Chọn ngày theo “Thập nhị chỉ trực” Thập nhị chỉ trực là tên của 12 thần của 12 tháng, hay 12 giờ, chúng chi phối sự hung cát của mỗi tháng, mỗi giờ. Thần ở đây không phải là thần thánh mà do người xưa phát triển và ứng dụng quan điểm triết học của Dịch, cho rằng bất cứ một quá trình gì diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định, đều có cái “thần” bên trong của nó. "Thần" ở đây là tinh hoa, là cốt lõi. Hay nói chính xác hơn là cái nguồn năng lượng bên trong chi phối cả quá trình đó. Thập nhị chỉ trực là quy luật diễn biến của 12 giai đoạn của sáu cặp phạm trù đối xứng diễn ra liên tiếp từng đôi một, đó là: Kiến – Trừ: Kiến là kiến lập lúc ban đầu, và đã có kiến thì phải có trừ để phá bỏ bớt cái cũ, xây dựng cái mới tốt đẹp hơn; Mãn – Bình: Sau giai đọan phát triển tràn đầy là “trực mãn”, đã có mãn thì phải “bình” lại để cảnh tỉnh sự thái quá; Định – Chấp: Sư vật đã được bình thì cần phải ổn “Định” lại, rồi đến giữ vững (Chấp) cái đã được hình thành; Phá – Nguy: Giự vững mãi rồi lại muốn “Phá”, nhưng phá rồi mới thấy “Nguy”, có nguy mới biết tiết chế cái muốn phá; Thành – Thu : Biết điều chỉnh tiết chế được “phá – nguy” thì tất yếu “Thành”, mà đã có thành phải có “Thu” hoạch; Khai – Bế: Là giai đoạng trung gian chuyển tiếp giữa cái cũ và cái mới. muốn có quá trình mới tiếp theo phải có “Khai” mở ra, sau đó phải có “Bế” để đóng lại để hướng sự vật đi theo quá trình đã được tạo ra là vòng “kiến – Trứ” tái diễn. Ý nghĩa “Thập nhị chỉ trực” trong phép chọn ngày: 1. Trực kiến: Nói chung là tốt, nhưng theo quan điểm của môn “độn giáp” lại cho rằng cái đứng đầu bao giờ cũng nguy hiểm, nên trong phép chọn ngày Trực Kiến hay ngày giáp tý – những thứ đứng đầu bị coi là hung. Tuy nhiên người có tính mạo hiểm, sử dụng trực kiến có thể thành công lớn. 2. Trực trừ : Cát nhật, ngày trừ cái cũ, đón cái mới. 3. Trực Mãn : Hung nhật, ngày của mọi thái quá, không nên làm việ lớn như xây cất, cưới xin, xuất hành, khai trương. 4. Trực Bình: Cát nhật, mọi việc đều tốt. 5. Trực Định : Chỉ nên bàn bạc, hội họp, không nên hành động. 6. Trực chấp : Lợi việc củng cố, tu sửa, không lợi việc khai trương cái mới, di chuyển hay xuất tài. 7. Trực phá : Hung nhật, mọi việc đều bất lợi, ngoại trừ việc phá dỡ cái cũ. 8. Trực nguy : Hung nhật, mọi việc đều bất lợi. 9. Trực Thành : Đại cát nhật, mọi việc đều hanh thông, trừ kiện tụng. 10. Trực Thu : Cát nhật, nhưng ky tang lễ, kỵ xuất tài và xuất hành. 11. Trực Khai : Cát nhật, Lợi việc khai trương kinh doanh, xuất hành, kỵ tang lễ 12. Trực bế : hung nhật, mọi việc đều bất lợi. Chỉ dẫn: Nhìn vào bảng trên ta thấy : Tháng giêng trực kiến ở ngày dần, trực trừ ở ngày mão; Tháng hai trực kiến ở ngày mão, trực trừ ở ngày thìn... Kỳ sau: Phép chọn ngày theo “nhị thập bát tú” Nhị thập bát tú (28 chòm sao) Hệ thống 28 chòm sao trên bầu trời đã được phát hiện từ trước công nguyên. Các nhà lịch toán cổ đều dựa vào đó để làm lịch. Ngừoi cổ đại dùng 28 chòm sao để dự đán cát hung. Sau này khi thuyết âm dương ngũ hành ra đời, chúng cũng được ngũ hành hóa trở thành những yếu tố để dự báo. Một chu kỳ 28 sao trên vừa đúng với bốn tuần lễ vị chi là 28 ngày. Và được khởi tính bắt đầu từ sao chẩn vào ngày thứ tư của tuần thứ tư. Sau đó bắt đầu chu kỳ tiếp lại đúng vào thứ năm của tuần thứ năm, ta có bảng tính dưới đây :
Ngũ hành và phương pháp chọn ngày theo can chi Bà bếp tui chỉ nói vắn tắt thôi, bởi vì hình như ai cũng ít nhiều biết mang máng: · Thiên can là : giáp, ất, bình, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm quý · Địa chi là : Tý, sửu, dân, mão, thìn, tị, ngọ, mùi, tân, dậu, tuất, hợi · Ngũ hành là : mộc, hỏa, thổ, kim, thủy Đại loại là rứa, dừ bà bếp nói đến vấn đề xung – khắc trong món ngũ hành: Tương sinh gồm hai loại : · Địa chi sinh thiên can : Tiểu cát · Thiên can sinh địa chi : Đại cát Tương khắc cũng có hai loại: · Địa chi khắc thiên can : xấu · Thiên can khắc địa chi : đại hung Đồng khí – đồng hành: là những cặp can – chi đồng âm, đồng dương. · Đồng âm: trời đất nghiêng về một phía, mông lung, thiếu cân bằng. · Đồng khí : Là như đồng cực của nam châm thì đẩy nhau, gọi là “thiên địa bất hòa”, mọi việc bất lợi. · Đồng khí và đồng âm được gọi là bát chuyên, mỗi vòng giáp tý có sáu lần bát chuyên. Năm kỷ sửu – 2009 là bát chuyên đồng âm như bà bếp đã nói ở bài đầu tiên. Nói dài bà con hoa mắt, giờ tui đưa ra một vài cấy thây bồ thuộc dạng tra cứu nhanh của Giáo sư Bác sĩ Hoàng Tuấn. Ông HT là một người mà tui cho là một trong những bậc thầy hiện nay về món này:
Quẻ 03 |::: Thủy Lôi Truân (屯 chún) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Thủy Lôi Truân đồ hình |::: quẻ Thủy Lôi Truân còn gọi là quẻ Truân (屯 chún) là quẻ số 03 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☳ (|:: 震 zhẽn) Chấn hay (雷) Sấm và Ngoại quái là ☵ : 坎 kản) Khảm hay (水) Nước. Giải nghĩa: Nạn dã. Gian lao. Yếu đuối, chưa đủ sức, ngần ngại, do dự, vất vả, phải nhờ sự giúp đỡ. Tiền hung hậu kiết chi tượng: trước dữ sau lành. Phục Hy ghi: Tự quái, hữu thiên địa, nhiên hậu vạn vật sinh yên, doanh thiên địa chi gian giả, duy vạn vật cổ thụ chi dã truân. Truân giả doanh dã, truân dã vật chi thỉ sanh dã. Văn Vương viết thoán từ: Truân: Nguyên, hanh, lợi, trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi kiến hầu (屯: 元, 亨, 利, 貞, 勿用有攸往, 利建侯). Chu Công viết hào từ: Sơ cửu: Bàn hoàn, lợi cự trinh, lợi kiến hầu. Lục nhị: Truân như, chuyên như, thừa mã ban như, phỉ khấu hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự. Lục tam: Tức lộc, vô ngu, duy nhập vu lâm trung, quân tử cơ, bất như xả, vãng lận. Lục tứ: Thừa mã ban như, cầu hôn cấu, vãng cát, vô bất lợi. Cửu ngũ: Truân kỳ cao, tiểu trinh cát, đại trinh hung. Thượng lục: Thừa mã ban như, khấp huyết liên như. Nguyễn Hiến Lê viết Theo Tự quái truyện thì sở dĩ sau hai quẻ Càn, Khôn tới quẻ Truân là vì có trời đất rồi vạn vật tất sinh sôi nảy nở đầy khắp, mà lúc sinh sôi đó là lúc khó khăn. Chữ Truân [屯] có cả hai nghĩa đó: đầy và khó khăn 屯 : 元, 亨, 利, 貞, 勿 用 有 攸 往, 利 建 侯 . Truân: Nguyên, hanh, lợi , trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi kiến hầu. Dịch: Gặp lúc gian truân, có thể hanh thông lắm (nguyên hanh), nếu giữ vững điều chính (trái với tà) và đừng tiến vội, mà tìm bậc hiền thần giúp mình (kiến hầu là đề cử một người giỏi lên tước hầu). Giảng: Thóan truyện và Đại tượng truyện giảng đại ý như sau: Tượng quẻ này là sấm (Chấn) ở dưới mà trên mưa (Khảm), tức có nghĩa động ở trong chốn hiểm, (Khảm là nước có nghĩa là hiểm trở) (1) cho nên có nghĩa là truân. Lại thêm: nội quái có một hào dương (cương) hai hào âm (nhu); ngọai quái cũng thế; như vậy là cương nhu, dương âm bắt đầu giao nhau để sinh vạn vật màl úc đầu bao giờ cũng gian nan: truân. Trong lúc gian nan mà hành động thì có thể tốt, nhưng phải kiên nhẫn giữ điều chính; đừng vội hành động mà trước hết nên tìm người tài giỏi giúp mình. Người tài đứng ra cáng đáng lúc đầu (người mình cất nhắc lên tước hầu) đó là hào 1 dương . Dương thì cương, có tài; hào 1 lại là hào chủ yếu torng nội quái (chấn) có nghĩa họat động. buổi đầu gian nan thì được người đó, tỉ như lập được một đòan thể có nhiều người có tài kinh luân, thì mọi việc sẽ làm được tốt. Đó là ý nghĩa quẻ Truân. Hào Từ: 初 九: 磐 桓, 利 居 貞, 利 建 侯 . Sơ cửu: Bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu. Dịch: Hào 1, dương : còn dùng dằng, giữ được điều chính thì lợi, được đặt lên tước hầu (nghĩa là được giao cho việc giúp đời lúc gian truân) thì lợi. Giảng: Như trên tôi đã nói, hào này là dương, tượng người có tài, lại đắc chính vì dương ở dương vị, cho nên giữ được điều chính và có lợi; sau cùng nó là dương mà lại dưới hai hào âm trong nội quái, có cái tượng khiêm hạ, được lòng dân. Vậy là người quân tử mới đầu tuy còn do dự, sau sẽ được giao cho trọng trách giúp đời. 六 二: 屯 如 邅 如, 乘 馬 班 如, 匪 寇 婚 媾 . 女 子 貞 不 字, 十 年 乃 字 . Lục nhị: Truân như, chuyên như, thừa mã ban như. Phỉ khấu hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự. Dịch : hào 2, âm : Khốn đốn khó khăn như người cưỡi ngựa còn dùng dằng lẫn quẩn (Nhưng hào 1 kia) không phải là kẻ cướp, chỉ là muốn cầu hôn với mình thôi. Mình cứ giữ vững chí, đừng chịu, mười năm nữa sẽ kết hôn (với hào 5). Giảng: Hào 2, âm, vừa đắc trung lẫn đắc chính, lại ứng với hào 5 cũng đắc trung đắc chính ở trên, như vậy là tốt. Chỉ hiềm cách xa hào 5 mà lại ở sát ngay trên hào 1, dương , bị 1 níu kéo, cho nên còn ở trong cảnh truân chuyên (khó khăn). Nhưng đừng ngại, hào 1 có tư cách quân tử , không phải là kẻ xấu muốn hảm hại mình, chỉ muốn cưới mình thôi (1 là dương, 2 là âm). Đừng nhận lời, cứ giữ vững chí, mươi năm nữa sẽ kết hôn với hào 5. Chữ tự [ 字 ] ở đây nghĩa là gả chồng. Theo kinh Lễ, con gái tới tuổi gã chồng thì cài trâm và đặt tên tự. [COLOR=#ccccf]六 三: 即 鹿, 无 虞, 惟 入 于 林 中. 君 子 幾, 不 如 舍, 往 吝 . Lục tam: Tức lộc, vô ngu, duy nhập vu lâm trung. Quân tử cơ, bất như xả, vãng lận. [/COLOR] [COLOR=#ccccf]Dịch: Hào 3 âm: đuổi hươu mà không có thợ săn giúp sức thì chỉ vô sâu trong rừng thôi (không bắt được). Người quân tử hiểu cơ sự ấy thì bỏ đi còn hơn, cứ tíếp tục tiến nữa thì sẽ hối hận. Giảng: Hào 3 là âm, ở dương vị, bất chính bất trung; tính chất đã không tốt mà ở vào thời truân; hào 6 ở trên cũng là âm nhu không giúp được gì mình, như vậy mà cứ muốn làm càn, như người ham đuổi hươu mà không được thợ săn giúp (chặn đường con hươu, đuổi nó ra khỏi rừng cho mình bắt) thì mình cứ chạy theo con hươu mà càng vô sâu trong rừng thôi. Bỏ đi là hơn. [/COLOR] 六 四: 乘 馬 班 如 . 求 婚 媾, 往 吉, 无 不 利 . Lục tứ: Thừa mã ban như. Cầu hôn cấu, vãng cát, vô bất lợi. Dịch: Hào 4, âm: cưỡi ngựa mà dùng dằng. Cầu bạn trăm năm (hay đồng tâm) ở dưới (ở xa) thì không gì là không tốt. Giảng: Hào này âm nhu, đắc chính là người tốt nhưng tài tầm thường, gặp thời Truân không tự mình tiến thủ được. Tuy ở gần hào 5, muốn cầu thân với 5, nhưng 5 đã ứng với 2 rồi, thế là 4 muốn lên mà không được, như người cưỡi ngựa muốn tiến mà dùng dằng. Chu Công khuyên hào 4 nên cầu hôn với hào 1 ở dưới thì hơn: (vì 1 có tài đức) mà cùng nhau giúp đời, không gì là không lợi. Chúng ta để ý: cặp 5-2 rất xứng nhau, cả hai đều đắc chính, đắc trung, rất đẹp, cặp 4-1 không đẹp bằng: 4 bất trung, kém 2; cho nên phải kết hợp với 1 ở dưới, 1 tuy ở dưới mà đắc chính, như vậy là xứng đôi. Đó là luật: “dĩ loại tụ”, họp với nhau thì phải xứng nhau, đồng tâm, đồng đạo. [COLOR=#ccccf]九 五: 屯 其 膏; 小 貞 吉, 大 貞 凶 . Cửu ngũ: Truân kì cao; tiểu trinh cát, đại trinh hung [/COLOR] [COLOR=#ccccf]Dịch: Hào 5, dương: Ân trạch không ban bố được (nguyên văn: dầu mỡ (cao) không trơn (truân), chỉnh đốn việc nhỏ thì tốt, việc lớn thì xấu. Giảng: Hào cửu ngũ này vừa chính vừa trung, ở địa vị chí tôn, đáng lẽ tốt; nhưng vì ở trong thời gian truân (quẻ Truân) lại ở giữa ngọai quái là Khảm, hiểm, nên chỉ tốt vừa thôi. Hào 2 tuy ứng với nó nhưng âm nhu , không giúp được nhiều; lại thêm hào 1 ở dưới, có tài đức, được lòng dân, uy quyền gần như lấn 5, mà ân trạch của 5 không ban bố khắp nơi được. Cho nên 5 phải lần lần chỉnh đốn các việc nhỏ đã, đừng vội làm việc lớn mà hỏng. Nghĩa là tuy có tài đức, có địa vị, nhưng cũng phải đợi có thế có thời nữa.[/COLOR] [COLOR=#ccccf]上六: 乘 馬 班 如, 泣 血 漣 如 . Thượng lục: Thừa mã ban như, khấp huyết liên như. [/COLOR] [COLOR=#ccccf]Dịch: Hào trên cùng âm. Cưỡi ngựa mà dùng dằng, khóc tới máu mắt chảy đầm đìa. Giảng: Hào này ở trên cùng, là thời gian truân tới cực điểm. Nếu là hào dương (có tài trí) thì gian truân cùng cực sẽ biến thông; nhưng hào này là hào âm, bất tài, bất trí, nhu nhược, chỉ biết lên lưng ngựa rồi mà vẫn dùng dằng mà khóc đến chảy máu mắt (Hào tuy ứng với hào 6 nhưng cũng âm nhu, chẳng giúp được gì.) [/COLOR] [COLOR=#ccccf]Đọc xong ba quẻ đầu này chúng ta cũng đã thấy: thể của hào chỉ cò: âm và dương, vị của hào chỉ có 6: từ hào sơ đến hào thượng; nhưng ý nghĩa mỗi hào rất thay đổi, tùy ý nghĩa của trọn quẻ, cho nên hào 1 dương quẻ Càn không giống hào 1 dương quẻ Truân; hào 5 dương quẻ Truân cũng không giống hào 5 dương quẻ Càn; hào 2 âm quẻ Khốn không giống hào đó quẻ Truân, hào 6 âm quẻ Truân cũng không giống hào đó qủe khôn. ý nghĩa của quẻ quyết định ý nghĩa của hào, nói cách khác: quẻ là cái thời chung của các hào, mà hào là mỗi việc, mỗi hoàn cảnh trong thời chung đó.[/COLOR]
Quẻ 01 |||||| Thuần Càn (乾 qián) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Thuần Càn đồ hình |||||| còn gọi là quẻ Càn (乾 qián), tức Trời là quẻ số 1 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là: ☰ (||| 乾 qián) Càn hay Trời (天) và Ngoại quái là: ☰ (||| 乾 qián) Càn hay Trời (天). Giải nghĩa: Kiện dã. Chính yếu. Cứng mạnh, khô, lớn, khỏe mạnh, đức không nghỉ. Nguyên hanh lợi trinh chi tượng: tượng vạn vật có khởi đầu, lớn lên, toại chí, hóa thành. Phục Hy ghi: quẻ hoàn toàn thuộc tính cương kiện. Văn Vương ghi THOÁN TỪ: DỊCH: Quẻ Càn, mở nghiệp lớn, có bốn đức: Có sức sáng tạo lớn lao (nguyên), thông suốt và thuận tiện (hanh), lợi ích thích đáng (lợi), ngay thẳng và bền vững (trinh). Càn: nguyên, hanh, lợi, trinh (乾: 元, 亨, 利, 貞). CHIÊM: (coi điềm lành, dữ) ♦ Quẻ này có 3 hào tốt - đánh dấu là . ♦ Quẻ Bát Thuần Càn do 2 đơn quái Càn chồng lên nhau, vì vậy có cùng tên, tượng quẻ, và tính cách với đơn quái Càn. ♦ Nếu là phái nữ mà gặp quẻ Bát Thuần Càn thì có nghĩa là người nữ này quá Dương. Họ cần Âm tức là mềm mỏng, dịu dàng hơn nữa. Nếu không thì sẽ gặp trở ngại. ♦ Con hươu ở trên mây, thiên lộc, được hưởng bổng lộc trời ban. ♦ Thợ mài dũa ngọc, người ta phải chăm chỉ học tập để thành người hữu dụng. ♦ Trăng tròn trên bầu trời, ánh sáng tỏa ra khắp nơi nơi. ♦ Một ông quan đang trèo lên thang ngắm trăng, thăng quan tiến chức nhanh chóng và liên tục. ♦ Nếu bạn đang đau ốm thì quẻ này liên quan đến não bộ, phổi hoặc hệ thần kinh. ♦ Đây là quẻ thuộc tháng tư, tốt về mùa xuân và đông, xấu về mùa hạ. HÌNH: có 6 con rồng ngự trên trời. Lục long ngự thiên. TƯỢNG: Quảng đại bao dung. KHÍ CHẤT: Quyền biến DÁNG: Con ngựa. HÀO TỪ do Chu Công viết : 1- Rồng còn ẩn náu, chưa dùng được. Sơ cửu: tiềm long vật dụng. 初九。潛龍勿用。Sơ 初- hào đầu tiên, tính từ dưới lên. Cửu 九– danh từ chỉ hào dương. Tiềm 潛- cất kín, giấu ở bên trong. Long 龍- con rồng. Vật 勿- chớ, không nên, không được. Dụng 用- ứng dụng. 2- Rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì lợi. Cửu nhị: hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân. 九二。現龍在田,利見大人。Cửu Nhị 九二 - hào thứ 2 dương. Hiện 現 - biểu hiện, hiện lên, hiện ra. Tại 在 - ở. Điền 田 - đồng ruộng, đất trồng. Kiến 見 – gặp, gặp mặt. Lợi kiến Đại nhân 利見大人 ý nói người có tài đức, cả người lập thân và người thành đạt. Hai loại người đó nên gặp nhau và hợp lực với nhau thì đều cùng có lợi. 3- Người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn thận trọng như lo sợ, Nguy hiểm nhưng không có lỗi.. Cửu tam: quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược, lệ, vô cữu.九三。君子終日乾乾。夕惕若,厲,無咎。Kiền kiền 乾乾 - hăng hái hoạt động. Tịch 夕– buổi tối. Dịch 惕 – kinh sợ. Tịch dịch nhược 夕惕若 – đến tối vẫn còn ưu tư lo lắng. Lệ 厲 – nguy hiểm. Vô 無 – không. Cữu 咎 – lỗi lầm. 4- Như con rồng có khi bay nhảy, có khi nằm trong vực, không mắc lỗi. Cửu tứ: hoặc dược, tại uyên, vô cữu. 九四。或躍在淵,無咎。Hoặc 或 – có thể thế này, có thể thế kia. Dược 躍 – nhảy lên. Uyên 淵 – vực thẳm. 5- Rồng bay trên trời, ra mắt đại nhân thì lợi. Cửu ngũ: phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân. 九五。飛龍在天,利見大人。Phi 飛 – bay. Khổng Tử giải thích: Vạn vật đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu, thủy lưu thấp 水流濕 nước chảy chỗ trũng, hỏa tựu táo 火就燥 lửa tìm đến chỗ khô, vân tòng long 雲從龍 mây theo rồng, phong tòng hổ 風從虎 gió theo hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ 聖人柞而萬物睹 thánh nhân ra đời vạn vật trông theo. Bản hồ thiên giả thân thượng 本乎天者親上 vật nào gốc ở trời thì thân thuộc với cõi trên. Bản hồ địa giả thân hạ 本乎地者親下 vật nào gốc ở đất thì thân thuộc với cõi dưới. 6- Rồng lên cao quá, có hối hận. Thượng cửu: kháng long hữu hối.上九。亢龍有悔。Thượng 上 – hào trên cùng. Kháng 亢 – cao, cao hết mức, quá. Hối 悔 – hối hận. Khi đọc hào này Khổng Tử nói: quí mà không có ngôi vị, cao mà không có dân, người hiền ở dưới lại không giúp, cứ vậy mà hành động tất phải hối hận. 子曰:貴而無位,高而無民, 賢人在下位而無輔,是以動而有悔也. Tử viết: quý nhi vô vị, cao nhi vô dân, hiền nhân tại hạ vị nhi vô phụ, thị dĩ động nhi hữu hối dã. 7- Xuất hiện bầy rồng không có đầu, tốt. Dụng cửu: Hiện quần long vô thủ, cát. 用九。現群龍無首,吉。Quần long 群龍– bầy rồng. Thủ 首– đầu, người đứng đầu, thủ lãnh. Cát 吉 – tốt. Dụng cửu 用九 – chỉ có ở quẻ Càn. Và ở quẻ Khôn là Dụng lục 用六 các quẻ khác không có. Chu Hy giảng: Gặp quẻ càn này mà sáu hào dương đều biến ra âm cả, tức là cương mà biến ra nhu, thì tốt. Thánh nhân dùng cái tượng bầy rồng sáu hào dương mà không đầu tức là nhu để diễn ý đó. Hàn Phi nói: Như mặt trời mặt trăng sáng chiếu, bốn mùa vận hành, mây trăng gió thổi, vua đừng để trí lụy tâm, đừng để điều riêng hại mình. Gởi trị loạn nơi pháp thuật, giao phải trái nơi thưởng phạt, phó nặng nhẹ nơi quyền hành. Khổng Tử giải nghĩa: Trong thoán truyện: Càn, Nguyên: đại tại càn nguyên, vạn vật tư thỉ, nải thống thiên. Hanh: Vân hành vũ hí, phẩm vật lưu hình. Đại minh chung thỉ, lục vị thì thành, thì thừa lục long, dĩ ngự thiên. Lợi, Trinh: Càn đạo biến hóa, các chính tính mệnh, bảo hợp thái hòa, nãi lợi trinh. Thủ xuất thứ vạt, vạn quốc hoàn minh. Trong đại tượng truyện: Trời dịch chuyển mạnh mẽ, người quân tử tự cường phấn đấu vươn lên không ngưng nghỉ. Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức. 象曰:天行健, 君子以自強不息. Thiên 天 – trời. Hành 行 – biến đổi không ngừng, dịch chuyển, vận động, bước chân đi. Kiện 健 – khỏe, khỏe khoắn, mạnh mẽ, tráng kiện. Quân tử 君子 – người quân tử. Dĩ 以– lấy, dùng. Tự cường 自強– tự cường. Bất tức 不息– không ngơi nghỉ. Nguyễn Hiến Lê viết 乾: 元, 亨, 利, 貞. Càn: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Dịch : Càn (có bốn đức – đặc tính): đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, chính và bền. Giảng: Văn Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng. Về sau, tác giả Thóan truyện (tương truyền là Khổng tử , nhưng không chắc), cho quẻ này một ý nghĩa về vũ trụ, Càn gồm sáu hào đều là dương cả, có nghĩa rất cương kiện, tượng trưng cho trời. Trời có đức “ nguyên” vì là nguồn gốc của vạn vật; có đức “hanh” vì làm ra mây, mưa để cho vạn vật sinh trưởng đến vô cùng, có đức “lợi” và “trinh” vì biến hóa, khiến cho vật gì cũng giữ được bẩm tính được nguyên khí cho thái hòa (cực hòa) . Bậc thánh nhân đứng đầu muôn vật, theo đạo Càn thì thiên hạ bình an vô sự. Tác giả Văn Ngôn truyện cho quẻ này thêm một ý nghĩa nữa về nhân sinh, đạo đức. Càn tượng trưng cho người quân tử . người quân tử có bốn đức. Nhân, đức lớn nhất, gốc của lòng người , tức như đức “nguyên” của trời. Lễ, là hợp với đạo lý, hợp với đạo lý thì hanh thông, cho nên lễ tức như đức “hanh” của trời. Nghĩa, đức này làm cho mọi người được vui vẻ sung sướng, tức như đức “lợi” của trời. Trí, là sáng suốt, biết rõ thị phị, có biết thị phi mới làm được mọi việc cho nên nó là đức cốt cán, cũng như đức “trinh” chính và bền – của trời. Nguyên, hanh, lợi , trinh mà giảng thành nhân, lễ , nghĩa, trí, (bốn đức chính của đạo Nho) thì rõ là chịu ảnh hưởng nặng của Nho gia mà ý nghĩa và công dụng của Dịch đã thay đổi khá nhiều rồi. Trở lên trên là cách hiểu của tiên Nho, các nhà Nho chính thống. Còn vài cách hiểu “mới mẻ” hơn của một số học giả gần đây, như phùng Hữu Lan, Tào Thăng, Cao Hanh mà ở phần I, Chương IV, chúng tôi đã ghi lại rồi. Hào từ : Từ đây trở xuống là Hào từ, lời Chu Công đoán về mỗi hào. 初 九: 潛 龍 勿 用 Sơ cửu: Tiềm long vật dụng. Dịch : hào 1 dương: Rồng còn ẩn náu, chưa (đem tài ra) dùng được. Giảng: Người Trung Hoa cho con rồng là thần vật, rất biến hóa, lúc ẩn lúc hiện, mà lại thuộc về lòai dương, cho nên chu Công dùng nó để cho ta dễ thấy ý nghĩa các hào – đều là dương cả - trong quẻ Càn. Hào 1, ở dưới thấp nhất, cho nên ví nó với con rồng còn nấp ở dưới vực sâu, chưa thể làm mây biến hóa được, còn phải đợi thời. Ý nghĩa rất rõ, Tiểu tượng truyện không giảng gì thêm. Còn Văn Ngôn truyện thì bàn rộng ra về cách sử sự của bâc thánh nhân, người quân tử : chưa gặp thời thì nên tu đức, luyện tài, không vì thế tục mà đổi chí, không cầu danh, ở ẩn, không ai biết mình cũng không buồn, không gì lay chuyển được chí của mình. 九 二 : 見 龍 在 田 . 利 見 大 人 . Cửu nhị: Hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân. Dịch: Hào 2, dương: rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì lợi. Giảng: hào 2 là dương, ở giữa nội quái là đắc trung, như vậy là gặp thời, tài đức giúp ích cho đời được: lại thêm hào ứng với nó là hào 5, cũng là dương, cũng đắc trung (vì ở giữa ngọai quái); cho nên hào 2 có thể ví với con rồng đã rời vực mà hiện lên cánh đồng; mà cũng như người có tài đức gặp thời, nên kiến đại nhân). Văn ngôn: khuyên người có tài đức gặp thời này nên giữ đức tín, đức thận trọng trong ngôn, hành, tránh tà bậy, giữ lòng thành, giúp đời mà không khoe công, như vậy là giữ được đức trung chính của hào 2. 九 三: 君 子 終 日 乾 乾, 夕 惕 若. 厲, 无 咎. Cửu tam: Quân tử chung nhật càn càn, tịch dịch nhược. Lệ, vô cữu. Dịch: hào 3, dương: Người quân tử mỗi ngày hăng hái tự cường, đến tối vẫn còn thận trọng như lo sợ. Nguy hiểm, nhưng không tôi lỗi. Giảng: Hào 3 là dương lại ở vị ngôi dương, như vậy là rất cương, mà không đắc trung. Hơn nữa, nó ở trên cùng nội quái mà chưa tiến lên ngọai quái, nghĩa là ở một chỗ chông chênh, rất khó xử, cho nên bảo là nguy hiểm (lệ). Nhưng nó vẫn là quân tử, có đức tự cường không ngừng, rất thận trọng, lúc nào cũng như lo sợ, cho nên tuy gặp thời nguy mà cũng không đến nỗi tội lỗi. Văn ngôn bàn thêm: người quân tử giữ trung tín để tiến đức; sửa lời nói (lập ngôn) vững lòng thành để lập sự nghiệp . . .nhờ vậy mà thấu được đạo lý, giữ được điều nghĩa làm được sự nghiệp tới cùng, ở địa vị cao mà không kiêu, địa vị thấp mà không lo (coi tòan văn ở phần I, Chương II . .. )Lời khuyên đó cũng tựa như lời khuyên ở hào 2 [COLOR=#ccccf] [/COLOR] [COLOR=#ccccf] 九 四: 或 躍, 在 淵, 无 咎. Cửu tứ: Hoặc dược, tại uyên, vô cữu. [/COLOR][COLOR=#ccccf] [/COLOR]Dịch: Hào 4, dương: như con rồng có khi bay nhảy, có khi nằm trong vực (biết tùy thời như thế thì) không lầm lỗi. (Có người dịch là như con rồng có khi bay nhảy trên vực sâu, không lầm lỗi). Giảng: Hào 4 là dương ở vị (ngôi) âm, như vậy là bất chính và bất trung; nó lại cũng như hào 3 ở địa vị chông chênh, mới rời nội quái tiến lên ngọai quái, tiến chưa chắc đã tốt mà thóai thì dở dang. Cho nên phải thận trọng xem xét thời cơ, nên tiến thì tiến (như con rồng bay nhảy) nếu không thì chờ thời (con rồng nằm trong vực), cho nên Chu Công dùng chữ “hoặc”: không nhất định. Tuy bất chính, bất trung như nó có chất cương kiện (hào dương trong quẻ Càn) nên cũng như hào 3 là bậc quân tử , biết giữ tư cách, biết tùy thời, và rốt cuộc không có lỗi. Hào này chỉ khác hào 3 ở chỗ nó có thể tiến được, còn hào 3 chưa thể tiến được. Văn ngôn không giảng gì khác, chỉ khuyên người quân tử tiến đức tu nghiệp, chuẩn bị cho kịp thời để có lúc ra giúp đời. 九 五 : 飛 龍 在 天 , 利 見 大 人. Cửu ngũ: Phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân. Dịch: Hào 5, dương: Rồng bay trên trời, ra mắt kẻ đại nhân thì lợi. Giảng : Hào 5 là dương ở vị (ngôi) dương cao nhất trong quẻ lại đắc trung (ở giữa ngọai quái), như vậy là có đủ những điều tốt,vừa cao quí vừa chính trung. Nó lại được hào 2 ở dưới ứng với nó, mà hào 2 cũng cương kiện, đắc trung như nó. Nó là hào tốt nhất trong quẻ , cho nên ví nó với con rồng bay trên trời, và ngôi của nó là ngôi chí tôn (ngôi vua). Chữ đại nhân (người có tài đức) trỏ cả hào 5 lẫn hào 2: hai đại nhân ở hai hào đó nên gặp nhau, hợp lực với nhau thì có lợi. Văn ngôn giảng thêm rất rõ và hay về bốn chữ lợi kiến đại nhân: “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; nước chảy xuống thấp, lửa bén tới chỗ khô; mây bay theo rồng, gió bay theo cọp, thánh nhân xuất hiện mà vạn vật đều trông vào (…) Mọi vật đều theo loài của nó” (Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu; thủy lưu thấp, hỏa tựu táo, vân tòng long, phong tòng hổ, thánh nhân tác nhi vạn vật đổ (…) các tùy kỳ loại dã). 上 九 . 亢 龍 有 悔. Thượng cửu: Kháng long hữu hối. Dịch: Hào trên cùng, dương: Rồng lên cao quá, có hối hận. Giảng: hào dương này ở trên cao của quẻ , cương kiện đến cùng rồi, như con rồng bay lên cao quá, không xuống được nữa, nếu vẫn còn hành động thì sẽ có điều đáng tiếc, vì lẻ thịnh quá thì tất suy, đầy thì không được lâu, (doanh bất khả cửu). Văn ngôn : giảng thêm: Hào 5 địa vị rất quí (vì ở trên cao hơn hết) nhưng không có ngôi, cao mà không có dân (vì hào 5 là vua mới có dân), các người hiền ở dưới mình mà không giúp đỡ mình (vì hào 3 tuy ứng với hào 6 nhưng lại ở nội quái, mà giữa hào 3 và hào 6 có hào 5 là vua làm chủ hào 3 rồi) cho nên hào 6 mà họat động thì tất có điều phải ăn năn. (Lời giảng trong Văn ngôn, tác giả Hệ Từ truyển dẫn lại trong thiên thương, Chương VIII, Tiết 9). Tóm lại thời của hào này là thời không nên họat động gì cả, sớm rút lui đi thì còn giữ được tư cách người quân tử . 用 九 . 見 群 龍 無 首 . 吉 . Dụng cửu: Kiến quần long vô thủ. Cát. Dịch: (nghĩa từng chữ) Dùng hào dương: thấy bầy rồng không có đầu, tốt. Chú thích: chu Hi giảng: Gặp quẻ Càn này mà sáu hào (dương) đều biến (ra âm) cả, tức là cương mà biến ra nhu, thì tốt. Thánh nhân dùng cái tượng bầy rồng (sáu hào dương) mà không đầu (tức là nhu) để diễn ý đó. J. Legge, R. Wilhelm đều hiểu theo Chu Hi mà không giảng gì thêm. Duy Phan Bội Châu đưa thêm ý kiến riêng, đại ý bảo “Dụng cửu” không phải là một hào. “quần long vô thủ” là sáu hào dương đều biến cả. Con rồng họat động khác thường là cốt ở cái đầu. Sáu hào dương đã biến (ra âm) hết thì không còn hình tích họat động nữa, cho nên gọi là rồng không đầu. Nhưng cụ cũng nhận rằng đó chỉ là mặt chữ mà giải thích nghĩa đen thôi, chứ cái “ý thâm diệu của thánh nhân thì sâu xa huyền bí quá” Nghĩa là lời kinh tối nghĩa quá, cụ không hiểu nổi. - Cao Hanh hiểu khác, bảo “bầy rồng không đầu, nghĩa là bầy rồng đã bay lên trời, đầu bị mây che, nên chỉ thấy mình và đuôi. Đó là cái tượng rồng cưỡi mây lên trời, tốt”. Cách giảng đó dễ hiểu, nhưng hai chữ “dụng cửu” có nghĩa gì đây, phải là một “hào” mới không, thì ông không cho biết. Cứ theo cách ông giảng “dụng lục” của quẻ Khôn – coi quẻ sau – cho “dụng lục” là một hào, thì chắc ông cũng cho “dụng cửu” của quẻ Càn là một hào. Nếu vậy thì “hào” này ra sao? Có phải là cả sáu hào của quẻ đều từ dương biến ra âm, như Chu Hi giảng không ? - Tào Thăng giải nghĩa khác nữa: “Cửu “ là hào dương biến; “dụng” là lợi dụng, “vô thủ” là không có đầu mối. Đạo Càn (quần long) vận hành, biến hóa kỳ diệu, vạn vật nhờ đó mà thành công, nhưng cái lý do nó không thể thấy được (vô thủ), hễ dùng nó hợp thời thì tốt. Vậy cơ hồ Tào không cho “dụng cửu” là một hào, mà chỉ có nghĩa là cách dùng quẻ Càn. - Chu Tuấn Thanh trong “Lục thập tứ quái kinh giải” – Cổ tịch xuất bản xã – đưa ra một cách giải nữa cho “Dụng cửu” là tóm lại nghĩa của sáu hào thuần dương, Thuần dương là cái đức của trời, là gốc của vạn vật không có gì ở trước nó được, ở trước nó thì xấu, theo sau nó thì tốt. Đó là ý nghĩa của hai chữ “vô thủ” Nghĩa này theo tôi, khó chấp nhận được. - Nghiêm Linh Phong trong “Chu Dịch tân luận” – Chính trung thư cục –dẫn nhiều thuyết nữa. Thuyết của Vương An Thạch, Đô Khiết, cho câu: “dụng cửu: Kiến quần long vô thủ, cát “không phải là một tiết riêng mà chỉ là tiếp theo tiết Thượng cửu” Thuyết của Ngô Nhân Kiệt, bảo các bản Dịch thời cổ, cho đến đời Phi Trực nhà Hán không có hai chữ “Dụng cửu”, đời sau thêm vào v.v. . . Tóm lại câu “dụng cửu . .” này, tới nay vẫn còn là một bí mật, không ai hiểu rõ nghĩa, tòan là đóan phỏng. Nếu coi nó là một hào thứ bảy tức trường hợp cả 6 quẻ Càn biến một lần ra âm hết, thì trường hợp đó cả ức triệu lần chưa chắc đã xảy ra một (1), các sách bói, đóan số không khi nào dùng nó cả. Về triết lý, thì ý nghĩa của nó chẳng có gì đặc biệt, cũng chỉ là biết cương mà cũng biết nhu, hợp thời mới tốt. * PHỤ LỤC Dưới đây chúng tôi trích dẫn vài cách giải hào 1 qủe Càn của một số học giả gần đây, để độc giả so sánh. - Chu Tuấn Thanh (sách đã dẫn) “rồng có 81 cái vảy ! đủ chín lần chín, cho nên dùng nó để tượng trưng hào dương. Rồng tới tiết xuân phân thì lên trời, tiết thu phân thì nấp dưới vực. Hào dương ở vị trí 1, tức là tháng giêng theo lịch nhà chu, tháng tí. Khí dương lúc đó mới động ở suối vàng (hòang tuyền) chưa manh nha, còn tiềm phục, như người có thánh đức ở giữa đám người ngu . . .cho nên chưa dùng được, tài đức chưa thi thố được.” - Tào Thăng (sách đã dẫn). “người thời cổ thấy con rồng khéo biến hóa, cho nó là thần kỳ, dùng nó để đại biểu năng lực. Nếu lấy chữ “long” (rồng) làm chữ “năng” (lực) mà giảng thì con rồng ở dưới vực không dùng được, vì năng lực nó còn tiềm phục, chưa hiện, chưa sinh tác dụng được (. . .) Dùng cái phép của hào mà giảng thì hào 1 ở dưới hào 2, hào 2 chưa động thì hào 1 không thể động trước. Hào 1 biến động quẻ Càn này thành quẻ Cấu (trên là Thiên, dưới là Phong) thì cũng chỉ là mới gặp “ở âm” (?)mà thôi, cho nên bảo là rồng còn ẩn náu, chưa dùng được (Cấu có nghĩa là gặp). - Cao hanh (sách đã dẫn) Tôi chỉ trích câu cuối: “con rồng còn ẩn ở dưới vực mà không hiện, có cái “tượng” tĩnh mà không động. Bói được quẻ này thì không nên thi hành. Chúng tôi không biết các học giả Trung Hoa gần đây còn những cách giảng nào mới mẻ hơn không, chứ ba cách trên không kỹ gì hơn cách của người xưa, mà cũng chẳng phát huy thêm được gì -------------------------------- Quẻ 02 :::::: Thuần Khôn (坤 kūn) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Thuần Khôn đồ hình :::::: còn gọi là quẻ Khôn (坤 kūn), tức Đất là quẻ số 2 trong Kinh Dịch. Đất mẹ, nhu thuận, sinh sản và nâng đỡ muôn vật, Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là: ☷ (::: 坤 kūn) Khôn hay (地) Đất và Ngoại quái là: ☷ (::: 坤 kūn) Khôn hay (地) Đất. Giải nghĩa: Thuận dã. Nhu thuận. Thuận tòng, mềm dẻo, theo đường mà được lợi, hòa theo lẽ, chịu lấy. Nguyên hanh lợi trinh chi tượng. Phục Hy ghi: Khôn nghĩa là thuận. THOÁN TỪ Văn Vương viết: DỊCH: Quẻ Khôn có sức sáng tạo lớn lao (nguyên), thông suốt và thuận tiện (hanh), lợi ích thích đáng (lợi), ngay thẳng và có đức chính và bền của con ngựa cái. Người quân tử có dịp thi thố tài năng nhưng tự thủ xướng thì dễ bị lầm, để người khác thủ xướng mà mình theo sau thì được, chỉ mong có ích cho mọi người thì lợi. Yên lòng giữ đức bền, tốt. Khôn, nguyên, hanh, lợi tẫn mã chi trinh. Quân tử hữu du vãng, tiên mê hậu đắc, chủ lợi. Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng. An trinh, cát. 坤,元,亨,利牝馬之貞。 君子有攸往,先迷後得,主利。 西南得朋,東北喪朋。安貞,吉。 Khôn 坤 – đất, mẹ, đất mẹ. Tẫn mã 牝馬– con ngựa cái. Du 攸– thoáng ngang qua. Vãng 往– đi, đã qua. Tiên 先– trước, làm trước. Mê 迷 – lầm lạc. Hậu 後 – sau, nối dõi. Đắc 得– được. Chủ 主 – chủ nhân, chúa. Tây Nam 西南 – phương vị quẻ Khôn = hãy là chính mình. Đông Bắc 東北 – ngược hướng với phương vị quẻ Khôn = đối nghịch với bản tính của chính mình. Làm một việc không hợp với bản tính của mình thì khó thành công. Một cách hiểu khác: theo Hậu Thiên Bát Quái thì Đông Bắc là phương vị của quẻ Cấn 艮. Cấn là ngưng nghỉ là bằng lòng với cái mình có, không hợp với nhiệm vụ nặng nề và khí chất của Khôn là đảm lược. Bằng 朋 – bạn, cộng sự, đối tác; một loại tiền tệ thời cổ. Táng 喪– mất. An 安– yên bình. CHIÊM: ♦ Quẻ này có 2 hào tốt , hai hào xấu (x). ♦ Bạn có người yêu hay vợ giỏi giang tốt nết. ♦ Mười một cái miệng, bạn là người đảm đang và tốt nết nuôi được mười một cái miệng ăn. ♦ Một ông quan ngồi trên đống tiền, tay hòm chìa khóa, tiến tài tiến lộ, thành công về công danh và kinh doanh, tiền bạc được quản lý chặt chẽ. ♦ Một vị thần mặc giáp vàng ngồi trên đài cao giao giao bằng sắc cho một ông quan, công lao của bạn thật to lớn, được tôn vinh và ca ngợi. ♦ Không làm điều gì không có mục đích hoặc không có lý do. ♦ Làm giùm người khác là tốt. ♦ Quẻ tháng mười. Tốt về mùa đôngvà xuân và xấu về mùa hạ. ♦ Đây là một trong 8 quẻ bát thuần, bệnh nhân đau nặng sẽ phục hồi nhưng phải lâu. HÌNH: sinh sản và nâng đỡ muôn vật. 生再萬物. Sinh tái vạn vật. TƯỢNG: Vua xướng tôi họa, vua tôi hòa hợp. 君倡臣和. Quân xướng thần họa. KHÍ CHẤT: Đảm lược. DÁNG: Con trâu. HÀO TỪ Chu Công viết: 1- Đạp lên sương thì biết băng dày sắp đến. (x) Sơ lục: Lý sương, kiên băng chí. 初六。履霜,堅冰至。Lý 履 – dẫm, đạp, đi theo; giày đóng bằng da. Sương 霜– hơi nước đọng lại thành giọt. Kiên 堅– vững lòng, không lo sợ. Băng 冰– nước đá. Chí 至– đến. Nhà nào tích lũy điều lành thì tất có thừa phúc để đến đời sau. Nhà nào tích lũy việc chẳng lành tất có thừa tai vạ để đến đời sau. 2- Âm Đức thẳng, vuông, lớn thì cho dù thiếu học vấn cũng không bị bất lợi. Lục nhị: Trực phương đại, bất tập vô bất lợi. 六二。直方大,不習旡不利。 Trực 直 – thẳng, thẳng thắn, chính trực. Phương 方– vuông vức, đạo đức. Đại 大– lớn. Tập 習– làm đi làm lại nhiều lần cho quen, rèn luyện. Vô bất lợi 旡不利 – chẳng có gì là không lợi cả. Văn ngôn giảng thêm: Người quân tử ngay thẳng ở trong lòng thì phải có đức kính, phải có đức nghĩa. Có hai đức kính và đức nghĩa đó sẽ không bị cô lập. 3- Ngậm chứa đức tốt không để lộ ra nên giữ vững được, cũng theo người trên mà làm việc nước, không mong công trạng thì sau cũng có kết quả. Lục tam: Hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương sự, vô thành, hữu chung. 六三。含章可貞,或從王事,旡成,有終。 Hàm 含– ngậm trong miệng. Chương 章– văn chương, chương trình, tấu chương. Khả trinh 可貞– có thể giữ bền được. Hoặc tòng 或從 – đi theo cũng được, không theo cũng chẳng sao. Vương sự 王事 – việc nước, việc quốc gia. Vô thành 旡成 – Không có thành tích, không có công trạng. Hữu chung 有終 – đi đến cùng, có kết quả. Văn ngôn bàn thêm: Ngậm chứa đức tốt, theo người trên làm việc mà không dám chiếm lấy sự thành công, đó là đạo của đất, của vợ, của bề tôi (địa đạo, thê đạo, thần đạo). Đó là cách cư xử của người dưới đối với người trên. 4- Kín đáo giữ gìn như cái túi thắt miệng lại thì khỏi tội lỗi mà cũng không danh dự. Lục tứ: Quát nang, vô cữu, vô dự. 六四。括囊,旡咎,旡譽。Quát 括 - Bó lại, buộc lại. Nang 囊 – Cái túi. Cữu 咎– lỗi, xấu. Dự 譽– khen, đáng khen, vinh dự, danh dự. Văn ngôn cho hào này có cái tượng “âm cự tuyệt dương”, lúc đó hiền nhân nên ở ẩn, rất thận trọng thì không bị tai họa. Có địa vị đại thần, tài thấp mà địa vị cao nên phải thận trọng thì mới khỏi tội lỗi, an thân mặc dầu không có danh dự gì. 5- Như cái xiêm màu vàng, lớn, rất tốt. Lục ngũ: Hoàng thường, nguyên cát. 六五。黃裳,元吉。 Hoàng 黃 – màu vàng. Thường 裳 – xiêm, váy, quần. Chu Hy giải thích rằng: Vàng là màu trung chính, xiêm là đồ mặc ở phía dưới. Hào lục ngũ là thể âm, ở ngôi tôn, cái đức trung thuận đầy ở trong mà hiện ra ngoài, cho nên tượng nó như thế, mà chiêm của nó là điều lành của bậc đại thiện. Dịch tuy coi Khôn không quý bằng Càn, nhưng có lúc coi trọng đức khiêm nhu, mà dịch cho là đức của người văn minh. Tinh thần đó là tinh thần hiếu hòa, trọng văn hơn võ. Chu Công cho hào 5 quẻ Càn là đại quý (phi long tại thiên) nhưng chỉ bảo: lợi kiến đại nhân; hào 5 quẻ Khôn thì khen là nguyên cát hào tốt nhất trong kinh dịch, là có nghĩa vậy. Chồng nghe theo vợ, cha nghe theo con. 6- Rồng đánh nhau ở đồng nội, đổ máu đen máu vàng.(x) Thượng lục: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng. 上六。龍戰于野,其血玄黃。 Chiến 戰 – đánh nhau. Vu 于- ở, đến. Dã 野 – cánh đồng. Huyết 血– máu. Huyền 玄– màu đen. Quản lý chặt chẽ đã lên đến tận cùng rồi. Chặt chẽ nữa chỉ có hỏng việc. 7- Phải lâu dài, chính và bền thì lợi. Dụng lục: Lợi vĩnh trinh. 用六。利永貞。 Vĩnh 永– lâu dài, mãi mãi, vĩnh viễn. Thuyết của Tiên Nho: Sáu hào âm biến thành sáu hào dương, tức thuần Khôn biến thành thuần Càn, như một người nhu nhược biến thành người cương cường, cho nên bảo là: Nên lâu dài, chính và bền. Thuyết của Cao Hanh: hỏi về việc cát hay hung lâu dài, mà được “hào” này thì lợi. Ăn ở cùng nhau như vợ chồng. Khổng Tử: Trong Soán truyện : Chí tai Khôn Nguyên, vạn vật tư sinh, nãi thuận thừa thiên. Khôn hậu tải vật, đức hợp vô cương, hàm hoàng quang đại, phẩm vật hàm hanh. Tấn mã địa loại, hành địa vô cương, nhu thuận lỵ trinh. Quân tử du hành, tiên mê thất đạo, hậu thuận đắc thường, tây nam đắc bằng, nãi dự loại hành, đông bắc táng bằng, nải chung hữu khánh. An trinh chi cát, ứng địa vô cương. Đại tượng truyện: Khôn mang trọng trách của đất, người quân tử lấy đức dày để nâng đỡ vạn vật. Địa thế khôn, quân tử dĩ hậu đức tải vật. 象曰:地勢坤,君子以厚德載 物. Địa 地– đất, địa vị, vị thế. Thế 勢 – thế lực, ảnh hưởng, vai trò. Hậu 厚– dày. Đức 德 – đức, thiện nghệ, năng lực của bản thân. Tải 載 – chở. Vật 物 – muôn loài, động vật, thực vật. Nguyễn Hiến Lê viết 坤 : 元, 亨, 利, 牝 馬 之 貞 . 君 子 有 攸 往 . 先 迷 後 得. 主 利 . 西 南 得 朋 . 東 北 喪 朋 . 安 貞 吉 . Khôn: Nguyên, hanh , lợi, tẫn mã chi trinh. Quân tử hữu du vãng, tiền mê hậu đắc, chủ lợi. Tây nam đắc bằng, đông bắc táng bằng. An trinh, cát. Dịch: Khôn có đức đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, đức chính và bền của con ngựa cái. Người quân tử có việc làm mà thủ xướng thì lầm, để người khác thủ xướng mà mình theo sau thì được. chỉ cốt lợi ích cho vạn vật. đi về phía tây nam thì được bạn, về phía đông bắc thì mất bạn. An lòng giữ đức bên vững, tốt. Giảng : Quẻ Càn gồm 6 hào dương, quẻ Khôn gồm 6 hào âm. Càn “tượng” (1) trời thì không “tượng” đất. Càn cương kiện thì Khôn nhu thuận. Càn tạo ra vạn vật ở vô hình, thuộc phần khí; nhưng phải nhờ Khôn vạn vật mới hữu hình, mới sinh trưởng, cho nên công của Khôn cũng lớn như công của Càn; chỉ khác Khôn phải ở sau Càn, tùy theo Càn, bổ túc cho Càn; cho nên các đức nguyên, hanh, lợi, Khôn có đủ như Càn; chỉ riêng về đức trinh (chính và bền) thì Khôn hơi khác: tuy chính và bền nhưng phải thuận. Văn Vương dùng con ngựa cái để “tượng” Không: ngựa là giống mạnh mà ngựa cái có tính thuận theo ngựa đực. Cũng vì Khôn có đức thuận, cho nên khởi xướng phải là Càn, Khôn chỉ tiếp tục công việc của Càn. Người quân tử nếu ở vào địa vị khôn, phải tùy thuộc người trên thì làm việc cũng đừng nên khởi xướng để khỏi lầm lẫn, chờ người ta khởi xướng rồi mới theo thì được việc, như vậy là có đức dày như đất, chở được muôn vật, lớn cũng không kém đức của trời (Càn): “Quân tử dĩ tự cường bất tức” là bài học rút ra từ quẻ Càn. Chu công còn khuyên đi về phía Tây Nam vì trên Hậu thiên bát quái Khôn ở phía Tây nam (có học giả hiểu là phía Tây và phía Nam) thì được bạn (hoặc được tiền bạc, vì chữ “bằng” cò thể hiểu là bằng hữu, cũng có thể hiểu là bằng bối: bối là vỏ sò ngao xưa dùng làm tiền, 1 bằng là 2 hoặc 10 bối) nếu đi về phía Đông bắc thuộc dương thì mất bạn (hoặc tiền bạc). Được quẻ này, nến theo những lời khuyên đó mà an lòng, giữ đức bền vững thì tốt. Câu “Quân tử hữu du vãng, tiên mê hậu đắc” có người hiểu là: “Người quân tử có đi đâu thì trước lầm sau đúng”, mà không giảng tại sao lại như vậy. Hiểu như chúng tôi ở trên thì có lý hơn, làm rõ cái đạo “thuận tòng thì tốt” của Khôn. Chữ “du” ở trong kinh Dịch thường dùng như chữ “sở” Tác giả Văn Ngôn không giảng gì thêm chỉ tóm tắt lại: Đạo Khôn là thuận theo trời mà tiến hành không ngừng. Hào từ: 1) 初 六: 履 霜, 堅 冰 至 Sơ lục: Lý sương, kiên băng chí. Giảng: Đây là hào âm đầu tiên trong quẻ. Âm thì lạnh, nên Chu Công ví với sương lạnh mới kết lại thì thành sương, rồi lần lần, lạnh hơn, nước sẽ đông lại thành băng. Hao này có hàm cái ý phải thận trọng từ bước đầu. Tiểu tượng truyện không giảng thêm, còn Văn ngôn truyện thì khuyên ta: “Nhà nào tích lũy điều lành thì tất có thừa phúc (để đến đời sau); nhà nào tích lũy điều chẳng lành thì tất có thừa tai vạ (để đến đời sau). Như việc bề tôi giết vua, con giết cha, nguyên do không ở trong một buổi sớm chiều; tất dần dà có từ lâu rồi, mà người ta không biết lo toan từ sớm vậy” (tích thiện chí gia tất hữu dư khách, tích bất thiện chi gia tất hữu dư ương: Thần thí kỳ quân, tử thí kỳ phụ, phi nhất triều nhất tịch chi cố, kỳ sở do lai giả tiệm hĩ. Do biện chi bất tảo biện dã).” Chúng ta để ý: hào 1 quẻ Càn, Dịch chỉ khuyên cứ ở ẩn, tu đức luyện tài chờ thời; còn hào 1 quẻ Khôn này. Dịch răn phải đề phòng từ đầu, nếu không sẽ gặp họa; như vậy Dịch tin ở Dương hơn đạo Âm, trọng Dương hơn Âm . 2) 六 二: 直 方 大, 不 習 无 不 利 Lục nhị: trực phương đại, bất tập vô bất lợi. Dịch: Hào 2, âm (Đức của mình) thẳng, vuông, lớn thì chẳng phải học tập mà cũng không có gì là không lợi. Giảng: Hào này rất tốt: thể là âm, vị cũng là âm ( hào chẳn), thế là đắc chính, cho nên bảo là có đức thẳng (trực) nó lại đắc trung, (ở giữa nội quái) cho nên bảo là vuông vức (phương) (1) nó lại ở trong quẻ Khôn, có qui mô lớn, nên chẳng cần học tập khó khăn mà hành động nào cũng hợp đạo lý. Văn ngôn giảng thêm: người quân tử muốn như hào 2 này mà ngay thẳng ở trong lòng thì phải có đức kinh; vuông ở ngòai (khi tiếp vật) thì phải có đức nghĩa. Có hai đức kính, nghĩa đó thì sẽ không cô lập (?). Nguyên văn: “bất cô”, Chu Hi giảng là to lớn, tức có ý cho rằng: Kính thì “trực”, nghĩa thì “phương”. Có đủ kính và phương thì là “đại”. Chúng tôi hiểu theo câu: Đức bất cô, tất hữu lân” (người có đức thì không lẻ loi, tất có bạn cũng trọng đạo đức như mình (bạn đây là hào 5, ứng với 2) không biết có đúng không. 3) 六 三: 含 章 可 貞, 或 從 王 事, 无 成 有 終 Lục tam: hàm chương khả trinh, hoặc tòng vương sự, vô thành hữu chung. Dịch: Hào 3, âm: Ngậm chứa (đừng để lộ ra) đức tốt mà giữ vững được, có khi theo người trên mà làm việc nước, đừng chiếm lấy sự thành công thì sau cùng sẽ có kết quả. Giảng: Hào 3 là âm mà ở vào địa vị dương (lẻ), như vậy là không chính, nhưng nó vốn có đức nhu thuận của quẻ Khôn, thêm được tính cương kiện của vị dương, thì lại là tốt (đây là lẽ biến hóa của Dịch). Nó đứng trên cùng nội quái, tức có thể có chức phận, cho nên bảo là có lúc theo bề trên làm việc nước. Nhưng nó nên nhũn, nhu thuận (đức của Khôn) chỉ làm trọn nghĩa vụ mà đừng chiếm lấy sự thành công thì sau cùng sẽ có kết quả. Văn ngôn bàn thêm: Ngậm chứa đức tốt, theo người trên làm việc mà không dám chiếm lấy sự thành công, đó là đạo của Đất, của vợ, của bề tôi (địa đạo, thê đạo, thần đạo). Đó là cách cư xử của người dưới đối với người trên. 4) 六 四: 括 囊, 无 咎, 无 譽. Lục cửu: quát nang, vô cữu, vô dự. Dịch: Hào 4 âm: như cái túi thắt miệng lại, (kín đáo giữ gìn) thì khỏi tội lỗi mà cũng không danh dự. Giảng: hào 4 là âm ở địa vị âm trong một quẻ tòan âm, mà không đắc trung như hào 2, ví như người quá nhu thuận, vô tài, không có chút cương cường nào. Đã vậy, mà ở sát hào 5, tức là có địa vị một đại thần, tài thấp mà địa vị cao, nên phải thận trọng thì mới khỏi tội lỗi, an thân, mặc dầu không có danh dự gì. Hào 4 quẻ Càn cũng ở địa vị như hào này, nhưng là dương, có tài năng, nên còn có thể bay nhảy, tiến được (hoặc dược), khác nhau ở chỗ đó. Văn ngôn cho hào này có cái tượng “âm cự tuyệt dương” (vì không có chút dương nào cả từ bản thể tới vị), như vậy là âm dương cách tuyệt nhau, trời đất không giao nhau (thiên địa bế), lúc đó hiền nhân nên ở ẩn (hiền nhân ẩn), rất thận trọng thì không bị tai họa. 5) 六 五: 黄 裳, 元 吉. Lục ngũ: hoàng thường, nguyên cát. Dịch : hào 5, âm: như cái xiêm màu vàng, lớn, tốt (rất tốt). Giảng Hào 5 là hào chí tôn trong quẻ , đắc trung. Tuy nó không đắc chính vì là âm mà ở vị dương; nhưng ở trong quẻ Khôn,như vậy lại tốt vì có chút cương, không thuần âm, thuần nhu, như hào 4, tức là có tài, nhưng vẫn là Khiêm nhu (vì là âm). Âm còn hàm ý văn vẻ nữa, trái với dương cương kiện là võ. Cho nên Chu Công cho là hào này rất tốt, và “tượng” bằng cái xiêm màu vàng. Vàng là màu của đất, của trung ương (hàm ý không thái quá, không bất cập) của vàng, đồng, nên người Trung Hoa thời xưa rất quí, chỉ vua chúa mới được dùng màu vàng trong y phục. xiêm là một bộ phận y phục ở phía dưới, đẹp đẽ, hàm cái nghĩa khiêm hạ, không tự tôn. Văn ngôn bàn thêm: người quân tử có đức trung (màu vàng) ở trong mà thông suốt đạo lý, ở ngôi cao mà vẫn khiêm, tự coi mình ở thể dưới (như cái xiêm); như vậy là chất tốt đẹp ở bên trong mà phát ra bề ngòai, làm nên sự nghiệp lớn, tốt đẹp như vậy là cùng cực. Như vậy Dịch tuy coi âm (Khôn) không quí bằng dương (Càn), nhưng có lúc coi trọng đức khiêm nhu, mà Dịch cho là đức của người văn minh. Tinh thần đó là tinh thần hiếu hòa, trọng văn hơn võ. Hào 5 quẻ Càn, Chu Công cho là đại quí (long phi tại thiên) nhưng chỉ bảo: “Lợi kiến đại nhân”; còn hào 5 quẻ không thì khen là”nguyên cát” hào tốt nhất trong Kinh Dịch, là có nghĩa vậy. 6) 六 上: 龍 戰 于 野, 其 血 玄 黄. Lục thượng: Long chiến vu dã, kỳ huyết huyền hoàng. Dịch: Hào trên cùng âm : Như rồng đánh nhau ở đồng nội, đổ máu đen máu vàng. Giảng: hào này âm lên tới điểm cực thịnh. Âm dương tuy bổ túc nhau, nhưng bản thể vẫn là ngược nhau, đối địch nhau. Khi âm cực thịnh, dương cũng vậy ( hào 6 quẻ Càn) thì hai bên tất tranh nhau, và cả hai đều bị hại. Đạo đến đó là cùng rồi. cũng vẫn cái nghĩa thịnh cực thì suy như hào 6 quẻ Càn. Văn ngôn: không giảng gì khác, chỉ cho biết rằng “huyền hoàng”: là sắc của trời đất, âm dương . Cao Hanh ngờ rằng hai chữ đó [玄 黄] thời xưa dùng như hai chữ [ ] (vì đọc như nhau) và có nghĩa là chảy ròng ròng. Không rõ thuyết nào đúng, nhưng đại ý vẫn là tai hại cả cho hai bên. 7) 用 六: 利 永 貞. Dụng lục: Lợi vĩnh trinh. Dịch: (nghĩa từng chữ) dùng hào âm: phải (nên) lâu dài, chính và bền. Giảng: Hai chữ “dụng lục” ở đây cũng như hai chữ “dụng cửu” ở quẻ Càn rất tối nghĩa, và câu 7 này mỗi nhà giảng một khác. Dưới đây tôi chỉ đưa ra ba thuyết: • Thuyết của tiên nho: sáu hào âm biến ra sáu hào dương, tức Thuần khôn biến thành Thuần Càn, như một người nhu nhược biến ra một người cương cường, cho nên bảo là: phải (nên) lâu dài, chính và bền. • Thuyết của Cao Hanh: hỏi về việc cát hay hung lâu dài, mà được “hào” này thì lợi. • Thuyết của Tào Thăng: Khôn thuận theo Càn cho nên gọi là lợi; Không động thì mở ra, tĩnh thì đóng lại. Cho nên bảo chính và bền, ý muốn nói: đạo Khôn đơn giản mà tác tác thành vạn vật. Chú ý: chỉ hai quẻ Càn và Khôn là có Văn ngôn truyện, Dụng Cửu và dụng Lục; từ quẻ sau trở đi không còn những tiết đó nữa.
