TINH AB (đâu đuôi )

Thảo luận trong 'Phần Mềm Xổ Số - Phát Hiện - Phát Triển' bắt đầu bởi vinhlam, 25/9/12.

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.
  1. truongvanla

    truongvanla Thần Tài

    20.11 ab mt&mb
    35,36,46,56.mtlo 36
     
  2. truongvanla

    truongvanla Thần Tài

    chẹp...chẹp a lô 36 :wins:
     
  3. truongvanla

    truongvanla Thần Tài

    nhận hàng b 72 you nhe :banana:
     
  4. viethai89

    viethai89 Thần Tài Perennial member

    B mt khung nuôi 7 ngày
    13-18-19-38-39-89
    bắc đàu ngày 08/12.
     
  5. hangchuc

    hangchuc Thần Tài

    trời b py 18,chưa kịp ra tay :115:
     
  6. evaairways

    evaairways Thành Viên Mới

    Cái này đọc xong chất thành tiên nhân luôn quá, mới đọc có chút xíu mà oải cả mắt :132:. Có phương pháp nào ngắn gọn và dễ đọc hơn không vậy?
     
    vinhlam, Bạch Vân and viethai89 like this.
  7. VuongTuongLocMa

    VuongTuongLocMa Thần Tài

    cho Vượng xin 1 slot học hỏi
    ngày 19/12/2014
    ngày Giáp TýNgày: Giáp Tý; tức Chi sinh Can (Thủy, Mộc), là ngày cát (nghĩa nhật).
    Nạp Âm: Hải trung Kim kị tuổi: Mậu Ngọ,
    Ngày thuộc hành Kim khắc hành Mộc, đặc biệt tuổi: Mậu Tuất(2018) nhờ Kim khắc mà được lợi.
    Ngày Tý lục hợp Sửu(1985,1997,2009,2021,2033), tam hợp Thìn(2024) và Thân(2004) thành Thủy cục; xung Ngọ(1990,2002,2014,2026,2038), hình Mão(1987.1999.2011,2023,2035), hại Mùi(1991,2003,2015,2027,2039), phá Dậu(1993,2005,2017,2029,2041), tuyệt Tỵ(1989,2001,2013,2025,2037).
     
    Chỉnh sửa cuối: 19/12/14
  8. VuongTuongLocMa

    VuongTuongLocMa Thần Tài

    happy new year 2015
    tải xuống.jpg
    tải xuống (3).jpg
     
    Chỉnh sửa cuối: 1/1/15
  9. viethai89

    viethai89 Thần Tài Perennial member

    B mt khung 7 ngày
    98-96-91-86-81-61
    bắc đàu ngày 19/01
     
    vinhlam thích bài này.
  10. vinhlam

    vinhlam Thần Tài Perennial member

    nay chơi mt ab 72 - 73 -74 lót 73
    nỗ a 74 mb = :115:
     
    viethai89, lolem479 and cantiennuoivo like this.
  11. vinhlam

    vinhlam Thần Tài Perennial member

    ab 19 - 89 cũng nỗ a 19 mb e bít rùi đó
     
    NAM CHINH, hangchuc, Vinhak and 5 others like this.
  12. Lâm Vân

    Lâm Vân Thần Tài Perennial member

    :120::120:
     
    NAM CHINH, hangchuc, Vinhak and 5 others like this.
  13. viethai89

    viethai89 Thần Tài Perennial member

    thua.
     
    hangchuc, Vinhak, NAM CHINH and 2 others like this.
  14. vinhlam

    vinhlam Thần Tài Perennial member

    Lễ cúng giao thừa trong nhà
    * Sắm lễ:
    Lễ vật trong lễ cũng giao thừa gồm:
    + Hương hoa, vàng mã, đèn nến
    + Trầu cau, rượu, bánh kẹo
    + Mâm cỗ mặn ngày Tết đầy đặn, thơm ngon, tinh khiết (Tuỳ theo sự chuẩn bị của mỗi gia chủ)
    Sau khi cung kính bày lễ lên bàn thờ thì đốt nến (đèn), thắp nén huơng thơm và thành kính cần khẩn.

