng thành Tiahuanaco và Cửa Mặt trời không thể muộn hơn từ cuối thời kỳ canh tân đến trước 1 vạn năm trước Công nguyên.
    Nhưng Kim Tự Tháp Ai cập được xây dựng khoảng 2.600 năm trước Công nguyên. Trong khi đó, nền văn minh Sumer sớm được công nhận nhất trên Thế giới cũng chỉ bắt đầu từ 3.300 năm trước Công nguyên. Lịch sử loài người di cư đến châu Mỹ được dự tính khoảng 1 vạn năm trước Công nguyên mà thời gian đến châu Mỹ lại càng muộn hơn. Vậy 12.000 năm trước, ai là người xây dựng nên thành Tiahuanaco hùng vĩ và Cửa Mặt trời vô cùng kỳ diệu đó, trong khi thế giới đương thời vẫn trong cảnh mômg muội tối tăm?
    Điều càng làm cho người ta nghi hoặc là Cửa Mặt trời - Một kiệt tác ngày nay không gì có thể sánh kịp lại không được hoàn thành trọn vẹn. Đó là trên mi cửa lộ rõ những hình vẽ còn dang dở. Không lẽ, đột nhiên có một ngày công việc điêu khắc bỗng dừng lại? Vậy nơi đây bổng xảy ra sự việc gì hay đó là một tai nạn bỗng nhiên ập đến?

    Cửa Mặt trời (Thái Dương môn) - Cánh cửa thần bí - Cửa của trí tuệ. ( Vietbao.vn)


    .Bí ẩn về Sacsayhuaman và Tiahuanaco thần bí

    Ở châu Nam Mỹ có 2 nơi thần bí: Sacsayhuaman và thành Tiahuanaco hấp dẫn đông đảo các nhà khảo cổ trên thế giới.
    Ở Tiahuanaco thần bí, trong vũng bùn đã khô cạn các nhà khảo cổ tìm thấy một loại lịch thiên văn đưa ra những căn cứ và sự thực, chứng minh rằng: Sinh vật làm ra và sử dụng loại lịch thiên văn này có một nền văn mình và văn hóa cao hơn rất nhiều so với loài người chúng ta ngày nay. Ở đây các nhà khảo cổ còn có một phát hiện kỳ lạ nữa là Tượng đại thần. Tượng thần được tạc bởi nguyên một khối nham thạch màu hồng, dài 8,5m nặng hơn 30 tấn, được tìm thấy trong Cổ thần miếu. Các nhà khoa học đã không thể lý giải được hàng trăm ký hiệu vô cùng tinh xảo trên áo của tượng thần và kỹ thuật xây dựng công trình kiến trúc để bảo tồn tượng thần rất nguyên thủy nhưng lại vô cùng siêu việt. Chính từ sự nguyên thủy của kỹ thuật xây dựng này mà công trình đó mới được gọi là Cổ thần miếu.
    Belami và Aron trong cuốn "Tượng đại thần của Tiahuanaco" đã có những giải thích tương đối hợp lý đối với những ký hiệu đó. Họ cho rằng, những ký hiệu này ghi lại rất nhiều kiến thức thiên văn học, hơn nữa những tri thức đó lấy sự thực Trái đất hình tròn làm cơ sở. Những quan điểm này của họ hoàn toàn đồng nhất với quan điểm của Horbeca trong cuốn "Học thuyết vệ tinh". Trong khi đó, cuốn sách của Horbeca xuất bản năm 1930 sớm hơn 5 năm so với việc phát hiện ra bức tượng thần. "Học thuyết vệ tinh" chỉ ra, có một vệ tinh đã từng bị Trái đất hút. Khi vệ tinh bị kéo về phái Trái đất thì tốc độ quay của Trái đất trở nên rất chậm, cuối cùng thì vệ tinh bị vỡ ra làm nhiều mảnh và sản sinh ra Mặt trăng. Những ký hiệu trên tượng thần cũng ghi lại một cách chính xác lý luận về hiện tượng thiên văn này. Hồi đó, một năm Trái đất có 290 ngày, mỗi năm vệ tinh quay quanh Trái đất 427 vòng. Do vậy, tính ra lịch thiên văn trên tượng thần đã ghi lại hiện tượng thiên văn từ 27.000 năm trước. Belami và Aron đã viết trong sách: "Nói tóm lại là ấn tượng của bài văn trên tượng thần là một ghi chép để lại cho hậu thế".
    Nói một cách chính xác, tượng thần đó là một vật rất cổ. Nếu chỉ nói rằng "đây là tượng thần cổ đại" thì chưa chuẩn nên các nhà khoa học cần có một cách giải thích chính xác hơn nữa. Nếu cách giải thích của Belami và Aron đủ chứng thực thì không thể không đặt câu hỏi: Như vậy, ngay cả việc xây nhà cũng cần phải học tập những người có khả năng tích lũy những kiến thức thiên văn ấy ư? Những kiến thức ấy họ học từ đâu, có thể nào từ một nền văn minh của người ngoài hành tinh? Bất luận thế nào, tượng thần và lịch thiên văn ấy đã thể hiện tính phức tạp của một tri thức làm cho chúng ta vô cùng kinh ngạc.
    Thành Tiahuanaco nằm trên cao nguyên cao 5000m so với mực nước biển còn chứa đầy những điều thần bí. Xuất phát từ Cuzco của Vicero, đi mấy ngày tàu biển và tàu hỏa chúng ta mới đến được địa điểm khai quật thành phố. Cảnh tượng cao nguyên này trông giống như một hành tinh khác:
    Về mặt sức khỏe, đối với một người không phải là dân bản địa thì khó có thể chịu đựng được bởi áp suất ở đây rất thấp, chỉ bằng khoảng 1/3 so với mặt biển; hàm lượng dưỡng khí trong không trung vô cùng ít, chỉ chiếm 1/3 mức bình thường. Nhưng trên cao nguyên này đã từng có một thành phố. Bây giờ chỉ còn lại một đống phế tích hoang tàn, khắp nơi đầy những dấu ấn bí mật cổ xưa thần bí khôn lường. Bức tường của Thành Tiahuanaco được xây bằng những tảng nham thạch nặng 150 tấn, xếp lên những tảng đá nặng 70 tấn. Mặt ngoài của đá được mài sáng bóng, độ lớn của các góc ghép với nhau cũng chính xác tuyệt đối, đều dùng mộng bằng đồng để liên kết, thế mà chúng gắn với nhau rất chặt. Ở một số tảng đá nặng khoảng 10 tấn, các nhà khảo cổ học phát hiện ra một số lỗ sâu tới 3m, những cái lỗ này được dùng để làm gì cho tới nay vẫn chưa ai giải thích được.
    Từ một tảng đá bảy lên, người ta nhìn thấy ở dưới có những phiến đá mài lớn dài tới 5m, có những vòi nước bằng đá dài 2m to 1m giống như những thứ đồ chơi rơi lả tả trên mặt đất. Có thể những di vật này do một đại họa nào đó tạo nên, những ống nước này được chế tác rất tinh xảo so với ống nước xi măng cực chuẩn ngày nay cũng còn thua kém nhiều. Tổ tiên của người Thành Tiahuanaco không có những công cụ tiên tiến, tại sao họ lại làm ra được những ống nước vô cùng tinh xảo như vậy? Điều này thực sự cho tới nay chưa ai giải thích được.
    Trong cái sân đã được sửa chữa, các nhà khảo cổ tìm thấy một đống lộn xộn với những đầu tạc tượng bằng đá. Nhưng khi xem kỹ lại mới thấy những đầu tượng này thể hiện nhiều giống người khác nhau: người môi mỏng, người môi dày, người mũi dài, người mũi tẹt, người tai to dày, người tai nhỏ mỏng, người lộ rõ góc cạnh, người ôn hòa nhã nhặn và còn có một số đầu tượng đội những cái mũ kỳ lạ. Tại sao có nhiều giống người khác nhau đến thế?
    Ở đây còn có Cổng Mặt trời được làm từ một tảng đá nguyên khối lớn, nặng tới khoảng 10 tấn. Hai bên Cổng có những bức đồ án hình vuông, quây lấy một bức tượng giống như tượng phi thần (Thần biết bay). Truyền thuyết của Thành Tiahuanaco kể lại rằng, ngày xưa có một phi thuyền từ trên trời bay xuống. Từ phi thuyền có một phụ nữ tên là Malianna bước ra với nhiệm vụ sẽ trở thành "Người phụ nữ vĩ đại" của Trái đất. Malianna chỉ có 4 ngón tay, giữa các ngón tay đều có màng. Bà mẹ vĩ đại Malianna sinh được 70 người con cho Trái đất, sau đó bay về trời. Ở Tiahuanaco cũng có bức tường đá vẽ một sinh vật có 4 ngón, tuy nhiên niên đại của bức tranh này chưa thể xác định được.
    Ngoài Thành Tiahuanaco ra, di tích đáng để người ta nói tới là Pháo đài Sacsayhuaman, cách thành Inca nổi tiếng không đầy 900m. Chúng ta không thể tưởng tượng nổi vào thời ấy các cư dân ở đây đã dùng kỹ thuật gì mà từ bãi đá họ chọn ra những tảng đá lớn nặng tới hơn 150 tấn, sau đó vận chuyển tới một nơi rất xa để tiến hành gia công đục đẽo Pháo đài phòng ngự Sacsayhuaman. Khi đã đục đẽo đủ 4 tầng, họ chuyển pháo đài về đặt trong một núi lửa. Tảng đá khổng lồ này đã được điêu khắc tinh xảo và tỉ mỉ, có hình thang và sườn dốc, có hốc mắt và đường hoa văn hình xoắn ốc trang trí, làm nên một tảng đá lớn vô tiền khoáng hậu như vậy chẳng phải là cái thú nhàn tản của người Inca cổ ư? Nhưng thật khó tưởng tượng nổi người Inca cổ có thể dùng bàn tay của mình, dựa vào chính sức lực của mình để khai thác rồi vận chuyển và đục đẽo những tảng đá khổng lồ thành một pháo đài đẹp kỹ vĩ. Chắc hẳn, để làm được việc này họ cần phải có một sức mạnh ghê gớm. Nhưng người Inca cổ làm việc này để đạt mục đích gì và đã làm như thế nào?
    Ngoài ra, ở một nơi cách tảng đá khổng lồ trên 800m các nhà khảo cổ còn phát hiện thấy một tảng nham thạch dạng pha lê, loại nham thạch này chỉ có thể hình thành từ đá nung với nhiệt độ cực cao.
    Nơi cỏ dại um tùm của thành Tiahuanaco còn có những ngọn núi nhỏ, những ngọn núi này đích thực là do con người tạo nên. Đỉnh núi bằng phẳng, diện tích rộng 5000m2. Không biết những ngọn núi ấy có tàng trữ vật liệu kiến trúc gì không? Cho đến nay, vẫn chưa có ai tìm hiểu về điều kỳ diệu này.
    ( Theo dddn.com.vn)