Quẻ 04 :: Sơn Thủy Mông (蒙 méng) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Sơn Thủy Mông đồ hình :: quẻ Sơn Thủy Mông còn gọi là quẻ Mông (蒙 mèng), là quẻ thứ 04 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☵ : 坎 kản) Khảm hay (水) Nước và Ngoại quái là ☶ (: 艮 gẽn) Cấn hay (山) Núi. Giải nghĩa: Muội dã. Bất minh. Tối tăm, mờ ám, không minh bạch, che lấp, bao trùm, phủ chụp, ngu dại, ngờ nghệch. Thiên võng tứ trương chi tượng: tượng lưới trời giăng bốn mặt. Phục Hy ghi: Tự quái, Truân giả vật chi thi sinh dã, vật sinh tât Mông, cố thụ chi dĩ Mông, Mông giả mông dã, vật chi tử dã. Văn Vương ghi thoán từ: Mông: hanh, phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã. Sơ phệ cáo, tái tam độc, độc tắc bất cáo. Lợi trinh (蒙: 亨, 匪我求童蒙, 童蒙求我. 初筮告, 再三瀆, 瀆則不告. 利 貞). Chu Công viết hào từ: Sơ lục: Phát mông, lợi dụng hình nhân, dụng thoát chất cốc, dĩ vãng lận. Cửu nhị: Bao mông cát, nạp phụ cát, tử khắc gia. Lục tam: Vật dụng thủ nữ kiến kim phu, bất hữu cung, vô du lợi. Lục tứ: Khốn, mông, lận. Lục ngũ: Đồng mông cát. Thượng cửu: Kích mông, bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu. Nguyễn Hiến Lê viết Quẻ số 3 là Truân, lúc vạn vật mới sinh. Lúc đó vạn vật còn non yếu, mù mờ, cho nên quẻ 4 này là Mông. Mông có hai nghĩa: non yếu và mù mờ Thoán từ : 蒙: 亨, 匪我 求 童 蒙, 童 蒙 求 我 . 初 筮 告, 再 三 瀆, 瀆 則 不 告 .利 貞 . Mông: Hanh, Phỉ ngã cầu đồng mông, đồng mông cầu ngã. Sơ phệ cáo, tái tam độc, độc tắc bất cáo. Lợi trinh. Dịch: trẻ thơ được hanh thông. Không phải ta tìm trẻ thơ mà trẻ thơ tìm ta. Hỏi (bói) một lần thì bảo cho, hỏi hai ba lần thì là nhàm, nhàm thì không bảo. Hợp với đạo chính thì lợi (thành công). Giảng : Theo nghĩa của quẻ thì cấn là ngưng, Khảm là hiểm. Ở trong (nội quái) thì hiểm, mà ở ngoài (ngoại quái) thì ngưng, không tiến được, tỏ ra ý mù mờ, cho nên gọi là Mông. Xét theo hình tượng thì ở trên có núi (Cấn), dưới chân núi có nước sâu (khảm), cũng có nghĩa tối tăm (Mông). Cũng có thể giảng là dưới chân núi có suối nước trong, tức như hạng người còn nhỏ (khi thành sông mới là lớn), hạng “đồng mông”, cho nên gọi quẻ này là Mông (mông có nghĩa là non yếu). Đặc biệt quẻ này chỉ chú trọng vào hào 2 và hào 5. Hào 2 là dương cương, đắc trung làm chủ nội quái, đáng là một vị thầy cương nghị, khải mông (tức mở mang cái tối tăm) cho trẻ. Hào đó ứng với hào 5 âm nhu thuận mà cùng đắc trung, là tượng học trò ngoan. Vậy là thầy trò tương đắc, sự học hành tất có kết quả tốt, cho nên quẻ này có đức hanh thông. Tư cách của thầy cương, của trò nhu, cho nên thầy không phải cầu trò, mà trò phải cầu thầy. Và khi dạy, trò hỏi một lần thì bảo, nếu hỏi 2, 3 lần thì là nhàm, không bảo. Giữ được đạo chính (hoặc bồi dưỡng chính nghĩa) thì lợi thành công. Hào từ : 1. 初 六: 發 蒙, 利 用 刑 人, 用 說 桎 梏, 以 往 吝. Sơ lục: phát mông, lợi dụng hình nhân, Dụng thoát chất cốc, dĩ vãng lận. Dịch: Hào 1, âm: mở mang cái tối tăm (cho hạng người hôn ám) thì nên dùng hình phạt cốt cho họ thoát khỏi gông cùm, nhưng đừng đi quá mức sẽ hối tiếc. Giảng: Hào âm này vị ở thấp nhất trong quẻ Mông là tượng kẻ hôn ám nhất, phải dùng hình phạt trừng trị mới cởi cái gông cùm (vĩ vật dục) cho họ được; khi có kết quả rồi thì thôi, đừng quá dùng hình phạt mà sẽ ân hận. Chữ : "dụng hình nhân", dịch sát là dùng người coi về hình, tức dùng hình phạt. 2. 九 二 . 包 蒙 吉 . 納 婦 吉 . 子 克 家 . Cửu nhị: Bao mông cát, nạp phụ cát, tử khắc gia. Dịch: Hào, dương: Bao dung kẻ mờ tối, dung nạp hạng người nhu ám như đàn bà, tốt; (ở ngôi dưới mà gánh vác việc trên) như người con cai quản được việc nhà. Giảng: Hào 2 dương, cương cường, nhưng đắc trung cho nên bảo là có đức bao dung; nó làm chủ nội quái, thống trị cả bốn hào âm, cho nên bảo nó dung nạp được các hào âm, tức hạng người nhu ám như đàn bà, nó ở dưới thấp mà lại là hào quan trọng nhất trong quẻ, nên ví nó như người con cai quản được việc nhà. Tóm lại hào này tốt. Phan Bội Châu giảng ba chữ “tử khắc gia”cách khác: Cụ cho hào 5 ở địa vị tôn trong quẻ trên (ngoại quái) tức như cha trong nhà, hào 2 ở dưới, tức như con. Cha nhu nhược (vì là âm), con cương cường sáng suốt (vì là dương), cảm hóa được cha mà cha hết hôn ám, như vậy là con chỉnh lý được việc nhà. Cao Hanh chỉ đứng về phương diện bói, mà không đứng về phương diện đạo lý, không cho Kinh Dịch có ý nghĩa triết lý, xử thế, cho nên hiểu khác hẳn: giảng “nạp phụ” là cưới vợ cho con “tử khắc gia” là con thành gia thất, đó là cái việc tốt của người làm bếp mắt không có đồng tử (bao mông, theo ông là : bào mông, bào là người làm bếp, mông là mắt không có đồng tử). Đại khái cách hiểu của Cao Hanh như vậy, xin đơn cử làm thí dụ. 3. 六 三: 勿 用 取 女 見 金 夫 . 不 有 躬, 无 攸 利. Lục tam: Vật dụng thủ nữ kiến kim phu. Bất hữu cung, vô du lợi. Dịch : hào 3, âm: đừng dùng hạng con gái thấy ai có vàng bạc là (theo ngay) không biết thân mình nữa; chẳng có lợi gì cả. Giảng: Hào 3 là âm nhu (ở trong quẻ Mông, là hôn ám) bất trung, bất chính, cho nên ví với người con gái không có nết, bất trinh, ham của. Mà hạng tiểu nhân thấy lợi quên nghĩa cũng vậy (âm còn có nghĩa là tiểu nhân). Phan Bội Châu cho hào này xấu nhất; hạng người nói trong hào không đáng dùng, không đáng giáo hóa nữa. 4. 六 四 : 困, 蒙, 吝 . Lục tứ : Khốn, mông, lận. Dịch: Hào 4, âm: Bị khốn trong vòng hôn ám, hối tiếc. Giảng: Quẻ Mông chỉ có hào 2 và 6 là dương cương, có thể cởi mở sự hôn ám được, còn hào 4 kia đều là âm hết. Hào 4 này cũng hôn ám như hào 3, nhưng còn tệ hơn hào 3 vì ở xa hào 2 dương (hào 3 còn được ở gần hào 2 dương ), mà chung quanh đều là âm hết (hào 3 và hào 5), như bị nhốt trong vòng hôn ám, tất bị khốn sẽ phải hối tiếc, xấu hổ. Tiểu tượng truyện giảng: nó phải hối tiếc, xấu hổ vì chỉ một mình nó trong số bốn hào âm là ở xa các hào “thực” tức các hào dương. Hào dương là nét liền, không khuyết ở giữa, nên gọi là “thực” (đặc, đầy) hào âm là vạch đứt, khuyết ở giữa nên gọi là “hư” ; “thực” tượng trưng người có lương tâm “hư” tượng người không có lương tâm. 5. 六 五: 童 蒙 吉 . Lục ngũ: Đồng mông cát. Dịch: Hào 5, âm: Bé con, chưa biết gì (nhưng dễ dạy), tốt. Giảng: hào 5 này là hào âm tốt nhất như chúng tôi đã nói khi giảng Thóan từ của Văn Vương, vì nó có đức nhu (âm) trung (ở giữa ngọai quái), lại ứng với hào 2 cương ở dưới, có thể ví nó với đứa trẻ dễ dạy, biết nghe lời thầy (hào 2). Phan Bội Châu coi hào này như ông vua (vì ở ngôi cao quí nhất trong quẻ) biết tín nhiệm hiền thần (hào 2). 6. 上 九: 擊 蒙 不 利 為 寇 , 利 禦 寇. Thượng cửu: Kích mông bất lợi vi khấu, lợi ngự khấu. Dịch : Hào trên cùng, dương : phép trừ cái ngu tối mà nghiêm khắc quá thì kẻ mình dạy dỗ sẽ phẫn uất, có thể thành giặc, như vậy không có lợi, ngăn ngừa giặc ở ngoài (tức những vật dục quyến rũ kẻ đó) thì có lợi. Giảng: Hào này ở trên cùng quẻ Mông, có nghĩa sự ngu tối tới cùng cực; nó là dương, ở trên cùng, mà bất trung, cho nên tuy có tài mở mang sự ngu tối nhưng quá nghiêm khắc, làm cho kẻ ngu tối phẫn uất, phản kháng, bất tuân giáo hóa, có thể thành giặc, có hại (chữ “khấu có cả hai nghĩa: giặc, có hại), nên tìm cách ngăn ngừa những vật dục quyến rũ nó thì hơn; mà “cả thầy lần trò đều thuận đạo lý (thượng hạ thuận dã, Tiểu tượng truyện). Quẻ này nói về cách giáo hóa, cần nghiêm (hào 1) nhưng không nên nghiêm khắc quá mà nên ngăn ngừa lỗi của trẻ (hào 6). ------------------------------------------------------------------ Quẻ 05 |||: Thủy Thiên Nhu (需 xū) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Thiên Thủy Tụng đồ hình |||: quẻ Thiên Thủy Tụng còn gọi là quẻ Tụng 訟 (sõng), là quẻ thứ 06 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☵ : 坎 kản) Khảm hay Nước (水) và Ngoại quái là ☰ (||| 乾 qiàn) Càn hay Trời (天). Giải nghĩa: Luận dã. Bất hòa. Bàn cãi, kiện tụng, bàn tính, cãi vã, tranh luận, bàn luận. Đại tiểu bất hòa chi tượng: tượng lớn nhỏ không hòa. Phục Hy ghi: Nhu giả ẩm thực chi đạo dã, ẩm thực tất hữu tụng, cố thụ chi dĩ tụng. Văn Vương ghi thoán từ: Tụng, hữu phu, trất, dịch. Trung cát, chung hung. Lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên (訟: 有孚, 窒, 惕. 中吉, 終凶. 利見大人. 不利涉大川). Chu Công viết hào từ: Sơ lục: Bất vinh sở sự, tiểu hữu ngôn, chung cát. Cửu nhị: Bất khắc tụng, quy nhi bô, kỳ ấp nhân tam bách hộ, vô sảnh. Lục tam: Thực cựu đức, trinh lệ, chung cát. Hoặc tòng vương sự, vô thành. Cửu tứ: Bất khắc tụng, phục tức mệnh, du, an trinh cát. Cửu ngũ: Tụng, nguyên cát. Thượng cửu: Hoặc tích chi bàn đái, chung triêu, tam sỉ chi. Nguyễn Hiến Lê viết Quẻ trên là Mông, nhỏ thơ; nhỏ thơ thì cần được nuôi bằng thức ăn, cho nên quẻ này là Nhu. Chữ Nhu này [ 需 ] là chữ nhu trong “nhu yếu phẩm”, những thứ cần thiết, tức thức ăn. Tự quái truyện giảng như vậy. Nhưng Thoán Từ thì lại giải thích khác: Nhu đây còn có nghĩa nữa là chờ đợi, và theo cái tượng của quẻ thì phải hiểu là chờ đợi. * Thoán từ : 需: 有 孚, 光 亨, 貞, 吉 . 利 涉 大 川 . Nhu: Hữu phu, quang hanh, trinh, cát. Lợi thiệp đại xuyên. Dịch: Chờ đợi: có lòng thành thực tin tưởng, sáng sủa, hanh thông, giữ vững điều chính thì tốt. “Dù gặp việc hiểm như qua sông cũng sẽ thành công. Giảng: Nội quái là Càn, cương kiện, muốn tiến lên nhưng gặp ngoại quái là Khảm (hiểm) chặn ở trên, nên phải chờ đợi. Hào làm chủ trong quẻ này là hào 5 dương, ở vị chí tôn (ở quẻ này nên hiểu là ngôi của trời – theo Thoán truyện) mà lại trung, chính; cho nên có cái tượng thành thực, tin tưởng, sáng sủa, hanh thông; miễn là chịu chờ đợi thì việc hiểm gì cũng vượt được mà thành công. Đại tượng truyện giải thích cũng đại khái như vậy: dưới là Càn, trời, trên là Khảm, mây (Khảm còn có nghĩa là mây); có cái tượng mây đã bao kín bầu trời, thế nào cũng mưa; cứ “ăn uống yến lạc” (ẩm thực yến lạc) yên vui di dưỡng thể xác và tâm chí mà đợi lúc mưa đổ. Hào từ: 1. 初 九: 需 于 郊, 利 用 恆 , 无 咎 . Sơ cửu: Nhu vu giao, lợi dụng hằng, vô cữu. Dịch: Hào 1 là dương, cương kiện, sáng suốt mà ở xa ngoại quái là Khảm, tức xa nước, xa chỗ hiểm (cũng như còn ở ngòai thành, không gần sông nước), đừng nóng nảy xông vào chỗ hiểm nạn, cứ chịu chờ đợi thì không có lỗi. Chu Công khuyên như vậy vì hào dương này không đắc trung mà có ý muốn tiến. 2. 九 二: 需 于 沙 , 小 有 言 , 終 吉 . Cửu nhị: Nhu vu sa, tiểu hữu ngôn, chung cát. Dịch: Hào 2, dương: Đợi ở bãi cát, tuy có khẩu thiệt một chút, nhưng sau sẽ tốt. Giảng: Hào này đã gần quẻ Khảm hơn, ví như đã tới bãi cát ở gần sông, chưa tới nỗi sụp hiểm; mà hào lại đắc trung, cho nên tuy là dương cương mà biết khôn khéo, ung dung, không nóng nảy như hào 1, cho nên dù có điều tiếng nho nhỏ, rốt cuộc cũng vẫn tốt. 3. 九 三 : 需 于 泥 . 致 寇 至. Cửu tam: Nhu vu nê, trí khấu chí. Dịch: Hào 3, dương : đợi ở chỗ bùn lầy, như tự mình vời giặc đến. Giảng: Hào này đã ở sát quẻ Khảm, tuy chưa sụp xuống nước, nhưng đã ở chỗ bùn lầy rồi; thể của nó là dương cương, vị của nó cũng là dương, mà lại không đắc trung, có cái “tượng rất táo bạo nóng nảy, làm càn, tức như tự nó vời giặc đến, tự gây tai họa cho nó. Nếu nó biết kính cẩn, thận trọng thì chưa đến nỗi nào, vì tai họa vẫn còn ở ngoài (ở ngoại quái) (theo tiểu tượng truyện). 4. 六 四 : 需 于 血, 出 自 穴 . Lục tứ: Nhu vu huyết, xuất tự huyệt. Dịch: Hào 4, âm: như đã chờ đợi ở chỗ lưu huyết mà rồi ra khỏi được. Giảng: hào này đã bắt đầu vào quẻ Khảm, tức chỗ hiểm (như vào chỗ giết hại), nhưng nhờ nó là âm, nhu thuận lại đắc chính (ở vị âm) , nên tránh được họa. 5. 九 五 : 需 于 酒 食, 貞 吉 . Cửu ngũ: Nhu vu tửu thực, trinh cát. Dịch: Hào 5, dương: Chờ đợi ở chỗ ăn uống no say (chỗ yên vui), bền giữ đức trung chính thì tốt. Giảng: Hào 5, địa vị tôn quí, mà là dương cương trung chính, cho nên tốt, nhưng muốn hạnh phúc được bền thì phải giữ đức trung chính. 6.上 六:. 入 于 穴 , 有 不 速 之 客 三 人 來 , 敬 之 , 終 吉 . Thượng lục: Nhập vu huyệt, hữu bất tốc chi khách tam nhân lai, kính chi, chung cát. Dịch: Hào trên cùng, âm: Vào chỗ cực hiểm rồi, nhưng có ba người khách thủng thẳng tới, biết kính trọng họ thì sau đựơc tốt lành. Giảng: Hào này ở trên cùng ngọai quái là Khảm, cho nên bảo là chỗ cực hiểm. Nó có hào 3 ở dưới ứng với nó, hào 3 là dương , kéo theo cả hào 1 và 2 cũng là dương, cho nên nói là có 3 người khách sẽ tới; họ không tới ngay được vì họ ở xa hào 6, cho nên nói là họ thủng thẳng sẽ tới. Hào 6 âm, có đức Khiêm, nhu thuận, biết trong và nghe theo ba vị khách đó, cho nên cuối cùng sẽ được họ cứu ra khỏi chỗ hiểm mà được tốt lành. Tiểu tượng truyện: bàn thêm: Tuy hào 6 không xứng vị (bất đáng vị), nhưng không đến nỗi thất bại lớn. Chu Hi hiểu chữ “vị” đó , là ngôi chẵn (âm vị) ; hào âm ở âm vị, là “đáng” chứ sao lại “bất đáng”, cho nên ông bảo là :”chưa hiểu rõ” (vị tường). Phan Bội Châu hiểu chữ “vị” là ngôi cao hay thấp; hào 6 ở trên cùng, tức là ngôi cao nhất, mà là âm nhu, bất tài, cho nên bảo “bất đáng” là phải . + Quẻ này chỉ cho ta cách xử thế khi chờ đợi, tùy họa ở gần hay ở xa, cốt nhất là đừng nóng nảy, mà phải giữ trung chính. Chúng ta để ý: hào 5 ở giữa quẻ Khảm, tức giữa cơn nguy hiểm mà Chu Công vẫn cho là tốt chỉ vì hào đó cương mà trung chính, nghĩa là cương một cách vừa phải, sáng suốt, chính đáng.
Quẻ 06 || Thiên Thủy Tụng (訟 sòng) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Thiên Thủy Tụng đồ hình || quẻ Thiên Thủy Tụng còn gọi là quẻ Tụng 訟 (sõng), là quẻ thứ 06 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☵ : 坎 kản) Khảm hay Nước (水) và Ngoại quái là ☰ (||| 乾 qiàn) Càn hay Trời (天). Giải nghĩa: Luận dã. Bất hòa. Bàn cãi, kiện tụng, bàn tính, cãi vã, tranh luận, bàn luận. Đại tiểu bất hòa chi tượng: tượng lớn nhỏ không hòa. Phục Hy ghi: Nhu giả ẩm thực chi đạo dã, ẩm thực tất hữu tụng, cố thụ chi dĩ tụng. Văn Vương ghi thoán từ: Tụng, hữu phu, trất, dịch. Trung cát, chung hung. Lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên (訟: 有孚, 窒, 惕. 中吉, 終凶. 利見大人. 不利涉大川). Chu Công viết hào từ: Sơ lục: Bất vinh sở sự, tiểu hữu ngôn, chung cát. Cửu nhị: Bất khắc tụng, quy nhi bô, kỳ ấp nhân tam bách hộ, vô sảnh. Lục tam: Thực cựu đức, trinh lệ, chung cát. Hoặc tòng vương sự, vô thành. Cửu tứ: Bất khắc tụng, phục tức mệnh, du, an trinh cát. Cửu ngũ: Tụng, nguyên cát. Thượng cửu: Hoặc tích chi bàn đái, chung triêu, tam sỉ chi. Nguyễn Hiến Lê viết Tự quái truyện đã cho Nhu là ăn uống, cho nên giảng rằng vì (vấn đề) ăn uống mà người ta sinh ra tranh nhau, rồi kiện nhau, cho nên sau quẻ Nhu là quẻ Tụng (có nghĩa là kiện cáo) Thoán từ: 訟 . 有 孚 , 窒, 惕 . 中 吉 . 終 凶 . 利 見 大 人 . 不 利 涉 大 川. Tụng: Hữu phu, trất, dịch. Trung cát, chung hung Lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại xuyên. Dịch: Kiện cáo vì mình tin thực mà bị oan ức (trất), sinh ra lo sợ (dịch). Nếu giỡ đạo trung (biện bạch được rồi thì thôi) thì tốt lành,nếu kiện cho đến cùng thì xấu. Tìm được bậc đại nhân (công minh) mà nghe theo thì chỉ có lợi, nếu không thì như lội qua sông lớn (nguy), không có lợi. Giảng: Theo tượng quẻ này có thể giảng: người trên ( quẻ Càn) là dương cương, áp chế người dưới,mà người dưới ( quẻ Khảm) thì âm hiểm, tất sinh ra kiện cáo, hoặc cho cả trùng quái chỉ là một người, trong lòng thì nham hiểm (nội quái là Khảm), mà ngoài thì cương cường (ngoại quái là Càn), tất sinh sự gây ra kiện cáo. Thoán từ của Chu Công không hiểu hai cách đó mà cho quẻ này là trường hợp một người có lòng tin thực (hữu phu) mà bị oan ức, vu hãm, không có người xét rõ cho, cho nên lo sợ, phải đi kiện. Nếu người đó giữ đạo trung như hào 2 (đắc trung), nghĩa là minh oan được rồi thì thôi, thì sẽ tốt, nếu cứ đeo đuổi cho tới cùng, quyết thắng, không chịu thôi, thì sẽ xấu. Quẻ khuyên người đó nên đi tìm bậc đại nhân công minh (tức hào 5 - ứng với hào 2, vừa trung ,chính, vừa ở ngôi cao), mà nghe lời người đó thì có lợi; nếu không thì là tự mình tìm sự nguy hại, như lội qua sông lớn. Đại tượng truyện đưa ra một cách giảng khác nữa: Càn (trời) có xu hướng đi lên; Khảm (nước) có xu hướng chảy xuống thấp, như vậy là trái ngược nhau, cũng như hai nơi bất đồng đạo, tranh nhau mà sinh ra kiện cáo. Và Đại tượng truyện khuyên người quân tử làm việc gì cũng nên cẩn thận từ lúc đầu để tránh kiện cáo. Hào từ: 1. 初 六: 不 永 所 事 , 小 有 言 , 終 吉 . Sơ lục: Bất vinh sở sự, tiểu hữu ngôn, chung cát. Dịch: Hào 1 âm: đừng kéo dài (vụ kiện) làm gì, tuy bị trách một chút, nhưng sau được tốt. Giảng: Hào 1, âm nhu ở dưới, được hào 4 cương kiện ở trên ứng viện, tức là có chỗ dựa; nhưng đừng nên ỷ thế sinh sự kéo dài vụ kiện; có bị trách một chút thì cũng thôi, kết quả được biện minh, thế là tốt. 2. 九 二: 不 克 訟 , 歸 而 逋. 其 邑 人 三 百 戶, 无 眚. Cửu nhị: Bất khắc tụng, qui nhi bô. Kì ấp nhân tam bách hộ, vô sảnh. Dịch: Hào 2, dương : không nên kiện, lui về mà tránh đi, ấp mình chỉ có ba trăm nóc nhà thôi (ý nói địa vị mình thấp, thế mình nhỏ), như vậy thì không bị họa. Giảng: Trong phần I, chương IV, chúng tôi đã nói: các hào ứng với nhau (1 với 4, 2 với 5, 3 với 6) phải một dương một âm thì mới có “tình” với nhau, mới đứng vào một phe, viện trợ nhau, tức trường hợp hào 1 và hào 4 quẻ này; nếu cả hai cùng là dương hay là âm thì tuy ứng nhau đấy, nhưng có thể kị nhau, cũng như hào 2 và hào 5 quẻ này. Hai hào này đều là dương cả, cho nên coi là địch nhau, đứng vào hai phe ở trong quẻ tụng (kiện cáo). Hào 2 ở dưới, trung chứ không chính, ở giữa nội quái là Khảm (hiểm) lại bị hai hào âm 1 và 3 vậy, nên thế yếu, muốn kiện hào 5 (vì 2 có tính dương cương) nhưng thế không địch nổi, vì 5 trung , chính lại ở ngôi cao. Dưới kiện trên khác gì trứng chọi đá, không nên, thà rút lui về, tránh đi còn hơn, như vậy không bị tội lỗi. Tiểu tượng truyện còn dặn thêm: nếu dưới mà kiện trên, tai họa tới là tự mình vơ lấy đấy: hoạn chí xuyết (cũng đọc là chuyết, là đoát) dã: Phan Bội Châu giảng hào này, dẫn việc Nguyễn Hoàng muốn kình với Trịnh Kiểm (sự thực Trịnh Kiểm muốn hại Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hoàng sợ), cho người hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Bỉnh Khiêm đáp: “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, có ý khuyên nên trốn tránh vào Nam cho thoát nạn; đó là ý nghĩa ba chữ “qui nhi bô” trong hào này. 3. 六 三 : 食 舊 德, 貞 厲, 終 吉 . 或 從 王 事 , 无 成. Lục tam: Thực cựu đức, trinh lệ, Chung cát; hoặc tòng vương sự, vô thành. Dịch: Hào 3 âm, Cứ (yên ổn) hưởng cái đức (ân trạch) cũ của mình (Chu Hi hiểu là giữ cái nếp cũ), ăn ở cho chính đáng mà thường để lòng lo sợ thì kết quả sẽ tốt; nếu phải đi theo làm với người trên (chữ vương ở đây trở người trên, không nhất định là vua), thì cũng đừng mong thành công. Giảng: Hào 3 đã âm nhu lại bất chính (vì hào âm mà ở ngôi dương, ở chông chênh trên cùng quẻ Khảm (hiểm), chung quanh đều là kẻ thích gây sự, kiện cáo (vì hào 2 và 4 đều là dương), cho nên 3 thường phải lo sợ (lệ), nếu hiểu vậy mà biết giữ gìn thì rốt cuộc sẽ yên ổn. Hào 3 có hào 5 ở trên ứng và có “tình” với mình, 6 là dương cương lại là bề trên (ngôi cao), nên có khi lôi kéo 3 theo nó; trong trường hợp đó, 3 nên an phận thủ thường, cứ phục tùng 6, đừng mong thành công (chẳng hạn 6 muốn đứng ra kiện, kéo 3 theo thì 3 chỉ nên giúp 6 lấy lệ thôi, đừng ham lập công). 4. 九 四 : 不克 訟 , 復 即 命, 渝 , 安 貞 吉 . Cửu tứ: Bất khắc tụng, phục tức mệnh, du, an trinh cát. Dịch: Hào 4, dương : không thể kiện cáo được, trở lại theo thiên mệnh (lẽ chính đáng), đổi ý đi, ở yên theo điều chính thì tốt. Giảng: Hào này dương cương mà bất trung, bất chính, “tượng” một người ham kiện cáo. Nhưng không thể kiện ai được: kiện 5 thì 5 ở trên mình, ngôi tôn, không dám kiện; kiện 3 thì 3 nhu thuận, chịu thua trứơc rồi; kiện 2 thì 2 vừa cương, chính , trung, sáng suốt, đã tiên liệu rồi, không chịu kiện; còn 1 thì đã về phe với 4. Đành phải bỏ ý ham kiện đi, theo lẽ phải, ở yên, giữ điều chính, như vậy thì tốt. [COLOR=#ccccf]5. 九 五 : 訟, 元 吉 . Cửu ngũ: Tụng, nguyên cát. [/COLOR] [COLOR=#ccccf]Dịch: Hào 5 dương : xử kiện hay đi kiện, đều rất tốt. Giảng : Hào 5 này ở ngôi chí tôn, cương mà minh, trung và chính. Nếu là người xử kiện thì là bậc có đức, có tài (như Bao Công); nếu là người đi kiện thì gặp đựơc quan tòa có đức, có tài. Không gì tốt bằng. [/COLOR] [COLOR=#ccccf]6. 上 九 : 或 錫 之 鞶 帶 , 終 朝, 三 褫 之. Thượng cửu: hoặc tích chi bàn đái, chung triêu, tam sỉ chi. [/COLOR] [COLOR=#ccccf]Dịch: hào trên cùng, dương : (kiện ) may mà được cái đai lớn (của quan chức) thì trong một buổi sáng sẽ bị cướp ba lần. Giảng: Hào dương này ở trên cùng quẻ Tụng là kẻ rất thích kiện, kiện tới cùng. Nó ở ngôi 6 là bất chính, cho nên dù có may ra được kiện, thì chẳng bao lâu cũng sẽ mất hết, rốt cuộc vẫn không lợi. * Quẻ tụng này ý nghĩa các hào rất nhất trí, sáng sủa. Trước sau chỉ là răn người ta đừng ham tranh nhau kiện cáo: hào 3 không kiện với ai, tốt; hào 2 muốn kiện mà sau thôi không kiện, cũng tốt; hào 1 bị kiện thì nên nhường nhịn một chút, rốt cuộc sẽ tốt, duy có hào 6 bằng kiện tới cùng thì dù có thắng, cũng hóa xấu. Còn hào 5 diễn cái ý: có một Tòa án công minh thì phục cho dân biết bao[/COLOR] Quẻ 07 :::: Địa Thủy Sư (師 shī) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Địa Thủy Sư đồ hình :::: quẻ Địa Thủy Sư còn gọi là quẻ Sư 師 (shí), là quẻ số 07 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☵ : 坎 kản) Khảm hay Nước (水) và Ngoại quái là ☷ (::: 坤 kún) Khôn hay Đất (地). Giải nghĩa: Chúng dã. Chúng trợ. Đông chúng, vừa làm thầy, vừa làm bạn, học hỏi lẫn nhau, nắm tay nhau qua truông, nâng đỡ. Sĩ chúng ủng tòng chi tượng: tượng quần chúng ủng hộ nhau. Phục Hy ghi: Tạng tất hữu chúng khởi, cố thụ chi dĩ sư, sư giả chủng dã. Văn Vương ghi thoán từ: Sư: trinh, trượng nhân cát, vô cữu (師: 貞, 丈人吉, 无 咎). Chu Công viết hào từ : Sơ lục: Sư, xuất dĩ luật, phủ tàng, hung. Cửu nhị: Tại sư, trung, cát, vô cữu, vương tam tích mệnh. Lục tam: Sư, hoặc dư thi, hung. Lục tứ: Sư, tả thứ, vô cữu. Lục ngũ: Điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu. Trưởng tử xuất sư, đệ tử dư thi, trinh hung. Thượng lục: Đại quân hữu mệnh. Khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng. Nguyễn Hiến Lê viết Kiện tụng là tranh nhau, tranh nhau thì lập phe, có đám đông nổi lên; cho nên sau quẻ Tụng tới quẻ Sư – Sư là đám đông, cũng có nghĩa là quân đội. Thoán từ: 師: 貞 , 丈 人 吉 , 无 咎 . Sư : Trinh, trượng nhân cát, vô cữu. Dịch: quân đội mà chính đáng (có thể hiểu là bên chí), có người chỉ huy lão thành thì tốt, không lỗi. (Có sách hảo hai chữ “trượng [ 丈] nhân” chính là “đại [大] nhân) người tài đức) Giảng: Trên là Khôn, dưới là Khảm mà sao lại có nghĩa là đám đông, là quân đội ? có 4 cách giảng: - Đại tượng truyện bảo Khôn là đất, Khảm là nước, ở giữa đất có nước tụ lại, tượng là quần chúng nhóm họp thành đám đông. - Chu Hi bảo ở dưới, Khảm là hiểm; ở trên, Khôn là thuận; người xưa gởi binh ở trong việc nông (thời bình là nông dân, nhưng vẫn tập tành võ bị, thời loạn thì thành lính), như vậy là giấu cái hiểm (võ bị) trong cái thuận (việc nông). - Chu Hi còn giảng cách nữa: hào 2 là dương, nằm ở giữa nội quái là tượng ông tướng, 5 hào kia là âm nhu, mềm mại, giao quyền cho 2 điều khiển quân lính (4 hào kia). Thoán truyện giảng: xuất quân là việc nguy hiểm (quẻ Khảm), độc hại, nhưng nếu xuất quân vì chính nghĩa (trinh chính), để trừ bạo an dân thì dân sẽ theo (Khôn: thuận), sẽ giúp đỡ mình, mình sai khiến được, thì sẽ tốt, lập được nghiệp vương thống trị thiên hạ, không có tội lỗi. Hào từ: 1. 初 六 : 師, 出 以 律 , 否 臧, 凶 . Sơ lục: sư, xuất dĩ luật, phủ tàng, hung Dịch: Hào 1, âm: Ra quân thì phải có kỷ luật, không khéo (chữ phủ tàng nghĩa là bất thiện ) thi xấu. Giảng: Đây là bước đầu ra quân, phải cẩn thận, có kỷ luật nghiêm nhưng khéo để khỏi mất lòng dân, quân. 2. 九 二 : 在 師, 中, 吉, 无 咎 , 王 三 錫 命 . Cửu nhị: Tại sư, trung, cát, vô cữu, vương tam tích mệnh. Dịch: Hào 2 dương: Trong quân, có đức trung thì tốt, không tội lỗi, được vua ba lần ban thưởng. Giảng: Hào này là hào dương độc nhất trong quẻ, thống lĩnh quần âm. Nó đắc cương , đắc trung, lại được hào 5, âm ở trên ứng thuận với nó, như một vị nguyên thủ giao toàn quyền cho một vị tướng. Nhờ nó đắc trung; nên tốt, không bị tội lỗi, mà được nhiều lần ban thưởng (có người giảng là được nhiều lần vua trao lệnh cho). 3. 六 三 : 師, 或 輿 尸 , 凶 . Lục tam: Sư, hoặc dư thi, hung. Dịch: Hào 3, âm: bất chính (vì hào âm ở ngôi dương) lại bất trung ,xấu, thất trận, có thể phải chở xác chết về . . 4. 六 四 : 師, 左 次 , 无 咎 . Lục tứ: Sư, tả thứ, vô cữu. Dịch: Hào 4, âm: Ra quân rồi mà lui về đóng (thứ) ở phía sau (tả) không có lỗi. Giảng: hào này tuy bất trung nhưng đắc chính, không có tài (hào âm) nhưng biết liệu sức mình, hãy tạm lui, không tiến để khỏi hao quân, đó là phép thường hễ gặp địch mạnh thì tránh đi, cho nên không bị lỗi. 5. 六 五 : 田 有 禽 . 利 執 言 . 无 咎 . 長 子 帥 師 . 弟 子 輿 尸 . 貞 凶 . Lục ngũ: Điền hữu cầm, lợi chấp ngôn, vô cữu. Trưởng tử xuất sư, đệ tử dư thi, trinh hung. Dịch: Hào 5 âm: Như đồng cỏ muông thú (về phá), bắt chúng (chữ ngôn [言] ở đây,dùng như chữ chi [之], thay chữ cầm [禽]) thì lợi. (dùng) người lão thành làm tướng súy để cầm quân, nếu dùng bọn trẻ (tài kém) thì phải chở thây mà về, và dù danh nghĩa chính đáng (trinh) kết quả vẫn xấu. Giảng: Hào 5 này, âm, ở vị chí tôn, tượng ông vua ôn nhu và thuận đạo trung, không gây chiến, vì quân địch lấn cõi (như muông thú ở rừng về phá đồng) nên phải đánh đuổi đi, bắt chúng mà không có lỗi. Ông vua ấy giao quyền cầm quân cho vị lão thành (hào 2 ởdưới) là người xứng đáng , nếu giao cho bạn trẻ bất tài (như hào 3) hoặc để chúng tham gia vào thì sẽ thất bại, dù chiến tranh có chính nghĩa, cũng phải chở xác về , mang nhục. 6. 上 六 : 大 君 有 命 . 開 國 承 家 , 小 人 勿 用 . Thượng lục: đại quân hữu mệnh. Khai quốc thừa gia, tiểu nhân vật dụng. Dịch Hào trên cùng, âm: (Sau khi khải hòan) vua ra lệnh gì quan hệ đến việc mở nước trị nhà thì đừng dùng kẻ tiểu nhân (dù họ có công chiến đấu). Giảng: Hào này ở trên cùng, trỏ lúc thành công, vua luận công mà khen thưởng. Kẻ tiểu nhân tuy có tài chiến đấu, lập được công thì cũng chỉ thưởng tiền bạc thôi, không nên phong đất cho để cai trị, giao cho địa vị trọng yếu trong nước, vì công việc kiến thiết quốc gia phải người có tài, đức mới gánh nổi. * - Quẻ sư này rất hay, lời gọn, ý đủ và đúng. Chúng ta nên nhớ: - Bất đắc dĩ mới phải ra quân, ra quân phải có chính nghĩa. - Dùng tướng phải xứng đáng (như hào 2), đừng để cho kẻ bất tài (như hào 3) tham gia. - Phải cẩn thận từ lúc đầu, kỷ luật nghiêm minh, nhưng phải khéo để khỏi mất lòng dân quân. - Nếu gặp kẻ địch đương ở thế mạnh thì hãy tạm tránh, không sao. - Khi thành công rồi, luận công ban thưởng thì kẻ tiểu nhân có công chỉ nên thưởng họ tiền bạc, đừng giao cho họ trọng trách; trọng trách phải về những người tài đức như vậy nước mới thịnh được Quẻ 08 :::: Thủy Địa Tỷ (比 bǐ) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Thủy Địa Tỷ đồ hình :::: quẻ Thủy Địa Tỷ còn gọi là quẻ Tỷ (比 bỉ), là quẻ thứ 08 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☷ (::: 坤 kún) Khôn hay Đất (地) và Ngoại quái là ☵ : 坎 kản) Khảm hay Nước (水). Giải nghĩa: Tư dã. Chọn lọc. Thân liền, gạn lọc, mật thiết, tư hữu riêng, trưởng đoàn, trưởng toán, chọn lựa. Khứ xàm nhiệm hiền chi tượng: bỏ nịnh dụng trung. Văn Vương ghi thoán từ: Tỷ cát. Nguyên phệ, nguyên vĩnh trinh, vô cữu. Bất ninh phương lai, hậu phu hung (比吉. 原筮, 元永貞, 无咎. 不寧方來, 後夫凶). Chu Công viết hào từ: Sơ lục: Hữu phu tỷ chi, vô cữu. Hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha cát. Lục nhị: Tỷ chi tự nội, trinh cát. Lục tam: Tỷ chi phỉ nhân. Lục tứ: Ngoại tỷ chi, trinh cát. Cửu ngũ: Hiển tỷ, vương dụng tam khu. Thượng lục: Tỷ chi vô thủ, hung. Nguyễn Hiến Lê viết Sư là đám đông, trong đám đông người ta gần gũi nhau, liên lạc với nhau, cho nên sau quẻ Sư là quẻ Tỉ (tỉ là gần gũi, liên lạc). Chúng ta để ý: quẻ này Khảm trên, Khôn dưới, ngược hẳn với quẻ trước Khôn trên, khảm dưới. Thoán từ: 比 吉 . 原 筮 , 元 永 貞 , 无 咎 . 不 寧 方 來 , 後 夫 凶 . Tỉ cát. Nguyên phệ, nguyên vĩnh trinh, vô cữu. Bất ninh phương lai, hậu phu hung. Dịch: Gần gũi thì tốt. Bói lần thứ nhì mà được như lần đầu (nguyên phệ) rất tốt, lâu dài, chính thì không có lỗi. Kẻ nào ở chỗ chưa yên (hoặc gặp trắc trở) sẽ lại với mình (hoặc mình nên vời lại) l kẻ nào tới sau (trễ) thì xấu. Giảng: Quẻ này là trên đất có nước, nước thấm xuống đất, đất hút lấy nước, cho nên có nghĩa là gần gũi, thân thiết, giúp đỡ nhau. Lại thêm một hào dương cương, trung chính ( hào 5) thống lĩnh năm hào âm, có cái tượng ông vua (hay người trên) được toàn thể dân (hay người dưới) tin cậy, qui phục do lẽ đó mà gọi là “tỉ”. Nhưng hào 5 đó ở địa vị chí tôn nên phải thận trọng, tự xét mình kỹ càng (nguyên phệ) mà thấy có đủ những đức nguyên, vĩnh, trinh thì mới thật không có lỗi. “Bất ninh phương lai”, Chu Hi giảng là trên dưới ứng hợp với nhau, chắc là muốn nói hào 5 (trên) và hào 2 (dưới), một dương một âm. Còn ba chữ “hậu phu hung” thì không sách nào cho biết là ám chỉ hào nào, có lẽ là hào trên cùng chăng? Hào từ. 1.初 六 : 有 孚 比 之 , 无 咎 . 有 孚 盈 缶 , 終 來 有 他 吉 . Sơ lục: Hữu phu, tỉ chi, vô cữu. Hữu phu doanh phẫu, chung lai hữu tha cát. Dịch: Hào 1, âm : (Mới đầu) có lòng thành tín mà gần gũi nhau thì không có lỗi. Nếu lòng thành tín nhiều như đầy một cái ảng thì có thêm điều tốt khác nữa. 2.六 二 : 比 之 自 內 , 貞 吉 . Lục nhị: tỉ chi tự nội, trinh cát. Dịch: Hào 2, âm: Tự trong mà gần gũi với ngòai, chính đáng thì tốt. Giảng: hào này âm nhu, đắc trung và chính, ở nội quái, ứng hợp với hào 5 dương cương cũng đắc trung và chính ở ngoại quái, cho nên nói là tự trong mà gần gũi với ngoài. Hai bên thân nhau vì đạo đồng chí hợp (cùng trung, chính cả), chứ không phải vì 2 làm thân với bề trên để cầu phú quí, như vậy là chính đáng, không thất thân, nên tốt. 3.六 三 : 比 之 匪 人 . Lục tam: Tỉ chi phỉ nhân Dịch: Hào 3 âm: Gần gũi người không xứng đáng. Giảng: Hào này âm nhu, không trung không chính, chung quanh lại toàn là âm nhu, cho nên ví với người xấu, không xứng đáng. 4. 六 四 : 外 比 之 , 貞 吉 . Lục tứ: Ngoại tỉ chi, trinh cát. Dịch: Hào 4, âm: Gần gũi với bên ngoài (hào 5) giữ đạo chính thì tốt. Giảng: hào âm ở ngôi 4 đắc chính ,tốt hơn hào 3; lại ở gần hào 5, như vậy là thân với người hiền ( 5 trung và chính ) và phục tòng bề trên, cho nên tốt. 5.九 五 : 顯 比, 王 用 三 驅 Cửu ngũ: Hiển tỉ, vương dụng tam khu Giảng: hào này ở ngôi chí tôn, dương cương mà trung chính, cho nên cả 5 hào âm (cả thiên hạ) đều phục tòng; đạo gần gũi như vậy, là rất quang minh. Ai tòng phục vua thì cứ tới, không tùng phục mà chống lại thì cứ rút lui, không ép ai cả; để cho mọi người tự do tới lui, cũng như đi săn, không bao vây cả bốn mặt mà chừa một mặt cho cầm thú thoát ra. Do đó người chung quanh được cảm hóa, không phải răn đe mà họ cũng giữ được đào trung chính như vua. 6. 上 六 : 比 之 无 首 , 凶 . Thượng lục: tỉ chi vô thủ, hung. Dịch: Hào trên cùng, âm: không có đầu mối để gần gũi, xấu. Giảng: Hào âm này ở trên cùng bất trung, không sao gần gũi với những hào âm dưới được, thế là không có đầu mối, là vô thủy (thủ ở đây có nghĩa là thủy) mà vô thủy thì vô chung, cho nên xấu. * Quẻ này nói về phép nhóm bạn tìm thầy. Phải cẩn thận từ lúc đầu, thành tín, trung chính, vì đạo chứ không vì lợi. Và phải để cho tự do, không nên ép buộc.