    Văn cúng giao thừa:

    Nam mô a di Ðà Phật!
    Nam mô a di Ðà Phật!
    Nam mô a di Ðà Phật!
    - Con lạy chín phương Trời, mười phương chhư Phật, Chư Phật mười phương
    - Con kinh lạy Hoàng Thiên, Hậu Thổ chư Vị Tôn thần.
    - Con kính lạy ngài Kim Niên Ðường cai Thái tuế Chí đức Tôn thần.
    - Con kính lạy ngài Bản cảnh Thành Hoàng chư Vị Đại Vương.
    - Con kính lạy các Ngài Ngũ Phương, Ngũ thổ Long Mạch, Tài thần, Bản gia Táo quân cùng tất cả các vị thần linh coi quản ở trong xứ này.
    - Con kính lạy chư gia Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Tằng Tổ Tỷ, Tiên linh nội ngoại họ .......
    Hôm nay là ngày 30 tháng Chạp năm .............................................
    Tin chủ [chúng] con là : .........................................................
    Ngụ tại:.................................................................
    Trước án kính cẩn thưa trình:
    Ðông tàn sắp hết
    Năm kiệt tháng cùng
    Xuân tiết gần kề
    Minh niên sắp tới.
    Hôm nay là ngày 30 Tết, Chúng con cùng toàn thể gia quyến sắm sửa phẩm vật hương hoa, cơm canh thịnh soạn, sửa lễ tất niên, dâng cúng Thiên địa Tôn thần, phụng hiến Tổ tiên, truy niệm chư Linh. Theo như thường lệ tuế trừ cáo tế, cúi xin chư vị Tôn thần, liệt vị Gia tiên, bản xứ tiền hậu chư vị Hương linh giáng lâm án toạ, phủ thùy chứng giám, thụ hưởng lễ vật, phù hộ cho toàn gia lớn bé trẻ già bình an, thịnh vượng luôn luôn mạnh khoẻ, mọi sự bình an, vạn sự tốt lành, gia đình hòa thuận.
    Nam mô a di Ðà Phật!
    Nam mô a di Ðà Phật!
    Nam mô a di Ðà Phật!
     
    hangchuc, Vinhak, NAM CHINH and 3 others like this.
  15. vinhlam

    vinhlam Thần Tài Perennial member

    2. LỄ CÚNG GIAO THỪA NGOÀI TRỜI
    * Sắm lễ:
    Lễ vật trong lễ cũng giao thùa gồm:
    + Hương, hoa, đèn nến, trầu cau, quần áo, mũ Thần linh.
    + Mâm lễ mặn với thủ lợn luộc, gà trống luộc, xôi, chè, bánh chưng
    Tất cả được bày lên bàn trang trọng đặt ở trước cửa nhà.
    Mâm lễ cũng giao thừa phải được chuẩn bị chu đáo, trang trọng với lòng thành kính.
    Vào đúng thời điểm giao thừa, người chủ gia đình phải thắp đèn, nến, rót rượu, rồi khấnn vái trước án.

    Văn cúng giao thừa ngoài trời:
    Nam mô a di Ðà Phật!
    Nam mô a di Ðà Phật!
    Nam mô a di Ðà Phật!
    - Con lạy chín phương Trời, mười phương Chư Phật, Chư Phật mười phương.
    - Con kính lạy Ðức Đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật
    - Con kính lạy Hoàng Thiên, Hậu Thổ, chư vị Tôn thần.
    - Con kính lạy Ngài Cựu niên Đương cai Hành khiển
    - Con kính lạy Đương niên Thiên quan (năm nào khấn danh Vị của Vị Hành khiển ấy) năm ... các Ngài Ngũ Phương, Ngũ Thổ, Long Mạch, Táo quân, Chư Vị Tôn thần.

    Nay là phút giao thừa năm.........
    Tin chủ (chúng) con ............................
    Ngụ :...................................................
    Giao thừa chuyển năm
    Năm cũ qua đi
    Năm mới đã đến
    Tam dương khai thái
    Vạn tượng canh tân.

    Ngài Thái Tuế Tôn thần trên Vâng lệnh Thượng để giám sát Vạn dân, dưới bảo hộ sinh linh, tảo trừ yêu nghiệt.

    Quan cũ về triều cửa khuyết, lưu phúc lưu ân. Quan mới xuống thay, thể đức hiếu sinh, ban tài tiếp lộc. Nhân ngày đầu Xuân, tín
    chủ chúng con thành tâm, sắm sửa hương hoa phẩm vật dâng lên trước án, cúng dâng Phật Thánh dâng hiến Tôn thần, đốt nén
    hương thơm, thành tâm bái thỉnh.

    Chúng con kính mới: Ngài Cựu niên đương cai, Ngài Tân niên đương cai Thái tuế chí đức Tôn thần; ngài Bản cảnh Thành Hoàng Chư Vị Ðại Vương, ngài Bản Xứ Thần linh Thổ địa, Phúc đức chính thần, các Ngài Ngũ phương, Ngũ thổ, Long Mạch Tài thần, các bản gia Táo quân và chư Vị Thần linh cai quản ở trong xứ này. Cúi Xin các vị giáng lâm trước án thụ hưởng lễ vật, phù
    hộ cho gia đình chúng con luôn luôn mạnh khoẻ, mọi sự bình an, vạn sự tốt lành, gia đình hòa thuận, làm ăn phát đạt.

