thấy huynh ít lên Box CCNh mà ngày nào cũng số cũng Gần gần xém đụng AB không hén .. như bữa 47 - 74 --------------------------------------------------------- Canh dc như huynh thì AB phẻ quá .. đệ cứ bị rối AB .. con nào cũng đẹp chả biết theo con nào bỏ con nào Cuối cùng con ko ra đánh cho cố xác .. con sắp ra thì nhát tay bỏ qua ........... Phải có cách nào Giới hạn lại mới WIn nổi .. ------------------------------------------------------ Bữa nay thienkhanh Ghép 4 con số 2-4-8-0 gì đó lụm Xỉu chủ 1 phát hay ghê .... Người ta hiểu sơ sơ CCNh mà win 1 phát xỉu chủ quá hoành tráng .. đệ học tùm lum mà chưa win gì Nghĩ thật hài hahah .... thua kém anh em quá xá
coi cái này cho tẫu hõa nhập ma chơi hehe 64 quẻ trong Kinh Dịch Thượng kinh: Thuần Càn | Thuần Khôn | Thủy Lôi Truân | Sơn Thủy Mông | Thủy Thiên Nhu | Thiên Thủy Tụng | Địa Thủy Sư | Thủy Địa Tỷ | Phong Thiên Tiểu Súc | Thiên Trạch Lý | Địa Thiên Thái | Thiên Địa Bĩ | Thiên Hỏa Đồng Nhân | Hỏa Thiên Đại Hữu | Địa Sơn Khiêm | Lôi Địa Dự | Trạch Lôi Tùy | Sơn Phong Cổ | Địa Trạch Lâm | Phong Địa Quan | Hỏa Lôi Phệ Hạp | Sơn Hỏa Bí | Sơn Địa Bác | Địa Lôi Phục | Thiên Lôi Vô Vọng | Sơn Thiên Đại Súc | Sơn Lôi Di | Trạch Phong Đại Quá | Thuần Khảm | Thuần Ly Hạ Kinh: Trạch Sơn Hàm | Lôi Phong Hằng | Thiên Sơn Độn | Lôi Thiên Đại Tráng | Hỏa Địa Tấn | Địa Hỏa Minh Di | Phong Hỏa Gia Nhân | Hỏa Trạch Khuê | Thủy Sơn Kiển | Lôi Thủy Giải | Sơn Trạch Tổn | Phong Lôi Ích | Trạch Thiên Quải | Thiên Phong Cấu | Trạch Địa Tụy | Địa Phong Thăng | Trạch Thủy Khốn | Thủy Phong Tỉnh | Trạch Hỏa Cách | Hỏa Phong Đỉnh | Thuần Chấn | Thuần Cấn | Phong Sơn Tiệm | Lôi Trạch Quy Muội | Lôi Hỏa Phong | Hỏa Sơn Lữ | Thuần Tốn | Thuần Đoài | Phong Thủy Hoán | Thủy Trạch Tiết | Phong Trạch Trung Phu | Lôi Sơn Tiểu Quá | Thủy Hỏa Ký Tế | Hỏa Thủy Vị Tế
Cái này đệ đang tìm hiểu ... nhưng chưa hiểu cách xài lắm .. đang mò mẫm thôi huynh ... Thấy bady xài cái này lợi hại lắm mà đệ thì chưa có rành nên phải lần mò từng bước đã .... Có xài Cái Này nhưng DÙng Tương SInh - Tương khắc từng Quẻ mà suy thôi Khái niệm Ngũ Hành được giới hạn như sau: Thái Cực là Hành Thổ Thái Dương là Hành Kim Thiếu Dương là Hành Hỏa Thiếu Âm là Hành Thủy Thái Âm là Hành Mộc Từ đó suy ra: 07 là độ số của Thiếu Âm Thủy 09 là độ số của Thiếu Dương Hỏa 11 là độ số của Thái Âm Mộc 13 là độ số của Thái Dương Kim 15 là độ số của Thái Cực Thổ Bảng 2. Tính chất Âm dương Ngũ hành của 12 Địa chi
Cái 64 Quẻ này đệ xem sơ thấy nó vô cùng lợi hại huynh ơi ... Bữa suy 4 càng con 0338 được luôn mà dc bữa đó tới nay mù tịt haha .. lâu lâu đoán bừa hên 1 bữa ... ----------------------------------------------- Bữa giờ có tìm hiểu sâu 64 Quẻ kinh dịch mà xem 1 hồi là Té ghế .......... Đi sâu vào nó nhiều vấn đề quá .. hiểu ko nổi chờ huynh bady cho thêm vài cách xài mới hiểu dc ngọn nghànhh bên Box CCNh kiếm huynh bàn luận vụ Thái Dương chiếu mệnh kìa .... mai cho đệ 1 con cứu đệ huynh ơi .. nay win không nổi ....
không gì đâu haha ... mình thì ko sao .. nhưng mấy anh em khác nhiều khi họ ko thích .. Mỗi ng` mỗi tính ..
Độn giáp, hay Kỳ môn đôn giáp là một môn học thuộc Tam Thức (Bao gồm : Thái ất, Lục nhâm, Độn giáp). Độn giáp là một môn học xếp hàng đàu trong các môn Lý học. Nó lấy gốc từ sự tiêu trưởng của Âm Dương theo thời gian, dựa vào hệ thống Can Chi, tiết khí của lịch pháp để dự đoán sự cát hung về thời điểm, phương hướng, chủ khách lợi-hại v.v… Bản thân nó cũng là một môn làm gốc gác căn bản cho một số môn khác vay mượn như Phong thủy, Tử vi… Nếu nói cho sâu hơn, thì Kỳ môn Độn giáp đầy đủ phải là Tam Nguyên Kỳ Môn Độn Giáp. Tam Nguyên : là Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên – một cách chia thời gian theo cổ lịch Độn Giáp : nghĩa là giấu can Giáp đi, và phép toán để tìm ra Can giáp ấy chính là đường lối hình thành lý thuyết cơ bản của việc an quẻ Kỳ môn. Kỳ môn : Môn là Bát môn tức là 8 cửa : Hưu-Sinh-Thương-Đỗ-Cảnh-Tử-Kinh-Khai, là phương vị của 8 hướng ứng với 8 quẻ bát quái mà ra. Học kỳ môn là việc khó, phần vì kiến thức trừu tượng, phần vì tài liệu không có nhiều hơn nữa lại viết rất khó hiểu. Vì thế, tôi đăng lên đây bài viết về các khái niệm cơ bản nhất cùa Kỳ môn. Tham khảo trong Kỳ môn thượng tập của bộ Kỳ Môn Thức – Bột Hải tiên sinh. Kỳ Môn Ðộn Giáp là một khoa học về phương - vị dựa trên cơ sở nguyên lý Cảm Ứng Ðiện Từ. Ta đều biết trái đất là một từ trường lớn, chịu ảnh hưởng của hệ Mặt Trời, tức chịu ảnh hưởng của Mặt Trời, Mặt Trăng và các hệ sao khác. Con người là một vật mang điện (nhân điện). Khi một vật mang điện mà di động trong một từ trường nó sẽ bị từ trường ảnh hưởng, cảm ứng và tác động. Mà từ trường của trái đất lại chịu sự ảnh hưởng của cả Hệ Mặt Trời. Mặt Trời, Mặt Trăng, và các hệ sao khác luôn luôn di chuyển, do đó sự cảm ứng và tác động điện từ vào con người ta cũng luôn luôn thay đổi theo từng ngày, từng giờ, từng phút. Làm cho con người ta lúc khỏe lúc yếu, lúc tốt lúc xấu. Kỳ Môn Ðộn Giáp là môn khoa học cho ta biết được thời điểm nào, phương vị nào sự ảnh hưởng của điện từ trường đó sẽ có lợi cho ta và phương vị nào sẽ bất lợi cho ta, rồi ta có thể dựa vào đó cải thiện vận mệnh của ta cho từng thời điểm. Kỳ Môn Ðộn Giáp là một môn cổ học tinh hoa của người Trung Hoa được phát minh vào khoảng 5 ngàn năm trước đây. Từ thời Hoàng Ðế lập quốc đã được sử dụng trong trận chiến với Si Vưu. Sau này, được các Thánh hiền khác như Thái Công, Lã Vọng, Trương Lương, Gia Cát Lượng Khổng Minh, Lưu Bá Ôn, . phát triển và hoàn chỉnh thêm. Thời xưa, chủ yếu được dùng trong đấu tranh chính trị và quân sự. Hiệnnay, Kỳ Môn Ðộn Giáp đã được áp dụng rất rộng rãi trong mọi lĩnh vực trong đời sống hàng ngày. Kỳ Môn Ðộn Giáp nguyên gọi là Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp. Tam