Quẻ 09 |||| Phong Thiên Tiểu Súc (小畜 xiǎo chù) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc đồ hình |||| còn gọi là quẻ Tiểu Súc (小畜 xiảo chũ), là quẻ thứ 09 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☰ (||| 乾 qiàn) Càn hay Trời (天) và Ngoại quái là ☴ | 巽 xũn) Tốn hay Gió (風). Giải nghĩa: Tắc dã. Dị đồng. Lúc bế tắc, không đồng ý nhau, cô quả, súc oán, chứa mọi oán giận, có ý trái lại, không hòa hợp, nhỏ nhen. Cầm sắt bất điệu chi tượng: tiếng đàn không hòa điệu. Văn Vương viết thoán từ: Tiểu Súc: Hanh. Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao (小畜: 亨. 密雲不雨. 自我西郊). Chu Công viết hào từ: Sơ cửu: Phục tự đạo, hà kỳ cữu? Cát. Cửu nhị: khiên phục, cát. Cửu tam: Dư thoát bức, phu thê phản mục. Lục tứ: hữu phu, huyết khứ, dịch xuất, vô cữu. Cửu ngũ: Hữu phu, luyên như, phú dĩ kỳ lân. Thượng cửu: Ký vũ, ký xử, thượng đức tái. Phụ trinh lệ. Nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung. Nguyễn Hiến Lê viết Tự quái truyện bảo đã nhóm họp, gần vũi với nhau (tỉ) thì phải có chỗ nuôi nhau, cho nên sau quẻ Tỉ tới quẻ Tiểu súc [ 小 畜 ] Chữ súc này có nghĩa là nuôi (như mục súc); lại có nghĩa là chứa, dùng như chữ súc tích (chứa chất), và nghĩa: ngăn lại, kiềm chế. Thoán từ 小 畜 . 亨 . 密 雲 不 雨 . 自 我 西 郊 . Tiểu súc: Hanh: Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao. Dịch: Ngăn căn nhỏ (hoặc chứa nhỏ vì chứa cũng hàm cái nghĩa ngăn, bao lại, gom lại) hanh thông. Mây kịt (chưa tan) mà không mưa ở cõi tây của ta. Giảng: Có ba cách giảng theo tượng của quẻ: - Quẻ Càn (cương kiện) ở dưới quẻ Tốn (nhu thuận) có nghĩa là âm (Tốn) ngăn cản được dương (Càn), nhỏ ngăn cản được lớn. - Hoặc: Gió (Tốn) bay trên trời (Càn) còn xa mặt đất, sức ngăn cản của nó còn nhỏ, cho nên gọi là Tiểu súc. - Xét các hào thì hào 4 là âm nhu đắc vị; hào này quan trọng nhất trong quẻ (do luật: chúng dĩ quả vi chủ) ngăn cản được 5 hào dương , bắt phải nghe theo nó, cho nên gọi là Tiểu súc (nhỏ ngăn được lớn). Ngăn được hào 2 và hào 5 đều dương cương thì việc chắc sẽ hanh thông. Nhưng vì nó nhỏ mà sức ngăn cản nhỏ, nên chưa phát triển hết được, như đám mây đóng kịt ở phương Tây mà chưa tan, chưa mưa được. Theo Phan bội Châu, chữ “ngã” (ta) ở đây trỏ Tốn, mà Tốn là âm, thuộc về phương Tây. Nhưng theo Hậu Thiên bát quái thì tốn là Đông Nam. Chu Hi cho rằng chữ “ngã” đó là Văn Vương tự xưng. Khi viết thoán từ này, Văn Vương ở trong ngục Dữu Lý, mà “cõi tây của ta” tức cõi Kỳ Châu, ở phương Tây của Văn Vương. Đại Tượng truyện khuyên người quân tử ở trong hoàn cảnh quẻ này (sức còn nhỏ) nên trau dồi, tài văn chương (ý văn đức) chẳng hạn viết lách, chứ đừng hoạt động chính trị. Hào từ 1. 初 九 : 復 自 道 , 何 其 咎 ? 吉 . Sơ cửu: Phục tự đạo, hà kỳ cữu? Cát. Dịch: Hào 1, dương : trở về đạo lý của mình, có lỗi gì đâu? Tốt. Giảng: hào này là dương cương lại ở trong nội quái Càn, có tài, có chí tiến lên, nhưng vì ở trong quẻ Tiểu Súc, nên bị hào 4, ứng với nó ngăn cản. Nó đành phải quay trở lại, không tiến nữa, hợp với đạo tùy thời, như vậy không có lỗi gì cả. 2. 九 二 : 牽 復 , 吉 . Cửu nhị: khiên phục, cát. Dịch: Hào 2, dương . Dắt nhau trở lại đạo lý thì tốt. Giảng: hào này với hào 5 là bạn đồng chí hướng: cùng dương cương, cùng đắc trung, cùng muốn tiến cả, nhưng cùng bị hào 4 âm ngăn cản, nên cùng dắt nhau trở lại cái đạo trung , không để mất cái đức của mình. 3. 九 三 : 輿 說 輻 , 夫 妻 反 目 . Cửu tam: Dư thoát bức, phu thê phản mục. Dịch: Hào 3, dương : Xe rớt mất trục; vợ chồng hục hặc với nhau. Giảng: Hào 3 quá cương (vì thể vị đều là dương ) mà bất trung, hăng tiến lên lắm, nhưng bị hào 4 ở trên ngăn chặn, nên tiến không được, như chiếc xe rớt mất trục. Hào này ở sát hào 4, dương ở sát âm, mà không phải là ứng của hào 4, như một cặp vợ chồng hục hặc với nhau. Lỗi ở hào 3 vì không biết tùy thời, không nhớ mình ở trong thời Tiểu súc mà nhịn vợ. 4. 六 四 : 有 孚 , 血 去, 惕 出 . 无 咎 . Lục tứ: hữu phu, huyết khứ, dịch xuất, vô cữu. Dịch: Hào 4, âm: nhờ có lòng chí thành, nên thương tích được lành, hết lo sợ, mà không có lỗi. Giảng: hào này là âm, nhu thuận mà đối với các hào dương thì khó tránh được xung đột, có thể lưu huyết và lo sợ, nhưng nó đắc chính (âm ở ngôi âm), ở gần hào 5 là thân với bậc chí tôn, lại ở vào thời Tiểu súc, có hào 1 ứng hợp với nó, hào 2 cùng giúp nó, nên nó tránh được lưu huyết, lo sợ, không có lỗi. Tiểu tượng truyện giảng: hết lo sợ, nhờ hào trên ( hào 5) giúp đỡ nó. 5. 九 五 : 有 孚, 攣 如 . 富 以 其 鄰 . Cửu ngũ: Hữu phu, luyên như, phú dĩ kỳ lân. Dịch: Hào 5, dương. Có lòng thành tín, ràng buộc dắt dìu (cả bầy hào dương ), nhiều tài đức , cảm hóa được láng giềng. Giảng: hào này ở ngôi chí tôn, có uy tín, làm lãnh tụ các hào dương khác; nó trung chính, tức có lòng thành tín, kéo các hào dương kia theo no, mà giúp đở hào âm 4 ở cạnh nó, ảnh hưởng tới 4, sai khiến được 4, khiến cho 4 làm được nhiệm vụ ở thời Tiểu súc. Chữ [ 攣 ] có người đọc là luyến và giảng là có lòng quyến luyến. 6. 上 九 : 既 雨, 既 處 , 尚 德 載 . 婦 貞 厲 . 月 幾 望 , 君 子 征 凶 . Thượng cửu: Ký vũ, ký xử, thượng đức tái. Phụ trinh lệ. Nguyệt cơ vọng, quân tử chinh hung. Dịch: Hào trên cùng, dương: Đã mưa rồi, yên rồi, đức nhu tốn của 4 đã đầy (ngăn được đàn ông rồi), vợ mà cứ một mực (trinh) ngăn hoài chồng thì nguy (lệ) đấy. Trăng sắp đến đêm rằm (cực thịnh), người quân tử (không thận trọng, phòng bị) vội tiến hành thì xấu. Giảng: Đây đã tới bước cuối cùng của quẻ tốn mà cũng là bước cuối cùng của quẻ Tiểu súc. Hào 4 đã thành công đến cực điểm , các hào dương hòa hợp với nó cả rồi, như đám mây kịt đã trút nước, mọi sự đã yên. Tới đó, hãy nên ngưng đi, cứ một mực ngăn chặn các hào dương thì sẽ bị họa đấy. Mà các hào dương (quân tử ) cũng nên lo đề phòng trước đi vì sắp tới lúc âm cực thịnh (trăng rằm) rồi đấy. Âm có nghĩa là tiểu nhân. * Đọc quẻ Tiểu súc này chúng tôi nhớ tới Võ Hậu đời Đường và Từ Hi Thái Hậu đời Thanh. Họ như hào 4, thông minh, có tài, mới đầu nhu thuận, nhờ ở gần vua (hào 5), được vua sủng ái, che chở, lại lấy được lòng người dưới (hào 1, hào 2), gây phe đảng rồi lần lần “thống lĩnh quần dương “, cả triều đình phải phục tòng họ. Tới khi họ thịnh cực, sắp suy, bọn đại thần có khí tiết, mưu trí mới họp nhau lật họ. Ngoài đời không đúng hẳn như trong quẻ, nhưng cũng không khác mấy ----------------------------------- Quẻ 10 |||| Thiên Trạch Lý (履 lǚ) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Thiên Trạch Lý đồ hình |||| còn gọi là quẻ Lý (履 lủ), là quẻ thứ 10 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☱ (||: 兌 dũi) Đoài hay Đầm (澤) và Ngoại quái là ☰ (||| 乾 qiàn) Càn hay Trời (天). Giải nghĩa: Lễ dã. Lộ hành. Nghi lễ, có chừng mực, khuôn phép, dẫm lên, không cho đi sai, có ý chặn đường thái quá, hệ thống, pháp lý. Hổ lang đang đạo chi tượng: tượng hổ lang đón đường. Văn Vương viết thoán từ: Lý hổ vĩ, bất điệt nhân, hanh (履虎尾, 不咥人, 亨). Chu Công viết hào từ: Sơ cửu: Tố lý, vãng, vô cữu. Cửu nhị: Lý đạo thản thản, u nhân trinh cát. Lục tam: Miễu, năng thị; bả, năng lý. Lý hổ vĩ, diệt nhân, hung. Võ nhân vi vu đại quân. Cửu tứ: Lý hổ vĩ, sách sách (hoặc sóc sóc) chung cát. Cửu ngũ: Quyết lý, trinh lệ. Thượng cửu: Thị lý, khảo tường, kỳ toàn, nguyên cát. Nguyễn Hiến Lê viết Đầu quẻ Tiểu Súc đã nói súc còn có nghĩa là chứa, nhóm (như súc tích) Tự quái truyện dùng nghĩa đó mà giảng: khi đã nhóm họp nhau thì phải có trật tự, có trên có dưới, không thể hỗn tạp được, nghĩa là phải có lễ. Sống trong xã hội phải theo lễ, dẫm lên cái lễ, không chệch ra ngoài (chúng ta thường nói dẫm lên dấu chân của một người để diễn cái ý theo đúng đường lối người ấy); mà dẫm lên, chữ Hán gọi là ☲, do đó sau quẻ Tiểu súc, tới quẻ Lí. Cách giải thích đó có phần nào gượng ép. Thoán từ: 履 虎 尾 , 不 咥 人 , 亨 . Lí hổ vĩ, bất điệt nhân, hanh. Dịch: Dẫm lên đuôi cọp, mà cọp không cắn, hanh thông. Giảng: Trên là dương cương, là Càn, là trời: dưới là âm nhu, là Đoài, là chằm, vậy là trên dưới phân minh lại hợp lẽ âm dương tức là lễ, là lý. Có tính âm nhu, vui vẻ đi theo sau dương cương thì dù người đi trước mình dữ như cọp, cũng tỏ ra hiền từ với mình, cho nên bảo rằng dẫm lên đuôi cọp mà cọp không cắn. Ba chữ “lý hổ vĩ” chính nghĩa là dẫm lên đuôi cọp, chỉ nên hiểu là đi theo sau cọp, lấy sự nhu thuận, vui vẻ mà ứng phó với sự cương cường. Thoán truyện bàn thêm: Hào 5 quẻ này là dương mà trung, chính, xứng với ngôi chí tôn, chẳng có tệ bệnh gì cả mà lại được quang minh. Đại tượng truyện: bảo trên dưới phân minh (có tài đức ở trên, kém tài đức ở dưới) như vậy lòng dân mới không hoang mang (định dân chí) không có sự tranh giành. Hào từ: 1. 初 九 : 素 履, 往 , 无 咎 . Sơ cửu: tố lý, vãng, vô cữu. Dịch: hào 1, dương : giữ bản chất trong trắng mà ra với đời thì không có lỗi. Giảng: hào 1 này như người mới ra đời, còn giữ được bản chất trong trắng (ý nghĩa của chữ tố) chưa nhiễm thói đời, vì là hào dương, quân tử, có chí nguyện, cứ giữ chí nguyện mình thì không có lỗi. 2. 九 二 : 履 道 坦 坦 , 幽 人 貞 吉 . Cửu nhị: Lý đạo thản thản, u nhân trinh cát. Dịch: Hào 2, dương: như đi trên đường bằng phẳng, cứ một mình giữ vững đường chính thì tốt. Giảng: Hào 2, dương : như đi trên đường bằng phẳng, cứ một mình giữ vững đường chính thì tốt. Giảng: Hào dương này đắc trung, vẫn là hiền nhân, quân tử, bình thản giữ đạo trung không để cho lòng rối loạn thì tốt. Tuy có hào 5 ở trên ứng với , nhưng 5 cũng là dương, không hợp, (phải một dương một âm mới tìm nhau, hợp nhau, viện nhau) cho nên bảo hào này là cô độc. Chúng ta để ý: quẻ Càn, hào 2 và hào 5 cũng đều là dương cả, mà Hào từ bảo 2 và 5 nên tìm nhau mà làm việc; còn quẻ Lý này thì không , như vậy là phải tùy theo ý nghĩa của quẻ (tùy thời) mà giảng. 3. 六 三 : 眇, 能 視 ; 跛, 能 履 . 履 虎 尾 , 咥 人, 凶 . 武 人 為 于 大 君 . Lục tam: Miễu, năng thị; bả, năng lý. Lý hổ vĩ, diệt nhân, hung. Võ nhân vi vu đại quân. Dịch:Hào 3, âm: chột (mà tự phụ là) thấy tỏ, thọt (mà tự phụ là) đi nhanh, như vậy thì nguy như dẫm lên đuôi cọp mà bị nó cắn. Đó là kẻ vũ phu mà đòi làm việc của một ông vua lớn. Giảng: Hào này âm nhu mà ở ngôi dương cương, bất chính, bất trung, trên dưới đều là hào dương cả, không lượng tài mình kém (âm) mà đua đòi theo các hào dương, không khác người thọt tự khoe là đi nhanh; đó là hạng võ phu mà đòi làm một ông vua lớn, sẽ gặp họa, như dẫm lên đuôi cọp, bị cọp cắn. 4. 九 四 : 履 虎 尾 . 愬 愬 終 吉 . Cửu tứ: Lí hổ vĩ, sách sách (hoặc sóc sóc)chung cát. Dịch: Hào 4, dương: Dẫm lên đuôi cọp, nhưng biết sợ hãi, nên quẻ sẽ tốt. Giảng: Hào này, dương mà ở vị âm, cũng bất trung, bất chính như hào 3, cũng ở sau một hào dương cương, cũng như dẫm lên đuôi cọp, nhưng hào 3 hung, hào 4 cát, chỉ do lẽ: 3 bản chất nhu, tài kém, u mê mà ở vị dương, chí hăng; còn 4 bản chất cương, có tài, sáng suốt mà ở vị âm, biết sợ hãi, thận trọng. 5. 九 五 : 夬 履 貞 厲 . Cửu ngũ: Quyết lý, trinh lệ. Dịch: Hào 5, dương : Quyết tâm hành động quá thì tuy chính đáng cũng có thể nguy. Giảng: Hào 5 đắc chính, đắc trung ,rất tốt, nhưng ở địa vị chí tôn trong quẻ Lý (nói về cách ở đời) thì e có lòng cương quyết quá mà tự thị, ỷ thế, mà hóa nguy. 6. 上 九: 視 履, 考 祥 . 其 旋, 元 吉 . Thượng cửu: Thị lý, khảo tường, kỳ toàn, nguyên cát. Dịch: Hào trên cùng, dương, xem cách ăn ở trong đời người, cho nên Hào từ diễn ý nghĩa của toàn quẻ chứ không diễn ý nghĩa của riêng hào cuối. Cũng là một lệ ngoại như hào cuối cùng quẻ Tiểu súc. Quẻ này tên là Lí có nghĩa là lễ, là dẫm lên, nhưng cả 6 hào đều nói về cách ăn ở trong suốt đời người : mới ra đời thì phải giữ tính chất phác trong trắng, rồi sau giữ vững đường chính (hào 2); biết sức mình, đừng tự phụ (hào 3) để tránh nguy, biết thận trọng, sợ hãi thì tốt (hào 4), và ở địa vị cao nhất, đừng ỷ thế mà cương quyết quá (hào 5), cách ăn ở được như vậy cho tới cuối đời thì tốt không gì bằng. Chúng ta để ý: Quẻ này cũng chỉ có một hào âm mà không có nghĩa thống lĩnh quần dương như quẻ tiểu súc. Như vậy là biến dịch. -------------------------------------- Địa Thiên Thái (泰 tài) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Địa Thiên Thái đồ hình |||::: còn gọi là quẻ Thái (泰 tãi), là quẻ số 11 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☰ (||| 乾 qiàn) Càn hay Trời (天) và Ngoại quái là ☷ (::: 坤 kún) Khôn hay Đất (地). Giải nghĩa: Thông dã. Điều hòa. Thông hiểu, am tường, hiểu biết, thông suốt, quen biết, quen thuộc. Thiên địa hòa xướng chi tượng: tượng trời đất giao hòa. Văn Vương viết thoán từ: Thái: Tiểu vãn đại lai, cát, hanh (泰: 小往大來, 吉, 亨). Nguyễn Hiến Lê viết Lý là lễ, có trật tự trên dưới phân minh, như vậy thì yên ổn, Lý cũng có nghĩa là dẫm, là giày (dép) đi giày thì được yên ổn; vì vậy sau quẻ Lý, tiếp tới quẻ Thái. Thái nghĩa là yêu thích, thông thuận. Thoán từ 泰: 小 往 大 來 , 吉, 亨 . Thái: Tiểu vãn đại lai, cát, hanh. Dịch: Thái là cái nhỏ (âm), đi, cái lớn (dương ) lại, tốt, hanh thông. Giảng: Trong quẻ Lí, Càn là trời, cương, Đoài là chằm, nhu; trên dưới phân minh, hợp lẽ âm dương, tốt. Trong quẻ Thái này, Càn không nên hiểu là trời, vì nếu hiểu như vậy thì trời ở dưới đất, không còn trên dưới phân minh nữa, xấu. Nên hiểu Càn là khí dương, Khôn là khí âm “khí dương ở dưới có tính cách thăng mà giao tiếp với âm, khí âm ở trên có tính cách giao tiếp với khí dương”, hai khí giao hòa, mà mọi vật được yên ổn, thỏa thích. Một cách giảng nữa. Theo Phan Bội Châu (sách đã dẫn) thì: Nguyên Thuần âm là quẻ Khôn, là âm thịnh chi cực, cực thì phải tiêu, nhân đó một nét dương thay vào dưới, hào 1 của Khôn thành ra quẻ Phục, Phục là một dương mới sinh. Dương sinh đến hào thứ hai thì thành quẻ Lâm [ 臨 ] , thế là dương đã lớn thêm lần lần. Khí dương sinh đến hào thứ 3 thì thành quẻ Thái, trên là Khôn, dưới là Càn. Khôn là âm nhu, là tiểu nhân; Càn là quân tử . Quẻ Thái là tượng đạo tiểu nhân dương tiêu mòn, đạo quân tử dương lớn mạnh, hai bên ngang nhau cho nên gọi là Thái. Thoán từ bàn thêm: “Thái là lúc cái nhỏ đi, cái lớn trở lại ( . . . ) là trời đất giao cảm mà muôn vật thông, trên dưới giao cảm mà chí hướng như nhau. Trong (nội quái) là dương, ngoài (ngoại quái) là âm, trong mạnh mà ngoài thuận, trong quân tử mà ngoài tiểu nhân, đạo quân tử thì lớn lên, mà đạo tiểu nhân thì tiêu lần. Hào từ: 1. 初 九 : 拔 茅 茹 . 以 其 彙 . 征 吉 . Sơ cửu: bạt mao nhự, dĩ kỳ vị, chinh cát. Dịch: Hào 1, dương : Nhổ rể cỏ mao mà được cả đám, tiến lên thì tốt. Giảng: Hào nay là người có tài, còn ở vị thấp, nhưng cặp với hào hai trên, như có nhóm đồng chí dắt díu nhau tiến lên, để gánh việc thiên hạ, cho nên việc làm dễ có kết quả như nhổ rể có mao, nhổ một cọng mà được cả đám. 2. 九 二 : 包 荒 , 用 馮 河 , 不 遐 遺 .朋 亡 , 得 尚 于 中 行 . Cửu nhị : Bao hoang, dụng bằng hà, bất hà di, Bằng vong, đắc thượng vu trung hành. Dịch: Bao dung sự hoang phế (những tệ hại cũ), dùng cách cương quyết mạo hiểm như lội qua sông, không bỏ sót những việc (hoặc người ) ở xa, không nghĩ đến bè đảng, mà phải hợp với đạo trung. Giảng: Hào dương, đắc trung, đồng chí đã đông (hào 1 và 3) lại ứng hợp với hào 5 âm, cũng đắc trung, tức với vị nguyên thủ tin cậy, nghe theo mình, vậy là có tài lớn mà hoàn cảnh rất thuận lợi; nhưng cần có những đức này nữa: - Có độ lượng, bao dung một số tệ hại cũ còn lại, đừng mong trừ tiệt ngay trong buổi đầu. - Có đức cương quyết mạo hiểm như người có gan lội qua sông, như luận hgữ nói: bạo hổ bằng hà. - Tính trước những việc xa xôi sẽ xảy tới (có người hiểu là đừng bỏ sót những người ở xa). - Đừng có tinh thần đảng phái mà có hại cho đại nghĩa. Cần nhất là giữ đạo trung của hào 2, việc gì cũng vừa phải thôi, chẳng hạn bao dung quá hay mạo hiểm quá đều là hại cả. 3. 九 三 : 无 平 不 陂 , 无 往 不 復 . 艱 貞 无 咎 , 勿 恤, 其 孚 , 于 食 有 福 . Cửu tam: Vô hình bất bí, vô vãng bất phục. Gian trinh vô cửu, vật tuất, kỳ phu, vu thực hữu phúc. Dịch: Hào 3, dương: không có cái gì bằng mãi mà không nghiêng, đi mãi mà không trở lại, trong cảnh gian nan mà giữ được chính đáng thì không lỗi. Đừng lo phiền, cứ tin ở điều chính thì được hưởng phúc. 4. 六 四 : 翩 翩 , 不 富, 以 其 鄰 , 不 戒 以 孚 . Lục tứ: Phiên phiên, bất phú, dĩ kỳ lân, bất giới dĩ phu. Dịch: Hào 4, âm : Dập dìu (hoặc hớn hở) với nhau, không giàu mà thành một xóm, chẳng ước hẹn mà cũng tin nhau. Giảng: đây đã qua nửa quẻ Thái, dương suy, bày âm (ba hào âm) tức bọn tiểu nhân kết hợp với nhau, tuy chúng không “giàu”, không có tài đức (âm có nghĩa là hư, trái với thực – dương – cho nên bảo là không giàu) nhưng cũng thành một xóm đông, đồng tâm với nhau chẳng ước hẹn mà cùng tin nhau, vì cùng sẵn lòng gian tà cả. 5. 六 五 : 帝 乙 歸 妹 . 以 祉, 元 吉 . Lục ngũ: Đế Ất qui muội, dĩ chỉ, nguyên cát. Dịch: Như vua đế Ất (đời Thương) cho em gái về nhà chồng, có phúc, rất tốt. Giảng: Hào âm này đắc trung, tuy ở địa vị chí tôn mà khiêm nhu, lại ứng hợp với hào 2, dương ở dưới, như em gái vua Đế Ất, chịu làm vợ một người hiền trong giới bình dân, sẽ được hưởng phúc. 6. 上 六 : 城 復 于 隍 , 勿 用 師 , 自 邑 告 命, 貞 吝 . Thượng lục: Thành phục vụ hoàng, vật dụng sư, Tự ấp cáo mệnh, trinh lận. Dịch: Hào trên cùng, âm: thành đổ sụp xuống, lại chỉ là đống đất. Đừng dùng quân nữa, bất quá mệnh lệnh chỉ ban ra đựơc trong ấp mình thôi. Dù hành động của mình chính đáng nhưng vẫn thất bại mà xấu hổ. Giảng: Đây tới lúc cuối cùng của thời Thái, sắp bĩ rồi, như cái thành sụp xuống. Vì là hào âm lại ở địa âm, đừng tranh giành (dùng quân ) nữa, không cứu vãn được đâu, có ban lệnh cũng chỉ một ấp mình nghe thôi. Hai chữ “trinh lận”, R. Wilhem giaeng là : dù có kiên nhẫn (chống đỡ) cũng thất bại mà xấu hổ. Chúng tôi nghĩ hào cuối này âm nhu thái quá, không có chí kiên nhẫn được, nên dịch theo Chu Hi. * Dưới đây chúng tôi chép thêm lời bàn của Phan Bội Châu (tr. 285 – 286) “Chúng ta đọc Dịch từ lúc có Càn, Khôn, trải qua trung gian, nào Truân mà kinh luận: nào Mông mà giáo dục; nào Nhu mà sinh tụ; nào Tụng, nào sư mà sắp đặt việc binh, việc hình; nào Súc, nào Lý mà chỉnh đốn việc kinh tế, việc lễ chế; hao tổn biết bao tâm huyết, chứa trữ biết bao thì giờ. Kể về phần Khảm (hiểm) trải qua đến 6 lần: 1. Truân, Khảm thượng 2. Mông . khảm hạ 3. Nhu , Khảm thượng 4. Tụng, Khảm hạ. 5. Sư, Khảm hạ 6. Ti, Khảm thượng. Thoát khỏi 6 lần nguy hiểm rồi. Vậy sau, trong có chốn nuôi trữ là Tiểu súc, ngoài có chốn bằng tạ (nhờ cậy, ỷ vào) là Lý. Bây giờ mới làm nên Thái. Thái vừa đến cuối cùng, tức khắc ra Bĩ (coi quẻ sau ). Ghê gớm thật ! Làm nên tốn vô số công phu mà làm hư chỉ trong chốc lát, vun đắp biết bao nền tảng mà đánh đổ chỉ trong nháy mắt. Không chắc đó đã là thâm ý của người sắp đặt các quẻ, nhưng việc đời quả có như vậy: Kiến thiết lâu, suy rất chóng.
Quẻ 12 ::|| Thiên Địa Bĩ (否 pǐ) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Thiên Địa Bĩ đồ hình ::|| còn gọi là quẻ Bĩ (否 pỉ), là quẻ số 12 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☷ (::: 坤 kún) Khôn hay Đất (地) và Ngoại quái là ☰ (||| 乾 qiàn) Càn hay Trời (天). Giải nghĩa: Tắc dã. Gián cách. Bế tắc, không thông, không tương cảm nhau, xui xẻo, dèm pha, chê bai lẫn nhau, mạnh ai nấy theo ý riêng. Thượng hạ tiếm loạn chi tượng: trên dưới lôi thôi. Nguyễn Hiến Lê viết Trong vũ trụ không có gì là thông hoài được, hết thông thì tới bế tắc, cùng, cho nên sau quẻ Thái tới quẻ Bĩ. Thoán tử. 否之匪人, 不利君子貞, 大往小來. Bĩ chi phỉ nhân, bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai. Dịch: Bĩ không phải đạo người (phi nhân nghĩa như phi nhân đạo), vì nó không lợi cho đạo chính của quân tử (Tượng của nó là) cái lớn (dương ) đi mà cái nhỏ (âm) lại. Giảng: Bĩ trái với Thái. Thái thì dương ở dưới thăng lên, giao với âm ở trên giáng xuống; bĩ thì dương ở trên đi lên, âm ở dưới đi xuống không giao nhau. Âm dương không giao nhau thì bế tắc, ở đạo người như vậy mà ở vạn vật cũng như vậy. Thời đó không lợi với đạo chính của quân tử, vì dương đi nghĩa là đạo của người quân tử tiêu lần, mà âm lại nghĩa là đạo của tiểu nhân lớn lên. Đại tượng truyện – Khuyên: gặp thời bĩ thì người quân tử nên thu cái đức của mình lại (đừng hành động gì cả, riêng giữ các đức của mình) để tránh tai nạn, đừng màng chút lợi danh nào cả. (Quân tử dĩ kiệm đức tị nạn, bất khả vinh dĩ lộc). Nghĩa là nên ở ẩn. Gặp thời Truân, thời khó khăn, gian truân, người quân tử nên tập hợp nhau lại mà hành động; còn thời đã bĩ, đã bế tắc cùng cực rồi thì hành động chỉ vô ích, cốt giữ cái đức và cái thân mình thôi. Hào từ. 1. 初六: 拔茅茹, 以其彙, 貞吉亨. Sơ lục: Bạt mao nhự, dĩ kỳ vị, trinh cát hanh. Dịch: Hào 1 âm: Nhổ rễ cỏ mao mà được cả đám, hễ chính thì tốt mà hanh thông. Giảng: Hào này rất giống hào 1 quẻ Thái: cũng “bạt mao dĩ kỳ vị” vì quẻ Thái hào 1 cặp với hai hào trên, quẻ này cũng vậy, cũng có đồng chí, làm việc dễ có kết quả; chỉ khác quẻ thái hào 1 là dương, quân tử, quẻ này hào 1 là âm, tiểu nhân; cho nên quẻ Thái khuyên cứ tiến lên (chính) sẽ tốt; còn quẻ này thì khuyên phải “trinh” chính đáng (trinh – khác nhau ở hai chữ chính [正] và trinh [貞] thì sẽ tốt và hanh thông. Hào 1 quẻ Bĩ là tiểu nhân nhưng mới bước đầu, cái ác chưa hiện rõ, lại ứng hợp với hào 4 ở trên là quân tử, cho nên còn có hy vọng cải hóa được. Ðại tượng truyện bảo: nếu để tâm giúp nước (chí tại quân – quân là vua, là quốc gia) như hào 4 thì sẽ tốt. Như vậy là có ý khuyên tiểu nhân nên đứng vào phe quân tử . 2. 六二: 包承, 小人吉;大人否, 亨. Lục nhị: Bào thừa, tiểu nhân cát; đại nhân bĩ, hanh. Dịch: Hào 2, âm: Tiểu nhân chịu đựng và vâng thuận người quân tử thì tốt: đại nhân (có đức lớn) nên giữ tư cách trong cảnh bế tắc (khốn cùng) thì hanh thông. Giảng: Hào này tuy là tiểu nhân, nhưng đắc trung đắc chính, chung quanh là tiểu nhân cả, mà ứng hợp với hào 5 quân tử ở trên, cho nên hào từ khuyên nó nên vâng thuận quân tử thì tốt. Còn kẻ đại nhân được bọn tiểu nhân vâng thuận – vì chúng muốn mua danh – thì cũng đừng theo chúng, cứ giữ khí tiết của mình trong thời khốn cùng, như vậy sẽ hanh thông. 3. 六三: 包羞. Lục tam: Bao tu . Dịch: Hào 3, âm: Chứa chất sự gian tà, xấu hổ. Giảng: Hào này, không trung, không chính, là kẻ đứng đầu bọn tiểu nhân (vì ở trên cùng nội quái khôn), cho nên rất xấu, đáng ghét. 4. 九四:有命, 无咎.疇離祉. Cửu tứ: Hữu mệnh, vô cữu. Trù li chỉ. Dịch : Hào 4 dương : có mệnh trời (tức như thời vận đã tới) thì không lỗi mà bạn của mình cũng nhờ cậy mình mà được hưởng phúc. Giảng: Hào này ở quá nửa quẻ Bĩ, có mòi sắp hết bĩ rồi, cho nên nói là thời vận đã tới; nó là dương ở trong ngọai quái Càn, chính là người quân tử thực hiện được chí của mình. Bạn của nó, tức hai hào 5, 6 cùng là dương cả - cũng sẽ được hưởng phúc. 5. 九五: 休否, 大 人吉.其亡, 其亡, 繫于苞桑. Cửu ngũ: Hưu bĩ, đại nhân cát. Kỳ vong, kỳ vong, hệ vu bao tang. Dịch: Hào 5, dương : làm cho hết bĩ, đó là đạo tốt của bậc đại nhân (tuy nhiên, phải biết lo). Có thể mất đấy, (đừng quên điều đó thì mới vững như buộc vào một cụm dâu (dây dâu nhiều rễ, ăn sâu dưới đất, rất khó nhổ). Giảng: Hào này có đức dương cương trung chính, lại ở vào ngôi chí tôn, trong thời Bĩ sắp hết, cho nên lời đoán là tôt. Những vẫn phải thận trọng, đừng sai sót. Theo Hệ từ hạ chương V thì Khổng tử đọc tới hào này, bàn thêm rằng: “Người quân tử khi yên ổn thì không nên quên rằng sẽ có thể nguy; khi vững thì không quên rằng có thể mất, khi trị thì không quên rằng sẽ có thể loạn. Nhờ vậy mà thân an nước nhà giữ vững được.” 6. 上九: 傾否, 先否, 後喜. Thượng cửu: Khuynh bĩ, tiên bĩ, hậu hĩ. Dịch: Hào trên cùng, dương: đánh đổ được cái bĩ, trước còn bĩ, sau thì mừng. Giảng: Đây là thời cuối cùng của Bĩ mà bĩ cực thì thái lai; người quân tử có tài sẽ dắt cả bạn bè (trỏ hào 4 và 5) mà đánh đổ dược bĩ. Nhưng mới đầu còn phải lo lắng (tiên bĩ) sau mới mừng là bước lên được cảnh Thái rồi. Chúng ta để ý: Quẻ Thái, mới đến hào 3, còn thịnh cực mà Dịch đã khuyên phải giữ được chính đáng trong cảnh gian nan (gian trinh); còn quẻ Bĩ, khi mới tới hào 4, mới có mòi sắp hết bĩ mà Dịch đã khuyên là thời đã tới, người quân tử nên thực hiện chí của mình đi. Nghĩa là luôn luôn phải sẵn sàng để nắm ngay lấy cơ hội. Quẻ 13 |||| Thiên Hỏa Đồng Nhân (同人 tóng rén) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân, đồ hình |||| còn gọi là quẻ Đồng Nhân (同人 tong2 ren2), là quẻ số 13 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☲ (| 離 li2) Ly hay Hỏa (火) và Ngoại quái là ☰ (||| 乾 qian2) Càn hay Trời (天). Giải nghĩa: Thân dã. Thân thiện. Trên dưới cùng lòng, cùng người ưa thích, cùng một bọn người. Hiệp lực đồng tâm chi tượng: tượng cùng người hiệp lực. Kiến giải của người Việt: Con người đạt đến mức độ giao hội cùng vũ trụ, đồng nhân cao nhất, mức độ hoà đồng siêu việt, Nguyễn Hiến Lê viết Không thể bế tắc, cách tuyệt nhau mãi được, tất phải có lúc giao thông hòa hợp với nhau; cho nên sau quẻ Bĩ tới quẻ Đồng Nhân. Đồng nhân là cùng chung với người, đồng tâm với người. Thoán từ: 同人于野, 亨.利涉大川.利君子貞. Đồng nhân vu dã, hanh. Lợi thiệp đại xuyên. Lợi quân tử trinh. Dịch: Cùng với người ở cánh đồng (mênh mông) thì hanh thông. (gian hiểm như) Lội qua sông lớn, cũng lợi. Quẻ này lợi cho người quân tử trung chính. Giảng: li ở dưới là lửa, sáng, văn mình, Càn ở trên là Trời. Quẻ này có tượng lửa bốc lên cao tới trời, cũng soi khắp thế giới (cánh đồng mênh mông có nghĩa đó). Cho nên tốt. dù có hiểm trở gì, cũng vượt được (Phan Bội Châu bảo đó “chính là cảnh tương đại đồng rất vui vẻ”) Muốn vậy phải có được trung chính của người quân tử . Thoán truyện cùng hào 2 ở nội quái ly, hào âm độc nhất, quan trọng nhất trong 6 hào mà giảng thêm: Hào đó âm nhu đắc vị (tức là chính) đắc trung, lại ứng hợp với hào 5 dương cương cũng đắc vị đắc trung trong ngọai quái Càn, thế là có hiện tượng nội ngọai tương đồng, nên gọi là đồng nhân. Văn minh (Ly) ở phía trong, cương kiện (Càn) tức dụng ở ngoài, mà được cả trung lẫn chính, ứng hợp với nhau, đó là tượng người quân tử thông suốt được tâm tri của thiên hạ. Đại tượng truyện bàn thêm: Người ta muốn thực hiện được cảnh tượng mọi vật cùng sống chung với nhau thì phải phân biệt từng loại của các chủng tộc, xét kỹ mỗi sự vật (quân tử dĩ loại tộc, biện vật); hễ cùng loại thì đặt chung với nhau và cho mỗi vật được phát triển sở năng, thỏa được sở nguyện, có vậy thì tuy bất đồng mà hòa đồng được. Hào từ: 1. 初九: 同人于門, 无咎. Sơ cửu: Đồng nhân vu môn, vô cữu. Dịch: Hào 1, dương : Ra khỏi cửa để cùng chung với người thì không có lỗi. Giảng: Hào dương này, như người quân tử mới bắt đầu ra đời, đã muốn “đồng” (cùng chung) với người khác thì có lỗi, có gì đáng trách đâu? 2. 六二: 同人于宗, 吝. Lục nhị: Đồng nhân vu tôn, lận. Dịch: Hào 2, âm: (chỉ) chung hợp với người trong họ, trong đảng phái, xấu hổ. Giảng: Hào này tuy đắc trung đắc chính, nhưng ở vào thời Đồng nhân, nên cùng chung với mọi người mà lại chỉ ứng hợp riêng với hào 5 ở trên, như chỉ cùng chung với người trong họ, trong đảng phái của mình thôi, thế là hẹp hòi, đáng xấu hổ. 3. 九三: 伏戎于莽, 升其高陵, 三歲不興. Cửu tam: Phục nhung vu mãng, Thăng kì cao lăng, tam tuế bất hưng. Dịch: Hào 3, dương : núp quân ở rừng rậm (mà thập thò) lên gò cao, ba năm chẳng hưng vượng được. Giảng: Hào này muốn hợp với hào 2 (âm) ở dưới, nhưng nó quá cương (dương ở dương vị), lại bất đắc trung, như một kẻ cường bạo; mà 2 đã ứng hợp với 5 ở trên, 3 sợ 5 mạnh nên không dám công kích 2, chỉ núp trong rừng, rình trộm, rồi thập thò lên đồi cao mà ngó (3 ở trên cùng nội quái, nên nói vậy); như vậy ba năm cũng không tiến (hưng lên) được. 4. 九四: 乘其墉, 弗, 克攻, 吉. Cửu tứ: thừa kỳ dung, phất, khắc công, cát. Dịch: Hào 4, dương : cưỡi lên tường đất rồi mà không dám đánh thế là tốt. Giảng: hào này cũng là dương cương, bất trung, bất chính, cũng muốn hợp với 2, lăng áp 3 mà cướp 2 (hào 3 ở giữa 2 và 4 cũng như bức tường ngăn cách 2 và 4, 4 ở trên 3 như đã cưỡi lên bức tường đó); nhưng tuy cương mà ở vị âm, còn có chút nhu, nên nghĩ lại, không thể lấn áp 3 được, như vậy không nên, cho nên Hào từ bảo “thế thì tốt” . Tiểu tượng truyện khen là biết phản tắc (反則) tức biết trở lại phép tắc. 5. 九五: 同人, 先號咷而. 後笑, 大師克相遇. Cửu ngũ: Đồng nhân, tiên hào đào nhi Hậu tiếu, đại sư khắc tương ngộ. Dịch: Hào 5, dương: Cùng với người, trước thì kêu rêu, sau thì cười, phải dùng đại quân đánh rồi mới gặp nhau. Giảng: hào này dương cương trung chính, ứng hợp với hào 2, thật là đồng tâm đồng đức, tốt. Nhưng giữa 5 và 2, còn có hai hào 3 và 4 ngăn cản, dèm pha, phá rối, nên mới đầu phải kêu rêu, phải dùng đại quân dẹp 3 và 4 rồi 2 và 5 mới gặp nhau mà vui cười. Công việc hòa đồng nào mới đầu cũng bị nhiều kẻ ngăn cản như vậy, không dễ dàng thực hiện ngay được, dù là hợp với công lý, với hạnh phúc số đông. 6. 上九: 同人于郊, 无悔. Thượng cửu: Đồng nhân vu giao, vô hối. Dịch: Hào trên cùng, dương : cùng với người ở cánh đồng ngoài đô thành, không hối hận. Giảng: “Giao” là cánh đồng ngòai đô thành, không rộng bằng “dã” (đồng nội nơi nhà quê). Hào này tuy ở cuối quẻ Đồng nhân, không có hào nào ứng hợp với nó, cho nên chí chưa được thì hành như mình muốn, mới chỉ như cùng với người ở cánh đồng ngoài đô thành thôi, chưa ở giữa quãng đồng nội được. * Đọc quẻ này, chúng ta rút ra được hai lời khuyên: - Muốn hòa đồng thì đừng có tinh thần đảng phái; phải tôn trọng đặc tính của mỗi hạng người, khả năng cùng nhu cầu của mỗi người. - Công việc hòa động mọi người tuy rất chính đáng, mang hạnh phúc cho dân chúng nhưng cũng gian nan, bị nhiều kẻ phá. --------------------------- Quẻ 14 |||| Hỏa Thiên Đại Hữu (大有 dà yǒu) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu, đồ hình |||| còn gọi là quẻ Đại Hữu (大有 da4 you3), là quẻ thứ 14 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☰ (||| 乾 qian2) Càn hay Trời (天) và Ngoại quái là ☲ (| 離 li2) Ly hay Hỏa (火). Giải nghĩa: Khoan dã. Cả có. Thong dong, dung dưỡng nhiều, độ lượng rộng, có đức dầy, chiếu sáng lớn. Kim ngọc mãn đường chi tượng: vàng bạc đầy nhà. Giải thích của người Việt: Bổ sung thêm tượng: sở hữu tài sản vật chất và tinh thần ở mức cao nhất. Nguyễn Hiến Lê viết Đã cộng đồng với mọi người thì mọi người về với mình, mà sở hữu của mình cũng lớn, cho nên sau quẻ Đồng nhân, tới quẻ Đại hữu (có lớn). Thoán từ: 大有: 元亨. Đại hữu: Nguyên hanh. Dịch: Có lớn thì rất hanh thông. Giảng: ☲ ở trên Càn là lửa ở trên trời, chiếu sáng mọi vật như vậy là “có lớn” Ly lại có nghĩa là văn minh, Càn là cương kiện, gồm cả văn minh và cương kiện cho nên rất hanh thông. Theo Thoán truyện: Còn một cách giảng nữa: quẻ này chỉ có một hào âm, nó thống lĩnh quần dương, 5 hào dương đều theo nó, có nghĩa là mọi người về với nó, mà nó được “có lớn”. Sở dĩ nó thống lĩnh được vì nó ở ngôi tôn mà lại đắc trung. Nó ứng hợp với hào 2, dương ở giữa quẻ Càn, như vậy nó vừa văn minh vừa cương kiện, ứng với trời (Càn) mà hành động đúng với thời. Đại tượng truyện khuyên: người quân tử trong quẻ này phải ngăn đón ngay điều dữ khi nó chưa phát hiện, và biểu dương điều tốt khi nó còn mập mờ để thuận mệnh tốt của trời (át ác dương thiện, thuận thiên hưu mệnh: chữ hưu ở đây là tốt). Hào từ: 1. 初九: 无交害, 匪咎; 艱則无咎. Sơ cửu: Vô giao hại, phỉ cữu; nan tắc vô cửu. Dịch : Hào 1. dương : chưa làm việc gì tai hại, chưa có lỗi; nhưng phải (cẩn thận) cư xử như gặp lúc gian nan thì mới khỏi lỗi. Giảng: Đại hữu là có lớn. Hào 1 như con một nhà giàu sang, còn trẻ, chưa làm gì tai hại thì chưa có tội, nhưng vì là con nhà giàu, ít người ưa, nếu lại kiêu căng xa xỉ thì sẽ gây oán ghét, cho nên Hào từ khuyên sống trong cảnh gian nan thì mới khỏi tội. 2. 九二: 大車以載, 有攸往, 无咎. Cửu nhị: đại xa dĩ tái, hữu du vãng, vô cửu. Dịch: Hào 2, dương : xe lớn chở nặng, đi chốn nào (ý nói làm gì) cũng được, không có lỗi. Giảng: Hào này tốt nhất trong quẻ : dương cương mà đắc trung, vừa có tài vừa khiêm tốn, được hào 5, âm ở trên ứng hợp, như được vua hết sức tin dùng sẽ thành công, cho nên ví với cỗ xe lớn chở nặng đi đường xa, đâu cũng tới được. 3. 九三: 公用亨于天子, 小人弗克. Cửu tam: Công dụng hưởng vu thiên tử, tiểu nhân phất khắc. Dịch: Hào 3, dương : như bậc công (hầu) mở tiệc mời thiên tử hạng tiểu nhân không đương nổi việc đó. Giảng: Thời xưa chữ [ 亨 ] đọc là hanh (nghĩa là hanh thông) mà cũng đọc là hưởng) nghĩa là hưởng dụng, dâng, yến tiệc, lễ lớn) Chu Hi hiểu là triều hiến. R.Wilhem hiểu là đem đất đai của cải dâng thiên tử, hoặc cho dân chúng. Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch như trên. Hào 3 này dương cương đắc chính, đứng trên cùng nội quái, cho nên ví với một bậc công; ở vào thời Đại hữu tất có nhiều đất đai, nhân dân; nên bậc thiên tử cũng nể, tới dự tiệc do vị công đó đãi. Những phải là người quân tử, có đức hạnh, không kiêu, mới làm như vậy được; còn hàng tiểu nhân, thấy thiên tử tới nhà mình càng kiêu căng, xa xỉ thì không đương nổi danh dự đó, mà chỉ hại thôi (tiểu nhân hại dã – lời Tiểu tượng truyện) 4. 九四: 匪其彭, 无咎. Cửu tứ: phỉ kỳ bành, vô cữu. Dịch: Hão, dương: đừng làm ra vẻ thịnh vượng (khoe của, sống sang quá) thì không có lỗi. Giảng: Chữ bành [ 彭 ] ở đây, Trình tử hiểu là thịnh vượng; Phan Bội Châu dẫn câu “Hành nhân bành bành” trong Kinh Thi mà hiểu là rầm rộ. Chúng tôi châm chước hai nghĩa đó mà dịch như trên. Hào này ở địa vị cao, gần hào 5, mà bất trung , bất chính, e có họa tới nơi, nên Hào từ khuyên phải khiêm tốn, tiết kiệm. Tiểu tượng truyện cũng khuyên phải phân biệt thị phi họa phúc cho rành thì mới khỏi lỗi. 5. 六五: 厥孚交如, 威如, 吉. Lục ngũ: quyết phu giao như, uy như, cát. Dịch: Hào 5, âm: Lấy đức tin, chí hành mà giao thiệp, và phải có uy thì tốt. Giảng: Hào này ở vị chí tôn, đượccả 5 hào dương theo, nên phải đem đức tin, lòng chí thành mà đối đãi với người dưới. Nhưng vì là âm, nên ngại rằng quá nhu, nên Hào từ khuyên phải có chút uy mới được. Tiểu tượng truyện cơ hồ hiểu khác, bảo phải dùng uy vũ, đừng khinh dị mà phải phòng bị đạo tắc (uy như chi cát, dị nhi vô bị dã) . 6. 上九: 自天祐之, 吉, 无不利. Thượng cửu: tự thiên hựu chi, cát, vô bất lợi. Dịch: hào trên cùng, dương : tự trời giúp cho, tốt, không có gì mà chẳng lợi. Giảng: Ở thời Đại hữu, thịnh trị, hào dương cương này ở trên cùng mà chịu hạ mình theo hào 5, chỉ vì 5 có đức thành tín; như vậy là không kiêu, tuy thịnh mà không đầy tràn, nên được trời giúp cho, hóa tốt, chứ lẽ thường hào cuối cùng, Đại hữu đã đến màn cuối, khó mà tốt được. Khổng tử đọc tới hào này bảo: “Trời sở dĩ giúp cho là vì thuận với đạo trời; người sở dĩ giúp cho là vì có lòng thành tín” . Ông muốn nói hào 5 được các hào khác giúp là vì có lòng thành tín; còn hào trên cùng được trời giúp vì thuận với đạo trời: trọng người hiền (hào 5) không kiêu. Quẻ này khuyên chúng ta sống trong cảnh giàu có, nên khiêm, kiệm: giao thiệp với người , nên chí thành. Phan Bội Châu nhận xét rằng trong 64 quẻ , không quẻ nào tốt đều như quẻ này: hào 1, 2, 3 đều không có lỗi, hào 4 được hanh thông, hào 5 tốt, hào 6 đã tốt hơn nữa, “không có gì mà chẳng lợi”. Ngay đến quẻ Càn, quẻ Thái hào cuối cùng cũng xấu, kém quẻ này. Đại hữu chính là thời thịnh trị sau thời đại đồng.