    Chúng con lễ bạc tậm thành, cúi xin chứng giám, phù hộ độ trì.
    Nam mô a di Ðà Phật!
    Nam mô a dÍ Ðà Phật!
    Nam mô a dÍ Ðà Phật!

    Văn khẩn có thể viết vào giấy để đọc(giấy màu vàng hoặc đỏ dùng để viết văn cúng), sau khi hết 3 tuần hương thì hóa tờ giấy viết văn khẩn cùng vàng mà dâng cúng.
    Như vậy màu sắc cũng như những điều kiêng kỵ đã nhắc để chúng ta sắm, hoặc kiêng tránh khi sữa lễ. Ngoài lễ vật hương hoa, trầu, rượu, bánh, xôi, chè, gà còn thêm áo giấy, tiền giấy, giấy vàng... để đưa tiễn hoặc đón tiếp các vị Hành khiển hàng năm, cũng như các Vị Phán quan của nhà Trời.
    * Lưu ý:
    Sau khi khấn lễ tiễn quan đương niên cũ, sẽ tiến hành lễ đón quan đương niên mới (tống cựu nghinh tân). Lễ Vật cũng được chuẩn bị trước và đúng giờ phút Giao thừa sẽ tiến hành thắp nhang, làm thủ tục lễ, đọc văn khẩn xong thì hoá tờ Văn.
    Như vậy, chiều 30 và đêm 30 sẽ phải tiến hành làm lễ tất niên (chiều 30 tết), lễ trước và trong lúc Giao thừa vừa tống cựu nghinh tân, vừa cũng lễ Tiên tổ.
     
    hangchuc, Vinhak, NAM CHINH and 3 others like this.
  16. vinhlam

    vinhlam Thần Tài Perennial member

    Những dự báo về tình hình chung nhất của năm Ất Mùi sắp đến, dưới góc nhìn theo học thuyết Âm dương, học thuyết Ngũ hành và Kinh Dịch.

    Nói khái quát, Âm Dương là một khái niệm trừu tượng dùng để chỉ hai mặt, hai (thế) lực, luôn luôn đối lập nhau, nhưng lại có mối liên quan hết sức chặt chẽ, mật thiết, để đi đến thống nhất với nhau, của thế giới vật chất trong Vũ trụ và trên Trái đất.

    Âm Dương luôn tuân theo một quy luật nhất định, mang tính chất đối lập, ứng dụng cho từng hoàn cảnh cụ thể là: Có Âm thì mới có Dương, cũng như vạn vật trên Trái đất đều tuân theo một nguyên lý về “Có” và “Không”, nghĩa là nếu có cái này thì sẽ có cái kia, nếu không có cái này thì cũng sẽ không có cái kia. Ví dụ ta gọi “Đêm” thuộc về bóng tối là Âm, thì hiển nhiên “Ngày” thuộc về ánh sáng là Dương, gọi bên trái là Dương thì bên phải sẽ là Âm, gọi phía trên là Dương thì phía dưới sẽ là Âm, gọi Nam là Dương thì Nữ sẽ là Âm, v.v... Còn một tính chất hết sức quan trọng của Âm Dương là sự chuyển hóa liên tục từ Dương sang Âm và từ Âm sang Dương. Từ sự chuyển hóa liên tục của Âm Dương sẽ tồn tại một điểm cực, tức là điểm tận cùng của sự chuyển hóa. Âm đi đến tận cùng sẽ chuyển hóa sang Dương, và Dương đi đến tận cùng sẽ chuyển sang Âm. Thế giới vật chất trong Vũ trụ và trên Trái đất này cứ như vậy mà vận hành, liên tục phát triển, biến hóa và trường tồn vĩnh cửu.

    Còn Ngũ hành cũng là một học thuyết nêu về năm loại “Khí” và “Chất” được quy gọn lại là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, có mặt ở trên Trái đất, năm loại khí chất này luôn tuân theo các quy luật về Sinh, Khắc, Chế, Hóa, Quá thừa và Phản ngược.

    Gọi là Ngũ hành tương Sinh, tức là hành này làm lợi cho hành kia: Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy. Còn Ngũ hành tương Khắc là hành này làm thiệt hại, hao tổn cho hành kia: Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy.