    .Bí mật về cột trụ xi măng thời tiền sử


    Đảo Tân Calêdonia - Nouvelle Calédonie ở phần Tây Nam Thái Bình Dương là một trong những đảo lớn nhất của Nam Thái Bình Dương. Theo ghi chép, năm 1768 người Pháp đã từng đặt chân đến đây, năm 1774 con tàu mẫu hạm của nhà hàng hải nổi tiếng người Anh, James Cook (1729- 1779) đã từng diễu qua hòn đảo nhỏ này. Ông thấy rừng rậm nơi đây dày đặc, cây xanh sinh trưởng khắp nơi, khí hậu trong lành.

    Cook cảm thấy cảnh tượng nơi đây vô cùng giống với quê hương mình bèn lấy tên cổ của Scotland là Calédonie thêm chữ Tân (Nouvelle) ở trước để đặt cho hòn đảo này. Bởi vậy, đảo ấy có tên là Tân Calêdonia.
    Ở nơi cách Tân Calêdonia 40 hải lý về phía Nam có một đảo nhỏ gọi là Baien, từ xưa đến nay chưa từng có ai cư ngụ ở đó. Nhưng trên hoang đảo nhỏ này lại có khoảng 400 gò đất kỳ quái. Chúng được xây nên từ cát và đá cao khoảng 2,5-3m, mặt nghiêng khoảng 90m. Trên gò đất không có bất kỳ một loại thực vật nào sinh trưởng, cảnh vật vô cùng hoang vắng. Những người đã từng đến đây cho rằng, đó là các di chỉ từ thời cổ đại.
    Năm 1960, nhà khảo cổ học Cheliwa đến hòn đảo nhỏ này tiến hành khai quật các di chỉ. Ông đã khám phá một điều ngoài sức tưởng tượng, đó là trên 3 di chỉ cổ ở giữa đều có 1 cột trụ xi măng nằm song song với nhau. Những cột trụ này cao từ 1m đến 2,5m, trong xi măng của cột trụ còn lẫn vỏ ốc, vỏ sò vỡ. Cheliwa vô cùng kinh ngạc bởi ông biết xi măng mới được phát minh từ thế kỷ XIX cho dù là hỗn hợp đất đá xám tương tự như xi măng cũng chỉ được người La Mã cổ đại tìm ra trong khoảng năm 500 đến 600 trước Công nguyên. Ông đã mời những nhà nghiên cứu khoa học đến để dùng phóng xạ kiểm tra các cột trụ này. Trắc nghiệm đã cho thấy, niên đại của những cột trụ xi măng này vào khoảng năm 10950 - 5120 trước Công nguyên. Cũng có thể nói, những cột trụ xi măng của đảo Baien được xuất hiện từ thời kỳ đồ đá, sớm hơn rất nhiều so với thời đại La Mã cổ.
    Điều thú vị hơn là, theo cách nói của những nhà sử học xưa, người đầu tiên đã từng đến Tân Calêdonia vào khoảng 2000 năm. Cũng có thể nói trước thời gian đó, đảo Tân Calêdonia không có người cư trú, đây là một vùng hoang vắng nguyên sơ không hề có ánh lửa của con người, ngay cả bây giờ cũng không có ai sống trên hoang đảo Baien này. Cho đến năm 1792, người Pháp mới tiến hành khám phá đảo lần đầu tiên, sau này họ biến nơi đây thành nơi lưu đày tội phạm. Sau 100 năm, đảo Baien mới được chính thức coi là lãnh địa vĩnh viễn của Pháp. Vậy, ai là người vận dụng kỹ thuật phức tạp làm ra xi măng 5000 trước Công nguyên. Chẳng lẽ không có ai trên đảo này làm nên những cột trụ xi măng ư?
    Theo phán đoán, phương pháp chế tác đương thời là đắp các gò đất, sau đó rót xi măng vào làm cho đông cứng lại. Nhưng xung quanh những cột xi măng này lại không hề có bất cứ dấu tích nào về hoạt động của con người. Bởi vậy, người ta vẫn không có phương pháp nào biết được ai là người chế tạo nên các cột trụ xi măng. Có thể nói, những cột trụ xi măng này có tác dụng gì vẫn là một trong những điều khó giải thích trong kho tàng bí mật của nhân loại.

    ( Theo ximangdienbien.com)

    .Bí mật về bức họa cổ trong huyệt động châu Úc –

    Ngoài châu Âu, châu Phi và châu Mỹ, những năm gần đây các nhà khảo cổ học phát hiện ra những mẫu hóa thạch, tranh vẽ trên tường thời tiền sử ở Australia. Các nhân vật trên những bức bích họa này có hình thù đặc biệt kỳ quái, nó khác biệt rất lớn so với các bức họa viễn cổ xưa ở các vùng khác và mang đầy sắc thái thần bí.
    Trong một huyệt động ở Kimberleys nước Australia, các nhà khảo cổ phát hiện ra một bức bích họa thời cổ đại trông rất kỳ quái. Người đàn ông trên bức họa là một ông già mặc áo bào dài, đầu đội mũ sắt tròn, trên mũ sắt chỉ lộ ra hai con mắt trông giống như mũ của các nhà du hành vũ trụ làm cho người ta không nhìn thấy diện mạo của ông. Trên bức họa viết những văn tự mà chưa có ai nhận biết được. Phía trên của nhân vật này vẽ 62 vòng tròn nhỏ chia làm 3 hàng không theo quy tắc nào cả, hàng gần bên trái nhất có 21 vòng tròn nhỏ, hàng giữa có 24 vòng tròn nhỏ, hàng gần nhân vật nhất chỉ có 17 vòng tròn nhỏ.
    Vậy nhân vật trên bức bích họa là ai? Có người nói, đó là một thiên thần nhưng phục sức của ông ta lại không giống thiên thần mà giống như một phi công vũ trụ trong tiểu thuyết khoa học viễn tưởng.
    Trong động nham thạch ở trên núi Ailen, các nhà khảo cổ cũng phát hiện ra một số bức họa trên vách đá vô cùng kỳ quái. Diện tích của những bức họa này rất lớn, màu sắc sặc sỡ, trên đó vẽ rất nhiều người và động vật có hình thù kỳ quái, thân cao khoảng 6m, không có miệng nhưng trên đầu có những sợi râu quay về 4 hướng. Điều này có lẽ biểu thị ánh sáng phát ra từ đầu họ.
    Ở những nơi khác nhau của Australia, người ta cũng phát hiện ra những bức bích họa xưa tương tự, được điêu khắc bằng những đường nét rất tinh tế mà bí ẩn khiến cho các nhà khảo cổ phải mất nhiều trí lực nghiên cứu.
    Có người cho rằng, những hiện tượng này là kiệt tác của người ngoài hành tinh. Cũng có bộ phận khác lại không đồng ý với cách nói này. Nhưng đáp án sát thực nhát là gì? thì chưa có ai trả lời được.