Quẻ 15 :::: Địa Sơn Khiêm (謙 qiān) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Địa Sơn Khiêm, đồ hình :::: còn gọi là quẻ Khiêm (謙 qian1), là quẻ thứ 15 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☶ (: 艮 gen4) Cấn hay Núi (山) và Ngoại quái là ☷ (::: 坤 kun1) Khôn hay Đất (地). Giải nghĩa: Thoái dã. Cáo thoái. Khiêm tốn, nhún nhường, khiêm từ, cáo thoái, từ giã, lui vào trong, giữ gìn, nhốt vào trong, đóng cửa. Thượng hạ mông lung chi tượng: tượng trên dưới hoang mang. Nguyễn Hiến Lê viết Đại hữu là thời rất thịnh, không nên để cho quá đầy, mà nên nhún nhường, nên Khiêm. Thoán từ 謙: 亨, 君子有終. Khiêm: Hanh, quân tử hữu chung. Dịch: Nhún nhường, hanh thông, người quân tử giữ được trọn vẹn tới cuối. Giảng: Trên là đất, dưới là núi. Núi cao, đất thấp, núi chịu ở dưới đất là cái tượng nhún nhường. Khiêm hạ. Vì vậy mà được hanh thông. Quẻ này chỉ có mỗi một hào dương, dùng nó làm chủ quẻ. Thoán truyện bàn thêm: Khiêm là đạo của trời, đất và người . Trời có đức khiêm vì ở trên đi xuống chỗ thấp mà sáng tỏ; đất có đức khiêm vì chịu ở dưới mà đi lên. Đạo trời, cái gì đầy thì làm cho khuyết đi, cái gì thấp kém (khiêm) thì bù đắp cho (Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm). Đạo đất, đạo quỉ thần cũng vậy. Còn đạo người thì ghét kẻ đầy, tức sự kiêu căng thỏa mãn, mà thích kẻ khiêm tốn (Nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm). Hễ khiêm thì ở địa vị cao mà đạo càng sáng, ở địa vị thấp mà chẳng ai vượt mình được. Đại tượng truyện. Khuyên người quân tử nên bớt chốn nhiều, bù chốn ít, để cho sự vật được cân xứng, quân bình (Biều đa ích quả, xứng vật bình thí). Hào từ 初六: 謙謙君子, 用涉大川, 吉. Sơ lục: khiêm khiêm quân tử, dụng thiệp đại xuyên, cát. Dịch : Hào 1, âm – Nhún nhường, nhún nhường, người quân tử dùng đức ấy để qua sông lớn thì tốt. Giảng: Hào này âm như mà lại ở dưới cùng, thật là khiêm hạ, dầu gặp hoàn cảnh hiểm nguy nào cũng vượt được. Tiểu tượng truyện khuyên người quân tử trau giồi tư cách mình bằng đức khiêm hạ, (Khiêm khiêm quân tử, ti dĩ tự mục) 2 六二: 鳴謙, 貞吉. Lục nhị: Minh khiêm, trinh cát. Dịch:Hào 2, âm: Tiếng tăm lừng lẫy về đức khiêm, nếu chính đáng thì tốt. Giảng: hào này nhu thuận, đắc trung, đắc chính, rất tốt, cho nên bảo là tiếng tăm lừng lẫy về đức Khiêm. Nhưng ngại tiếng tăm lừng lẫy thì dễ ham danh, mà hóa ra quá khiêm đến mức giả nhún nhường hoặc nịnh bợ), nên Hào từ khuyên phải giữ đức trung, chính (trinh) của hào 2 thì mới tốt. 3. 九三: 勞謙, 君子 有終, 吉. Cửu tam: Lao khiêm, quân tử hữu chung, cát. Dịch: Hào 3, dương : Khó nhọc (có công lao) mà nhún nhường, người quân tử giữ được trọn vẹn, tốt. Giảng: hào này có đức dương cương, làm chủ cả quẻ, năm hào âm đều trông cậy vào, như người có địa vị (ở trên cùng nội quái), có tài năng (hào dương ) mà khiêm tốn (vì ở trong quẻ Khiêm), không khoe công, nên càng được mọi người phục, mà giữ được địa vị, đức độ tới cùng. Theo Hệ từ thượng truyện chương VIII, Khổng tử đọc hào này, giảng thêm: “Khó nhọc mà không khoe khoang, có công với đời mà chẳng nhận là ân đức, đức như vậy là cực dày”. 4. 六四: 无不利, 撝謙. Lục tứ: vô bất lợi, huy khiêm. Dịch: Hào 4, âm: Phát huy sự nhún nhường thì không gì là không lợi. Giảng: Hào này nhu thuận mà đắc chính, tốt đấy, nhưng vì ở trên hào 3 là người có công lao, mà lại ở gần hào 5, là vua, nên càng phải phát huy thêm đức khiêm, mới tránh được mọi khó khăn mà không gì là không lợi. 5. 六五: 不富以其鄰, 利用侵伐, 无不利. Lục ngũ: Bất phú dĩ kỳ lân, lợi dụng xâm phạt, vô bất lợi. Dịch: Hào 5, âm: chẳng cần giàu (có thế lực) mà thâu phục đựơc láng giềng (được nhiều người theo); nhưng phải có chút uy, chinh phạt kẻ nào chưa phục mình thì mới không gì là không lợi. Giảng: Hào này âm nhu, đắc trung, ở địa vị chí tôn, nên tự nhiên thâu phục được nhiều người, nhưng nếu nhu quá, thiếu uy thì không phải là tư cách một ông vua, nên Hào từ khuyên nên dùng uy võ đối với kẻ nào chưa phục mình. Hào này có thể dùng uy được vì ở vị dương (lẻ). 6. 上六: 鳴謙, 利用行師, 征邑國. Thượng lục: Minh khiêm, lợi dụng hành sư, chính ấp quốc. Dịch: Hào trên cùng, âm: Tiếng tăm lừng lẫy về đức Khiêm, được nhiều người theo có thể lợi dụng điều đó mà ra quân, nhưng cũng chỉ trị được những kẻ trong ấp của mình không phục mình thôi. Giảng: hào này thể nhu, vị nhu, ở vào thời cuối cùng quẻ Khiêm, cho nên khiêm nhu cùng vực, tiếng tăm lừng lẫy, nhiều người theo đấy; nhân đó mà có thể ra quân chinh phạt những kẻ không theo mình, nhưng vì tài kém, nên chỉ trị được những kẻ trong ấp mình thôi, chưa thỏa chí được. * Quẻ này hào nào cũng tốt không nhiều thì ít, không kém quẻ Đại hữu bao nhiêu. Đa số các triết gia Trung Hoa rất đề cao đức Khiêm, nhất là Khổng tử và Lão tử, vì họ cho rằng luật trời hễ đầy quá thì vơi, trong khi đầy phải nghĩ tới lúc sẽ vơi, phải khiêm hạ, đừng tự phụ. Không thể dẫn hết những châm ngôn của Trung Hoa về đức khiêm được; trong quẻ này chúng ta đã thấy được mấy câu như Thiên đạo khuy doanh nhi ích khiêm, nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm, khiêm khiêm quân tử, ti dĩ tự mục. Trong Đạo đức kinh, cũng rất nhiều câu, như: Hậu kỳ thân nhi thân tiên; Qúi dĩ tiện vi bản, cao dĩ hạ vi cơ; Dục tiên dân tất dĩ thân hậu chi: Bất cảm vi thiên hạ tiên . . Nhưng khiêm nhu của Lão tử có vẻ triệt để, tuyệt nhiên không tranh hơn với ai, mà khiêm nhu trong Dịch thì không thái quá, vẫn trọng đức trung (hào 2). -------------------------------------- Quẻ 16 :::: Lôi Địa Dự (豫 yù) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Lôi Địa Dự, đồ hình :::: còn gọi là quẻ Dự (豫 yu4), là quẻ thứ 16 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☷ (::: 坤 kun1) Khôn hay Đất (地) và Ngoại quái là ☳ (|:: 震 zhen4) Chấn hay Sấm (雷). Giải nghĩa: Duyệt dã. Thuận động. Dự bị, dự phòng, canh chừng, sớm, vui vầy. Thượng hạ duyệt dịch chi tượng: tượng trên dưới vui vẻ. Nguyễn Hiến Lê viết Đã Đại hữu mà lại Khiêm thì tất nhiên là vui vẻ, sung sướng, cho nên sau quẻ Khiêm, tới quẻ Dự (vui, sướng). Thoán từ : 豫: 利建侯, 行師. Dự: Lợi kiến hầu, hành sư. Dịch: vui vẻ: Dựng tước hầu (để trị dân), ra quân thì tốt. Giảng: Có ba cách giảng ý nghĩa quẻ này. - Chấn ở trên, Khôn ở dưới, có nghĩa là ở trên thì động, hành động; ở dưới thuận theo, như vậy tất vui vẻ. - Sấm ở trên đất, nghĩa là khí dương phát động (chấn thuộc dương) mà muôn vật ở trên phát sinh, cũng là cảnh tượng vui vẻ. - Quẻ này chỉ có một hào dương (hào 4), 5 hào âm đều theo nó, nó làm chủ trong quẻ , như một người tài đức, làm việc gì cũng thuận cả, tất thành công, sẽ vui vẻ, an ổn. - Thuận với lẽ tự nhiên thì dù trời đất cũng nghe theo, huống hồ là việc dựng tước hầu, ra quân, dân há lại không theo. - Thoán truyện bàn rộng thêm: Cái đạo thuận lẽ mà hành động đó là đạo trời, cho nên mặt trời mặt trăng thay nhau chiếu sáng ban ngày ban đêm, không bao giờ lầm; bốn mùa thay nhau chẳng bao giờ sai. Thánh nhân thuận lẽ mà hành động thì hình phạt không phiền phức mà dân chúng phục tòng. Hào từ: 1. 初六: 鳴豫, 凶. Sơ lục: Minh dự, hung. Dịch: Hào 1, âm: Khoe mình vui sướng một cách ồn ào, xấu. Giảng: Chữ Dự, tên quẻ có nghĩa là trên dưới thuận nhu hành động mà cùng vui vẻ; còn chữ dự trong các hào thì có nghĩa là cá nhân vui vẻ. Như hào âm nhu ở dưới cùng này, bất trung, bất chính, là một tiểu nhân, ỷ có hào 4 cương kiện và có địa vị ở trên ứng viện, lấy làm đắc ý, bộc lộ nỗi sung sướng của mình một cách ồn ào, thế là kiêu mạn, xấu. 2. 六二: 介于石, 不終日, 貞吉. Lục nhị: giới vu thạch, bất chung nhật, trinh cát. Dịch: Hào 2, âm: Chí vững như đá, chẳng đợi hết ngày (mà ứng phó ngay), chính đính, bền, tốt. Khổng tử, theo Hệ từ hạ truyện, Chương V, cho rằng người quân tử biết trước được triệu chứng từ khi mới có dấu hiệu, cho nên ứng phó mau, giao tiếp với kẻ trên thì không nịnh, với kẻ dưới thì không nhờn, biết lúc nào nên nhu, lúc nào nên cương. 3. 六三: 盱豫, 悔遲, 有悔. Lục tam: Hu dự, hối trì, hữu hối . Dịch: Hào 3, âm: Ngửa mặt lên trên (mong được phú quí) mà vui mừng, như vậy thế nào cũng ăn năn, mà sửa đổi chậm, lại càng ăn năn hơn. Giảng: Hào này cũng bất trung, bất chính, như kẻ tiểu nhân ngó lên trên là hào 4 dương cương, mong được phú quí mà vui mừng; không sớm rút chân ra khỏi cái bẩy quyền thế thì sẽ ân hận lớn. 4. 九四: 由豫, 大有得; 勿疑, 朋盍簪. Cửu tứ: Do dự, đại hữu đắc; vật nghi, bằng hạp trâm. Dịch: Hào 4, dương : người khác nhờ mình mà vui, mình có thể thành công lớn được; cứ hết lòng chí thành, đừng nghi ngờ thì các bạn thanh khí sẽ lại giúp mình đông mà chóng. Giảng: Hào này làm chủ trong quẻ , có tài, có địa vị cao, lại được hào 5 (vua) hết lòng tin, nên tạo hạnh phúc được cho người , thành công lớn được. Nhưng là hào dương độc nhất trong quẻ một mình đảm đương gánh nặng, có lúc chán nản, nghi ngờ, nên Hào từ khuyên cứ chí thành, thì sẽ có nhiều bạn tới giúp. 5. 六五: 貞疾, 恆, 不死. Lục ngũ: Trinh tật, hằng, bất tử. Dịch: hào 5, âm : Bệnh hoài, dai dẳng nhưng không chết. Giảng: Hào 5, ở địa vị chí tôn, nhưng âm nhu, và có hào 4 được lòng dân, gánh hết việc thiên hạ, chuyên quyền; 5 chẳng phải làm gì cả, chỉ chìm đắm trong cảnh hoan lạc (vì ở thời Dự), nên ví với một người bị bệnh hoài. Nhưng may là có 5 đắc trung mà 4 cũng không áp bức, nên vẫn giữ được hư vị, cũng như bị bệnh dai dẳng mà không chết. Phan Bội Châu cho hào 5 này đúng là trường hợp các vua Lê nhu nhược bị chúa Trịnh chuyên quyền, nhưng vẫn giữ được hư vị. 6. 上六: 冥豫,成有渝, 无咎. Thượng lục: Minh dự, thành hữu du, vô cữu. Dịch: Hào trên cùng, âm: mê tối vì hoan lạc, nhưng nếu biết sửa đổi nết xấu thì không lỗi. Giảng: hào này âm nhu, bất trung bất chính, lại ở thời cuối quẻ Dự, cho nên ví với người mê tối vì hoan lạc. Nhưng cũng may, hào này ở trong ngoại quái Chấn, Chấn có nghĩa là động, có hy vọng nhúc nhích tự cường được, như vậy sẽ không xấu. * Chúng ta nhận thấy tên quẻ là Vui, mà sáu hào chỉ có hai hào (2 và 4) là tốt, còn 4 hào kia xấu nhiều hay ít cả, xấu nhất là hào 1 vì kiêu mạn, khoe khoang ồn ào cái vui bất chính của mình; mà tốt nhất là hào 2, vì không ham vui mà giữ vững chí mình. Phan Bội Châu dẫn câu “Sinh ư ưu hoạn, nhi tử ư an lạc” của Mạnh tử để kết, là tóm tắt được triết lý của quẻ này. Quốc gia cũng như cá nhân, hễ sống trong cảnh vui sướng, vui vẻ quá thì sẽ mau chết. ----------------------------------------- Quẻ 17 |:|: Trạch Lôi Tùy (隨 suí) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Trạch Lôi Tùy, đồ hình |:|: còn gọi là quẻ Tùy (隨 sui2), là quẻ thứ 17 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☳ (|:: 震 zhen4) Chấn hay Sấm (雷) và Ngoại quái là ☱ (||: 兌 dui4) Đoài hay Đầm (澤). Giải nghĩa: Thuận dã. Di động. Cùng theo, mặc lòng, không có chí hướng, chỉ chiều theo, đại thể chủ việc di động, thuyên chuyển như chiếc xe. Phản phúc bất định chi tượng: loại không ở cố định bao giờ. Nguyễn Hiến Lê viết Dự là vui vẻ, vui vẻ thì có nhiều người theo nên tiếp sau là quẻ Tùy. Tùy là theo. Thoán từ 隨: 元, 亨, 利, 貞, 无咎. Tùy: Nguyên, hanh, lợi, trinh, vô cữu. Dịch: Theo nhau: rất hanh thông, nhưng phải theo điều chính đáng, vì điều chính đáng (trinh) mới có lợi, không có lỗi. Giảng: Đoài ở trên là vui vẻ, Chấn ở dưới là động; đó là cái tượng hành động mà được người vui theo. Lại có thể giảng: Chấn là sấm, Đoài là chằm, sấm động ở trong chằm, nước chằm theo tiếng sấm mà cũng động, cho nên gọi là tùy. Lời thoán từ quẻ này chỉ khác lời Thoán từ quẻ Càn vì có thêm hai chữ “vô cữu” (không có lỗi) ở sau, mà nghĩa thay đổi hẳn. Chúng tôi dịch như trên là theo Chu Hi: nguyên hanh (rất hanh thông) là “đức” (tính cách) của Tùy; còn trinh (chính đáng) là điều kiện để cho Tùy có lợi mà không có lỗi. Phan Bội Châu hiểu hơi khác: cả nguyên, hanh, lợi, trinh đều là điều kiện để “Tùy” có lợi mà không có lỗi. Theo người nhưng phải theo cái hay, theo đạo ; người có rất thiện (nguyên) , việc có thông thuận (hanh), có cái lợi công (lợi), thì mới nên theo, và khi theo thì phải giữ tiết tháo (trinh) thì mới không có lỗi. Đại khái ba cách hiểu đó cũng không khác nhau mấy. Mà quẻ Tùy so với quẻ Càn thì kém xa. Thoán truyện bàn rộng thêm, đưa một điều kiện nữa: Theo mà phải đúng thời mới được. Ví dụ thời Hán, Vương Mãng cũng đã muốn làm một cuộc cách mạng xã hội; rất công bằng, tốt; nhưng thời đó sớm qua, nên thất bại. Tới đời Tống, Vương an Thạch cũng thất bại, như vậy là không hợp thời. Và Thoán truyện nhấn mạnh vào cái nghĩa tùy thời đó. (Tùy thời chi nghĩa đại hĩ tai!) Hào từ; 1. 初九: 官有渝, 貞吉, 出門交有功. Sơ cửu: Quan hữu du, trinh cát, xuất môn giao hữu công. Dịch: Hào 1, dương : chủ trương thay đổi, hễ chính thì tốt, ra ngoài giao thiệp thì có công. Giảng: chữ “quan” ở đây có nghĩa là chủ, chữ “du” có nghĩa là thay đổi . Chu Hi hiểu là chủ trương thay đổi. Phan Bội Châu hiểu là cái thể của mình thay đổi, vì hào 1 là dương đáng lẽ làm chủ hai hào âm ở trên, nhưng ngược lại phải tùy hai hào đó (vì hào dương ở dưới cùng). Hiểu theo cách nào thì vẫn : cứ chính đáng, theo lẽ phải, thì tốt (trinh cát). Đừng theo tư tình, mà theo người ngoài (xuất môn) nếu họ phải , thì thành công. 2. 六二: 係小子, 失丈夫. Lục nhị: Hệ tiểu tử, thất trượng phu. Dịch: Hào 2, âm: Ràng buộc với kẻ thấp kém (nguyên văn là : con nít) mà mất kẻ trượng phu. Giảng: Hào này âm nhu,không biết giữ mình, gần đâu tùy đấy, nên ràng buộc với hào 1 dương (tiểu tử), mà bỏ mất hào 5 cũng dương , ở trên, ứng hợp với nó. Quẻ này, hễ là hào âm thì không dùng chữ tùy là theo, mà dùng chữ hệ là ràng buộc, có ý cho rằng âm nhu thì vì tư tình, hoặc lợi lộc mà quấn quít, còn dương cương thì vì chính nghĩa mà theo. 3. 六三: 係丈夫, 失小子; 隨有求得, 利居貞. Lục tam: Hệ trượng phu, thất tiểu tử; Tùy hữu cầu đắc, lợi cư trinh. Dịch: Hào 3, âm: Ràng buộc với trượng phu, bỏ kẻ thấp kém; theo như vậy cầu xin cái gì thì đựơc đấy, nhưng phải chính đáng mới có lợi. Giảng: Hào này cũng âm nhu như hào 2, gần đầu thân cận đấy, cho nên thân với hào 4 dương cương, có địa vị ở trên (tức với trượng phu) mà bỏ hào 1 (tiểu tử). Nó xin 4 cái gì cũng được vì 4 hơi có thế lực; nhưng Hào từ khuyên đừng xu thế trục lợi, phải giữ tư cách chính đáng thì mới tốt. 4. 九四: 隨有獲, 貞凶.有孚, 在道, 以明何咎. Cửu tứ: Tùy hữu hoạch, trinh, hung. Hữu phu, tại đạo, dĩ minh hà cữu. Dịch: Hào 4, dương : Theo thì thu hoạch được lớn đấy, nhưng dù lẽ vẫn ngay mà cũng có thể gặp hung được. Cứ giữ lòng chí thành, theo đạo lý, lấy đức sáng suốt mà ứng phó thì không có lỗi. Giảng: Hào này như một vị cận thần, được vua tin cậy (5 và 4 cùng là dương cả), ở vào thời Tùy là thiên hạ theo mình, như vậy thu hoạch được lớn (có thể hiểu là được lòng dân, hoặc lập được sự nghiệp); nhưng chính vì vậy mà có thể gặp hung (chẳng hạn bị ngờ là chuyên quyền, bị vua ganh ghét như Nguyễn Trãi). Cho nên Hào từ khuyên giữ lòng chí thành theo đạo lý sáng suốt ứng phó (nghĩa là có đủ ba đức: tín, nhân, trí) thì mới khỏi lỗi. 5. 九五: 孚于嘉, 吉. Cửu ngũ: phu vu gia, cát. Dịch: Hào 5, dương. Tín thành với điều thiện thì tốt. Giảng: Hào 5, dương cương, ở vị tôn, trung và chính, lại ứng hợp với hào 2, cũng trung chính, cho nên rất tốt. “Gia” , điều thiện, ở đây là đức trung chính. 6. 上六: 拘係之, 乃從維之.王用亨于西山. Thượng lục: câu hệ chi, mãi tòng duy chi. Vương dụng hanh vu Tây Sơn. Dịch: Hào trên cùng, âm. Ràng buộc lấy, theo mà thắt chặt lấy; Thái Vương nhà Chu, được nhân tâm như vậy mới lập được nghiệp vương hanh thịnh ở Tây sơn (tức Kỳ sơn). Giảng: Hào này ở cuối quẻ Tùy, là được nhân tâm theo đến cùng cực, như thắt chặt với mình, như vua Thái Vương nhà Chu, lánh nạn rợ Địch, bỏ ấp Mân mà chạy sang đất Kỳ Sơn (năm -1327), người ấp Mân già trẻ trai gái dắt díu nhau theo, đông như đi chợ. Chúng tôi theo Phan Bội Châu mà dịch câu: “Vương dụng hanh vu Tây sơn” như vậy. Chu Hi bảo chữ [ 亨 ] phải đọc là hưởng và hiểu là : vua dùng ý thành mà làm tế hưởng ở đất Tây Sơn. J. Legge cũng dịch như Chu Hi. R.Wilhem cũng đọc là hưởng mà hiểu khác nữa: Vua cho những công thần được phụ hưởng (thờ chung với tổ tiên nhà Chu) ở nhà Thái Miếu tại Tây Sơn. * Quẻ này khuyên chúng ta chỉ nên theo chính nghĩa (chứ đừng vì tư tình, vì lợi) và biết tùy thời, như vậy thì tốt tới cùng được (hào cuối, đạt đến cực điểm mà vẫn không xấu.)
Quẻ 18 |: Sơn Phong Cổ (蠱 gǔ) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Sơn Phong Cổ, đồ hình |: còn gọi là quẻ Cổ (蠱 gu3), là quẻ thứ 18 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☴ | 巽 xun4) Tốn hay Gió (風) và Ngoại quái là ☶ (: 艮 gen4) Cấn hay Núi (山). Giải nghĩa: Sự dã. Sự biến. Có sự không yên trong lòng, làm ngờ vực, khua, đánh, mua chuốc lấy cái hại, đánh trống, làm cho sợ sệt, sửa lại cái lỗi trước đã làm. Âm hại tương liên chi tượng: điều hại cùng có liên hệ. Nguyễn Hiến Lê viết Vui theo thì tất có công việc làm, cho nên sau quẻ Tùy, tới quẻ Cổ. Cổ có hai nghĩa: đổ nát và công việc. Hễ đổ nát thì phải sửa sang lại, thế là có công việc. Thoán từ: 蠱: 元亨, 利涉大川.先甲三日, 後甲三日. Cổ: Nguyên hanh, lợi thiệp đại xuyên Tiên giáp tam nhật, hậu giáp tam nhật. Dịch: Đổ nát mà làm lại mới thì rất tốt, vượt qua sông lớn thì lợi. Ba ngày trước ngày giáp (nghĩa là phải tìm nguyên nhân từ trước), ba ngày sau ngày giáp (phải nghĩ đến tương lai nên thể nào). Giảng: Quẻ này trên là núi, dưới là gió, gió đụng núi, quật lại, đó là tượng loạn, không yên, tất phải có công việc. Cũng có thể giảng như sau: tốn ở dưới là thuận, mà Cấn ở trên là ngưng chỉ; người dưới thì thuận mà người trên cứ ngồi im; hoặc người dưới một mực nhu, người trên một mực cương (Tốn thuộc âm, mà hào 1 cùng là âm, còn Cấn thuộc dương, mà hào cuối cùng thuộc dương ), để nén người dưới, như vậy mọi sự sẽ đổ nát, phải làm lại. Đổ nát mà làm lại thì rất nên, rất tốt; phải xông pha nguy hiểm, nhưng rồi sẽ có lợi. Tuy nhiên phải suy nghĩ, có kế hoạch trước sau. Ví dụ bắt tay vào việc là ngày giáp, thì phải nghĩ tới ba ngày trước ngày giáp, tức ngày tân [辛], tìm xem vì lẽ gì mà có sự đổ nát, và muốn đổi cũ sang mới (mới cũng là tân, nhưng chữ tân này [新], người Trung Hoa thường có cách mượn một chữ đồng âm để diễn một ý khác) thì phải làm sao. Rồi lại nghĩ đến ba ngày sau, tức ngày đinh [ 丁] , mà đinh ninh (chữ [丁 寧] này) phòng bị cho tương lai. Làm lại mới mà được như vậy thì rất tốt. Thoán truyện và Đại tượng truyện không giảng gì khác. Hào từ: 1. 初六: 幹父之蠱, 有子, 考无咎, 厲, 終吉. Sơ lục: Cán phụ chi cổ, hữu tử, khảo vô cữu , lệ, chung cát. Dịch: Hào 1, âm: Sửa sang sự đổ nát của cha; nhờ con mà cha không lỗi; nhưng cũng có thể nguy đấy, phải biết răn sợ, sau mới tốt. Quẻ Cổ này lấy việc trong nhà làm thí dụ, nên nói đến cha, con. 2. 九二: 幹母之蠱, 不可貞. Cửu nhị: Cán mẫu chi cổ, bất khả trinh. Dịch: Hào 2, dương : Sửa sang sự đổ nát của mẹ, không nên cố chấp (trinh) Giảng: Hào này dương cương, đắc trung, trên ứng với hào 5 âm nhu, nên ví như con (2) với mẹ (5). Hào 2 có tài, sửa sang được, nhưng tính cương cường, có thể xung đột với 5, cho nên Hào từ khuyên đừng cố chấp mà phải mềm dẻo. 3. 九三: 幹父之蠱, 小有悔, 无大咎. Cửu tam: Cán phụ chi cổ, tiểu hữu hối, vô đại cữu. Dịch: Hào 3, dương: sửa sang sự đổ nát của cha, có chút hối hận những không có lỗi lớn. Giảng: Hào này là dương lại ở vị dương, là quá cương, nóng nảy, không hợp đạo trung cho nên làm vài việc đáng ăn năn; nhưng làm nổi việc, đắc chính, nên không đến nỗi có lỗi lớn. Ví như người con trung ngôn, trực gián mà giữ được đạo lý cho cha. 4. 六四: 裕父之蠱, 往見吝. Lục tứ: Dụ phụ chi Cổ, vãng kiến lận. Dịch: Hào 4, âm: (Vì dùng dằng mà chỉ) kéo dài sự đổ nát của cha, nếu cứ như vậy hoài thì sẽ hối tiếc. Giảng: Hào âm, nhu lại ở vị âm, là người thiếu nghị lực, nhút nhát, không dám cương quyết sửa sự đổ nát của cha, để cho nó kéo dài hoài thì xấu cho cả gia đình mà phải hối hận. 5. 六五: 幹 父之蠱, 用譽. Lục ngũ: Cán phụ chi cổ, dụng dự Dịch: Hào 5, âm: sửa sự đổ nát cho cha, mà được tiếng khen. Giảng: Âm nhu ở ngôi chí tôn, không đủ tài sáng nghiệp, nhưng nhờ có đức trung mà ở dưới ứng với hào 2, dương cương là người có tài, sửa sự đổ nát được, rốt cuộc thành công, cả hai được tiếng khen. 6. 上九: 不事王侯, 高尚 其事. Thượng cửu: Bất sự vương hầu, cao thượng kỳ sự. Dịch: Hào trên cùng, dương : Không xu phụ bậc vương hầu, mà nêu cao tư cách (đức của mình.) Giảng: Hào này dương cương ở trên hào 5, như một vị hiền nhân quân tử cao khiết, ở ngoài mọi việc, không màng phú quí, không xu phụ vương hầu, giữ chí hướng của mình làm phép tắc trong thiên hạ. * Người Trung Hoa rất trọng đức hiếu, mà có hiếu trước hết là giữ được danh dự cho gia đình, làm vẻ vang cho tổ tiên, cho nên nếu cha mẹ làm điều gì trái đạo lý thì con có bổn phận can ngăn (cha có con như vậy là nhà có phúc), nếu còn nhu nhược quá, dùng dằng không dám can thì có lỗi lớn; nếu cương cường quá mà xung đột với cha mẹ thì có lỗi, nhưng nhẹ, tốt nhất là giữ đạo trung, mềm mỏng mà kiên trì, ngoài nhu mà trong cương. Quẻ này kết một cách bất ngờ: hào trên cùng không nói gì về việc sửa sang sự đổ nát cả, mà chỉ khen bậc hiền nhân treo gương danh tiết cho thiên hạ soi. Nên để ý: Cổ là đổ nát, rất xấu mà thoán từ khen là tốt, chỉ vì đổ nát thì phải làm lại, canh tân, mà canh tân là điều rất tốt. Không có gì suy cực mà không thịnh lên, tới lúc cùng mà không bắt đầu trở lại ---------------------------------------- Quẻ 19 ||:::: Địa Trạch Lâm (臨 lín) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Địa Trạch Lâm, đồ hình ||:::: còn gọi là quẻ Lâm (臨 lin2), là quẻ thứ 19 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☱ (||: 兌 dui4) Đoài hay Đầm (澤) và Ngoại quái là ☷ (::: 坤 kun1) Khôn hay Đất (地). Giải nghĩa: Đại dã. Bao quản. Việc lớn, người lớn, cha nuôi, vú nuôi, giáo học, nhà sư, kẻ cả, dạy dân, nhà thầu. Quân tử dĩ giáo tư chi tượng: người quân tử dạy dân, che chở, bảo bọc cho dân vô bờ bến. Nguyễn Hiến Lê viết Tự quái truyện giảng: Cổ là công việc, có công việc rồi mới làm lớn được; cho nên sau quẻ Cổ tới quẻ Lâm. Lâm có nghĩa là lớn. Nhưng Lâm còn có nghĩa nữa là tới (như lâm chung là tới lúc cuối cùng, tới lúc chết; hoặc lâm hạ: người trên tới người dưới). Thoán từ: 臨: 元亨, 利貞.至于八月有凶. Lâm: Nguyên hanh, lợi trinh. Chí vu bát nguyệt hữu hung. Dịch: (dương) lớn lên và tới, rất hanh thông, chính đính thì lợi. Đến tháng 8 (hoặc tám tháng nữa) sẽ xấu. Giảng: Mới đầu là quẻ Khôn, 5 hào âm. Một hào dương tới thay hào 1 âm ở dưới, rồi một hào dương nữa tới thay hào 2 âm, thành ra quẻ Lâm . Thế là dương cung lớn dần, tới ngày thịnh lớn, nên gọi là Lâm. Một cách giảng nữa: trên chằm (đoài) có đất, tức là đất tới sát nước, nên gọi là Lâm (tới gần). Theo cách giảng thứ nhất, dương cương lớn lần mà âm nhu tiêu lần, thế là đạo gần tới lúc thông, cho nên bảo là rất hanh thông. Xét theo hào thì hào 2 cương trung, ứng với hào 5, nhu trung, nhân sự có phần vui vẻ, cũng hanh thông nữa (Thoán truyện) . Trong cảnh hanh thông, đừng nên phóng túng mà nên giữ vững chính đạo, (lợi trinh): nếu không thì đến tháng 8 (hoặc tám tháng nữa) sẽ hung. Có nhiều thuyết giảng hai chữ “bát nguyệt” ở đây chúng tôi không biết tin thuyết nào chỉ xin hiểu đại ý là “sau này sẽ hung”; mà không chép những thuyết đó. Đại tượng truyện bàn thêm: đất tới sát chằm, có cái tượng quân tử tới dân, giáo hóa dân không bao giờ thôi, bao dung, giữ gìn dân không có giới hạn (vô cương) . Hào từ 1. 初九: 咸臨, 貞吉. Sơ cửu: Hàm lâm, trinh cát. Dịch: Hào 1, dương : Cùng tới, giữ chính đạo thì tốt. Giảng: Trong quẻ này chỉ có hai hào dương tới lấn bốn hào âm, cho nên hai hào dương phải hợp lực nhau cùng tới, mới chiến thắng được. Hào 1 đắc chính (vì là dương mà ở vị dương lẻ) cho nên khuyên nên giữ chính đạo của mình. Chu Hi, theo Trình Di cho chữ “hàm” ở đây có nghĩa là cảm, hào 1 dương ứng hợp với hào 4 âm, như vậy là vì cảm ứng với hào 4 mà tới. 2. 九二: 咸臨, 吉, 无不利. Cửu nhị: Hàm lâm, cát, vô bất lợi. Dịch: Hào 2, dương : cùng tới, tốt, không gì là không lợi. Giảng: Nghĩa cũng như hào 1. Hào 2, dương cương đắc trung, gặp lúc dương đương lên, cho nên hiện tại tốt lành mà tương lai cũng thuận lợi. Tiểu tượng truyện thêm 4 chữ: vị thuận mệnh dã (chưa thuận mệnh vậy). Trình Di giảng là hào 2, dương trung, cảm ứng với hào 5 âm trung , hai hào đó cảm ứng với nhau không phải vì theo mệnh của người trên, cho nên tốt, không gì là không lợi. Chu Hi không chấp nhận lời giảng đó, bảo: “chưa rõ ý nghĩa ra sao” Phan Bội Châu giảng: hào 1 và 2 phải cùng tới thì mới tốt, phải lấy sức người giúp mệnh trời, chứ không ngồi yên mà chờ mệnh trời. 3. 六三: 甘臨, 无攸利; 既憂之, 无咎. Lục tam: Cam lâm, vô du lợi; Kí ưu chi, cô cửu. Dịch: Hào 3 âm: Ngọt ngào (a dua) mà tới (để dụ dỗ hào 2) thì không có lợi đâu; nhưng đã biết lo sửa tính thì không có lỗi nữa. Giảng: Hào này âm nhu, bất trung, bất chính nên ví với bọn tiểu nhân, dùng lời ngọt ngào mà dụ dỗ hào 2. 4. 六四: 至臨, 无咎. Lục tứ: Chi lâm, vô cữu. Dịch: Hào 4, âm: Hết lòng thành thực tới với hào 1, không có lỗi. Giảng: Hào này cũng là âm nhu, nhưng đắc chính (âm ở vị âm), có lòng thành thực, lại ứng với hào 1 là người có tài, chính đáng (hào 1 cũng đắc chính), nên không có lỗi gì cả. 5. 六五: 知臨, 大君之宜, 吉. Lục ngũ: Trí lâm, đại quân chi nghi, cát. Dịch: Hào 5, âm: Dùng đức sáng suốt mà tới, đúng là tư cách một vị nguyên thủ, tốt. Giảng: hào âm này ở vị chí tôn, có đức trung, ứng hợp với hào 2, dương , có thể ví với một vị nguyên thủ tuy ít tài (âm) nhưng sáng suốt, biết người nào có tài (hào 2), tín nhiệm, ủy thác việc nước cho người đó, như vậy kết quả chắc tốt. 6. 上六: 敦臨, 吉, 无咎. Thượng lục: Đôn lâm, cát, vô cữu. Dịch: Hào trên cùng, âm: Lấy lòng đôn hậu mà tới (với đời), tốt, không có lỗi. Giảng: Hào này là âm, ở cuối cùng ngoại quái Khôn, là có đức rất nhu thuận, ở thời Lâm, tức thời của dương, của quân tử đương tiến, nó hướng về hai hào dương ở dưới cùng (mặc dầu không hào nào trong 2 hào đó ứng với nó) mà dắt mấy hào âm kia theo hai hào dương đó, cho nên khen nó là đôn hậu, tốt, không có lỗi Quẻ 20 :::| Phong Địa Quan (觀 guān) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Phong Địa Quan, đồ hình :::| còn gọi là quẻ Quan (觀 guan1), là quẻ thứ 20 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☷ (::: 坤 kun1) Khôn hay Đất (地) và Ngoại quái là ☴ | 巽 xun4) Tốn hay Gió (風). Giải nghĩa: Quan dã. Quan sát. Xem xét, trông coi, cảnh tượng xem thấy, thanh tra, lướt qua, sơ qua, sơn phết, quét nhà. Vân bình tụ tán chi tượng: tượng bèo mây tan hợp. Nguyễn Hiến Lê viết Lâm là lớn, vật gì đến lúc lớn thì mới đáng biểu thị cho người ta thấy, cho nên sau quẻ Lâm tới quẻ Quán cũng đọc là Quan. Quán là biểu thị cho người ta thấy, Quan là xem xét Thoán từ: 觀: 盥而不薦, 有孚顒若. Quán: Quán nhi bất tiến, hữu phu ngung nhược. Dịch: Biểu thị (làm mẫu mực cho người ta thấy) cũng như người chủ tế, lúc sắp tế, rửa tay (quán ) cho tinh khiết, bấy nhiêu cũng đủ rồi, không cần phải bày mâm cỗ dâng lên (tiến); mình chí thành (phu) như vậy thì người khác cũng chí thành tín ngưỡng (ngung) mình. Giảng: Theo tượng quẻ, Tốn ở trên, Khôn ở dưới là gió thổi trên đất, tượng trưng cho sự cổ động khắp mọi loài, hoặc xem xét (quan) khắp mọi loài. Lại thêm: hai hào dương ở trên, bốn hào âm ở dưới, là dương biểu thị (quán) cho âm; âm trông (quan) vào dương mà theo. Đó là giải nghĩa tên quẻ. Thoán từ và Thoán truyện đưa một thí dụ cho ta dễ hiểu. Muốn biểu thị (quán) là mẫu mực cho người khác thấy thì nên có lòng chí thành như người chủ tế, lúc sắp tế, rửa tay cho tinh khiết, đó là điều quan trọng nhất, còn việc dâng cỗ, thuộc về vật chất, có nhiều cũng được, có ít cũng được, ví dụ như không có, chỉ dùng hương, hoa cũng tốt. Hào 5 ở trong quẻ ở ngôi chí tôn, có đức dương cương, trung chính, chính là người cho thiên hạ trông vào mà cảm hóa theo. Người đó nên coi đạo trời lẳng lặng vậy mà bốn mùa vận hành không sai, mà lấy lòng chí thành làm gương cho dân, dạy dân, dân sẽ không ai không phục. Hào từ: 1 初六: 童觀, 小人无咎, 君子吝. Sơ lục: Đồng quan, tiểu nhân vô cữu, quân tử lận. Dịch: Hào 1, âm: Trẻ con nhìn lên (không hiểu gì), tiểu nhân thì không đáng trách, quân tử mà như vậy thì hối tiếc. Giảng: Tên quẻ thì đọc là Quán, người trên (hào 5) biểu thị, làm gương cho người dưới. Nhưng xét từng hào thì đọc là quan, người dưới xem xét tư cách, hành vi của người trên. Hào 5, dương , đắc trung làm chủ quẻ, tượng trưng cho người trên, ông vua. Hào nào cũng nhìn lên hào 5 cả, hào 1 ở xa quá, như con nít tò mò mà nhìn lên, không hiểu gì cả, nhưng vì là con nít, không đáng trách; người quân tử mà như vậy mới đáng trách. 2. 六二: 闚觀, 利女貞. Lục nhị: Khuy quan, lợi nữ trinh. Dịch: Hào 2, âm: Nhìn lên, chỉ thích hợp với nết trinh của đàn bà thôi. Giảng: Hào này âm nhu, trung chính, là người con gái có nết trinh, ngó lên hào 5, không thấy được đạo lý của 5, con gái như vậy thì được. Người trượng phu mà như thế thì đáng xấu hổ (khả xú dã – Tiểu tượng truyện.) 3. 六三: 觀我生, 進退. Lục tam: Quan ngã sinh, tiến thoái. Dịch: Hào 3, âm: Xét bản thân, hành vi của mình, xem nên tiến lên (theo hào 4) hay nên đứng yên, đừng để phải lui xuống 2. Giảng: Hào này bất chính (âm mà ở vị dương), lại ở trên cùng nội quái, có thể tiến hay thoái; Hào từ khuyên đừng ngó lên hào 5, cứ tự xét bản thân, hành vi của mình, nếu đối phó được với hoàn cảnh thì tiến lên, không thì thôi, như vậy là chưa sai đường lối. 4. 六四: 觀國之光, 利用 賓于王. Lục tứ: Quan quốc chi quang, lợi dụng tân vu vương. Dịch: Hào 4, âm: Xem cái quang vinh của nước mà lợi dụng địa vị thân cận với vua. Giảng: Hào này âm, đắc chính, ở ngay dưới hào 5, tức là vị thân cận với vua (quí khách của vua) được vua tín nhiệm, xem xét đức sáng của vua (vua hiền thì nước mới vinh quang, nền vinh quang của nước tức là đức sáng của vua), mà bắt chước, đem tài sức ra giúp đời. 5. 九五: 觀我生君子, 无咎. Cửu ngũ: Quan ngã sinh quân tử, vô cữu. Dịch: Hào 5, dương: Xét bản thân, hành động của ta hợp với đạo quân tử , như vậy là không có lỗi. Cũng có thể chấm câu như vầy: Quan ngã sinh, quân tử vô cữu; và dịch là người quân tử ở đời này phải xem bản thân, hành động của ta (tức hào 5) mà noi theo thì không có lỗi. Giảng: Hào 5 ngôi chí tôn, cương cường mà trung chính là bậc quân tử làm gương cho 4 hào ở dưới, mọi người đều ngó vào. Tiểu tượng truyện bàn rộng: “Quan ngã sinh, quan dân dã” nghĩa là muốn xem đức của ta (của vua) thì cứ xem phong tục đạo đức của dân”, vì vua mà hiền minh thì dân tình tốt, vua u mê thì dân tình xấu. 6. 上九: 觀其生君子, 无咎. Thượng cửu: Quan kỳ sinh quân tử , vô cữu. Dịch: hào trên cùng, dương: xét bản thân, hành động của hào này hợp với đạo quân tử, như vậy là không có lỗi. Cũng có thể chấm câu như vầy: quan kỳ sinh, quân tử vô cữu; và dịch là : người quân tử ở đời này phải xem bản thân, hành động của nó (của hào cuối cùng) mà noi theo thì không có lỗi. Giảng: Hào từ: hào này y như hào từ 5, chỉ khác hào 5 dùng chữ ngã là ta, mà hào này dùng chữ kỳ là của nó (của hào trên cùng. Là vì hào 5 là vua, nói với hào 4 là cận thần, tự xưng là ta; còn hào này là lời Chu Công nói về hào trên cùng, cũng như đã nói về các hào 1, 2, 3, 5 ở dưới. Hào trên cùng này cũng là dương như hào 5, cũng là quân tử , tuy không phải ở ngôi chí tôn, nhưng ở trên cao hơn hết, cũng làm gương cho các hào âm trông vào. Vì nó có tư cách quân tử , nên không có lỗi. * Quẻ Quán này khuyên người trên nêu gương cho dưới và người dưới noi gương người trên; nhưng trẻ con và tiểu nhân thì nhiều khi chưa biết noi gương.