    Ngũ hành tương Chế là hành này làm hạn chế tới sự tác hại của hành kia, như Thủy khắc Hỏa, nhưng nếu có Thổ tham gia thì sẽ làm hạn chế sự khắc hại của Thủy đối với Hỏa, vì Thổ khắc Thủy. Ngũ hành tương Hóa là hành này hóa giải sự khắc hại của hành kia, như Thủy khắc Hỏa, nhưng nếu có Mộc tham gia nữa thì Thủy sẽ sinh Mộc, Mộc lại sinh Hỏa, tức là Mộc đã hóa giải được sự khắc của Thủy đối với Hỏa.

    Ngoài ra còn phải chú ý tới quy luật về Ngũ hành Quá thừa trong tương sinh, như Thủy sinh Mộc, tức là không có Thủy thì Mộc sẽ chết. Nhưng nếu Thủy quá nhiều, quá thừa thì sẽ phản tác dụng đối với Mộc, làm cho Mộc bị trôi dạt hay úng ngập, trong trường gợp này Thủy không những không làm lợi cho Mộc mà còn làm hại Mộc. Cuối cùng là quy luật Ngũ hành Phản ngược trong tương khắc, như Thủy khắc Hỏa, nhưng nếu nhiều Hỏa quá mà Thủy có ít thì Hỏa sẽ tạo nên sự khắc ngược trở lại đối với Thủy, sức nóng cực mạnh của Hỏa làm cho Thủy bốc hơi hết.

    Đối chiếu với năm Ất Mùi sắp đến ta thấy: Ất và Mùi đều thuộc Âm. Ất thuộc Âm Mộc, Mùi thuộc Âm Thổ. Ất Mộc được quy cho các loài cây cỏ, cây lúa, các loại hoa màu và cây hoa nhỏ, còn Mùi Thổ được quy cho các loại đất trồng trọt ở những vùng đồng bằng dùng để làm ruộng, làm vườn. Nhưng năm Ất Mùi lại có Ngũ hành chung thuộc Kim là Sa trung Kim. Cách gọi này được tính theo quy luật vận hành của Tiên thiên Bát quái quy nạp vào chu kỳ Lục giáp 60 năm. Cho nên năm Ất Mùi sẽ thể hiện về các vùng đất ruộng, đất vườn rất thích hợp cho việc trồng các loại cây cỏ, lúa, hoa màu và các loài cây hoa nhỏ. Vì vậy, trong nông nghiệp, cần phải có sự quy hoạch cụ thể từng loại đất, tương ứng với từng loại cây cho phù hợp, thì mới đảm bảo năng suất cây trồng. Không nên tùy tiện chuyển đổi đất trồng sang làm các việc khác hay chuyển đổi các loại cây trồng, đều không mang lại kết quả mà còn gây thiệt hại cho năng suất. Nhưng vì năm Ất Mùi có Ngũ hành chung thuộc Kim nên sẽ làm hạn chế sự khắc hại của Ất Mộc đối với Mùi Thổ, vì Kim khắc Mộc. Mặt khác, năm Ất Mùi cần có nhiều Thủy để cho Kim sinh Thủy, Thủy lại sinh Mộc, khi đó thì Kim sẽ không khắc Mộc nữa, dẫn đến sự thuận chiều giữa các hành khí, tạo nên mối tương sinh liên hoàn Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, làm cho Mộc càng thêm thịnh vượng. Như vậy năm Ất Mùi cần nhiều công trình cải tạo thủy, làm sạch thủy thì sẽ đem lại hiệu quả và năng suất cao cho các loại cây trồng.

    Về Ngũ hành chi tiết của năm Ất Mùi là Sa trung Kim, loại Kim nguyên chất có trong đất cát, nên không cần phải tôi luyện nhiều, nhưng loại Kim này lại rất cần có Thủy thật tinh khiết để rửa sạch thì Kim mới trở nên sáng chói, khi đó Kim mới sinh được cho Thủy. Trên thực tế hiện tại có rất nhiều dòng sông, dòng suối đang bị ô nhiễm quá mức, tạo nên một loại Thủy hỗn tạp, vẩn đục, mất đi độ trong sạch thuần khiết vốn có của Thủy, không sinh được cho Mộc mà có khi còn làm hại Mộc, khiến cho Mộc trở nên còi cọc, tàn lụi, không phát triển được.