    ( Theo dddn.com.vn)

    .Những tấm bản đồ cổ đại thần bí

    Đầu thế kỷ XVIII, một loạt bản đồ cổ đại của Tư lệnh Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ - Ruis cất giữ tại cung điện Tokabi được phát hiện. Trong số đó, bản đồ về địa hình khu vực Địa Trung Hải và Biển Chết được vẽ rất chính xác. Toàn bộ số bản đồ này đã được giao cho chuyên gia vẽ bản đồ người Mỹ - Melerui kiểm tra và nghiên cứu.
    Trong quá trình nghiên cứu, Melerui đã phát hiện ra một sự thật bất ngờ và quan trọng. Tất cả các vị trí địa lý trên thế giới hiện nay đều đã được đưa lên bản đồ này, chỉ có điều vị trí hơi lệch nhau một chút mà thôi. Melerui nhờ Watts - một chuyên gia vẽ bản đồ mực nước biển của hải quân Mỹ cùng giúp đỡ nghiên cứu. Melerui cùng Watts đo tọa độ, biến tấm bản đồ thành một dụng cụ địa cầu hiện đại hóa. Hai ông cùng phát hiện thấy những tấm bản đồ này vẽ các vị trí địa lý trên thế giới cực kỳ chính xác chứ không riêng gì vị trí của Địa Trung Hải và Biển Chết.
    Tuyến bờ biển dọc Nam Mỹ và Bắc mỹ, thậm chí cả hình dáng của Cực Nam cũng đều được vẽ một cách tỷ mỷ trong bản đồ Ruis. Ở đó không chỉ phục chế hình dáng của đại lục, vẽ tỷ mỷ sự phân bố địa hình trong đất liền mà còn chứa đựng những điểm cực kỳ chính xác, biểu thị đầy đủ núi, dãy núi, đảo, sông, suối và cao nguyên.
    Điều khiến người ta kinh ngạc là dãy núi ở cực Nam đến năm 1852 mới phát hiện ra, nhưng nó đã được vẽ đầy đủ trên bản đồ Ruis. Đó là những dãy núi đã bị băng tuyết bao phủ hàng trăm năm, ngày nay chúng ta phải nhờ vào sự trợ giúp của máy thu hồi âm thanh mới trắc họa được bản đồ.
    Năm 1957 là năm vật lý toàn cầu, toàn bộ số bản đồ cổ đại này được chuyển giao cho Linnihan - Cha cố Đạo Gia tô. Ông là chuyên gia vẽ bản đồ của hải quân Mỹ, đồng thời là đài trưởng Đài thiên văn Weistơn. Sau khi nghiên cứu tỷ mỷ, Cha cố Linnihan cũng phải thừa nhận rằng, những tấm bản đồ này được vẽ một cách chính xác lạ thường, kể cả khu vực mà cho đến nay vẫn còn khó thăm dò khảo sát nhất.
    Những tấm bản đồ của vị Tư lệnh Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ không phải là tư liệu nguyên thủy nhất và sớm nhất mà chỉ là tư liệu phục chế. Theo các nghiên cứu mới nhất của Giáo sư Hatous so sánh với những tấm ảnh chụp mới nhất về Trái đất, do vệ tinh nhân tạo cung cấp thì có thể nhận thấy, tư liệu nguyên thủy trong bản đồ Ruis nhất định đã được đứng ở một vị trí rất cao chụp xuống. Điều này thật khó giải thích.
    Chẳng lẽ các nhà địa chất lại biến những tấm bản đồ trở thành câu chuyện thần thoại chỉ để nghe mà biết? Hay vì những tấm bản đồ này không hợp với những tấm bản đồ được chúng ta tưởng tượng nên chúng ta coi nhẹ những kỳ tích đó? Hay những tấm bản đồ đó được chụp trắc họa từ một máy bay bay ở tọa độ cao hoặc ngồi trong tàu vũ trụ chụp xuống?

    ( Theo dddn.com.vn)

    .Người tai dài trên đảo Easter

    Năm 1772, khi nhà thám hiểm Rogewe người Hà Lan bước chân lên đảo Easter (Easter có nghĩa là Lễ phục sinh) đã vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện ra trên đảo ngoài những bức tượng được người ta thán phục, còn có số cư dân được kết hợp bởi 2 quần thể có đặc trưng rất khác nhau: Một trong số đó chắc chắn là người da đỏ ở Châu Đại Dương, dân số đông nhất; hai là người da trắng, râu tóc có màu hung hoặc vàng. Ở dái tai có đeo những con súc sắc dài tới 10-15cm, nên tai trông rất dài, người dân địa phương bèn gọi là "Người tai dài".
    Những người tai dài đó hợp thành tầng lớp võ sỹ của Vương quốc. Theo truyền thuyết của cư dân trên đảo Easter, tổ tiên của họ có từ rất sớm, so với sự thám hiểm của người Hà Lan là 55 đời, vào khoảng 400 sau Công nguyên, họ đến từ phương Đông. Còn người Polynesia (Người tai ngắn), họ đến từ Polynesia phía Tây, sớm hơn so với sự phát hiện của người Hà Lan là 22 đời. Được sự đối đãi hữu hảo của người tai dài, hai chủng tộc cùng sống hòa bình với nhau trong một thời gian dài. Nhưng về sau do những bất đồng về văn hóa, sinh hoạt và khác nhau về nhu cầu đòi hỏi mà không thể dung hòa nên đã xảy ra xung đột chiến tranh. Cuối cùng, người Polynesia giành chiến thắng, và đã tiêu diệt được Người tai dài. Câu chuyện này xảy ra vào giữa những năm 1660-1700 sau Công nguyên.
    "Người tai dài" với 1000 nhân khẩu đã để lại dấu ấn rất lớn trên đảo Easter: Những bức tượng bằng đá khổng lồ, những con đường, hang động được đục vào vách đá cứng, đài quan sát thiên văn được đặt trên úi Lanocan một công trình nặng nền rất khó xây dựng, nếu xem xét với con mắt của người hiện đại bây giờ thật không dám nghĩ tới, thậm chí là không thể.
    Theo truyền thuyết cổ xưa trên đảo, từ xa xưa có một số người Vilacohas (người bay) đã hạ cánh xuống chính nơi này. Đây cũng là lý do khiến họ có sự sùng bái "người chim" đặc biệt. Trên núi Lanocan, người ta còn tìm thấy rất nhiều hòn đá được đục đẽo khắc họa, mô tả những người có đầu và đôi cánh dài như chim, hay một loài người kỳ lạ với cái đầu tròn dài và con mắt tròn to tướng.
    Trong truyền thuyết nhắc tới Vilacohas cũng có thể giúp các nhà khảo cổ tìm được manh mối của chủng người này. Truyền thuyết của người Inca nói rằng, Thần tuổi già Vilacohas đã sáng tạo ra Thế giới ở một nơi mịt mù không ánh sáng Mặt trời. Ông ta đã dùng đá để tạc nên một đám người khổng lồ, do đám người khổng lồ này trọc tức ông, ông bèn đem tất cả chúng dìm xuống nước rất sâu, làm cho chúng không bao giời thoát ra được. Sau đó, ông cho Mặt Trăng và Mặt Trời mọc lên từ Hồ Titicaca, từ đó Trái đất của chúng ta mới có ánh sáng. Mặt khác, ông ta còn đem nghệ thuật vào ngôn ngữ dạy cho những vật mà mình tự sáng tạo ra, lại đưa từng hóm tới các nơi trên đất liền. Sau khi xong việc, vị Thần tuổi già này bèn đem theo hai tùy tùng đi đến nơi để kiểm tra xem những lời răn dạy của mình có được tuân thủ hay không, kết quả thi hành đến đâu.
    Thần Vilacohas đóng giả thành một ông già men núi Andès và dọc bờ biển đi ngao du khắp nơi. Vì liên tục nhận được sự đối đãi thô bạo nên vị thần nóng giận bừng bừng, muốn đem tất cả thiêu hủy hết. Mọi người thấy tình cảnh này, vội vã cầu cứu, mong ông rộng lòng tha thứ, ông bèn dập tắt ngọn lửa.
    Để tỏ lòng biết ơn, người dân đã cho xây dựng rất nhiều miếu thờ ở khắp mọi nơi. Sau này ông đã biến vào biển cả, và dặn sẽ còn quay lại. Khi thực dân Tây ban Nha đến vùng đất này, họ còn được nghe rất nhiều truyền thuyết về việc còn quay trở lại của con Thần Mặt trời.