Quẻ 21 |: Hỏa Lôi Phệ Hạp (噬嗑 shì kè) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp, còn gọi là quẻ Phệ Hạp, đồ hình |: (噬嗑 shi4 ke4), là quẻ thứ 21 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☳ (|:: 震 zhen4) Chấn hay Sấm (雷) và Ngoại quái là ☲ (| 離 li2) Ly hay Hỏa (火). Giải nghĩa: Khiết dã. Cấn hợp. Cẩu hợp, bấu víu, bấu quào, dày xéo, đay nghiến, phỏng vấn, hỏi han (học hỏi). Ủy mị bất chấn chi tượng: tượng yếu đuối không chạy được. Nguyễn Hiến Lê viết Tự quái truyện giảng: tình, lý có chỗ khả quan rồi sau mới hợp nhau được; nhưng muốn cho hợp nhau thì trước hết phải trừ sự ngăn cách đã, cho nên sau quẻ Quan, tới quẻ Phệ hạp. Phệ là cắn, là trừ (sự ngăn cách), hạp là hợp. Thoán từ: 噬嗑: 亨, 利用獄. Phệ hạp: Hanh, lợi dụng ngục. Dịch: Căn để hợp lại, như vậy là hanh thông; dùng vào việc hình ngục thì có lợi . Giảng: Quẻ Phệ hạp này nói về việc hình ngục. Hào sơ và hào trên cùng là hai vạch liền, tượng như hàm trên và hàm dưới; ở giữa có ba vạch đứt, là miệng há ra; xen vào một vạch liền như một cái quẻ cản ngang miệng, làm gián cách hai hàm răng; Phải cắn gãy, trừ nó đi rồi hai hàm mới hợp với nhau được. Trong xã hội, kẻ gián cách đó là bọn gian tà, sàm nịnh bưng bít kẻ trên người dưới mà trên không thông tới dưới, dưới không đạt tới trên. Cho nên phải dùng hình ngục để trừ chúng. Hình ngục muốn có kết quả thì phải vừa uy, vừa sáng suốt. Nội quái Chấn là uy; ngoại quái Ly là sáng suốt. Lại xét riêng hào 5, hào làm chủ trong quẻ; nó ở ngôi cao, âm nhu mà đắc trung, là có ý khuyên dùng hình ngục tuy phải uy, phải cương, nhưng vẫn nên có một chút nhu, hiếu sinh; nếu chỉ cương thôi thì hóa ra tàn khốc, hiếu sát mất. Đó là đại ý Thoán truyện. Đại tượng truyện bảo tiên vương theo ý nghĩa quẻ Phệ hạp này mà làm sáng tỏ sự trừng phạt và răn bảo bằng pháp luật. (Tiên vương dĩ minh phạt, sắc pháp: 先王以明罰, 敕法 cũng có người hiểu là sắp đặt pháp luật hoặc ban bố pháp luật) Hào từ . 1. 初九: 屨校滅趾, 无咎. Sơ cửu: Lí giảo diệt chỉ, vô cữu. Dịch: Hào 1, dương : ví như chân đạp vào cái cùm mà đứt ngón chân cái, không có lỗi lớn. Giảng: Trong quẻ này hào 1 và hào trên cùng là người không có chức vị, bị chịu hình; còn 4 hào kia là người có chức vị áp dụng hình pháp. Hào 1 ở dưới cùng là hạng dân thường, mới làm bậy mà bị tội nhẹ (cùm chân, chặt ngón chân cái) thì sẽ sợ phép nước mà sau không làm điều ác nữa, cho nên không có lỗi lớn. 2. 六二: 噬膚, 滅鼻, 无咎. Lục nhị: Phệ phu, diệt tị, vô cữu. Dịch: Hào 2, âm: Cắn miếng thịt mềm, sứt cái mũi, không có lỗi. Giảng: hào này cũng như ba hào sau, dùng chữ phệ (cắn) để trỏ người dùng hình pháp. Hào 2 âm nhu đắc trung, chính lại được hào 5 ứng, tức là người được vua ủy cho quyền hình pháp, vì vậy dễ thu phục được kẻ có tội, công việc dễ như cắn miếng thịt mềm. Nhưng vì hào 2 cưỡi lên hào 1 dương cương, tức như gặp kẻ ương ngạnh, nên phải cưỡi lên hào 1 dương cương, tức như gặp kẻ ương ngạnh, nên phải quá tay một chút, kẻ bị tội chịu hình phạt khá đau, như bị cắn vào mũi, đó là lỗi của hắn chứ hào 2 vẫn là trung chính, không có lỗi. 3. 六三: 噬腊肉, 遇毒, 小吝, 无咎. Lục tam: Phệ tích nhục, ngộ độc, tiểu lận, vô cữu. Dịch: Hào 3, âm: Cắn phải miếng thịt có xương lại ngộ độc, đáng ân hận một chút, nhưng không có lỗi. Giảng: Hảo 3, âm: Không trung chính, dùng hình ngục và không được người phục, có phần bị oán nữa, như cắn phải miếng thịt có xương lại ngộ độc; những ở vào quẻ Phệ hạp, dùng hình pháp để giữ trật tự cho xã hội, cho nên việc làm của mình tuy đáng ân hận, mà không có lỗi lớn. 4. 九四: 噬 乾胏, 得金矢, 利艱貞, 吉. Cửu tứ: phệ can trỉ (có người đọc là tỉ) đắc kim thỉ , lợi gian trinh, cát. Dịch: Hào 4, dương : Cắn phải thứ thịt liền xương mà phơi khô, được mũi tên đồng, chịu khó nhọc mà vững lòng giữ đường chính thì tốt. Giảng: Hào này dương cương ở gần ngôi chí tôn (hào 5) là người cương trực, có trách nhiệm; lại ở ngoại quái Ly, nên có tài minh đóan, cho nên dù gặp kẻ ngoan cố cũng trị được dễ dàng, như cắn được miếng thịt liền xương (cứng) phơi khô, mà vẫn giữ được đạo cương trực, tượng bằng mũi tên bằng đồng. Nhưng vì hào này cương, mà cương quyết thì e gặp khó khăn, nên Hào từ khuyên phải chịu khó nhọc, tuy cương mà vị lại nhu (hào thứ 4, chẳn), nên lại khuyên phải vững chí. Có hai điều kiện đó thì mới tốt. 5. 六五: 噬乾肉, 得黃金, 貞厲, 无咎. Lục ngũ: phệ can nhục, đắc hoàng kim, trinh, lệ, vô cữu. Dịch: Hào 5, âm: Cắn miếng thịt khô, được vàng (danh dự quí báu); phải giữ vững đạo, thường lo sợ, thì không có lỗi. Có sách giảng về hai chữ “hoàng kim” như sau: kim là vật quí, tượng trưng ngôi chí tôn của hào 5, hoàng là sắc của đất, của trung ương (đen là màu của phương bắc, đỏ của phương nam, xanh của phương đông, trắng của phương tây), tượng trưng đức trung của hào 5. 6. 上九: 何校滅耳, 凶. Thượng cửu: Hạ giảo diệt nhĩ, hung. Dịch: Hào trên cùng, dương : cổ tra vào gông, bị tội cắt tai, xấu. Giảng: Hào này lại nói về kẻ thụ hình như hào 1. Xấu hơn hào 1, vì dương cương lại ở cuối quẻ, trỏ hạng cực ác, nên bị tội nặng: đeo gông, cắt tai. Theo hệ từ hạ truyện, chương V thì Khổng tử bàn như sau: “. . .không tích lũy nhiều điều ác thì không đến nỗi bị diệt thân thể (như hào này). Kẻ tiểu nhân cho rằng (. . .) một điều ác nhỏ là vô hại, nên cứ làm; vì vậy mà các điều ác cứ tích lũy tới lúc( . . ) tội hóa lớn mà không thể tha thứ được”. * Quẻ này xét về việc hình ngục, đại ý khuyên: Người xử hình phải sáng suốt trước hết, cương quyết mà cũng cần có đức nhu (để bớt cương đi), có chút từ tâm, và luôn luôn phải giữ đạo chính, thận trọng (hào 5). Hào 4 cũng tốt, vì vừa cương vừa nhu, có tài và có địa vị. - Nên răn đe dân từ khi dân mới mắc phải tội nhỏ, nếu không dân sẽ quen làm bậy, ác cứ tích lũy mà mắc tội lớn. ------------------------------------ Quẻ 22 |: Sơn Hỏa Bí (賁 bì) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Sơn Hỏa Bí, đồ hình |: còn gọi là quẻ Bí (賁 bi4), là quẻ thứ 22 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☲ (| 離 li2) Ly hay Hỏa (火) và Ngoại quái là ☶ (: 艮 gen4) Cấn hay Núi (山). Giải nghĩa: Sức dã. Quang minh. Trang sức, sửa sang, trang điểm, thấu suốt, rõ ràng. Quang minh thông đạt chi tượng: quang minh, sáng sủa, thấu suốt. Nguyễn Hiến Lê viết Đám đông, hợp lại với nhau thì phải có trật tự, uy nghi, có văn vẻ, cho nên tiếp theo quẻ Phệ Hạp là quẻ Búi là văn vẻ, rực rỡ, sáng sủa trang sức. Thoán từ: 賁: 亨, 小利, 有攸往. Bí: hanh, tiểu lợi, hữu du vãng. Dịch: Trang sức văn vẻ thì hanh thông; làm việc gì mà chỉ nhờ ở trang sức thì lợi bé nhỏ mà thôi. Giảng: Trên là núi, dưới là lửa; lửa chiếu sáng mọi vật ở trên núi, như vậy làm cho núi đẹp lên, trang sức cho núi. Còn một cách giảng nữa: trong nội quái (vốn là quẻ đơn Càn) hào 2, âm, vốn ở quẻ đơn Khôn, thay vào hào 2 dương của quẻ đơn Càn, thành quẻ đơn Ly, như vậy là tô điểm cho quẻ đơn Càn. Trong ngoại quái (vốn là quẻ đơn Khôn) hào trên cùng vốn ở quẻ đơn Càn, lại thay hào trên cùng của quẻ đơn khôn, thành quẻ đơn Cấn. Nói cách khác, vắn tắt mà không sai mấy thì nội quái có một hào âm trang sức cho hai hào dương , còn ngoại quái có một hào dương trang sức cho hai hào âm, vì vậy mà gọi là quẻ Bí: trang sức. Vật gì cũng vậy: có chất, tinh thần; mà lại thêm văn, hình thức, thì tốt (hanh thông), nhưng nếu chỉ nhờ ở trang sức mà thành công thì lợi ít thôi. Thoán truyện bàn rộng thêm: âm nhu và dương cương giao với nhau, thay đổi lẫn nhau (tức hào 2 và hào trên cùng như trên mới giảng). Ðó là cái văn vẻ tự nhiên (thiên văn) của trời; còn cái văn vẻ nhân tạo (nhân văn) thì nên hạn chế (quẻ Cấn ở trên có nghĩa là ngăn, hạn chế), vì tuy nó có công giáo hóa thiên hạ, nhưng nhiều quá thì văn thắng chất, xấu. Đại tượng truyện còn khuyên: Việc chính trị nhỏ thì dùng trang sức được; còn việc quan trọng như phán đoán hình ngục thì đừng nên quả quyết, tô điểm thêm. Hào từ. 1. 初九: 賁其趾, 舍車而徒. Sơ cửu: Bí kì chỉ, xả xa nhi đồ. Dịch: Hào 1, dương, Trang sức, trau giồi ngón chân (địa vị thấp) của mình; bỏ cách sung sướng là ngồi xe mà nên đi bộ (chịu khó nhọc). Giảng: Hào này dương cương, ở cuối cùng nội quái Ly, tức như người có đức sáng suốt mà ở địa vị thấp nhất. Chỉ nên trau giồi phẩm hạnh của mình trong địa vị đó (ví như ngón chân, bộ phận thấp nhất trong thân thể), mà an bần, chịu đi bộ chứ đừng ngồi xe. 2. 六二: 賁其須. Lục nhị: Bí kì tu. Dịch: Hào 2, âm: trang sức bộ râu. Giảng: Chữ tu ở đây nghĩa là râu, cũng như chữ tu : 鬚 Hào này làm chủ nội quái ly, có công dụng trang sức cho quẻ Ly, đặc biết là cho hào 3 dương ở trên nó, cho nên ví nó như bộ râu trang sức cho cái cằm (hào 3). Nó phải phụ vào hào 3 mà hành động. Hào 3 có tốt thì tác động của hào 2 mới tốt, cũng như phải có cài cằm đẹp thì để râu mới thêm đẹp, nếu cằm xấu thì để râu càng thêm khó coi. Nói rộng ra thì bản chất phải tốt, xứng với sự trang sức; chất và văn phải xứng nhau. 3. 九三: 賁如濡如, 永貞吉. Cửu tam: Bí như, nhu như,vĩnh trinh cát. Dịch: Hào 3, dương: Trang sức mà đằm thắm, hễ giữ vững chính đạo thì tốt. Giảng: Hào này dương cương, đắc chính, lại ở trên cùng nội quái ly, có cái nghĩa rất văn minh; tượng trưng người có tài trang sức cho hai hào âm ở trên và dưới nó, tính rất đằm thắm với hai hào âm (có người dịch “nhu như” là trang sức một cách nhuần nhã, thấm nhuần). Vì vậy mà nên coi chừng, đừng say mê vì tư tình, mà phải bền giữ chính đạo thì mới tốt, không bị người xâm lấn (mạc chi lăng dã: Tiểu tượng truyện). 4. 六四: 賁如皤如, 白馬翰如, 匪寇, 婚媾. Lục tứ: Bí như, bà (có người đọc là ba) như, bạch mã hàn như, phỉ khấu, hôn cấu. Dịch: hào 4 âm: Muốn trang sức cho nhau (nhưng không được) nên chỉ thấy trắng toát. Hào 4 như cưỡi ngựa trắng mà chạy như bay (đuổi kịp hào 1), rốt cuộc cưới nhau được vì kẻ gián cách hai bên (hào 3) không phải kẻ cướp (người xấu). Giảng: hào 4 âm nhu, ứng với hào 1 dương cương, cả hai đều đắc chính ,tình ý hợp nhau, muốn trang sức cho nhau, nhưng bị hào 3 ở giữa ngăn cách, nên không trang sức cho nhau được, chỉ thấy trắng toát (trắng nghĩa là không có màu, không trang sức). Mặc dầu bị 3 cản trở, 4 vẫn cố đuổi theo 1, rốt cuộc 3 vốn cương chính, không phải là xấu, không muốn làm hại 4 và 1, cặp này kết hôn với nhau được. 5. 六五: 賁于丘園, 束帛戔戔, 吝, 終吉. Lục ngũ: bí vu khâu viên, thúc bạch tiên tiên, lận, chung cát. Dịch : Hào 5, âm: Trang sức ở gò vườn, mà dùng tấm lụa nhỏ, mỏng, tuy là bủn xỉn, đáng chê cười đấy, nhưng rốt cuộc được tốt lành. Giảng: Hào 5, âm nhu, đắc trung, làm chủ quẻ Bí; vì là âm nhu nên có tính quá tằn tiện, lo trang sức cái gì hữu dụng như vườn tược thôi, mà lại chỉ dùng tấm lụa nhỏ, mỏng cho đỡ tốn, cho nên bị cười chê, nhưng như vậy còn hơn là xa hoa, mà biết trọng cái gốc là sự chất phác, cho nên cuối cùng vẫn được tốt lành, có hạnh phúc cho dân (hữu hỉ dã: lời Tiểu tượng truyện.) 6. 上九: 白賁, 无咎. Thượng cửu: Bạch bí, vô cữu. Dịch: Hào trên cùng, dương: lấy sự tố phác, như màu trắng (không màu mè gì cả) làm trang sức, không có lỗi. Giảng: Hào này là thời cuối cùng của quẻ Bí, trang sức, màu mè đã cùng cực rồi; mà vật cực tắc phản, người ta lại trở lại sự chất phác, nên không có lỗi gì cả. Trong văn học sử, chúng ta thấy sau những thời duy mĩ quá mức, người ta lại “phục cổ”, trở lại lối văn bình dị, tự nhiên thời xưa. * Đại ý quẻ Bí này là có văn vẻ, có trang sức mới là văn minh, nhưng vẫn nên trọng chất hơn văn, lấy chất làm thể, lấy văn làm dụng, và không nên xa hoa, màu mè quá. ------------------------------------------ Quẻ 23 :::: Sơn Địa Bác (剝 bō) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Sơn Địa Bác đồ hình :::: còn gọi là quẻ Bác (剝 bo1), là quẻ thứ 23 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☷ (::: 坤 kun1) Khôn hay Đất (地) và Ngoại quái là ☶ (: 艮 gen4) Cấn hay Núi (山). Giải nghĩa: Lạc dã. Tiêu điều. Đẽo gọt, lột cướp đi, không có lợi, rụng rớt, đến rồi lại đi, tản lạc, lạt lẽo nhau, xa lìa nhau, hoang vắng, buồn thảm. Lục thân băng thán chi tượng: tượng bà con thân thích xa lìa nhau. Văn Vương viết thoán từ: Bác: Bất lợi hữu du vãng. Chu Công viết hào từ: Sơ lục: Bác sàng dĩ túc, miệt trinh, hung. Lục nhị: Bác sàng dĩ biện, miệt trinh, hung. Lục tam: Bác chi, vô cữu. Lục tứ: Bác sàng dĩ phu, hung. Lục ngũ: Quán ngư, dĩ cung nhân sủng, vô bất lợi. Thượng cửu: Thạc quả bất thực, quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư. Nguyễn Hiến Lê viết Bí là trang sức, trau giồi; trau giồi tới cực điểm thì mòn hết. Cho nên sau quẻ Bí tới quẻ Bác. Bác là mòn, là bóc, lột bỏ cho tiêu mòn lần đi. Thoán từ 剝: 不利有攸往. Bác: Bất lợi hữu du vãng. Dịch: Tiêu mòn: Hễ tiến tới (hành động) thì không lợi. Giảng: Theo tượng quẻ, năm hào âm chiếm chỗ của dương, âm tới lúc cực thịnh, dương chỉ còn có một hào, sắp đến lúc tiêu hết. Do đó gọi là quẻ thịnh, dương, chỉ còn một hào sắp đến lúc tiêu hết. Do đó gọi là quẻ Bác. Ở thời tiểu nhân đắc chí hoành hành, quân tử (hào dương ở trên cùng) chỉ nên chờ thời, không nên hành động. Chờ thời vì theo luật tự nhiên, âm thịnh cực rồi sẽ suy, mà dương suy cực rồi sẽ thịnh . (Lão Tử khuyên: “đại trí nhược ngu, đại dũng nhược khiếp, đại xảo nhược chuyết (vụng) “nghĩa là phải tạm giấu cái khôn, cái khéo, cái dũng của mình để được yên thân đợi chờ cơ hội). Thoán truyện: giảng thêm: nên thuận đạo trời mà ngưng mọi hoạt động vì nội quái là Khôn, có nghĩa là thuận, ngoại quái là Chấn có nghĩa là ngưng; mà đạo trời là hết hao mòn (tiêu) thì sẽ phát sinh (tức) – nói về các chào dương; mà hết đầy (doanh) thì sẽ trống không (hư) – nói về các hào âm trong quẻ này. Đại tượng truyện: chỉ xét tượng của quẻ mà đưa ra một nghĩa khác: ngoại quái là núi, nội quái là đất; núi ở trên đất, đất là nền móng của núi; đất có dày thì núi mới vững; vậy người trên (nhà cầm quyền) phải lo cho dân an cư lạc nghiệp thì địa vị của người trên mới vững. Ý đó thêm vào, không có trong thoán từ. Hào từ: 1. 初六: 剝床以足, 蔑貞, 凶. Sơ lục: Bác sàng dĩ túc, miệt trinh, hung. Dịch: Hào 1, âm: như cắt (phá hoại) chân giường, dần dần sẽ làm tiêu diệt đạo chính của người quân tử, xấu. Giảng: âm (tiểu nhân) bắt đầu tiêu diệt dương (quân tử ), cũng như bắt đầu phá cái giường từ dưới chân trở lên. 2. 六二: 剝床以辨, 蔑貞, 凶. Lục nhị: bác sàng dĩ biện, miệt trinh, hung. Dịch: Hào 2, âm: như phá tới then giường (có người dịch là thành giường, hay sườn giường), tiêu diệt đạo chính của người quân tử, xấu. Giảng: Nghĩa hào này cũng như hào 1: bọn tiểu nhân đã tiến thêm một bước nữa, phá tới then giường rồi, chưa tới mặt giường. 3. 六三: 剝之, 无咎. Lục tam: Bác chi, vô cữu. Dịch: Hào 3 âm: Phá bỏ bè đảng của mình, không có lỗi. Giảng: Hào này cũng là âm nhu, tiểu nhân, nhưng vì ứng với hào dương, quân tử, ở trên cùng, cho nên theo hào đó mà bỏ các hào âm ở trên và dưới nó (tức các hào 1, 2, 4) chịu mất lòng với các hào âm này (lời Tiểu tượng truyện) mà theo đạo chính, cho nên không có lỗi. 4. 六四: 剝床以膚, 凶. Lục tứ: Bác sàng dĩ phu, hung. Dịch: hào 4, âm: phá giường mà xẻo tới da thịt người nằm trên giường nữa, xấu. Giảng: Hào âm này đã lên tới ngoại quái, thế là tiểu nhân đã hoành hành, quân tử bị hại quá đau, tai họa bức thiết quá rồi; xấu. 5. 六五: 貫魚, 以宮人寵, 无不利. Lục ngũ: Quán ngư, dĩ cung nhân sủng, vô bất lợi. Dịch: Hào 5, âm: Dắt bầy cung nhân như một xâu cá (ám chỉ bầy tiểu nhân), để lên hầu vua (tức theo người quân tử, hào dương ở trên cùng), như vậy là tiểu nhân biết thuận tòng quân tử, không có gì là không lợi. Giảng: Hào này làm thủ lãnh bầy âm. Theo nghĩa mấy hào trên, chúng ta tưởng hào này càng phá mạnh hạng quân tử hơn nữa; nhưng ngược lại. Hào từ lấy lẽ rằng hào 5, ở sát hào dương ở trên cùng thân cận với 6, chịu ảnh hưởng tốt của 6, nên dắt cả bầy âm (ví như một xâu cá – cá thuộc loài âm) để theo hào 6 quân tử cũng như bà hậu dắt bầy cung phi lên hầu vua. Thế là theo đạo chính, cho nên không gì là không lợi. Theo Phan Bội Châu, sở dĩ cổ nhân tới hào này bỏ cái nghĩa âm tiêu diệt dương, mà cho cái nghĩa âm thuận theo dương, là để khuyến khích tiểu nhân cải tà qui chánh, mà giúp đỡ quân tử. Kinh dịch "Vị quân tử mưu” (lo tính cho quân tử) là nghĩa đó. Có thể như vậy. Lý do chính thì coi hào sau ta sẽ thấy. 6. 上九: 碩果不食, 君子得輿, 小人剝廬. Thượng cửu: thạc quả bất thực, Quân tử đắc dư, tiểu nhân bác lư. Dịch: Hào trên cùng, dương: Còn một trái lớn trên cây, không hái xuống ăn (ý nói dương tức quân tử không bao giờ hết). Quân tử ở hào này được quần chúng (dư) theo; còn tiểu nhân thì biết rằng nếu diệt hết quân tử tức lá phá đổ nhà chúng ở (chúng cũng không còn). Giảng: Cả quẻ chỉ có mỗi hào này là dương cho nên ví với trái cây lớn còn lại trên cây, không hái xuống ăn thì có ngày nó sẽ rụng mà mọc mầm, như vậy là đạo quân tử không bao giờ hết. Hào 3 và 5 kéo các hào âm khác theo hào dương này, cho nên bảo là quân tử được dân chúng theo. Hào dương này ở trên cùng, cũng như cái nhà che cho tất cả các hào âm ở dưới. Nếu bọn tiểu nhân phá nhà đó cho sập – nghĩa bóng là không còn quân tử thì quốc gia suy vong, chủng tộc tiêu diệt- thì chúng cũng không sống được, không có chốn dung thân. Vậy ta thấy sở dĩ Chu Công, người viết Hào từ, cho hào 5 theo hào trên cùng (âm theo dương) là vì lẽ có thế xã hội mới tồn tại được, không khi nào người tốt bị diệt hết. Quẻ này nói về thời âm thịnh dương suy, tiểu nhân tàn hại quân tử, tiểu nhân tuy rất đông, nhưng vẫn có một số (hào 3 và 5) hiểu đạo cải quá, đứng về phe quân tử, và khi xã hội lâm nguy thì ủng hộ quân tử. Người quân tử mới đầu chỉ nên im hơi lặng tiếng mà chờ thời, chuẩn bị cho lúc thịnh trở lại. Đó là luật âm dương trong vũ trụ; vũ trụ luôn luôn có đủ cả âm, dương ; khi âm cực thịnh, vẫn còn dương, khi dương cực thịnh cũng vẫn còn âm, âm dương cứ thay nhau lên xuống, thế thôi
Quẻ 24 |::::: Địa Lôi Phục (復 fù) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Địa Lôi Phục, đồ hình |::::: còn gọi là quẻ Phục (復 fu4), là quẻ thứ 24 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☳ (|:: 震 zhen4) Chấn hay Sấm (雷) và Ngoại quái là ☷ (::: 坤 kun1) Khôn hay Đất (地). Giải nghĩa: Phản dã. Tái hồi. Lại có, trở về, bên ngoài, phản phục. Sơn ngoại thanh sơn chi tượng: tượng ngoài núi lại còn có núi nữa. Nguyễn Hiến Lê viết Vật không bao giờ tới cùng tận; quẻ Bác, hào dương ở trên cùng thì lại quay trở xuống ở dưới cùng (cùng thượng phản hạ); cho nên sau quẻ Bác tới quẻ Phục. Phục là trở lại (phát sinh ở dưới). Như vậy là đạo tiểu nhân thịnh cực thì phải tiêu, đạo quân tử suy cực thì lại thịnh lần. Thoán từ. 復: 亨, 出入无疾, 朋來无咎. 反復其道, 七日來復, 利有攸往 Phục: Hanh, Xuất nhập vô tật, bằng lai vô cữu. Phản phục kì đạo, thất nhật lai phục, lợi hữu du vãng. Dịch: Trở lại: Hanh thông. Ra vào không gặp tai nạn, bạn bè sẽ lần lượt tới, không lầm lỗi nữa. Vận trời phản phục (tráo đi trở lại), cứ bảy ngày thì trở lại, hành động việc gì cũng có lợi. Giảng: Khí dương bây giờ trở lại, cho nên hanh thông. Người quân tử (dương) ra vào tự do, không bị tai nạn; rồi sẽ có các hào dương khác kéo nhau tới, cũng như bạn bè tới, không còn lầm lỗi nữa (ý muốn nói; sau quẻ này sẽ tới quẻ Lâm, có hai hào dương ở dưới, rồi tới quẻ Thái, có ba hào dương ở dưới, tới quẻ Đại tráng (4 hào dương) quẻ Quải, (5 hào dương) quẻ Càn (cả 6 hào đều dương), thế là sáu quẻ dương cứ tăng lần. đó là vận phản phục của trời đất, cứ bảy ngày thì trở lại. Chữ nhật (ngày) ở đây thay cho chữ hào; bảy ngày mới trở lại vì sau quẻ Càn, tới quẻ Cấu, một hào âm sinh ở dưới 5 hào dương, ngược lại với quẻ Phục (một hào dương ở dưới 5 hào âm), lúc đó mới hết một vòng (1). Thoán truyện giảng thêm: Sở dĩ ra vào không bị tai nạn, bạn bè kéo tới, không còn lầm lỗi, vì tượng của quẻ: nội quái Chấn là động, ngoại quái Khôn là thuận; hoạt động mà thuận theo đạo trời thì tốt. Cái đạo của trời đó là tĩnh lâu rôi thì động, ác nhiều rồi thì thiện, có vậy vạn vật mới sinh sôi nẩy nở. Xem quẻ Phục này thấy một hào dương bắt đầu trở lại, tức là thấy cái lòng yêu, nuôi dưỡng vạn vật của trời đất (kiến thiên địa chí tâm). Đại tượng truyện bảo các vua đời xưa tới ngày đông chí, ngày mà dương bắt đầu sinh (tượng của quẻ Phục: sấm nấp ở dưới đất) thì đóng các cửa ải, không cho khách đi đường và con buôn qua lại mà vua cũng không đi xem xét các địa phương, là có ý muốn yên lặng để nuôi cái khí dương mới sinh. Hào từ. 1. 初九: 不遠復, 无祇悔, 元吉. Sơ cửu: Bất viễn phục, vô kì hối, nguyên cát. Dịch: Hào 1, dương. Tuy lầm lỗi nhưng thời gian chẳng xa, trở lại tốt lành ngay, thì không đến nỗi ăn năn lớn; rất tốt (chữ Kì ở đây có nghĩa là lớn). Giảng: Hào 1, dương cương, ở đầu quẻ Phục, có nghĩa là người đầu tiên trở lại đạo, biết tu thân, nên rất tốt. Theo Hệ từ hạ truyện chương V, thì Khổng tử cho rằng Nhan Hồi có đức của hào 1 này, vì Nhan có lỗi lầm gì thì biết ngay mà biết rồi thì sửa liền không mắc lần thứ nhì nữa. 2. 六二: 休復, 吉. Lục nhị: Hưu phục, cát. Dịch: Hào 2, âm: Trở lại đẹp đẽ (hữu), tốt. Giảng: Hào này âm nhu đắc trung, chính, vốn tốt rồi, mà lại ở gần hào 1 là người quân tử, tức là người biết khắc kỉ, trở lại đạo nhân nghĩa; cho nên tuy là âm mà tốt lành. 3. 六三: 頻復, 厲, 无咎. Lục tam: Tần phục, lệ, vô cửu. Dịch: hào 3, âm (Mắc lỗi nhưng) sửa lại nhiều lần, tuy đáng nguy, mà kết quả không có lỗi. Giảng: Hào này bất trung, bất chính, lại ở thời cuối cùng của nội quái Chấn (có nghĩa là động), ví như người không bền chí, theo điều thiện không được lâu, sửa lỗi rồi lại mắc lỗi trở lại, như thế là đáng nguy (lệ), nhưng lại biết phục thiện sửa đi sửa lại nhiều lần, nên rốt cuộc không có lỗi. 4. 六四: 中行, 獨復. Lục tứ: Trung hành, độc phục. Dịch: Hào 4, âm: ở giữa các tiểu nhân (các hào âm: 2,3 và 5,6 ) mà một mình trở lại theo quân tử (hào 1), tức theo đạo. Giảng: hào này âm nhu, đắc chính ở giữa các hào âm, nhưng chỉ một mình nó ứng với hào 1 là dương, quân tử, cho nên Hào từ khen là một mình nó biết theo người thiện. 5. 六五: 敦復, 无悔. Lục ngũ: Đôn phục, vô hối. Dịch: Hào 5, âm: Có đức dày trở lại điều thiện, không có gì hối hận. Giảng: Hào này nhu thuận, đắc trung lại ở vị tôn quí, như một người có đức dày phục thiện (trở lại điều thiện), biết tự sửa mình, cho nên không hối hận. 6. 上六: 迷復, 凶.有災眚. 用行師, 終有大敗, 以其國君凶, 至于十年, 不克征. Thượng lục: Mê phục, hung, hữu tai sảnh, Dụng hành sư, chung hữu đại bại, dĩ kì quốc quân hung, chí vu thập niên, bất khắc chính. Dịch: Hào trên cùng, âm: Mê muội, không trở lại, sẽ bị tai vạ từ ngoài đưa đến (tai) và tự mình gây nên (sảnh); đã vậy lại cậy võ lực mà dùng quân đàn áp người, rốt cuộc sẽ đại bại, làm cho quốc quân cũng bị khốn nạn (hung), tới mười năm (tới chung cục) cũng không khá được. Giảng: hào này ở trên cùng, như kẻ tiểu nhân hôn mê đến cùng cực, không biết trở lại, cho nên bị đủ thứ tai vạ. Nó có thế lực nhất trong các hào âm (đám tiểu nhân ) vì ở trên cùng, muốn dùng võ lực đàn áp người, rốt cuộc sẽ đại bại, gây vạ lây cho nước nó, không bao giờ khá được. Chữ thập (số 10) là số cuối cùng (số 1 là số đầu) cho nên thập niên ở đây có nghĩa là tới cùng, chớ không nhất định là 10 năm. Tiểu tượng truyện bảo hào trên cùng này sở dĩ hung là vì làm trái đạo vua (phản quân đạo), tức đạo của hào 1. Hào 1 này là hào dương duy nhất trong quẻ, làm chủ cả quẻ cho nên gọi là vua. * Quẻ này xét về sự sửa lỗi để trở về đường chính. Tốt nhất là hạng người tự nhận thấy lỗi rồi sửa liền, không mắc phải lần nữa, rồi tới hạng ở gần người tốt, mà bắt chước vui vẻ làm điều nhân, nghĩa; sau tới hạng có đức dày trở lại điều thiện, hạng ở giữa kẻ xấu mà một mình theo đạo; hạng không bền chí, giữ điều thiện được lâu, nhưng biết phục thiện thì cũng không lỗi. Xấu nhất là hạng mê muội không biết trở lại đường chính. Ý nghĩa không có gì đặc biệt -------------------------------- Quẻ 26 |||: Sơn Thiên Đại Súc (大畜 dà chù) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Thiên Lôi Vô Vọng, đồ hình |:|| còn gọi là quẻ Vô Vọng (無妄 wu2 wang4), là quẻ thứ 25 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☳ (|:: 震 zhen4) Chấn hay Sấm (雷) và Ngoại quái là ☰ (||| 乾 qian2) Càn hay Trời (天). Giải nghĩa: Thiên tai dã. Xâm lấn. Tai vạ, lỗi bậy bạ, không lề lối, không quy củ, càn đại, chống đối, hứng chịu. Cương tự ngoại lai chi tượng: tượng kẻ mạnh từ ngoài đến. Nguyễn Hiến Lê viết Đã trở lại thiên lý, chính đạo rồi thì không làm càn nữa, cho nên sau quẻ Phục, tới quẻ Vô vọng. Vọng có nghĩa là càn, bậy. Thoán từ. 无妄: 元亨, 利貞. 其匪正有眚, 不利有攸往. Vô vọng: Nguyên hanh, lợi trinh. Kì phỉ chính hữu sảnh, bất lợi hữu du vãng. Dịch: không càn bậy thì rất hanh thông, hợp với chính đạo thì có lợi. Cái gì không hợp với chính đạo thì có hại, có lỗi, hành động thì không có lợi. Giảng: Tượng quẻ này: nội quái là Chấn (nghĩa là động, hành động); ngoại quái là Càn (trời), hành động mà hợp với lẽ trời thì không càn bậy, không càn bậy thì hanh thông, có lợi. Thoán truyện giảng rõ thêm: Nội quái nguyên là quẻ Khôn, mà hào 1, âm biến thành dương, thành quẻ Chấn. Thế là dương ở ngoài tới làm chủ nội quái, mà cũng làm chủ cả quẻ vô vọng, vì ý chính trong Vô vọng là: động, hành động. Động mà cương kiên như ngoại quái Càn, tức là không càn bậy. Xét về các hào thì hào 5 dương cương, trung chính ứng, ứng với hào 2 cũng trung chính, thế là hợp với thiên lý, rất hanh thông. Ở thời Vô vọng (không càn bậy) mình không giữ chính đạo mà đi thì đi đâu được? Chữ đi (vãng) ở đây nghĩa rộng là hành động (nguyên văn: Vô vọng chi vãng, hà chi hĩ? Nên hiểu là : vô vọng: phỉ chính chi vãng, hà chi hĩ; chữ chi thứ nhì này có nghĩa là đi). Trái lẽ trời thì trời không giúp, làm sao đi được ? Đại tượng truyện bàn thêm về cái đạo của trời (đất) là nuôi nấng, và thánh nhân cũng theo đạo đó mà nuôi nấng vạn dân. Chúng tôi cho là ra ngoài đề. Hào từ: 1. 初九: 无妄, 往吉. Sơ cửu: vô vọng, vãng cát. Dịch: Hào 1, dương: không còn bậy, mà tiến đi thì tốt. Giảng: Hào này dương cương, làm chủ nội quái, là người có đức, cho nên khen như vậy. 2. 六二: 不耕穫, 不菑畬, 則利有攸往. Lục nhị: Bất canh hoạch, bất tri dư, tắc lợi hữu du vãng. Dịch: Khi cày thì không nghĩ tới lúc gặt, khi mới khai phá (tri) thì không nghĩ đến ruộng đã thuộc (dự), như vậy mà tiến tới thì có lợi. Giảng: Lời hào này quá vắn tắt, hơn điện tín ngày nay nữa, nên tối nghĩa, có nhiều sách cứ dịch từng chữ; không thông. Chu công muốn bảo: Khi cày mà không nghĩ tới lúc gặt, khi mới khai phá mà không nghĩ tới khi ruộng đã thuộc, có nghĩa là thấy việc chính đáng phải làm thì làm mà không nghĩ đến cái lợi rồi mới làm, không chỉ trông mong vào kết quả, như vậy mới tốt. Hào 2, âm, vừa trung vừa chính, ứng với hào 5 cũng trung chính; nó vốn là âm có đức thuận ở trong nội quái Chấn là động, như một người tốt hành động hợp với trung, chính, cho nên Hào từ bảo như vậy mà tiến thì có lợi. Có lẽ chính vì ý nghĩa hào này mà Sử ký của Tư Mã Thiên chép tên quẻ là 无 望 (vô vọng :không mong) với nghĩa làm điều phải mà “không mong” có lợi, có kết quả. Hiểu như vậy cũng được. 3. 六三: 无妄之災, 或繫之牛, 行人之得, 邑人之災. Lục tam: vô vọng chi tai, hoặc hệ chi ngưu, Hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai. Dịch: Hào 3, âm: không còn bậy mà bị tai vạ tự nhiên đến như có kẻ cột con bò ở bên đường (rồi bỏ đi chỗ khác), một người đi qua (thấy bò không có ai coi), dắt trộm đi, được bò, mà người trong ấp bị nghi oan là lấy trộm bò, mà mắc họa. Giảng: cả 6 hào trong quẻ này đều là không càn bậy, nhưng hào này khác một chút là bất trung, bất chính, nên bị tai vạ; tai vạ đó chỉ là vô cớ mà mắc. 4. 九四: 可貞,无咎. Cửu tứ: khả trinh, vô cữu. Dịch : Hào 4, dương: nên giữ vững tư cách thì không có lỗi (hoặc: có thể giữ vững được tư cách, cho nên không có lỗi). Giảng : chữ “Trinh” có hai nghĩa: chính đáng và bền. Ở đây nên hiểu là bền. Hào 4 này dương, không ứng hợp với hào nào cả. (vì hào 1 cũng là dương cương như nó), không nên họat động, nhưng nó cương kiện, có thể giữ vững được tư cách. 5. 九五: 无妄之疾, 勿藥, 有喜. Cửu ngũ: vô vọng chi tật, vật dược, hữu hỉ. Dịch: Hào 5, dương: Không càn bậy mà vô cớ bị bệnh (gặp tai họa) thì đừng uống thuốc, sẽ hết bệnh. Giảng: Hào này ở địa vị cao, trung chính lại ứng với hào 2 cũng trung chính, vậy là rất tốt, chẳng may có bị bệnh (gặp tai họa) thì đừng uống thuốc (nghĩa bóng là đừng chạy chọt gì cả, cứ thản nhiên như Khổng tử khi bị giam ở đất Khuông) rồi sẽ tai qua nạn khỏi (như Khổng tử sau được thả ra, vì người Khuông nhận là rằng họ lầm ông với Dương Hổ, một người mà họ ghét.) 6. 上九: 无妄, 行有眚, 无攸利. Thượng cửu: Vô vọng, hành hữu sảnh, vô du lợi. Dịch: Hào trên cùng, dương. Không càn bậy, nhưng đi (hành động) thì bị họa, không lợi gì. Giảng: Hào từ khuyên không nên hành động, mặc dầu vẫn là “vô vọng”, chỉ vì hào này tới cuối cùng của quẻ rồi, chỉ nên yên lặng chờ thời. * Quẻ này cũng nhấn mạnh vào lẽ tùy thời. Cả 6 hào đều là “vô vọng” cả, không càn bậy mà tùy thời, có lúc hoạt động thì tốt như hào 1, 2; có lúc lại nên thản nhiên, chẳng làm gì cả, như hào 5, có lúc không nên hành động như hào 4 (nếu hoạt động thì bị họa) và như hào trên cùng. -------------------------------------- Quẻ 27 |::: Sơn Lôi Di (頤 yí) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Sơn Lôi Di, đồ hình |::: còn gọi là quẻ Di (頤 yi2), là quẻ thứ 27 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☳ (|:: 震 zhen4) Chấn hay Sấm (雷) và Ngoại quái là ☶ (: 艮 gen4) Cấn hay Núi (山). Giải nghĩa: Dưỡng dã. Dung dưỡng. Chăm lo, tu bổ, thêm, ăn uống, bổ dưỡng, bồi dưỡng, ví như trời nuôi muôn vật, thánh nhân nuôi người. Phi long nhập uyên chi tượng: rồng vào vực nghỉ ngơi. Nguyễn Hiến Lê viết Súc là chứa, có chứa nhóm vật lại rồi mới nuôi được, cho nên sau quẻ Đại súc là quẻ Di. Di có hai nghĩa: nuôi nấng và cái cằm. Nhìn hình quẻ, chúng ta thấy như cái miệng mở rộng, hai nét liền ở trên và dưới như hai cái hàm, toàn bộ gợi cho ta ý cái cằm (thay cái mép) lại gợi cho ta sự ăn uống để nuôi sống. Thoán từ 頤: 貞吉. 觀頤, 自求口實. Di : Trinh cát. Quan di, tự cầu khẩu thực. Dịch: Nuôi: hễ đúng chính đạo thì tốt. Xem cách nuôi người và tự nuôi mình. Giảng: Nuôi tinh thần hay thể chất, cũng phải hợp chính đạo thì mới tốt. Xem cách nuôi người và tự nuôi mình thì biết tốt hay xấu. Thoán truyện suy rộng ra: Trời đất khéo nuôi vạn vật mà vạn vật sinh sôi nảy nở về mọi mặt; thánh nhân dùng những người hiền giúp mình trong việc nuôi dân chúng; cái đạo nuôi nấng lớn như vậy đó. Đại tượng truyện đưa thêm một ý nữa: theo cái tượng của quẻ, thì dưới núi có tiếng sấm, dương khí bắt đầu phát mà vạn vật trong núi được phát triển như vậy là trời đất nuôi vật. Người quân tử tự nuôi mình thì phải cẩn thận về lời nói để nuôi cái đức, và tiết độ về ăn uống để nuôi thân thể (Quân tử dĩ thận ngôn ngữ, tiết ẩm thực). Là vì đời, “họa tòng khẩu xuât, bệnh tòng khẩu nhập” Phải giữ gìn nhất cái miệng. Hào từ 初九: 舍爾靈龜, 觀我朵頤, 凶. Sơ cửu: Xã nhỉ linh qui, quan ngã đóa di, hung. Dịch: hào 1, dương: chú bỏ con rùa thiêng (tượng trưng phần tinh thần quí báu) của chú đi mà cứ ngó ta, tới xệ mép xuống, xấu. Giảng: Chúng ta nên để ý: nội quái là Chấn, có nghĩa là động, cho nên cả ba hào đều diễn cái ý mình đi cầu cạnh người . Hào 1 này dương cương, khôn lanh, nhưng ứng với hào 4 âm, có thế lực ở trên hăm hở theo âm đến nỗi bỏ thiên lí, thèm thuồng cầu ăn ở người khác (hào 4) để nuôi xác thịt, mà quên phần tinh thần của mình (nó quí như con rùa thiêng chỉ sống bằng khí trờii) như vậy rất xâu. Hai chữ “đóa di”, thòng mép xuống, cực tả sự bỉ ổi của bọn người chỉ ham ăn, nói rộng ra là bọn bị tư dục mê hoặc đến mất cả liêm sỉ. 2. 六二: 顛頤, 拂經, 于丘 頤, 征凶. Lục nhị: điên di, phất kinh, vu khâu di, chinh hung . Dịch: Hào 2, âm: Đảo lộn cách nuôi mình, trái với lẽ thường, cầu sự nuôi dưỡng ở gò cao, tiến lên thì xấu. Giảng: Hào này âm nhu, không tự sức nuôi mình được, nên phải cầu ăn với hai hào dương 1 và 6. nhưng hào 1 ở dưới mình, như vậy là người trên xin ăn người dưới, đảo lộn rồi, trái lẽ thường (kinh) rồi; còn như cầu ăn ở hào trên cùng (ví như cái gò cao), tì hào này không ứng với 2, 2 sẽ bị từ chối, bị khinh mà mắc nhục. Nên để ý: theo thường lệ, hào 2 này đắc trung, chính thì tốt mà đây lại xấu, vì ý nghĩa của quẻ nuôi dưỡng, mà hào này lại không đủ sức tự dưỡng được. 3. 六三: 拂頤, 貞凶.十年勿用无攸利. Lục tam: Phật di, trinh hung. Thập niên vật dụng vô du lợi. Dịch: Hào 3 âm: Cách nuôi trái hẳn với chính đạo, xấu. Mười năm (có nghĩa là tới cùng) cũng không tốt được không làm nên gì. Giảng: hào này âm nhu, bất trung, bất chính, lại hay động (vi ở trên cùng nội quái Chấn) không chịu ngồi yên, thấy đâu có ăn là đâm đầu vào. Rất xấu – Về hai chữ “thập niên” chúng ta đã giảng ở hào cuối cùng của quẻ Phục. 4. 六四: 顛頤, 吉.虎視眈眈, 其欲逐逐, 无咎. Lục tứ: điên di, cát. Hổ thị đam đam, kì dục trục trục, vô cữu. Dịch: Hào 4, âm: Đảo lộn cách nuôi mà tốt. Mắt hổ nhìn đăm đăm, lòng ham muốn day dứt không ngớt, không có lỗi. Giảng: Hào này âm nhu đắc chính, ở vào địa vị cao, được hào 5 chí tôn tương đắc với mình (cùng là âm cả) lại thêm có hào 1 dương ứng với mình, như vậy là người trên biết trọng đạo nghĩa, biết hạ mình cầu người dưới (hào 1) nuôi mình; tuy là điên đảo, trái lẽ thường đấy, nhưng vì là người tốt (đắc chính), cầu 1 giúp mình để mình lập nên sự nghiệp san sẽ giúp đỡ dân chúng, cho nên vẫn là tốt. Nhưng phải chuyên nhất, không gián đoạn (như mắt hổ nhìn đăm đăm, ham muốn không ngớt), cứ tiếp tục cầu 1 giúp hoài thì mới có kết quả, không có lỗi. Cầu nuôi ở hào này là cầu nuôi về tinh thần, chứ không phải về thể xác. 5. 六五: 拂經, 居貞, 吉.不可涉大川. Lục ngũ: Phật kinh, cư trinh, cát. Bất khả thiệp đại xuyên. Dịch: Hào 5, âm: Trái lẽ thường, bền chí giữ đạo chính thì tốt. Không thể vượt sông lớn được. Giảng: Hào này như một vị nguyên thủ, có trách nhiệm nuôi người, nhưng vì âm nhu, kém tài, nên phải nhờ người (tức hào trên cùng) nuôi mình (giúp đỡ mình); tuy là trái lẽ thường, nhưng cứ bền chí, giữ đạo chính thì tốt; vì nhờ người khác giúp đỡ để mình làm trọn nhiệm vụ nuôi dân. Tuy nhiên, vì tài kém (âm nhu), làm việc lớn gian hiểm không nổi, nên Hào từ khuyên: không thể qua sông lớn được. Cầu nuôi ở hào này cũng là cầu nuôi về tinh thần. 6. 上九: 由頤, 厲吉, 利涉大川. Thượng cửu: do di, lệ cát. Lợi thiệp đại xuyên. Dịch: Hào trên cùng, dương. Thiên hạ nhờ mình mà được nuôi, trách nhiệm mình lớn như vậy, mình phải thường lo lắng, sợ hãi thì được tốt. Qua sông lớn được. Giảng: Hào này dương cương mà ở trên cùng, như bậc làm thầy cho vị nguyên thủ, vị nguyên thủ nhờ mình mà nuôi được thiên hạ, thì cũng như chính mình nuôi thiên hạ. Trách nhiệm lớn như vậy nên mình phải thường lo lắng, sợ hãi, rất thận trọng thì mới được tốt lành, mà thiên hạ được phúc lớn (lời Tiểu tượng truyện). Hào này dương cương có tài, không như hào 5, cho nên làm được việc lớn gian hiểm. * Tóm lại ba hào cuối đều có nghĩa là nuôi về tinh thần, giúp đỡ dân chúng nên đều được “cát” hết. Ba hào đầu có nghĩa là nhờ người nuôi thể xác của mình, cho nên đều xấu
Quẻ 28 |||: Trạch Phong Đại Quá (大過 dà guò) Đăng ngày 1/1/2004 Quẻ Trạch Phong Đại Quá, đồ hình |||: còn gọi là quẻ Đại Quá (大過 da4 guo4), là quẻ thứ 28 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☴ | 巽 xun4) Tốn hay Gió (風) và Ngoại quái là ☱ (||: 兌 dui4) Đoài hay Đầm (澤). Giải nghĩa: Họa dã. Cả quá. Cả quá ắt tai họa, quá mực thường, quá nhiều, giàu cương nghị ở trong. Nộn thảo kinh sương chi tượng: tượng cỏ non bị sương tuyết. Nguyễn Hiến Lê viết Tự quái truyện giảng rất mù mờ, “Di là nuôi, không nuôi thì không thể động (bất dưỡng tức bất động) (?) cho nên sau quẻ Di đến quẻ Đại quá (lớn quá) “Phan Bội Châu giảng: “Có nuôi rồi sau mới có việc lớn quá” Chúng tôi nghĩ có thể giảng: Có bồi dưỡng tài đức thì sau mới làm được việc lớn quá (rất lớn), phi thường. Chữ “đại quá” có hai cách hiểu: Phần dương trong quẻ tới 4 (phần âm chỉ có hai) mà dương có nghĩa là lớn (âm là nhỏ); vậy đại quá có nghĩa là phần dương nhiều quá; - nghĩa nữa là (đạo đức công nghiệp) lớn quá. * Thoán từ 大過: 棟撓, 利有攸往, 亨. Đại quá: đống nạo, lợi hữu du vãng, hanh. Dịch: (Phần dương ) nhiều quá (phần âm ít quá) như cái cột yếu, cong xuống (chống không nổi). Trên di thì lợi, được hanh thông. Giảng: Nhìn hình của quẻ, bốn hào dương ở giữa, 2 hào âm hai đầu, như cây cột, khúc giữa lớn quá, ngọn và chân nhỏ quá, chống không nổi, phải cong đi. Tuy vậy, hai hào dương 2 và 5 đều đắc trung, thế là cương mà vẫn trung; lại thêm quẻ Tốn ở dưới có nghĩa là thuận, quẻ Đoài ở trên có nghĩa là hòa, vui, thế là hòa thuận, vui vẻ làm việc, cho nên bảo là tiến đi (hành động) thì được hanh thông. Đại tượng truyện bàn rộng: Đoài là chằm ở trên, Tốn là cây ở dưới, có nghĩa nước lớn quá, ngập cây. Người quân tử trong quẻ này phải có đức độ, hành vi hơn người, cứ việc gì hợp đạo thì làm, dù một mình đứng riêng, trái với thiên hạ, cũng không sợ (độc lập bất cụ); nếu là việc không hợp đạo thì không thèm làm, dù phải trốn đời, cũng không buồn (độn thế vô muộn). Hào từ: 1. 初六: 藉用白茅, 无咎. Sơ lục: Tạ dụng bạch mao, vô cữu. Dịch: Hào 1, âm: Lót (vật gì) bằng cây cỏ mao trắng, không có lỗi. Theo Hệ tự thượng truyện Chương VIII, Khổng tử bàn về quẻ này: “Nếu đặt vật gì xuống đất cũng được rồi mà lại còn dùng cỏ mao trắng để lót thì còn sợ gì đổ bể nữa? Như vậy là rất cẩn thận”. 2. 九二: 枯楊生稊, 老夫得其女妻, 无不利. Cửu nhị: Khô dương sinh đề, lão phu đắc kì nữ thê, vô bất lợi. Dịch: Hào 2, dương : cây dương khô đâm rễ mới, đàn ông già cưới được vợ trẻ, không gì là không lợi. Giảng: Dương cương mà ở vị âm (hào 2), như vậy là cương mà có chút nhu, lại đắc trung. Nó thân cận với hào 1 âm, thế là cương nhu tương tế, bớt cứng đi, như cây khô mà đâm rễ mới, rồi cành là sẽ tươi tốt. Có thể ví với một người già cưới được vợ trẻ. . . 3. 九三: 棟橈, 凶. Cửu tam: Đống nạo, hung. Dịch: Hào ba, dương: cái cột cong xuống, xấu. Giảng: Hào 3 dương ở vị dương, thế là quá cương, định làm công việc lớn quá (thời Đại quá), quá cương thì cong xuống, gẫy, việc sẽ hỏng. Chúng ta để ý: Thoán từ nói về nghĩa toàn quẻ , nên dùng hai chữ “đống nạo” mà vẫn khen là tốt (lí do đã giảng ở trên). Còn Hào từ xét riêng ý nghĩa hào 3, chê là xấu, vì hào này quá cương, mặc dầu ứng với hào trên cùng (âm nhu), cũng không chịu để hào đó giúp mình. 4. 九四: 棟隆, 吉.有它, 吝. Cửu tứ: Đống long, cát. Hữu tha, lận. Dịch: Hào 4, dương : như cây cột lớn, vững , tốt. Nếu có ý nghĩa gì khác thì hối tiếc. Giảng: cũng là hào dương nhưng ở vị âm (4), vừa cương vừa nhu, như cái cột lớn vững đỡ nổi nhà. Ý nói làm được việc lớn, không lo thất bại. Nó lại ứng hợp với hào 1 âm, tiểu nhân ở dưới, như vậy e nó quá nhu chăng, cho nên Hào từ khuyên: chớ quyến luyến quá với 1, có ý nghĩ khác, mà đáng xấu đấy. 5. 九五: 枯楊生華, 老婦得其士夫, 无咎, 无譽. Cửu ngũ: Khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kì sĩ phu, vô cữu, vô dự. Dịch: Hào 5, dương : Cây dương khô ra hoa, bà già có chồng trai tráng, không chê cũng không khen. Giảng: Hào 5, dương cương, trung chính. Ở ngôi chí tôn, đáng lẽ làm được việc rất lớn, nhưng ở thời đại quá, thì quá cương, quá cương mà ở gần hào trên cùng, âm ở âm vị, là một người quá nhu, không giúp nhau được việc gì, cũng như cây dương đã khô mà ra hoa cuối mùa, sắp tiều tụy đến nơi rồi. Không khác gì bà già mà có chồng trai tráng, chẳng mong gì sinh đẻ nữa. Hào này khác với hào 2 ở chỗ hào 2 vừa cương vừa nhu, nên tốt, ví với cây dương khô đâm rễ mới; hào 5 thì quá cương, xấu, ví với cây dương khô, không dâm rễ mà ra hoa, nhựa sắp kiệt rồi. 6. 上六: 過涉, 滅頂, 凶, 无咎. Thượng lục: quá thiệp, diệt đính, hung, vô cữu. Dịch : Hào trên cùng, âm. Lội qua chỗ nước sâu, nước ngập đầu, xấu: nhưng không có lỗi. Giảng: Bản chất âm nhu, tài hèn mà ở vào cuối thời Đại quá muốn làm việc lớn thì rất nguy thân, như người lội chỗ nước sâu lút đầu. Nhưng làm công việc nguy hiểm đó để cứu đời, cho nên không gọi là có lỗi được. Hào này trỏ hạng người “sát thân di thành nhân” (tự hi sinh để làm nên điều nhân), đáng phục chớ không chê được. Tên quẻ là Đại quá (lớn quá), mà Hào từ lại ghét những người quá cương, (hào 3, 5) quá nhu như hào trên cùng tuy không có lỗi, nhưng cũng cho là xấu. Vây Kinh Dịch có ý trọng đức trung (vừa cương vừa nhu) hơn cả
PHÉP TÍNH LỤC THÚ Lục thú có 6 con, và mỗi con được động khởi vào ngày có hàng Can (Giáp, Ất…) thích hợp: Ngày: Giáp, ẤT khởi Thanh Long thuộc hành Mộc ở hào sơ (1) Bính, Đinh ‘’ Chu Tước ‘’ Hỏa ‘’ Mậu ‘’ Câu Trần ‘’ Thổ ‘’ Kỷ ‘’ Đằng Xà ‘’ Không chính vị ‘’ Canh Tân ‘’ Bạch Hổ ‘’ Kim ‘’ Nhâm Quý ‘’ Huyền Vũ ‘’ Thủy ‘’ 1/Thanh Long: Điềm lành, hỉ tín, hiền hòa 2/Chu Tước: Chim chóc, tin tức, văn thơ, văn chương 3/Câu Trần: Trì trệ, ù lì, điền thổ 4/Đằng Xà: Điển linh, nhanh nhẹn, quái dị 5/Bạch Hổ: Hung dữ, thô bạo, tang thương 6/Huyền Vũ: Mưu kế, đen tối, quỷ quái, ám muội LỤC THÚ CHỦ SỰ - Thanh Long: Động được sự vui mừng, mưu cầu việc chi đều được toại ý, thêm người thêm của, chủ được hanh thông. - Chu Tước: Động là văn thơ động. Chủ thất tài, khẩu thiệt, kẻ tiểu nhân. Có việc lo sợ, người nhà không hòa thuận, cãi cọ. - Câu Trần: Động chủ việc trì trệ, việc ruộng đất, hay có thị phi, làm việc gì cũng không xong. - Đằng Xà: Chủ việc, lo sợ, hay có quái mộng làm việc hay có ngăn trở hay sinh ra oán sợ, nên thủ tĩnh thì hơn. - Bạch Hổ: Động là triệu không lành. Chủ việc hiếu phục, sinh sản và bệnh hoạn. Ra ngoài làm việc đều không thành. Phòng việc trộm cắp tổn tài hoặc có tật ở chân – binh đao kim khí. - Huyền Vũ: Động chủ việc mất mát, nhà cửa phải chia lìa, phòng kẻ nhỏ có tai ách, có tiểu nhân oán ghét. ☯ Lưu ý: Lục thú để phụ thêm trong vài trường hợp cần thiết, để tìm thêm phạm vi tình lý chánh động nhằm làm cho sự luận đoán rõ hơn. Vì giá trị của Lục Thú không cao, lý giải chết nghĩa nên Dịch Lý Việt Nam chọn làm tài liệu không chính thức.
Lục thần trì Thế 1. Thanh long trì Thế: Là người từ bi hoà nhã. Người Thanh long khắc Thế là người đau khổ vì tửu sắc, đau lưng mỏi gối. 2. Chu tước trì Thế: Vượng mà sinh Thế thì nhất định về mặt văn thư có tin mừng. Tính nóng, gặp bệnh tật hay những điều rắc rối, là hay suy nghĩ đau đầu. 3. Câu trần trì Thế: Là người chắc chắn, hành động chậm. Câu trần khắc Thế là chủ về tai nạn tù đầy, lòng phát buồn. 4. Phi xà trì Thế: Là người hay nói suông, nhiều mưu kế, hay nghi ngờ, gặp bệnh hàn nhiệt hay mê sảng. 5. Bạch hổ trì Thế: Là người cứng cỏi dũng mãnh. Bạch hổ khắc thế là chủ về những việc làm sai trái, hay gặp những bệnh về phổi. 6. Huyền vũ trì Thế: Là trộm cướp mờ ám là người gian hùng. Khi gặp thần cát thì lành hay gặp các bệnh về hàn phong thấp. PHÚ LỤC THẦN TRÌ THẾ Thanh long trì Thế hỉ sự lai mừng Cầu chi đắc toại hữu bệnh tài Quân tử danh mưu tu đại lợi Thêm đinh tiến lộc bản mệnh yên Chu tước trì Thế chủ quan phi Tài lộc khứ lai sự bất tề Bệnh ngô kinh hoàng xung thổ địa Hôn nhân, giao dịch tổng nan thành Đằng xà trì Thế mộng hồn kinh Tứ thời quái mộng nhập môn đình Tài sự hợp thành nan xứng ý Chủ như thổ cựu khả đăng minh Bạch hổ trì Thế chảu lâm tang Thê tử di tôn bị huyết thương Trạch phá bất minh trùng hiếu phục Dưỡng tài súc vật tàng bất lương Huyền vũ trì Thế chủ thất tài Chủ ban tai hoạ nhập môn ai Nhược phát động hào ra tật bệnh Tiểu nhi ám động ám thương hoài Câu trần trì Thế chủ tai niên Quan tài bệnh tật khước lưu truyền Nhược khứ thử hào lâm thế thượng Điền trì thổ trạhc vọng tranh đoan PHÚ LỤC THẦN PHÁT ĐỘNG Thanh long nhập mộc tâm toan Nhập thuỷ thì tốt cầu quan lợi rầy Nhập hoả bất lợi chẳng hay Nhập thổ cách trở, bằng nay tiền tài Nhập kim bất lợi sinh thai Lâm cung thịnh vượng có thai trong mình Chu tước nhập hoả càng kinh Quan sự lửa cháy tụng đình can qua Nhập thổ khẩu thiệt gần xa Nhập kim hữu sự nên ta phải phòng Nhập mộc vạn sự hanh thông Nhập thuỷ **ng **ng thấy những hoạ ương Câu trần nhập thổ bất thường Bởi chưng đất cát ruộng nương thế nào? Nhập mộc động ở cây cao Nhập hoả Phụ động sơ hào huyết quang Nhập thuỷ khí huyết chẳng an Nhập kim liếu phục Huyên đường cho hay Đằng xà nhập thuỷ tai bay Lo cho tiểu tử tai bay mới là Nhập thổ mộng mị yêu tà Nhập mộc quái hiện xuất ra bên ngoài Nhập hoả bất lợi sinh tai Nhập kim có việc sớm mai phải phòng. Bạch hổ nhập kim có tang Nhập thuỷ hãi hùng tụng sự liên miên Nhập thổ mồ mả bình yên Nhập hoả lửa cháy lo phiền đến ngay Cửa nhà thức nhắc phòng ngay nó vào Huyền vũ nhập thuỷ sợ sao Phòng trộm lẻn vào mất của như không Nhập mộc vợ mình tai hung Nhập thổ hãi hùng ắt hẳn phải lo Nhập hoả thất vật hại to Nhập kim được của đem cho làm giầu.