    Mặt khác, theo thuật Phong thủy ứng vào Hậu thiên Bát quái, năm Ất Mùi có can “Ất” đóng ở phương Đông, thuộc quái Chấn quản (quái Chấn quản ba phương vị Giáp, Mão, Ất). Còn chi “Mùi” đóng ở phương Tây nam, thuộc quái Khôn quản (quái Khôn quản ba phương vị Mùi, Khôn, Thân), nên năm Ất Mùi sẽ ứng vào hai đơn quái Chấn và Khôn, quái Chấn thuộc Can là quái trên, quái Khôn thuộc Chi là quái dưới. Hai đơn quái này tạo nên một Trùng quái, Dịch học gọi là trùng quái Lôi địa Dự, có nghĩa như sau:

    Lôi địa Dự gồm hai đơn quái, quái Chấn có tượng là sấm chớp, luôn chuyển động trên bầu trời, có tiếng vang xa, phát ra ánh sáng rực rỡ, nhưng loại ánh sáng này chỉ xuất hiện trong chốc lát rồi lại tắt ngay. Còn quái Khôn có tượng là đất bằng, luôn tĩnh lặng, là nơi để cho cây trồng phát triển và tồn tại. Nên trùng quái Lôi địa Dự có tượng chung là: Trên mặt đất bằng có sấm động, chớp lóe sáng. Quái Chấn tượng động cần quái Khôn tượng tĩnh để chế phục, làm giảm sự bồng bột, xốc nổi, nóng nảy, những đặc tính này thường không có lợi cho giải quyết công việc đối ngoại. Ngược lại, quái Khôn tĩnh cũng cần quái Chấn động để thúc đẩy, để giảm bớt sự trì trệ, giảm bớt sức ì, sự chậm trễ, và quan trọng là sự suy diễn trái chiều, đổ lỗi cho nhau. Được như vậy mới tạo nên sự hòa thuận vui vẻ, vì vậy trùng quái Lôi địa Dự có nghĩa thứ nhất là sự hòa thuận, vui vẻ.

    Quái Chấn là quái Dương thuộc về trời, quái Khôn là quái Âm thuộc về đất, tạo cho trùng quái Lôi địa Dự có đủ Âm Dương kết hợp. Dương động đóng ở trên, Âm tĩnh đóng ở dưới, thuận với chính Đạo trời đất, nên mới tạo được sự hòa thuận, sự giúp đỡ, hỗ trợ cho nhau, tạo điều kiện cùng nhau phát triển. Nên nghĩa thứ hai của trùng quái Lôi địa Dự là sự giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau phát triển

    Nhưng trùng quái Lôi địa Dự có sáu hào thì có năm hào Âm, một hào Dương, sự chênh lệch về Âm Dương trong trùng quái này có hai nghĩa. Thứ nhất là một hào Dương, năm hào Âm, tượng cho một người ở thế trên muôn người, sẽ xuất hiện anh hùng hào kiệt cho đất nước. Nghĩa thứ hai là năm hào Âm, một hào Dương, tạo nên sự mất cân bằng về Âm Dương quá lớn, làm cho Âm thì luôn thịnh vượng, còn Dương thì luôn suy yếu, Dương suy không chế ngự được Âm sẽ khiến cho Âm tự do hành động, bành chướng và lấn át Dương, còn Dương thì trở nên cô đơn, không có sự chia sẻ, giúp đỡ, làm cho Dương trở nên độc đoán, dẫn đến sự liều lĩnh, tác quái, rồi phát sinh ra những suy nghĩ và hành động mờ ám, thiếu sự minh bạch rõ ràng.

    Vì vậy rất cần quan tâm bồi dưỡng Dương để tạo nên sự cân bằng Âm Dương mới cho kết quả tốt đẹp. Cũng chính vì điều nêu trên mà những nhân tài của đất nước cần được đặt đúng vị trí, đúng sở trường của họ thì mới phát huy tác dụng tốt, để trở thành những hạt nhân, những người đi đầu, quy tụ được mọi tầng lớp quần chúng nhân dân noi theo, thúc đẩy sự phát triển thịnh vượng của đất nước. Trùng quái này ứng vào câu “Đất bằng nổi lên một tiếng sấm”, có nghĩa về sự cần thiết phải giải quyết vấn đề đất đai. Hiểu rộng ra, câu này cũng có nghĩa là sự tranh chấp đất đai trong từng vùng miền, hay vùng lãnh thổ của từng quốc gia đang còn nhiều phức tạp.

    Trùng quái Lôi địa Dự là trùng quái lục hợp, sáu hào trong trùng quái hợp với nhau từng đôi một tạo thành ba cặp địa chi nhị hợp với nhau (Ngọ hợp Mùi, Tị hợp Thân, Mão hợp Tuất), nên trùng quái này có ý khuyên con người ta, nhất là đối với các bậc lãnh đạo phải luôn thể hiện sự thuận theo đạo lý mà hành sự thì sẽ đáp ứng được nguyện vọng của toàn dân. Trùng quái Lôi địa Dự còn nói về tiếng vang xa của đạo lý, nếu mọi đạo lý được ứng dụng theo chuẩn mực, hợp với chính đạo, thì trời đất cũng phải thuận theo ý của thánh nhân. Cần “Cương” chỉ quái Chấn là quái Dương, thì phải dựa theo nền tảng của luật pháp mà xử lý mọi việc nghiêm túc, minh bạch, rõ ràng, dứt khoát. Cần “Nhu” chỉ quái Khôn là quái Âm, thì phải có những biện pháp, sách lược mềm mại uyển chuyển, luôn chú ý học tập và làm theo kế sách của người xưa đã từng làm, để khiến cho thiên hạ phải tâm phục thì sẽ giữ được sự toàn vẹn, bình yên cho đất nước.