    ( Theo khoahoc.com.vn)[/FONT]



     
  19. Những chuyện kỳ bí chưa có lời giải đáp P5

    [FONT=&quot]Những tảng đá bí ẩn ở Australia

    Các nhà cổ sinh học Australia đã chứng minh được rằng những vật thể bằng đá bí ẩn có tuổi 3,5 tỉ năm thực ra là hoá thạch những cơ thể sống. Từ trước tới nay chưa bao giờ có sự mô tả kỹ lưỡng đến vậy về sự khởi đầu sự sống trên trái đất.
    Thế giới mà các nhà khoa học thuộc Trung tâm sinh học thiên văn Australia mô tả trên tạp chí “Nature” số ra mới đây là thế giới của gần 3,5 tỷ năm trước, từ thời cổ đại.

    Bạn hãy tưởng tượng đang đứng trên bờ biển. Phía sau bạn, đất liền được cấu tạo bởi những tảng đá bazan sẫm màu. Không nghe tiếng sóng vỗ bởi vì lúc này là lúc triều xuống. Nước biển rút đi, để lộ ra đáy vùng đầm phá. Bạn hãy để ý đến một “lớp thảm” trơn, dính phủ trên đáy phá. Đó chính là hệ sinh thái cổ xưa nhất trái đất. Cư dân chính của hệ sinh thái là loài cyanophyta – những cơ thể đơn bào nguyên thuỷ. Chúng còn chưa có nhân tế bào nhưng đã khá phát triển để có thể quang hợp được.


    Sự sống có thể bắt nguồn từ đâu đó – dưới đáy đại dương, cạnh những khe nứt mà từ đó phun lên những dòng nước nóng cùng các khoáng chất, nhưng sau đó nó phát triển ở những vùng nước mặn nông, gần bờ biển cổ đại, nơi có ánh sáng mặt trời.


    Nhờ việc quan sát thảm cyanophyta hiện nay mà chúng ta biết được rằng nó phát triển khá chậm chạp. Những vi sinh vật sống trên bề mặt thảm tạo thành một lớp khoáng chất mỏng. Sau khi chúng chết đi, trên lớp khoáng chất này lại phát triển thế hệ vi sinh vật mới. Bằng cách này, cyanophyta tạo ra những lớp mỏng, có độ dày chừng 1-2 milimet.


    Từ những lớp khoáng chất mỏng này, mọc lên những tảng đá có hình trụ, hình nấm, hình nón hoặc “hình súp lơ”. Một số tảng đá đạt đến chiều cao vài ba mét. Khi chúng mọc lên từ đáy phá, chúng trông giống như vỉa san hô. Các nhà khoa học gọi chúng là những “tảng đá nền”. Thành phần hoá học của chúng thông thường là hợp chất của canxi hoặc silic. Tuy nhiên, nếu chúng ta cắt ngang một “tảng đá”, chúng ta sẽ thấy bên trong có lớp ruột mềm mại.


    Hiện nay, “đá nền” có thể tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới – nhưng nổi tiếng nhất vẫn là “đá nền” ở Vịnh Cá mập thuộc Australia, bên bờ Ấn Độ Dương. Tuy nhiên, điều cuốn hút các nhà khoa học lại là những mẫu vật khảo cổ học, trong đó có những “tảng đá nền” có tuổi gần 3,5 tỷ năm, khai quật được ở vùng Kraton Pilbary, tây bắc Australia. Đây là vùng đất đặc biệt còn sót lại của một trong những lục địa đầu tiên trên trái đất. (Những vùng đất có đặc tính địa chất tương tự như vậy không có nhiều: Nam Phi, Greenland, một phần
    Canada, Đông Âu).

    Vùng Kraton Pilbary có diện tích nửa triệu kilômét vuông có ý nghĩa đặc biệt đối với các nhà khoa học, bởi vì nơi đây có rất nhiều những mảnh sót lại của “đá nền”. Người đầu tiên tìm thấy chúng, nhiều năm trước đây, là Stan Awramik (trường ĐH
    California). Những mảnh “đá nền” xuất hiện ở nhiều nơi, đặc biệt là vùng ngoại vi thị trấn Marble Bar. Địa điểm này đã thu hút rất nhiều chuyên gia cổ sinh học và địa chất học, và thậm chí có cả những nhà nghiên cứu về sao Hoả, bởi lẽ những cấu trúc tương tự có thể cũng xuất hiện trên hành tinh này. Việc tìm thấy những cấu trúc này trên sao Hoả sẽ là bằng chứng cho thấy sự sống đã từng tồn tại ở trên đó.

    Một trong những địa điểm khảo cổ nổi tiếng ở Karton Pilbary là Strelley Pool, nơi có các “vỉa đá nền” với bề dày từ 10 đến 20 mét và kéo dài hơn 10 km. Người ta phát hiện ra nó vào những năm 80 thế kỷ trước và hiện nay người ta nghiên cứu nó kỹ nhất. Tất cả chủ yếu là nhờ công lao của nữ tiến sĩ trẻ Abigail Allwood, người suốt vài ba năm qua đã tỉ mỉ nghiên cứu từng lớp mỏng các “đá nền” ở Strelley Pool. Cùng hỗ trợ với Abigail là một trong những chuyên gia nổi tiếng thế giới về “đá nền” – GS Malcolm Walter người
    Australia. Hai nhà nghiên cứu này cùng 3 trợ lý đã phát hiện ra lịch sử một phần biển nông mà trong đó loài cyanophyta sống cách đây 3,43 tỷ năm tạo nên “tấm thảm vi sinh” nổi tiếng. Các nhà khoa học đã phân loại 7 biến thể “đá nền” theo hình dáng và kích thước.

    Mục đích chính của các nhà nghiên cứu
    Australia là thuyết phục những người còn nghi ngờ về nguồn gốc sinh học của những tảng “đá nền” đầu tiên. Một số nhà khoa học hiện còn cho rằng những tảng đá này mọc lên trong quá trình biến đổi hoá học chứ không phải là kết quả hoạt động của các vi sinh vật, do vậy, mọi tìm kiếm dấu vết sự sống ở trên những tảng đá này là sai lầm!

    Cũng tương tự như vậy, người ta đã từng hoài nghi về nguồn gốc những kết cấu hình cầu trong thiên thạch ALH84001 tìm thấy vào năm 1984 tại
    Nam cực.

    “Đá nền” ở Strelley Pool, mặc dù chưa phải là những tảng đá già nhất, nhưng cũng đủ để trở thành nơi lý tưởng để nghiên cứu về vai trò của cyanophyta, bởi vì chúng được bảo quản một cách tuyệt vời. Nhà nghiên cứu Awramik (ĐH
    California) khẳng định: “Những nghiên cứu này sẽ kết thúc cuộc tranh luận về đề tài: loài cyanophyta đã từng sống trên trái đất 3,5 tỷ năm trước hay không. Những “tảng đá nền” cổ đại tại Australia chính là tác phẩm của cyanophyta”.

    Nguồn: Science, gdtd.com.vn, số 78, 01/07/2006


    .Một bí ẩn lớn nhất trong lịch sử loài người


    Không nơi nào trên thế giới lại có thể khuấy động trí tưởng tượng của con người đến như vậy. Đó chỉ có thể là sa mạc Nazca. Nơi đây, những đường thẳng với tên gọi Nazca là một trong những bằng chứng đáng kinh ngạc và khó lý giải về sự hiện hữu của một nền văn minh cổ đại hoàn toàn khác với nền văn minh của chúng ta. Dù đã có nhiều nghiên cứu nghiêm túc của các nhà khoa học, Nazca vẫn tiếp tục là "hiện tượng bí ẩn nhất trong lịch sử loài người".


    Những đường thẳng và hình vẽ lạ kỳ trên sa mạc chỉ được phát hiện vào năm 1927 sau chuyến bay đầu tiên trên bầu trời
    Peru. Năm 1939, giáo sư người Mỹ Paul Cosock đã dùng một chiếc máy bay nhẹ để quan sát sa mạc Nazca từ trên cao, và ông đã không tin vào mắt mình khi nhìn thấy hình một con chim cách điệu khổng lồ trên sa mạc. Bên cạnh đó là một "tuyến đường" thẳng một cách đáng kinh ngạc. Đường thẳng này cắt ngang qua địa hình mấp mô của sa mạc và mất hút ở phía chân trời. Sau đó người ta còn tìm thấy nhiều đường thẳng khác nằm song song với nhau, hay tạo thành các hình hình học và tả thực khác có kích thước từ 60 đến 250m. Người ta có thể nhận ra hình dáng của một con nhện khổng lồ, một con khỉ có đuôi xoắn ốc, hay hình cá voi, chim, chó... Tuy nhiên, gây được chú ý nhiều nhất chính là bức vẽ trên một sườn núi mô tả một người khổng lồ đi giày ống có đầu khá to đang giơ tay lên như vẫy chào.