Sau khi nạp giáp quẻ dịch, tìm được hào động, hào trì thế, một số bài phú như Toái kim phú, Thông huyền phú chỉ dẫn cách đoán khá chi tiết, sau đây là một đoạn tổng hợp: I- Trì thế các hào: * Phụ mẫu trì thế chủ thân lao ( Hào Phụ mẫu trì thế thì ta rất lao nhọc) Cầu tự thiếp chúng dã nan chiêu ( Cầu con, cầu thê thiếp rất khó nên ) Quan động Tài an nghi phó thí ( Nếu được hào Quan động, hào Tài an tịnh là cầu danh, Ứng cử được ) Tài diêu mưu lợi mạt tâm tiêu( Có hào Tài động thì mưu lợi chẳng nhọc lòng ) Chiếm thân Tài động vô hiền phụ (Chiếm thân mạng gặp hào Tài động là không được vợ hiền ) Hựu khũng khu khu thọ bất cao ( Lại còn sợ tuổi thọ không được hưởng lâu ) Lại nói thêm: Phụ mẫu trì thế Huynh đệ hòa, cháu con xa cách tật bệnh đa.Cầu quan ứng cử đều đặng tốt,Tử tôn dâm loạn phải lìa xa. * Tử hào trì thế sự vô ưu (Được hào Tử tôn trì thế thì mọi việc đều không sợ ưu phiền ) Cầu danh thiết kỵ tọa đương đầu ( Cầu danh rất kỵ Tử tôn trì thế hay phát động khắc hào Quan ) Tỵ lọan hứa an thất khả đắc ( Chạy lọan chắc bình an, không lo hư hao,thất thoát ) Quan tụng tùng kim tiện liễu hưu ( Quan sự, tố tụng không hề gì, có lẽ xong ) Hữu vô sanh vô khắc chư ban kiết ( Được sanh mà không bị khắc, thì muôn việc đều tốt ) Hữu khắc vô sanh phản kiến sầu ( Còn bị khắc mà không được sanh thì sẽ thấy sự buồn rầu ) Lại nói thêm: Tử hào trì thế sự vô ưu,Quan quỉ tùng lai tiện liễu hưu. Tài vật thử thời ưng dĩ đắc,Thanh minh đắc sự hữu lai du. * Quỷ hào trì thế sự nan an ( Gặp hào Quỉ trì thế thì sự việc khó bình yên) Chiếm thân bất bệnh dã tao quan (Xem cho bản thân nếu không bị bệnh thì cũng bị rắc rối đến việc quan) Tài vật thời thời u thất thóat (Xem tài vật thì phải lo đến việc ám muội, mất thoát ) Công danh tối hỷ thế đương quyền (Chỉ có cầu công danh thì lại rất vui mừng khi thế được đương quyền vượng, tướng ) Nhập mộ sầu nghi vô tán nhật ( Nếu bị nhập mộ thì sẽ bị trì trệ, u sầu không thấy có ngày vui) Phùng xung chuyển họa biến thành hoan (Gặp vậy phải chờ ngày tháng xung khai mộ thì mới chuyển họa trở thành hân hoan vui vẻ được). Lại nói thêm: Quan quỉ trì thế mạng gian nan, chiếm thân tật bệnh dã tao quan. Huynh đệ xa cách đều chẳng tốt, gia đạo Phụ mẫu đắc thọ tràng. * Tài hào trì thế ích tài vinh (Được hào tài trì thế thì tiền của đủ đầy ) Huynh nhược giao trùng bất khả phùng (Được như vậy thì không nên gặp hào huynh động khắc ) Cánh ngộ Tử tôn minh ám động (Gặp vậy thì phải có thêm hào Tử tôn minh động hay ám động đến ) Lợi thân, khắc phụ, tán văn phong (như vậy thì được lợi cho bản thân nhưng khắc Phụ mẫu, tin tức giấy tờ không được ) Động biến Huynh, Quan vạn sự hung (Tài trì thế mà phát động biến ra hào Huynh, hào Quan là vạn sự đều hung,xấu ) Lại nói thêm: Tài hào trì thế ích tài vinh,nhược vấn cầu tài sự xứng tình. Cầu quan đắc vị đặng thăng chức, Ông bà, Tổ phụ bịnh thình lình. * Huynh đệ trì thế mạt cầu tài ( Gặp hào Huynh đệ trì thế thì chớ có nói đến việc cầu tài ) Quan hưng tu lự họa tương lai ( Nếu có hào Quan phát động thì tai họa sẽ đến ngay ) Châu tước tinh lâm phòng khẩu thiệt ( Như có Châu tước đeo vào thì phải phòng miệng lưỡi, thị phi đến ) Như diêu tất định tổn Thê tài ( Nếu hào Huynh phát động thì sẽ tổn thương đến thê thiếp, tiền tài) Phụ mẫu tương sanh thân hữu thọ (Nếu được hào Phụ mẫu động sanh Huynh thì được khỏe mạnh, sống lâu)Hóa Quan,hóa Quỉ hữu kỳ tai ( Nếu động hóa ra hào Quan quỉ thì sẽ gặp tai họa đến ) Lại nói thêm: Huynh đệ trì thế khắc thê tài, ưu quan vị liễu bất hoàn lai. Quỉ vượng chánh đăng, phòng khẩu thiệt.Thân trường đắc bệnh tổn kỳ tài. Nguồn Lý số II- Lục thân phát động quyết. PHỤ MẪU HÓA PHỤ MẪU LÀ TIẾN THẦN VĂN THƯ HÓA TỬ CHẲNG HẠI NGƯỜI HÓA QUAN QUỶ ĐỔI THAY ( THIÊN CỬ ) HÓA TÀI LO LẮNG DÀI VỀ NHÀ CỬA HÓA HUYENH LÀ TIẾT KHÍ TỬ TÔN HÓA THOÁI THẦN NGƯỜI VÀ TIỀN CHẲNG XỨNG LÒNG, HÓA PHỤ RUỘNG VƯỜN BẠC, HÓA TÀI ĐƯỢC THÊM VINH, HÓA QUỶ LO SINH SẢN --> Quan hóa Tiến Thần, cầu quan ứng, bệnh mau lành, hóa tài thì bệnh hung. Hóa Phụ thì văn thư được toại ý, hóa tử hại việc quan, hóa Huynh nhà cửa chẳng hòa thuận. --> Thê tài hóa Tiến Thần tài vào nhà, hóa quan thì lo lắng, hóa tử thì vui vẻ, hóa Phụ là gia trưởng, hóa Huynh phá tài. --> Huynh đệ hóa Thoát thần, xem thì chẳng gì kỵ. Hóa Phụ nô tì thiếp có hại, hóa Tài thì tiền toại ý, hóa Quan bị tai họa, hóa Tử thì như ý. Tiên quyết mọi sự khi các hào Phụ, Huynh, Quỉ, Tài, Tử phát động. * Hào Phụ: "Phụ động đương đầu khắc Tử tôn, Bệnh nhân vô dược chủ trầm hôn." Hào Phụ động thì hào Tử tôn sẽ bị khắc hại, do đó nếu xem bệnh hào Tử tôn vừa là thuốc điều trị cho người bệnh, vừa là phước đức của người bệnh mà bị khắc như vậy thì không có thuốc nào trị được và bệnh sẽ trầm trọng hơn. "Hôn nhân, tử tức ứng nan đắc, Mãi mại lao tâm lợi bất tồn." Xem hôn nhân, con cháu, sanh đẻ rất khó được, còn ra đi mua bán lao tâm, cực trí đã không lời mà còn bị lỗ vốn. "Chiếm vấn hành nhơn thơ tín động, Luận quan, hạ trạng lý tiên phân " Nếu hỏi người đi xa thì sẽ có tin tức, thư từ về. Xem quan sự, đơn từ, kiện tụng thì được. "Sĩ nhơn ứng cử đăng kim bảng, Thất vật, đào vong yếu tố luân." Học trò đi thi, người ra ứng cử thì sẽ đỗ đạt, còn xem mất đồ, chạy trốn, lánh nạn thì không được vậy. Phú Đại Diệc thiên cơ: “Toái Kim Phú phát động” “ Phụ mẫu giao(x)trùng(0)khắc tử tôn, Ngày đêm sầu não việc gia môn. Chạnh lòng chua xót sầu thôn, Nhớ con thương vợ dập dồn cho ta. Trong bụng lo ra ngoài nói quấy, Chẳng vui đâu tìm thấy những chuyện buồn. Bấy lâu thấy những sầu trông, Lo người lo của lòng buồn xót xa. Của tiền tựu tán thay là, Của vào thời ít của ra thời nhiều. Trâu bò tổn hại nhiều điều, Cửa nhà hư tệ cột kèo xiêu vênh. Não lòng đêm tính một mình, Cầu mưu bất toại cầu tình mĩa mai. --> Phụ động khắc Tử, khắc Tài, sanh Huynh, sanh Quỉ.” * Hào Tử tôn: "Tử hào phát động thương Quan quỉ Chiếm bệnh cầu y thân tiện thiên." Hào Tử tôn phát động là hào Quan quỉ sẽ bị khắc. Do đó nếu xem bệnh cầu thầy, cầu thuốc là tốt, bệnh giảm và hết. "Hành nhơn mãi mại thân khương thới Hôn nhân hỹ mỹ thị tiền duyên." Xem người đi xa, kinh doanh mua bán tốt. Xem hôn nhân, cưới gã cũng tốt, có nhân duyên tiền định. "Sản phụ đương sanh tử dị dưỡng Từ tụng tư hoà bất đào quan." Xem sanh đẻ, mẹ con đều bình yên, dễ nuôi đến lớn. Xem quan sự, kiện thưa thì nên hòa không nên đến cửa quan. "Yết quới cầu danh hưu tấn dụngPhiến quân thủ phận thích hồ thiên Thủ cựu thường chiếm khả tự nhiên." Xem cầu danh thi cử, xin gặp quan quyền. Bật quí nhân thì đừng tới. Xem việc quân, việc đánh nhau thì nên thủ không nên tiến và cứtheo sách lược cũ mà dùng. Phú Đại Diệc thiên cơ: “Tử hào phát động việc quan phi Dầu có tai nàn cũng xá chi Cửa nhà gia thất đều an ổn Chỉ hiềm phu phụ bất tề mi. Phụng loan chích cánh người Nam Bắc Vợ có thôi đi cưới lại rồi.Phước hào Nữ động lưỡng phu Không thời tái thú cưới đi hai lần. Bởi vì xa cách chiến tranh, Tiền căn duyên trước đành rành hai phan. Khỏi tai rồi lại phải nàn Đời sau mới được ổn an cửa nhà. Cách quê cách quán cho xa, Nữ nam cưới gã mẹ cha hai kỳ. Lao đau phải đến nhiều khi, Cầu tài đặng ít độ thì năm phân Cầu y, trị bệnh thiêng cần, Hôn nhân hội hiệp ái nhơn thuận hoà." --> Tử động khắc Phụ, khắc Quỷ, sanh Tài sanh Huynh. * Hào Quan quỉ: " Quan quỉ tùng lai khắc Huynh đệ Hôn nhân dị tựu sanh nghi trệ " Hào Quan quỉ phát động thì sẽ đến khắc hào Huynh đệ. Nên xem cho anh em thì không tốt, khắc thế là mình có nạn. Xem việc hôn nhân thì chưa xong bị ngăn cản, trở trệ khó thành. "Bịnh khốn môn đình hoạ khí lai Canh chưởng tằm tang giai bất lợi." Xem bệnh trong nhà sẽ có họa thình lình đưa đến,Xem trồng trọt, chăn nuôi gặp nhiều điều bất lợi. "Xuất ngoại đào vong định kiến tai Từ tụng quan phi tao tù hệ." Xem đi xa, tỵ nạn, trốn tránh là sẽ gặp tai họa. Xem kiện thưa, việc quan sự thì không đặng, phòng tù tội. "Mải mại tài khinh đổ bác du Thất vật nan tầm đa ám muội." Xem mua bán thì không lời, xem cờ bạc, ăn thua thì thua lỗ. Xem mất đồ, tìm vật còn nhiều điều mờ ám nên khó tìm. Phú Đại Diệc thiên cơ: "Quan quỉ giao(x) trùng(0) khắc huynh đệ, Thương người thương vật hại cho mình. Không tai, không mất thời sanh bịnh, Khẩu thiệt quan tư xử tụng đình. Chẳng vậy thời lo trong cốt nhục, Giữ phần huynh đệ chị cùng em. Anh em lòng thật chí thành, Việc chi cũng vậy sao đành mày châu? Mới ra sanh sự buồn sầu, Chuyện người mang lấy làm âu thân mình. Công tư khẩu thiệt tụng tranh, Xin mời xem tiếp kỳ sau... Họa tai dồn dập cho mình nghĩ sao? Phòng trung mộng mị chiêm bao, Hình ma bóng quỉ ghẹo trêu dị thường. Xem cầu tật bệnh bất lương, Tà thần hoạn họa môn đường hậu lai. Hôn nhân kẻ đúng người sai, Nghi nan trở trệ e rằng đổi thay. Cầu mưu vạn sự ra bày, Đem vào trắc trở làm chi cho thành. Đào vong viễn xứ khổ cần, Hành nhơn còn đó chớ mong tin về." --> Quỉ động khắc Huynh, khắc Tử, sanh Tài, sanh Phụ. * Hào Huynh đệ: "Huynh đệ đồng nhơn khắc liễu tài Bịnh nhơn nan dũ vị ly tai" Hào Huynh đệ động là hào Tài sẽ bị khắc và mọi sự xấu nhiều tốt ít. Xem bệnh thì khó hết, chưa hết nạn tai "Ứng cử đoạt tiêu vi kỵ khách Quan phi âm tặc hao tiền tài" Ứng cử, thi cử cũng được nhưng kỵ bị hào Huynh động khắc. Xem tài lợi thì bị quan sự, đạo tặc làm hư hao, thất thoát tiền tài. "Nhược đới kiết thần vi hữu trợ Xuất lộ hành nhơn thân vị lai" Nếu được kiết thần lâm thì sẽ được người giúp. Xem xuất hành, xem người đi xa là chưa thể đi và về được. "Hoà vật kinh thương tiêu chiếc bổn Mãi tỳ cầu thiếp sự bất hài" Xem mua bán hàng hóa là sẽ bị lỗ, thâm hụt vốn. Thuê người làm, cầu việc thê thiếp thì trong bụng không được hài lòng. Phú Đại Diệc thiên cơ: "Huynh đệ giao(x) trùng(0) khắc thê tài, Môn phòng thiết kị hữu nguy tai. Vợ chồng xung khắc phân Nam-Bắc, Cốt nhục tình thâm tiễn biệt ly. Khẩu thiệt thiếp thê liên miên bị, Tiền tài hao tốn lại sầu bi. Huynh hào phát động làm sao, Khắc trong vận mạng buồn đau lụy phiền. Môn đình tai hoạ triền miên, Cửa nhà lăn lóc vợ hiền bệnh đau Bằng không khẩu thiệt lau xao, Bắc-Đông chằng chịch kéo vào vu oan Hoặc tài thất thoát đa đoan, Thương người nhớ bạn ngày ngày tháng qua. Cầu tài mãi vật bôn ba, Không lời mà lại về nhà tay không. Người đi biền biệt tiếng tăm, Hẹn ngày trông đợi mà không tin về. Sỉ nhơn khoa cử đua nghề, Khoa thi chẳng đỗ trở về phiền ưu. Cầu quan thăng chức êm ru Hỏi rằng phú quới có đâu được bền." --> Huynh động, khắc tài, khắc Quỉ, sanh Phụ, sanh tử * Hào Tài: "Tài hào phát động khắc văn thơ Ứng cử cầu danh tổng thị hư" Hào Tài phát động thì sẽ đến khắc hào Phụ mẫu. Xem thi cử, ứng cử, cầu danh tóm lại là hư hao chớ không được "Tường bổn kinh dinh di đại kiết Nhân thân như ý lạc vô ngu" Lập nghiệp, đầu tư, giao dịch, mua bán làm ăn rất tốt. Xem về nhân thân, thông gia đều vui vẻ, không lo ngại. "Hành nhơn tại ngoại thân dục động Sản phụ cầu thần diệt phát trừ" Xem người đi xa ở ngoài hiện chuẩn bị đi về. Xem sanh đẻ cầu nguyện thì mới sanh dễ. "Thất vật trịnh an gia vị xuất Bịnh nhân thương vị, tiện thương tỳ." Xem mất đồ vật hiện còn tại chỗ chưa ra khỏi nhà. Xem bệnh là do đau bao tử dẫn đến bệnh cả hệ tiêu hóa. Phú Đại Diệc thiên cơ: “Tài hào phát động khắc cô gia, Sầu não đêm ngày nhớ mẹ cha, Quạnh quẻ trung đường khuya sớm cách, Là đà cành quế bóng nguyệt tà. Dầu chẳng phân từơng đau hay bịnh, Đoán rằng trong số mẹ cùng cha. Trung đường sớm cách non xa, Thường hay bệnh vặt rầy rà cố hương, Mồ phần Tổ phụ vấn vương, Điền viên hoan phế tha hương xứ người. Anh em cách trở đôi nơi Thê tài khốn khổ đổi dời thôn hương. Ròng ròng nước mắt thêm thương, Phần vì cha mẹ gia đường tuổi cao. Phần lo phận sự lao đao, Cầu mưu bất tọai phương nào hỏi ai!" --> Tài động khắc phụ, khắc huynh, sanh tử, sanh quỹ. III- Lục thân biến hóa quyết. Tiên quyết mọi sự khi các hào Phụ, Huynh, Quan,Tài, Tử động biến hóa ra. * Phụ hóa - Phụ hóa Phụ hề văn bất thiệt. Phụ hóa thối thần giấy tờ, văn tự, tin tức không thật. Hóa tấn thần thì mới có được. Xem gia trạch có 2 người ở chung; ứng cử thì gian nan, việc không phải 1 lần mà được. - Phụ hóa Tử hề nghi thối tàn. Phụ hóa Tử con cái đau bịnh nhẹ, sự việc nên rút lui, phòng đau bệnh. Trông tin người ở xa là có tin. Xem hung sự thì việc dữ sẽ hóa ra lành vậy. - Phụ hóa Tài hề giao dịch lợi. Người lớn tuổi xem cầu sự là không tốt, bán nhà, đổi nhà, thay đổi công việc làm ăn. Có lợi cho việc giao tế, giao dịch, làm ăn càng cực thì càng được khá vậy. - Phụ hóa Quan hề gia tổn thất. Xem nhà cửa là bị hư hao, bị đuổi nhà, đổi chổ ở, xem tài lợi thìthất tài, xem cầu quan là có thể được lên chức. - Phụ hóa Huynh . Là chủ sự không thật, bị khẩu thiệt, chủ việc giúp người mà không được hoàn trả. Xem tài thì có tài nhỏ. - Như vô Phụ mẫu sự vô đầu, cánh tại hưu tù hao phí lực. Nhược bị Nhật thương bất tất chủ gia đình hưng vượng. Xem mọi sự mà quẻ không có hào Phụ mẫu là sự việc không có đầu mối. Còn được có mà bị hưu tù, thì đừng ra sức, tổn công. Còn bị Nhật thần gây thương tổn thì chủ gia đình không thể khá giả được vậy. * Tử hóa - Tử hóa Tử hề ám tiểu hung, Cử tụng hưng quan lý bất đồng. Tử tôn hóa thối thần việc ám muội, nhơn tài không vừa ý. Hóa tấn thì cầu tài được phát.Còn lại, xem ứng cử, khoa thi, kiện tụng, quan sự thì lý sự bất đồng, quan không ngay thẳng. - Tử hóa Quan hề phòng hoạn họa, Chiếm bệnh u si tận bất trung. Tử tôn hóa Quỉ xem con đang bị tai nạn bệnh tật là sẽ chết. Xem sanh sản thì gặp đau bệnh, ưu phiền. Thưa kiện được. Đàn bà xem phòng nạn thôi chồng, xem bệnh e bị uống nhằm thuốc, lầm thầy mà giết bệnh vậy. - Tử hóa Phụ hề phòng sản phụ, Vô trung sanh hữu đa đầu chữ. Xem sanh sản phòng con bị chết do sản ách,hoặc hư thai. Đàn bà xem phòng chồng chết, con bị thương, làm ruộng rẩy bị thất bại, sự việc đang có nhiều đầu mối. Còn hào Quỉ trì thế hóa Tử tôn là bị con cái ngỗ nghịch. - Tử hóa Huynh hề sự bất chuyên, Thác trá nhân tình si mạc khứ. Xem dụng thần Tử tôn thì được giúp đỡ, xem sự việc thì không tròn, nhơn tình bị lừa dối, lời nói không thật với mình. - Tử hóa Quan hề thê chiếm phu chủ tăng đạo, ni sư. Tử hóa Tài hề vinh quang bội. Đàn bà xem chồng là tăng đạo, đàn ông xem vợ là ni sư. Xem tài vận thì tài sắp đến nhiều không sai. Còn gặp Tử tôn hóa ra nguyệt phá là chủ con ăn trộm, cướp, quậy phá ngổ nghịch chi tử vậy. * Quan hóa - Quan hóa Quan hề bịnh vị an, Kiến quí cầu quan sự tận nan. Quan hóa tấn thần là có lộc quan. Kiến quí, cầu quan đều được tốt. Xem bệnh mới đau là do bệnh cũ trở lại nặng, cuối cùng bị phản phúc. - Quan hóa văn thư quan dị thuận. Giao gia tranh cảnh quỉ tương tàn. Xem trông tin tức, thư từ thì sẽ có tin, vui. Xem thưa kiện, quan sự còn kéo dài, chưa được, chưa xong. Xem tranh đấu, ăn thua thì chưa được, không an ổn. - Quan hóa Tử hề ưu tự trừ, Đương chiếm tiểu khẩu tất tu qui. Nếu dân thường gặp Quan hào trì thế hóa Tử tôn trở lại khắc quỉ thì việc trước xấu nhưng sau được tốt. Xem con đau bệnh có bị hung cũng biến thành kiết. Người tự xem bị đau bịnh. Cha mẹ xem con bị thương, chồng bị bắt. Còn lâm không thì chồng chết. Có Đằng xà ngoại quái động khắc thế, khắc dụng thì sẽ bị thương. Đàn ông xem bị mất việc, thất nghiệp. đàn bà xem có nguy cơ bị thôi chồng, chồng chết. Phòng bị dèm pha nguy hiểm. Còn cầu việc lành vì lo sợ, nguy hiểm, hoạn nạn đến thì cho dù đang gặp nguy nan thì cũng được mừng thoát hiểm. - Quan hóa Huynh hề bằng hữu trá, Thê thác nhơn tâm bất tự thơ. Xem cho anh em, bè bạn là họ có nạn, hoặc bị họ dối trá, lường gạt chiếm đoạt của mình. Đàn bà xem bị bạn bè giựt chồng mình. Đàn ông xem sợ vợ sẽ thay lòng, đổi dạ. Xem anh em trong nhà nghịch nhau. Xem bệnh là bị bệnh ói mửa. Cò xem mọi sự gặp Quan quỉ khắc thế thì không gặp tai thì cũng gặp họa vậy. - Quan hóa Tài hề tự đắc, đỗ bác tụ chiếm khước. Xem đàn ông thì có vợ, cầu tài thì được, làm việc quá sức sẽ bị đau, xem cờ bạc thắng thua thì sẽ bị lận. - Chủ du quái vô Quỉ hưu mưu sự, Quan duyên bất kiến sự vô hại. Từ xưa xem quan dụng hào Quan quỉ, còn xem bệnh, trộm…thì phải có hào Quan mới rõ được. Như xem tỵ loạn, lo âu sợ sệt thì vô Quan mới tốt. Còn xem mưu sự mà vô Quỉ thì đừng mưu tính đến việc gì; xem hư hao, tổn thất mà vô Quỉ thì mới không bị hư hao. * Huynh hóa - Huynh hóa Huynh hề gia bất túc. Xem sự việc thì có trở ngại, khó thành, việc nhà thiếu thốn, không đầy đủ. Hóa tiến thần xem lợi ích thì sẽ hao tốn của ta, hóa thối thần xem cho anh em có nạn sẽ đặng yên. Thường xem mọi sự gặp Huynh hóa thối là không kỵ. - Huynh hóa Tài hề tài phản phúc, Chiếm thân phùng thối. Xem cầu tài là bị phản phúc, nhưng nếu hào Huynh đệ trì thế động hóa Tài thì lại được, có người giúp. Cầu bổn mạng là bị suy sụp, xem vợ là thôi vợ vậy. - Huynh hóa Huynh hề hưu hạ trạng, Chiếm bịnh cầu y nan tu kiến khóc. Xem làm đơn kiện cáo là gặp hung sự. Xem cho anh em là có bệnh, có nạn, có tang. Xem cho mình thì bị đau bịnh, bạn bè giựt chồng mình. Xem bịnh đau là không có thuốc trị, tang tóc sẽ đến vậy. - Huynh tác văn thơ hòa giải cầu, Nhơn tình hậu hỷ chủ vô ưu. Xem kiện thưa có giấy tờ hòa giải, xem vợ con có rắc rối, vợ đau, hao tài. Xem việc hôn nhơn thì được tốt, không lo phiền điều gì. - Huynh hóa Tử hề ưu khả táng, quan sự thối. Nhược vọng hành nhơn tính hữu đầu. Xem việc lo lắng, trở ngại thì sẽ được tiêu tan, việc quan sự thì không được vậy. Mong người bên ngoài là có thư tín đến, xem công việc thì có người giúp đỡ, có lợi, vừa ý muốn, mọi việc tiền tài cũng đều tốt đẹp. * Tài hóa - Tài hóa Tài hề phụ chủ tài, Tài hóa tiến thần tài nhập trạch.Đàn bà xem là mắc tai nạn, chồng có tư tình cùng người khác. Hóa tiến thần là có tiền của đến nhà vui vẻ. - Tài hóa Tử hề hảo vọng tài. Cầu tài lợi muốn là được. Đàn ông xem vợ là người vợ có con riêng. Còn Tài động sanh thế là chủ có được người vợ giữ trọn tam tòng tứ đức được mọi người ngợi khen. - Tài hóa Quỉ hề phòng tổn thất. Đề phòng mất của, đàn bà có nhân tình. Xem gia trạch thì trong nhà lộn xộn, xem tài lợi thì không có, lâm không vong thì vợ bị bịnh đau. Còn Tài phục hào Quỉ là hưởng của ông bà bên ngọai. - Tài hóa Phụ văn thơ dụng khả giai. Nếu trong tin thì có chắc. Đàn ông xem vợ khắc cùng cha mẹ, vợ bỏ về nhà cha mẹ, có sắm của nên nhà, hay muốn có của phải chịu bền gian nan, có hưởng của bên nội. Xem cho cha mẹ thì cha mẹ chết - Tài hóa Huynh tài thiểu thành. Cầu tài không tụ nếu có cũng rất ít. Phòng anh em bè bạn gian tà lường gạt. Cầu của anh em thì được.Còn Tài Tử trì thế xem chung thân thường là được thừa hưởng của. - Tài hóa Tử hề nghi thủ cựu, Thác dụng nhơn tình bất nhất tâm. Xem mưu sự, giao dịch phải nên đi theo lối cũ có lợi không nên thay đổi. Mình đối với họ cũng không được thật lòng. QUYẾT VỀ THẾ ỨNG SINH KHẮC KHÔNG VONG: - Thế ứng tương sinh tất cát - Thế ứng tương khắc tất hung - Thế ứng tỵ hòa thì bình thường, mưu sự có thể được - Ứng động người khác thay đổi - Ứng không, ý người khác khó động - Thế không, thế động tâm ta thay đổi, không muốn làm. "HẾT"
Chương 15b: TỨ THỜI VƯỢNG TƯỚNG - Tháng Giêng, Dần là Nguyệt Kiến, Dần Mộc vượng, Mão Mộc kế đó. - Tháng Hai, Mão là Nguyệt Kiến, Mão Mộc vượng, Dần Mộc kế đó. - Tháng Giêng tháng Hai, Mộc vượng, Hỏa Tướng. Kỳ dư Kim Thuỷ Thổ đều là Hưu Tù. - Tháng Ba, Thìn là Nguyệt Kiến, Thìn Thổ vượng, Sửu Mùi Thổ kế đó. Kim nhờ Thổ sinh, thì Kim tướng. Mộc tuy chẳng vượng, cũng còn dư khí. Kỳ dư các hành khác đều là hưu tù. - Tháng Tư, Tỵ là Nguyệt Kiến, Tỵ Hỏa vượng, Ngọ Hỏa kế đó. - Tháng Năm, Ngọ là Nguyệt Kiến, Ngọ Hỏa vượng, Tỵ Hỏa kế đó. - Tháng Tư tháng Năm, Hỏa vượng; Hỏa sinh Thổ thì Thổ tướng. Kỳ dư các hành khác đều là hưu tù. - Tháng 6, Mùi là Nguyệt Kiến, Thổ vượng, Thìn Tuất Thổ kế đó. Thổ sinh Kim, Kim là tướng. Hỏa tuy suy, cũng còn dư khí. Kỳ dư các hành khác đều là hưu tù. - Tháng Bảy, Thân là Nguyệt Kiến, Thân Kim vượng, Dậu Kim kế đó. - Tháng Tám, Dậu là Nguyệt kiến, Dậu Kim vượng, Thân Kim kế đó. - Tháng Bảy tháng Tám, Kim vượng; Kim sinh Thủy thì Thủy tướng. Kỳ dư các hành khác đều là hưu tù. - Tháng Chín, Tuất là Nguyệt Kiến, Tuất Thổ vượng, Sửu Mùi kế đó. Thổ sinh Kim thì Kim tướng. Kỳ dư các hành khác đều là hưu tù. - Tháng Mười, Hợi là Nguyệt Kiến, Hợi Thủy vượng, Tý Thủy kế đó. - Tháng Mười Một, Tý là nguyệt Kiến, Tý Thủy vượng, Hợi là kế đó. - Tháng Mười tháng Mười Một, Thủy vượng; Thủy sinh Mộc thì Mộc tướng. Kỳ dư các hành khác đều hưu tù. - Tháng Mười Hai, Sửu là Nguyệt Kiến, Sửu Thổ vượng, Thìn Tuất Thổ kế đó. Thổ sinh Kim thì Kim tướng. Thủy tuy suy, mà còn có khí. Kỳ dư đều là hưu tù. Chương 16: NGUYỆT TƯỚNG Nguyệt Tướng, tức là Nguyệt Kiến lại là Nguyệt Lệnh. Nó nắm quyền trong một tháng, tư lệnh trọn ba tuần (1 Tuần=10 ngày; 3 Tuần=30 ngày). Trong một tháng 30 ngày nó đương quyền đắc lệnh. Nguyệt Kiến nắm mối chánh của muôn việc bói, nó xét dữ lành hết cả 6 hào, hay trợ quẻ hào nào suy nhược, hay bớt hào tượng nào vượng cường, chế phục hào nào động biến, phò khởi Phi Thần, Phục Thần ra hữu dụng. Nguyệt Tướng là chủ soái cầm quyền, muôn việc bói đều lấy nó làm cương lĩnh. Hào này suy nhược, thì nó hay sinh, hợp, tỷ, củng, phò, nên suy mà cũng ra vượng. Hào cường vượng, thì nó hay xung, khắc, hình, phá, nên vượng mà cũng ra suy. Trong quẻ có biến hào khắc chế động hào, thì Nguyệt Kiến hay chế phục biến hào. Trong quẻ có động hào khắc chế tịnh hào, thì Nguyệt Kiến cũng hay khắc chế động hào. Dụng Thần phục tàng bị Phi Thần yểm trụ, thì Nguyệt Kiến xung khắc Phi Thần, sinh trợ Phục Thần, mới có thể dùng. Hào gặp Nguyệt Hợp mới hữu dụng, hào gặp Nguyệt Phá thì vô công. Nguyệt Kiến hợp với hào thì thành Nguyệt Hợp, đó là hào hữu dụng. Nguyệt Kiến xung với hào, thì thành Nguyệt Phá, đó là hào vô công. Nguyệt Kiến chẳng nhập hào cũng là hữu dụng, Nguyệt Kiến nhập hào rồi càng thấy cương cường. Quẻ không có Dụng Thần mà Nguyệt Kiến là Dụng Thần thì lấy Nguyệt Kiến làm Dụng Thần, chẳng cần phải tìm Phục Thần. Nguyệt Kiến nhập quẻ, động làm Nguyên Thần, tác phước còn lớn nữa, động mà làm Kỵ Thần, làm họa còn sâu nữa. Không nhập quẻ, thì còn huởn. Hào gặp Nguyệt Kiến và vượng tướng, phải gọi là gặp Không mà chẳng Không, gặp Thương mà chẳng hại. Người xưa có cái thuyết này, tôi thí nghiệm không ra vậy: "Ở trong Tuần rốt cuộc là Không". Như tháng Dần, ngày Canh Tuất, chiếm cầu tài, đặng quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu. --- Quan Tỵ Ứng - - Phụ Mùi --- Huynh Dậu --- Phụ Thìn Thế --- Tài Dần (Tuần Không) --- Tử Tý Đoán rằng: Dần Mộc Tài là Dụng Thần, hào Tài khắc Thế. Tài này sẽ đặng mà hiện giờ còn là Không. Phải chờ tới ngày Giáp Dần, ra khỏi Tuần Không mới là đặng Tài. Quả tới ngày Giáp Dần thì đặng. Nếu cho gặp Không chẳng Không, là sai. Nếu ở trong Tuần, thì còn Không Vong. Ra ngoài Tuần mới chẳng Không. Gặp Không chẳng Không, rốt rồi chẳng phải cái không đáo để (luôn luôn). Gặp Thương cũng thương, mà phải biết đợi chờ thời. Cho nên Dụng Thần gặp Không, đừng có chỉ mà nói là chẳng Không, rốt cuộc là Không. Nhưng cái Không này là cái Không ở trong Tuần hiện tại. Chờ ngày nào hết Tuần đó thì chẳng Không nữa. Làm Kỵ Thần, hiện ra thì gây họa. Làm Nguyên Thần, hiện ra thì tác phước. Chứ không phải là Chân Không của hưu tù, rốt cuộc là Không. Hào gặp Nguyệt Kiến là vượng, hoặc bị hào khác khắc thì gọi là gặp thương. Người chiếm bệnh, trước mắt không mạnh, người chiếm sự, trước mắt không thành. Hãy chờ đến ngày xung khử thương hào, thì hết bị thương nữa. Chừng đó bệnh sẽ mạnh, việc sẽ thành. Cho nên nói gặp thương cũng là thương, nên phải biết chờ thời. Như tháng Dậu, ngày Bính Dần, chiếm về yết kiến quý nhân. Đặng quẻ Sơn Phong Cổ, biến ra Sơn Thuỷ Mông. --- Huynh Dần Ứng - - Phụ Tý - - Tài Tuất --- Quan Dậu 0 è - - Tử Ngọ --- Phụ Hợi - - Tài Sửu Thế nhằm Nguyệt Kiến làm Quan Tinh, định sẽ gặp mặt, song bị Ngọ Hỏa hồi khắc. Phải chờ ngày Tí xung khử Ngọ Hỏa, mới là đặng bái kiến. Quả đắc kiến ngày Bính Tý. Cho nói nên: Gặp thương cũng thương, nhưng phải chờ thời mới được. Ngày Tuyệt, ngày xung, ngày khắc, phải coi ở chỗ khác có sinh phò, hóa Tuyệt, hóa Mộ, hóa khắc không. Lại còn sợ hào khác thêm chế khắc. Hào gặp Nguyệt Kiến, mà gặp Mộ ở ngày, cùng là Nhật Kiến xung khắc thì có thể chống lại, ra cảnh không cát không hung. Trường hợp gặp hào khác cũng động tương phò, thì thêm điềm cát. Chỉ có sợ hào khác đến chế khắc Dụng hào. Tuy gặp Nguyệt Kiến cũng là khó đương nổi. Như tháng Dần, ngày Bính Thân, chiếm coi làm quan có được thăng thưởng hay đổi đi? Đặng quẻ Cấn biến ra Sơn Lôi Di. --- Quan Dần Thế - - Tài Tý - - Huynh Tuât --- Tử Thân O è - - Huynh Thìn - - Phụ Ngọ - - Huynh Thìn X è --- Tài Tí Dần Mộc làm Quan tinh trì Thế, gặp Nguyệt Kiến nên vượng tướng. Tuy bị hào Thân xung khắc, mà mừng có Thân Tí Thìn hợp thành Thuỷ Cục để sinh Quan. Chẳng những vô hại, mà tháng 3 sẽ cao thăng. Quả tới tháng Thìn thì được nhậm chức. Rất ứng với lời bàn sẽ thăng, là Dụng hào nhờ Thuỷ Cục sinh phò. Ứng tháng Thìn Thổ ra ngoài Chân Không. Ứng thăng nhậm là vì Thế với Quan Tinh đều ở Tại hào 6. Lại như tháng Ngọ, ngày Đinh Mùi, chiếm cho biết em bị tụng sự cát hay hung. Đặng quẻ Khổn biến ra Lôi Phong Hằng. - - Phụ Mùi --- Huynh Dậu O è - - Huynh Thân --- Tử Hợi Ứng - - Quan Ngọ X è --- Huynh Dậu --- Phụ Thìn - - Tài Dần Thế Dậu Kim Huynh làm Dụng Thần, bị tháng Ngọ khắc. Nhờ ngày Mùi sinh, nó có thể chống lại được. Nhưng chẳng hợp là tại động hào Ngọ Hỏa tương khắc. Chính là chỗ nói "rất sợ hào khác thêm chế khắc". Họ hỏi: - Có hại lớn không? - Ngọ Hỏa là Nguyệt Kiến, động ở trong quẻ, đó gọi là "nhập quẻ", còn thêm cương cường. Lại cũng gọi là Nguyệt Kiến làm Kỵ Thần, gieo họa chẳng nhỏ, là cảnh đại hung. - Hung về lúc nào? - Huynh Dậu Kim hóa thoái thần. Năm nay năm Thìn, Thái Tuế tương hợp, thì chưa thấy hại, sợ thoái tới năm Thân thì cùng đường. Quả trong năm Thìn bị hạ ngục. Rồi tới năm Thân thì bị xử tử. Tiếp theo là nói về Dụng Thần lâm Nguyệt Kiến: - Thiên tượng cát, thì từ đây vận thái. Thiên tượng hung thì ngoài tháng mang tai. - Khắc ít, sinh nhiều, là thiên tượng cát. Khắc nhiều, sinh ít, là thiên tượng hung. - Thiên Tượng hung mà trong tháng hứa không ngại. Ra ngoài tháng thì bị họa ương. - Dụng Thần đặng nó, được phước không ít. Kỵ Thần đặng nó, gieo họa chẳng vừa. Đây là nói Dụng Thần trúng Nguyệt Kiến, mà không có hào khác khắc nó; phàm chiếm mọi việc đều kiết. Kỵ Thần trúng Nguyệt Kiến mà Dụng Thần hưu tù, là hết cứu, thì chiếm việc chi cũng hung. - Sinh phò Kỵ Thần là "trợ ác vi ngược". Khắc chế Nguyên Thần là "kiêu lộ đoạt lương" (chận đường đoạt lương). - Kỵ Thần khắc hại Dụng Thần, đặng Nguyệt Kiến khắc chế Kỵ Thần, thì gọi là hữu cứu. Trái lại, nếu Nguyệt Kiến sinh Kỵ Thần, thì là "trợ ác vi ngược". - Như Dụng Thần đặng Nguyên Thần sinh, Nguyệt Kiến lại sinh Nguyên Thần, thì cát mà thêm cát. - Trường hợp Nguyệt Kiến khắc chế Nguyên Thần, thì như "kiêu thần đoạt thực", cưỡng đoạt mất miếng ăn của nó vậy. - Vật cùng thì biến, khí mãn phải khuynh, (đồ đựng đầy quá thì phải tràn). - Dụng Thần đương suy, mà gặp thời lại phát, cũng như Dụng Thần gặp Hỏa chiếm mùa Đông thì không vượng, gọi là vật cùng thì biến. Lại như tháng Giêng chiếm quẻ, Dụng Thần trúng Dần Mộc Nguyệt Kiến, đó gọi là đại vượng. Nếu qua mùa Thu, lại gặp Thân xung khắc thì có gì không phá bại!? Cho nên gọi là khí mãn thì khuynh. Như tháng Dần, ngày Tân Dậu, chiếm khai trương. Đặng quẻ Cấn biến quẻ Minh Di. Cấn vi Sơn è Minh Di Quan Dần Mộc Thế O è - - Tử Dậu Kim Tài Tý Huynh Tuất Tử Thân Kim Ứng Phụ Ngọ Huynh Thìn Thổ X è --- Quỷ Mão Đoán rằng: - Hào Thế trúng Dần Mộc, đắc lệnh đương thời. Hiện giờ, khai trương thì sẽ được náo nhiệt. Nhưng hiềm vì Nhật Thần khắc Thế, Thế hóa hồi đầu khắc, sinh ít, khắc nhiều. Lại là quẻ lục xung, lục xung thì chẳng lâu. - Hoặc là do do kẻ hùn hạp chẳng đồng tâm, hay là có chuyện chi khác nữa? - Quỷ ở một bên mình, khá phòng tật bệnh. Người hùn vốn nhân dịp đó mới thay lòng đổi dạ, thì anh sẽ bị luỵ. Quả tới tháng Mùi, đau bệnh kiết. Tới tháng Dậu người hùn vốn lấy hết tiền. Có kiện cáo mà không lấy lại được một đồng. Ai dám nói đương thời vượng tướng không hại? Qua khỏi hồi đó, thì vẫn có hại. Ứng với tháng Mùi, là vì Mộc Mộ ở Mùi. Người hùn thay lòng đổi dạ, là ứng hào Thân Kim, mùa Thu đương lệnh nên xung khắc. Tài bị cướp hết là vì Tý Thủy Tài lạc Không Vong. - Gặp Tuyệt không Tuyệt, gặp xung không Tán, ngày sinh tháng khắc, coi luôn sinh phò; tháng sinh ngày khắc, xem luôn xung khắc. [Câu này tối quan trọng, hiếm người biết, hoặc chú ý. Học giả ráng nhớ kỹ.] Nguyệt tướng đương quyền, không thể nào suy tuyệt? Vượng tướng là cang cường, làm sao cho tán? Tháng khắc, ngày sinh, gặp sinh phò thì thêm vượng. Tháng sinh, ngày khắc, gặp chỗ khắc phá (làm giảm lực), rồi cũng suy. Như tháng Ngọ, ngày Mậu Thìn, chiếm em gái sẽ sinh sản được cát hung. Đặng quẻ Hỏa Địa Tấn. Hỏa Địa Tấn Quỷ Tỵ Phụ Mùi Huynh Dậu Thế Tài Mão Quỷ Tỵ Phụ Mùi Ứng Dậu Kim Huynh hào làm Dụng Thần. Nguyệt lệnh khắc nó, nhật kiến sinh nó. Hứa sẽ vô ngại. Ngày Mão hay giờ Mão chắc sinh. Quả tới ngày Tỵ giờ Mão thì sinh, mẹ con bình yên. Ứng giờ Mão, là vì Dậu Kim và ngày Thìn tương hợp. Huỳnh Kim Sách nói: "Nhược phùng hợp trụ, tất phải xung khai". Đó là tháng khắc, mà ngày sinh, không thêm khắc chế, sinh phò. Chương 17: NHẬT THẦN Tý thủy-Sửu Thổ-Dần Mộc-Thìn Thổ-Tị Hỏa-Ngọ Hỏa-Mùi Thổ-Thân Kim-Dậu Kim-Tuất Thổ-Hợi Thủy. Nhựt thần làm chủ tể 6 hào, coi về bốn mùa vượng tướng. Chương trước nói Nguyệt lênh, tư lệnh trong 3 tuần. Lệnh ở xuân thì sanh, lệnh ở Thu thì sát. Xuân, hạ, thu, đông, mỗi lệnh theo mùa. Nhựt thần chẳng phải vậy, bốn mùa đều vượng, cầm quyền sanh sát; công dụng đồng với Nguyệt Kiến. Xung tịnh hào được vượng tướng, tức là ám động. Xung tịnh hào đương suy nhược, tức là Nhựt phá. Hào vượng mà tịnh, xung nó tức Ám động, càng thêm lực lượng. Hào suy mà tịnh, xung nó tức là nhựt-phá, càng thêm vô dụng. Xung không thì khởi, xung hạp liền khai. Hào nào suy nhược, mà hay sanh phò củng hạp, như mưa làm tươi mạ. Hào nào cường vượng, mà hay khắc hại hình xung, tợ sương thu giết cỏ. Hào gặp tuần không, nhựt phá xung khởi, mới ra hữu dụng, gọi là “xung không tắc thực”. Hào gặp hạp trụ, nhựt kiến xung khai, gọi là “hạp xứ phùng xung”. Nhưng hung thần hạp trụ, mừng được gặp xung;kiết thần hạp trụ, chẳng nên gặp xung. Hào nào suy nhược, nhựt thần có thể sanh nó, vượng nó, hạp nó, đối với đồng loại thì giúp đỡ, phò trợ. Hào nào cường vượng, nhựt-thần có thể hình nó, xung nó, khắc nó, tuyệt nó, mộ nó. Hào vượng mà động, xung nó càng động. Hào suy mà động, xung nó thì nó tán. Có sách nói rằng: “Hào phùng Nguyệt kiến, nhựt xung nhi bất tán”. Đủ biết rỏ, hào đương lệnh, không sợ ngày xung. Còn luận về họa phước, chẳng cầu vượng tuớng hưu tù, đều cho là tán hết. Trọng tại chữ Tán. Nhưng tôi thí-nghiệm nhiều lần, không dè chẳng ứng với chữ Tán đó. Thần triệu cơ ở động, động thì phải ứng, lại không thấy tán. Hào vượng tướng, bị xung, lại thêm mạnh. Hào hưu tù, vô khí, họa may có tán, nhưng cũng là một phần trăm phần chỉ có một, hai. Gặp Nguyệt phá mà chẳng Phá, gặp xung khắc mà không hại. Hào nhằm Nhựt-kiến, tháng xung chẳng thể Phá, tháng khắc không bị Thương, bị động hào khắc cũng không hại , hóa hồi đầu khắc cũng như không, mạnh như thể là như núi, như thép, tợ như đồng quyền cùng Nguyệt kiến . Mặt nhựt lên cao giữa trời, là vượng tướng cùng cực. Sanh nhiều, khắc ít, cẩm thượng thiêm hoa. Sanh ít, khắc nhiều, quả bất địch chúng. Hào trúng nhựt-kiến, còn trong quẻ lại còn có hào động sanh phò thì như cẩm thượng thiêm hoa. Hào gặp nhựt sanh, mà nguyệt-kiến và động hào đồng lại khắc, tợ quả bất địch chúng. * Như tháng Dậu, ngày Mẹo, chiếm quẻ, hào gặp mẹo mộc, gọi là gặp phá mà không phá. Giả sử trong hào có động, biến ra thân dậu kim, hoặ mẹo hào động hóa ra thân dậu, gọi là quả bất địch chúng, phá cũng là phá;thương cũng là thương. Kỳ dư, cứ đó mà suy. Như tháng Thân, ngày Mậu ngọ, chiếm bịnh. Đặng quẻ Thiên Sơn Độn, biến ra quẻ Thiên Phong Cấu. --- Phụ Tuất --- Huynh Thân Ứng --- Quỷ Ngọ --- Huynh Thân - - Quỷ Ngọ hỏa X Thế ------Hợi Thủy, Tử - - Phụ Thìn Thế hào Ngọ hỏa trúng nhựt-thần, vốn chủ vượng tướng, chẳng nên có Thân kim Nguyệt kiến, sanh hợi thủy hồi đầu khắc Thế. Chết tại tháng Hợi. Lại như tháng Tị, ngày Đinh Hợi, chiếm coi đứa tớ ngày nào trở về. Đặng quẻ Quải biến Ly. - - Huynh Mùi Thổ X -----Huynh Tuất Thổ --- Tử Dậu Thế --- Tài Hợi --- Huynh Thìn Thổ O ------Huynh Sửu Thổ --- Quan Tài Ứng --- Tài Tí Hợi thủy Tài hào làm Dụng thần. Hợi là Nguyệt phá. Tuy gặp nhựt-kiến, phá mà chẳng phá. Nhưng lại gặp trùng thổ, động và thương khắc nó. Lời ngạn ngữ nói rằng: “Song quyền bất địch tứ thủ “, chẳng những khó mong đến ngày trở về, còn phải phòng sự bất trắc . Quả tới tháng Ngọ, ngày Mẹo, đặng tin cho hay rằng bị hại giữa đường. Nên coi chương này chung với Nguyệt kiến. Tổng chú: Vượng nó là tới ngày đó, hào được đế vượng. Tỉ nó là hào động với ngày, tháng. Phò nó, củng nó, nghĩa là: hào với ngày, tháng đồng loại (1) Mộ nó, Tuyệt nó, nghĩa là: tới ngày đó, hào bị Mộ, Tuyệt . -Lý Ngã Bình nóiịch cho hào trúng nhựt thần, không có cái chi làm tán nó được, làm không nó được, gọi là :gặp tán mà chẳng tán, gặp không mà chẳng không. -Nhưng hào động mà gặp ngày xung, gọi là:Tán Đã làm nhựt thần, đâu lại có nhựt thần đến xung nữa? Tuần Không là cái không ở trong Tuần. Đã là tuần-không, há đi có cái trúng nhựt thần sao? Cho nên biết sách như vậy là không đủ chứng. ----------------- (1)-Phò là đồng loại mà ở sau, như hợi phò tý, sửu phò thìn. Củng là đông loại mà ở trước, như tý củng hợi, thìn củng sửu. Trả Lời Với Trích Dẫn vothuong 05-12-2011, 12:50 AM Chương 18 : LỤC THẦN Lục thú: THANH LONG CHU TƯỚC CÂU TRẦN ĐẰNG XÀ BẠCH HỔ HUYỀN VÕ Ngày Giáp, Ất thì khởi Thanh Long Ngày Bính, Đinh khởi Chu Tước Ngày Mậu khởi Câu Trần Ngày Kỷ khởi Đằng Xà Ngày Canh Tân khởi Bạch Hổ Ngày Nhâm Quí khởi Huyền Võ Các sách không có sách nào chẳng có Thanh Long là Kiết, Bạch hổ là Hung. -Thiên Huyền Phù nói: “Thân vượng, long trì, đa kiết khảnh”. -Toái kim phú nói : “Long động gia hữu hỉ, hổ động gia hữu tang”. -Bốc phệ huyền qui nói: “Đằng xà, Bạch hổ ưu tôn trưởng”. -Bốc phệ đại toàn nói: “Úy hàm đao chi Bạch hổ, hỉ phó thủy chủ tang”. -Theo chương Duyệt áo, chiếm tật bịnh, Đằng xà chủ tử, Bạch hổ chủ tang. Đó đều là không theo lý ngũ hành, chỉ theo lục thần mà đoán sanh tử. Duy Thiên-kim phú nói : “Hổ hưng nhi ngộ kiết-thần, bất hại kỳ kiết. Long động nhi phung hung diệu, nan yểm kỳ hung”. Đó thiệt là chính lý. Vậy thì Lục-thần không có ứng nghiệm sao? Không phải. Ấy là thần phụ họa. Nếu quẻ tốt, mà còn gặp Thanh-long, thì càng thêm tốt. Nếu quẻ xấu mà còn gặp Bạch-hổ, Đằng-Xà, thì càng thêm hung. Còn Huyền Vũ chủ về đạo tặc, Châu Tước chủ về thị phi, chẳng cái nào không ứng nghiệm. Cho tới Gia Trạch phần Mộ không thiếu nó. Như ngày Mậu Tý, chiếm sanh sản, đặng quẻ Sơn Địa Bác biến quẻ Phong Địa Quan. Tước --- Tài Dần Long - - Tử Tí thủy Thế -----Quan Tị hỏa Võ - - Phụ Tuất Hổ - - Tài Mẹo Xà - - Quan Tị Ứng Trần - - Phụ Mùi Tý thủy Tử Tôn hóa Tuyệt, biến Quỉ. Nội ngày ấy sanh sản rồi chết. Ấy là Thanh Long nhằm Tử Tôn, cũng có thể gọi là hỉ chăng? Lại như tháng Thân, ngày Giáp Dần, chiêm bệnh cho anh. Đặng quẻ Truân hóa Chấn. Huyền - - Huynh Tí Hổ --- Quan Tuất Thổ O Ứng -----Phụ Thân Kim Xà - - Phụ Thân Kim X ----------Tài Ngọ Hỏa Câu - - Quỉ Thìn Tước - - Tử Dần Thế Long --- Huynh Tí Tý Thủy huynh hào làm Dụng thần. Trong quẻ, kị-thần, nguyên-thần đồng động. Thổ động sanh Thân Kim, Thân Kim động sanh Tí Thủy. Nguyệt kiến lại sanh Tí Thủy. Tới ngày Mậu thân, bịnh trầm mà chổi dậy, thì có thể nói : “Xà động chủ tử, Hổ động chủ tang” không? CHƯƠNG 19: LỤC HẠP Tý và Sửu hợp, Dần và Hợi hợp, Mẹo và Tuất hợp, Thìn và Dậu hợp, Tị và Thân hợp, Ngọ và Mùi hợp. Tương hạp có 6 phép: 1. Ngày, tháng hợp với hào. 2. Hào với hào hợp. 3. Hào động hóa hợp. 4. Quẻ trúng lục hợp. 5. Quẻ trúng lục xung biến ra lục hợp. 6. Quẻ lục hợp biến ra lục hợp. Ngày, tháng hợp với hào: Giả như tháng sửu, chiêm đặng quẻ Khảm, Thế hào Tí Thủy hợp với Nguyệt Kiến. Hào hợp với hào: Giả như chiêm đặng quẻ Thiên Địa Bỉ, Thế Ứng hai hào đều động, Mẹo với Tuất hợp. Nếu có một hào chẳng động thì không phải là hợp. Hào động hóa hợp: Giả như chiêm đặng quẻ Thiên Phong Cấu, Thế hào Sửu động hóa ra Tý Thủy, hợp với nhau. Quẻ gặp lục hợp: Như trong quẻ Thiên Địa Bỉ, 6 hào trong ngoài tương hợp. Không động cũng hợp. Lục xung biến lục hợp: Giả như chiêm đặng quẻ Càn Vi Thiên đó là Quẻ lục xung. Nếu ba hào ở quẻ ngoài đều động, ấy là quẻ Địa Thiên Thái, gọi là lục xung biến lục hợp. Quẻ lục hợp biến lục hợp: Tức là chiêm đặng quẻ Lữ, biến ra quẻ Bí. -Cái hào được hợp, đang tịnh mà gặp hợp, gọi là “hợp khởi”, đang động mà gặp hợp, gọi là “hợp bạn”. -Hào với hào hợp, gọi là hợp hão. -Hào động hóa hợp, gọi là hóa phò. -Hào tỉnh, hoặc hợp với ngày, tháng, động hào, đặng hợp mà khởi, dầu hào đó bị hưu tù, cũng có mầm vượng tướng. -Hào động, hoặc hợp với ngày, tháng, động hào thì gọi là động, gặp hợp thì bạn trụ(cột cứng), trái lại có ý không động được. -Hào động với hào động tương hợp, ấy là đặng họ đến tương hiệp với ta, có cái ý cùng ta hòa hỏa, tương trợ. -Hào động hóa ra hào hồi đầu tương hợp, gọi là hóa phò, có cái ý đặng người ta phò trợ. Phàm đặng những thứ hợp kể trên, mọi việc chiêm đều là tốt. Hễ chiêm danh, thì danh thành;hể chiêm lợi thì lợi đến, chiêm hôn thì thành, chiêm thân phát tích;chiêm trạch hưng vượng;chiêm phong thủy thì tụ khí, tàng phong;chiêm cầu mưu, toại tâm, hợp ý. Nhưng Dụng thần hữu khí mới nên dùng. Nếu thất hảm, thì vô ích. Sách bói nói: “Vạn sự nhược đắc tam lục hợp, chư sự tất đắc cửu viển, hửu thỉ hửu chung” ? Nhược kiết sự gặp nó chắc sẽ thành tựu, còn hung sự khó được kiết quả. *Như tháng Mùi, ngày Bính Tý, chiêm xuất môn, được quẻ Minh Di biến Tiểu Quá. - - Phụ Dậu - - Huynh Hợi - - Quan Sửu Thổ X Thế ------Tài Ngọ hỏa --- Huynh Hợi - - Quan Sửu --- Tử Mão Mộc O Ứng --------Quan Thìn thổ Thế động phá. Hợp trụ phải có sự bạn(việc ràng buộc), không thể ra đi. -Họ hỏi:việc chi trở ngại? -Tôi trả lời:Trong quẻ, tử động biến quỉ, phòng con cái không được bình yên. -Họ nói:chính vì đứa con gái nhỏ bị bịnh nhiều, bên nam thôi thúc thành hôn. Nay muốn đi ra ngoài, để kiếm cho đủ đồ trang sức, phấn son. -Tôi hỏi:Vậy chớ đau bịnh gì? -Họ nói:huyết khô thành lao. -Tôi nói: Mão mộc tử tôn, tới tháng Thân thì tuyệt, ngày Tí hình nó, thêm động biến ra Quỉ, e gả không kịp. Đến sau, vì bệnh trầm, người đó chưa kịp đi, thì con chết nhằm ngày Thìn. Ứng không đi được là Thế động mà gặp hợp. Còn con gái chết về ngày Thìn, vì lẽ Mão mộc Tử tôn biến ra Thìn thổ. Đó là chỗ ứng nghiệm của hào gặp hợp, quẻ gặp lục hợp. Tôi cũng có thí-nghiệm, được quẻ lục xung biến ra lục hợp: *Như tháng Mùi, ngày Đinh Tỵ, chiêm coi việc hôn nhân đã từ, mà có thành được không? Được quẻ Ly, biến ra Hỏa Sơn Lữ. --- Huynh Tị Thế - - Tử Mùi --- Tài Dậu --- Quỉ Hợi Ứng - - Tử Sửu --- Phụ Mẫu Mão Mộc O ------Tử Tôn Thìn Thổ Đoán rằng: Quẻ này xưa nay ít ai đoán là kiết. Nhờ kinh nghiệm nhiều lần, lục xung biến ra lục hợp, tán rồi mà tụ lại, lìa rồi sẽ hợp, nên đám hôn nhân này, nhứt định sau sẽ thành lại Quả sang năm, tháng 3, trở lại thành hôn. Các cái hợp đều lấy Dụng-thần vượng là kiết, chỉ có quẻ lục xung nầy biến ra lục hợp, chẳng coi Dụng thần, mà đoán theo lẽ kiết. Chiêm hôn nhân, thì trước, Ngô, Việt, sau lại Châu, trần. Chiêm phu phụ thì trước Sâm Thương, sau chắc hợp hảo. Chiêm công danh mới thì gian nan, sau được vinh hiển. Chiêm cầu mưu trước khó, sau dễ. Chiêm thân mạng , trước khốn đốn, sau yên ổn. Chiêm phong thủy sẽ gặp chỗ hết sức tốt. Chiêm gia trạch, trước suy sau vượng. *Quẻ lục hợp biến ra lục hợp: - Hào gặp lục hợp đã là điềm kiết, động mà biến ra lục hợp nữa, gọi là trước sau đều hợp cả. -Chiêm phong thủy, bá đợi trâm anh. Chiêm trạch-xá, thiên thu cơ nghiệp. Chiêm hôn nhân, ở với nhau tới già. Chiêm lỏa kế, Quản Bào, Lôi Trần. Chiêm công danh, hoạn lộ hanh thông. Chiêm tài bạch, tụ chứa như núi. Chiêm huynh đệ, nhiều đời ở chung. Nên hợp kiết, chẳng nên hợp hung. -Mọi việc chiêm, dụng-thần nhằm ngày, tháng, kiết còn thêm kiết. Duy chiêm về tụng ngục thì bất lợi, oan cừu khó giải. Cùng là chiêm ưu nghi, quái sự, rốt rồi cũng toại tâm. Chiêm dựng, thai an. Chiêm sản, khó sanh. Nếu dụng-thần còn bị khắc, là điềm hung hơn nữa. *Như tháng Mão, ngày Giáp Dần, chiêm phong thủy. Được quẻ Khôn biến ra Tiết. Võ - - Phụ Mùi Hổ --- Huynh Dậu Xà --- Tử Hợi Thủy O Ứng ------- Huynh Đệ Thân Kim Câu - - Quan Ngọ Tước --- Phụ Thìn Long - - Tài Dần Mộc X Thế ------- Quan Tị Hỏa Tôi nói:Chiếm phần mộ ông bà, chắc có duyên cớ gì? Từ ngày táng, cho tới bây giờ, có xảy ra việc chi không tốt ? cái chỗ nghĩ lo hôm nay, tại sao mà đến cầu hỏi ? Hãy nói rõ cho tôi nghe, thì tôi mới có thể quyết đoán. -Khách nói:Từ chôn cất cho đến bây giờ, đường công danh khốn đốn. Nay tuổi đã gần 50 rồi, mà cũng chưa có con cái. Bởi cớ, nên hỏi cho biết phần mộ này có trở ngại chi chăng? -Tôi trả lời: Long từ hữu mạch mà lại, thủy cũng do tả mà tới, bởi nguồn và giòng nước chẳng về chỗ vực sâu(qui tào). -Khách hỏi: Làm sao mà biết được? -Tôi trả lời: Hợi thủy Tử tôn, hóa Thân kim, sanh trở ngại nó. Thân là nguyên lưu, bị ngày Dần xung. Nếu biết sửa cho thủy về chỗ vực sâu, chẳng chạy ra bên ngoài, thì sang năm sẽ làm quan lại, tái bái đơn trì, năm Thân;định sanh con quí. -Họ hỏi:Có được lâu dài chăng? -Tôi nói:Lục hợp hóa lục hợp, vững bền muôn năm. *Tam hợp: -Thân Tí Thìn hợp thành Thủy cục -Tị Dậu Sửu hợp Kim cục -Dần Ngọ Tuất hợp Hỏa cục -Hợi Mão Mùi hợp Mộc cục Thứ Tam hợp này có 4 phép: 1. Trong một quẻ, có 1 hào động mà hợp cục 2. Nếu có 2 hào động, 1 hào chẳng động cũng thành hợp cục 3. Ở nội quái, hào 1 và hào 3 động, động mà hào biến ra thành tam hợp 4. Ở ngoại quái, hào 4 và hào 6 động, động mà hào biến ra thành tam hợp Nhưng Tam hợp có hung, có kiết. -Như chiêm công danh, hợp thành Quan cục, gọi là quan vượng;hợp thành Tài cục thì Tài vượng sanh Quan. Tháng hợp thành Tử tôn cục, là thần phá hại việc đương cầu. -Như chiêm cầu tài, hợp thành Tài cục, gọi là tài khố;hợp thành Huynh đệ cục, là phá tài, hao tài, là thần trở cách. -Như chiêm phần mộ, gia-trạch, thì hào Phụ mẫu phải hợp thành cục. -Như chiêm hôn nhân, phu phụ, phải có Tài Quan vượng và hợp cục. Phàm chiêm việc cầu mưu, các việc hỉ khánh, nên có thành cục, sẽ được vinh viễn bền chắc. Còn chiêm quan tụng, ưu nghi, mà gặp hợp cục, thì cả đời việc đó kết chắc thêm hoài, trong lòng khó mà giải hết. Nhưng trong hợp cục, phải có Thế hào mới tốt. Nếu không có Thế hào trong cục, thì cục phải sanh Thế hào mới kiết, cục khắc Thế hào là hung. -Ba hào mà có hai hào động, không thành cục, phải chờ sau bổ thêm thành cục, gọi là “hư tam đãi dụng”. -Một hào minh động, một hào ám động cũng gọi là hai hào động. -Trong tam hợp cục, có một cái không hay phá, thì chờ ngày, tháng điền thực cho thành cục. Phàm đặng danh lợi, hôn nhân, gia-trạch, phong thủy, mà dụng-thần được vượng, thì cầu chi cũng kiết. Thế hào ở trong cục mới quí. Nếu không có ở trong cục, thì cục phải sanh Thế hào mới kiết, khắc là hung. -Như chiêm tài, cục sanh Thế là lợi cho ta, còn Tài cục sanh ứng là lợi cho người. -Chiêm xuất hành, dụng-thần ở trong tam hợp thì ở lại. -Chiêm hành-nhân, dụng-thần ở trong tam hợp thì chẳng trông về. Lại cũng có quẻ trong, và quẻ ngoài thanh tam hợp, thì phải phân nội, ngoại. -Như chiêm gia-trạch, nếu ở ngoài trạch, chẳng nên ngoại quái khắc nội quái. Nếu ở nội trạch, chẳng nên nội trạch sanh ngoại. -Như chiêm hình thế hai bên: nội quái là ta, ngoại quái là họ. Ngoại quái hợp cục mà sanh nội quái là kiết, khắc nội quái là hung. *Như tháng Mão, ngày Đinh Tị, làng trên làng dưới nhân tranh điền thủy mà đánh đập nhau. Đăng quẻ Li, biến ra Khôn. Long---Huynh Tị O-----Tử Dậu Vũ - - Tử Mùi Hổ ---Tài Dậu O-----Tử Sửu Xà ---Quỉ Hợi O-----Phụ Mão Trần - -Tử Sửu Tước---Phụ Mão O-----Tử Mùi Đoán rằng: Nội quái là làng ta, Hợi Mão Mùi hợp thành Mộc cục. Ngoại quái là làng ngoài, Tị Dậu Sửu hợp thành Kim Cục. Kim đến khắc Mộc, nhưng may thay!Kim suy không khắc Mộc vượng, chẳng đủ sợ. Huống đây là quẻ lục xung biến lục xung, có người giải tán, sẽ không thành tụng. Sau có người khuyên, rồi bải. -Có kẻ hỏi: Hình của bên này, bên kia, phải lấy thế ứng làm chủ. Sao mà chẳng nói đến thế ứng. -Tôi trả lời: Nếu không hợp cục trong và ngoài, thì phải coi thế ứng. Nay hai làng, tức là ngoài và nội quái, dân chúng đồng tâm, hai bên hợp cục là diệu dụng của thần linh, ứng nghiệm rõ ràng. Cho nên bỏ thế ứng mà không dùng. Nếu không phải quẻ hóa lục xung, thì chẳng bao giờ không thành tụng. vothuong 05-12-2011, 12:51 AM CHƯƠNG 20 : LỤC XUNG Tí Ngọ xung, Sửu Mùi xung, Dần Thân xung, Mão Dậu xung, Thìn Tuất xung, Tị Hợi xung. Tương xung có 6 phép : 1. Nhật, Nguyệt xung hào 2. Quẻ gặp lục xung 3. Lục hợp biến lục xung 4. Lục xung biến lục xung 5. Động hào biến xung 6. Hào với hào xung Xung có nghĩa là tán (đánh tan). Phàm chiêm về hung sự, thì cầu cho xung tán. Chiêm về kiết sự thì không nên. Đây cũng là nói phải có dụng-thần trong đó. Dụng-thần vượng, tuy xung mà không ngại. Dụng-thần hãm, hung lại thêm hung. Quẻ lục xung biến ra lục xung, dụng-thần nếu vượng, mới kiết, sau hung. Tỉnh việc tuy thành, mà hữu thỉ vô chung. Hào xung có 5 phép: 1. Hào gặp Nguyệt xung là Nguyệt phá 2. Hào gặp Nhật xung là ám động (hào có khí) 3. Hưu tù mà gặp Nhật xung, gọi là Nhật phá 4. Động hào tự hóa hồi đầu xung, như gặp cừu địch 5. Hào gặp hào xung, gọi là tương kích *Như tháng Tị, ngày Mậu Tuất, chiêm tài, được quẻ Phong Lôi Ích. Tước --- Huynh Mão Ứng Long --- Tử Tị Vũ - - Tài Mùi Hổ - - Tài Thìn Xà - - Huynh Dần Trần --- Phụ Tí Thìn Thổ Tài hào trì Thế, vì gặp Tuần không. Tuất nhật xung không, Tài thực. Nội ngày liền có tài. *Lại như tháng Ngọ, ngày Bính Thìn, chiêm đi đổi chác ở xa, tài ra thế nào? Đặng Hằng ra Dự. - - Tài Tuất Ứng - - Quỉ Thân --- Tử Ngọ --- Quỉ Dậu Kim O Thế------Huynh Mão Mộc --- Phụ Hợi Thủy O --------Tử Tị Hỏa - - Tài Sửu Thế hào Dậu kim hóa Mão, tương xung. Đây là quẻ phản phúc. Này Bính Thìn lại hợp, trong xung có hợp(xung trung phùng hợp). Lại đặng Tuất thổ làm tài, ám-động sinh Thế. Tuy là phản phúc bất thường, mà có tài lợi. Quả người đó đi rồi trở về, 3 lần đổi hết đồ ở giữa đàng. -Trước nói: hào động hóa xung, như gặp cừu địch, đó la hóa hồi đầu khắc. Theo quẻ này, Thế hào là Dậu hóa Mão xung Thế, mà không khắc Thế. Lại đặng ngày Thìn xung động Tuất Tài sinh Thế, cho nên được kiết. *Lại như tháng Dậu, ngày Kỉ Mùi, chiêm cho biết con đi xa không về, sống hay chết thế nào. Đặng quẻ Khôn. - -Tử Dậu Thế - -Tài Hợi - -Huynh Sửu - -Quỉ Mão Ứng - -Phụ Tị - -Huynh Mùi Thế đồng với hào Tử tôn và nguyệt-kiến, ngày mùi sanh nó. Tuy là quẻ lục xung, đứa con này sẽ về. Quả năm Tý, tháng kiến-mão, con đắc ý trở về. Đó là chỗ ứng nghiêm về hào tịnh mà gặp xung. *Lại có tháng Sửu, ngày Giáp Dần, chiêm về việc rước thầy dạy con. Đặng Thiên Địa Bỉ, biến quẻ Càn: --- Phụ Tuất Ứng --- Huynh Thân --- Quan Ngọ - - Tài Mão Mộc X Thế------Phụ Thìn Thổ - - Quan Tị Hỏa -----------Tài Dần Mộc - - Phụ Mùi Thổ ----------Tử Tí Thủy Lấy Ứng làm dụng-thần. Thế Ứng tương hợp. Ứng gặp Tuất Phụ để sinh nó ra, có thể gọi là bảo học(học đủ điều). Chỉ hiềm vì quẻ biến lục xung, hợp mà biến xung, đó là triệu chứng không bền bỉ. -Khách hỏi: Tại cớ chi mà không lâu? -Tôi trả lời: Tý thủy, Tử tôn gặp tuần-không, trong quẻ Mùi thổ Phụ động, phòng Tử tôn tai biến. Sau hai tháng, quả người con bị bịnh, chẳng bao lâu bỏ mình. Phàm đặng lục hợp ra lục xung, mọi việc chiêm trước hợp, sau lìa, trước thân , sau sơ, trước trọng sau bạc, trước tươi sau héo, trước tốt sau trái ý, trước hanh sau bỉ, đặng đó mất đó, nên rồi lại hư, việc thành rồi mà biến đổi nữa. Duy chiêm quan, không phải đạo tặc, việc kiết tuyệt, mới là nên. *Như tháng Thân, ngày Ất Mão, cha con bảy người đều bị bắt tra vấn. Đặng quẻ Tốn biến Khôn. --- Huynh Mão O Thế------ Quỉ Dậu --- Tử Tị Hỏa O------------Phụ Mẫu Hợi Thủy - - Tài Mùi --- Quỉ Dậu Kim O Ứng------Huynh Đệ Mão Mộc --- Phụ Hợi Thủy O-------- Tử Tôn TÍ Hỏa - - Tài Sửu Đây là quẻ biến Mộc Tốn hóa ra Khôn Thổ, gọi là hóa khứ. Hóa khứ không khắc, thường không có hại. Chỉ vì Thế hào biến Quỉ, Mão mộc hóa Dậu kim, Mộc bị Kim khắc. Tị hỏa Tử tôn lại hóa Hợi thủy. Cha con 2 hào đều là bị thương. Lục xung biến xung là loạn. Hễ xung loạn thì cả nhà đều thọ hình. -Pháp chiêm đều cho quẻ xung là hợp với việc quan, ưa chỗ xung-tán, nhưng phải coi việc bói nhỏ lớn, lại nói đây là gồm luôn dụng-thần. Quẻ nầy, lục xung biến lục xung, cũng có thể gọi là việc quan gặp xung thì tán. CHƯƠNG 21: TAM HÌNH -Tam hình: Dần hình Tỵ, Tỵ hình Thân, Thân hình Dần Sửu hình Tuất, Tuất hình Mùi, Mùi hình Sửu -Nhị hình: Tý hình Mão, Mão hình Tý -Tự hình: Thìn, Ngọ, Dậu, Hợi Về tam hình tôi có thí-nghiệm nhiều phen. Nếu dụng-thần hưu tù, thêm bị hào khác khắc, mà trong đo còn phạm luôn hết tam hình, thì sẽ thấy sự hung theo bên mình. Nếu chỉ phạm riêng từng cái, không đủ tam hình, thì ít khi thấy ứng nghiệm. -Tôi chiêm quẻ trên mười năm, chỉ thấy có 1 quẻ ứng nghiệm. *Như tháng Dần, ngày Canh Thân, chiêm cho con mắc bệnh trái trời. Đặng quẻ Phong Hỏa Gia Nhân, biến ra quẻ Li. ---Huynh Mão ---Tử Tôn Tị Hỏa O Ứng --- Tài Mùi Thổ - -Tài Mùi Thổ X ---------- Quan Quỉ Dậu Kim ---Phụ Hợi - -Tài Sửu Thế ---Huynh Mão Đoán rằng:Chánh đương mùa xuân, Tị hỏa, Tử tôn vượng tướng, hứa sẽ trị lành. Sau chết ngày Dần, giờ Dần, mới biết Nguyệt kiến tại Dần, Nhật kiến tại Thân, hợp với Tị hào Tử tôn, thành tam hình Dần Tỵ Thân. Chỉ có 1 quẻ đó, không có hào khác khắc. Còn Tý, Mão, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, cũng là thấy ứng nghiệm, nhưng đều là phụ họa mà thành hung. LỤC HẠI toàn không có ứng nghiệm, nên bỏ ra. CHƯƠNG 22: ÁM-ĐỘNG Tịnh hào vượng tướng, bị nhật-thần xung, gọi là ám-động. Tịnh hào hưu tù, bị nhật-thần xung, gọi là nhật-phá. Ám động, có khi nên, mà cũng có khi cữ. Như dụng-thần hưu tù, đặng nguyên-thần bị ám-động đến tương sinh hay là kị-thần minh động ở trong quẻ, có nguyên-thần bị ám động mà sinh dụng-thần, thì gọi là nên(có chỗ mừng). Như dụng-thần hưu tù, không có chi trợ đở, nếu còn bị ki-thần ám-động khắc hại, thì gọi là cữ (có chỗ hại). -Người xưa cho ám-động là phước đến mà không biết, họa đến mà không hay. Lại nói:Ứng về sự kiết hung thì hưởn. Không phải luân như vậy. Có lục hào mà không biết, không hay? Báo ứng cũng không phải là hưởn. *Như tháng Dần, ngày Kỉ Mùi, chiêm cho con gái đau bệnh trái trời. Đặng quẻ Khôn ra Sư. - - Tử Dậu Kim Thế - - Tài Hợi - - Huynh Sửu - - Quỉ Mão Ứng - - Phụ Mẫu Tị Hỏa -----Huynh Đệ Thìn Thổ - - Huynh Mùi Dậu Kim Tử Tôn, gặp mùa xuân, bị hưu tù, mà có nhật-thần sinh nó. Hào thứ hai là Tị hỏa, động đi khắc kim. Có ngày Mùi xung động Sửu thổ. Hỏa động sanh thổ, thổ động sanh kim. Trái tuy nhiều, mà bệnh sẽ mạnh. -Khách nói: Hiện giờ tình hình rất nguy. -Tôi đáp: Không hại. Ngày nay, giờ Mùi, Thân có cứu tinh. Quả đến giờ Thân , gặp minh-y cứu trị , thì nào có phải là hưởn đâu? vothuong 05-12-2011, 12:53 AM CHƯƠNG 23: ĐỘNG TÁN Chiêm mà thấy nhật-thần xung động hào, gọi là xung tán. Lại hào động xung hào khác cũng là hay xung tán được. Tôi có thí-nghiệm nhiều lần. Hào vượng tướng mà bị xung thì nó không tán. Hào có khí, mà bị xung thì nó cũng không tán. Hào hưu tù có khi bị xung tán, mà cũng là trong cả trăm ngàn lần có một hai khi mà thôi. CHƯƠNG 24: QUẺ BIẾN SANH, KHẮC, MỘ, TUYỆT Quẻ biến ra có nhiều cách:biến sanh, biến khắc, biến mộ, biến tuyệt, biến tỉ hòa. Chổ tôi thí-nghiệm chắc là : phàm gặp quẻ hóa khắc, bất luận dụng-thần suy hay vượng, đều đoán theo lẽ hung. Quẻ Tốn Mộc biến Khảm Thủy, gọi là hóa sanh. Thủy hồi đầu để sanh Mộc, tức là đoán theo lẽ kiết. Quẻ Chấn Mộc biến ra quẻ Càn Kim, gọi là hóa khắc. Kim hồi đầu để khắc Mộc, tức là đoán theo lẽ hung. *Tháng Ngọ, ngày Tân Tị, có người đến mà không nói chuyện gì. Chiêm đặng quẻ Tốn, biến ra quẻ Càn. --- Huynh Mão Thế --- Tử Tị - - Mùi Tài X --------- Tử Ngọ --- Quỉ Dậu Ứng --- Phụ Hợi - - Tài Sửu X -------- Phụ Tí -Tôi hỏi: Vây chiếm về việc chi ? -Khách đáp: Bói giùm công danh cho trưởng bối (bực lớn hơn mình). -Tôi hỏi: Công danh thì phải tự chiếm cho mình. Chiếm giùm khó biết lấy gì làm dụng-thần, nên không dám đoán. Nhưng may, quẻ này rỏ ràng dễ thấy : Tốn mộc hóa Càn kim, tức la hóa lai (1) hồi đầu khắc, là tuyệt quái. Chẳng cần hỏi công danh, tuổi thọ cũng không được lâu. Quả tới tháng Ngọ, bị bãi chức;tháng 7 thì mất . (1)Hóa lai là hồi đầu khắc, có hại lớn. *Lại như tháng Ngọ, ngày Bính Dần, chiếm về bịnh. Đặng quẻ Li, biến quẻ Khảm. -Li hỏa biến Khảm thủy, hồi đầu lại khắc. Nhưng vì tháng Ngọ, hỏa vượng, hứa chắc mùa đông sẽ nguy. Quả người bệnh chết tháng 10, ngày Đinh Hợi. Đó là không coi dụng-thần suy vượng Lý-Ngã-Bình nói: Dịch vị trong chương mộ tuyệt nói rằng : Ngày tháng đương lệnh chẳng phải thiệt là không biết hung sự, thần động đã sớm báo cho biết tương lai. Ngày tháng đương thời, tuy vượng, qua thời đó thì phải hết sức . Cũng như trong thiên này, chiếm về bịnh, tháng Ngọ đặng quẻ Li, biến Khảm. Hiện thời, hỏa mùa hạ tuy đương cháy, tới mùa đông không là chẳng tuyệt sao? Dịch-vị, trong chương phản phúc nói rằng: “Nhật nguyệt tùng vãng tặc phi, không phá tùng vãng tặc trọng” . Lại nói: “Bán tùng vãng, bán tùng lai, bán hung, bán kiết”. Các thứ nghỉ nghị ấy đều là không phải do kinh nghiệm. Quái thế như căn bổn của người. Quẻ biến khắc tuyệt, như cây bị nhổ khỏi đất luôn cả rễ. Trước mắt, nhành lá tuy là thấy xanh tốt, mà có thể bảo thủ đừng hư mục chăng? Đương thời tuy vượng, hết lúc nầy thì suy. Không phá tuy là hư, gặp ngày tháng điền thực là hung. Trong cuốn Dịch-vị, chương phản phục, về khoảng chiếm nghiệm, tôi thấy rõ ràng là hào hồi đầu khắc, mà họ lầm cho là phản phúc hưu tù . *Như tháng Dần, ngày Quí Dậu, chiếm con trai lớn bịnh. Đặng quẻ Chấn, biến ra quẻ Đoài. - -Tài Tuất - - Mùi - -Quỉ Thân --- Dậu ---Tử Ngọ --- Hợi - -Tài Thìn - - Sửu - -Huynh Dần X --- Mão ---Phụ Tí --- Tị Đây không phải là Chấn Mộc hóa Đoài Kim, là hồi đầu khắc sao ? Hai quẻ nầy, rốt rồi không thấy chổ : Thổ gặp Mộc khắc, Mộc bị Kim thương. Cũng như lấy Chấn làm trưởng-nam, chiếm cho trưởng-tử, sở dĩ không được kiết. Sao lại không rỏ: Quẻ biến ra hồi đầu khắc, dầu có thiếu-nữ, cũng là khó giữ gìn. Nay lấy chỗ chiếm nghiệm, mà cho họ lầm lạc, không còn nói gì nữa được! CHƯƠNG 25: PHẢN-PHỤC -Quẻ thì có quẻ biến, hào thì có hào biến. -Quẻ biến là nội ngoại động, mà phản-phục trọn quẻ . Như quẻ Kiền biến ra quẻ Khôn. -Hào biến là nội ngoại động, mà phản-phục chẳng trọn quẻ ? Như quẻ Thăng biến ra quẻ Quan. -Lại có khi ngoại quái phản-phục, mà nội quái chẳng động. Như quẻ Quan lại biến ra quẻ Khôn. -Lại có khi nội quái phản-phục, mà ngoài quái chẳng động. Như quẻ Tốn biến ra quẻ Quan. *Quẻ trong phản-phục thì ở trong không an. Quẻ ngoài phản-phục thỉ ở ngoài không an. Trong ngoài đều phản-phục, là trong ngoài đều không an. Đó là chủ về thành mà bại, bại mà thành, có mà không, không mà có, mất mà đặng, đặng mà mất, lại rồi đi, đi rồi lại, tụ rồi tán, tán rồi tụ, động thì muốn tịnh, tịnh thì muốn động. -Chiếm công danh, dùng hào vượng, đổi chỗ mà lại đổi chỗ, thăng chức đi tới, rồi trở lại cũng thăng. Dụng-thần thất hãm, chủ về hoặc giáng hoặc thăng, hoặc đặng hoặc mất. -Chiếm về tài vật tụ tán bất thường, mua bán kinh doanh, hưng phế qua lại không định. -Chiếm phần mộ, nhà cửa, muốn dời mà chẳng dời, hoặc dời rồi còn dời nữa, hoặc hiện giờ đang lo dời dạc. -Chiếm về việc đã qua lâu rồi, hiện giờ lại sanh biến động. -Chiếm về thiên-thời, tạnh rồi mưa, mưa rồi tạnh. -Chiếm về hôn-nhân, phản phúc khó thành. -Chiếm về tật-bịnh, mạnh rồi lại đau. -Chiếm về đạo-tặc, quan phi, thấy việc nầy rồi tới thấy việc khác. -Chiếm xuất-hành, tới nửa đường rồi trở lại, mà dầu có tới chổ cũng không thành việc gì. -Chiếm về hành-nhân, nếu ngoại quái phản-phục, dụng-thần vượng tướng, sẽ trở về. Bằng không, cũng là dời nơi khác. -Người ở phương xa, mà chiếm nhà cửa, nội quái phản phục, thì những người ở trong nhà không yên. -Chiếm hình-thể hai bên, nếu nội quái phản-phục thì ta loạn, họ định. Nếu ngoại quái phản-phục, thì họ loạn, ta định. Bởi sanh dụng-thần vượng tướng, chẳng biến xung khắc, tuy là việc có phản-phục, mà sẻ thành tựu. Chỉ e dụng-thần hóa hồi đầu xung khắc , tức là quẻ biến ra điềm đại hung. *Như tháng Mão, ngày Nhâm Thân, chiêm về việc theo quan phủ đi thượng nhậm. Đặng quẻ Tỉ ra Tỉnh. - -Tài Tí Ứng ---Huynh Tuất - -Tử Thân - -Quan Mão Mộc X Thế----Tử Dậu Kim - -Phụ Tị Hỏa -------Tài Hợi Thủy - -Huynh Mùi Đoán rằng: Thế gặp Quan quỉ, trúng nguyệt-kiến, nên vượng. Ai theo thì nên việc. Nhưng nội quái phản-phục, sẻ có phản phúc chẳng định. Thế hào tuyệt ở ngày Thân, lại hóa hồi đầu xung khắc. Vậy thì đi không kiết, chẳng đi thì hơn. Sau, nhân quan phủ bắt thăm đặng bổ ở gần nơi Tặc-ninh, người ấy từ mà chẳng đi. Đến khi quan phủ đi rồi, bổng lại nhơn một cớ khác, người ấy phải đi theo. Tới tháng7, thành phá, đồng bị hại cùng quan phủ. *Lại như tháng Mão, ngày Kỉ Hợi, chiếm về thăng chức, dời chổ. Đặng quẻ Lâm, biến ra Trung Phu. - -Tử Dậu Kim X ---------Quan Mão Mộc - -Tài Hợi Thủy X Ứng----Phụ Tị Hỏa ---Huynh Sửu O - -Huynh Sửu ---Quan Mão Thế ---Phụ Tị Đoán rằng: Thế đồng Mão mộc với tháng, nguyệt-kiến làm quan-tinh, lại trường-sanh ở Hợi. Thế và quan-tinh đặng tới vượng địa, hứa sẽ thăng chẳng lâu. Quả nội tháng nghe báo, do Giang-hửu thăng nhậm ớ Sơn-đông. Chưa đầy một năm, lại nhậm Giang-tây. Ứng Hợi nội tháng có thăng, là Mão Quan gặp nguyệt-lịnh. Thăng Sơn-đông là Quan lâm Mão mộc. Rồi lại nhậm Giang-tây, ngoại quái phản-phục, đi rồi lại trở lại nữa. Phản-phục có : trong phản-phục ra ngoài, ngoài phản phục vô trong. Như Vô Vọng mà biến Đại Tráng đó vậy. Quẻ Vô Vọng biến Đại Tráng: -Nội ngoại phục ngâm, nghĩa là trong ngoài có cảnh ưu uất, thân ngâm(than van). -Cũng có quẻ trong động, biến phục-ngâm, thì trong thân ngâm, quẻ ngoài động biến phục-ngâm, thì ngoài chẳng an. Chiếm về việc chi, cũng không đặng như ý. Động như chẳng động, sầu não than van. -Chiếm về danh, thì thọ khổn quan đồ, đình lưu sỉ lộ. -Chiếm về lợi, thì nguồn tài hao tán, thủy lợi tiêu hết. -Chiếm về phần-mộ, nhà cửa. Muốn dời thì không dời được, muốn giử thì chẳng lợi. -Chiếm về hôn-nhơn, buồn chứ không vui. -Chiếm về tật-bịnh, đau lâu rên siết. -Chiếm về khẩu-thiệt, quan phi, sự khó liểu kết. -Chiếm về xuất-hành, khó mà dời gót. -Chiếm về hành-nhơn, ở ngoài u uất. -Chiếm về hình-thế hai bên, nội quái là ta, ngoại quái là người. Nội phục-ngâm tâm ta chẳng toại. Ngọai phục-ngâm, ý họ chẳng yên. Nhưng phục-ngâm mà sánh với phản-ngâm, thì phản-ngâm có xung, có khắc, dụng-thần thọ khắc, vương họa chẳng vừa. Trong quẻ phục-ngâm, dụng-thần vượng tướng, đến năm tháng xung khai nó, thì chí sẽ đặng thỏa thích. Dụng-thần hưu tù, đến năm tháng nó, chỉ thêm ưu uất mà thôi. Bởi cớ sao? Thần phát lộ ở chỗ động, động thì phải có cớ, tuy ngày nay bị chế, chớ sau gặp ngày trị(đồng một chi), thì không tán. *Như tháng Sửu, ngày Đinh Dậu, chiêm coi người cha đi xứ xa, sao một năm rồi mà bặt thơ từ. Đặng quẻ Phong Thủy Hoán, biến quẻ Khảm. --- Phụ Mão Mộc O Thế ------ Tý Thủy --- Huynh Tị Hỏa - - Tử Mùi - - Huynh Ngọ --- Tử Thìn Ứng - - Phụ Dần Mão Mộc Phụ hào, động mà sanh Thế, lại hóa Tý thủy hồi đầu sanh. Hứa chắc người đi xa được bình an. Thế không lại càng mau, bước qua xuân sẽ trở về. Quả tới tháng 2, người cha trở về. Đây không phải là Mão động, ngày Dậu xung nó sao, mà nào có tán đâu? Lý-Ngã-Bình nói: Huỳnh kim sách coi không vong là trọng, xung tán là khinh. Dịch lại rất trọng xung tán. Xét kỷ mấy đều chiêm mà được nghiệm, thường bị chỗ đó mà bàn sai. vothuong 05-12-2011, 12:55 AM *Như tháng Thân, ngày Quí Tị, chiếm coi cha đi phó nhậm ở xa có được bình an không? Đặng quẻ Cấu, biến quẻ Hằng. --- Phụ Tuất O ------- Tuất --- Huynh Thân O---- Thân --- Quan Ngọ Ứng --- Huynh Dậu --- Tử Hợi - - Phụ Sửu Thế Đoán rằng: Tị hỏa là nhật-thần, sanh Phụ mẫu, khá hứa tại nhậm bình-an. Nhưng hiềm trong quẻ có phục-ngâm, đó là cái đang chẳng yên. Tại nhậm chức có việc chi đó, vì không đắc ý mới có than van. -Họ hỏi: Nghe nói, trong địa phương, có sự biến-loạn của người Miêu-cương, có ngại không? -Tôi đáp: nhật-kiên sanh Phụ, các việc khác không làm phiền lụy được. -Lại hỏi: Chừng nào, mới trở về? -Tôi đáp: Có phục-ngâm, nếu muốn trở về, mà không về được. Năm Thìn sẽ về. Sau nghe Miêu-cương làm loạn, địa-phương không an, kinh hiểm lạ thường. Năm Dần, chiếm quẻ, năm Thìn tài khuyết đặng về. Năm Ngọ, lại bổ Tứ-xuyên. -Ứng năm Thìn, là vì Tuất Phụ hóa Tuất Phụ, năm Thìn là năm xung khai Tuất Phụ. -Ứng tài khuyết, là ngày Tị xung khởi Hợi thủy, ám-động để khắc Quan. -Ứng năm Ngọ, lại bổ quan, là chiếm thời gặp ngày Tị phò khởi Ngọ hỏa, quan-tinh. Đương ngày, Hợi thủy khắc nó, mà chẳng trọn, khiến nên Ngọ hỏa quan-tinh, sang năm khác, vượng lại y nhiên. Lý-Ngã-Bình nói: Dịch Lâm-thần-Di có nói: Hào có phục-ngâm chẳng kiết. Thuật giả chưa từng nghe quẻ có phản-ngâm rất hung. Các thầy bói có ai biết rằng: Chẳng coi dụng-thần suy vượng, chỉ cho phản-ngâm là chỗ phải sợ . Nay Dã-Hạc lão nhân luận như vầy, lấy quẻ Tỉ biến ra Tỉnh. Hể Thế gặp xung khắc, thì sự phản phục, thân phải tai ương. Nếu biến ra quẻ Trung Phu, thì Thế quan đắc địa. Tuy phản phục, quan liền liền thiên chuyển. Thiệt là cái phép dạy người rất thấu triệt. CHƯƠNG 26 (A): TUẦN-KHÔNG Giáp Tí tuần trung, Tuất Hợi không Giáp Tuất------------Thân Dậu - Giáp Thân------------Ngọ Mùi - Giáp Ngọ-------------Thìn Tị - Giáp Thìn-------------Dần Mão - Giáp Dần-------------Tý Sửu - -Sao mà gọi là tuần-không? -Như giáp-tý, tới ngày Quí Dậu, là một tuần. Trong mười ngày đó, không có Tuất Hợi, cho nên hào gặp Tuất Hợi thành không-vong, cũng gọi là tuần-không. Kỳ dư, cứ đó mà suy. Các sách luận về phép tuần-không rất phiền phức. Nào là :-chơn-không, giả-không, động-không, xung -không, điền-không, viện-không, vô cô tự-không, hửu tán nhi-không, mộ-không, tuyệt-không, hại-không, a n-không, phá-không. * Dã Hạc nói: -Vượng chẳng phải không, động chẳng phải không, có nhật-kiến, động-hào sanh phò cũng chẳng phải là không, động mà hóa không, phục mà vượng tướng, đều chẳng phải là không. -Nguyệt phá là không, hửu khí mà chẳng động cũng là không, phục mà bị khắc cũng là không, chơn-không là không. Khi ta mới học bói, phàm gặp tuần-không, không biết đoán làm sao. Muốn cho là đáo để toàn không, lại ứng với ngày điền thực, mà chẳng phải không. Cho là chẳng không, lại đáo để toàn không(không đến cùng). Sau đặng cái phép chiếm nhiều lần, phàm gặp tuần-không, biểu người chiếm lại. Quẻ tốt, thì hứa rằng ra khỏi tuần-không hết không. Quẻ hung thì cho là không. Như tháng Thìn, ngày Ất Mão, chiếm cầu tài. Đặng quẻ Gia Nhân biến quẻ Bí. ---Huynh Mão ---Tử Tị Hỏa O Ứng -----Phụ Tí Thủy - -Tài Mùi ---Phụ Hợi - -Tài Sửu Thổ Thế ---Huynh Đệ Mão Sửu Tài trì Thế, gặp tuần-không. Tuy có Tị hỏa sanh, Tị hỏa lại hóa hồi đầu khắc, chẳng rảnh mà sanh Sửu thổ Tài. Tài nầy đã không có sanh phò, thì khó cầu được. Lại nhơn tháng 3, Sửu thổ trở lại có khí. Theo phép xưa, có khí thì chẳng phải không. Chẳng dám quyết đoán, xin chiếm lại nữa. Lại đặng quẻ Khuể, biến ra Tổn. ---Phụ Tị Hỏa - -Huynh Mùi Thổ --------Phục Tí Thủy, Tài ---Tử Dậu Kim O Thế-----Huynh Tuất Thổ - -Huynh Sửu ---Quỉ Mão ---Phụ Tị Hỏa Ứng Nhờ đặng quẻ nầy hợp với quẻ trước, mà quyết đoán rằng:Tài không có, chẳng cần lao tâm. -Họ hỏi : Vì cớ gì? -Tôi đáp : Quẻ trước, Sửu Tài tuy không, mà có khí. Quẻ sau nầy, Tí thủy Tài không, núp ở hào 5, dưới Mùi thổ. Phục mà lại không, không mà bị khắc, thì biết không có tài, hết chỗ nghi. Sau quả không có gì hết. *Lại như tháng Tí, ngày Tân Hợi, chiêm đi phương xa cầu tài. Đặng quẻ Đại-súc. ---Quan Dần Mộc - -Tài Tí Thủy Ứng - -Huynh Tuất Thổ ---Huynh Thìn Thổ ---Quan Dần Mộc Thế ---Tài Tí Thủy Thế gặp Dần mộc, tháng Tí, ngày Hợi, đều là tài-thần sanh Thế. Lại mừng ứng hào làm địa-đầu. Thế và Ứng tương sanh, đó là quẻ trọn tốt Nhưng Thế gặp tuần-không. Nếu chấp theo phép xưa, đoán là “vô cớ tự không”, la triệu chứng đại hung. Ai dám biểu họ cứ đi phương xa sao ? Tôi bèn nói họ chiếm lại. *Lại đặng quẻ Minh Di, biến ra quẻ Phong. - -Phụ Dậu - -Huynh Hợi - -Huynh Sửu Thổ X Thế------Quan Ngọ Hỏa ---Huynh Hợi - -Quỉ Sửu ---Tử Mão Ứng Quẻ nầy cũng đồng quẻ trước. Nếu đi thì quả chắc là đặng ngay. Thế hào Sửu thổ hóa Ngọ hỏa, hồi đầu tương sanh. Hiện thời là nguyệt-phá. Ra tháng thì hết phá. Khai xuân, tháng Dần Mão, theo quẻ trước mà đoán, là tháng thế hào ra khỏi không. Gặp Tí Hợi, Tài sanh, mãn tâm như nguyện. -Họ hỏi: Đi đặng thành không? Tôi đáp: Ngày Giáp Dần, thế hào ra khỏi không rồi, cho đi không nghi chi hết. Quả tới ngày Ất Mão khởi trình, sau tới đất người, trong tháng Dần Mão, mọi việc đều toại tâm, trở về được nhiều tiền. -Dã Hạc nói: Phép chiếm nhiều lần làm cho bớt một phần ưu nghi hoặc. Bằng chẳng vậy, chỉ do quẻ trước mà đoán, vô cớ tự không, như vào hang sâu vực thẳm. Vượng Tài sanh Thế là chứng cớ chắc, lưng mang muôn bạc, vậy hứa cho đi chăng? Hay là cản không cho đi chăng? Lý Ngã Bình nói:Cái thuyết không-vong là một cái huyền-diệu, quỉ thần khó độ, tợ có mà không, cũng là có khi điền thực chẳng không. Vậy phải chiếm nhiều lần, hai quẻ hợp lại mà quyết đoán, thiệt là nói hết lậu máy mầu nhiệm của quỉ-thần. Cái lý của Trời Đất cũng ở trong không mà ra, gọi là “huyền không dĩ đải”. Phàm chiếm mà gặp không, chẳng cho liền là không. Phải coi lại việc của mình chiếm, hoặc gần, hoặc xa. Như ở trong tuần, tức là đoán không. Nhưng cũng có ngày trúng không, giờ thực không. Còn việc ra ngoài tuần, hứa tới ngày ra không thì thấy ứng. Nếu chiếm việc viển-đại, chưa có định kỳ, chẳng phải ra tuần mà được thành. Đại tượng không kiết, thì có thể nói rốt cuộc là không. Đại tượng mà kiết, thái-tuế nguyệt-kiến cũng có thể điền thực. Nhưng cũng không bằng chiếm luôn hai quẻ, thiệt là diệu-pháp. CHƯƠNG 26 (B): SANH, VƯỢNG, MỘ, TUYỆT. Trường-sanh Mộc-dục Quan-đới Lâm-quan Đế-vượng Suy Bịnh Tử Mộ Tuyệt Thai Dưỡng Tôi chỉ thí-nghiệm được 4 chữ anh, Vượng, Mộ, Tuyệt. Kỳ dư, không nghiệm, chẳng nên dùng. Kim trường-sanh tại Tị, Vượng tại Dậu, Mộ tại Sửu, Tuyệt Dần. Mộc---------------Hợi, ---------Mão, -------Mùi, ------Thân. Thủy, Thổ---------Thân, --------Tý , -------Thìn, -----Tị. Hỏa---------------Dần, ---------Ngọ, -------Tuất, -----Hợi. Tỉ như hào chủ sự thuộc Mộc, nếu chiếm quẻ nhằm ngày Hợi, tức là hào chủ sự trường-sanh ở ngày Hợi. Nếu chiếm quẻ nhằm ngày Mão, Mộc vượng ở Mão. Nếu chiếm quẻ nhằm ngày Mùi, Mộc mộ ở Mùi. Nếu chiếm quẻ ở ngày Thân, Mộc tuyệt ở ngày Thân. Kỳ dư, cứ đó mà suy. -Lại như hào chủ sự thuộc Mộc, trong quẻ, động xuất Hợi hào, cũng là hào chủ sự gặp trường-sanh, động xuất Mão hào, gọi là hào chủ sự gặp vượng. Trong quẻ, động xuất Thân kim, gọi là:hào chủ sự gặp tuyệt. Kỳ dư, cứ đó mà suy. -Lại như hào chủ sự thuộc Mộc, đông mà biến ra Hợi thủy, gọi là : hóa trường-sanh. Động mà biến ra Mão mộc, gọi là hóa vượng. Động mà biến ra Mùi thổ, gọi là hóa mộ. Động hóa ra Thân kim, gọi là :hóa tuyệt. Kỳ dư, cứ đó mà suy. *Giác-Tử nói :- Kim tuy trường-sanh tại Tị, cần phải hào kim vượng tướng, hoặc ngày, tháng, động hào sanh phò, lại gặp ngày Tị chiếm quẻ, hoặc là trong quẻ động biến ra Tị hào, hoặc là kim hào động mà hóa ra Tị hỏa, đều gọi là gặp trường-sanh. -Thảng như kim hào hưu tù, không có khí, lại gặp Tị Ngọ hỏa nhiều, thì liệt hỏa đốt kim, luận khắc chớ không luận sanh. -Kim hào tuy mộ ở Sửu, đều đặng Mùi thổ xung động, hoặc trong quẻ thổ nhiều sanh kim, luận sanh, chẳng luận mộ. -Thổ hào tuy tuyệt ở Tị, tất-nhiên phải hưu tù vô khí, lại gặp Tị hào, mới gợi là tuyệt. Nếu thổ hào vượng tướng, hoặc đặng ngày, tháng, động-hào sanh phò, thêm gặp Tị hào, thì Tị hỏa trở lại sanh thổ, luận sanh chớ không luận tuyệt. -Tị hào tuy trường-sanh ở Dần. Thảng ngày, tháng động hào, cùng là hào biến ra, thêm gặp Thân kim, thì gọi là tam hình, luận hình mà không luận sanh. Người xưa cho thổ hào trường-sanh ở Thân, lại nói: Thổ trường-sanh tại Dần, không đủ bằng chứng. Tôi dùng thiên-thời mà khảo chứng , thường thấy thổ ở hào Phụ mẫu, có ngày Thân thì mưa, có ngày Tí thì mưa. Lại thấy thổ ở hào Tử tôn, có ngày Thân tạnh, có ngày Tý tạnh. Cho nên biết rằng : Thổ trường-sanh tại Thân, Vuợng tai Tý. Thiệt biết thổ ký sanh ở Thân, hết nghi. *Một khi, tháng Ngọ, ngày Kỷ Mão, chiếm vợ bịnh. Đặng quẻ Chấn, biến ra Phong. - -Tuất - -Thân ---Ngọ ---Tài Thìn Thổ --Tài Thìn Thổ - -Dần ---Tý Thìn thổ, Tài hào, làm dụng-thần, bịnh mới găp xung thì mạnh. Hứa sẽ mạnh trong ngày Thìn. Chẳng vậy, ngày Dậu sẽ mạnh. Sau vì liên tiếp nhiều ngày hôn trầm, tới ngày Tý mới chổi dậy. Hứa ngày Thìn mạnh, là vì Thìn thổ gặp ngày của nó. Hứa ngày Dậu, là vì Thìn với Dậu hợp, động mà gặp hợp. Nay mạnh ngày Tý, Thìn thổ tài hào vượng tại Tý. Lý-Ngã-Bình nói : Luận về sanh vượng, mộ, tuyệt, Kim sanh tại Tị, Mộc sanh tại Dần, Thủy sanh tại Thân, hỏa sanh tại Dần. Bốn cái trường-sanh là chánh lý. Duy Thổ ký sanh, chưa được thiệt khảo pháp. Nói : Hỏa thổ trường-sanh, Dần thượng bài, Minh tri Tý thượng, thị bào thai. Đó là thổ ký sanh tại dần. Còn theo ngũ hành gia, mồ thổ sanh tại dần, kỷ thổ sanh tại dậu. Dịch-vị tuy nói : Duy thổ trường-sanh chẳng phải một chổ. Trong núi có khôn thổ sanh ở thân. Nếu phân ra âm dương, thì mồ thổ sanh tại dần, kỷ thổ sanh tại dậu, cũng là chưa đặng chứng chắc. Đây là chuyên lấy thiên-thời mà khảo chứng, thổ ký sanh ở thân, muôn đời không đổi. CHƯƠNG 26 (C): CÁC MÔN LOẠI ĐỀ-ĐẦU TỔNG CHÚ Sau vì chia ra nhiều môn, nhiều loại, phải dùng chữ cái (tự nhãn), e có chổ phiền phức không tiện viết ra trọn, nên chỉ dùng đề-đầu. Như sau có dụng-thần , cần phải được vượng , không thể chỉ định vượng ở bốn mùa, chỉ nói đặng dụng-thần đồng với ngày, tháng, hoặc gặp ngày tháng, động-hào, biến hào sanh phò, hoặc dụng-hào gặp trường-sanh, gặp đế-vượng, đều gọi là vượng . *Dụng thần hóa kiết : - Phàm dụng-thần, nguyên-thần, động hóa hồi đầu sanh, hóa trường-sanh, hóa đế-vượng, hóa phò trợ, hóa ngày tháng, đều là hóa kiết . *Dụng-thần hóa hung: -Phàm dụng-thần, nguyên-thần, động hóa hồi đầu khắc, hóa tuyệt, hóa mộ, hóa không, hóa quỉ, hóa thối-thần, đều là hóa hung . *Tuế-quân tức là thái tuế đương niên: -Tuế ngũ(5): Tuế là thái-tuế, Ngũ là hào thứ 5 trong quẻ. *Thân tức là hào: -Xưa dùng Quái-thân, Thế-thân, tôi thử không nghiệm, nên không dùng. Phàm sau có gặp chữ thân, tức là Thế hào, chớ không phải là Quái-thân, Thế-thân. *Ngũ vị: -Hào thứ năm của mỗi quẻ là quấn vị. Kinh Dịch nói : “Cửu ngũ chi trí giả”, là đó. *Tam-mộ: - Dụng-hào nhựt mộ, nhập mộ động, động mà hóa mộ. *Chủ tượng: -Chủ sự hào. -Từ xưa quái thế là chủ tượng, cũng gọi là chủ sự hào. Chiếm phụ mẫu , huynh đệ , tức là lấy phụ mẫu, huynh đệ làm chủ sự hào. Kỳ dư, cứ đó mà suy. *Lão âm làm thiếu-dương, gọi là biến. Lão dương làm thiếu-âm, gọi là hóa. -Người xưa nói : Biến như vật tiêu (mòn) rồi trưởng (lớn), thối rồi tấn. Hóa là như vật thành rồi bại, tấn rồi thối. Tôi thử chẳng thấy ứng nghiệm như vậy. Khi hóa tấn-thần, hóa sanh vượng, tuy hóa cũng là kiết. Lúc biến quỉ, biến hồi đầu khắc, tuy biến cũng là hung. Trong các chương sau nầy, phàm nói biến tức là hóa hào, hóa tức là biến vậy. CHƯƠNG 26 : CÁC MÔN LOẠI ỨNG-KỲ TỔNG CHÚ *Tịnh mà găp trị, gặp xung: -Như chủ sự hào ở Tý thủy chẳng động, sau gặp ngày Tý, ngày Ngọ thì ứng với nó. Kỳ dư, cứ đó mà suy. *Động mà gặp hợp, gặp trị : - Như chủ sự hào ở Tý phát động, sau gặp ngày Sửu, ngày Tý thì ứng với nó. Kỳ dư, cứ đó mà suy. *Thái vượng mà gặp mộ, gặp xung: -Như chủ sự hào ở Ngọ hỏa, lại chiếm quẻ gặp tháng Tị, Ngọ, hoặc trong quẻ Tị Ngọ hào rất nhiều, sau gặp ngày Hợi, Tý thì ứng với nó. Lại có ngày Tuất ứng với nó, đó là hỏa nhập mộ *Suy tuyệt mà gặp sanh, gặp vượng :- Như chủ sự hào thuộc kim, chiếm quẻ nhằm tháng Tị, Ngọ, tức là hưu tù, vô khí. Sau gặp ngày tháng thổ, hoặc nhằm thu lịnh, đương thời thì vượng. Kỳ dư, cứ đó mà suy. *Nhập tam mộ đều ưa xung khai : -Như chủ tượng ở Ngọ hỏa, nhập mộ tại Tuất, sau gặp ngày Thìn, thì sẽ ứng với nó. Kỳ dư, cứ đó mà suy. *Gặp lục hợp cũng phải tương kích: -Như chủ sự hào cùng ngày, tháng thành hợp, hoặc động với hào hợp, hoặc động mà hóa hợp, hoặc hung, hoặc kiết, phải chờ ngày tháng xung khai, ứng với nó. Như chủ-tượng ở Tý và Sửu được hợp, sau gặp ngày Ngọ, Mùi thì ứng với nó. Kỳ dư, cứ đó mà suy. *Nguyệt-phá ưa gặp điền hợp: - Như tháng Tý, chiếm quẻ, chủ sự hào ở Ngọ hỏa, đó là nguyệt-phá. Sau gặp ngày Mùi ứng với nó, gọi là phá mà gặp hợp. Lại có khi gặp ngày Ngọ ứng với nó, ngày điền thực thì hết phá. *Tuần-không rất ưa điền xung : -Coi chương tuần-không, có giải rất rỏ ràng. *Đại tượng kiết mà thọ khắc, phải chờ khắc-thần thọ khắc : -Giả như dụng-thần ở Thìn thổ, chờ ngày tháng sanh phò, mới là đại tượng kiết. Tháng bị Dần Mão khắc hại, sau gặp ngày Thân Dậu xung khắc khắc-thần, thì mới được kiết. Kỳ dư, cứ vậy mà suy. *Đại tượng hung mà thọ khắc, phải phòng khắc-giả gặp sanh : -Như trước nói dụng-thần ở Thìn thổ, đã không có ngày, tháng, động hào sanh phò, đó là đại tượng hung. Còn thêm gặp Dần Mão khắc chế nữa, sau gặp ngày Tý Hợi thì hung. *Nguyên-thần tới trợ, tới phò, phải coi dụng-thần suy hay vượng . *Kị-thần tới khắc, tới xung, coi chừng nguyên-khí hưng hay suy. Dẩn lên là hai điều, trong chương nguyên-thần, kị-thần, có giải nghĩa minh bạch. * Hóa tiến-thần, gặp trị, gặp hợp : -Như Thân động hóa Dậu, gọi là tiến-thần. Làm họa, làm phước, có khi ứng ngày, tháng Thân, có khi ứng ngày, tháng Tị. *Hóa thối-thần, kị trị, kị xung : -Như Dậu động, hóa Thân, có khi ứng tháng, ngày Thân, có khi ứng tháng, ngày Dần. *Có khi ứng tại độc phát, độc tịnh : -Coi chương độc phát thì rỏ *Có khi ứng tại biến hào, động hào : - Như hào ở Tuất thổ, biến ra Dậu kim, có khí ứng ngày Tuất, cũng có khi ứng ngày Dậu. *Đừng gọi : Hào không có nghiệm, phải phân xa, gần. – Việc xa thì lấy năm, tháng mà định, việc gần thì lấy giờ, ngày mà ứng. Cũng có khi chiếm xa, mà ứng gần, chiếm gần mà ứng xa, chiếm tháng ứng năm, chiếm ngày ứng giờ, chẳng khá không biết . *Thảng gặp quẻ không được rỏ ràng, thì chiếm lại : -Nếu quẻ lờ mờ thì chiếm lại một quẻ khác, đừng có đoán liều. *Thế không, nguyên động, phải chờ nguyên-thần gặp trị : -Như trong tuần giáp-thìn chiếm cầu tài, đặng quẻ Khôn biến ra Khảm, ngày Hợi đặng tài. Kỳ dư, cứ đó mà suy. *Thế suy, nguyên tịnh, phải chờ nguyên-thần gặp xung : -Như mùa thu, chiếm cầu mưu, đặng quẻ Khôn. Sau gặp ngày Tị, nên việc. Kỳ dư, cứ thế mà suy. vothuong 05-12-2011, 12:55 AM CHƯƠNG 26 (E): DU-HỒN, QUI-HỒN - Du-hồn là quẻ thứ 7 trong mỗi cung, như quẻ Hỏa Địa Tấn trong cung Kiền, quẻ Thủy Thiên Nhu trong cung Khôn. - Qui-hồn là quẻ thứ 8 trong mỗi cung, như quẻ Hỏa Thiên Đai Hữu trong cung Kiền, quẻ Thủy Địa Tỉ trong cung Khôn. Kỳ dư, cứ đó mà suy. Người xưa nói du-hồn là đi ngàn dặm. Ta làm một việc nầy, mà muốn được lâu dài, gặp du-hồn thì trong lòng không bền-bỉ, không định hướng, dời đổi không chừng. Qui-hồn chẳng ra khỏi biên cương, mọi việc câu nệ chẳng lành, lấy tương phản với du-hồn mà đoán, thì trúng. Phàm đặng quẻ du-hồn: Chiếm thân mạng, bình sanh không được an cư lạc nghiệp, đi hay không chẳng định. Chiếm phần-mộ, vong linh chẳng an. Dã-Hạc nói : Trước phải lấy dụng-thần làm chủ, sau lấy theo khoảng nầy mà xét thêm. Nếu bỏ dụng-thần ra, chấp theo đấy mà đoán, là lầm vậy . CHƯƠNG 27 : NGUYỆT PHÁ Tháng giêng : Thân Tháng hai : Dậu Tháng 3 : Tuất Tháng 4 : Hợi Tháng 5 : Tý Tháng 6 : Sửu Tháng 