Nguyên tức là Thượng Nguyên, Trung Nguyên, Hạ Nguyên (có nơi còn gọi là Thiên Nguyên, Nhân Nguyên, Ðịa Nguyên dựa trên cơ sở Tam Tài là Thiên Ðịa Nhân rồi tìm ra Thiên Thời Ðịa Lợi Nhân Hòa). Kỳ là Tam kỳ và Lục Nghi trong 10 Thiên can thì Ất, Bính, Ðinh được gọi là Tam Kỳ, còn Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí được gọi là Lục Nghi. Con giáp được ẩn đọng trong Lục Nghi nên gọi là Ðộn Giáp. Môn là Bát Môn, tức là tám cửa. Gồm có Hưu Môn, Sinh Môn, Thương Môn, Ðỗ Môn, Cảnh Môn, Kinh Môn, và Khai Môn. Tám cửa này là từ tám phương vị của Bát Quái mà ra. Trong quân sự còn có tên khác là Bát Trận Ðồ mà Gia Cát Khổng Minh đã sử dụng để nhốt Lục TỐn. Tên trong Bát Trận Ðồ là Thiên Môn, Ðịa Môn, Phong Môn, Vân Môn, Long Môn, Hổ Môn, Ðiểu Môn, và Xà Môn. Bát Trận Ðồ này xem thì rất đơn giản, dễ dàng nhưng kỳ thực thì thiên biến vạn hóa, cao siêu thần diệu. Cái kỳ diệu đó có lẽ cũng chỉ có một số nhà quân sự vĩ đại như Gia Cát Khổng Minh, Tôn Tử, Thái Công, Trương Lương, Lưu Bá Ôn mới hiểu hết được cái thần diệu vĩ đại của nó. Ở Việt Nam chỉ có cụ Trạng Trình là thấu hiểu được môn khoa học này. Vậy Bát Môn thực tế là tám loại cảm ứng điện từ của hệ Mặt Trời và Trái Ðất đối với con người ta. Ngoài ra còn có Cửu Cung Tinh tức là chín cung màu. Là 1 - Trắng, 2 - Ðen, 3 - Biếc, 4 - Lục, 5 - Vàng, 6 - Trắng, 7 - Ðỏ, 8 - Trắng, và 9 - Tím. Là chín loại bức xạ của tuyến Vũ Trụ, chúng xuyên qua lớp khí quyển tới mặt đất và ảnh hưởng đến sinh lý, hành vi của sinh vật trên trái đất. Cửu Thiên Tinh là 9 ngôi sao gồm có 7 ngôi sao của hệ sao Bắc Ðẩu và 2 ngôi sao phụ. Chúng có tên là Thiên Bồng, Tiên Nhuế, Thiên Xung, Thiên Phụ, Thiên Cầm, Thiên Tâm, Thiên Trụ, Thiên Nhiệm và Thiên Anh. 9 ngôi sao của hệ sao Bắc Ðẩu này có ảnh hưởng tới con người ta trên Trái Ðất đã được biết từ ngàn xưa. Bát Thần là 8 ông thần có tên Trực Phù, Ðằng Xà, Thái Âm, Lục Hợp, Câu Trần, Chu Tước, Cửu Ðịa, và Cửu Thiên. Tất cả những yếu tố trên ảnh hưởng tới trái đất theo năm, tháng, ngày, giờ và thời tiết, gây nên những cảm ứng khác nhau cho vạn vật trên trái đất trong đó có con người chúng ta, hình thành tốt (cát) hay xấu (hung). Sự biến hóa thay đổi đó được thể hiện trên 9 cung của Bàn Ðồ Kỳ Môn Ðộn Giáp như một mạch điện từ, nó thay đổi biến hóa theo sự vận chuyển của trái đất và Thái Dương Hệ theo năm, tháng, ngày, giờ và tiết khí. Vậy Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp chính là một "Phương vị học" được dùng để tuyển cát, tức dùng để chọn một thời điểm một hướng tốt, thời điểm đó và hướng đó ta có thể có được thiên thời, địa lợi, nhân hòa, để htực hiện mục đích riêng của ta, và biến vận xấu