    Sau khi được phát hiện, sa mạc Nazca đã trở thành nơi hấp dẫn những con người lập dị. Erich Von Daniken - tác giả của tập sách nổi tiếng "Những ký ức của tương lai" sau khi tìm hiểu những đường thẳng và hình vẽ trên sa mạc, tuyên bố, Nazca đã từng là trạm tiếp nhiên liệu của các con tàu vũ trụ giữa các dải ngân hà. Jim Woodman - một người điều khiển khinh khí cầu, thì suýt mất mạng khi tiến hành một thực nghiệm nguy hiểm nhằm chứng minh người cổ đại ở
    Peru đã biết sử dụng khí cầu... Nhưng nhà thám hiểm vĩ đại nhất của sa mạc Nazca lại là nhà toán học nữ Maria Reihe. Chỉ bằng cái chổi đơn giản để làm xuất lộ các hình trên mặt đất, bà phải dọn dẹp sạch sẽ sa mạc này trong hơn 50 năm, với ý định làm sáng tỏ những bí ẩn của nó.

    Lần đầu tiên Maria đến sa mạc này cùng với Paul Cosock. Trong khi các nhà nghiên cứu khác quay trở lại Mỹ, bà đã tình nguyện ở lại nơi này và dâng hiến trọn đời mình để nghiên cứu những đường thẳng lạ lùng. Hàng ngày bà thực hiện cả núi công việc mà không được trả bất cứ một đồng xu nào. Hàng giờ liền, bà mạo hiểm mạng sống của mình khi treo mình trong một cái giỏ bằng dây thừng tự tạo buộc vào máy bay để chụp các hình vẽ và các đường thẳng Nazca. Nhờ sự kiên trì không mệt mỏi của bà, những đường thẳng và hình vẽ trên sa mạc đã được gìn giữ và cuối cùng được Chính phủ
    Peru công nhận và bảo vệ. Cống hiến của bà cho công cuộc nghiên cứu văn hoá cổ được đánh giá rất cao và bà được người Peru gọi là "Mẹ của sa mạc".
    K.T.H (Theo Pravda/Vietbao.vn)

    Bí ẩn trí nhớ về kiếp trước

    Một cô bé người Anh đã làm mọi người kinh ngạc vì bắt đầu nói bằng thứ ngôn ngữ khác lạ vào một buổi sáng sau khi thức giấc. Cô không còn hiểu được tiếng Anh, không nhận ra cha mẹ và luôn tỏ ra sợ sệt...
    Các chuyên gia vào cuộc và xác định, cô bé hoàn toàn khỏe mạnh và thứ ngôn ngữ lạ mà cô sử dụng chính là tiếng Tây Ban Nha chuẩn. Bằng thứ tiếng này, cô cũng khẳng định mình là người Tây Ban Nha, rằng tại thành phố Toledo, trong một ngôi nhà trên đường phố, người hàng xóm vì ghen tị đã dùng dao đâm cô.
    Cảnh sát Tây Ban Nha đã kiểm tra lại câu chuyện này; tất cả đều trùng hợp. Đúng là có một cô gái 22 tuổi từng sống ở Toledo, chính trong ngôi nhà và đường phố mà cô bé ở Anh đã nói đến. Một hôm, người ta tìm thấy cô bị giết chết. Cha mẹ cô đã già và tới nay vẫn còn than khóc vì thương nhớ con. Khi hỏi đến người hàng xóm nay cũng đã già, người này thú nhận tội ác của mình.
    Báo chí thế giới đăng tải câu chuyện trên khiến nhiều người kinh ngạc. Nhưng các nhà khoa học thì không ngạc nhiên vì đối với họ, hiện tượng đó không phải là mới.
    Vào những năm 1970, Elena Markard - cô gái Đức 20 tuổi ở Tây Berlin - bị thương nặng. Khi tỉnh lại, cô bắt đầu nói tiếng Italy rất chuẩn - thứ tiếng mà trước đó một chữ cắn đôi cô cũng không hề biết. Cô khẳng định tên mình là Rozetta Liani, sinh ở Italy năm 1887 và đã... chết ở đó năm 1917. Khi được đưa tới địa chỉ "quê cũ" tại Italy, Elena gặp một bà già, vốn là con gái của người phụ nữ có tên Rozetta đã quá cố. Không do dự, cô gái 20 tuổi Elena chỉ vào bà già và nói: “Đây là con gái tôi - Fransa”.
    Tạp chí Tiếng vọng hành tinh của Nga cũng đã có lần kể về cậu bé Titu người Ấn Độ: Cậu bỗng nhiên nói rằng tên mình là Sures Varma, chủ một cửa hiệu ở Agra, có vợ là Uma và hai đứa con. Cha mẹ cậu hoảng sợ liền đi Agra tìm hiểu và được biết: Đúng là có một thương gia tên Varma từng sống ở đó và đã chết vì bị bắn vào đầu. Khi gặp góa phụ và hai đứa con, Titu nhận ra cả ba người. Một điều thú vị là trên đầu Titu có dấu vết bẩm sinh đúng vào chỗ vết thương của ông Varma trước đây.
    Trong lịch sử từng có hàng nghìn trường hợp quay trở về cuộc sống dĩ vãng. Một lý thuyết được gọi là “trí nhớ gene” đã được đề xướng để giải thích các hiện tượng này. Theo nhà nghiên cứu Hidtoring Tan, trí nhớ gene là trí nhớ đã được di truyền từ các thế hệ trước. Ngay từ khi con người mới sinh ra, trong bộ não đã tồn tại vùng lưu giữ ký ức của mọi việc từng xảy ra từ đời bố mẹ, ông bà, cụ kỵ... Trí nhớ gene được lưu trong những phân tử protein của tế bào não. Khi có một năng lực nào đó làm khởi động các phân tử ấy thì ký ức về đời trước sẽ được phục hồi, con người bỗng nhiên nhớ lại những gì từng xảy ra với tổ tiên xa xôi, y như là đã xảy ra với chính mình.
    Các nhà nghiên cứu sinh linh lại cho rằng hiện tượng này là do “phách” của một người đã chết nào đó nhập vào một người sống. Phách là cái nằm bên trong thể xác, thể xác có thể chết đi nhưng phách thì không bao giờ bị tiêu tan, nó tồn tại mãi từ kiếp này sang kiếp khác theo vòng luân hồi. Nếu người đang sống mà yếu về năng lực tinh thần và thể xác thì sẽ bị phách mới nhập khống chế, điều trước tiên là kích động việc nhớ lại cuộc đời của người đã chết. Lý thuyết này được khá nhiều người ủng hộ vì trong một số trường hợp, người quay trở về kiếp trước được xác định là hoàn toàn không có quan hệ họ hàng gì với người mà họ đã hóa thân.
    Ai là người sở hữu trí nhớ gene?
    Liệu có phải ngay từ khi sinh ra, mỗi người đều tích trữ trong bộ não mình dữ liệu về những đời trước? Các nhà khoa học nhận thấy rằng cả cuộc đời một con người, dù có sống đến 100 tuổi thì cũng mới chỉ tiêu thụ có 1/10 năng lực của bộ não. Có thể 9 phần còn lại đã tích chứa những ký ức, hình ảnh, sự kiện của nhiều đời nhiều kiếp khác nữa mà trí nhớ gene là cái khóa cần được mở mới biết được.
    Theo ông Edgar Cayce, người được coi là có khả năng khơi dậy những hình ảnh trong tiền kiếp của người khác: Đôi khi những hình ảnh trong trí nhớ gene được hiện ra qua những tác nhân như giấc mộng khi đang ngủ, một hình ảnh nào đó khi đang thức, hay mạnh mẽ hơn và rõ ràng hơn khi được kích động bằng phương pháp thôi miên.
    Các nhà khoa học thuộc Đại học Delhi (Ấn Độ) và Đại học Virginia (Mỹ) đã đưa ra một thống kê cho thấy, trẻ nhỏ có khả năng phát lộ trí nhớ gene mạnh hơn người lớn. Chúng thường sống lại “quá khứ xa xăm” của mình mà ngay bản thân và bố mẹ không hề biết. Chẳng hạn, nhiều đứa trẻ có những thái độ, cử chỉ, lời nói hay sự lo lắng rất đặc biệt, sự kiện này được xác định là có liên quan đến một người ở tiền kiếp. Nếu người ấy đã chết vì tai nạn sông nước hay những gì liên quan đến nước thì đứa trẻ này rất sợ nước. Nếu người ấy bị bắn chết thì đứa trẻ rất sợ tiếng nổ, hay trông thấy súng là hoảng sợ...
    Theo sự phân tích tỉ mỉ của bác sĩ Stevenson trong nhóm nghiên cứu, có nhiều bé gái nhớ lại tiền kiếp của mình là trai và ngược lại, nhiều bé trai nhớ lại tiền kiếp của mình là gái. Chính vì thế mà chúng có sở thích ăn mặc cũng như cử chỉ, dáng điệu phù hợp với giới tính của mình trước đó, tuy ngược hẳn với giới tính hiện tại.
    Theo nhà siêu tâm lý Banglopp, những người bị chết bất đắc kỳ tử thường nhớ rõ về thời gian và những gì đã xảy ra ở kiếp trước khi họ bước vào một cuộc đời mới. Có lẽ cái chết bất ngờ của tiền kiếp, chết không theo đúng quy luật của tự nhiên (sinh, lão, bệnh, tử) đã khiến linh hồn thoát khỏi thể xác một cách bất ngờ, khi vào thân xác mới vẫn giữ được sự liên quan mật thiết với những gì của thời quá vãng.
    Còn một hiện tượng khác ít gây chú ý cho công chúng nhưng lại khiến các nhà nghiên cứu quan tâm, đó là thần đồng. Nó củng cố giả thuyết về “cuộc sống kiếp trước”. Có những thi sĩ, nhạc sĩ mới 10 tuổi, những sinh viên ở tuổi thiếu niên... Làm sao họ có ngay được nguồn vốn kiến thức và trí tuệ phức tạp đến như vậy? Câu trả lời của một số nhà khoa học là: Phần “phách” của nhiều thần đồng từng là của các nhạc sĩ, thi sĩ... Vào một thể xác mới, phần “phách” ấy nhớ lại niềm say mê cũ và làm cho thể xác mới có được những kỹ năng, kiến thức đã tích lũy từ kiếp trước.
    Cho đến nay, các hiện tượng trên vẫn đang là câu hỏi lớn đối với giới khoa học. Sự nhớ lại kia là trí nhớ gene hay là sự “chuyển chỗ” của phách? Có giả thiết cho rằng, ký ức kiếp trước là một tập hợp thông tin được lưu giữ theo cách nào đó trong vũ trụ mà chỉ một số người có khả năng thu nhận.