7 : Dần Tháng 8 : Mão Tháng 9 : Thìn Tháng 10 : Tị Tháng 11 : Ngọ Tháng 12 : Mùi Ngôi nào bị nguyệt-kiến đối xung là nguyệt-phá. Trên đó là chỉ ngày phá trong mỗi tháng. Các sách đều cho dụng-thần trúng nguyệt-phá là trái thời, không khác chi rể khô, cây mục. Dầu gặp cái chi sanh cũng không sanh nó được. Mà gặp cái chi hại, thì bị thương càng nặng. Tuy là thấy nó hiện trong quẻ, chớ có đó cũng như không;núp trong quẻ, rốt cuộc cũng khó xuất lộ. Tuy có nhựt-thần sanh, cũng không sanh nó được;có hào động kị-thần cũng không hại nó được. Nó làm biến-hào, cũng không thương khắc được động hào. Dã-Hạc nói : Tôi có thí nghiệm, thấy động thì thương hào, biến thì thương động. Tại sao ? -Thần phát lộ ở chổ động. Nếu việc không kiết, không hung, thì chẳng động. Hể động, thì có đem họa phước tới. Hiện thời, tuy phá, chớ ra ngoài tháng thì hết phá. Nay tuy phá, chớ đến ngày thiệt phá thì hết phá. Gặp ngày hợp, thì chẳng còn phá. Gần thì ứng trong ngày giờ, xa thì ứng trong năm tháng. Chỉ có tịnh mà không động, lại không có nhựt-thần, động-hào sanh trợ, thì thiệt tới đâu cũng vẫn là phá. *Như tháng Hợi, ngày Kỷ Sửu, chiếm coi ngày sau có làm quan không. Đặng quẻ Đoài hóa Tụng. - -Phụ Mẫu Mùi Thổ X Thế----Tuất Thổ ---Huynh Dậu ---Tử Hợi - -Phụ Sửu Ứng ---Tài Mão ---Quan Quỉ Tị Hỏa O---------Dần Mộc Trong quẻ nầy, Quan động mà sanh Thế, Thế động hóa tiến-thần. Rỏ ràng là có thể làm quan rồi. Nhưng gặp nguyệt-phá, Thế gặp tuần-không. May chỗ không đó, lại có nhựt-thần tương xung. Xung không thì ra thiệt(xung không tắc thực), chẳng phải còn không nữa. Mà hào phá kia lại không có nhựt-thần, động hào đến sanh. Dầu chiếm nhằm nhựt-kiến cũng sanh không nổi, huống là không có nhựt-kiến, động hào đến sanh nó kia mà ! Tôi mới đem lòng ngờ vực. Hào-quan đã không dùng vào đâu, cớ sao phát động mà sanh Thế? Tôi bèn biểu chiếm lại. *Lại đặng quẻ Thủy Địa Tỉ. - -Tài Tý Ứng ---Huynh Tuất - -Tử Thân - -Quan Mão Thế - -Phụ Tị - -Huynh Mùi *Đoán rằng : Nếu mạng không làm quan, thì đâu có Quan đến sanh Thế, cùng là quan-tinh trì Thế. Nay quẻ trước động Quan tương sanh, quẻ sau có Quan đến ngôi Thế hào, thì lộc nước có ngày sẻ được hưởng. -Khách nói : Ứng vào năm nào? -Tôi đáp : Trong quẻ trước. Quan trúng nguyệt-phá, định chắc là năm thiệt phá. Quả đến năm Tị, được thừa tập ấm trưởng-phòng mà thế chức cho cha. Nếu nói : Nguyệt-phá không dùng gì được, thì sai như một trời một vực . *Lại như tháng Thìn, ngày Mậu Tý, chiếm coi người cha chừng nào trở về. Đặng quẻ Kiền biến Quải. ---Phụ Tuất Thổ O Thế-------Mùi Thổ ---Huynh Thân ---Quan Ngọ ---Phụ Thìn Ứng ---Tài Dần ---Tử Tý Phụ Mẫu trì Thế, đã phá mà hóa không. Đã không có nhựt-thần sanh, lại không có hào động trợ. Nếu đoán theo phép xưa, cho dụng-thần là vô khí, thì người cha không thể nào về được. Tôi không đoán theo đó. Lại đoán : Châu-tước ở hào Phụ, động và trì Thế. Ngày Mão có tin, ngày Ngọ Mùi trở về. Sau quả ngày Mão đặng thơ, ngày Ất Mùi tới nhà. Ứng vào ngày Mão đặng tin, là ngày phá mà gặp hợp. Ứng ngày Mùi trở về, là ngày Phụ hóa Mùi thổ bị tuần-không, được ra khỏi không. Phép xưa luận về tiến-thần, có nói : Động mà gặp nguyệt-phá, thì ngôi ta đã mất;Dậu hóa ra nguyệt-kiến, cũng là thối, không đủ sức. Trong quẻ nầy, hào Phụ bị phá và hóa không, rốt cuộc thối để trở về nhà. *Lại như tháng Ngọ, ngày Quí Mão, chiếm ngày sau gặp công danh không ? Đặng quẻ Cấn biến ra Quan. ---Quan Dần Mộc Thế - -Tài Tý Thủy ----------Tị Hỏa - -Huynh Tuất ---Tử Thân Kim O Ứng------Mão Mộc - -Phụ Ngọ - -Huynh Thìn Đoán rằng : Dần mộc quan-tinh trì Thế, bị Thân kim động lại khắc. Năm nay, tháng 7, sẻ gặp hung, sự thị phi. -Khách hỏi: Coi giùm về việc chi: -Tôi đáp: Bởi động khắc Thế, chắc là có người oán thù. -Lại hỏi: Có trở ngại về công danh không? -Tôi đáp : Nếu không có Tý thủy động hào, mất ngôi là chắc rồi. May thay! Có Tý thủy tiếp tục tương sanh, mà không khỏi giáng cấp, li nhậm(đổi). Bửa sau cho đòi tôi vào phòng giấy. CÓ người khách ở đó, biết lý Kinh dịch, hỏi tôi rằng : đã biết Tý thủy, tiếp tục tương sanh, sách bói có nói : kị-thần với nguyên-thần đồng động, Quan và Thế hào đều đặng sanh hết cả hai. Đó là triệu chứng mùa đông nầy cao thăng, sao lại nói trái lại là phải bị đổi? -Tôi đáp : Tý thủy bị phá và hóa không. Sách bói có nói : Tuy có chớ như không, thành ra nguyên-thần vô dụng. Tôi không đoán theo phép xưa. Thần phát lộ ở động, động chắc là có cớ chi, cho nên đoán là giáng cấp mà thôi. Ngày sau, nếu trung tháng Đông-chí, thì mới có cái nghiệm nầy. Thảng ở tháng khác, Tý thủy chưa đặng thiệt, thì cũng chưa biết chắc được. Quả tới tháng 7, hai đàng yết tham, kết thành lổi to. Tháng đông-chí sự liểu kết, giáng cấp bị đổi. Lúc đó, tôi đã đi qua tỉnh khác, còn kêu đến chổ ông ở để bói. Tháng Dần, ngày Bính Thìn, chiếm đặng quẻ Địa Trạch Lâm. - -Tử Dậu Ứng - -Tài Hợi - -Huynh Sửu - -Huynh Sửu Thế ---Quan Mão ---Phụ Tị Tôi nói : Nghe đâu sỉ dân có ý muốn xin lưu ngài lại, mà e không được lâu. Phải chờ tới năm Tý, thì chắc sẻ được phục chức củ, mà làm việc như xưa. -Người khách biết Dịch lý kia, ngồi ở chổ mình, mà nói rằng:cửu nhủ Hợi thủy sanh Quan, thì sao lại không lâu ? -Tôi đáp : Tuy là có cửu ngủ thủy mà kim sanh nó bị Tị khắc. Đến năm Tý, Hợi thủy vượng ở Tý. Lại hợp với quẻ trước, hào thứ năm là Tý thủy, gặp thái-tuế mà hết phá : làm việc như xưa, hết nghi . Quả tới năm Giáp-Tý, tháng Tị, được phục chức và bổ nhiệm như xưa, luôn ở hai chổ. Năm Mão lên Đốc-phủ. Tôi khuyên hảy từ chức. -Ông nói : Tại cớ sao ? -Tôi đáp : Cũng là theo quẻ trước mà đoán, vì Thân kim khắc Thế. Tý thủy tuy động, mà gặp phá và hóa không, chẳng sanh được Thế sanh được Quan, thanh ra có chổ kết oán. Tới tháng Tý, tuy là có thiệt bị, mà sức hảy còn yếu. Tuy chẳng đến nổi tước chức, mà phải bị giáng cấp. Ông ấy gặp năm Tý là năm thiệt phá, lại là Thái-tuế đương quyền, nên được làm việc lại. Tới năm Thìn , là năm Tý thủy nhập mộ, thái-tuế khắc hại Tý thủy, Thân kim trở lại khắc Thế, có khắc mà không sanh, sánh với cái họa năm trước, thì lại còn nặng nề hơn nữa. Ngài không nghe, quả tới năm Thìn, tháng 3 về sự điều-trần(tỏ bày việc quan), tuy lưu phương danh muôn thuở, mà bị tội giải về kinh. Lấy thổ mà biện ngày nhựt-phá, là vì phá mà động. Nếu chẳng động thì đừng đoán như thế. -Lý-Ngã-Bình nói : Cuốn Dịch-vị có luận : Nguyệt-phá động là kị-thần, thì vô hại;động làm nguyên-thần thì không nhờ cậy gì . Nhựt-thần sanh nó cũng không nổi, không dùng vào đâu được hết. -Dịch-lâm bổ-di lại nói : Nếu nhằm hào nguyệt-phá, chẳng luận suy vượng, cứ cho là hung: gặp sanh chẳng nhờ sanh, gặp khắc không bị khắc. Lại cũng nói : Tuy có, chớ như không. Xét lại quẻ Cấn biến Quan, ở trước, lúc chiếm nhằm nguyệt-phá, chẳng tiếp tục tương sanh được. Cấu tụng sỉ đình, tuy nguyệt-kiến điền cung, mà sức còn yếu, nên cũng còn bị giáng phạt. Gặp thái-tuế đương quyền, sẻ đặng phục chức và bổ dụng như xưa. Tới năm Thìn, thì thủy nhập mộ, bị họa không vừa. Đó là nửa hung, nửa kiết cùng chung trong môt hào, thì có thể nói : “Nguyệt-phá có chớ như không, chẳng dùng vào đâu được hết” chăng ? Thật là hết sức sai lầm vậy vothuong 05-12-2011, 12:57 AM CHƯƠNG 28: PHI THẦN, PHỤC THẦN Nếu dụng-thần không hiện trong quẻ, thì lấy ngày, tháng làm dụng-thần. Nếu ngày tháng không phải là dụng-thần, thì hảy tìm nó ở quẻ đầu, của bổn cung. Vì quẻ đầu của bổn cung, có đủ lục thân, là Tài, Quan, Huynh, Phụ, Tử. *Giả như chiếm đặng quẻ Thiên Phong Cấu. ---Phụ Tuất Thổ ---Huynh Thân Kim ---Quan Ngọ Hỏa Ứng ---Huynh Dậu Kim ---Tử Hợi Thủy - -Phụ Sửu Thổ Thế Nếu chiếm thê tài, lấy hào Tài làm dụng-thần. Quẻ nầy thuộc về cung Kiền, thì Dần Mão Mộc là thê tài. Nay trong quẻ không có Dần, Mão, thì dụng-thần chẳng có ở trong quẻ. Như chiếm khác ngày tháng Dần, Mão , thì tìm dụng-thần ở trong quẻ đầu là Càn Vi Thiên, tại bổn cung. *Cung Kiền quẻ đầu, Kiền Vi Thiên : ---Phụ Tuất Thổ Thế ---Huynh Thân Kim ---Quỉ Ngọ Hỏa ---Phụ Thìn Thổ Ứng ---Tài Dần Mộc ---Tử Tý Thủy Trong quẻ nầy, Dần Mộc Thê Tài ở hào thứ hai, thì đem nó núp(phục) dưới Hợi thủy của quẻ Cấu. Hào thứ hai Hợi thủy tức là phi-thần;Dần Mộc Thê Tài tức là phục-thần. Hợi thủy sanh Dần mộc, gọi là phi lại sanh phục, đặng trường sanh. Đó là dụng-thần chẳng hiện, tìm đặng phục-thần mà gặp sanh phò, vô dụng cũng ra hửu dụng, thì đoán theo lẽ kiết. Kỳ dư, cứ đó mà suy. *Lại như chiếm cho tử tôn, lấy hào Tử tôn làm dụng-thần. Đây là quẻ Thiên Sơn Độn. ---Phụ Tuất ---Huynh Thân Ứng ---Quỉ Ngọ ---Huynh Thân - -Quỉ Ngọ Hỏa Thế - -Phụ Thổ Thìn Phục: Tý thủy, Tử Tôn Quẻ nầy thuộc về Kiền cung, lấy Tý thủy Tử tôn. Nay trong sáu hào, không có Hợi thủy, cũng là Tử tôn không hiện trong quẻ. Thảng ở vào ngày tháng Hợi Tý, người chiếm quẻ sẻ lấy ngày tháng làm dụng-thần. Nếu không phải ngày tháng Hợi, Tý, thì cũng tìm nó trong quẻ Kiền Vi Thiên. Trong quẻ Kiền Vi Thiên, hào đồng là Tý thủy, Tử tôn, hãy đem nó núp dưới hào đầu là Thìn thổ ở trong quẻ Độn, Thìn thổ là phi-thần, Tử tôn là phục-thần. Đó là phi lại khắc phục-thần, chịu khắc hại, đặt tên là phục-thần thọ chế, hửu dụng cũng là vô dụng. Hảy đoán theo lẽ hung. Kỳ dư, suy theo đó. *Phục-thần hửu dụng có 6 trường hợp: 1. Phục-thần đặng ngày tháng(đồng với ngày, tháng), 2. Phục-thần vượng tướng, 3. Phục-thần đặng phi-thần sanh, 4. Phục-thần đặng động-hào sanh, 5. Phục-thần gặp ngày tháng, động-hào xung khắc phi-thần. 6. Phục-thần gặp phi-thần không, phá, hưu tù, mộ, tuyệt. Huỳnh-kim sách nói : Phục-thần ở dưới hào không, thì dể bề dẫn bạt(kéo lên). Lời luận nầy cận lý. Nhưng chẳng phải một mình phi-thần không-vong mà phục-thần ra đặng. Nếu phi-thần nhằm phá, tuyệt, hưu tù, nhập mộ, phục-thần cũng dể ra. Tại sao ? -Vì phục-thần ở dưới, phi-thần ở trên. Phi-thần đã gặp phá, mộ suy, không, tuy có mà như không, cho nên phục-thần sẻ dể bề xuất hiện . Sáu phục-thần kể trên đều là hửu dụng cả. Tuy nó chẳng hiện, chớ cũng như hiện vậy. *Lại phục-thần không xuất hiện được, có 5 trường hợp: 1. Phục-thần hưu tù, vô khí, 2. Phục-thần bị ngày tháng xung khắc, 3. Phục-thần bị phi-thần vượng tướng đến khắc hại, 4. Phục-thần mộ tuyệt, ở ngày, tháng, ở phi-hào, 5. Phục-thần hưu tù, gặp tuần-không, nguyệt-phá. Đó là 5 cái phục-thần vô dụng. Tuy có mà như không, tới cùng không thể xuất hiện. Huỳnh-kim sách nói : “Phục cư không địa, sự dử tâm vi”. Nghĩa là: Hào phục trúng tuần-không, thì việc chi cũng không vừa lòng. Tôi đặng thấy chổ ứng nghiệm, không phải theo lời luận này. Phàm dụng-thần vượng tướng, mà gặp tuần-không, thì tới ngày ra khỏi tuần-không, sẻ xuất hiện. *Như tháng Mão, ngày Nhâm Thìn, chiếm coi ngày nào đặng lảnh văn thư (giấy tờ, bằng khoan, v. v…) mà họ đương chờ đợi. Đặng quẻ Hỏa Sơn Lữ . ---Quỉ Dần - -Tài Tý ---Huynh Tuất Ứng ---Tài Hợi - -Huynh Sửu Phục : Ngọ hỏa, Phụ Mẫu - -Quan Mão Ngọ hỏa, Phụ mẫu, làm dụng-thần đã không mà lại núp dưới hào hai Sửu thổ, bị đè lên khó ra. Hứa ngày giáp-ngọ, ra khỏi tuần-không thì sẻ đặng. Quả đặng văn thơ ngày giáp-ngọ . *Lại như tháng Dậu, ngày Bính Thìn, chiếm coi bịnh. Đặng quẻ Địa Phong Thăng . - -Quỉ Dậu - -Phụ Hợi - -Tài Sửu Thổ Thế -Phục:Ngọ hỏa, Tử tôn ---Quỉ Dậu ---Phụ Hợi - -Tài Sửu Ứng Huỳnh-kim sách nói : Phục-thần ở dưới hào không, thì dễ bề dẩn bạt (kéo lên). Trong quẻ nầy, Ngọ hỏa Tử tôn phục ở dưới hào Sửu thổ. Sửu thổ bị tuần-không, phục-thần dễ xuất. Hứa ngày Ngọ, Tử tôn xuất hiện, thì được mạnh. Quả đến ngày Ngọ, thì trên sàng chổi dậy. Dẩn lên là dụng-thần chẳng hiện, phải tìm nó ở quẻ bổn cung. Phép xưa lại có nói : Phàm đặng quẻ đầu bát thuần, nếu dụng-thần gặp không, phá, thì lại tìm nó ở cung khác . Tỉ như chiếm đặng quẻ Kiền Vi Thiên, trong đó có dụng-thần bị không, suy, tuyệt, thì lại đến cung Khôn mà tìm nó, gọi là : “Kiền Khôn vảng lai hoán”. Dịch-lâm bổ-di lại cho quẻ Qui-hồn thì lấy quẻ thứ tư trong cung Ly. Dã-Hạc nói : Cần chi phải làm như vậy. Dung-thần bị không, phá, suy, tuyệt, thì việc họa phước đã biết 8, 9 phần rồi . Sao lại không chiếm một quẻ nữa , hiệp lại mà quyết đoán, tự-nhiên có dụng-thần chắc sẻ hiện . *Một ngày kia, tôi tới một nhà nọ, thấy thầy thuốc chật nhà. Tháng Mão, ngày Bính Thìn, chiếm cho cha bịnh. Đặng quẻ Địa Lôi Phục . - -Tử Dậu - -Tài Hợi - -Huynh Sửu Ứng - -Huynh Thìn - -Quan Dần -Phục : Tị hỏa, Phụ Mẫu ---Tài Tý Thế Phụ mẫu dụng-thần chẳng hiện, vẫn biết rõ Tị hỏa Phụ mẫu phục dưới hào thứ hai Dần mộc. Vượng mộc oanh Tị hỏa, phi lại sanh phục, chắc bịnh được mạnh . Không chiếu theo đó mà đoán, tôi bèn bói lại, đặng quẻ Sơn Trạch Tổn . ---Quỉ Dần Ứng - -Tài Tý - -Huynh Tuất - -Huynh Sửu Thế ---Quỉ Mão ---Phụ Tị Hỏa Tị hỏa Phụ mẫu hiện rõ ở hào đầu, chiếm mùa xuân, mộc vượng hỏa tướng, đoán chắc sẽ mạnh . -Khách thấy thế bịnh rất nguy, nên chưa tin chắc. Người con thứ lại chiếm;đặng quẻ Tiệm, biến ra Tổn . ---Quỉ Mão ---Phụ Tị - -Huynh Mùi ---Tử Thân Thế - -Phụ Ngọ Hỏa -----Hợi Thủy - -Huynh Thìn Tôi nghĩ rằng : Hai quẻ trước đều nói sẽ mạnh . Làm sao trong quẻ nầy, Hợi thủy hồi đầu khắc Phụ mẫu . Bỗng nhiên đặng ngộ : Đó là trong hai quẻ trước, Tị hỏa Phụ Mẫu vượng, chẳng bị thương khắc, ứng với sự mạnh đương thời . Trong quẻ nầy, Hợi thủy khắc Phụ , đông lịnh khó sống. -Đến đầu mùa nầy, cha tự chiếm, đặng quẻ Thiên Sơn Độn. ---Phụ Tuất --- Huynh Thân Ứng ---Quỉ Ngọ ---Huynh Thân - -Quỉ Ngọ X Thế------Hợi Thủy - -Phụ Thìn -Quẻ nầy đồng với quẻ trước. Lại thỉnh phu-nhân bói, lại đặng quẻ Thiên Sơn Độn. --- --- Ứng --- ---Huynh Thân - -Quỉ Ngọ X ------Hợi Thủy - -Phụ Thìn Thế Tôi coi luôn ba quẻ nầy, phát lạnh trong gân cốt. Có thần hay không có thần ? -Con chiếm, thì Hợi thủy hồi đầu khắc, -Cha tự chiếm, thì Hợi thủy khắc Thế, -Vợ chiếm cho chồng, thì Hợi thủy khắc Quan. Ba quẻ nầy in như là một tay đưa ra. Mùa đông rất nguy, dầu Biển-Thước cũng khó trị cho lành bịnh. Tôi cũng không nói ra, chỉ theo quẻ trước mà đoán, cho là bây giờ bịnh mạnh. -Tôi hỏi mấy ông thầy thuốc rằng : Theo quẻ thì không thấy rõ, vậy liệt vị thấy làm sao? -Thế bịnh rất nguy hiểm. Rồi họ công nghị một thang đối chứng, cậy nhờ nơi âm-công, đức-hạnh mà thôi. Trong đó có 1 vị cười lạt, mà không nói ra. -Tôi mới hỏi tánh(họ). -Đáp là tánh Thọ. -Rồi tôi mới hỏi riêng rằng : bịnh của ông đây ra sao? -Vị ấy đáp : Tôi có thể trị được. Nhưng không uống thuốc của tôi mới làm sao đặng? Tôi mới nói nhỏ với người con rằng : Bịnh của ông, phải dùng thầy tánh Thọ trị cho. Sáng ra ông tánh Thọ lại tạ ơn tôi. -Tôi mới hỏi tương lai ra thế nào? -Ông nói : Hiện bây giờ thì không có sao, mà bịnh-nhân khó qua khỏi mùa đông nầy. -Tôi nói : Lời ông hợp với số tướng hợp nhau, thật là thần-y! Sau quả chết tháng Hợi. Tôi không dùng phục-thần, nhờ chiếm nhiều quẻ, quyết-định họa phước mới là vững vàng. Đã biết lúc đó thì sống, tương lai sẽ chết, thì không phải nhờ chiếm nhiều quẻ mà ra sao? Lý-Ngã-Bình nói : Phép xưa dùng phục-thần, tuy là có ứng nghiệm, nhưng phục-thần bị suy, vuợng, hưu tù, hình xung khắc, hại, nguyệt-phá, tuần-không, khó lấy đâu làm căn cứ, nên nói : Chiếm thêm quẻ thứ hai, thì có dụng-thần, thiệt là bí pháp!Đem cái bí-pháp này, muốn vội truyền cho người đời, thiệt là ba-tâm! Có kẻ nói : Chiếm nhiều chứng hai quẻ, đã là phiền nhọc thần-linh rồi, chẳng dám chiếm tới ba. Nhưng đây còn chiếm lại nữa, thiệt là bí quyết biết là dường nào! Tôi nói :Đã biết chiếm lại nữa, mà sao dụng-thần chẳng hiện, còn phải tìm phục-thần? Phục-thần vô dụng, lại tìm hộ quái. Hộ quái không ra, còn tìm ở hóa. Huống trong Dịch-vị, chương biến hộ , có ghi chiếm nghiệm. Duy có Vân-cường mới thiệt là sai lầm nốt! Tháng Tý, ngày Mậu Dần, chiếm quan. Đặng quẻ Khốn, biến ra Đoài. - -Phụ Mùi ---Huynh Dậu ---Tử Hợi Ứng - -Quan Ngọ ---Phụ Thìn - -Tài Dần Mộc X Thế-----Quan Tị Hỏa Họ đoán rằng: Phi-hào Ngọ hỏa Quan đã bị phá. Tị Quan, là phục-thần, trường sanh ở Dần. Tới mạnh-xuân(tháng giêng), sẽ được thăng chức. Tôi lại đoán : Huỳnh-kim sách nói : phi-hào, biến-hào đều là không có dụng-thần, mới là tìm phục-thần. Trong quẻ nầy, hào đầu Dần mộc biến ra Tị hỏa quan-tinh, mạnh-xuân Quan gặp trường sanh, thì hào hết sanh Quan. Sao mà không nói : biến xuất quan, lại nói phục-thần? May trong quẻ nầy, phục-thần và biến hào đều là Tị hỏa. Thảng người sau gặp quẻ khác, chấp đấy làm kiểu mẫu, dùng biến-hào hay là dùng dụng-thần? Chẳng phải là kiểu mẫu của người truyền thế dạy người, thì chẳng nhận dùng. Lại thấy những điều chiếm nghiệm trong chương “hóa”, càng thêm tức cười! - Năm Tân Mão, tháng Bính Thân, ngày Bính Tý, có người chiếm coi người còn sống hay chết, còn hay mất? ---Tài Mão Mộc O -------Mùi Thổ ---Quỉ Tị - -Phụ Mùi Thổ X Thế---Tử Hợi Thủy - -Tài Mão - -Quỉ Tị - -Phụ Mùi Ứng Họ đoán rằng : Thủy là Tử tôn chẳng hiện, mà đặng tháng Bính, năm Tân, Bính Tân hóa Thủy. Sau tới tháng Hợi, ngày giáp-thìn, Thân Tý Thìn hợp Thủy cục, tháng Hợi sẽ trở về. -Tôi đoán rằng : Thế hào Mùi thổ phát động, hóa ra Hợi thủy Tử tôn, thì tháng Hợi sẽ thấy mặt con. Thế với Tử tôn : Hợi Mão Mùi, tam hợp thành cục, rõ ràng là cha con gặp nhau. Sao lại dùng hóa mà đoán? Giả như trong quẻ, Hợi thủy chẳng hiện, Tý thủy nhật-kiến, cũng là dụng-thần. Dụng-thần đông đúc mà chẳng dùng, lại lấy thiên can hóa ngũ hành ở bên cạnh. Đó là làm cho người lầm lạc, chớ chẳng phải dạy người sau. CHƯƠNG 29: TIẾN THẦN, THỐI THẦN Tiến-thần, thối-thần là hào động tự hóa ra. Hóa tiến, hóa thối, kiết hung, họa phước, thì có phân hai đường hỉ kị (ưa ghét). Chỗ hỉ thì nên hóa tiến, chỗ kị thì nên hóa thối-thần. -Hóa tiến-thần là: Hợi hóa Tý, Dần hóa Mão, Tị hóa Ngọ, Thân hóa Dậu, Sửu hóa Thìn, Thìn hóa Mùi, Mùi hóa Tuất. -Hóa thối-thần là: Tý hóa Hợi, Mão hóa Dần, Ngọ hóa Tị, Dậu hóa Thân, Thìn hóa Sửu, Mùi hóa Thìn, Tuất hóa Mùi. +Tiến-thần là biến hóa tiến tới, như cây mùa xuân, như nước có nguồn, nên có dáng tiến tới lâu dài. +Thối-thần là bắt từ đây thối lại lần lần, như mùa thu, cây bông lần lần điêu tàng. *Như tháng Thân, ngày Quí Mão, chiếm hương thí (thi trong làng). Đặng Hằng biến ra Đại Súc. - -Tài Tuất Ứng - -Quan Thân Kim ----Dậu Kim ---Tử Ngọ ---Quan Dậu Thế ---Phụ Hợi - -Tài Sửu Đoán rằng: Dậu kim, Quan trì Thế, vượng tướng đương thời, mà bị ngày Mão xung, nên ám động. Lại đặng trên hào cửu ngũ, Quan hóa tiến-thần, Tài trợ sanh phò(? ). Chẳng những mùa thu nầy bẻ quế, sang xuân định chiếm ngao đầu. Quả đậu luôn hai keo. *Lai như tháng Mão, ngày Ất Sửu, chiếm coi cầu hôn có thành chăng? Đặng quẻ Phệ Hạp, biến Tỉ. ---Tử Tị Hỏa O-------Phụ Tý Thủy - -Tài Mùi Thổ Thế---Tuất Thổ ---Quan Dậu Kim-----Quỉ Thân Kim - -Tài Thìn - -Huynh Dần Ứng ---Phụ Tý Thủy O----Tài Mùi Thổ Tài hào trì Thế, hóa tiến-thần. Tị hỏa tự động sanh Thế. Nhưng vì Tị hỏa, hóa Tý thủy, hồi đầu khắc, phải chờ ngày Ngọ xung khử Tý thủy, Tị hỏa trở lại sanh Thế hào, thì sự hôn-nhân sẽ thành. Quả tới ngày Ngọ cho cưới. -Có kẻ hỏi: Hào Dậu kim Quỉ động, không có trở ngại sao? -Quỉ ta hóa thối-thần, tuy có bị trở ngại, mà không hại. Quẻ nầy, Thế hào Mùi thổ, tài hóa Tuất tuần-không. Người xưa gọi Tài hóa tuần-không là động. Ngày tháng mà hóa không con không tiến được. Vô lực, động tán mà hóa không, cũng có thể tiến chăng? *Lại như tháng Dậu, ngày giáp-thìn, vì bị luận(quyết tội) chiếm tự trần ra sao? - -Phụ Dậu Ứng - -Huynh Hợi - -Quỉ Sửu - -Tài Ngọ Hỏa Thế------Hợi thủy ---Quan Thìn Thổ O -----Sửu Thổ - -Tử Dần Mộc X --------Mão Mộc Đoán rằng: Thế hào hồi đầu khắc, Quan hóa thối-thần, Tử tôn hóa tiến-thần. Ba hào đều chẳng điềm tốt, đại hung. Quả năm sau, bị cách chức và bắt tra vấn. Người xưa cho ngày tháng động hào mà hóa không, phá, gọi là chẳng thối. Quẻ nầy, Quan động nhằm nhật-thần. Lại gọi: Ngày, tháng động hóa không, phá gọi là chẳng tiến. Trong quẻ nầy, Tử tôn động, hưu tù mà hóa không, phá, tiến thì vẫn tấn tới, mà thối rốt rồi cũng thối. *Lại như tháng Sửu, ngày Bính Tuất, chiếm coi đặng tin cha, ở chổ trấn nhậm đã lên đường, bây giờ đi đón rước có gặp không? - -Tử Tý Thủy ----------Tị Hỏa ---Phụ Tuất Thổ-----------Mùi Thổ - -Huynh Thân Kim X Thế---Dậu Kim ---Huynh Thân - -Quỉ Ngọ - -Phụ Thìn Ứng Phụ hóa thối-thần, đã về rồi. Thế hóa tiến-thần, là con muốn đi đón. Phụ hào sanh Thế, nhất định sẽ gặp, giáp mặt ngày Mùi. Quả đặng gặp nhau ngày Mùi. Ứng vào ngày Mùi, là Tuất Phụ hóa Mùi, bị phá, lại không. Tới ngày Mùi, là ngày thiệt cái không, thiệt cái phá kia. Nếu chấp theo phép xưa, cho ngày tháng động mà hóa không, phá gọi là chẳng thối, thì theo hào nầy, có ngày nào mà về đâu? Như tháng Tuất, ngày Quí Tỵ, chiếm coi năm nay, mùa đông có đặng tịch sai(bổ làm việc )không? Đặng quẻ Thủy Trạch Tiết, biến ra quẻ nhu. - -Tý Thủy ---Tuất Thổ - -Thân Kim Ứng - -Quan Sửu Thổ ---Thìn ---Mão Mộc ---Tị Hỏa Thế Sửu thổ, Quan, động hóa tiến-thần. Hứa ngày Sửu, sẻ đặng. Quả sau ngày Sửu đặng. Người xưa cho ngày tháng động hóa không, pha, là không tiến. Quẻ nầy động, chẳng phải nhằm ngày, tháng, hóa không phá, cũng vẫn tiến được. *Lại như tháng Mùi, ngày Đinh Mão, chiếm công danh, coi sau có ra làm quan được không? Đặng quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân, biến ra quẻ Cách. ---Tử Tuất O Ứng-------Mùi Thổ ---Tài Thân ---Huynh Ngọ ---Quỉ Hợi Thế - -Tử Sửu ---Phụ Mão Tôi nói: Nếu đoán theo phép xưa, thì hể Tử tôn động, thì có tài, mà chung thân không có quan. Tôi hưa đến năm Thìn, sẻ làm quan. Tại sao? Tuất Thổ Tử tôn tuy động, mà nay nó hóa thối-thần, chẳng khắc Quan. Năm Thìn xung khử Tuất thổ, cho nên hứa như vậy. Quả tới năm Thìn, đắc tuyển. Há đi gọi động, không hóa ngày tháng, thì chẳng thối chăng? vothuong 05-12-2011, 01:03 AM *Lại như tháng Thân, ngày Mão, chiếm bịnh. Đặng Trạch Thiên Quải, biến Đại Tráng. - -Huynh Mùi ---Tử Dậu O Thế-------Tử Thân ---Tài Hợi ---Huynh Thìn ---Quỉ Dần Ứng ---Tài Tý -Ông ấy bàn cho là chứng nguy. -Tôi nói: Tử tôn trì Thế, ngày mai là ngày Thìn, sẻ gặp lương-y. Quả ngày sau, dùng châm chích mà được mạnh. -Có kẻ nói: Tử tôn hóa thối-thần, sao mà dùng thuốc cũng thấy hiệu? -Tôi nói: Động và biến đều thuộc về thu kim. Đương tướng, đắc lịnh, chiếm về việc gần, há có thể nói thối? Nếu chiếm việc xa xôi, chờ lúc nào hưu tù, mới có thể thối được. Xưa nói động, phá, tán, mà hóa ngày tháng, không có thềm lên, không có lộ tới ( cùng đường rồi) , là lầm. *Lại như tháng Sửu, ngày Quí Mão, chiếm vợ bịnh uống thuốc có thể mạnh chăng? Đặng quẻ Lâm, biến Thái. - -Tử Dậu - -Tài Hợi Ứng - -Huynh Sửu - -Huynh Sửu ------Huynh Thìn ---Quỉ Mão ---Phụ Tỵ Thế -Tôi đoán rằng: Huynh động hóa tiến-thần, linh-đơn cũng khó cứu. Người vợ ấy chết ngày Thìn. Đây là Huynh động trúng nguyệt-kiến, mà hóa tuần-không, cũng có thể gọi là chẳng thối chăng? *Lại như tháng Tuất, ngày Quí Mùi, chiếm bịnh, đặng quẻ Kiền biến Quải. ---Phụ Tuất O Thế -------Huynh Mùi ---Huynh Thân ---Quỉ Ngọ ---Phụ Thìn Ứng ---Tài Dần ---Tử Tý Đoán rằng: Bịnh đau lâu, gặp xung không thể trị. Lại là Phụ hào trì Thế, diệu dược nan y. Tuy hóa thối-thần, không phải bệnh thối. Đó là cái dáng tinh-thần mạch mạng lân lân khô khan. Phải phòng ngày tháng xung phá Mùi Thổ, thì cùng đường. Quả sau chết tháng Sửu. *Lại như tháng Tuất, ngày Ất Mão, chiếm bị huyết băng trên một năm. Đặng quẻ Đồng Nhân, biến Giải. ---Tử Tuất O Ứng-----Tuất ---Tài Thân O---------Thân ---Huynh Ngọ ---Quỉ Hợi O Thế-------Huynh Ngọ - -Tử Sửu ----------Tử Thìn ---Phụ Mão O----------Phụ Dần Mão mộc Phụ mẫu gặp nhật-kiến. Ứng hào Tuất thổ sanh Thân kim, kim sanh Hợi thủy. Nếu chẳng có Sửu thổ hóa tiến-thần mà ngăn Hợi thủy, thì cái hào Phụ mẫu nầy, nhờ cái hào vượng tướng đó sẽ sanh hỏa, cường hiểm mà hóa phá. Nay Phụ mẫu mộc hào, đã không có nước dưỡng, mà lại hóa thối-thần, tinh huyết rất vượng tướng, tới tháng Sửu vượng, chính là dễ tuyệt nguồn nước, nguồn nước bị nguy hiểm. Quả chết tháng Sửu. Đó là Phụ gặp nguyệt-kiến, không hóa không, phá mà cũng có thể thối *Lại như tháng Mão, ngày Quí Dậu, chiếm cha mới đau. Đặng quẻ Tụy biến Bỉ. - -Phụ Mùi X Ứng-----Tuất ---Huynh Dậu ---Tử Hợi - -Phụ Sửu Thế - -Tài Mão - -Quỉ Tị Mùi thổ Phụ động, hóa tiến-thần Tuất, gặp tuần-không. Bịnh mới mà gặp không, sẽ mạnh ngay. Hứa ngày sau, bịnh thối. Quả tới ngày giáp-tuất, ra tuần không thì thấy mạnh ngay. Đó là Phụ hào hưu tù mà hóa không. Nếu theo phép xưa, ngày tháng động hóa không phá, còn chưa có thể tiến. Nay hưu tù, mà hóa không, có thể mạnh không? *Lại như tháng Thìn, ngày Quí Sửu, chiếm bịnh niên. Đặng quẻ Khổn, biến Giải. - -Phụ Mùi ---Huynh Dậu O------Thân ---Tử Hợi Ứng - -Quỉ Ngọ ---Phụ Thìn - -Tài Dần Thế Đoán rằng: Thế hào Dần mộc gặp tuần-không, Dậu kim kị-thần động ở ngôi ngũ. Phép xưa gọi là tị không. Tôi không đoán như thế. Ra khỏi “không”, nhứt định mang tai. Sau chết nhằm tháng 6, ứng trong bổn ngoạt là thổ hào Mùi thổ, là mộ của Thế hào đã phá, ngày Sửu xung khai, gọi là: khai mộ dĩ đải bỉ khắc, mà nhập mộ, há không chết sao? -Hỏi: Dậu kim hóa thối-thần, mà sao lại khắc Mộc? -Tôi đáp: Ngày Sửu thổ sanh Dậu kim, vượng mà chẳng thối. *Lại như tháng Thìn, ngày Ất Sửu, chiếm bịnh cho mẹ vợ. Đặng quẻ Tùy biến Bỉ - -Tài Mùi X Ứng------Tuất ---Quỉ Dậu ---Phụ Hợi - -Tài Thìn Thế - -Huynh Dần ---Phụ Tý O ------Tài Mùi Đoán rằng: Tý thủy Phụ hào hóa Mùi thổ, hồi đầu khắc Phụ. Thổ hòa Mùi thổ lại hóa tiến-thần, để khắc phụ. Phải phòng tháng Tuất. Quả chết ở ngày giáp-tuất, là ngày Tuất thổ ra khỏi tuần không. Phép xưa nói tán như không tán. Quẻ nầy Mùi thổ bị Nhật xung, lại hóa tuần-không. Nguyệt-phá rốt cuộc không thấy nó tán. *Lại như tháng Thân, ngày Ất Mão, chiếm xuất hành. Đặng quẻ Truân biến Tiết. - -Huynh Tí ---Quỉ Tuất Ứng - -Phụ Thân - -Quỉ Thìn - -Tử Dần X Thế-----Tử Mão ---Huynh Tí Đoán rằng: Thế trúng Dần mộc và hóa tiến-thần, thì xuất hành rất tốt. Nhưng bị nguyệt-phá thì chưa thể đi liền. Chờ hết tháng đó, mới được. Sau tới tháng Hợi ra đi, từ Yên tới Việt. Năm sau, tháng 8 trở về. -Tôi hỏi: Đi đường có được bình-an chăng? -Đáp: Đi, về, chi cũng nhờ Trời đều được bình-an. Tôi thấy Tử tôn hóa tiến-thần thì biết được bình-an, nên mới hỏi câu đó. Ra đi vào tháng Hợi là ứng vào phá mà gặp tháng hợp. Đó là động phá hóa nhật-thần, há gọi là chẳng tiến, được chăng? *Lại như tháng Thìn, ngày Kỉ Mùi, chiếm anh ngày nào trở về. Đặng quẻ Lý biến Đoài. ---Huynh Tuất O------Huynh Mùi ---Tử Thân Thế ---Hỏa Ngọ - -Huynh Sửu ---Quỉ Mão Ứng ---Phụ Tị Phàm huynh động hóa thối, đã có chí trở về. Nhưng Tuất gặp nguyệt-phá, tại ngoại mọi việc chưa toại, tháng 6 có hi-vọng. Sau tới tháng Tuất mới về, ấy là ứng vào tháng thiệt phá. Đó là động phá, mà biến nhựt nguyệt, há có thể gọi là thối bất cập chăng? *Lại như tháng Thìn, ngày Ất Mùi, chiếm coi bịnh. Đặng Đại Hửu biến Khuể. ---Quỉ Tị Ứng - -Phụ Mùi ---Huynh Dậu ---Phụ Thìn O Thế-----Phụ Sửu ---Tài Dần ---Tử Tý Như Thìn thổ vượng, do Phụ gặp nguyệt-kiến, hóa thối thần. Người con đó chết ngày sau. *Lại như tháng Mão, ngày Bính Dần, nha dịch chiếm coi quan-phủ thăng chức không? Đặng quẻ Giải biến Khổn. - -Tài Tuất - -Quỉ Thân X -------Quỉ Dậu ---Hỏa Ngọ - -Tử Ngọ ---Tài Thìn - -Huynh Dần Quan động hóa tiến-thần, đến mùa thu đắc lịnh. Sau đặng tin thăng chức tháng Tị. Ứng vào tháng Tị là động mà gặp tháng hợp. Thân kim lại trường sinh ở Tị. Đó là ngày giờ động mà hóa không, phá, há gọi là chẳng tiến sao? *Lại như tháng TỊ, ngày Ất Sửu, chiếm coi trúng thí không? Đặng quẻ Đoài biến Tụng. - -Phụ Mùi X Thế ------Tử Tuất ---Dậu ---Hợi - -Sửu Ứng ---Mão ---Quỉ Tị O---------Phụ Dần Đoán rằng: Mùi Phụ hóa tiến-thần, TỊ hỏa Quan động mà sanh Thế, rõ ràng là điềm kiết, ngồi chờ mà nghe tin. Quả tới ngày Dần, yết bảng trúng đệ bát danh. Phép xưa động phá tán hóa ngày tháng, còn chẳng tiến được. Quẻ nầy động tán hóa không, mà cũng trúng thí được. *Lại như tháng Mùi, ngày Đinh Sửu, chiếm mẹ ở xa cách ngàn dặm, chừng nào mới trở về. Đặng quẻ Hỏa Thiên Đại Hửu, biến Tỉnh. ---Quỉ Tị O Ứng-----Tý - -Phụ Mùi ---------Tuất - -Huynh Dậu O------Thân ---Phụ Thìn Thế ---Tài Dần ---Tử Tý O-----------Phụ Sửu Hào đầu, Tý thủy, hóa ra Sửu Phụ, Tý hợp với Sửu, bị hợp mà không về. Mùi Phụ hóa tiến-thần, cũng là ứng chẳng về. May đặng Mùi thổ sanh Dậu kim huynh hào, huynh hóa thối-thần mà hợp Thế;mẹ chắc không về, có anh em về. Họ nói: Có em gái, chớ không có em trai. QUả năm sau tháng 3, em gái tới. Đó là hào huynh đệ hóa không, không thể thối được. *Lại như tháng Mùi, ngày Ất Sửu, chiếm khai phố bán đồ kim-ngân. Đặng quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp , biến Truân. ---Tử Tị O------Tý - -Tài Mùi X Thế-----Tuất ---Quỉ Dậu O----------Thân - -Tài Thìn - -Huynh Dần Ứng ---Phụ Tý Tài hào trì Thế, hóa tiến-thần, đó là cái dáng phong long lâu dài. Tôi nói: Tôi thế anh mà chọn giùm ngày giáp-tuất để khai-trương, thì hứa chắc sẽ đại phát. QUả khai thị ngày Tuất, tới nay cái phố nầy trở nên phong thạnh. Đó là ngày tháng động mà không, há gọi là chẳng thối không? *Dã Hạc nói: Phép tiến-thần có 4 trường hợp: 1. Hào động vượng tướng mà hóa ra vượng tướng, thừa thế mà tiến. 2. Hào động hưu tù mà hóa ra hưu tù, chờ thời mà tiến. 3. Trong hào động, hào biến, có một gặp hưu tù cũng chờ ngày vượng tướng mà tiến. 4. Trong hào động, hào biến, có một gặp không, phá , chờ ngày điền thiệt mới tiến Phép thoái-thần cũng có 4 trường hợp: 1. Hào động vượng tướng mà hóa ra vượng tướng, hoặc có ngày tháng , động hào sanh phò, chiếm việc gần, đắc thời thì chẳng thối. 2. Hào động hưu tù, mà hóa ra hưu tù, tới giờ đó thì thối. 3. Trong hào động, hào biến, có một vượng tướng, chờ thời nào hưu tù mới thối. 4. Trong hào động, hào biến, có một gặp không, phá, chờ ngày điền thiệt mới thối. Lý-Ngã-Bình nói: Mới khai cuốn Dịch-vị, có đại tấn, bất tấn. Không thể tấn là chỉ nói:lý gần. Sau có ngày tháng động mà hóa không, phá, thì hết bực, cùng đường gọi là bất tấn, nên biết là lầm. Động hào đã trúng ngày, tháng, gặp không chẳng không, gặp phá chẳng phá, thì ngày tháng như Trời. Tuy hóa không phá như mây nổi che mặt nhật. Này nào thiệt không, thiệt phá, tức là mây tan móc tán, tư lịnh đương quyền, sao gọi là bất tấn? Lại nói: Động mà gặp phá tán, mà biến ngày tháng gọi là: ngôi ta đã mất, làm sao mà tới (hà dĩ đắc tiến ). Sao không rõ: Đã động mà phá, tự nhiên có khi thiệt phá;đã động mà tan, tự nhiên có ngày điền thiệt. Huống hóa ngày tháng, gọi là hóa vượng, ngày sau điền thiệt rồi, càng thêm vượng, càng thêm mạnh. Sao mà gọi là không tới? Họ có để cách thức lại như vầy: -Tháng Thân, ngày Mão, chiếm về anh em. Đặng quẻ Đoài ra Phong. - -Phụ Mùi Thế ---Huynh Dậu O--------Thân ---Tử Hợi - -Phụ Sửu X Ứng------Hợi ---Tài Mão O-----------Sửu ---Quỉ Tị Hào Dậu Huynh Đệ, bị ngày Mão xung tán, tuy hóa Thân làm nguyệt-kiến, cũng là không đến nổi thối (bất cập thối). Bất thối ấy là kiến đó. Bất cập thối là lầm. Họ nói: Trong chương Nguyệt tướng có nói: hào trung nguyệt-tướng, gặp tấn mà không tán. Dậu kim tháng 7, tuy chẳng phải nguyệt-tướng, làm sao nói là không vượng? Huống hóa nguyệt-kiến, động biến đều thuộc vàng cứng bang trợ cũng phò, như núi, như đỉnh, thì biết ngày làm sao xung tán. Mấy chương khác có ghi chiếm nghiệm, chỉ có chương nầy để 1, 2 kiểu quẻ mà thôi, nên tôi biết là định chừng mà nói, chớ không phải là kinh nghiệm mà ra.
Dã Hạc nói: Xưa kia tôi có lấy toàn đồ này mà gửi cho 1 người bằng hữu, lúc đi ra cầu sĩ (làm quan). - Người bằng hữu hỏi: Tôi không biết ngũ hành, làm sao mà đoán quẻ được? - Tôi trả lời: Trước học chấm quẻ. Khi đặng quẻ rồi, coi là quẻ gì, rồi tìm quẻ ấy trong toàn đồ, chiếu theo đó mà viết ra, nào là Thế Ứng, nào là Ngũ Hành, nào là Lục Thân. Không cần đọc sách quẻ, tức là không biết lý ngũ hành sinh khắc, vẫn đoán được bốn việc lớn. Không kể gì trong quẻ có động, cùng là không có động, cứ chiếu theo toàn đồ, và chỉ coi hào thế mà thôi. BỐN VIỆC LỚN: 1. Chiếm Phòng Ngừa Ưu Hoạn: Nếu đặng Tử Tôn trì Thế, không có gì lo. Đặng Quan Quỷ trì Thế, ưu nghi khó giải; phải để ý phòng ngừa. 2. Chiếm Công Danh: Nếu đặng Quan Quỷ trì Thế, thì hứa sẽ nên danh. Đặng Tử Tôn trì Thế, thì phải chờ thời. 3. Chiếm cầu Tài: Thê Tài trì Thế chắc sẽ đăng. Huynh Đệ trì Thế thì khó cầu. 4. Chiếm Tật Bệnh: Nếu đặng quẻ lục xung, bệnh mới đau, không uống thuốc mà mạnh. Còn bệnh đau lâu, thần tiên cũng khó cứu. - Người bằng hữu hỏi: Sao là Tử Tôn trì Thế? - Tôi trả lời: Tử Tôn và chữ Thế đồng ở chung một hào, tức là Tử Tôn trì Thế. Nếu gặp Quan Quỷ và chữ Thế đồng ở chung một hào, tức là Quan Quỷ trì Thế. Kỳ dư Huynh Đệ, Thê Tài trì Thế, thì cũng đồng như nói trên. Phải biết sao gọi là quẻ lục xung. Trong mỗi cung những quẻ đầu là: Kiền Vi Thiên, Đoài Vi Trạch, Ly Vi Hỏa, Chấn Vi Lôi, Tốn Vi Phong, Khảm Vi Thuỷ, Cấn Vi Sơn, Khôn Vi Địa, đều là quẻ lục xung cả, thêm quẻ Thiên Lôi Vô Vọng, Lôi Thiên Đại Tráng, cũng là quẻ lục xung. Tổng cộng là 10 quẻ, còn lại thì không phải. - Có kẻ hỏi: Cầu quan nếu đặng Quan Quỷ trì Thế, cầu danh chắc thành. Cầu tài nếu đặng Thê Tài trì Thế, cầu tài chắc thành. Nếu như hào Quan Quỷ với hào Thê Tài, hoặc gặp Tuần Không, Nguyệt Phá, hoặc bị trong quẻ có Tử Tôn phát động để hại Quan. Huynh Đệ phát động để hại Tài, tuy gặp Quan Quỷ trì Thế, Thê Tài trì Thế, có ích chi đâu? - Tôi trả lời: Nếu anh biết lý ngũ hành, thần linh đã rõ rồi. Cái quẻ anh chiếm đặng, không phải trong hung ẩn kiết, định cũng là trong kiết ẩn hung. Đó là thần thánh dẫn người được biết chỗ áo lý, tự nhiên phải xem Tuần Không, Nguyệt Phá, Sinh Khắc, Xung Hình. Còn anh không biết lý ngũ hành, thần thánh cũng đã sớm biết rồi. Như cầu danh, thì van vái rằng: Công danh nếu thành, cho tôi quẻ Quan Quỷ trì Thế. Nếu không có hy vọng, cho tôi quẻ Tử Tôn trì Thế. Như chiếm phòng ngừa ưu hoạn, hãy van vái rằng: Nếu có hoạ, xin cho Quan Quỷ trì Thế. Nếu thoát khỏi tai nạn, xin cho quẻ Tử Tôn trì Thế. Trong quẻ chiếm đặng, tự nhiên rõ ràng dễ thấy. Nếu có chỗ ẩn vi (không rõ) thì thần thánh cũng khi người, đâu còn phải là thần. Huống tôi bày ra phép giản dị này, chỉ để cho người không biết lý ngũ hành mà thôi. Ai biết chiếm quẻ, cứ chiếu theo 8 cung mà lập quẻ, thì sẽ biết quyết đoán 4 VIỆC LỚN. Nếu biết chút lý ngũ hành, thì chớ nên dùng phép này. [Trích Tăng San Bốc Dịch] Thánh Dã Hạc lại nói: Phải xem kỷ lời trong sách này giải: Sao là không mà chẳng không, phá mà chẳng phá. Sao là Mộ mà chẳng mộ, Tuyệt mà chẳng Tuyệt. Sao là chân phản ngâm, giả phản ngâm. Sao là tiến mà chẳng tiến, thối mà chẳng thối. Sao là hồi đầu khắc mà sinh, hồi đầu khắc mà tử. Chỗ nào phải xem Dụng Thần, chỗ nào không xem Dụng Thần. Sao là chiếm đây mà ứng đó (hỏi việc này mà ứng việc kia), chiếm xa mà ứng gần. Sao là đắc pháp, bách chiếm bách linh (xủ quẻ trăm phát trăm ứng). Sao là chẳng đắc pháp chiếm hoài không nghiệm. Sao là Nguyên Thần hữu lực, chẳng sinh Dụng Thần. Sao là Kỵ Thần vô lực, hay hại Dụng Thần. Chỗ nào sai lầm, phải bác ở các sách. Chỗ nào kỳ diệu, thêm xảo nghiệm cho mình. Phải xét kỷ các thứ bí pháp đó, mới có thể nhất quyết mỗi việc như thần. - Có kẻ hỏi: Xin một quẻ không rõ, chiếm một quẻ nữa, nếu một quẻ nữa mà không được hiểu rõ, thì ngày mai sẽ chiếm lại. Xưa kia, người ta câu nệ không dám chiếm lại, cho nên hết phương pháp. Tôi thấy Kinh Dịch nói: "Ba người chiếm, thì theo lời bàn của hai người". Người xưa có một viêc mà có thể quyết ở ba chỗ người nay tái cầu có hại chi đâu. Tôi bình sinh, ít đặng áo lý, toàn là nhờ sức chiếm lại nhiều lần. Nếu việc không gấp có thể từ từ chiếm lại. Nếu gặp việc gấp, nghỉ một chút rồi lại chiếm nữa. Chẳng luận sớm trưa, chẳng cần đốt nhang, nữa đêm canh khuya, cũng có thể chiếm. Chỉ cần chiếm một việc đó mà thôi, chớ đừng có chiếm lại việc khác. Duy có người chiếm quẻ mà trong lòng tưởng đôi ba việc, chẳng phải có lòng thành nhất niệm, thì quyết chắc không linh nghiệm. Giả như chiếm công danh, hoặc là Quan Quỷ trì Thế, hoặc là Tử Tôn trì Thế, đặng một trong hai quẻ đó, thì đã biết thành bại nên hư, không cần và không nên chiếm nữa. Chớ khá thấy Tử Tôn trì Thế, mà trong lòng không vui, muốn cầu cho đặng Quan Quỷ trì Thế mới chịu cho. Như vậy là trái lẽ. Như chiếm cầu tài, hoặc là Tài trì Thế, hoặc là Huynh Đệ trì Thế, trong hai lẽ có có đặng một thì thôi, có cần chi chiếm nữa. Thỉnh thoảng cũng một việc mà có nhiều người đồng chịu ảnh hưởng họa phước, thì mỗi người chiếm một quẻ cho chắc. Như đi thuyền gặp bảo tố, trong nhà phòng hỏa hoạn, thì ai ai cũng đều chiếm được. Nếu có một quẻ mà đặng Tử Tôn trì Thế, thì hết thảy có gì lo. Còn chiếm tật bệnh, người bệnh nặng tự chiếm cho mình, nếu không đặng quẻ lục xung, thì trong nhà ai ai cũng có thể chiếm giùm. Nếu có một người đặng quẻ lục xung, hoặc thuộc bệnh mới đau, hoặc thuộc bệnh đau lâu, thì sự cát hung đã thấy rõ ràng. Tôi nói với bạn rằng: Người thế gian, phàm có nghi nan, mở miệng thì nói: cầu thần hỏi bói, đủ biết họ muốn rõ sự kiết hung sẽ đến. Ngoài việc bói ra, không còn phép nào nữa. Tôi học tập Chu Dịch mấy năm, việc nào hỏi bói, xem lý cảm ứng, như thần thánh mở miệng nói chuyện với mình, làm cho con người phải rỡn ốc cùng mình. Vì đó mà có kẻ không biết cái áo diệu của Dịch, chẳng đọc sách bói, tôi không đành không chỉ cái bí pháp ấy, cho người ta theo đó mà thí nghiệm. Nếu bạn thấy linh thì tự nhiên mới ham đọc sách, học bói. Phép này rất hay, bạn cũng có thể truyền cho người khác. Dù quan lớn, thứ dân, dù làm ăn, buôn bán, không có ai mà chẳng nên dùng. Phải nhớ: Người nào dốt đặc lý ngũ hành sinh khắc thì mới nên dùng phép này. Nếu có kẻ biết chút ít ngũ hành thì thần cho hiện quẻ ẩn vi. Vậy trước phải đọc hỗn thiên Giáp Tí, lục Thân ca, hễ chiếm đặng quẻ, thì phải trang ngũ hành, lục Thân. Rồi còn học biến động. Trong quẻ phải có hào động, hễ động thì biến. Đã biết động biến rồi, phải coi Dụng Thần, Nguyên Thần, Kỵ Thần. Biết cái này mới vào được cửa Bói Dịch. Kế coi chương bốn mùa Vượng Tướng; chương Ngũ Hành tương sinh, tương khắc; chương Ngũ Hành tương xung, tương hợp; chương Tuần Không, Nguyệt Phá, Sinh Vượng, Mộ Tuyệt thì lại như vào nhà khách của Bói Dịch.