thành vận tốt. Tam Nguyên Kỳ Môn Ðộn Giáp xưa kia được dùng trong đấu tranh chính trị quân sự, sau này mới phát triển và được dùng trong mọi lĩnh vực cả về tướng mệnh học, địa lý bói toán, . Việc ứng dụng Kỳ Môn Ðộn Giáp trong đời sống hàng ngày. Như phần trên đã nó, ngoài quân sự và chính trị, Kỳ Môn Ðộn Giáp còn được ứng dụng rất rộng rãi trong các vấn đề đời sống hàng ngày như sự nghiệp, nghiệp vụ, quan trường, thưng mại, tổ chức xí nghiệp, du lịch, kiện tụng, bệnh tật, thi cử, vay mượn, sinh đẻ, mua bán nhà đất, xây cất hay sửa chữa nhà, mở tiệm, tổ hợp kinh doanh, tình yêu, và hôn nhân, di chuyển chỗ ở, dấu ấn, số mệnh học, và chọn ngày giờ tốt ch mọi vấn đề, . (sau này bút giả sẽ dành thì giờ để soạn tiếp các mục). Riêng về vấn đề chọn ngày giờ tốt và hướng tốt, nếu như ta dựa trên những cuốn lịch để chọn, nhiều lúc không thể phù hợp với vấn đề cụ thể của ta được, vì lịch dựa trên cơ sở bất động để chọn, ví dụ như chọn ngày giờ theo tuổi của ta, nếu xung là xấu nếu hợp là tốt, rồi xem gặp vị thần nào, lành hay dữ thì quyết định là tốt hay xấu. Còn việc chọn ngày giờ theo Kỳ Môn Ðộn Giáp là dựa theo cơ sở động, mà con người ta cũng có thể di chuyển, không phải ngồi yên một chỗ, một khi di chuyển như vậy thì không gian và thời gian cũng thay đổi theo, các vấn đề tốt hay xấu đều thay đổi theo từng giờ từng phút. Do đó, Kỳ Môn Ðộn Giáp có dạy ta là bất kỳ một ngày nào, giờ nào hay hướng nào đều có thể sử dụng được, chủ yếu là phương pháp sử dụng của ta như thế nào để có lợi và tránh được cái bất lợi mà thôi. Kỳ Môn Ðộn Giáp đầu tiên thời Hoàng Ðế lập thành 1080 cục. Ðến Thái Công rút gọn thành 72 cục. Sau đó Trương Lương rút gọn lại nữa thành 18 cục cơ bản, gồm có 9 cục dương và 9 cục âm. Nếu ta sử dụng hết 1080 cục kết hợp với sự biến hóa của Bát Môn, Cửu Thiên Tinh, Bát Thần, Cửu Cung Tinh và tiết khí thì ta có hàng triệu cách biến hóa. Do sự thiên biến vạn hóa như vậy đã đưa tới sự bách chiến bách thắng của Thái Công, Trương Lương, Gia Cát Khổng Minh, Lưu Bá Ôn lưu danh muôn đời. Cái khó của Kỳ Môn Ðộn Giáp là ở chỗ thiếp lập các đồ bàn sao cho chính xác. Một khi đã lập xong các đồ bàn thì việc xét đoán lại rất dễ. Nhằm vào cái khó khăn đó, bút giả dã dày công nghiên cứu và đã lập thành các bảng biểu để tra, và tính sẵn thành lịch Ðộn Giáp để độc giả dễ bề sử dụng được nhanh chóng. Cần nói thêm là lịch Ðộn Giáp ở đây bút giả đã chuyển đổi theo lịch Thiên Nhiên và sử dụng Dương Lịch để độc giả tiên việc tra cứu. Khi lập bàn đồ Ðộn Giáp, độc giả chỉ cần chuẩn bị như sau: _ 1 tấm bản đồ _ 1 cái la bàn _ 1 cuốn lịch Ðộn Giáp _ Một số kiến thức cơ bản về Can, Chi, Ngũ Hành sinh khắc và tiết khí là đủ.