    Trùng quái Lôi địa Dự còn có nghĩa nói về sự chuẩn bị, sự lo xa trong mọi trạng thái, mọi hành động sẽ diễn ra vào thời gian tới. Điều này có ý nhắc nhở con người trong mọi hành động, mọi tình huống cần phải có sự tính toán thật kỹ lưỡng, cụ thể từng công việc một, và phải luôn có sự kiểm tra, giám sát, tránh để xảy ra sự tắc trách, vô trách nhiệm, thậm chí vô cảm, dễ dẫn đến mọi việc đều không được như ý muốn, hoặc dễ dàng đi đến thất bại.

    Phân tích chi tiết về các hào của trùng quái Lôi địa Dự ta thấy có hai hào “Tài” đều thuộc Thổ, là hào một và hào sáu, như vậy từ Thổ sẽ sinh ra tài lộc, tiền của. Năm Ất Mùi có chi Mùi cũng thuộc Thổ, nên được gọi là Tài lâm Thái tuế, sẽ rất có lợi cho việc cầu tài lộc. Một hào Tài ở quái nội, một hào Tài ở quái ngoại, như vậy tiền tài, của cải sẽ được huy động ở cả hai lĩnh vực trong nước và ngoài nước. Trong trùng quái lại có hai hào “Tử” đều thuộc Hỏa, là hào hai và hào bốn, hai hào này tạo nên nguồn để sinh tài lộc (Hỏa sinh Thổ), vậy nên vấn đề chọn thời cơ để cầu Tài là rất quan trọng. Thời cơ sẽ xuất hiện vào hai thời kỳ chính trong năm, thời kỳ đầu là tháng tư, tháng năm và tháng sáu, thời kỳ thứ hai vào tháng chín. Nếu cầu Tài vào những tháng này sẽ có kết quả, tiền tài tăng gấp từ một đến ba lần. Nói cầu Tài ở đây là nói về tất cả các lĩnh vực có liên quan đến tiền bạc của cải như sản xuất hàng hóa, nuôi trồng các loại cây con, buôn bán, khai trương mở cửa hàng, thành lập công ty, v.v...

    Trong trùng quái có một hào “Huynh” thuộc Mộc là hào ba, nhưng hào này lại hợp với hào Tài là hào sáu, nên không làm thiệt hại đến Tài (vì Mão hợp Tuất). Chỉ có điều khi được tiền tài thì cần phải phân chia theo đúng hợp đồng, khế ước, cam kết ngay từ đầu, có như vậy mới giữ được mối hòa hảo huynh đệ lâu bền. Trong trùng quái có một hào “Quan” thuộc Kim, là hào năm, cũng hợp với hào Tử nên hào Tử cũng không làm thiệt hại tới hào Quan (vì Tị hợp Thân). Trong trường hợp này, hào Quan rất có lợi, vì ba hào tạo được một mối tương sinh liên hoàn là hào Tử sinh cho hào Tài, hào Tài này lại sinh cho hào Quan (ở đây là Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim). Chứng tỏ vấn đề quan chức trong năm Ất Mùi có chú ý hơn tới năng lực, trí tuệ thật sự, tức là đối với những người có năng lực, có tài, thì sẽ được trọng dụng đúng vị trí hay sẽ được thăng quan tiến chức.

    Một điều cần chú ý nữa là: Hào Quan là hào Âm, lại là hào năm, hào ở vào vị trí cao nhất của con người trên Trái đất, điều này nói về sự làm quan, về những người được thăng quan cần phải chú ý đến cội nguồn, chú ý đến việc thờ cúng ông bà tổ tiên, tức là những người được thăng quan thì không những không được quên nguồn gốc, xuất sứ của mình, mà còn cần phải tôn kính, trân trọng đối với tổ tiên, suy rộng ra là tôn kính đất nước mình, dân tộc mình, thì mới tạo được sự sâu rễ, bền gốc, đem lại phồn vinh cho dân tộc.