    (Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

    Ấn Độ: một cậu bé đột nhiên nói giọng Mỹ và trở thành bác học

    Sinh ra và lớn lên tại một ngôi làng hẻo lánh ở phía tây bang Uttar Pradesh, bất chợt một ngày cậu bé Rajesh 14 tuổi bỗng đổi giọng nói như người Mỹ thứ thiệt, đồng thời quên hẳn thứ tiếng mẹ đẻ Hindi. Tuy nhiên đó chưa phải là điều kỳ lạ nhất...
    Một loạt những biến đổi lạ lùng khác liên tục ập tới: Rajesh trở nên am hiểu những kiến thức về toán học và vật lý một cách khác thường, khiến ngay cả những sinh viên kỹ thuật năm cuối cũng phải ngạc nhiên.

    Chỉ trong thời gian ngắn cậu bé học lớp 8 đã trở thành tác giả của 3 cuốn sách, sắp tới đây sẽ thực hiện vài công trình nghiên cứu của riêng mình.


    “Rajesh tự mình đã hoàn thiện xong 3 tài liệu nghiên cứu, cuốn thứ nhất viết về năng lực trí tuệ, cuốn thứ 2 về xã hội học và cuốn thứ 3 về tự do hóa” - ông Shishu Pal Singh Verma, Giám đốc trung tâm Khoa học Kỹ thuật Willian Jefferson Clinton, nơi Rajesh bắt đầu theo học năm ngoái - hồ hởi kể.


    “Cậu bé chẳng mảy may gây chú ý mãi cho đến Ngày Cộng Hòa (ngày kỷ niệm 26/1 hàng năm ở Ấn Độ), khi Rajesh bước lên sân khấu, cầm lấy mic và đọc bài diễn văn bằng thứ tiếng Anh cực chuẩn. Việc này khiến toàn thể thầy cô giáo và bạn bè trong trường ngạc nhiên đến không nói thành lời”.


    Mẹ Omkali và anh trai Kaluwa 16 tuổi của Rajesh đều là những công nhân lao động bình thường trong thành phố, đồng lương ít ỏi chỉ đủ trang trải ngày 2 bữa ăn. Bố cậu, ông Sompal thì mắc bệnh tâm thần.


    Bà Omkali kể với phóng viên, sự thay đổi kỳ diệu xảy đến với Rajesh cách đây gần 1 năm, khi cậu bé giúp anh trai xây tường.


    “Lần nào anh em nó xây tường cũng bị ông nhà tôi cầm búa phá bĩnh. Chưa lần nào chúng xây được quá 1 mét. Trong một lần tực giận, Rajesh đã ném một viên gạch vào bố khiến ông ấy chảy máu đầu.


    Rajesh chết lặng người đi. Suốt 3 tháng sau nó không hé miệng nói một lời. Nhưng khi trở lại chuyện trò, câu đầu tiên nó nói không phải tiếng Hindi mà là thứ tiếng Tây xì xồ xa lạ”.


    Phải chăng một con người khác đã đầu thai vào thân xác Rajesh? Bất chấp mọi lời đồn đại, cậu nhóc một mực phủ nhận nghi ngờ vô căn cứ này.


    [/FONT][FONT=&quot].Ngọc xá lị - bí ẩn chưa được khám phá[/FONT][FONT=&quot]