Vào Lúc 4 : 22 Giờ Bính Dần Thanh Long - Hoàng đạo Gieo Được Quẻ : Quẻ 12 ::|| Thiên Địa Bĩ (否 pǐ) Quẻ Thiên Địa Bĩ đồ hình ::|| còn gọi là quẻ Bĩ (否 pỉ), là quẻ số 12 trong Kinh Dịch. Quẻ được kết hợp bởi Nội quái là ☷ (::: 坤 kún) Khôn hay Đất (地) và Ngoại quái là ☰ (||| 乾 qiàn) Càn hay Trời (天). Giải nghĩa: Tắc dã. Gián cách. Bế tắc, không thông, không tương cảm nhau, xui xẻo, dèm pha, chê bai lẫn nhau, mạnh ai nấy theo ý riêng. Thượng hạ tiếm loạn chi tượng: trên dưới lôi thôi. Nguyễn Hiến Lê viết Trong vũ trụ không có gì là thông hoài được, hết thông thì tới bế tắc, cùng, cho nên sau quẻ Thái tới quẻ Bĩ. Thoán tử. 否之匪人, 不利君子貞, 大往小來. Bĩ chi phỉ nhân, bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai. Dịch: Bĩ không phải đạo người (phi nhân nghĩa như phi nhân đạo), vì nó không lợi cho đạo chính của quân tử (Tượng của nó là) cái lớn (dương ) đi mà cái nhỏ (âm) lại. Giảng: Bĩ trái với Thái. Thái thì dương ở dưới thăng lên, giao với âm ở trên giáng xuống; bĩ thì dương ở trên đi lên, âm ở dưới đi xuống không giao nhau. Âm dương không giao nhau thì bế tắc, ở đạo người như vậy mà ở vạn vật cũng như vậy. Thời đó không lợi với đạo chính của quân tử, vì dương đi nghĩa là đạo của người quân tử tiêu lần, mà âm lại nghĩa là đạo của tiểu nhân lớn lên. Đại tượng truyện – Khuyên: gặp thời bĩ thì người quân tử nên thu cái đức của mình lại (đừng hành động gì cả, riêng giữ các đức của mình) để tránh tai nạn, đừng màng chút lợi danh nào cả. (Quân tử dĩ kiệm đức tị nạn, bất khả vinh dĩ lộc). Nghĩa là nên ở ẩn. Gặp thời Truân, thời khó khăn, gian truân, người quân tử nên tập hợp nhau lại mà hành động; còn thời đã bĩ, đã bế tắc cùng cực rồi thì hành động chỉ vô ích, cốt giữ cái đức và cái thân mình thôi. Hào từ. 5. 九五: 休否, 大 人吉.其亡, 其亡, 繫于苞桑. Cửu ngũ: Hưu bĩ, đại nhân cát. Kỳ vong, kỳ vong, hệ vu bao tang. Dịch: Hào 5, dương : làm cho hết bĩ, đó là đạo tốt của bậc đại nhân (tuy nhiên, phải biết lo). Có thể mất đấy, (đừng quên điều đó thì mới vững như buộc vào một cụm dâu (dây dâu nhiều rễ, ăn sâu dưới đất, rất khó nhổ). Giảng: Hào này có đức dương cương trung chính, lại ở vào ngôi chí tôn, trong thời Bĩ sắp hết, cho nên lời đoán là tôt. Những vẫn phải thận trọng, đừng sai sót. Theo Hệ từ hạ chương V thì Khổng tử đọc tới hào này, bàn thêm rằng: “Người quân tử khi yên ổn thì không nên quên rằng sẽ có thể nguy; khi vững thì không quên rằng có thể mất, khi trị thì không quên rằng sẽ có thể loạn. Nhờ vậy mà thân an nước nhà giữ vững được.” ------------------------------------------------------------------------------------ CÓ Chánh Quái Càn Hàng vị : 1 - 4- 9 Phương : Tây Bắc Động Vật : Ngựa - Ngỗng tr[SIZE=2]ời - S[SIZE=2]ư[SIZE=2] t[SIZE=2]ử - Voi [SIZE=2]216 [SIZE=2]768 [SIZE=2][SIZE=2]AB c[SIZE=2]ó [SIZE=2]X1 -X[SIZE=2]4 - X9 [SIZE=2]14 - 41 ; 19 -91 ; 49 - 94 [SIZE=2]-------------------------------------------------- [SIZE=2]B[SIZE=2]ổ tr[SIZE=2]ợ Kh[SIZE=2]ảm [SIZE=2]168 [SIZE=2]707 [SIZE=2]h[SIZE=2]ư[SIZE=2][SIZE=2]ơu - Nai - heo - v[SIZE=2]oi - ch[SIZE=2]ồn - y[SIZE=2]ến - [SIZE=2]ốc [SIZE=2]S[SIZE=2]ố v[SIZE=2]ị : 1 -6 [SIZE=2]Ph[SIZE=2]ương B[SIZE=2]ắc [SIZE=2]16 - 6[SIZE=2]1 [SIZE=2]-------------------------------------------------[/SIZE] [/SIZE][/SIZE] [/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE][/SIZE]
Tiếc wa', mấy bửa trước thì 36, tối wa thì 63...meo ko vô trang này thường xuyên nên ko win được...thật là tiếc..
Huynh xem lại chỗ muội tô màu nhé. ngày 1/11 đã về 27 AB(627 về xc Bình Thuận) .còn lại 67 và 38....?