    Điều cuối cùng trong trùng quái này là: Hào Phụ ẩn phục bị khắc (Thổ khắc Thủy), nên khuyến cáo mọi người rất chú trọng đến các loại văn bản, các loại hợp đồng, hóa đơn chứng từ v.v... cần phải xem xét thật kỹ, thật chi tiết trước khi đặt bút ký hay phê duyệt, nếu không sẽ bị hao tốn và thiệt hại. Dưới đây là trùng quái Lôi địa Dự nạp Can, Chi, Ngũ hành và Lục thân để bạn đọc tham khảo:

    Cách xem Phong Thủy cơ bản nhất để mọi người có thể tự xem và cứu vận cho bản thân. Bên cạnh đó, hơn tất cả những mục đích trên, điều tôi mong muốn nhất là khi kiến thức về học thuyết Âm Dương Ngũ Hành này được phổ biến, mọi người sẽ nhìn ra cái gọi là lẽ sống và quy luật của vũ trụ này.

    Về Phong Thủy, bản thân tôi cũng từng xem theo nhiều cách cổ điển đang tồn tại ở Việt Nam, nhưng sau này kiểm chứng thấy không chính xác. Mãi sau nay có duyên nghiên cứu các trường phái Phong Thủy của Trung Hoa và tổng hợp lại tất cả những sách mà tôi đọc từ năm 1999 đến giờ, tôi mới tìm ra câu trả lời hợp lý nhất cho bản thân mình, đáp án chung của các môn liên quan đến Thuật Số, Dịch học, Đông Y,…v..v..

    Nay xin đưa ra những luận điểm ấy cho mọi người tham khảo, nhưng chúng ta phải nhất mực một điều, tôn trọng những gì các bậc tiền bối đã dày công truyền thu cho thế hệ chúng ta đến giờ. Và nếu mọi người cảm thấy kiến thức của tôi không chính xác, xin cứ lưu lại để sau này kiểm nghiệm thêm. Vì Dịch học cũng đòi hỏi đọc nhiều, tư luận và thực hành chứ không đơn giản chỉ dừng lại ở tư luận. Những gì tôi tư luận và thực hành chỉ là phần của tôi, bản thân các bạn khi đọc cũng cần phải có chính kiến riêng của các bạn. Khi đó các bạn mới thật sự tìm ra con đường xuyên suốt Dịch học.

    1. Không nên sử dụng ngũ khí trong nạp âm 60 hoa giáp để xem phong thủy:

    Ví dụ một người sinh năm 1984, nạp âm năm sinh của anh ta là Hải Trung Kim, hay người sinh năm 1986 thì nạp âm năm sinh của người đó là Lư Trung Hỏa. Những cái tên Hải Trung Kim, Kim Bạc Kim, Bạch Lạp Kim, Tang Chá Mộc, Giản Hạ Thủy,..v…v.. tổng công 60 tên gọi thường được gán với một hệ trong ngũ hành Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ.

    Và hiện nay, các nhà Phong Thủy nước ta vẫn đang xem ngũ hành khiếm khuyết cho các gia chủ của họ dựa theo những tên gọi nạp âm này. Hoặc phổ biến hơn, những người không nghiên cứu phong thủy cũng thường căn cứ vào tên gọi nạp âm năm sinh này để tìm công việc, màu sắc phù hợp với mình. Chẳng hạn người mạng Kim nên trang trí màu trắng, bán vàng hoặc đầu tư đất đai vì Thổ sinh Kim,.v..v… Điều này đúng hay sai?

    Tìm hiểu sâu xa hơn về nguồn gốc nạp âm 60 hoa giáp, ngày xưa các tiền bối dựa vào thanh luật cổ đại Trung Hoa, chia âm nhạc thành 5 âm và 12 luật. 5 âm là Cung Thương Giốc Chủy Vũ, 12 luật là Hoàng Chung, Đại Lữ, Thái Thốc, Hiệp Chung,… Từ đó phối thành 60 âm luật.

    Nguyên tắc ấy cũng tương tự với việc phối 10 thiên can và 12 địa chi, phân thành âm dương đan xen ngũ hành, lấy đó mà đặt tên cho 60 cặp thiên can và địa chi. Đây chung quy chỉ là một trò chơi tổ hợp số, mặc dù kèm theo đó là những sự trùng hợp vô cùng kỳ diệu, thuận cả Thái Huyền lẫn Hà Đồ, Lạc Thư.

    Mặc dù nạp âm của năm sinh có ảnh hưởng đến phần suy đoán cát hung vận mệnh, nhưng lấy đó làm cơ sở để phán đoán hệ ngũ hành của người khác là chưa đúng.