    Đó là những tinh thể đủ màu sắc, long lanh như ngọc, rắn như kim cương, búa đập không vỡ, lửa thiêu không cháy, được tìm thấy trong tro hài cốt của một số nhà tu hành. Cho đến nay, khi nền khoa học kỹ thuật của nhân loại đã phát triển ở trình độ cao, các viên xá lị vẫn tồn tại như một bí ẩn.
    Bảo vật của nhà Phật
    "Xá lị" là phiên âm của từ "sarira" trong tiếng Phạn, nghĩa đen là “những hạt cứng”. Theo ghi chép trong lịch sử Phật giáo, khi Phật tổ Thích Ca Mâu Ni viên tịch, các tín đồ đã đem thi hài đi hỏa táng. Sau khi lửa tàn, họ phát hiện trong tro có rất nhiều tinh thể trong suốt, hình dạng và kích thước khác nhau, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra những tia sáng muôn màu, giống như những viên ngọc quý. Họ đếm được cả thảy 84.000 viên, đựng đầy trong 8 hộc và 4 đấu. Nó được đặt tên là xá lị, là bảo vật của Phật giáo.
    Những năm gần đây, lịch sử Phật giáo và giới khoa học đã ghi lại khá nhiều trường hợp các vị cao tăng sau khi viên tịch, hỏa thiêu đã để lại xá lị. Tháng 12/1990, Hoằng Huyền pháp sư ở Singapore viên tịch, sau khi thi thể được hỏa thiêu, người ta phát hiện thấy trong phần tro của ngài có 480 hạt cứng, loại cỡ như hạt đỗ tương, loại nhỏ bằng hạt gạo, trông gần như trong suốt và tỏa sáng lấp lánh như kim cương. Sau khi phân tích, các nhà nghiên cứu đã xác định rằng đó chính là xá lị.
    Tháng 3/1991, Phó hội trưởng Hội Phật giáo Ngũ Đài Sơn, ủy viên thường vụ Hội Phật giáo Trung Quốc, sau khi viên tịch đã được hỏa táng theo tâm nguyện của ngài. Trong tro có tới 11.000 hạt xá lị, đạt kỷ lục thế giới từ trước đến nay về những trường hợp xá lị được ghi nhận chính thức.
    Viên xá lị có thể to như quả trứng vịt, đó là trường hợp của pháp sư Khoan Năng, vị trụ trì Tây Sơn Tẩy Thạch am ở huyện Quế Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Ngày 27/9/1989, ngài viên tịch ở tuổi 93. Sau khi hỏa thiêu, người ta tìm thấy trong tro hài cốt 3 viên xá lị màu xanh lục, trong suốt, đường kính mỗi viên lên tới 3-4 cm, tựa như những viên ngọc lục bảo.
    Trái tim thành xá lị
    Trong một số trường hợp, xá lị chính là bộ phận nào đó của cơ thể không bị thiêu cháy. Tháng 6/1994, pháp sư Viên Chiếu, 93 tuổi, trụ trì chùa Pháp Hoa (núi Quan Âm, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc) trong một buổi giảng kinh tối đã nói với các đệ tử: "Ta sẽ để lại trái tim cho chúng sinh". Sau đó vị sư nữ này ngồi kiết già và viên tịch.
    Theo đúng pháp quy của nhà chùa, các đệ tử đặt thi thể bà lên một phiến đá xanh, xếp củi chung quanh và hỏa hóa. Lửa cháy sáng rực suốt một ngày một đêm. Trong đống tro nguội, các đệ tử thu được 100 viên xá lị to nhỏ khác nhau. Có viên thì hình tròn (xá lị tử), có viên lại nở xòe ra như những bông hoa (xá lị hoa). Những bông xá lị hoa trông rất đẹp, lóng lánh như những bông hoa tuyết, chung quanh còn được giát bằng những hạt xá lị nhỏ cỡ hạt gạo, sắc đỏ, vàng, lam, nâu... hết sức kỳ diệu.
    Nhưng điều kỳ diệu hơn cả là trái tim của bà không hề bị thiêu cháy. Sau khi ngọn lửa tắt, trái tim vẫn còn mềm, nóng, rồi mới nguội dần và cứng lại, biến thành một viên xá lị lớn, màu nâu thẫm. Khoảng 100 đệ tử có mặt trong lễ hỏa táng đã tận mắt chứng kiến hiện tượng lạ lùng đó.
    Theo lời kể lại, pháp sư Viên Chiếu là người từ bi, tính tình điềm đạm và ôn hòa, thường ngày bà chỉ ăn rất ít. Chùa Pháp Hoa đã cho người mang những viên xá lị đó đến giao lại cho Hội Phật giáo tỉnh Thiểm Tây.
    Khoa học còn "bó tay"
    Vài chục năm trở lại đây, giới khoa học bắt đầu tìm cách giải thích những hiện tượng huyền bí được nhà Phật nói đến trong kinh điển. Thế nhưng khi bắt tay vào nghiên cứu hiện tượng xá lị, họ đã gặp không ít trở ngại.
    Trước đây, người ta không tin là có xá lị Phật tổ. Mãi đến năm 1997, ông Peppé người Pháp khi tiến hành khảo cổ tại vùng Piprava, phía nam Népal, đã tìm thấy những viên xá lị đựng trong chiếc hộp bằng đá. Trên hộp có khắc những văn tự Brahmi, nội dung như sau: “Đây là xá lị của đức Phật. Phần xá lị này do bộ tộc Sakya, nước Savatthi phụng thờ”. Khám phá này đã chứng minh: Những gì được ghi trong kinh Trường A Hàm và một số kinh sách khác về việc phân chia xá lị đức Phật thành 8 phần cho 8 quốc gia cổ đại khi Phật nhập Niết bàn là có thật. Điều kỳ lạ là trải qua hơn 25 thế kỷ, xá lị đức Phật vẫn còn nguyên vẹn, lấp lánh màu sắc.
    Về sự hình thành của những viên xá lị, cho đến nay vẫn tồn tại nhiều cách giải thích khác nhau. Các nhà xã hội học cho rằng, do thói quen ăn chay, thường xuyên sử dụng một khối lượng lớn chất xơ và chất khoáng, quá trình tiêu hóa và hấp thu rất dễ tạo ra các muối phosphate và carbonate. Những tinh thể muối đó tích lũy dần trong các bộ phận của cơ thể và cuối cùng biến thành xá lị.
    Tuy nhiên, giả thuyết này không đủ sức thuyết phục. Bởi lẽ số người ăn chay trên thế giới có tới hàng trăm vạn, nhưng tại sao không phải ai khi hỏa táng cũng sinh xá lị? Số người theo đạo Phật cũng nhiều vô kể, thế nhưng tại sao trong cơ thể những tín đồ bình thường lại không có xá lị?
    Một số nhà khoa học cho rằng, có thể xá lị là một hiện tượng có tính bệnh lý, tương tự như bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi mật... Giả thuyết này cũng khó đứng vững. Bởi vì, sau khi đưa xác đi thiêu, trong phần tro của những người mắc các chứng bệnh kể trên không hề phát hiện xá lị. Mặt khác, những cao tăng có xá lị thường sinh thời thường rất khỏe mạnh, tuổi thọ cũng rất cao.
    Nhà Phật cũng có những quan điểm riêng về vấn đề xá lị. Quan điểm thứ nhất cho rằng xá lị là kết quả của quá trình tu hành và khổ luyện. Quan điểm thứ hai cho rằng đó là kết quả của quá trình tu dưỡng đạo đức, chỉ xuất hiện ở những người có tấm lòng đại từ đại bi, luôn làm việc thiện.
    Tuy nhiên, cuối cùng thì xá lị đã được hình thành như thế nào? Thành phần của nó ra sao? Chẳng phải kim loại, chẳng phải phi kim, cũng chẳng phải kim cương, lục bảo, chỉ là tro cốt còn lại của người tu hành sau khi hỏa táng; vậy mà sao đốt không cháy, thậm chí vẫn sáng lấp lánh màu sắc, thách thức với thời gian, chẳng mảy may hư hỏng...? Hàng loạt câu hỏi như vậy cho đến nay vẫn chưa có lời giải đáp.



    [/FONT][FONT=&quot]Top 10 bí ẩn khoa học[/FONT][FONT=&quot]

    Khoa học có thể giải thích nhiều hiện tượng kỳ lạ, tuy nhiên cũng có một số bí ẩn vẫn chưa được giải mã. Tạp chí Livescience hôm 22-1 vừa bình chọn top 10 hiện tượng khoa học bí ẩn.
    Trong số các hiện tượng này, một số hiện tượng có thể sẽ được giải thích đầy đủ một ngày nào đó, một số đã được làm sáng tỏ một phần.
    1. Tiếng động ở Taos
    Một số cư dân và du khách ở thành phố nhỏ bé Taos, New Mexico đã rất bực mình và đau đầu bởi một âm thanh tần số thấp khó chịu và bí ấn ở đây. Kỳ quặc là chỉ có 2% cư dân ở Taos cho biết họ nghe thấy âm thanh này. Những người này mô tả nó nghe như tiếng kêu vo vo, rì rầm, nhưng các nhà tâm lý học, các nhà tự nhiên, các nhà siêu tự nhiên lại không thể xác định được nguồn gốc phát ra âm thanh.
    [/FONT][FONT=&quot]2. Bigfoot
    [/FONT]
    [FONT=&quot]Hàng chục năm qua, những con thú to lớn trông như con người, có lông được gọi là Bigfoot (quái vật chân to) thỉnh thoảng lại được các nhân chứng trên khắp nước Mỹ kể lại. Tuy nhiên không có một Bigfoot đơn lẻ nào được tìm thấy.
    Đến nay khoa học vẫn chưa thể chứng minh được sự tồn tại của những con vật tương tự như Bigfoot và quái vật hồ Loch Ness, và có lẽ những sinh vật bí ấn này vẫn còn tiếp tục tránh xa những ánh mắt tò mò.
    [/FONT][FONT=&quot]3. “Giác quan thứ sáu”[/FONT][FONT=&quot]
    Tất cả chúng ta đều ít nhiều đã từng trải qua cái gọi là trực giác hay “giác quan thứ sáu”. Theo các nhà tâm lý học, tiềm thức con người thu nhặt thông tin về thế giới xung quanh chúng ta, dẫn đến chúng ta có cảm giác hoặc biết được thông tin mà không thể biết chính xác hoặc giải thích được vì sao chúng ta biết.
    Tuy nhiên nhiều trường hợp trực giác khó có thể chứng minh hoặc nghiên cứu, và yếu tố tâm lý có thể chỉ là một phần của câu trả lời này.
    [/FONT][FONT=&quot]4. Những vụ mất tích bí ẩn
    [/FONT]
    [FONT=&quot]Con người “biến mất” với nhiều lý do khác nhau. Đa số chạy trốn. Một số gặp tai nạn. Một số bị bắt cóc hoặc bị giết. Tuy nhiên đa số họ cuối cùng cũng được tìm thấy. Tuy nhiên cũng có một số người biến mất không để lại dấu vết, và điều này đã đặt một dấu chấm hỏi lớn trong giới khoa học.
    [/FONT][FONT=&quot]5. Hồn ma
    [/FONT]
    [FONT=&quot]Nhiều người cho biết họ nhìn thấy sự xuất hiện của những người thân hay người lạ như những bóng mờ ảo. Mặc dù không có bằng chứng cho thấy có sự tồn tại của các hồn ma, nhiều người vẫn tiếp tục nói họ nhìn thấy, chụp ảnh, thậm chí là giao tiếp được với các hồn ma.
    Những người điều tra hồn ma hy vọng một ngày nào đó người chết có thể tiếp xúc với người sống, và đưa ra câu trả lời cuối cùng cho hiện tượng bí ẩn này.

    [/FONT][FONT=&quot]6. Déjà vu[/FONT][FONT=&quot]
    Déjà vu là một cụm từ tiếng Pháp có nghĩa “đã nhìn thấy”. Trong trường hợp này nó đề cập đến cảm giác bí ẩn, bối rối, khó xử… khi trải qua một tình huống đặc biệt trước đó.
    Chẳng hạn, một phụ nữ có thể đi vào một căn nhà ở một đất nước mà bà chưa bao giờ tới, và cảm thấy nó thật thân thiết với mình. Các nhà tâm lý có thể đưa ra nhiều giải thích theo chủ nghĩa tự nhiên, tuy nhiên nguyên nhân cuối cùng của hiện tượng này vẫn còn là một bí ẩn.
    [/FONT][FONT=&quot]7. UFO[/FONT][FONT=&quot]
    Hiện nay, trung bình mỗi ngày có hàng trăm thông tin về những vật thể lạ không xác định (UFO), 99% trong số này có thể giải thích bằng các yếu tố tự nhiên hay kỹ thuật, 1% còn lại vẫn là những điều bí ẩn.
    8. Gần cái chết và cuộc sống sau khi chết
    Nhiều người đã từng ở gần cái chết và một số người cho biết họ đã trải qua những thời khắc bí ẩn khác nhau, như: đang đi ngang một đường hầm thì xuất hiện luồng ánh sáng và họ cảm thấy đang hợp nhất với những người thân yêu, một cảm giác bình yên… và những điều này có thể ám chỉ họ sắp chết.
    Tuy nhiên những người theo chủ nghĩa hoài nghi cho rằng những khoảnh khắc này là hoàn toàn tự nhiên và là những ảo giác của bộ não bị chấn thương.
    [/FONT][FONT=&quot]9. Khả năng tâm linh và năng lực dự báo[/FONT][FONT=&quot]
    Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra những người được cho là có khả năng tâm linh, và các kết quả nghiên cứu đã phủ định hoặc khá mơ hồ về hiện tượng này.
    10. Mối liên quan giữa trí óc/ cơ thể
    Khoa học y khoa chỉ mới bắt đầu hiểu cách thức trí óc ảnh hưởng đến cơ thể. Chẳng hạn tác dụng của giả dược cho thấy con người trong một khoảng thời gian nào đó có thể giảm nhẹ các cơn đau bằng cách nghĩ rằng biện pháp chữa trị này có hiệu quả, mặc dù trên thực tế nó không có hiệu quả y học nào. [/FONT]



    :140::140::140::140::140:


     
  20. Triệu Minh

    Triệu Minh Thần Tài Perennial member

    Mỹ nhân phim Quỳnh Dao ngày ấy - bây giờ​


    Lưu Tuyết Hoa, Quý Á Lôi, Tưởng Cần Cần... là những diễn viên Hoa ngữ nổi lên nhờ tham gia các bộ phim truyền hình chuyển thể từ tiểu thuyết của nữ tác gia nổi danh.

    Quy Á Lôi



    [​IMG]
    Năm 1964, khi 20 tuổi, Quy Á Lôi lọt vào mắt xanh của nữ sĩ Quỳnh Dao và được bà chọn đóng vai Lục Y Bình trong Dòng sông ly biệt. Tuy là lần đầu tiên đóng phim nhưng nhờ vẻ đẹp thuần khiết và diễn xuất tự nhiên, Quy Á Lôi vẫn chiếm được sự yêu mến của đông đảo khán giả. Cũng nhờ vậy, sự nghiệp điện ảnh rộng mở thênh thang cho cô.

    [​IMG]

    Hiện tại, Quy Á Lôi đã bước sang tuổi 68 nhưng vẫn rất tích cực đóng phim. Một số tác phẩm tiêu biểu của diễn viên này bao gồm Mùa quýt chín, Đại minh cung từ, Hán Vũ đế, Kỳ tích, Phong hỏa giai nhân...

    Chân Trân

    [​IMG]
    Bén duyên điện ảnh từ năm 1966, người đẹp Chân Trân nhanh chóng trở thành diễn viên nổi tiếng sau khi đại giải Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất tại LHP Châu Á lần lần thứ 17. Tên tuổi của Chân Trân càng trở nên nổi như cồn sau khi tham gia một loạt tác phẩm chuyển thể từ tiểu thuyết của Quỳnh Dao như Thái Vân Phi, The Heart with Million Knots, Hải Âu Phi Xứ.

    [​IMG]

    Kể từ khi kết hôn năm 1978, Chân Trân rất ít đóng phim và đến năm 1986 thì hoàn toàn rút khỏi môn nghệ thuật thứ bảy.

    Hà Tình​


    [​IMG]
    Nhắc đến Hà Tình, các khán giả yêu phim sẽ nghĩ ngay đến danh hiệu "Mỹ nhân của Tứ Đại Danh Tác". Cô là diễn viên xứ Trung duy nhất từng góp mặt trong bốn tác phẩm truyền hình chuyển thể từ Tứ đại danh tác nổi tiếng của Trung Quốc bao gồm vai Tần Khả Khanh trong Hồng Lâu Mộng (1987), Tiểu Kiều trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, Lý Sư Sư trong Thủy Hử (1996) và Liên Liên trong Tây Du Ký.

    [​IMG]

    Bên cạnh đó, sự nghiệp phim ảnh của Hà Tình còn có dấu mốc quan trọng khi là một những diễn viên Đại lục đầu tiên sang Đài Loan đóng phim của Quỳnh Dao. Cô ghi dấu ấn với bộ phim Ngọn cỏ bên bờ suối - một trong những tác phẩm được xếp vào hàng kinh điển của Quỳnh Dao.

    Lưu Tuyết Hoa

    [​IMG]

    Lưu Tuyết Hoa trở thành ngôi sao hot nhờ thành công của những bộ phim ăn khách của nữ sĩ Quỳnh Dao như Xóm Vắng, Người Vợ Câm, Dòng Sông Ly Biệt...

    [​IMG]

    Gần đây, khi đã bước qua tuổi 50, Lưu Tuyết Hoa vẫn rất tích cực đóng phim. Tuy nhiên, những vai diễn Lưu Tuyết Hoa đảm nhận giờ đây có sự khác biệt lớn so với các nhân vật cô thể hiện hồi còn trẻ. Thay vì hình ảnh hiền dịu, kham khổ, Lưu Tuyết Hoa hóa thân thành các bà mẹ chồng khó tính, cay nghiệt và thậm chí là các nhân vật phản diện.

    [​IMG]
    Tưởng Cần Cần (Thủy Linh)

    [​IMG]
    Bắt đầu đóng phim từ năm 1992 nhưng Tưởng Cần Cần chỉ thực sự được đông đảo khán giả biết đến sau bộ phim truyền hình Trời Xanh Đổ Lệ của Quỳnh Dao. Từ đây, Tưởng Cần Cần trở thành "mục tiêu" săn đón của các nhà sản xuất phim.

    [​IMG]

    Người đẹp này được đánh giá cao trong dòng phim cổ trang và được coi là một trong những mỹ nhân cổ trang đình đám nhất trên màn ảnh nhỏ Hoa ngữ.
    Bên cạnh sự nghiệp thành công, Tưởng Cần Cần cũng có cuộc sống hạnh phúc đáng ngưỡng mộ. Cô đã kết hôn với đạo diễn kiêm diễn viên Trần Kiến Bân năm 2006 và hạ sinh con trai vào năm 2007.

    Lâm Thanh Hà

    [​IMG]
    Lâm Thanh Hà được đánh giá là ngôi sao xinh đẹp bậc nhất trong các bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết Quỳnh Dao. Với nhiều tác phẩm ăn khách của Quỳnh Dao như Song ngoại, Vân phiêu phiêu, Lâm Thanh Hà trở thành diễn viên nổi đình nổi đám ở Đài Loan. Tuy nhiên sau này, do những scandal liên quan tới chuyện tình cảm với hai nam diễn viên Tần Hán và Tần Tường Lâm, Lâm Thanh Hà dần giảm sức hút trong lòng khán giả xứ Đài.

    [​IMG]

    Từ đầu thập niên 1980, cô đã chuyển hướng sang hoạt động ở thị trường Hong Kong và có nhiều tác phẩm đình đám như Thục Sơn, Câu chuyện cảnh sát, Tiếu ngạo giang hồ chi Đông Phương Bất Bại, Tân Long môn khách sạn...


    _________________________________________Sưu Tầm
     
    Chỉnh sửa cuối: 13/6/12
    Phúc Thịnh and NGOCNGA like this.