    Tôi lấy ví dụ về toán học như sau:

    - Trong hình học ta có công thức từ định lý Pitago: a2 + b2 = c2
    – Trong đại số ta có hằng đẳng thức: (a + b)2 = a2 + 2ab + b2

    Một ngày nọ chúng ta đem gộp 2 công thức đó lại và kết luận (a + b)2 = c2 + 2ab

    Tất nhiên điều đó là sai, nhưng thỉnh thoảng có trùng hơp và nó đúng. Vậy điều nhầm lẫn ở đây của một số đông các tiền bối là gì? Không phải là vấn đề trình độ, nhưng do cách dùng từ một thời gian dài dẫn đến hiểu nhầm hết đời này sang đời khác. Trong bộ môn Tử Bình Bát Tự, khi đánh giá toàn cục của một người, tôi sẽ chỉ cho họ bối cảnh Bát Tự của họ, cụ thể là gọi nguyên khí (nhân nguyên) của họ so với nguyệt lệnh và các thông tin còn lại của Bát Tự, từ đó đưa ra lời khuyên cho họ trong cuộc sống.

    Ví dụ một lần nọ, tôi gặp một người sinh ngày Canh Tý, tháng Quý Hợi, nguyên khí của anh ta là Canh, tức là mỏ vàng, nguyệt lệnh là Quý Hợi, hoàn toàn là nước, lại vào mùa Đông, lúc này Quý Hợi cũng đang đạt uy thế mạnh nhất, ngay cả địa chi trong ngày sinh cũng lại là chữ Thủy, vậy nên tôi gọi anh ta là mỏ vàng chìm dưới đáy nước (nhật nguyên Canh trong nguyệt lệnh Thủy và xuất can Thủy)

    Anh ta chối ngay, “Không không, tôi sinh năm 1973, là Tang Chá Mộc chứ sao lại Hải Trung Kim“. Và tôi cũng phải tốn 1 ít thời gian để giải thích cho anh ta phân biệt một bên là nạp âm thủ tượng, một bên là luận về khí trong bát tự.

    Cũng từ đó, theo ý kiến chủ quan của tôi, có thể trong quá trình truyền đạt ngày xưa, các vị tiền bối cũng đã nhầm lẫn tương tự. Thế nên mới có trường hợp một lần tôi xem Phong thủy cho một người, bát tự anh ta cực kỳ nóng, là con sông (Nhâm) chảy giữa hoang mạc đang khô kiệt không có một giọt nước, vậy mà có người lại đề nghị anh ta trang trí nhà cửa màu đỏ, làm nghề điện tử chỉ vì thấy anh ta sinh năm 1987, tức là Lư Trung Hỏa, gọi tắt là mệnh Hỏa. Tất nhiên anh ta đã suy vận nặng nề.

    Chung quy lại, vấn đề thứ nhất tôi muốn chia sẻ với mọi người: Tên gọi Nạp Âm của năm sinh không có ý nghĩa về khí trong hệ ngũ hành.

    Hãy quan sát kỹ những người xung quanh bạn, sẽ có những người sinh năm Thủy nhưng lại vào mùa Đông, và vì thế họ thích nạp Hỏa hơn là Thủy, ngược lại, có người sinh năm Hỏa nhưng lại vào mùa Thu, thế là họ thích nạp Mộc hơn là nạp Hỏa. Nếu nạp ngược lại, họ chắc chắn suy vận. Cũng tức là cùng sinh năm 1981, vẫn có khoảng hơn 4000 trường hợp ngũ hành khiếm khuyết khác nhau chứ không phải cứ ai sinh năm 1981 cũng cần Thủy.

    Hẹn gặp các bạn trong bài viết tiếp theo.
     
    Chỉnh sửa cuối: 4/3/15
    hangchuc, Vinhak, NAM CHINH and 3 others like this.
  17. vinhlam

    vinhlam Thần Tài Perennial member

    bản đồ mn10.JPG

    bản đồ mn 11.JPG

    bản đồ mn 13.JPG

    ,m14.JPG

    m15.JPG

    m16.JPG

    m17.JPG
     
    Chỉnh sửa cuối: 25/2/15
  18. khatcai

    khatcai Thần Tài Perennial member

    Dàn này năm nay có thay đổi gì không a:134:
     
  19. vinhlam

    vinhlam Thần Tài Perennial member

    Dàn số ko thay đổi , để ý 2 số cuối là của hà đồ , còn số
    đứng đầu là mã số của thiên can bắt nguồn từ lạc thư
    Nay canh thìn 350 , MT có B 35
    Ngày mai t tị 427 , tạm thấy 27 thơm
     
    Chỉnh sửa cuối: 5/3/15
  20. huuthuan1980

    huuthuan1980 Thần Tài Perennial member

    MB: X7: 17-67, MN: X8: 58-85 :banana:
     

Trạng thái chủ đề:
Không mở trả lời sau này.